Professional Documents
Culture Documents
- Bảo vệ môi trường biển đã trở thành mối quan tâm chung của thế giới. Theo công ước
quốc tế về luật biển 1982, ô nhiễm biển từ 6 nguồn chính sau: Các hoạt động trên đất liền, thăm dò
và khai thác tài nguyên trên thềm lục địa và đáy đại dương, thải các chất độc hại ra biển, vận
chuyển hàng hoá trên biển, các hoạt động từ tàu và ô nhiễm không khí.
- Hoạt động giao thông vận tải biển cũng là những nguồn gây ô nhiễm biển, bao gồm các
nguồn gây ô nhiễm từ tàu, tai nạn tàu, các hoạt động sửa chữa, đóng tàu, ... Theo Tổ chức môi
trường Thế giới thì ước tính hàng năm có khoảng 2,4 triệu tấn dầu đổ ra biển từ các hoạt động sau:
sục rửa hầm hàng tàu dầu: 46%, tai nạn tàu dầu: 24%, thải nước ballast, lanh canh: 22%, sự cố rò rỉ
tại các bến giao nhận: 3%, vệ sinh lên đà: 2%, các tai nạn hàng hải khác: 3%.
- Một số vụ tai nạn của các tàu chở dầu đã gây ra những thảm hoạ ô nhiễm biển mà điển
hình là vụ tàu Torrey Canyon bị tai nạn ở vùng biển Tây Nam bờ biển nước Anh vào tháng 3/1967,
đã đổ 80.000 tấn dầu thô ra biển của Anh và Pháp, gây ô nhiễm vùng biển rộng hơn 20 dặm. Vụ tai
nạn này cũng chính là nguyên nhân ra đời của Công ước quốc tế về trách nhiệm dân sự chủ yếu về
trách nhiệm dân sự chủ tàu và Công ước thiết lập Quỹ quốc tế về bồi thường thiệt hại do ô nhiễm
dầu.
- Năm 1921: Tại Anh, hội nghị chủ tàu, đại diện ngành công nghiệp dầu mỏ, cảng vụ.
Nghiên cứu các vấn đề ô nhiễm biển do tàu gây ra và đề ra biện pháp ngăn ngừa.
- Năm 1926: Tại Washington (Mỹ): Hội nghị quốc tế: Quy định vùng biển và ven biển
không được xả dầu và trang thiết bị phân ly – lọc nước la canh buồng máy cho tàu thủy. Không
được chấp nhận.
- Năm 1954: Tại London (Anh): Hội nghị Quốc tế: Đại biểu là các nước có đội tàu trên
100.000 tấn đăng ký, 33 nước tham gia, 10 nước là quan sát viên. Công ước quốc tế về ngăn ngừa ô
nhiễm biển bởi dầu (OILPOL 54) ra đời.
+ Quy định vùng ven biển không được xả dầu, tối thiểu phải cách bờ 50 hải lý.
+ Quy định trên mọi tàu phải có nhật ký về các công việc có liên quan đến dầu
- Năm 1962: Tại London (Anh): Hội nghị quốc tế, 41 nước tham gia, 14 nước quan sát viên. Có
hiệu lực từ tháng 6 năm 1967. Bổ sung sửa đổi OILPOL 54:
+ Mở rộng phạm vi áp dụng của OILPOL 54 đến các tàu 150 tấn.
+ Mở rộng vùng cấm xả dầu lên 100 hải lý cách bờ
+ Cấm xả dầu và nước lẫn dầu từ tàu 20.000 tấn trở lên ở mọi hình thức.
Các quy định về việc xả nước la canh buồng máy tàu dầu cũng tương tự như đối với tàu
không phải là tàu dầu.
- Năm 1969: Tại London (Anh): Hội nghị quốc tế: bổ sung, sửa đổi công ước quốc tế
OILPOL 54/62, có hiệu lực từ tháng 1 năm 1978.
- Năm 1973: Tại London (Anh): Hội nghị quốc tế về ô nhiễm biển gồm 71 nước tham gia, 7 nước
quan sát viên. Thông qua công ước quốc tế về ngăn ngừa ô nhiễm biển do tàu thủy gây ra (MARPOL 73).
Có hiệu lực ngày 02 tháng 10 năm 1983.
- Năm 1978: Tại Lodon (Anh): Hội nghị quốc tế về an toàn tàu dầu và chống ô nhiễm, 62
nước tham dự, 3 nước quan sát viên. Nghị định thư 1978 có liên quan đến công ước quốc tế về ngăn
ngừa ô nhiễm biển do tàu thủy gây ra 1973.
Do nghị định thư 1978 quy định coi như MARPOL 73 là nghị định thư có liên quan là một
văn bản thống nhất, IMO đã tập hợp nội dung của hai tài liệu trên và xuất bản thành một tài liệu
nhan đề : “Các quy định về ngăn ngừa ô nhiễm biển bởi dầu”.
2.1.2. NỘI DUNG
Công ước MARPOL 73/78 đưa ra những quy định nhằm ngăn chặn những vụ ô nhiễm gây
ra do tai nạn hoặc trong quá trình vận chuyển hàng hoá là dầu, hàng nguy hiểm, độc hại bằng tàu,
do nước thải, rác và khí thải từ tàu. Công ước cũng đưa ra những yêu cầu về lưu giữ, xử lý và thải
những vật liệu đó cũng như yêu cầu về quy trình báo cáo những vụ tràn dầu, chất độc hại cũng như
những quy định về những khu vực đặc biệt mà khi tàu hoạt động trong đó bắt buộc phải tuân thủ
theo những tiêu chuẩn thải nhất định.
Marpol 73/78 gồm 6 phụ lục chính sau:
- Phụ lục 1: Những quy định về ngăn ngừa ô nhiễm do dầu.
- Phụ lục 2: Những quy định về kiểm soát ô nhiễm gây ra bởi các chất lỏng độc hại chở xô.
- Phụ lục 3: Những quy định ngăn ngừa ô nhiễm gây ra bởi các vật liệu có hại được vận
chuyển bằng đường biển dưới dạng bao gói.
- Phụ lục 4: Những quy định về ngăn ngừa ô nhiễm do nước thải từ tàu.
- Phụ lục 5: Những quy định về ngăn ngừa ô nhiễm do rác.
- Phụ lục 6: Những quy định về ngăn ngừa ô nhiễm không khí từ tàu.
a. Định nghĩa
- Rác là tất cả các dạng thức ăn thừa, chất thải sinh hoạt và khai thác, trừ cá tươi và các sản
phẩm từ chúng, được sinh ra trong quá trình khai thác bình thường của tàu và được thải ra ngoài
liên tục hoặc định kỳ.
2.2.2. KẾ HOẠCH QUẢN LÝ RÁC THẢI VÀ CHÚ Ý KHI THỰC HIỆN KẾ HOẠCH QUẢN LÝ
RÁC
b. Danh sách các chất thải không được phép đốt trên tàu
- Cặn hàng theo phụ lục I, II, III (bao gồm cặn dầu, cặn chất lỏng độc hại chở xô và cặn
chất độc hại trong bao gói) và các vật liệu bao gói các chất đó.
- Polyclo biphenyls (PCBs)
- Rác, có chứa kim loại nặng (lượng kim loại nặng nhiều hơn quy định)
- Các sản phẩm tinh lọc dầu mỏ có chứa các hợp chất halogen.
- Các hợp chất PVCs trừ khi các lò đốt trên tàu đã được cấp giấy chứng nhận của IMO
- Việc đốt trên tàu các cặn nước thải và cặn dầu trong quá trình hoạt động bình thường của
tàu cũng có thể thực hiện được trong các nồi hơi chính, hoặc nồi hơi phụ, nhưng trong mọi trường
hợp không được thực hiện trong các cảng, bến và các cửa sông.
- Tất cả các tàu có lò đốt rác phải được trang bị cuốn sách hướng dẫn sử dụng, và người có
trách nhiệm về hoạt động đốt rác phải được đào tạo và có khả năng thực hiện các thao tác theo
hướng dẫn của sách.
- Việc kiểm soát nhiệt độ đường ra khi cháy yêu cầu phải thực hiện liên tục và chất thải
không được phép đưa vào lò liên tục khi nhiệt trong lò thấp hơn 850 0C. Đối với các lò đốt từng mẻ
(batch – loaded) trên tàu, phải được thiết kế sao cho nhiệt độ của buồng đốt phải đạt được 600 sau
khi vận hành được 5 phút.
2.2.5. CÁC VÙNG ĐẶC BIỆT QUY ĐỊNH TRONG PHỤ LỤC V – CÔNG ƯỚC MARPOL 73/78
Trong phụ lục này, vùng đặc biệt là các vùng Địa Trung Hải, biển Ban tích, biển Đen, biển
Đỏ, “Vùng Vịnh”, biển Bắc, Biển Nam Cực và vùng Caribê mở rộng, kể cả vùng vịnh Mehico và
biển Caribe
Miễn giảm
- Thải nước từ tàu là cần thiết cho mục đích đảm bảo an toàn cho tàu, người tàu hoặc trên
biển.
- Thải nước thải do hư hỏng tàu hoặc thiết bị trên tàu nếu đã áp dụng tất cả các biện pháp có
thể được trước và sau khi xảy ra hư hỏng nhằm ngăn ngừa hoặc giảm thiểu thải.
2.3.3. CÁC TRANG THIẾT BỊ TIẾP NHẬN, THIẾT BỊ XỬ LÝ VÀ CHÚ Ý KHI SỬ DỤNG
THIẾT BỊ
2.4.2. QUY ĐỊNH KIỂM SOÁT Ô NHIỄM DẦU TRONG QUÁ TRÌNH KHAI THÁC CỦA TÀU
2.4.3. GIỚI THIỆU NHẬT KÝ DẦU – DÙNG CHO HOẠT ĐỘNG BUỒNG MÁY
NHẬT KÝ DẦU
PHẦN I – Các hoạt động của buồng máy
(Tất cả các tàu)
Tên tàu:……………………………………………………………………………....
Số đăng ký hoặc hô hiệu:……………………………………………………………
Tổng dung tích:………………………………………………………………………
Thời gian từ:……………………………………đến:………………………………
2.5.2. CÁC NGUỒN GÂY Ô NHIỄM KHÔNG KHÍ TỪ PHƯƠNG TIỆN THỦY
- Khí thải từ các động cơ: động cơ lai chân vịt (máy chính), động cơ lai máy phát (máy đèn),
nồi hơi, máy đốt rác,...
- Các hầm hàng hoặc các khoang kín,....
- Khu bếp: do hoat động nấu ăn, bếp và các thiết bị kèm theo,....
- Từ các hoạt động bảo dưỡng, sửa chữa, …(hàn cắt, …)
2.5.3. THÀNH PHẦN KHÍ THẢI TỪ CÁC PHƯƠNG TIỆN THỦY VÀ TÁC HẠI CỦA CHÚNG
Bảng 3.5. Thành phần cơ bản của khí thải động cơ diesel
Khí thải Thành phần (%)
CO2 2 – 12%
H2O 2 – 12%
O2 3 – 17%
NOx 50 – 1000 ppm
Hidrocacbua 20 – 30 ppm
CO 10 – 500 ppm
SO2 10 – 30 ppm
N2O 3 ppm
Ngoài ra trong khí thải động cơ còn hình thành nên các hạt muội, bồ hóng (suie). Quá trình
cháy dị thể là nguồn gốc hình thành các hạt suie trong các vùng thiếu oxy. Các hạt suie này sẽ tự kết
hợp với nhau trong ống xả để hình thành lớp muội bám vào thành ống xả. Lớp muội này có khả
năng hấp phụ các khí xả lên bề mặt của chúng, có khả năng tích nhiệt cao, khả năng tản nhiệt kém,
dần dần gây phá hủy động cơ.
b. Tác hại của khí thải động cơ đối với sức khỏe con người và môi trường
- CO: là sản phẩm khí không màu, không mùi, không vị, sinh ra do oxy hóa không hoàn
toàn của carbon trong nhiên liệu ở điều kiện thiếu oxy. CO ngăn cản sự chuyển dịch hồng cầu trong
máu, làm cho các bộ phận của cơ thể bị thiếu oxy. Nạn nhân bị tử vong khi 70% số hồng cầu bị
khống chế (khi nồng độ CO trong không khí lớn 1000ppm). Ở nồng độ thấp hơn, CO cũng có thể
gây nguy hiểm lâu dài đối với con người: khi 20% hồng cầu bị khống chế, nạn nhân bị nhức đầu,
chóng mặt, buồn nôn và khi tỷ số này lên đến 50%, não bộ con người bắt đầu bị ảnh hưởng mạnh.
- NOx: là họ các oxit nito, trong đó chủ yếu là NO 2 là chất có màu nâu, có mùi hăng cay,
khứu giác có thể phát hiện khi ở nồng độ 0,12 ppm. NO 2 có khả năng đi sâu vào đường hô hấp gây
viêm phổi và làm hủy hoại các tế bào trong cơ quan hô hấp.
- Hidrocacbua: Có mặt trong khí thải do quá trình cháy không hoàn toàn. Chúng gây rác hại
đến sức khỏe con người chủ yếu là do các hydrocacbon thơm như benzene, toluene, cylene, …đó là
những chất gây ung thư máu, rối loạn hệ thần kinh trung ương, …có khả năng làm tăng cường độ
độc hại của các chất ô nhiễm khác.
- Bồ hóng (muội than): Kích thước của hạt suie đóng vai trò rất quan trọng. Hạt càng nhỏ,
chúng càng lơ lửng lâu trong không khí và khi đi vào phổi, thời gian lưu lại càng lâu. Đối với
những hạt có đường kinh lớn hơn 10 m, chúng dễ dàng bị đẩy ra khỏi đường hô hấp, các hạt có
đường kính 03 – 10 m, chúng dễ dàng lưu lại ở khí quản và phế quản, dưới 3 m, các hạt này có
thể thâm nhập vào tận các phế nang của phổi và có thể vào máu, các hạt này là nguyên nhân gây
những bệnh về đường hô hấp như hen phế quản, hen suyễn, viêm phế quản, ung thư phổi.
2.5.4. CÁC YÊU CẦU KIỂM SOÁT KHÍ THẢI TỪ TÀU (THEO PHỤ LỤC IV – CÔNG ƯỚC
MARPOL 73/78)
a. Các yêu cầu đối với kiểm soát khí thải từ tàu
Đối với các chất làm suy giảm ôzôn (Ví dụ CFC, halon, ...)
- Cấm việc cố ý xả các chất làm suy giảm tầng ôzôn, việc cố tình xả bao gồm cả việc xảy ra
trong quá trình bảo quản, bảo dưỡng, sửa chữa hoặc tháo bỏ các hệ thống hoặc thiết bị, trừ việc xả
cố ý không vượt quá lượng tối thiểu kết hợp với việc thu lại hoặc tái sử dụng chất làm suy giảm
ôzôn.
- Việc xả được hiểu là xuất hiện từ việc rò rỉ một chất làm suy giảm tầng ozon, bất kể sự rò
rỉ là cố ý hay không.
- Các chất làm suy giảm tầng ozon và các thiết bị có chứa các chất đó phải được chuyển tới
các thiết bị tiếp nhận phù hợp khi tháo bỏ khỏi tàu.
Oxit nito (NOx)
- Việc thải oxit nito từ hoạt động của động cơ diesel cho phép trong giới hạn sau:
+ 17g/kWh nếu n <130 (vòng/ phút)
+ 45.n-0,2 g/ kWh nếu 130 < n < 2000 (vòng/ phút)
+ 9,8 g/kWh nếu n > 2000 (vòng/ phút)
Trong đó n là tốc độ của động cơ (số vòng quay của trục khuỷu trong một phút.
- Khi sử dụng nhiên liệu tổng hợp từ các hỗn hợp hydrocacbon thu được từ việc tinh lọc dầu
mỏ, quy trình thử và các phương pháp đo phải phù hợp với bộ luật kỹ thuật NOx.
- Sự hoạt động của động cơ diesel phải được phép khi: Sử dụng một hệ thống lọc khí xả,
được phép của chính quyền hành chính phê duyệt hoặc các phương pháp tương đương khác.
Oxit lưu huỳnh (SOx)
- Hàm lượng lưu huỳnh trong bất kỳ loại dầu đốt nào được sử dụng trên tàu phải không quá
4,5% khối lượng.
- Khi tàu trong các vùng kiểm soát xả SOx tối thiểu phải đáp ứng một trong các điều kiện
sau:
+ Hàm lượng lưu huỳnh trong dầu đốt sử dụng trên tàu khi ở trong vùng kiểm soát
xả SOx không vượt quá 1,5% khối lượng
+ Sử dụng hệ thống lọc khí xả, được chính quyền phê duyệt, nhằm giảm lượng oxit
lưu huỳnh xả từ tàu, kể cả máy chính và máy phụ xuống tới 6,0 g SO x/ kWh hoặc nhỏ hơn được tính
bằng tổng khối lượng xả oxit lưu huỳnh.
- Các khí thải tạo ra không được phép thải ở các cảng kín, nơi trú ẩn và các cửa sông trừ khi
có thể chứng minh được thông qua tài liệu của tàu rằng các chất thải phát sinh không làm ảnh
hưởng xấu tới các điều kiện sinh thái của các cảng kín, nơi trú ẩn và các cửa sông đó, dựa trên các
tiêu chuẩn do chính quyền cảng gửi tới Tổ chức, tổ chức sẽ thông báo tiêu chuẩn đó tới các thành
viên công ước.
- Các tàu sử dụng dầu đốt riêng, để tuân thủ theo đúng các yêu cầu, phải có đủ thời gian cho
phép để hệ thống dầu đốt trực nhật được xả toàn bộ những nhiên liệu có hàm lượng lưu huỳnh trên
15% khối lượng trước khi tàu vào vùng kiểm soát xả SOx.
Hợp chất hữu cơ dễ bay hơi
- Việc xả các hợp chất hữu cơ dễ bay hơi (VOCs) từ các tàu chở hàng lỏng trong cảng hoặc
trong bến thuộc quyền quản lý của một thành viên công ước, phải phù hợp với các điều khoản trong
quy định.
- Các thành viên trong công ước cần có bản thông báo về việc điều chỉnh việc xả chất hữu
cơ dễ bay hơi và thông báo tới tổ chức. Thông báo này phải bao gồm các thông tin về cỡ tàu chở
hàng lỏng phải chịu kiểm soát, các hệ thống kiểm soát xả hơi yêu cầu đối với tàu hàng và hiệu lực
của việc kiểm soát đó. Thông báo phải được đệ trình trước ngày có hiệu lực ít nhất 6 tháng.
- Chính phủ mỗi thành viên quy định các cảng hoặc các bến của mình, ở đó các tàu chở hàng
lỏng phải điều chỉnh xả, phải đảm bảo rằng có các hệ thống kiểm soát xả hơi được chính phủ phê
duyệt có xét đến các tiêu chuẩn an toàn đã được ban hành.
Chất lượng dầu đốt (phần đọc thêm)
- Lượng dầu đốt sử dụng trên tàu cần phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
+ Dầu đốt phải là các hợp chất hidrocacbon được tinh lọc, không cấm việc bổ sung
những lượng nhỏ các phụ gia nhằm cải thiện một số đặc tính của dầu đốt.
+ Dầu đốt phải không có axit vô cơ.
+ Dầu đốt phải không có bất kỳ các chất bổ sung hoặc hóa chất thải mà làm nguy
hại tới an toàn của tàu, ảnh hưởng xấu đến đặc tính của động cơ, làm hại đến con người và ảnh
hưởng tới môi trường không khí
+ Nếu dầu đốt không qua tinh lọc thì hàm lượng SOx, NOx phải nằm trong giới hạn
cho phép, không chứa axit vô cơ, không làm hại tới an toàn của tàu, ảnh hưởng xấu tới đặc tính của
động cơ, làm hại tới sức khỏe con người và môi trường không khí.
- Chú ý: Quy định này không áp dụng với than ở dạng rắn hoặc các nhiên liệu hạt nhân.
- Việc tiếp nhận dầu đốt sử dụng trên tàu, cần phải được ghi lại vào phiếu cung ứng nhiên
liệu, phiếu này được lưu giữ trên tàu để sãn sàng cho việc kiểm tra trong vòng 3 năm. Trên phiếu
đó ít nhất bao gồm: tên và số IMO của tàu nhận nhiên liệu, cảng, ngày bắt đầu cung ứng, tên, địa
chỉ và số điện thoại của nhà cung ứng dầu đốt, tên sản phẩm cung ứng, số lượng, tỷ trọng ở 15 0C
(kg/ m3), thành phần lưu huỳnh (%m/m) và tờ khai được đại diện của người cung cấp dầu nhiên liệu
ký và xác nhận phù hợp với quy tắc của phụ lục này.
b. Ngoại lệ
Các quy định của phụ này không áp dụng đối với:
- Bất kỳ việc xả nào cần thiết cho mục đích đảm bảo an toàn cho tàu hoặc sinh mạng cho
con người trên biển
- Bất kỳ việc xả nào là hậu quả do hư hỏng của tàu hoặc các thiết bị của tàu:
+ Với điều kiện là sau khi xảy ra hư hỏng hoặc phát hiện xả, đã thực hiện tất cả các
biện pháp ngăn ngừa thích đáng nhằm ngăn ngừa hoặc giảm thiểu việc xả.
+ Trừ khi chủ tàu hoặc thuyền trưởng hành động chủ ý gây ra hư hỏng, hoặc thiếu
thận trọng và biết rằng hư hỏng chắc chắn sẽ xảy ra.