You are on page 1of 59

Quyền miễn trừ ở Điều 95, 96

100 câu hỏi tự luận về biển đảo

ĐỀ 1:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Lớp CLC38A
Thời gian làm bài 75 phút
Sinh viên được sử dụng văn bản pháp luật
Nhận định
Các nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao? (5 điểm)
1 – Việc hoạch định biên giới trên biển đều phải có sự thỏa thuận của các quốc gia.
→ Nhận định trên là sai. Việc thỏa thuận giữa các nước về việc xác định chỉ đặt ra trong
trường hợp khi vùng lãnh hải của các QG này nằm trong tình trạng tiếp giáp, liền kề, đối
diện nhau tạo nên sự chồng lấn. Còn đối với những trường hợp bình thường khi các vùng
biển của các quốc gia ven biển không có tình trạng chống lấn thì áp dụng cách hoạch định
theo quy định tại khoản 3 Điều 5 Luật biển Quốc gia năm 2020: “Biên giới quốc gia trên
biển được hoạch định và đánh dấu bằng các tọa độ trên hải đồ là ranh giới phía ngoài
lãnh hải của đất liền, lãnh hải của đảo, lãnh hải của quần đảo của Việt Nam được xác
định theo Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 và các điều ước quốc tế
giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các quốc gia hữu quan.”
2 – Tiếp giáp lãnh hải thực chất là một bộ phận của vùng đặc quyền kinh tế.
→ Nhận định trên là đúng. Căn cứ theo Điều 57 và Điều 33.2 Công ước Liên Hợp Quốc
về Luật biển năm 1982 quy định: “Vùng đặc quyền về kinh tế không được mở rộng ra
quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.” Và “Vùng tiếp giáp
không thể mở rộng quá 24 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh
hải.” Như vậy, vùng tiếp giáp lãnh hải thực chất là 1 phần nằm trong vùng đặc quyền
kinh tế theo các Điều khoản trên nên nhận định tiếp giáp lãnh hải thực chất là một bộ
phận của vùng đặc quyền kinh tế là đúng.
Trong GT:
Bên cạnh chế độ pháp lý mà UNCLOS 1982 đã quy định tại Điều 33, thì ch i chế độ pháp
lý của vùng đặc quyền kinh tế, đặc biệt là quyền chủ quyền về kinh tế của quốc gia ven
biển cũng được áp dụng cho vùng tiếp giáp lãnh hải mà không có bất kỳ ngoại lệ nào. Đó
chính là các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài
nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển, của
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và
khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và
gió. Trong đó, các quyền thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển về tài nguyên sinh vật
được cụ thể hóa thông qua quyền ấn định khối lượng đánh bắt có thể chấp nhận đối với
tài nguyên sinh vật (khoản 1 Điều 61 UNCLOS 1982); quyền thi hành các biện pháp
thích hợp để bảo tồn và quản lý tài nguyên sinh vật (khoản 2 Điều 61 UNCLOS 1982);
xác định khả năng đánh bắt của mình để ấn định số dư của khối lượng cho phép đánh
bắt (khoản 2 Điều 62 UNCLOS 1982). Từ đó, có thể kết luận rằng, vùng tiếp giáp lãnh
hải là một bộ phận của vùng đặc quyền kinh tế.
3 – Đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa là trùng nhau.
→ Nhận định trên là SAI. Theo Điều 57 UNCLOS thì chiều rộng của vùng đáy biển của
vùng đặc quyền kinh tế là không quá 200 hải lý. Còn theo khoản 1 và khoản 5 Điều 76
UNCLOS ta có chiều rộng của vùng thềm lục địa có thể lên đến 350 hải lý trong trường
hợp bờ ngoài của rìa lục địa mở rộng ra quá 200 hải lý. Như vậy đáy biển của vùng đặc
quyền kinh tế và thềm lục địa không là trùng nhau.
4 – Thềm lục địa địa chất chính là thềm lục địa pháp lý.
→ Nhận định trên là Sai.
Vì thềm lục địa địa chất được tính từ bờ biển đến mép ngoài của rìa lục địa, bao gồm cả
thềm lục địa pháp lý. Thềm lục địa pháp lý theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 76
UNCLOS 1982 được tính từ ranh giới phía ngoài lãnh hải đến mép ngoài của rìa lục địa
hoặc có thể kéo dài 350 hải lý kể từ đường cơ sở hoặc kéo dài 100 hải lý kể từ đường
đẳng sâu 2500m (đối với nước có thềm lục địa rộng). Vì thế, chiều rộng của thềm lục địa
địa chất và thềm lục địa pháp lý là khác nhau.
5 – Biển quốc tế là phần nước phía trên Vùng.
→ Nhận định trên là ĐÚNG. Theo Điều 86 UNCLOS 1982, biển quốc tế là tất cả những
vùng biển không nằm trong vùng đặc quyền kinh tế, lãnh hải hay nội thủy của một quốc
gia cũng như không nằm trong vùng nước quần đảo của một quốc gia quần đảo, nghĩa là
nó nằm từ vùng phía ngoài của thềm lục địa pháp lý. Vùng là toàn bộ đáy biển và lòng
đất dưới đáy biển nằm ở phía ngoài thềm lục địa pháp lý của các quốc gia ven biển. Cả
biển quốc tế hay biển cả cùng với Vùng đều nằm bên ngoài giới hạn quyền tài phán quốc
gia.

ĐỀ 2:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Lớp CLC39B
Thời gian làm bài 75 phút
Sinh viên được sử dụng văn bản pháp luật
GV ra đề: ThS Trần Phú Vinh
Nhận định
Các nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao? (5 điểm)
1 – Việc giải quyết tranh chấp biển phải có sự thỏa thuận của các quốc gia hữu
quan.
→ Nhận định trên là đúng.
Cộng đồng quốc tế là sự liên kết giữa các quốc gia, và các chủ thể khác của luật
quốc tế cùng nhau tồn tại, hợp tác, phát triển. Do đó, nếu trong cộng đồng này nảy sinh
các tranh chấp, đầu tiên phải tôn trọng sự thỏa thuận giữa các bên. Chính vì vậy, trong
thiết chế tài phán quốc tế, sự thỏa thuận là yếu tố quan trọng mang tính quyết định để giải
quyết các tranh chấp, bao gồm các tranh chấp về biển.
Theo quy định của Công ước, các bên tranh chấp có thể lựa chọn một hoặc một số
phương pháp hoà bình để giải quyết tranh chấp. Thông thường sẽ tiến hành các biện pháp
đàm phán hoặc hoà giải. Nếu các bên tranh chấp không nhất trí được với nhau về cách
thức giải quyết , các bên có thể thỏa thuận để đưa vấn đề tranh chấp ra các cơ quan tài
phán quốc tế để giải quyết như ITCLOS, ICJ, Trọng tài, Trọng tài đặc biệt.
2 – Chế độ pháp lý đối với tàu thuyền và phương tiện bay nước ngoài tại vùng nước
và vùng trời của eo biển quốc tế là giống nhau.
→ Nhận định trên là đúng. Căn cứ pháp lý theo Điều 34.1; 38.1 và 39.1
Điều 34 Công ước Luật Biển 1982 quy định: chế độ đi qua các eo biển dùng cho hàng hải
quốc tế không ảnh hưởng gì, về bất cứ phương diện nào khác, đến chế độ pháp lý của các
vùng nước các eo biển này, cũng như đến việc các quốc gia ven eo biển thực hiện chủ
quyền hay quyền tài phán của mình ở các vùng nước ấy, ở đáy biển tương ứng và lòng
đất dưới đáy biển, cũng như vùng trời trên các vùng nước đó.
Theo Công ước Luật Biển 1982, tại các eo biển quốc tế này, áp dụng nguyên tắc quyền
quá cảnh. Tàu thuyền và phương tiện bay của các quốc gia được hưởng quyền tự do hàng
hải và tự do hàng không chỉ với mục đích duy nhất là đi qua liên tục và nhanh chóng qua
eo biển giữa một bộ phận của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế và một bộ phận
khác của biển cả hoặc một vùng đặc quyền kinh tế. Tuy nhiên, đòi hỏi quá cảnh và liên
tục và nhanh chóng không ngăn cấm việc đi qua eo biển để đến lãnh thổ của một quốc gia
ven eo biển, để rời khỏi hoặc lại đến lãnh thổ đó, theo các điều kiện cho phép đến lãnh
thổ của quốc gia đó.
Quyền quá cảnh này được áp dụng cho cả tàu thuyền và phương tiện bay. Tàu thuyền
được hưởng quyền tự do hàng hải và phải tôn trọng các tuyến đường hàng hải và hệ
thống phân chia luồng giao thông do các quốc gia ven eo biển xác lập phù hợp với các
quy định quốc tế đã được công nhận chung. Các phương tiện bay thực hiện quyền tự do
bay theo quy định của pháp luật quốc tế. Trong khi thực hiện quyền quá cảnh qua eo biển
quốc tế, các tàu thuyền và phương tiện bay phải có nghĩa vụ được quy định tại khoản 1
Điều 39 UNCLOS 1982:
- Đi qua hay bay qua eo biển không chậm trễ;
-Không được đe doạ hay dùng vũ lực để chống lại chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ hay độc
lập chính trị của các quốc gia ven eo biển hay dùng mọi cách khác trái với các nguyên tắc
pháp luật quốc tế được nêu trong Hiến chương LHQ;
- Không được có hoạt động nào khác ngoài những hoạt động cần thiết cho sự quá cảnh
liên tục và nhanh chóng, theo phương thức đi bình thường, trừ trường hợp bất khả kháng
hoặc trừ trường hợp nguy cấp;
- Tuân thủ các quy định, thủ tục và tập quán quốc tế đã được chấp nhận chung về an toàn
hàng hải nhất là Quy tắc quốc tế phòng ngừa đâm va trên biển, ngăn ngừa, hạn chế và chế
ngự ô nhiễm môi trường biển do các tàu thuyền gây ra;
- Các phương tiện bay phải tôn trọng các quy định về an toàn bay của Tổ chức Hàng
không dân dụng quốc tế (ICAO) đề ra, phải thường xuyên liên lạc chặt chẽ và liên tục với
cơ quan quản lý Vùng thông báo bay (FIR) do ICAO chỉ định;
- Tàu ngầm đi qua eo biển quốc tế ở trạng thái chìm cần duy trì liên lạc với tần số điện
đài quốc tế về tình trạng nguy cấp.
3 – Chế độ pháp lý đối với tài nguyên sinh vật và tài nguyên không sinh vật của
vùng đặc quyền kinh tế là giống nhau.
→ Nhận định trên là Sai. UNCLOS 1982 đã nêu rõ quyền thuộc chủ quyền của quốc gia
ven biển về tài nguyên sinh vật được cụ thể hoá bằng quyền thăm dò, khai thác, bảo tồn
và quản lý tài nguyên sinh vật của vùng nước bên trên đáy biển, của đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển trong vùng đặc quyền kinh tế; quyền ấn định khối lượng đánh bắt có thể
chấp nhận đối với tài nguyên sinh vật; quyền thi hành các biện pháp thích hợp để bảo tồn
và quản lý tài nguyên sinh vật; xác định khả năng đánh bắt của mình để ấn định số dư của
khối lượng cho phép đánh bắt; cho phép các quốc gia không có biển và bất lợi về địa lý
khai thác cá dư trong vùng đặc quyền kinh tế của mình; quy định các biện pháp nhằm bảo
tồn nguồn lợi thuỷ sản.
Đối với các loại tài nguyên không sinh vật, UNCLOS 1982 không quy định bất kỳ
hạn chế nào đối với quốc gia ven biển
4 – Thềm lục địa chính là phần kéo dài tự nhiên của đất liền ra tới bờ ngoài của rìa
lục địa.
→ Nhận định trên là sai. Thềm lục địa chính là sự kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền.
Như vậy, thềm lục địa là phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền chứ không phải đất
liền.
5 – Vùng là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển phía ngoài vùng đặc quyền kinh tế.
→ Nhận định trên là sai. Căn cứ Điều 1 Công ước LHQ về Luật biển năm 1982 quy
định: “Vùng” (Zone) là đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài giới hạn
quyền tài phán quốc gia.” Như vậy, Vùng là toàn bộ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển
nằm phía ngoài thềm lục địa của tất cả các quốc gia. Tuy nhiên, không phải tất cả phần
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của biển quốc tế đều là vùng. Bởi lẽ, đối với những
quốc gia có thềm lục địa rộng hơn 200 hải lý tính từ đường cơ sở, thì một phần đáy biển
và lòng đất dưới đáy biển nằm dưới biển quốc tế là thềm lục địa của quốc gia đó (phần
thềm lục địa vượt quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở).

ĐỀ 3:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Lớp TM41
Thời gian làm bài 75 phút
Sinh viên được sử dụng VBQPPL
GV ra đề: Cô Huyền và cô Hạnh
Nhận định
Các nhận định sau đây đúng hay sai? Tại sao? (4 điểm)
1 – Xác định đường cơ sở theo phương pháp nào là tùy thuộc vào sự lựa chọn của
quốc gia ven biển.
→ Nhận định trên là sai
Việc xác định đường cơ sở theo phương pháp nào sẽ phụ thuộc vào địa hình ven
biển của quốc gia ven biển. Cụ thể, phương pháp xác định đường cơ sở thông thường
được quy định tại Điều 5 UNCLOS 1982 được áp dụng đối với các quốc gia có bờ biển
thẳng, bằng phẳng, không có các đoạn lồi lõm, khúc khuỷu, không có các đảo, quần đảo
ven bờ và ngấn nước thuỷ triều xuống thấp nhất thể hiện rõ ràng, ổn định. Phương pháp
xác định đường cơ sở thẳng quy định tại Điều 7 UNCLOS 1982 được áp dụng trong
những vùng mà bờ biển quanh co, khúc khuỷu, hay những vùng có một dãy đảo nằm dọc
theo bờ biển và nằm trực tiếp với bờ biển.
2 – Trong vùng lãnh hải của mình, quốc gia ven biển không được thực hiện bất kỳ
hoạt động nào làm ảnh hưởng đến “Quyền đi qua không gây hại” của tàu thuyền
nước ngoài.
→ Nhận định trên là sai
Mặc dù tàu thuyền nước ngoài được hưởng quyền đi qua không gây hại trong vùng
lãnh hải của quốc gia, tuy nhiên vẫn phải chấp hành các quy định trong UNCLOS 1982
để đảm bảo quyền lợi của quốc gia ven biển. Cụ thể, các quốc gia ven biển đưa ra những
quy định tại Điều 21 UNCLOS 1982 nhằm đảm bảo an toàn cho tàu thuyền đi qua lại
cũng như các quyền của mình. Đồng thời, quốc gia ven biển còn có quyền quy định tuyến
đường và bố trí phân chia luồng giao thông trong lãnh hải và yêu cầu tàu thuyền nước
ngoài đi qua không gây hại trong lãnh hải của mình phải đi theo các tuyến đường do mình
ấn định. Để bảo vệ hơn quyền lợi của các quốc gia ven biển, Điều 25 UNCLOS đã quy
định về quyền bảo vệ các quốc gia ven biển, theo đó các quốc gia ven biển có thể thi
hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn cản việc đi qua có gây hại,
như ngăn ngừa mọi sự vi phạm hay tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không
gây hại.
3 – Mọi đảo đá đều có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa riêng.
→ Nhận định trên là sai
Các đảo đá không thích hợp cho con người đến ở hoặc cho một đời sống kinh tế
riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
CSPL: Khoản 3 Điều 121 UNCLOS 1982
4 – Khi có tranh chấp phát sinh liên quan đến giải thích và áp dụng UNCLOS 1982,
các quốc gia được quyền sử dụng ngay các biện pháp tài phán để giải quyết.
→ Nhận định trên là sai
Theo quy định tại khoản 1 Điều 283 UNCLOS 1982, khi các quốc gia thành viên
có xảy ra tranh chấp liên quan đến giải thích hay áp dụng Công ước thì các bên tranh
chấp sẽ phải tiến hành ngay một cuộc trao đổi quan điểm về cách giải quyết tranh chấp đó
bằng biện pháp thương lượng hay bằng các biện pháp hoà bình khác. UNCLOS 1982 đặc
biệt khuyến khích các biện pháp đàm phán bằng cách “khuyến cáo”, “thúc giục” các bên
tiến hành trao đổi quan điểm với nhau để thương lượng, nếu không thể đi đến tiếng nói
chung mới tiến hành sử dụng các biện pháp tài phán để giải quyết.
5 – Quy chế pháp lý của các tàu thuộc sở hữu của nhà nước là giống nhau.
→ Nhận định trên là sai
Hai loại tàu nhà nước: tàu nhà nước dùng vào mục đích thương mại và tàu nhà
nước phi thương mại, tàu chiến
Để đáp ứng nhu cầu và lợi ích về kinh tế, thương mại cũng như tự do hàng hải,
pháp luật của hầu hết quốc gia đều quy định và tạo điều kiện thuận lợi, dễ dàng hơn cho
tàu thuyền nhà nước dùng vào mục đích thương mại. Pháp luật của các quốc gia thường
cho phép các tàu dùng vào mục đích thương mại ra vào các cảng biển quốc tế trên cơ sở
tự do thông thương và có đi có lại. Trình tự, thủ tục ra vào và hoạt động của các tàu này
trong vùng nội thuỷ của quốc gia ven biển sẽ được quy định đơn giản và linh hoạt hơn so
với các quy định dành cho tàu nhà nước phi thương mại cũng như tàu chiến.
Pháp luật các quốc gia đều quy định chế độ ra vào, hoạt động của tàu nhà nước phi
thương mại nghiêm ngặt hơn so với tàu hoạt động vì mục đích thương mại, vì hoạt động
của tàu phi thương mại và tàu chiến thường liên quan đến an ninh, quốc phòng, chủ
quyền quốc gia ven biển
CSPL: Tiểu mục B, C Mục 3 Phần II UNCLOS 1982
6 – Chiều rộng của thềm lục địa địa chất và thềm lục địa pháp lý là như nhau.
→ Nhận định trên là sai.
Vì thềm lục địa địa chất được tính từ bờ biển đến mép ngoài của rìa lục địa, bao
gồm cả thềm lục địa pháp lý. Thềm lục địa pháp lý theo định nghĩa tại khoản 1 Điều 76
UNCLOS 1982 được tính từ ranh giới phía ngoài lãnh hải đến mép ngoài của rìa lục địa
hoặc có thể kéo dài 350 hải lý kể từ đường cơ sở hoặc kéo dài 100 hải lý kể từ đường
đẳng sâu 2500m (đối với nước có thềm lục địa rộng). Vì thế, chiều rộng của thềm lục địa
địa chất và thềm lục địa pháp lý là khác nhau.
TỰ LUẬN
1 – Chứng minh nhận định cho rằng: “trong các vùng biển thuộc chủ quyền, quyền
chủ quyền và quyền tài phán của quốc gia, nội thủy là vùng biển quan trọng nhất”.
2 – Cho biết quan điểm của mình về nhận định sau đây: “Vùng nước quần đảo của
quốc gia quần đảo chính là vùng nước nội thủy”.

ĐỀ 4: ĐỀ THẦY PHƯƠNG
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Lớp TM41
Thời gian làm bài 75 phút
Sinh viên được sử dụng VBQPPL
GV ra đề: ThS Lê Đức Phương
Tự luận
Anh chị hãy (5 điểm)
1 – Vẽ sơ đồ mô tả vị trí, ranh giới của các vùng biển theo UNCLOS 1982
Cái hình đầu đề 1
2 – Cho biết tình hình phân định biển giữa Việt Nam với các quốc gia hữu quan.
2.1.Phân định biển giữa Việt Nam và Trung Quốc
Ở vịnh Bắc Bộ, tình hình tranh chấp chấp chủ quyền và tình trạng ngư dân của hai nước
Việt Nam và Trung Quốc thường xuyên vi phạm đánh bắt hải sản trái phép diễn ra trong
một thời gian dài trước khi hai bên ký kết hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ, đã làm ảnh
hưởng không tốt đến mối quan hệ giữa hai nước và môi trường hòa bình và ổn định trong
khu vực. Do đó, trên thực tế hai nước đều có nhu cầu tiến hành hợp tác đàm phán để phân
định vịnh Bắc Bộ nhằm đạt được hai mục tiêu cơ bản và lâu dài như sau: Một là xác định
đường phân giới rõ ràng, phân chia vùng biển, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
giữa hai nước. Hai là việc giải quyết vấn đề này sẽ tạo cơ sở và động lực thúc đẩy quá
trình xây dựng lòng tin, tăng cường quan hệ hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai Đảng và
hai Nhà nước. Đồng thời, qua đó làm cơ sở cho việc tiếp tục phân định biển giữa hai
nước ở khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ.
Từ năm 1982 đến năm 2015, Việt Nam đã giải quyết được 2 trong 3 vấn đề biên giới với
Trung Quốc đó là: hoàn thành việc cắm mốc biên giới trên bộ, phân định vùng lãnh hải,
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa ở vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ,
chỉ còn lại vấn đề đàm phán phân định biển khu vực ngoài cửa vịnh Bắc Bộ là chưa giải
quyết xong.
Sau khi hai nước bình thường hóa quan hệ năm 1991, ngày 19/10/1993, hai nước đã tiến
hành ký Thỏa thuận về những nguyên tắc cơ bản giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ giữa
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Nội dung của
thỏa thuận đã quy định hai bên sẽ áp dụng luật quốc tế và tham khảo thực tiễn quốc tế,
theo nguyên tắc công bằng và tính đến những đặc điểm cấu tạo địa lý trong vịnh Bắc Bộ
để đi đến một giải pháp công bằng. Trên cơ sở đó, Việt Nam đã đề nghị phía Trung Quốc
vận dụng những quy định của UNCLOS làm cơ sở pháp lý để phân định vịnh Bắc Bộ.
Việt Nam phê chuẩn UNCLOS vào ngày 23/6/1994 và Trung Quốc phê chuẩn vào ngày
15/6/1996, được xem là điều kiện thuận lợi để hai nước tiến hành đàm phán phân định
vịnh Bắc Bộ. Như vậy, cho đến năm 1996 khi cả hai nước đã là thành viên chính thức của
UNCLOS, thì UNCLOS mới thực sự trở thành cơ sở pháp lý chung, để hai nước vận
dụng vào quá trình đàm phán và giải quyết những vấn đề liên quan đến phân định vịnh
Bắc Bộ.
Việt Nam đưa ra quan điểm là cần phải căn cứ luật pháp và thực tiễn quốc tế, hoàn cảnh
khách quan của vịnh Bắc Bộ để phân định nhằm tìm kiếm một giải pháp công bằng. Tỷ lệ
diện tích mà hai bên chấp nhận được đã phản ánh quá trình kiên trì đàm phán của hai bên,
không phải là tiền đề của việc phân định, công bằng không đồng nghĩa với việc chia đôi.
Việt Nam đề nghị dùng phương pháp đường trung tuyến có điều chỉnh. Phương pháp này
là phổ biến trong thực tiễn quốc tế, phù hợp với UNCLOS. Theo phương pháp này, một
đường trung tuyến ban đầu đã được vạch ra có tính đến hiệu lực của tất cả các đảo, đặc
biệt là đảo Bạch Long Vĩ, có sự điều chỉnh cần thiết theo hiệu lực pháp lý và sự quan tâm
của mỗi bên. Căn cứ vào những quy định của UNCLOS, các nguyên tắc pháp lý và thực
tiễn quốc tế được công nhận, trên cơ sở suy xét đầy đủ mọi hoàn cảnh hữu quan trong
vịnh Bắc Bộ, theo nguyên tắc công bằng, trải qua một thời gian dài thương lượng, hai bên
đã đi đến thống nhất ký Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ ngày 25/12/2000.
Như vậy, việc Việt Nam ký Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ với Trung Quốc đã tạo nên
một cơ sở pháp lý vững chắc để quản lý biên giới, lãnh thổ, thực hiện mục tiêu xây dựng
biên giới Việt Nam và Trung Quốc thành biên giới hòa bình, hữu nghị, ổn định lâu dài và
tạo động lực thúc đẩy, tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Hiệp định
phân định vịnh Bắc Bộ đã xác định đường biên giới lãnh hải giữa Việt Nam và Trung
Quốc ở khu vực ngoài cửa sông Bắc Luân và phân định rõ ràng phạm vi vùng đặc quyền
kinh tế và phạm vi thềm lục địa của hai nước ở Vịnh. Hai bên đã tiến hành đàm phán về
nghề cá song song và độc lập với đàm phán về phân định vịnh Bắc Bộ.
Ý nghĩa của việc ký kết Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác nghề cá
trong vịnh Bắc Bộ được thể hiện: Sau quá trình đàm phán kéo dài 27 năm từ năm 1974
đến năm 2000, Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
trong vịnh Bắc Bộ đã được nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa ký kết. Việc ký kết hai Hiệp định là sự kiện quan trọng đối với Việt Nam
cũng như quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Trung Quốc, tạo thuận lợi cho việc quản lý
và duy trì sự ổn định trong vịnh Bắc Bộ. Qua đó, góp phần tăng cường sự tin cậy giữa hai
bên đồng thời thúc đẩy quan hệ hợp tác mọi mặt giữa hai nước Việt – Trung.
Cùng với việc giải quyết các vấn đề khác về biên giới, lãnh thổ, việc ký hai Hiệp định
này đã góp phần tích cực vào việc củng cố hoà bình và ổn định xung quanh Việt Nam,
tạo điều kiện cho nước ta tập trung sức lực vào việc xây dựng và phát triển kinh tế của
đất nước. Việc ký kết và phê chuẩn hai Hiệp định về vịnh Bắc Bộ đã mở ra một trang mới
trong lịch sử xác định biên giới, phạm vi chủ quyền và tạo ra được một khuôn khổ hợp
tác nghề cá cho hai nước ven bờ Vịnh. Đó là những nhân tố tích cực và có ý nghĩa rất
quan trọng trong việc tăng cường và củng cố sự hợp tác toàn diện giữa hai Đảng, hai Nhà
nước Việt Nam và Trung Quốc trong thập niên cuối cùng của thế kỷ XX và cũng là tiền
đề quan trọng để hai nước tiếp tục thúc đẩy quan hệ hợp tác giải quyết những bất đồng
trên biển trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI. Từ năm 2001 đến năm 2004, hai bên
đã tiến hành đàm phán Nghị định thư bổ sung Hiệp định hợp tác nghề cá để xác định ranh
giới các vùng biển, số lượng tàu thuyền và chế độ pháp lý của các vùng đánh cá chung và
vùng dàn xếp quá độ.
Quá trình phân định biển giữa Việt Nam và Trung Quốc ngoài cửa vịnh Bắc Bộ vẫn còn
tiếp tục đàm phán và vấn đề này vẫn còn gặp nhiều khó khăn, do quan điểm của hai nước
có nhiều sự khác biệt, đặc biệt là quan điểm về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia trên các vùng biển. Tuy nhiên, Việt Nam là thành viên có trách nhiệm của
một số công ước quốc tế về biển, đặc biệt là UNCLOS. Chính vì vậy, chúng ta tiếp tục
kiên trì đàm phán với Trung Quốc và yêu cầu Trung Quốc cũng phải dựa trên những
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế, đặc biệt là những quy định của
UNCLOS để giải quyết vấn đề phân định biển.
2.2. Phân định biển giữa Việt Nam và Philippines
Philippines vốn là nước không có chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường
Sa của Việt Nam. Bởi vì, Hiệp định Paris ký năm 1898 giữa Mỹ và Tây Ban Nha, đã quy
định Tây Ban Nha bàn giao Philippines cho Mỹ quản lý. Hiệp định xác định phạm vi lãnh
thổ quần đảo Philippines trên bản đồ kèm theo thì lãnh thổ của Philippines không bao
gồm một đảo nào nằm trong quần đảo Trường Sa.
Giai đoạn 1970 – 1995: Năm 1971, tình hình khu vực có nhiều diễn biến phức tạp khi
Philippines đã bắt đầu bộc lộ âm mưu về việc chiếm đóng một cách hình thức một số đảo
thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Ví dụ, Philippines đưa ra yêu sách chủ quyền
và quan điểm của mình cho rằng: một số đảo trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam là
vô chủ, không thuộc quyền sở hữu của bất kỳ quốc gia nào khác. Thực tế lịch sử cho
thấy, trong lúc Việt Nam đang tập trung nhiệm vụ giải phóng miền Nam thống nhất đất
nước, lợi dụng tình hình đó từ năm 1971 đến năm 1973 Philippines đã đưa quân chiếm
trái phép năm đảo ở phía Bắc và phía Đông Bắc của quần đảo Trường Sa là: Vĩnh Viễn,
Bình Nguyên, Loại Ta, Thị Tứ và Song Tử Đông.
Cho đến tháng 02/1979, Philippines đã chính thức đưa ra yêu sách chủ quyền đối với số
đảo nêu trên nằm trong quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, mà
Philippines gọi là nhóm đảo Kalayaan. Trong giai đoạn này, chính yêu sách chủ quyền
phi lý đó của Philippines, đã làm cho tình hình Biển Đông trở nên căng thẳng và phức tạp
hơn trước. Để giảm bớt tình hình căng thẳng giữa hai nước, ngày 07/11/1995, hai Bộ
Ngoại giao Việt Nam và Philippines đã bắt đầu tiến hành đàm phán. Kết quả đàm phán đã
đạt được thỏa thuận về 9 nguyên tắc ứng xử cơ bản đối với vùng biển đảo có tranh chấp
trong khu vực Biển Đông, trong đó có những nội dung chính: (i). Hai bên đồng ý thông
qua thương lượng, hòa bình tìm kiếm các giải pháp cơ bản cho vấn đề tranh chấp chủ
quyền trên quần đảo Trường Sa. (ii). Hai bên tự kiềm chế không sử dụng hay đe dọa sử
dụng vũ lực, thúc đẩy hợp tác song phương hoặc đa phương về bảo vệ và gìn giữ môi
trường biển, nghiên cứu khoa học, khí tượng, chống thảm họa, tìm kiếm cứu nạn và cứu
hộ, chống cướp biển và kiểm soát ô nhiễm môi trường biển, bảo vệ tài nguyên biển ở khu
vực quần đảo Trường Sa. (iii). Bảo đảm tự do hàng hải theo thực tiễn của luật pháp quốc
tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển quốc tế năm 1982. (iv). Hai bên
từng bước tăng cường hợp tác và giải quyết dứt điểm tranh chấp chủ quyền ở quần đảo
Trường Sa.[1] Mặc dù, những nội dung nêu trên, không phải là cơ sở pháp lý, nhưng đã
góp phần giữ vững môi trường hòa bình và ổn định trên biển. Vùng biển giáp ranh giữa
hai nước không diễn ra xung đột vũ trang. Những nội dung nêu trên, là cơ sở để hai bên
tiếp tục đàm phán và duy trì hòa bình trên vùng biển giáp ranh giữa hai nước.
Giai đoạn 1995 – 2007: Trên cơ sở đàm phán hòa bình Việt Nam và Philippines đã tiến
hành thực hiện bốn cuộc khảo sát và nghiên cứu khoa học chung về biển. Lần đầu tiên
vào năm 1997 và tiếp theo là các năm 2000, 2004, 2007.[2] Đây là một hình mẫu về hợp
tác nghiên cứu khoa học chung về biển đang được đề nghị mở rộng thành phần và nâng
lên thành một thiết chế thường xuyên. Tuy nhiên, do tình hình phức tạp của khu vực Biển
Đông, quan điểm chủ quyền về biển đảo giữa hai nước còn có những khác biệt. Chính vì
vậy, từ năm 2008 đến năm 2015, Việt Nam và Philippines đã không thực hiện chương
trình nghiên cứu khoa học chung về biển, song hai nước vẫn cam kết duy trì sự hoà bình
và ổn định trong khu vực Biển Đông.
Ngày 26/10/2010, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra cuộc hội đàm giữa Chủ tịch nước Nguyễn
Minh Triết với Tổng thống Philippines Benigno S.Aquino III trong chuyến thăm Nhà
nước Việt Nam. Trong cuộc hội đàm hai nhà lãnh đạo cấp cao của hai nước đã khẳng
định hòa bình và ổn định ở Biển Đông là nguyện vọng và lợi ích chung của các nước
trong khu vực Biển Đông và điều quan trọng là cần thực hiện nghiêm chỉnh DOC, nhất trí
tiến hành soạn thảo và hướng tới thông qua COC. Hai nước tiếp tục nỗ lực tìm kiếm các
giải pháp cơ bản dựa trên các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, nguyên tắc của
luật biển quốc tế và những quy định của UNCLOS và biện pháp hòa bình giải quyết tranh
chấp chủ quyền về biển, đảo ở khu vực.
Tóm lại, từ năm 1995 đến năm 2015, hai bên đã thể hiện được quan điểm hòa bình giải
quyết các bất đồng về chủ quyền trên biển liên quan đến hai nước. Hai nước Việt Nam và
Philippines đã có những thỏa thuận ở các cấp Bộ trưởng Ngoại giao, cấp Thủ tướng
Chính phủ, cấp Tổng thống và Chủ tịch nước. Những thỏa thuận đó, đã góp phần giải
quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa hai nước bằng biện pháp hòa bình, trên tinh
thần hữu nghị, tin cậy lẫn nhau. Đây là cơ sở thuận lợi cho vấn đề phân định biên giới
trên biển giữa hai nước trong các giai đoạn tiếp theo. Tuy nhiên, do quan điểm chủ quyền
đối với quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam giữa hai nước có sự khác
biệt, cho nên quá trình đàm phán phân định biển giữa Việt Nam và Philippines vẫn còn
gặp nhiều khó khăn. Tuy nhiên, hai bên vẫn cam kết giải quyết những bất đồng mâu
thuẫn bằng biện pháp hòa bình, thông qua đàm phán, dựa trên những nguyên tắc cơ bản
của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế, nhất là những quy định của UNCLOS.
2.3. Phân định biển giữa giữa Việt Nam và Malaysia
Trên thực tế cho thấy vùng biển giáp ranh giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một vùng
biển chồng lấn trên thềm lục địa của hai nước rộng khoảng 2.800 km2. Khu vực này nằm
ở cửa vịnh Thái Lan có độ sâu nhỏ, trung bình khoảng 50 m, địa hình đáy biển tương đối
bằng phẳng. Hai nước Việt Nam và Malaysia đều là thành viên của UNCLOS, cho nên
nguyên tắc chung để giải quyết phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là
nguyên tắc công bằng đã được ghi nhận trong các Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS.[3]
Yêu cầu của thực tế diễn ra đó là hai bên phải tuần tự đàm phán, thu hẹp những bất đồng,
nhằm tìm ra giải pháp công bằng mà hai bên có thể chấp nhận.
Trên cơ sở hai nước đều là thành viên của UNCLOS, cho nên cả Việt Nam và Malaysia
đều chấp nhận áp dụng các nguyên tắc của luật pháp quốc tế và những quy định của
UNCLOS để giải quyết phân định biển. Đầu năm 1992, trong chuyến thăm Kuala
Lumpur của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt, một thỏa thuận về tiến hành đàm phán
phân định thềm lục địa giữa hai nước đã được thông qua. Tiếp sau đó, từ ngày 03 –
05/6/1992, tại Kuala Lumpur, vòng đàm phán đầu tiên giữa hai nước Việt Nam và
Malaysia đã diễn ra và thành công tốt đẹp. Trên cơ sở nội dung của vòng đàm phán đầu
tiên đó, hai nước đã từng bước nhất trí thỏa thuận áp dụng nguyên tắc dàn xếp tạm thời
được quy định trong Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS, đó là ranh giới được vạch ra và
ghi rõ trên hải đồ có tỷ lệ thích hợp để xác định vị trí của nó, có trường hợp việc vẽ ranh
giới ngoài hay các đường hoạch định này có thể được thay thế bằng các bản kê các tọa độ
địa lý các điểm.[4] Trên cơ sở đó hai bên nhanh chóng đi đến thỏa thuận áp dụng mô hình
khai thác chung cho vùng xác định trên tinh thần hiểu biết và hợp tác.[5]
Dựa trên tinh thần đó, ngày 05/6/1992, hai nước đã chính thức ký Bản ghi nhớ. Nội dung
của Bản ghi nhớ ngày 05/6/1992, đã quy định phạm vi vùng xác định, và hai bên phải cử
đại diện của mình để tiến hành các hoạt động thăm dò và khai thác trong vùng xác định
và sự hợp tác khai thác đó không làm phương hại đến kết quả hoạch định phân định biển
cuối cùng giữa hai nước. Qua việc ký kết Bản ghi nhớ ngày 05/6/1992, có thể thấy Việt
Nam luôn là nước đi đầu trong việc áp dụng các quy định của các Điều 74 và Điều 83 của
UNCLOS, không chỉ trong phân định biển mà cả trong các biện pháp khai thác chung
nguồn tài nguyên biển trong vùng biển có sự chồng lấn. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, Bản
ghi nhớ cũng không giải quyết triệt để được vấn đề phân định biển giữa hai nước Việt
Nam và Malaysia. Thực tế cho thấy, hai bên cần phải tiếp tục đàm phán hòa bình và dựa
trên nội dung của UNCLOS và Bản ghi nhớ để phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền
kinh tế.
Để thực hiện nội dung của Bản ghi nhớ, Việt Nam đã cử Petro Vietnam, Malaysia cử
Petronas hợp tác khai thác nguồn dầu khí ở vùng xác định. Ngày 29/7/1997, tấn dầu đầu
tiên đã được khai thác tại mỏ Bunga kekwa, sự kiện này đã đánh dấu thành công lớn cho
cả hai bên trong quản lý, hợp tác khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên cũng như đóng
góp kinh nghiệm quý báu để giải quyết các tranh chấp khác. Do khoảng cách giữa bờ
biển và các đảo của hai bên chưa tới 400 hải lý, nằm trên một thềm lục địa thuần nhất và
hơn nữa yêu sách của hai bên đều dựa trên đường trung tuyến, tức là dựa trên tiêu chuẩn
khoảng cách bờ biển của hai quốc gia, cho nên có thể sử dụng một đường phân định đơn
nhất làm ranh giới cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước.
Việc chia đôi thuần tuý diện tích vùng chồng lấn trên biển hiện có giữa hai bên là một
giải pháp phân định công bằng dễ chấp nhận. Sau một thời gian dài đàm phán, ngày
06/5/2009, Việt Nam và Malaysia đã phối hợp trình Báo cáo chung về khu vực thềm lục
địa kéo dài liên quan đến hai nước lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc.
Sự kiện này đã thể hiện tinh thần hòa bình giải quyết quan điểm những bất đồng mâu
thuẫn về vùng biển chồng lấn giữa hai nước và còn được xem là một mẫu mực trong việc
giải quyết tranh chấp chủ quyền biển đảo giữa các nước láng giềng trong khu vực Biển
Đông. Hợp tác phân định biển giữa Việt Nam và Malaysia đã đóng góp vào kinh nghiệm
thực tiễn của thế giới và khu vực về giải quyết những bất đồng và tranh chấp trên biển.
2.4. Phân định biển giữa Việt Nam và Indonesia
Do quan điểm sử dụng nguyên tắc phân định biển và điểm cơ sở để tính chiều rộng lãnh
hải khác nhau, nên giữa Indonesia và Việt Nam có một vùng biển chồng lấn rộng lớn.
Chính vì vậy, từ năm 1978 đến năm 2003, hai nước Việt Nam và Indonesia đã tiến hành
đàm phán cấp chuyên viên để phân định thềm lục địa trong vùng biển giáp ranh giữa hai
nước. Trong quá trình đàm phán, lập trường pháp lý của Việt Nam là theo nguyên tắc
thỏa thuận, công bằng, tôn trọng lợi ích của nhau, phù hợp với xu thế phát triển của luật
biển quốc tế. Giải pháp của Việt Nam đưa ra là lấy căn cứ thềm lục địa, đó là sự kéo dài
tự nhiên của lãnh thổ đất liền ra biển, cho nên ranh giới là rãnh ngầm phân chia thềm lục
địa của hai nước nằm rất gần nhóm đảo Natuna phía Bắc của Indonesia.
Trên thực tế cho thấy, đường đề nghị này tạo với đường yêu sách của Indonesia thành
một vùng biển có sự chồng lấn giữa hai bên khoảng 98.000 km2.[6] Bởi vậy, tháng
10/1991, nhân chuyến đi thăm Indonesia của Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt, hai bên
đã ký thỏa thuận chia đôi vùng còn lại, song do tình hình nội bộ Indonesia lúc đó không
ổn định, không thống nhất phương pháp giải quyết phân định biển, nên thỏa thuận không
được thực hiện.
Do nhu cầu của hai bên mong muốn có một vùng biển hòa bình, ranh giới được phân
định rõ ràng, tạo điều kiện cho ngư dân của hai nước khai thác tốt nguồn hải sản, ngày
11/6/2003, Hiệp định phân định thềm lục địa giữa Việt Nam và Indonesia đã được ký kết.
Đây là hiệp định đầu tiên giữa nước ta với các nước láng giềng chỉ giải quyết một vấn đề
là phân định thềm lục địa. Hiệp định có hiệu lực kể từ ngày 29/5/2007, sau khi hai nước
trao đổi thư phê chuẩn. Hiệp định là kết quả của một quá trình đàm phán lâu dài và khó
khăn đã thể hiện nỗ lực, thiện chí và sự nhân nhượng từ cả hai bên để đi đến kết quả thích
hợp mà hai bên chấp nhận được. Hiệp định phân định ranh giới thềm lục địa giữa Việt
Nam – Indonesia đã tạo thuận lợi cho hai nước thực hiện các quyền chủ quyền, quyền tài
phán, quản lý và khai thác phần thềm lục địa của mình.
Ngày 28/3/2016, Việt Nam và Indonesia đã tổ chức đàm phán vòng 8 cấp chuyên viên về
phân định vùng đặc quyền kinh tế viết tắt là EEZ giữa hai nước. Cuộc đàm phán được tổ
chức tại Bali, Indonesia, từ ngày 22 đến 24/3/2016. Đây là vòng đàm phán tiếp theo của
vòng VII về vấn đề phân định EEZ giữa Việt Nam và Indonesia từng diễn ra tại Hà Nội,
Việt Nam tháng 12/2015. Tại lần đàm phán mới nhất, đoàn Việt Nam do ông Trịnh Đức
Hải, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Biên giới quốc gia, Bộ Ngoại giao Việt Nam làm trưởng
đoàn. Đoàn Indonesia do ông Octaviano Alimuddin, Vụ trưởng Vụ Chính trị, An ninh và
các điều ước lãnh thổ, Bộ Ngoại giao Indonesia làm trưởng đoàn. Trong các buổi làm
việc, hai bên tiếp tục thảo luận các phương pháp phân định Vùng đặc quyền kinh tế trên
cơ sở các quy định của Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 và trao đổi quan
điểm về nguyên tắc còn tồn tại của dự thảo các nguyên tắc và hướng dẫn đàm phán. Hai
đoàn đàm phán hy vọng kết quả đạt được sau cuộc họp sẽ góp phần tăng cường hơn nữa
quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.
Như vậy, từ năm 2007 đến năm 2015 là giai đoạn mà Việt Nam và Indonesia khẳng định
cam kết tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của Hiệp định, các nguyên tắc cơ bản của
luật pháp quốc tế và luật biển quốc tế. Tuy vậy, đàm phán về ranh giới biển giữa hai nước
vẫn chưa kết thúc, bởi vì vùng đặc quyền kinh tế chồng lấn giữa hai nước vẫn chưa dược
phân định.[7] Từ khi hai nước ký kết Hiệp định phân định thềm lục địa, có nhiều dấu hiệu
tích cực như ngư dân của hai nước đã có một hành lang pháp lý rõ ràng, do đó trong quá
trình khai thác hải sản trên vùng biển giáp ranh ít xảy ra vi phạm. Đồng thời hai bên cũng
tiếp tục đàm phán để phân định vùng đặc quyền kinh tế dựa trên luật pháp quốc tế, luật
biển quốc tế và quy định của UNCLOS.
2.5. Phân định biển giữa Việt Nam và Thái Lan
Trong giai đoạn 1986 – 1997, hai nước đã tiến hành đàm phán phân định biên giới trên
biển. Trong vịnh Thái Lan, hai nước Thái Lan và Việt Nam là hai nước có bờ biển đối
diện nhau, cùng có quyền mở rộng vùng biển của mình theo quy định của UNCLOS, do
đó đã tạo ra một vùng chồng lấn rộng khoảng 6.074 km2.[8] Từ năm 1992 đến năm 1996,
hai nước đã tiến hành đàm phán cấp chuyên viên về phân định biển. Ngày 09/8/1997, hai
nước đã ký Hiệp định về phân định ranh giới trên biển giữa hai nước. Hiệp định công
nhận đảo Thổ Chu có 32,5% hiệu lực, do đó Việt Nam được hưởng 32,5% diện tích vùng
chồng lấn.[9] Thực tế cho thấy, đường phân định vừa là ranh giới thềm lục địa, vừa là
ranh giới vùng đặc quyền kinh tế của cả hai nước. Chính vì vậy, hai bên thừa nhận quyền
tài phán, quyền chủ quyền của mỗi nước, đối với thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế
theo ranh giới năm 1997.[10]
Hiệp định ngày 09/8/1997, là Hiệp định phân định biển đầu tiên đạt được trong vịnh Thái
Lan. Đây cũng là Hiệp định về phân định biển đầu tiên được ký kết tại khu vực Đông
Nam Á sau khi UNCLOS có hiệu lực. Đồng thời cũng là Hiệp định phân chia cả thềm lục
địa và vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước thành viên ASEAN có yêu sách chủ quyền
trên biển. Mặt khác, Hiệp định đã góp phần chấm dứt tình trạng tranh chấp chủ quyền về
biển đảo giữa hai nước diễn ra trong suốt một thời gian dài. Hiệp định này đã khẳng định
xu thế có thể thỏa thuận về một đường biên giới biển hòa bình do việc phân định đồng
thời thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế một cách công bằng dựa trên những quy định
của UNCLOS và sự nỗ lực của hai bên.
Giai đoạn 1997 – 2015, Việt Nam và Thái Lan đã triển khai kế hoạch tổ chức tuần tra
chung trên biển. Hai nước đã thiết lập kênh liên lạc cảnh báo vi phạm đồng thời triển khai
hợp tác tổ chức điều tra nguồn lợi biển giữa hai nước, bắt đầu từ năm 2002, hai nước đã
thực hiện tuần tra chung trên biển. Bên cạnh đó, hai nước đã thành lập Ủy ban hỗn hợp
Việt Nam – Thái Lan về thiết lập trật tự trên biển, Ủy ban này đã họp nhiều vòng và có
những đóng góp nhất định trong việc giữ gìn môi trường hòa bình trên biển. Đồng thời
hai bên đã thỏa thuận phối hợp trong việc giáo dục ngư dân của hai nước không được
xâm phạm vùng biển của nhau để đánh bắt hải sản trái phép. Tuy nhiên, trên thực tế trong
quá trình khai thác nguồn lợi thủy sản, vẫn diễn ra tình trạng vi phạm của ngư dân hai
nước vượt qua đường ranh giới để tiến hành khai thác hải sản trái phép.
2.6. Phân định biển giữa Việt Nam và Campuchia
Do kiến tạo về mặt địa chất, cho nên giữa bờ biển giữa hai nước Việt Nam và Campuchia
có những đặc điểm cơ bản như có trên 150 đảo lớn, nhỏ được chia thành bảy cụm và một
số đảo lẻ. Ngoài một số đảo lớn như đảo Phú Quốc rộng 568 km2, đảo Phú Dự rộng 25
km2, đảo Thổ Chu rộng 10km2 và một số đảo như Hòn Dứa, quần đảo Nam Du trên dưới
1,5 km2, các đảo còn lại đều nhỏ dưới 1 km2.[11] Trong khu vực này, hai nước có vấn đề
về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Mặt khác, trong quan hệ
giữa hai nước tồn tại vấn đề đường Brévié và đường Brévié không phải là cơ sở pháp lý
để phân định biển.
Từ năm 1913 và nhất là từ những năm 1930, giữa chính quyền thuộc địa Nam Kỳ và
chính quyền bảo hộ Campuchia đã nảy sinh tranh chấp gay gắt về quyền thu thuế đánh cá
và quyền đặc nhượng khai thác tài nguyên ở các đảo ven bờ Campuchia nhưng thuộc
Nam Kỳ. Để tạm thời giải quyết vấn đề quản lý các đảo, và do không thể có đủ các thủ
tục pháp lý để giải quyết việc phân định chủ quyền trên một số đảo giữa hai bên, năm
1939, Toàn quyền Đông Dương G. Brévié đã vạch một ranh giới mà lịch sử sau này gọi
là đường Brévié. Toàn quyền trao quyền hành chính và cảnh sát trên các đảo ở phía Tây
Bắc đường này cho phía Campuchia, còn các đảo ở phía Đông Nam đường này vẫn thuộc
quyền quản lý của Nam Kỳ. Sau năm 1954, Campuchia và Chính quyền Việt Nam Cộng
hòa đều cho rằng đường Brévié đã hết hiệu lực và bắt đầu tranh giành quyền kiểm soát lại
các đảo. Tình hình này làm cho vùng biển vốn bất ổn lại càng trở nên phức tạp hơn, đồng
thời làm ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa hai nhà nước. Tình hình ngày càng trở nên
phức tạp hơn và vấn đề tranh chấp chủ quyền trên biển giữa hai nước đã làm nảy sinh
những bất đồng mâu thuẫn và ảnh hưởng không tốt đến mối quan hệ truyền thống tốt đẹp
giữa hai nước. Từ năm 1954 đến năm 1980, Campuchia liên tục có những hành động làm
phức tạp thêm tình hình trên biển, như tiến hành bắt phạt và tịch thu ngư lưới cụ của ngư
dân Việt Nam với mục đích để thể hiện yêu sách chủ quyền của mình trên vùng biển có
tranh chấp với Việt Nam.
Trước những diễn biến phức tạp trên vùng biển, nhằm thiết lập một cơ chế quản lý chung,
ngày 07/7/1982, hai nước đã ký Hiệp định về Vùng nước lịch sử giữa Việt Nam và
Campuchia. Hiệp định quy định lấy khu vực vùng nước lịch sử năm giữa vùng biển hai
nước và sẽ thương lượng vào thời gian thích hợp để hoạch định đường biên giới giữa hai
nước.[12] Đây là lần đầu tiên hai nước thừa nhận chủ quyền của các bên đối với các đảo
trên vùng biển giáp ranh giữa hai nước. Hiệp định đã nâng đường Brévié từ ranh giới
quản lý hành chính cảnh sát thành đường phân chia chủ quyền biển đảo giữa hai nước,
nhưng cũng xác nhận giữa hai nước chưa có đường biên giới biển chính thức do hai bên
chưa ký được hiệp định phân định biển.
Hiệp định cũng quy định hai nước đồng ý tạo ra một Vùng nước lịch sử chung căn cứ vào
điều kiện lịch sử, địa lý, kinh tế và quốc phòng của môi nước. Vùng nước lịch sử chung
được giới hạn bởi các bờ biển Hà Tiên của Việt Nam và Kampot của Campuchia, đảo
Phú Quốc và các đảo khác ở ngoài khơi. Vùng nước lịch sử chung được hai bên coi như
đặt dưới chế độ nội thủy và được quản lý chung về đánh cá, hai bên tiến hành tuần tra và
kiểm soát trong khi chờ đợi việc giải quyết đường biên giới trên biển trong vùng nước
lịch sử. Đây có thể coi là hình mẫu quản lý chung về đánh cá đầu tiên trong khu vực.
Trên cơ sở của Hiệp định về Vùng nước lịch sử đã ký kết, ngày 31/7/1982 Cộng hòa
Nhân dân Campuchia đã ra tuyên bố hệ thống đường cơ sở thẳng bao gồm các đảo nằm
xa bờ như đảo Vai. Tháng 3/1999, tại cuộc họp vòng 1 của Ủy ban liên hợp, phái đoàn
của Việt Nam đã đưa ra sơ đồ đường trung tuyến trong vùng nước lịch sử để hai bên lấy
đường này làm cơ sở đàm phán phân định, điều chỉnh làm đường phân định biên giới trên
biển giữa hai nước. Đây được xem là giải pháp hợp lý để hai bên tiếp tục làm cơ sở đàm
phán phân định biên giới trên biển.
Tuy vậy, đến tháng 8/1999, tại vòng 2 của cuộc họp Ủy ban liên hợp, về phía Campuchia
vẫn chưa nhất trí về đường trung tuyến mà Việt Nam đã vạch ra ở vòng 1, đồng thời
không đưa ra một giải pháp cụ thể nào. Quan điểm của Việt Nam trong đàm phán phân
định biển với Campuchia là vẫn kiên trì giải thích rõ hơn về tính hợp lý và hy vọng đi tới
một biện pháp phân định công bằng cho cả hai bên. Tuy nhiên, từ năm 1999 đến năm
2015, Campuchia vẫn chưa có một hành động cụ thể, hay động thái tích cực nào trong
đàm phán với Việt Nam để đi tới kết quả phân định biên giới trên biển giữa hai nước một
cách công bằng.
Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình phân định biển giữa Việt Nam với các quốc
gia hữu quan trong khu vực
Quá trình phân định biển giữa Việt Nam với các quốc gia hữu quan cơ bản đảm bảo được
lợi ích quốc gia: Công tác phân định biển của Nhà nước đã đạt được thành tựu quan
trọng, đó là trong quá trình phân định biển giữa nước ta với các quốc gia hữu quan trong
khu vực đã có sự thống nhất, dựa trên nguyên tắc công bằng, tôn trọng độc lập chủ
quyền. Mọi biện pháp được tiến hành thông qua thương lượng, đàm phán hòa bình, đã
góp phần giữ vững môi trường biển hòa bình, ổn định trong khu vực và thế giới.
Việt Nam là một trong những quốc gia ven biển, có biên giới trên biển tiếp giáp với nhiều
nước trong khu vực Biển Đông. Chính vì vậy, Việt Nam đã từng bước đàm phán ký kết
những hiệp định phân định biển với các nước xung quanh một cách hòa bình, hữu nghị
trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, luật pháp quốc tế và
luật biển quốc tế.
Cụ thể là trong quá trình phân định biển với Trung Quốc, chúng ta luôn luôn kiên trì bằng
biện pháp pháp luật, đồng thời cũng yêu cầu Trung Quốc vận dụng những nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế, nhất là những quy định của UNCLOS để vận
dụng vào quá trình đàm phán phân định biển. Về thuận lợi là cả Việt Nam và Trung Quốc
đều là thành viên của UNCLOS, lãnh đạo cấp cao của hai nước cũng nhất trí giải quyết
mọi bất đồng trên biển bằng biện pháp hòa bình. Tuy nhiên, quá trình phân định biển với
Trung Quốc ngoài khu vực cửa vịnh Bắc Bộ còn gặp nhiều khó khăn, nho những yếu tố
như quan điểm về chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán còn khác xa nhau.
Ngoài ra, Trung Quốc cũng đang ráo riết thực hiện âm mưu độc chiếm biển Đông và cụ
thể hóa yêu sách phi lý về đường đứt khúc 9 đoạn.
Phân định biển giữa Việt Nam và Philippines vẫn còn nhiều khó khăn: Thứ nhất, từ trước
đến nay Việt Nam và Philippines chưa ký được hiệp định phân định biển, mới chỉ có thỏa
thuận giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Thứ hai, quan điểm chủ quyền đối
với quần đảo Trường Sa của Việt Nam giữa hai nước còn có sự cách biệt lớn. Thứ ba,
trên thực tế Philippines đang chiếm đóng trái phép một số đảo đá của Việt Nam tại quần
đảo Trường Sa và Philippines khẳng định có chủ quyền. Về thuận lợi, cả Việt Nam và
Philippines đều là thành viên của UNCLOS, cấp cao hai nước đã nhất trí giải quyết mọi
bất đồng trên biển bằng biện pháp hòa bình, không sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng
vũ lực.
Phân định biển giữa Việt Nam và Malaysia đã đạt được nhiều thuận lợi cơ bản, khi cả hai
nước đều ký được thỏa thuận khai thác nguồn tài nguyên biển trong vùng chồng lấn trước
khi hai nước bàn luận để tiến tới ký hiệp định phân định biển. Cả hai nước đều trình lên
Ủy ban thềm lục địa của Liên hợp quốc về ranh giới ngoài cùng của thềm lục địa và hai
nước đều là thành viên của UNCLOS. Đây là những thuận lợi cơ bản trong quá trình đàm
phán phân định biển với Malaysia, cũng chính là tiền đề để chúng ta tiếp tục đàm phán
phân định biển với Malaysia trong hiện tại và tương lai. Ngày 06/5/2009, Việt Nam và
Malaysia đã phối hợp trình Báo cáo chung về khu vực thềm lục địa kéo dài liên quan đến
hai nước lên Ủy ban Ranh giới thềm lục địa của Liên hợp quốc. Sự kiện này đã thể hiện
tinh thần hòa bình giải quyết quan điểm những bất đồng mâu thuẫn về vùng biển chồng
lấn giữa hai nước và còn được xem là một mẫu mực trong việc giải quyết tranh chấp chủ
quyền biển đảo giữa các nước láng giềng trong khu vực Biển Đông.
Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn do quan điểm về quyền chủ quyền và quyền tài phán
trên vùng biển chồng lấn có sự khác biệt. Khó khăn lớn nhất là do hiện nay Malaysia
đang chiếm đóng trái phép một số đảo đá ở quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của
Việt Nam. Do đó, vấn đề phân định biển giữa Việt Nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn do
quan điểm chủ quyền tại quần đảo Trường Sa có sự khác biệt khá lớn.
Phân định biển giữa Việt Nam và Indonesia đã đạt được kết quả khi hai nước nhất trí ký
Hiệp định phân định biển. Với nội dung của hiệp định phân định thềm lục địa giữa hai
nước đã bổ sung vào kinh nghiệm của thế giới và khu vực về đàm phán phân định biển.
Trong quá trình đàm phán có nhiều thuận lợi, do cả hai quốc gia đều là thành viên của
UNCLOS; thứ hai, trên thực tế Indonesia không chiếm đóng trái phép đảo đá nào của
Việt Nam tài quần đảo Trường Sa.
Hiệp định phân định biển giữa Việt Nam và Thái Lan là hiệp định phân định biển đầu
tiên đạt được trong vịnh Thái Lan. Đây cũng là hiệp định về phân định biển đầu tiên được
ký kết tại khu vực Đông Nam Á sau khi UNCLOS có hiệu lực. Hiệp định này đã bổ sung
kinh nghiệm trong xu thế có thể thỏa thuận về một đường biên giới biển hòa bình do việc
phân định đồng thời thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế một cách công bằng dựa trên
những quy định của UNCLOS và sự nỗ lực của hai bên. Trên thực tế, Nhà nước Việt
Nam đã vận dụng một cách linh hoạt các nguyên tắc cơ bản của luật biển quốc tế, đặc
biệt là những quy định của UNCLOS vào quá trình đàm phán phân định biển với các
quốc gia hữu quan trong đó có Thái Lan.
Phân định biển giữa Việt Nam và Campuchia mặc dù đã có kinh nghiệm khi cả hai nước
đều nhất trí ký hiệp định vùng nước lịch sử chung. Tuy nhiên, để hiệp định phân định
biển giữa hai quốc gia được ký kết còn phải mất một quá trình đàm phán lâu dài. Thứ
nhất, do quan điểm chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán giữa hai quốc gia còn
có sự khác biệt. Thứ hai, hiện nay Campuchia là quốc gia trong khu vực chưa phê chuẩn
UNCLOS, do đó rất khó để vận dụng các nguyên tắc của luật biển quốc tế trong quá trình
đàm phán phân định biển.
Tóm lại, bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình đàm phán phân định biển
giữa Việt Nam với các quốc gia hữu quan trong khu vực, chúng ta còn gặp nhiều khó
khăn trong đàm phán phân định biển giai đoạn tiếp theo. Do quan điểm chủ quyền của
các quốc gia liên quan còn có sự khác biệt, mặt khác do yếu tố khách quan cho nên công
tác phân định biển giữa nước ta với một số quốc gia hữu quan trong khu vực Biển Đông
vẫn chưa được hoàn thành và có nhiều vấn đề phải tiếp tục đàm phán bằng biện pháp hòa
bình để giải quyết. Cụ thể là một số vùng biển chưa được phân định rõ ràng như vùng
biển giáp với Trung Quốc ngoài cửa vịnh Bắc Bộ, Campuchia, Philippines, Malaysia.
Bài tập
Cho các tình huống sau đây (5 điểm)
1 – Có một tàu chở hàng mang cờ Ấn Độ trong hành trình đi qua lãnh hải Việt Nam
đã dừng lại và thực hiện việc bốc, dỡ hàng hóa từ tàu này sang tàu khác. Anh chị
hãy cho biết hành vi của chiếc tàu này có phù hợp với Luật biển quốc tế và Luật
biển Việt Nam không? Tại sao?
→ Hành vi bốc, dỡ hàng hóa từ tàu này sang tàu khác của tàu chở hàng trên không
phù hợp với Luật biển quốc tế cũng như Luật biển Việt Nam. Vì căn cứ theo Điểm g
khoản 2 Điều 19 của Công ước Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 có quy định: “Việc
đi qua của một tàu thuyền nước ngoài bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an
ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong
bất kỳ hoạt động nào sau đây…g) Xếp hoặc dỡ hàng hóa, tiền bạc hay đưa người lên
xuống tàu trái với các luật và quy định về hải quan, thuế khóa, y tế hoặc nhập cư của
quốc gia ven biển;” Tại Điểm h khoản 3 Điều 23 Luật biển Việt Nam năm 2012 cũng
quy định tương tự.
2 – Có một chiếc tàu chở khách mang cờ Panama trong hành trình đi qua lãnh hải
Việt Nam mà không vào nội thủy Việt Nam đã xảy ra một vụ đâm chém gây chết
người. Anh chị hãy cho biết: Vụ việc này sẽ thuộc thẩm quyền xử lý của quốc gia
nào? Tại sao?
Vụ việc này sẽ thuộc thẩm quyền xử lý của quốc gia mà tàu mang cờ - Panama
Giải thích: Căn cứ theo khoản 5 Điều 27 UNCLOS 1982, trừ trường hợp phải áp
dụng các quy định tại phần XII (liên quan đến bảo vệ và giữ gìn môi trường biển) hay
trong trường hợp có sự vi phạm các luật và được quy định được ra theo đúng phần V
(vùng đặc quyền kinh tế), quốc gia ven biển không được thực hiện biện pháp nào trên
một con tàu nước ngoài khi con tàu này đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ hay tiến
hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào lãnh hải,
nếu như con tàu này xuất phát từ một cảng nước ngoài, chỉ đi qua lãnh hải của Việt Nam
mà không đi vào nội thuỷ. Vì thế. Việt Nam không có thẩm quyền xử lý vụ việc này.
3 – Có một tàu quân sự mang cờ Trung Quốc phóng đi và tiếp nhận các phương tiện
bay lên tàu trong hành trình đi qua lãnh hải của Việt Nam. Anh chị hãy cho biết:
Các lực lượng chức năng của Việt Nam có thẩm quyền xử lý hành vi của chiếc tàu
này không? Tại sao?
Điều 28. Trách nhiệm của tàu quân sự và tàu thuyền công vụ của nước ngoài trong
vùng biển Việt Nam
Tàu quân sự của nước ngoài khi hoạt động trong vùng biển Việt Nam mà có hành vi vi
phạm pháp luật Việt Nam thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam có
quyền yêu cầu tàu thuyền đó chấm dứt ngay hành vi vi phạm, rời khỏi lãnh hải Việt Nam
ngay lập tức nếu đang ở trong lãnh hải Việt Nam. Tàu thuyền vi phạm phải tuân thủ các
yêu cầu, mệnh lệnh của lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển của Việt Nam.
Trường hợp tàu quân sự, tàu thuyền công vụ của nước ngoài hoạt động trong vùng biển
Việt Nam mà có hành vi vi phạm pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật quốc tế có liên quan
thì quốc gia mà tàu mang cờ phải chịu trách nhiệm về mọi thiệt hại do tàu thuyền đó gây
ra cho Việt Nam.
4 – Có một tàu cá của ngư dân Indonesia không thu cất lưới và ngư cụ vào trong
khoang khi đi qua vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Anh chị hãy cho biết: Các
lực lượng chức năng của Việt Nam có thẩm quyền xử lý hành vi của chiếc tàu này
không? Tại sao?
Theo Điều 10 Nghị định 162/2013/NĐ-CP hành vi như trên sẽ được xử lý như sau:
- Thứ nhất: Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng
- Thứ hai: Tịch thu tang vật vi phạm hành chính
- Thứ ba: Buộc người và tàu thuyền vi phạm rời khỏi vùng biển, đảo và thềm lục địa

Điều 10. Vi phạm quy định về thu cất lưới và trạng thái bảo quản máy thăm dò cá khi
hoạt động trong lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam
của tàu thuyền nước ngoài
1. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau
đây:
a) Không thu cất lưới hoặc các dụng cụ đánh bắt khác vào trong khoang;
b) Không đưa về trạng thái bảo quản tất cả các loại máy thăm dò, phát hiện, dụ dẫn cá.
2. Hình thức xử phạt bổ sung; Tịch thu tang vật vi phạm hành chính đối với hành vi vi
phạm quy định tại Khoản 1 Điều này.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc người và tàu thuyền vi phạm rời khỏi vùng biển,
đảo và thềm lục địa của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với hành vi vi
phạm quy định tại Điều này.
5 – Có một tàu nước ngoài chỉ treo cờ quốc tịch của tàu nhưng không treo cờ Việt
Nam khi đi qua vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Anh chị hãy cho biết: Lực
lượng chức năng của Việt Nam có thẩm quyền xử lý về hành vi này không? Tại sao?
UNCLOS quy định: “Ở trong lãnh hải, tàu ngầm và các phương tiện đi ngầm khác buộc
phải đi nổi và treo cờ quốc tịch” (điều 21) và “nếu một tàu chiến không tôn trọng các luật
và quy định của quốc gia ven biển có liên quan đến việc đi qua trong lãnh hải và bất chấp
yêu cầu phải tuân thủ các luật và quy định đó đã được thông báo cho họ, thì quốc gia ven
biển có thể đòi chiếc tàu đó rời khỏi lãnh hải ngay lập tức” (điều 30).
Trả lời: Tại Điều 7 Nghị định 162/2013/NĐ-CP ngày 12/11/2013 quy định
1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 4.000.000 đồng đối với hành vi không treo Quốc kỳ
Việt Nam hoặc treo Quốc kỳ Việt Nam không đúng quy định của tàu thuyền Việt Nam.
2. Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với hành vi vi phạm sau đây:
a) Tàu thuyền nước ngoài không treo cờ quốc tịch, Quốc kỳ Việt Nam hoặc treo không
đúng quy định khi hoạt động trong nội thủy Việt Nam;
b) Tàu ngầm, phương tiện đi ngầm của nước ngoài không treo cờ quốc tịch, Quốc kỳ Việt
Nam khi hoạt động trong nội thủy Việt Nam; không treo cờ quốc tịch khi hoạt động trong
lãnh hải Việt Nam, trừ trường hợp được phép của Chính phủ Việt Nam.
3. Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc treo Quốc kỳ Việt Nam hoặc cờ quốc tịch theo
quy định đối với hành vi vi phạm quy định tại Điều này.

=> Áp dụng đối với vùng Nội thủy Lãnh hải còn đối với vùng đặc quyền kinh tế các tàu
thuyền nước ngoài không bắt buộc phải treo cờ Việt Nam khi đi qua vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam.

ĐỀ 5:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Lớp TM42
Thời gian làm bài 75 phút
Sinh viên được sử dụng VBQPPL
Nhận định
Các nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích tại sao? (10 điểm)
1 – Đặc quyền kinh tế là vùng biển quan trọng nhất của các quốc gia ven biển.
(trang 73)
- SAI. Vùng nội thủy là vùng quan trọng nhất vì theo phương diện pháp lý, nội thủy
là vùng gắn với đất liền, một bộ phận cấu thành của lãnh thổ quốc gia, quốc gia
ven biển có chủ quyền hoàn toàn và tuyệt đối. Ngoài ra, theo thực tiễn khai thác,
quản lý và sử dụng thì vùng nước nội thủy có nhiều cảng biển dùng vào mục đích
quân sự, dân sự, thương mại của quốc gia ven biển, do đó có nhiều tàu buôn, tàu
thương mại quốc tế, tàu quân sự neo đậu ở đây
2 – Địa hình bờ biển là yếu tố quyết định phương pháp xác định đường cơ sở của
quốc gia ven biển.
→ Nhận định đúng
Việc xác định đường cơ sở theo phương pháp nào sẽ phụ thuộc vào địa hình ven biển của
quốc gia ven biển. Cụ thể, phương pháp xác định đường cơ sở thông thường được quy
định tại Điều 5 UNCLOS 1982 được áp dụng đối với các quốc gia có bờ biển thẳng, bằng
phẳng, không có các đoạn lồi lõm, khúc khuỷu, không có các đảo, quần đảo ven bờ và
ngấn nước thuỷ triều xuống thấp nhất thể hiện rõ ràng, ổn định. Phương pháp xác định
đường cơ sở thẳng quy định tại Điều 7 UNCLOS 1982 được áp dụng trong những vùng
mà bờ biển quanh co, khúc khuỷu, hay những vùng có một dãy đảo nằm dọc theo bờ biển
và nằm trực tiếp với bờ biển.
3 – Chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải giống như chế độ pháp lý của vùng
đặc quyền kinh tế.
→ Nhận định sai.
ĐIỀU 33. Vùng tiếp giáp
1. Trong một vùng tiếp giáp với lãnh hải của mình, gọi là vùng tiếp giáp, quốc gia ven
biển có thể thi hành sự kiểm soát cần thiết, nhằm:
a) Ngăn ngừa những phạm vi đối với các luật và quy định hải quan, thuế khóa, y tế hay
nhập cư trên lãnh thổ hay trong lãnh hải của mình;
b) Trừng trị những vi phạm đối với các luật và quy định nói trên xảy ra trên lãnh thổ hay
trong lãnh hải của mình
ĐIỀU 56. Các quyền, quyền tài phán và các nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong
vùng đặc quyền về kinh tế
1. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về việc thăm dò khai thác, bảo tồn và quản lý các tài
nguyên thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển, của
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và
khai thác vùng này vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và
gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và các nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
2. Trong vùng đặc quyền về kinh tế, khi thực hiện các quyền và làm các nghĩa vụ của
mình theo Công ước, quốc gia ven biển phải tính đến các quyền và nghĩa vụ của các quốc
gia khác và hành động phù hợp với Công ước.
3. Các quyền có liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nêu trong điều này
được thực hiện theo đúng phần VI.
4 – Thềm lục địa của mọi quốc gia ven biển rộng tối đa là 350 hải lý.
→ Nhận định đúng.
Theo quy định tại Điều 76.2 UNCLOS 1982, nếu thềm lục địa của một quốc gia
ven biển rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia đó có thể xác định ranh giới phía ngoài của
thềm lục địa bằng hai cách:
-Xác định thềm lục địa rộng tối đa là 350 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để đo
chiều rộng lãnh hải.
-Kéo dài thêm 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu là đường nối các điểm có độ sâu
trung bình là 2500m.
Tuỳ thuộc vào mỗi quốc gia, sẽ có quốc gia có thềm lục địa hẹp hơn hoặc bằng
200 hải lý; sẽ có quốc gia có thềm lục địa rộng hơn 200 hải lý nhưng tối đa chỉ 350 hải lý.
5 – Phân định biển được đặt ra đối với mọi quốc gia có biển.
→ Nhận định sai.
Phân định biển chỉ được đặt ra khi các quốc gia kề nhau hoặc đối diện nhau, có nội
thuỷ, lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa chồng lấn nhau. Tức là, tồn tại sự chồng
lấn các vùng biển mà các quốc gia tranh chấp đều có cùng danh nghĩa pháp lý, tức là các
quốc gia đều có cơ sở pháp lý để yêu sách các vùng biển của mình. Mục đích của quá
trình phân định biển là áp dụng các quy định của luật quốc tế để thiết lập một đường ranh
giới quốc tế phân chia vùng biển chồng lấn giữa các quốc gia liên quan. Vì vậy, chỉ
những quốc gia tồn tại sự chồng lấn ranh giới vùng biển mới cần phải phân định biển.
6 – Tự do hàng hải chính là quyền đi qua không gây hại trên các vùng biển theo quy
định của UNCLOS 1982.
Nhận định sai.
Quyền tự do hàng hải rộng hơn rất nhiều so với quyền đi qua không gây hại. Theo
đó, tàu thuyền của các quốc gia đều được quyền tự do di chuyển trên biển quốc tế theo
các tuyến đường hàng hải quốc tế theo tốc độ, lộ trình phù hợp mà không bắt buộc phải di
chuyển nhanh chóng và liên tục nhưng khi đi qua không gây hại trong lãnh hải của quốc
gia ven biển
7 – Phần nước trên thềm lục địa của quốc gia ven biển có chế độ pháp lý của vùng
đặc quyền kinh tế.
→ Nhận định sai.
Điều 55 UNCLOS 1982 quy định về vùng đặc quyền kinh tế: “Vùng đặc quyền
kinh tế là một vùng nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ
pháp lý riêng quy định trong phần này…”. Vùng đặc quyền kinh tế không được mở rộng
quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải - Điều 57
Điều 76 UNCLOS quy định: “Thềm lục địa của một quốc gia ven biển bao gồm
đáy biển và lòng đất dưới đáy biển bên ngoài lãnh hải của quốc gia đó…”
Nếu thềm lục địa của một quốc gia ven biển rộng hơn 200 hải lý thì quốc gia đó có
thể xác định ranh giới phía ngoài của thềm lục địa bằng hai cách:
-Xác định thềm lục địa rộng tối đa là 350 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để đo
chiều rộng lãnh hải
-Kéo dài thêm 100 hải lý tính từ đường đẳng sâu là đường nối các điểm có độ sâu
trung bình là 2500m.
Chiều rộng của vùng đặc quyền kinh tế tối đa 200 hải lý; chiều rộng của thềm lục
địa có thể tối đa 350 hải lý. Vì thế, chỉ một phần nước phía trên thềm lục địa của quốc
gia ven biển có 2.chế độ pháp lý của vùng đặc quyền kinh tế, phần nằm ngoài vùng đặc
quyền kinh tế sẽ có chế độ pháp lý của biển quốc tế.
8 – Quy chế pháp lý của lãnh hải theo quy định của UNCLOS 1982 và Luật Biển
Việt Nam 2012 là giống nhau.
→ Nhận định trên là sai. Tuy có nhiều điểm tương thích nhưng quy chế pháp lý của lãnh
hải quy định ở Luật biển Việt Nam 2012 và UNCLOS 1982 là không giống nhau. Ở các
Điều 17, 18, 19 ở UNCLOS khi quy định về quyền đi qua không gây hại đối với các tàu
thuyền nước ngoài trong lãnh hải quốc gia ven biển không hề quy định bất cứ loại tàu
thuyền nào phải thông báo với quốc gia ven biển khi thực hiện quyền này. Tuy nhiên tại
đoạn 2 khoản 2 Điều 12 Luật biển Việt Nam lại quy định “tàu quân sự nước ngoài khi
thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo trước cho cơ
quan có thẩm quyền của Việt Nam.”.
9 – Các thủ tục giải quyết tranh chấp được quy định tại Điều 287 của UNCLOS
1982 được ưu tiên áp dụng mặc nhiên.
→ Nhận định sai
10 – Cho đến thời điểm này, Việt Nam mặc nhiên được coi là chọn Trọng tài được
thành lập theo Phụ lục VII của UNCLOS 1982 để giải quyết tranh chấp về giải thích
hoặc áp dụng UNCLOS 1982.

ĐỀ 6: ĐỀ THẦY PHƯƠNG
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Lớp TM43
Thời gian làm bài 75 phút
Sinh viên được sử dụng VBQPPL
GV ra đề: ThS Lê Đức Phương
Nhận định
Các nh.22.ận định sau đây đúng hay sai? Giải thích tại sao? (7.5 điểm)
1 – Nội thủy và lãnh hải là hai vùng biển thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển.
- ĐÚNG. Điều 2 UNCLOS: Chủ quyền của quốc gia ven biển được mở rộng ra
ngoài lãnh thổ và nội thủy của mình, và trong trường hợp một quốc gia quần đảo
ra ngoài vùng nước quần đảo, đến một vùng biển tiếp liền gọi là lãnh hải và theo
khoản 1 Điều 12 Luật biển VN quy định về chế độ pháp lý của lãnh hải: “1. Nhà
nước thực hiện chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải và vùng trời, đáy
biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải phù hợp với Công ước của Liên hợp
quốc về Luật biển năm 1982”.
- Chủ quyền là quyền làm chủ tuyệt đối của quốc gia độc lập đối với lãnh
thổ của mình. Chủ quyền của quốc gia ven biển là quyền tối cao của quốc
gia được thực hiện trong phạm vi nội thủy và lãnh hải của quốc gia đó.
2 – Quyền tự do hàng hải và quyền tự do hàng không chỉ được thực hiện ở vùng biển
quốc tế.
- Tự do hàng hải là quyền của tất cả các quốc gia, bao gồm cả những quốc gia
không có bờ biển, được sử dụng các phương tiện vận chuyển trên mặt nước, dưới
mặt nước để đi lại tự do, không bị khám xét trên các vùng biển quốc tế, được đi
qua các eo biển, kênh đào quốc gia nằm trên các đường hàng hải quốc tế, được đi
qua vô hại các vùng tiếp giáp lãnh hải, các vùng biển đặc quyền kinh tế của các
quốc gia, được vào trú đậu, sửa chữa phương tiện vận chuyển khi gặp thiên tai, hư
hỏng, để lấy thêm nhiên liệu, tiếp tế lương thực tại các hải cảng quốc tế. Việc đi
qua vùng đặc quyền kinh tế, vùng tiếp giáp lãnh hải, eo biển, kênh đào thuộc chủ
quyền của nước nào nhất thiết phải theo đúng quy định của pháp luật nước đó. Các
tàu thuyền không mang quốc tịch, không rõ lai lịch, các tàu thuyền của bọn cướp
biển, không được hưởng quyền tự do hàng hải và có thể bị tàu thuyền quân sự của
tất cả các nước truy bắt hoặc đánh đắm.
- ĐÚNG. Theo Điều 58 UNCLOS: “Trong vùng đặc quyền về kinh tế, tất cả các
quốc gia, dù có biển hay không có biển, trong những điều kiện trong những quy
định thích hợp của Công ước trù định, được hưởng các quyền tự do hàng hải và
hàng không.”

3 – Mỗi đảo thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển sẽ có các vùng biển tiếp liền như
đối với đất liền của quốc gia ven biển đó.
- SAI. K3, D121 UNCLOS thì mỗi đảo thuộc chủ quyền quốc gia sẽ có chế độ pháp
lý theo đúng các quy định của Công ước áp dụng cho các lãnh thổ đất liền khác,
tức là sẽ có lãnh hải, vùng tiếp giáp, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa
như lãnh thổ đất liền nhưng chỉ đảo nào có người sinh sống
4 – Biện pháp xử lý của quốc gia ven biển đối với các tàu nước ngoài vi phạm khi
hoạt động trong các vùng biển của quốc gia ven biển là giống nhau.
- Nhận định trên là Sai.
5 – Theo UNCLOS 1982, Trọng tài quốc tế về Luật Biển theo Phụ lục VII có thẩm
quyền ưu tiên trong thụ lý, giải quyết các vụ tranh chấp.
Đúng. CSPL: Điều 287.3,5. Đ 287.3 quy định: trong trường hợp tranh chấp đã
phát sinh mà các bên trong tranh chấp chưa đưa ra tuyên bố lựa chọn tòa án, trọng tài
nào trong các tòa án, trọng tài ở Đ 287.1 thì trong trường hợp này Trọng Tài Quốc tế về
Luật Biển theo Phụ lục VII có thẩm quyền thụ lý giải quyết. Đ 287.5: trong trường hợp
các bên tranh chấp lựa chọn không đồng nhất về cơ quan giải quyết tranh chấp thì Trọng
tài Quốc tế về Luật Biển theo Phụ lục VII có thẩm quyền thụ lý, giải quyết.
Bài tập
Tháng 05/2014, Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 cách Đảo Lý Sơn của
Việt Nam là 119 hải lý. (2.5 điểm)
Anh chị hãy cho biết:
1 – Vị trí mà Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 thuộc phạm vi vùng
biển nào của Việt Nam? Tại sao?
2 – Hành động trên đây của Trung Quốc đã xâm phạm các quyền chủ quyền, quyền
tài phán gì của Việt Nam? Nêu căn cứ pháp luật.

ĐỀ 7:
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh
Lớp CLC41A
Thời gian làm bài 75 phút
Sinh viên được sử dụng VBQPPL
GV ra đề: TS. Ngô Hữu Phước
Nhận định
Các nhận định sau đây đúng hay sai? Giải thích tại sao? (7 điểm)
1 – Trong mọi trường hợp hoạch định và phân định biển đều dựa vào sự thỏa thuận
giữa các quốc gia.
Nhận định sai
Trong thực tiễn, hoạt động phân định biển chỉ có thể được thực hiện dựa trên cơ sở
thoả thuận, thông qua đàm phán trực tiếp hoặc được các bên liên quan thỏa thuận giải
quyết tranh chấp tại các cơ quan tài phán quốc tế để phân định. Vì thế, khi cần hoạch định
và phân định biển, sự thoả thuận giữa các quốc gia là biện pháp ưu tiên hàng đầu. Nếu
không thể trực tiếp đàm phán để phân định, các quốc gia có thể thỏa thuận yêu cầu các cơ
quan tài phán quốc tế như ICJ, ITLOS được thành lập theo Phụ lục VI, Toà trọng tài
được thành lập theo phụ lục VII và Tòa trọng tài đặc biệt được thành lập theo Phụ lục VII
theo quy định tại Điều 287 của UNCLOS để giải quyết.
2 – Mọi quốc gia đều có vùng đặc quyền kinh tế riêng.
Nhận định sai
Điều 55 UNCLOS 1982 quy định: “Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng nằm ở
phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải, đặt dưới chế độ pháp lý riêng quy định trong
phần này, theo đó các quyền và quyền tài phán của quốc gia VEN BIỂN và các quyền tự
do của các quốc gia khác đều do các quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh”. Theo
đó, chỉ quốc gia VEN BIỂN mới có vùng đặc quyền kinh tế, những quốc gia không có
biển (xung quanh chỉ tiếp giáp với đất liền) thì không có vùng đặc quyền kinh tế riêng.
3 – Đường biên giới quốc gia trên biển là đường phân định lãnh hải của các quốc gia
đối diện hoặc tiếp giáp nhau.
→ Nhận định trên là SAI. Biên giới quốc gia trên biển Là đường vạch ra để phân định
vùng lãnh hải của quốc gia với vùng biển tiếp liền mà quốc gia ven bờ có quyền chủ
quyền hoặc với nội thủy, lãnh hải của quốc gia khác có bờ biển đối diện hay kề bên bờ
biển của quốc gia này. Như vậy, chỉ áp dụng đối với các quốc gia có vùng biển tiếp liền
chứ không phải toàn bộ các quốc gia. Bởi vì không phải mọi quốc gia đối diện hoặc tiếp
giáp nhau đều có biển để có thể tiến hành phân định lãnh hải.
4 – Việc quản lý, khai thác, bảo vệ vùng nước lãnh hải và vũng nước biên giới là
giống nhau.
→ Nhận định trên là Sai. Việc quản lý, khai thác và bảo vệ vùng nước biên giới của quốc
gia là tương đối hạn chế. Đối với vùng nước biên giới thì khi có các hành động như xây
dựng các công trình bảo vệ bờ sông, suối biên giới, cồn bai được quy thuộc, nạo vét sông
suối, các công trình cắt ngang biên giới, tháo dỡ các công trình trong vùng nước biên giới
gây ảnh hưởng đến lợi ích của một hoặc hai Bên cần có sự đồng ý của cả 2 quốc gia có
vũng nước biên giới tiếp giáp đó. Còn đối với vùng nước lãnh hải, quốc gia sở hữu gần
như có hoàn toàn và đầy đủ chủ quyền với vùng nước đó, chỉ hạn chế ở trong quyền “tự
do đi lại” của các quốc gia khác.
+ Vùng nước biên giới : gồm biển nội địa ,các ao hồ,sông suối... trên khu vực biên giới
giữa các quốc gia .
+ Vùng nước lãnh hải: là vùng biển nằm ngoài và tiếp liền với vùng nội thuỷ của quốc
gia. Bề rộng của lãnh hải theo công ước luật biển năm 1982 do quốc gia tự quy định
nhưng không vượt quá 12 hải lý tính từ đường cơ sở.
5 - Quyền “đi qua không gây hại” là một quyền mang tính biển và được áp dụng
trên tất cả các vùng biển theo quy định của UNCLOS.
→ Nhận định trên là sai. Quyền đi qua không gây hại chỉ được áp dụng trong vùng biển
“lãnh hải” theo quy định của UNCLOS chứ không phải toàn bộ vùng biển.
6 – Việt Nam có biên giới biển với Trung Quốc, Campuchia, Indonesia, Thái Lan,
Malaysia và Philippines.
Nhận định sai
Việt Nam có biên giới biển với Thái Lan, Trung Quốc và Indo. Giữa Việt Nam và
Thái lan đã ký hiệp định phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Giữa Việt
Nam và TQ đã tiến hành phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa
trong vịnh Bắc Bộ. Phân định ranh giới thềm lục địa giữa VN và Indo đã được ký vào
năm 2003. Đồng thời, VN còn có các vùng biển chồng lấn chưa được phân định với TQ,
Indo, Malai, Phil, Cam.
7 – Khi xác định đường cơ sở thẳng, quốc gia ven biển có quyền kéo đến hoặc xuất
phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm.
Nhận định sai
Về nguyên tắc, các bãi cạn lúc chìm lúc nổi không phải là các điểm vật chất thực
tế để các quốc gia dùng làm căn cứ để vạch đường cơ sở nếu trên các bãi cạn đó không có
các công trình xây dựng thường xuyên nhô trên mặt nước như các đảo nhân tạo, các công
trình thiết bị nhân tạo, các ngọn hải đăng - quy định tại Điều 7 UNCLOS 1982. Tuy
nhiên, khi hết hợp Điều 7 với Điều 13, quốc gia ven biển có quyền kéo đến hoặc xuất
phát từ các bãi cạn lúc nổi lúc chìm khi đáp ứng được hai điều kiện sau:
- Trên bãi cạn có đèn biển hoặc các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt
nước hoặc việc vạch các đường cơ sở thẳng đó đã được sự thừa nhận chung của
quốc tế
- Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn cách lục địa hoặc một đảo một khoảng cách
không vượt quá chiều rộng của lãnh hải (không quá 12 hải lý)

BÀI TẬP TÌNH HUỐNG:

1. Có 3 chiếc tàu nước ngoài X (là tàu quân sự) , Y (là tàu chở khách) , X (là tàu chở
hàng) đang ở vùng nội thủy của quốc gia A. Bằng kiến thức về Luật biển quốc tế đã
được học, anh/chị hãy cho biết quốc gia A giải quyết thế nào trong trường hợp:
a. 3 chiếc tàu trên vi phạm pháp luật ở vùng nội thuỷ của quốc gia A?
● Trường hợp tàu X vi phạm pháp luật ở vùng nội thủy của quốc gia A:
Căn cứ tiểu mục C của Công ước luật biển 1982, vì tàu X là tàu quân sự nên được hưởng
quyền miễn trừ tuyệt đối về tư pháp và được coi là bất khả xâm phạm. Quốc gia A không
có quyền tài phán hành vi vi phạm và thiệt hại do tàu X gây ra.
Trong trường hợp này, quốc gia A có quyền:
- Yêu cầu tàu X ra khỏi nội thủy trong một thời gian nhất định (Điều 30 CƯ);
- Yêu cầu quốc gia có tàu X phải áp dụng chế tài hợp pháp với thủy thủ vi phạm;
- Yêu cầu quốc gia có tàu X phải bồi thường thiệt hại do hành vi vi phạm của tàu X
gây ra trong thời gian đậu ở nội thủy của quốc gia A (Điều 31 CƯ).
● Trường hợp tàu Y và tàu Z vi phạm pháp luật ở vùng nội thủy của quốc gia A:
Nếu vi phạm pháp luật đó là vi phạm hình sự: Tàu Y và tàu Z phải chịu sự tài phán của
quốc gia A. Quốc gia A có quyền bắt giữ, truy tố, xét xử theo pháp luật của nước mình
trước Tòa án của nước mình đối với hành vi phạm pháp trên nội thủy của 2 tàu này
(khoản 2 Điều 27 CƯ). Những hành động phạm pháp xảy ra trên tàu trong thời gian tàu
đang đậu ở nội thủy của quốc gia A thì quốc gia A có quyền xét xử trong các trường hợp
sau:
- Nếu hành vi phạm tội do một người ngoài thủy thủ đoàn thực hiện;
- Nếu thuyền trưởng yêu cầu chính quyền nước A can thiệp;
- Nếu hậu quả của nó ảnh hưởng tới an ninh trật tự của nội thủy.
Nếu vi phạm pháp luật đó là vi phạm dân sự: Tòa án của quốc gia A có quyền xét xử các
vụ kiện dân sự (khoản 3 Điều 28 CƯ):
- Giữa tàu Y và tàu Z với nhau hoặc với các tàu nước ngoài khác cùng đậu ở nội thủy
của quốc gia A;
- Giữa thủy thủ đoàn của tàu với công dân nước A.
Nếu vi phạm pháp luật đó là vi phạm hành chính: Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia
A có quyền xử phạt vi phạm hành chính đối với tàu và thủy thủ đoàn của tàu Y, Z khi vi
phạm pháp luật trong lãnh thổ của quốc gia A (Nội thủy là một bộ phận của lãnh thổ quốc
gia).

b. Nhân viên của 3 chiếc tàu trên vi phạm pháp luật quốc gia A khi đã lên trên bờ?
● Về mặt hình sự: Nếu nhân viên của 3 chiếc tàu trên vi phạm pháp luật hình sự
quốc gia A khi đã lên trên bờ thì quốc gia A có thẩm quyền bắt giữ, truy tố và xét
xử hành vi phạm tội theo pháp luật hình sự của quốc gia A.
● Về mặt dân sự: Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia A có quyền xét xử các vụ
kiện dân sự có liên quan đến nhân viên của 3 chiếc tàu này khi họ đã lên bờ.
● Về mặt hành chính: Cơ quan có thẩm quyền của quốc gia A có quyền điều tra,
xem xét các vụ vi phạm hành chính của các nhân viên 3 chiếc tàu này khi họ đã
lên trên bờ.

2. Tàu đánh cá của quốc gia B khi đang đi qua lãnh hải của quốc gia cho 1 máy bay
dân sự (đang đậu trên tàu) cất cánh. Bằng kiến thức về Luật biển quốc tế đã được
học, anh/chị hãy cho biết: Tàu đánh cá và máy bay dân sự vi phạm nội dung gì? Cơ
sở pháp lý? Quốc gia A được thực hiện quyền gì đối với tàu đánh cá và máy bay dân
sự nói trên? Cơ sở pháp lý?
a. Đối với tàu đánh cá:
Tàu đánh cá của quốc gia B khi đi qua đang đi qua lãnh hải của quốc gia cho 1 máy bay
dân sự (đang đậu trên tàu) cất cánh thì tàu đánh cá này đã vi phạm quy định về quyền đi
qua không gây hại tại Điều 17 Công ước về Luật Biển 1982. Cụ thể, việc tàu đánh cá đi
qua lãnh hải và cho máy bay đang đậu trên tàu cất cánh được xem là phương hại đến hòa
bình, an ninh, trật tự của quốc gia ven biển, được quy định tại điểm d khoản 2 Điều 19
của Công ước về Luật Biển 1982. Theo đó: “Việc đi qua của một tàu thuyền nước ngoài
bị coi như phương hại đến hòa bình, trật tự hay an ninh của quốc gia ven biển, nếu như ở
trong lãnh hải, tàu thuyền này tiến hành một trong bất kỳ hoạt động nào sau đây:

d) Phóng đi, tiếp nhận hay xếp lên tàu các phương tiện bay;
…”.
Như vậy, khi tàu này có vi phạm, quốc gia ven biển được phép thực hiện các biện pháp
nhằm ngăn cản việc đi qua có hại theo quy định tại Điều 25 của Công ước về Luật Biển
1982 và có quyền tài phán về mặt hình sự đối với tàu đánh cá nước B, theo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 27 của Công ước về Luật Biển 1982.
Điều 25. Quyền bảo vệ các quốc gia ven biển
1. Quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để
ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại.
2. Đối với tàu thuyền đi vào vùng nội thủy hay vào một công trình cảng ở bên ngoài vùng
nội thủy đó, quốc gia ven biển cũng có quyền thi hành những biện pháp cần thiết để ngăn
ngừa mọi sự vi phạm đối với các điều kiện mà tàu thuyền này buộc phải tuân theo để
được phép vào vùng nội thủy hay công trình cảng nói trên.
3. Quốc gia ven biển có thể tạm thời đình chỉ việc thực hiện quyền đi qua không gây hại
của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện
pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh của mình, kể cả để thử vũ khí, nhưng không
được phân biệt đối xử về mặt pháp lý hay về mặt thực tế giữa các tàu thuyền nước ngoài.
Việc đình chỉ này chỉ có hiệu lực sau khi đã được công bố theo đúng thủ tục.
Điều 27. Quyền tài phán hình sự ở trên một tàu nước ngoài
1. Quốc gia ven biển không được thực hiện quyền tài phán hình sự của mình ở trên một
tàu nước ngoài đi qua lãnh hải để tiến hành việc bắt giữ hay tiến hành việc dự thẩm sau
một vụ vi phạm hình sự xảy ra trên con tàu trong khi nó đi qua lãnh hải, trừ các trường
hợp sau đây:
a) Nếu hậu quả của vụ vi phạm đó mở rộng đến quốc gia ven biển;
b) Nếu vụ vi phạm có tính chất phá hoại hòa bình của đất nước hay trật tự trong lãnh hải;
c) Nếu thuyền trưởng hay một viên chức ngoại giao hoặc một viên chức lãnh sự của quốc
gia mà tàu mang cờ yêu cầu sự giúp đỡ của các nhà đương cục địa phương hoặc
d) Nếu các biện pháp này là cần thiết để trấn áp việc buôn lậu chất ma túy hay các chất
kích thích.
2. Khoản 1 không đụng chạm gì đến quyền của quốc gia ven biển áp dụng mọi luật pháp
mà luật trong nước mình quy định nhằm tiến hành các việc bắt giữ hay tiến hành việc dự
thẩm ở trên con tàu nước ngoài đi qua lãnh hải, sau khi rời khỏi nội thủy.
3. Trong những trường hợp nêu ở các khoản 1 và 2, nếu thuyền trưởng yêu cầu, quốc gia
ven biển phải thông báo trước về mọi biện pháp cho một viên chức ngoại giao hay cho
một viên chức lãnh sự của quốc gia mà tàu mang cờ và phải tạo điều kiện dễ dàng cho
viên chức ngoại giao hay viên chức lãnh sự đó tiếp xúc với đoàn thủy thủ của con tàu.
Tuy nhiên trong trường hợp khẩn cấp, việc thông báo này có thể tiến hành trong khi các
biện pháp đang được thi hành.
4. Khi xem xét có nên bắt giữ và các thể thức của việc bắt giữ, nhà đương cục địa phương
cần phải chú ý thích đáng đến các lợi ích về hàng hải.
5. Trừ trường hợp áp dụng phần XII hay trong trường hợp có sự vi phạm các luật và quy
định được định ra theo đúng phần V, quốc gia ven biển không được thực hiện một biện
pháp nào ở trên một con tàu nước ngoài khi nó đi qua lãnh hải nhằm tiến hành bắt giữ
hay tiến hành việc dự thẩm sau một vụ vi phạm hình sự xảy ra trước khi con tàu đi vào
lãnh hải mà không đi vào nội thủy.
b. Đối với máy bay dân sự:
Lãnh hải bảo gồm lớp nước biển, đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời bao trùm
trên lãnh hải. Trong đó, đối với đáy biển, lòng đất dưới đáy biển và vùng trời bao trùm
lên lãnh hải, quốc gia ven biển có chủ quyền tuyệt đối. Vùng trời bao trùm trên lãnh hải
là một bộ phận cấu thành vùng trời quốc gia, do đó, quốc gia có chủ quyền tối cao và trọn
vẹn trong việc thiết lập và thực hiện các quyền năng về chiếm hữu, sử dụng và định đoạt
các vấn đề pháp lý liên quan. Cụ thể, các quốc gia có quyền quyết định chế độ pháp lý
của vùng trời nước mình một cách độc lập cũng như quy định trình tự, thủ tục và các điều
kiện mà phương tiện bay nước ngoài sử dụng vùng trời quốc gia phải đáp ứng, quốc gia
sẽ không cho phép bất kì một loại phương tiện giao thông nào của nước ngoài qua lại
không gây hại trên lãnh thổ của mình. Mọi hành vi qua lại của người, phương tiện giao
thông nước ngoài đều xin phép, hoặc áp dụng theo những quy định của các điều ước quốc
tế đã được các quốc gia hữu quan ký kết. Mọi hành vi tự ý bay vào không được sự cho
phép của quốc gia sở tại đều là hành vi xâm phạm vào lãnh thổ quốc gia. Như vậy, hành
vi vi phạm của máy bay dân sự sẽ không được điều chỉnh, xử lý bằng Công ước về Luật
biển 1982 mà bằng luật của quốc gia A.

3. Tàu chở hàng của quốc gia B khi trong đi qua vùng tiếp giáp của quốc gia A đã
thực hiện các hành vi sau:

a) Cho 1 máy bay dân sự chở 1 kiện hàng cất cánh;

b) Cho dỡ 1 container hàng (chứa xe hơi) chuyển xuống tàu hàng của quốc gia A.

Bằng kiến thức về Luật biển quốc tế đã được học, anh/chị hãy cho biết: quốc gia A
có quyền gì đối với hai chiếc tàu và máy bay nói trên? Cơ sở pháp lý?
● Đối với tàu chở hàng của quốc gia B:
Vì đề bài không cho rõ dữ liệu nên nhóm chia ra các trường hợp sau:
- Nếu tàu này không có sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan,
thuế khóa, y tế hay nhập cư trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của mình thì quốc gia A
không có quyền gì cả.
- Nếu có sự vi phạm các luật hay quy định của quốc gia đó về hải quan, thuế khóa, y tế
hay nhập cư thì tùy vào hướng đi của con tàu này mà sẽ giải quyết như sau:
- Tàu này đang đi theo hướng vào vùng lãnh hải thì quốc gia A được quyền tiến
hành các biện pháp kiểm soát cần thiết, nhằm ngăn chặn sự vi phạm.
- Tàu này đang từ vùng tiếp giáp đi ra vùng biển quốc tế và sự vi phạm này không
xảy ra trong phạm vi lãnh thổ hay lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A không được
quyền làm gì cả.
- Tàu này đi ra vùng biển quốc tế nhưng sự vi phạm này xảy ra trong phạm vi lãnh
thổ hay lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A được quyền trừng trị sự vi phạm đó đối
với chiếc tàu này.
Cơ sở pháp lý: khoản 1 Điều 33 Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982.
● Đối với tàu hàng của quốc gia A:
Quốc gia A sẽ có đầy đủ các quyền tài phán theo quy định và pháp luật của quốc gia A.
Bởi lẽ, đây là tàu hàng của quốc gia A nên phải hoạt động và chịu sự điều chỉnh của pháp
luật do quốc gia A ban hành. Trong trường hợp việc bốc dỡ container hàng chứa xe hơi
này vi phạm các quy định về thuế hay hải quan thì quốc gia A có toàn quyền thực hiện
các quyền tài phán của quốc gia mình đối với con tàu hàng này.
Đối với chiếc máy bay dân sự cất cánh từ vùng tiếp giáp lãnh hải:
Theo nhóm cần chia ra hai trường hợp, nếu chiếc tàu dân sự này cất cánh bay về phía
lãnh hải của quốc gia A thì quốc gia A có quyền ngăn chặn không cho phép máy bay trên
bay vào bởi lẽ máy bay là phương tiện bay và không được hưởng quyền đi qua không gây
hại dành cho tàu biển theo quy định tại Điều 17 Công ước về luật biển 1982 của Liên
Hợp quốc. Còn trong trường hợp máy bay này bay ra phía biển quốc tế, thì quốc gia A
không có quyền gì đối với máy bay dân sự này.

4. Trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A, tàu của quốc gia B thực hiện: a)
đánh bắt hải sản;

b) cho máy bay hạ cánh xuống tàu.

Bằng kiến thức về Luật biển quốc tế đã được học, anh/chị hãy cho biết: quốc gia A
có quyền gì đối với tàu và máy bay nói trên? Cơ sở pháp lý?
1. Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền kinh tế:
Vùng đặc quyền kinh tế là vùng biển nằm ở phía ngoài lãnh hải và tiếp liền với lãnh hải
rộng không quá 200 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải, và
được đặt dưới chế độ pháp lý riêng theo đó các quyền chủ quyền và quyền tài phán của
quốc gia ven biển cũng như các quyền và các quyền tự do của quốc gia khác đều do các
quy định thích hợp của Công ước điều chỉnh.
Cơ sở pháp lý: Điều 55 Công ước LHQ về Luật biển 1982.
Vùng đặc quyền về kinh tế không phải là biển cả mà là một vùng đặc thù sui generic,
trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm mục đích
kinh tế được Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển năm 1982 quy định. Để xác lập
vùng đặc quyền về kinh tế, quốc gia ven biển cần đưa ra tuyên bố về vùng đặc quyền về
kinh tế để xác lập quyền của mình.
Các quyền, quyền tài phán và nghĩa vụ của các quốc gia ven biển trong vùng đặc quyền
kinh tế:
Theo Điều 56 Công ước của Liên hợp quốc về luật biển 1982, trong vùng đặc quyền về
kinh tế, quốc gia ven biển có:
a) Các quyền thuộc chủ quyền về thăm dò và khai thác, bảo tồn và quản lý các tài nguyên
thiên nhiên, sinh vật hoặc không sinh vật, của vùng nước bên trên đáy biển và lòng đất
dưới đáy biển, cũng như về những hoạt động khác nhằm thăm dò và khai thác vùng này
vì mục đích kinh tế, như việc sản xuất năng lượng từ nước, hải lưu và gió.
b) Quyền tài phán theo đúng những quy định thích hợp của Công ước về việc:
i. Lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình;
ii. Nghiên cứu khoa học về biển;
iii. Bảo vệ và gìn giữ môi trường biển;
c) Các quyền và nghĩa vụ khác do Công ước quy định.
Đồng thời, trong vùng đặc quyền kinh tế, các quốc gia khác đều được hưởng quyền tự do
hàng hải, hàng không, quyền tự do đặt dây cáp và ống dẫn ngầm cũng như quyền tự do sử
dụng biển vào các mục đích khác hợp pháp về mặt quốc tế và gắn liền với việc thực hiện
các quyền tự do này và phù hợp với các quy định khác của Công ước (Điều 58 Công ước
Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982).

2. Giải quyết tình huống pháp lý:


a) Tàu của nước B thực hiện việc đánh bắt hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế của
nước A.
Trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A, tàu của quốc gia B thực hiện đánh bắt hải
sản. Vậy quốc gia A có quyền gì đối với tàu của quốc gia B hay không? Để giải quyết
tình huống này nhóm xin đặt ra 3 trường hợp sau:
Thứ nhất, trong trường hợp quốc gia A cho phép tàu của quốc gia B được khai thác đánh
bắt số lượng cá dư thông qua các điều ước hoặc các thỏa thuận khác tại Điều 62 của Công
ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 và đồng thời tàu của quốc gia B cũng đã tuân thủ
các biện pháp bảo tồn và các thể thức, các điều kiện khác được đề ra trong các luật và
quy định của quốc gia A thì việc tàu quốc gia B thực hiện đánh bắt hải sản trong vùng
đặc quyền kinh tế của quốc gia A là hợp pháp. Quốc gia A có các quyền đối với tàu đánh
bắt hải sản của quốc gia B về các vấn đề được quy định tại Khoản 4 Điều 62 Công ước
LHQ về Luật biển 1982.
Ví dụ: Vào năm 2000 giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ nước
CHDCND Trung Hoa đã ký với nhau “Hiệp định hợp tác nghề cá Vịnh Bắc Bộ”. Qua sáu
vòng đàm phán cấp chuyên viên về nghề cá, qua thương lượng, hai bên đã nhất trí hợp
tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ bằng việc thiết lập một Vùng đánh cá chung. Phạm vi
Vùng đánh cá chung trong vịnh Bắc Bộ từ vĩ tuyến 20° Bắc xuống đường đóng cửa Vịnh,
bề rộng là 30,5 hải lý kể từ đường phân định về mỗi phía; có tổng diện tích là 33.500
km², khoảng 27,9% diện tích Vịnh. Thời hạn của Vùng đánh cá chung là 15 năm (12 năm
chính thức và ba năm gia hạn).
Thứ hai, đối với trường hợp cả hai nước đều không thỏa thuận hay ký kết các điều ước
cho phép khai thác đánh bắt số lượng cá dư ở quốc gia A, thì lúc này việc đánh bắt cá của
tàu quốc gia B là trái phép, không hợp pháp, đã xâm phạm đến lợi ích về quản lý khai
thác tài nguyên sinh vật của quốc gia A. Do đó, quốc gia A sẽ có các quyền tài phán xử lý
hành vi vi phạm theo quy định tại Điều 73 Công ước Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982.
Quốc gia A có quyền thi hành mọi biện pháp cần thiết, kể cả việc khám xét, kiểm tra, bắt
giữ và khởi tố tư pháp để bảo đảm việc tôn trọng các quy định mà họ đã ban hành theo
đúng Công ước. Tuy nhiên, cần lưu ý:
- Khi có sự bảo lãnh hay một bảo đảm đầy đủ khác thì cần thả ngay chiếc tàu bị bắt và
trả tự do ngay cho đoàn thủy thủ của chiếc tàu này.
- Không được áp dụng các hình phạt giam giữ cũng như các hình phạt thân thể khác
nếu không có thỏa thuận khác.
- Phải thông báo ngay cho quốc gia B biết các biện pháp cũng như các chế tài áp dụng
đối với hành vi đánh bắt cá trái phép đối với tàu của quốc gia B.
Ví dụ: Giới chức Philippines ngày 17/5/2016 xác nhận vụ bắt giữ hai tàu cá Trung Quốc
cùng 25 ngư dân, khi các tàu giả treo cờ Philippines và đánh bắt trộm trong vùng biển
nước này.
Cảnh sát biển Philippines phối hợp với Cục Nghề cá và Nguồn lợi thủy sản (BFAR) bắt
giữ 2 tàu cá Trung Quốc ở giữa khu vực vùng biển ngoài khơi đảo Babuyan và tỉnh
Batanes, phía Bắc Philippines.
Vị trí hai tàu bị bắt gặp có hoạt động đánh bắt trái phép nằm trong vùng đặc quyền kinh
tế (EEZ) của Philippines, không phải trong vùng biển tranh chấp ở Biển Đông.
Thứ ba, dựa vào vùng có tính chất lịch sử (ngư trường đánh bắt truyền thống). Nếu tàu
của quốc gia B đánh bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A nhưng đây lại là
vùng có tính chất lịch sử của quốc gia B và quốc gia B đã có căn cứ chứng minh về vùng
nước này thì việc đánh bắt cá của tàu trong trường hợp này là hợp pháp. Bởi lẽ đây là
vùng mà ngư dân quốc gia B đã khai thác, sử dụng lâu đời được cộng đồng quốc tế thừa
nhận và đồng thời đây là vùng nước mang lại nguồn cung cấp kinh tế rất lớn, chủ yếu cho
quốc gia B nên tàu của quốc gia B có quyền đánh bắt cá trên vùng có tính chất lịch sử của
quốc gia mình hay còn gọi là ngư trường đánh bắt truyền thống.
Ví dụ: Indonesia vốn không phải một bên trong cuộc tranh chấp trên biển Đông, nhưng
nước này đã bị kéo vào cuộc, sau khi Bắc Kinh tuyên bố vùng đặc quyền kinh tế gần
quần đảo Natuna của Indonesia là một phần trong “ngư trường đánh cá truyền thống” của
Trung Quốc và tàu cá Trung Quốc được tự do đánh bắt trong khu vực này.
Tất nhiên, Indonesia không xem vùng đặc quyền kinh tế của mình là “ngư trường truyền
thống” của Trung Quốc, luận điệu mà Bắc Kinh thường xuyên lặp lại. Thay vào đó,
Jakarta coi hoạt động đánh cá của các nước khác ở khu vực này là trộm cắp.
Bộ trưởng Các vấn đề hàng hải và ngư nghiệp Indonesia đã phát biểu: “Chúng tôi không
biết về điều này (như Trung Quốc tuyên bố), chúng tôi không công nhận bất kỳ tuyên bố
chủ quyền của bên nào về ngư trường bên trong vùng đặc quyền kinh tế của Indonesia;
ngoại trừ một vùng mà chúng tôi đã ký thỏa thuận với Malaysia ở Eo Malacca”.
b) Quốc gia B cho máy bay hạ cánh xuống tàu.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 58 Công ước Liên hợp quốc về Luật biển (CƯLB 1982),
trong vùng đặc quyền kinh tế, tất cả các quốc gia, dù là quốc gia đó có biển hay không
có biển thuộc trong những điều kiện, những quy định thích hợp của Công ước đã trù định,
được hưởng các quyền tự do hàng hải và hàng không,… nêu ở Điều 87 của Công ước
này.
Đối với hành động cho máy bay hạ cánh xuống tàu của quốc gia B đang ở trong vùng đặc
quyền kinh tế của quốc gia A thì theo quy định của CƯLB 1982 đã trình bày ở trên, có
thể thấy tàu thuyền, máy bay của quốc gia B có quyền được tự do hàng hải và tự do hàng
không trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Tuy nhiên, với dữ kiện đề đưa ra ta
có thể chia thành 2 trường hợp và tùy từng trường hợp cụ thể mà quốc gia A có quyền đối
với tàu và máy bay của quốc gia B khác nhau:
Thứ nhất, theo quy định của khoản 2 Điều 58 CƯLB 1982 nếu quốc gia B thực hiện
quyền tự do hàng hải, hàng không, quyền tự do sử dụng biển thông qua hành động cho hạ
cánh máy bay xuống tàu nhằm những mục đích khác nhau nhưng đảm bảo tính hợp pháp
về mặt quốc tế gắn liền với việc thực hiện các quyền tự do hàng hải, hàng không của
mình trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Mục đích cho hạ cánh máy bay phải
nhằm thực hiện hoạt động thích hợp với các quy tắc, pháp luật quốc tế quy định được áp
dụng ở vùng đặc quyền kinh tế, thực hiện hoạt động tự do nhưng trong chừng mực,
khuôn khổ cho phép và không mâu thuẫn với phần V của Công ước, phù hợp với các quy
định khác của CƯLB 1982, thì máy bay của quốc gia B có quyền tự do hạ cánh xuống tàu
của quốc gia mình khi ở trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A. Do đó, trong
trường hợp này quốc gia A không có quyền đối với hoạt động của tàu và máy bay nói
trên.
Thứ hai, tàu thuyền, máy bay của quốc gia B có quyền tự do hàng hải và tự do hàng
không trong vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia A nhưng tàu thuyền, máy bay của họ
thực hiện các hoạt động gắn liền với các quyền này bằng việc cho máy bay hạ cánh
xuống tàu nhằm mục đích thực hiện những hoạt động nằm ngoài khuôn khổ được khai
thác theo quy định, không phù hợp, vượt quá giới hạn hay mâu thuẫn với phần V cũng
như các quy định khác của CƯLB 1982 hoặc vi phạm các quy định pháp luật của quốc
gia A đã ban hành theo đúng các quy định của Công ước và không mâu thuẫn với các quy
tắc khác của pháp luật quốc tế thì theo khoản 3 Điều 53 CƯLB 1982, quốc gia A có
quyền áp dụng pháp luật quốc gia của mình đã ban hành cụ thể, điều chỉnh các hoạt động
mà tàu, máy bay nói trên vi phạm (nếu có). Ngoài ra, quốc gia A còn có quyền dùng các
quy tắc khác của pháp luật quốc tế để xử lý đối với hành vi vi phạm của tàu và máy bay
của quốc gia B đã thực hiện.
Ví dụ: Malaysia bị sốc trước hai đợt tập trận trong vòng chưa đầy một năm của hải quân
Trung Quốc gần bãi cạn James nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Bắc Kinh
xem bãi cạn James là phần lãnh thổ cực Nam của nước này. Tháng 3/2013, Malaysia từng
phản đối 4 tàu Trung Quốc xâm nhập James. Các thủy thủ Trung Quốc đã bắn chỉ thiên
khi ghé vào bãi cạn này. Sau đó, tháng 4/2013, 1 tàu hải giám Trung Quốc quay lại bãi
cạn James và đặt ở đó những cột bằng thép đánh dấu chủ quyền. Quan chức ngoại giao
của Malaysia cho biết, vụ việc hải quân Trung Quốc tập trận gần bãi cạn James khiến
Malaysia quyết định thúc đẩy hợp tác với các quốc gia khác trong ASEAN, nhằm khiến
Trung Quốc phải tuân thủ quy tắc ứng xử trên biển Đông. Những tuyên bố chủ quyền của
Trung Quốc trên biển Đông cũng có thể đẩy Malaysia xích lại gần Mỹ hơn. Trước đó,
Malaysia thường hạ nhiệt các lo ngại về an ninh nhằm theo đuổi quan hệ kinh tế thân
thiết hơn với đối tác thương mại lớn, nhất là Trung Quốc.

5. Quốc gia A tiến hành khai thác dầu khí trong khu vực cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng lãnh hải 280 hải lý. Bằng kiến thức về Luật biển quốc tế đã được
học, anh/chị hãy cho biết:
a. Quốc gia A có quyền nêu trên không? Điều kiện? Cơ sở pháp lý?
Giả sử quốc gia A có biển sâu. Vì vậy, quốc gia A chỉ áp dụng đường cơ sở để xác định
chiều rộng của thềm lục địa trong trường hợp bờ ngoài của rìa lục địa vượt quá 200 hải lý
tính từ đường cơ sở (không áp dụng đường đẳng sâu 2.500m để xác định chiều rộng của
thềm lục địa).
Quốc gia A sẽ có quyền khai thác dầu khí trong khu vực cách đường cơ sở dùng để
tính chiều rộng của lãnh hải 280 hải lý trong hai (02) trường hợp sau:
(1) Trường hợp 1: Bờ ngoài của rìa lục địa quốc gia A nhỏ hơn 280 hải lý kể từ
đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
- Trong trường hợp này, khu vực cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh
hải 280 hải lý này sẽ nằm bên ngoài thềm lục địa của quốc gia A và thuộc phần Biển
quốc tế và Vùng (Đáy đại dương). Theo khoản 1 Điều 1 Công ước của Liên Hiệp Quốc
về Luật biển 1982 thì “vùng (zone) là toàn bộ đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm
bên ngoài giới hạn quyền tài phán của quốc gia”. Như vậy, việc quốc gia A tiến hành việc
khai thác dầu khí tại khu vực 280 hải lý tức là quốc gia A đang tiến hành khai thác dầu
khí tại phần Vùng (Đáy đại dương). Mà căn cứ theo quy định tại Điều 136 và khoản 1
Điều 137 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982 thì vùng (đáy đại dương) và
tài nguyên của nó là di sản chung của nhân loại và không một quốc gia nào có quyền đòi
hỏi chủ quyền hay các quyền chủ quyền ở đáy biển quốc tế, kể cả tài nguyên ở đó.
Vậy nên quốc gia A không có quyền khai thác dầu khí tại khu vực này như một quyền
thuộc quyền chủ quyền của mình.
Tuy nhiên, quốc gia A vẫn có thể tiến hành khai thác dầu khí tại khu vực này nhưng
không được thực hiện một cách tự do mà phải được tổ chức một cách có hiệu quả; phải
tuân theo pháp luật, tập quán quốc tế và phải đặt dưới sự điều hành, kiểm soát của Cơ
quan quyền lực quốc tế về đáy biển (khoản 2 Điều 1 Công ước của Liên Hợp Quốc về
Luật biển 1982). Đây là một tổ chức quốc tế liên chính phủ, được thành lập theo phần XI
của Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982, nhằm mục đích bảo đảm việc phân
chia công bằng, trên cơ sở không phân biệt đối xử những lợi ích tài chính và những lợi
ích kinh tế khác do những hoạt động tiến hành trong Vùng thông qua bộ máy của mình.
Cơ quan quyền lực quốc tế về đáy biển có quyền tự quyết định khai thác hoặc cho các
nước khai thác theo điều kiện do cơ quan đó quyết định.
- Nghĩa vụ của quốc gia A trong trường hợp này:

- Trước hết, vùng phải được sử dụng nhằm mục đích hoà bình và an ninh quốc tế, vì
lợi ích thúc đẩy sự hợp tác quốc tế.
- Bên cạnh đó, hoạt động khai thác dầu khí của quốc gia A ở vùng phải được tiến
hành vì mục đích:
+ Phục vụ toàn thể loài người (Điều 140 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển
1982);
+ Mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia trên thế giới, không phân biệt vị trí địa lý, nước
có biển hay không có biển (Điều 141 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982);
+ Đặc biệt chú ý đến nhu cầu của các nước đang phát triển (Điều 148 Công ước của Liên
Hợp Quốc về Luật biển 1982).
- Quốc gia A phải tôn trọng đầy đủ các quyền lợi chính đáng của quốc gia ven biển
(Điều 142 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982).
- Các hiện vật có tính chất cổ và lịch sử tìm thấy trong vùng sẽ được bảo tồn và định
đoạt vì lợi ích của toàn thể loài người (Điều 149 Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật
biển 1982).
- Quốc gia A phải tuân thủ các quy định tại Mục 3, Phần IX Công ước của Liên Hợp
Quốc về Luật biển 1982 về khai thác các tài nguyên của vùng
(2) Trường hợp 2: Bờ ngoài của rìa lục địa quốc gia A lớn hơn hoặc bằng 280
hải lý kể từ đường cở sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải.
- Trong trường hợp này, vùng thềm lục địa pháp lý của quốc gia A có thể sẽ nằm trong
phạm vi 280 hải lý đến tối đa 350 hải lý kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh
hải (Điều 76 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982). Như vậy, việc quốc gia
A tiến hành khai thác dầu khí trong khu vực cách đường cơ sở dùng để tính chiều rộng
của lãnh hải 280 hải lý này được thực hiện trong khu vực thềm lục địa của quốc gia A.
Do đó, quốc gia A có quyền khai thác dầu khí trong khu vực này bởi vì quốc gia ven
biển được thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa của mình về mặt thăm dò
và khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, tài nguyên không sinh vật như dầu khí,
các tài nguyên sinh vật như cá, tôm…) của mình. Vì đây là đặc quyền của quốc gia A nên
không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có sự thỏa thuận với quốc
gia A. Nghĩa là chỉ quốc gia A mới có quyền cho phép và quy định việc khoan ở thềm lục
địa bất kỳ vào mục đích gì. Tuy nhiên, quốc gia A khi thực hiện quyền đối với thềm lục
địa của mình không được đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước phía trên, không
được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia khác.
- Cơ sở pháp lý: Điều 77 Công ước của Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982.
b. Nghĩa vụ của quốc gia A trong trường hợp này?
Nghĩa vụ của quốc gia A trong trường hợp này:
- Thông báo những thông tin về ranh giới các thềm lục địa của mình khi thềm lục
địa mở rộng quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải cho Ủy
ban ranh giới thềm lục địa (Khoản 8 Điều 76 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển
1982);
- Gửi cho Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc các tài liệu cần thiết để chỉ rõ một cách
thường xuyên thềm lục địa của mình (Khoản 9 Điều 76 Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật biển 1982);
- Không cản trở chế độ pháp lý của vùng nước phía trên và vùng trời phía trong
vùng nước đó (Điều 78 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);
- Không cản trở quốc gia khác đặt dây cáp ngầm và ống dẫn ngầm trên thềm lục địa
(Điều 79 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982);
- Do quốc gia A tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở
nên A phải nộp một khoản đóng góp bằng tiền hay hiện vật về việc khai thác tài nguyên
thiên nhiên không sinh vật (Điều 82 Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật biển 1982).

6. Tàu quân sự của quốc gia B đi qua lãnh hải (không vào nội thủy) của quốc gia A.
Bằng kiến thức về Luật biển quốc tế đã được học, anh/chị hãy cho biết:
Tàu quân sự của quốc gia B đi qua lãnh hải (không vào nội thủy) của quốc gia A. Việc
chỉ trình bày việc đi qua (passage) theo điểm a khoản 1 Điều 18 UNCLOS 1982, chưa thể
xác định được cơ chế pháp lý được áp dụng với tàu quân sự của quốc gia B này khi xâm
nhập lãnh hải của quốc gia ven biển, do đó để giải quyết cần thiết việc chia trường hợp là
đi qua không gây hại hay đi qua gây qua gây hại.
a. Tàu quân sự của quốc gia B có cần phải xin phép quốc gia A? Cơ sở pháp lý?
Trường hợp 1: đi qua không gây hại.
A. Tàu quân sự của nước a được phép đi qua lãnh hải mà không cần xin phép vì đây là
quyền được đi qua không gây hại mà bất kỳ tàu biển nào cũng được hưởng theo Điều 17
UNCLOS 1982, quốc gia ven biển có trách nhiệm tạo điều kiện cho tàu biển được thực
hiện quyền này theo khoản 1 Điều 24 Công ước này. Tuy nhiên, Tàu quân sự nước B
phải thông báo cho A và phải tuân thủ các luật và quy định của Luật biển.
Trường hợp hai: đi qua gây hại. Đây là trường hợp tàu quân sự quốc gia B mặc dù
đi qua lãnh hải không vào nội thủy, đi liên tục hành chóng nhưng có một hoặc một số
hoạt động quy định tại khoản 2 điều 19 UNCLOS.
Tàu quân sự này bắt buộc phải xin phép quốc gia ven biển, trừ trường hợp quốc
gia có tàu quân sự và quốc gia ven biển có thỏa thuận khác, bởi đây là lãnh thổ của quốc
gia ven biển, quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ. Tàu quân sự có những
hoạt động gây hại không được hưởng các quyền được quy định tại Điều 17. Phải xin phép
và tuân thủ các quy định pháp luật của quốc gia ven biển, chịu một số hạn chế nhất định.
Mặc khác theo quy định tại khoản 1 Điều 25 UNCLOS “quốc gia ven biển có thể thi hành
các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của mình để ngăn chặn mọi việc đi qua có hại”. Đối
với các trường hợp đi qua gây hại, thì thường các quốc gia ven biển sẽ không cho phép
hành vi này diễn ra trên lãnh hải quốc gia mình.
b. Tàu quân sự của quốc gia B có cần phải thông báo trước cho quốc gia A? Cơ sở
pháp lý?
Trường hợp 1: đi qua không gây hại.
Việc tàu quân sự của quốc gia B đi qua lãnh hải của quốc gia A cần phải thông báo trước
cho quốc gia A và phải tuân theo nguyên tắc đi qua không gây hại trong lãnh hải theo tiểu
mục A, Mục 3 Công ước Viên Luật biển 1982.
Tuy không có quy định cụ thể nào trong Công ước viên của Liên Hợp Quốc về Luật biển
1982 quy định về việc tàu quân sự nước ngoài phải thông báo trước cho quốc gia ven
biển được biết về việc tàu quân sự nước ngoài đi vào lãnh hải của quốc gia mình. Nhưng
xét thấy các quy định trong Công ước đã gợi mở cho các quốc gia ven biển có quyền thiết
lập các biện pháp cần thiết nhằm ngăn cản mọi việc đi qua có gây hại, được biểu đạt qua
các lập luận sau:
(i) Theo Điều 19 (Nghĩa của thuật ngữ đi qua không gây hại) và Điều 25 (Quyền bảo vệ
của quốc gia ven biển), Quốc gia ven biển có quyền thi hành các biện pháp cần thiết để
bảo vệ lợi ích an ninh quốc gia, điều này sẽ bao gồm cả việc yêu cầu tàu quân sự nước
ngoài phải tiến hành thông báo trước khi vào lãnh hải của quốc gia đó. Khoản 1 Điều 25
quy định rằng quốc gia ven biển có thể thi hành các biện pháp cần thiết trong lãnh hải của
mình để ngăn cản mọi việc đi qua gây hại. Khoản 3 Điều 25 cho phép quốc gia ven biển
đình chỉ thực hiện việc đi qua không gây hại của tàu thuyền nước ngoài tại các khu vực
nhất định trong lãnh hải của mình, nếu biện pháp này là cần thiết để bảo đảm an ninh.
(ii) Các quy định tại Điều 30 Công ước Luật biển 1982 liên quan đến việc tàu chiến
không tuân thủ các luật và quy định của quốc gia ven biển khi đi qua lãnh hải, cho phép
quốc gia ven biển được xây dựng các luật lệ về lãnh hải. Do đó, các quốc gia này có thể
đưa ra những quy định bắt buộc tàu quân sự phải xin phép hoặc thông báo trước khi vào
lãnh hải trong luật lệ của mình.
(iii) Hơn nữa, Lãnh hải luôn là một phần lãnh thổ của quốc gia ven biển và thuộc chủ
quyền của quốc gia. Vì vậy, theo nguyên tắc bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ chủ
quyền, an ninh quốc gia, quốc gia ven biển được phép áp dụng các quy định trên.
Trường hợp hai: đi qua gây hại.
Trong Công ước không có quy định cụ thể về việc thông báo, tuy nhiên có thể căn cứ
theo điều 25, quốc gia ven biển có thể yêu cầu tàu quân sự đi qua gây hại có thể thông
báo hoặc không thông báo, tuy nhiên trước đó vẫn phải thực hiện nghĩa vụ xin phép, trừ
trường hợp hai quốc gia có thỏa thuận khác.
c. Nếu quốc gia A là Việt Nam, Luật Biển Việt Nam 2012 quy định về vấn đề này
như thế nào? Cơ sở pháp lý? Đánh giá và nhận xét dưới góc độ Luật quốc tế?
Trường hợp 1: đi qua không gây hại.
C. Dựa vào khoản 2 Điều 12 Luật Biển Việt Nam 2012 quy định: “Đối với tàu quân sự
nước ngoài khi thực hiện quyền đi qua không gây hại trong lãnh hải Việt Nam, thông báo
trước cho cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam”. Chính vì thế khi tàu quân sự nước B đi
qua lãnh hải của Việt Nam phải có nghĩa vụ thông báo cho cơ quan quản lý nhà nước có
thẩm quyền của Việt Nam.
Nhìn nhận quy định phải thông báo đối với hành vi đi qua không gây hại của tàu quân sự
dưới lăng kính của luật quốc tế, thì nhiều người có thể đánh giá rằng quy định này vi
phạm nguyên tắc tận tâm thực hiện các điều ước quốc tế đã ký kết, bởi theo quy định tại
Điều 17 đây là quyền của tất cả các tàu thuyền, hơn nữa không có một quy chế cụ thể nào
trong Công ước ràng buộc để quốc gia ven biển có thể hạn chế quyền đi qua không gây
hại như yêu cầu phải xin phép, thông báo. Tuy nhiên nhóm cho rằng đánh giá như trên là
không thuyết phục, và quy định của Điều 12 Luật biển Việt Nam hợp lý, tuân thủ Công
ước:
Một, lãnh hải là một phần lãnh thổ của quốc gia ven biển và thuộc chủ quyền của quốc
gia. Vì vậy, theo nguyên tắc bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ chủ quyền, an ninh
quốc gia, quốc gia ven biển được phép áp dụng.
Hai là, tại khoản 1 Điều 19 Công ước quy định “không làm phương hại đến hòa bình trật
tự và an ninh của quốc gia viên biển”. Việc tàu quân sự đi qua lãnh thổ một quốc gia dù ít
hay nhiều cũng hàm chứa những rủi ro nhất định, nên việc yêu cầu thông báo, như là một
sự chuẩn bị sự phòng vệ của quốc gia quen biển,
Ba là, pháp luật Việt Nam chỉ quy định là phải “thông báo”, việc thông báo này không
hạn chế quyền đi qua không gây hại, mà nó gần giống như một thủ tục báo trước đối với
Việt Nam.
Bốn, các quy định tại Điều 30 Công ước Luật biển 1982 liên quan đến việc tàu chiến
không tuân thủ các luật và quy định của quốc gia ven biển khi đi qua lãnh hải, cho phép
quốc gia ven biển được xây dựng các luật lệ về lãnh hải. Do đó, các quốc gia này có thể
đưa ra những quy định bắt buộc tàu quân sự phải xin phép hoặc thông báo trước khi vào
lãnh hải trong luật lệ của mình.
Cuối cùng, quy định này không chỉ được Việt Nam áp dụng, mà nó còn được cái nước áp
dụng một cách rộng rãi, và dần trở thành một “nguyên tắc” trong quy chế đi qua không
gây hại của tàu quân sự trong lãnh hải quốc gia. Điển hình như đối với một số các quốc
gia như Croatia, Egypt, Finland, Guyana, India, South Korea, Libya, Malta, Mauritius, và
Serbia phải tiến hành thủ tục thông báo trước.
Trường hợp hai: đi qua gây hại.
Trước hết là pháp luật Việt Nam không có quy định trực tiếp về giải quyết việc đi qua
gây hại. Tuy nhiên, căn cứ vào Luật biển Việt Nam quy “Nhà nước thực hiện chủ quyền
đầy đủ và toàn vẹn đối với lãnh hải”. Nên đối với tàu quân sự phải được sự cho phép của
Việt Nam mới được đi qua lãnh hải, và có thể áp dụng các quy định về chế độ pháp lý về
biên giới quốc gia trong trường hợp này.
Dưới góc độ luật quốc tế đây là một quy định hợp lý được thừa nhận chung, đảm bảo
được các nguyên tắc cơ bản trong công pháp quốc tế, tuân thủ các quy định trong
UNCLOS 1982.

7. Tàu đánh cá của quốc gia B đánh cá trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam.
Bằng kiến thức về Luật biển quốc tế và Việt Nam đã được học, anh/chị hãy cho biết:
a. Tàu đánh cá của quốc gia B có quyền này không?
Chế độ pháp lý riêng của vùng đặc quyền kinh tế được quy định cụ thể tại phần V của
Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật biển 1982 (UNCLOS), bao gồm các quyền chủ
quyền và quyền tài phán của quốc gia ven biển, các quyền tự do của các quốc gia khác.
Điều 56 UNCLOS quy định quốc gia ven biển (trường hợp này là Việt Nam) có quyền
khai thác các tài nguyên thiên nhiên sinh vật trong vùng đặc quyền kinh tế của mình.
Theo mục 3 Tuyên bố của Chính phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về lãnh
hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam ngày
12/5/1997 (sau đây gọi tắt là Tuyên bố ngày 12/5/1997): “Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có chủ quyền hoàn toàn về việc thăm dò, khai thác, bảo vệ và quản lý tất
cả các tài nguyên thiên nhiên, sinh vật và không sinh vật ở vùng nước, ở đáy biển và
trong lòng đất dưới đáy biển của vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam; có quyền và thẩm
quyền riêng biệt về các hoạt động khác phục vụ cho việc thăm dò và khai thác vùng đặc
quyền kinh tế nhằm mục đích kinh tế;…” và tại điểm a khoản 1 Điều 16 Luật Biển Việt
Nam 2012 nhấn mạnh: “Trong vùng đặc quyền kinh tế, Nhà nước thực hiện: a) Quyền
chủ quyền về việc thăm dò, khai thác, quản lý và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên thuộc
vùng nước bên trên đáy biển, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển;…”. Như vậy, việc đánh
bắt cá trong vùng đặc quyền kinh tế thuộc quyền chủ quyền của quốc gia ven biển (Việt
Nam), mọi hành vi tùy tiện đánh bắt cá của các quốc gia khác trong vùng đặc quyền kinh
tế của Việt Nam là vi phạm Công ước UNCLOS.
Tuy nhiên, tàu đánh cá nước B có thể được quyền khai thác cá trong vùng đặc quyền
kinh tế của Việt Nam nếu:
- B là quốc gia đang phát triển không có biển hoặc bất lợi về mặt địa lý hoặc các quốc gia
đang phát triển khác trong cùng khu vực hoặc phân khu vực với Việt Nam;
- Nước B được Việt Nam cho phép hoạt động khai thác số dư khối lượng cá ở vùng đặc
quyền kinh tế của Việt Nam thông qua việc ký kết các điều ước quốc tế và tàu thuyền
đánh cá nước B được Việt Nam cấp giấy phép đánh bắt;
- Tàu đánh cá nước B thực hiện việc đánh bắt tuân thủ theo pháp luật và các quy định
của Việt Nam đưa ra.
(CSPL: khoản 2,3,4 Điều 62; Điều 69 và Điều 70 UNCLOS).
b. Việt Nam có cho phép các quốc gia khác được khai thác số dư của khối lượng cho
phép đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam không? Cơ sở pháp lý?
Theo quy định tại khoản 2,3 Điều 62 UNCLOS, đối với các tài nguyên sinh vật trong
vùng đặc quyền kinh tế, quốc gia ven biển tự định ra tổng khối lượng có thể đánh bắt
được, tự đánh giá khả năng thực tế của mình trong việc khai thác các tài nguyên sinh vật
biển và ấn định số dư của khối lượng cho phép đánh bắt. Nếu số dư này tồn tại thì quốc
gia ven biển được quyền cho phép các quốc gia khác, thông qua các điều ước hoặc những
thoả thuận liên quan, khai thác số dư của khối lượng cho phép đánh bắt này, có ưu tiên
cho các quốc gia không có biển hoặc các quốc gia bất lợi về mặt địa lý.
Như vậy, Việt Nam được quyền cho phép các quốc gia khác khai thác số dư khối lượng
cho phép đánh bắt trong vùng đặc quyền kinh tế của mình và trên thực tế Việt Nam và
Trung Quốc đã ký kết Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ và hợp tác nghề cá giữa Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ngày 26/12/2000, trong
đó Điều 3.1 quy định hai bên ký kết nhất trí thành lập vùng đánh cá chung trong vùng đặc
quyền kinh tế của mỗi nước và theo tinh thần Điều 6 của Hiệp định này thì sản lượng
được phép đánh bắt trong vùng đánh cá chung là sản lượng tổng được phép đánh bắt của
cả hai nước cho nên nếu như trong trường hợp các tàu đánh cá của Việt Nam khai thác
không hết khối lượng cho phép đánh bắt của mình thì tàu đánh cá của Trung Quốc được
quyền khai thác số dư này nhưng vẫn phải trong phạm vi sản lượng chung được phép
đánh bắt trong vùng đánh cá chung, mà vùng này được thành lập trong vùng đặc quyền
kinh tế của 2 nước Việt Nam và Trung Quốc. Ngoài ra, Việt Nam còn cho Lào là quốc
gia đang phát triển không có biển khai thác số cá dư trong vùng đặc quyền kinh tế của
mình theo thỏa thuận giữa hai bên.
c. Các cơ quan có thẩm quyền nào của Việt Nam được thực hiện quyền truy đuổi?
Kết quả của hành vi truy đuổi là gì?
Theo quy định của UNCLOS tại khoản 5 Điều 111 UNCLOS: “Quyền truy đuổi chỉ có
thể được thực hiện bởi các tàu quân sự hay các phương tiện quân sự hoặc các tàu hay
phương tiện nay khác có mang các dấu hiệu ở bên ngoài chỉ rõ ràng rằng, các tàu hay
phương tiện bay đó được sử dụng cho một cơ quan Nhà nước và được phép làm nhiệm vụ
này”. Dựa trên quy định của UNCLOS về các phương tiện được thực hiện quyền truy
đuổi, pháp luật Việt Nam quy định cụ thể các cơ quan trong nước có thẩm quyền thực
hiện quyền truy đuổi tại khoản 1 Điều 41 Luật Biển Việt Nam 2012, đó là: “Lực lượng
tuần tra, kiểm soát trên biển có quyền truy đuổi tàu thuyền nước ngoài…” và theo Điều
47 Luật Biển Việt Nam thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển bao gồm: các lực lượng
có thẩm quyền thuộc Quân đội nhân dân, Công an nhân dân, các lực lượng tuần tra, kiểm
soát chuyên ngành khác; và các lực lượng dân quân tự vệ của các tỉnh, thành phố ven
biển trực thuộc trung ương, lực lượng bảo vệ của cơ quan, tổ chức đóng ven biển các lực
lượng khác cũng có trách nhiệm tham gia tuần tra, kiểm soát biển khi được cơ quan có
thẩm quyền huy động.
Kết quả của hành vi truy đuổi là:
- Nếu tàu bị truy đuổi dừng lại trong các vùng biển của quốc gia ven biển hoặc biển quốc
tế thì lực lượng tuần tra, kiểm soát trên biển có thể áp dụng các biện pháp ngăn chặn quy
định tại Điều 51 Luật biển Việt Nam 2012: bắt, tạm giữ, tạm giam các cá nhân có hành vi
vi phạm pháp luật; tạm giữ tàu thuyền sử dụng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; có
thể ra quyết định xử lý vi phạm tại chỗ tùy theo tích chất và mức độ vi phạm hoặc dẫn
giải người, tàu thuyền vi phạm vào bờ hoặc yêu cầu cơ quan hữu quan của quốc gia mà
tàu mang cờ, quốc gia nơi tàu đó đến để xử lý vi phạm (Điều 50 Luật biển Việt Nam
2012).
- Nếu tàu bị truy đuổi đi vào lãnh hải của quốc gia mà nó thuộc quyền hay của một quốc
gia khác thì quyền truy đuổi của quốc gia ven biển chấm dứt (khoản 3 Điều 111
UNCLOS, khoản 3 Điều 41 Luật biển Việt Nam 2012).
Những hành động này của cơ quan có thẩm quyền nhà nước là nhằm mục đích ngăn chặn
các thiệt hại xấu xảy ra và trừng phạt kịp thời những đối tượng có hành vi vi phạm pháp
luật đối với quốc gia ven biển

8. Tháng 6/2014, Trung Quốc chính thức đưa ra Tuyên bố đường yêu sách 10 đoạn
(năm 2009 là 9 đoạn) trên Biển Đông (đường lưỡi bò) chiếm hầu hết (hơn 90%) diện
tích Biển Đông. Bằng kiến thức về Luật biển quốc tế đã được học, anh/chị hãy cho
biết:
a. Tuyên bố trên có cơ sở pháp lý không? Tại sao?
Trung Quốc là quốc gia thành viên của Công ước của Liên Hiệp quốc về luật Biển 1982.
Do đó, việc Trung Quốc mở rộng vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền phải
phù hợp với mục tiêu và các nguyên tắc của Liên Hiệp Quốc đã được nêu trong Hiến
chương.
Theo như nhóm tìm hiểu: Đường chín đoạn là tên gọi dùng để chỉ đường quốc giới hải
vực biển Đông mà Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa chủ trương và đơn phương tuyên bố
chủ quyền năm 2009 và gửi lên Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc vào ngày 7 tháng 5 năm
2009. Đến tháng 6/2014, Trung Quốc chính thức đưa ra tuyên bố yêu sách 10 đoạn.
Trung Quốc dựa vào các cơ sở như sau:
· Thứ nhất, "Đường mười một đoạn" trong phụ lục "Bản đồ vị trí các đảo Nam
Hải"( xuất hiện công khai lần đầu tiên vào tháng 2 năm 1948) của "Bản đồ khu vực hành
chính Trung Hoa Dân Quốc" do Cục Phương vực Bộ Nội chính Trung Hoa Dân Quốc
phát hành.
· Thứ hai, Trung Quốc đã cho rằng mình xuất bản bản đồ có thể hiện "đường lưỡi bò"
trong một thời gian dài nhưng không có bất cứ một quốc gia nào phản đối hay cuộc đàm
phán song phương và đa phương nào về vùng biển mà Trung Quốc đã được in trên bản
đồ.
Tuy nhiên, đường này xuất hiện do thời điểm đó Trung Hoa Dân quốc không có khả năng
đo lường các hòn đảo để xác định mọi địa hình tạo đường phân định cho khu vực hành
chính xung quanh vì thế họ vẽ ra đường chạy qua điểm giữa các hòn đảo và vùng đất lân
bang để chỉ ra rằng các đảo nằm bên trong đường vẽ ra là lãnh thổ Trung Hoa. Đường
này chạy qua điểm trung tuyến giữa các điểm nhô ra nhất của các hòn đảo và địa hình của
đất liền xung quanh. Không hề có các tọa độ địa lý cụ thể được nêu ra và những bản đồ
mỗi thời in đường chín đoạn này lại khác nhau. Đến năm 1953 thì bỏ hai đoạn trong vịnh
Bắc Bộ, trở thành "đường chín đoạn". Thực tế lịch sử cho thấy, cả Chính phủ Trung Hoa
Dân quốc lẫn Chính phủ Cộng Hòa Nhân dân Trung Hoa chưa bao giờ đưa ra lời tuyên
bố hoặc giải thích chính thức gì về "đường lưỡi bò" đó. Năm 1993, chính phủ Đài Loan
công bố Nam Hải Chính sách Cương lĩnh cho rằng Đường chín đoạn phân định ra vùng
nước lịch sử. Nhưng đến năm 2003 Tổng thống Đài Loan Trần Thủy Biển đã bác bỏ
chính sách này.
Theo quan điểm của nhóm:
Về mặt lịch sử, đường lưỡi bò mà Trung Quốc gửi lên Liên Hiệp Quốc nhằm hợp pháp
hóa vùng biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền nằm bên trong đường lưỡi bò đã
không có giá trị. Vì về mặt lịch sử, đường này được tuyên không mang danh của nước
Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mà thực chất chỉ là tuyên bố của một cá nhân. Do vậy,
vùng biển nằm bên trong đường lưỡi bò mà Trung Quốc tuyên bố không có “quyền lịch
sử” với các vùng biển ở Biển Đông.
Về mặt pháp lý, đường lưỡi bò không phù hợp với cách tính của Công ước Liên Hiệp
Quốc về Luật Biển 1982 mà Trung Quốc là thành viên, cụ thể là không rõ ràng về vùng
biển thuộc chủ quyền và quyền chủ quyền nằm trong đường lưỡi bò. Bản đồ này chứa
một số lỗi như sau: Tỉ lệ xích thì đúng nhưng thước tỉ lệ thì vẽ sai: 1 km được thể hiện
bằng 635 mét. Như vậy nếu dùng thước tỷ lệ này vào việc đo 200 hải lý (370 km) trên
bản đồ, chỉ bằng 127 hải lý (235 km) trên thực địa. Hơn nữa, áp thước tỷ lệ này trên các
bản đồ của Mỹ thì hóa ra 1km chỉ có 630m. Trong khi đó theo UNCLOS quy định: 1 hải
lí thì bằng 1852m trên thực địa. Như vậy việc Trung Quốc đơn phương tuyên bố đường
chính đoạn đã vi phạm: Điều 8 – UNCLOS quy định về nội thủy, Điều 3 và 4 –
UNCLOS quy định về lãnh hải, Điều 33 – UNCLOS quy định về vùng tiếp giáp lãnh hải,
Điều 55 - UNCLOS, vùng đặc quyền kinh tế, Điều 76 - UNCLOS, thềm lục địa của một
quốc gia ven biển.
Khái niệm “vịnh lịch sử” hay “vùng nước lịch sử” mà ở đó một quốc gia thực hiện quyền
lực thuộc chủ quyền của mình đã được luật pháp quốc tế chấp nhận trong một số hoàn
cảnh hạn chế. Điều 10 của UNCLOS thừa nhận sự tồn tại của một vùng nước như vậy, và
một số các vịnh biển mà không đáp ứng được các tiêu chuẩn chính thức của một “vịnh”
theo Điều 10 đã được trao cho quy chế này theo thời gian.
Khái niệm về yêu sách lịch sử được chấp nhận vào năm 1951 bởi Tòa án quốc tế (ICJ)
khi phán xét về yêu sách của Na uy về vùng nước nằm tiếp liền bờ biển của nước này.
Theo đó thì một vịnh hay một vùng nước được coi là lịch sử, căn cứ theo tập quán quốc
tế và các phán quyết của tòa án phải thỏa mãn ít nhất là hai điều kiện sau: 1) Quốc gia
ven biển thực thi chủ quyền của mình đối với vùng được yêu sách; 2) Sự liên tục của việc
thực thi quyền lực đó theo thời gian; 3) Quan điểm của các quốc gia khác với yêu sách
đó. Ngoài ra, một quốc gia yêu sách danh nghĩa lịch sử phải có trách nhiệm đưa ra bằng
chứng đối với các vùng nước có vấn đề đang tranh cãi này.
Bất cứ chính quyền nào yêu sách vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” là vùng nước
lịch sử thì quy chế pháp lý đối với vùng nước này như thế nào, nếu các vùng nước này
được yêu sách như vùng nội thủy thì các chính quyền yêu sách đó phải chứng minh được
là họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng nước bao bọc trong
“đường lưỡi bò” qua một thời gian tương đối giống như đã thực thi chủ quyền đối với các
vùng nội thủy khác. Nếu các vùng nước này được yêu sách như lãnh hải thì quốc gia yêu
sách phải chỉ ra được rằng họ đã thực thi chủ quyền một cách liên tục đối với các vùng
nước bị bao bọc này trong một thời gian dài như họ đã thực thi chủ quyền đối với các
vùng lãnh hải khác. Cũng tương tự như vậy nếu họ muốn yêu sách các vùng nước bị bao
bọc như là vùng nước lịch sử.
a. Đối với yêu sách như các vùng nội thủy
Theo chế độ pháp lý của các vùng nội thủy, một quốc gia ven biển thực thi chủ quyền đầy
đủ đối với vùng nước nằm phía bên trong đường cơ sở để tính chiều rộng lãnh hải, tàu
nước ngoài không có quyền đi qua không gây hại trong vùng nội thủy của quốc gia ven
biển, trừ khi được sự đồng ý của quốc gia đó.
Vậy vùng nước bị bao bọc bởi “đường lưỡi bò”có thể được coi là vùng nội thủy không?
Câu trả lời đến ngay từ một học giả Đài Loan là không, bởi những lý do sau đây: thứ
nhất, chính quyền Cộng hòa Trung Hoa chưa bao giờ yêu sách vùng nước bên trong
“đường lưỡi bò” như là vùng nội thủy. Thứ hai, tàu nước ngoài, trong đó có cả tàu chiến
vẫn thực hiện quyền đi lại trên vùng nước nằm trong “đường lưỡi bò” này từ khi “đường
lưỡi bò” này xuất hiện trên bản đồ do Cộng Hòa Trung Hoa xuất bản năm 1948, và chính
quyền Cộng Hòa Trung Hoa đã không có một hành động nào ngăn cản các tàu nước
ngoài qua lại vùng này.
b. Đối với yêu sách như “lãnh hải”.
Theo quy định tại Điều 3 Công ước Luật biển của Liên Hợp Quốc năm 1982 (UNCLOS)
thì: “Mọi quốc gia đều có quyền ấn định chiều rộng lãnh hải của mình; chiều rộng này
không vượt quá 12 hải lý kể từ đường cơ sở được vạch ra theo đúng Công ước”. Mọi
quốc gia có quyền thực thi chủ quyền đối với vùng lãnh hải của mình. Tàu thuyền nước
ngoài chỉ được hưởng quyền đi qua không gây hại cho trong vùng lãnh hải của các quốc
gia ven biển, trừ khi có các điều khoản, điều ước chuyên môn khác. Đối với vùng trời
phía trên lãnh hải, các máy bay nước ngoài được quyền bay qua không gây hại.
Máy bay nước ngoài đã bay qua vùng trời phía trên của vùng nước này từ năm 1948 khi
bản đồ được xuất bản. Như đã trình bày ở trên, máy bay của nước ngoài không được phép
bay qua không gây hại trên vùng trời phía trên của lãnh hải quốc gia ven biển. Như vậy,
đây không được xem là lãnh hải của Trung Quốc.
c. Đối với yêu sách như các vùng nước quần đảo.
Khái niệm về các vùng nước quần đảo là một khái niệm mới trong luật biển quốc tế,
được đưa ra trong Hội nghị Liên Hợp Quốc về Luật biển lần III (UNCLOS III), theo đó,
các vùng nước nằm bên trong đường cơ sở thẳng của quần đảo là vùng nước quần đảo, nó
không phải là nội thủy, cũng không phải là lãnh hải. Một quốc gia quần đảo có quyền
thực thi chủ quyền đối với vùng nước quần đảo của mình. Chủ quyền quốc gia “được mở
rộng đến vùng trời phía trên của vùng nước quần đảo cũng như đến đáy của vùng nước
đó và lòng đất tương ứng và đến các nguồn tài nguyên ở đó”. Tàu nước ngoài được quyền
đi qua không gây hại tại vùng nước quần đảo, tàu biển và máy bay nước ngoài được
quyền có đường hàng hải, đường hàng không đi qua vùng nước quần đảo.
Do chế độ pháp lý của “các vùng nước quần đảo” được phát triển trong giai đoạn hội
nghị lần thứ III của UNCLOS (từ năm 1973 – 1982) và bản đồ thể hiện “đường lưỡi bò”
xuất bản lần đầu năm 1948, nên khó có thể chứng minh được vùng nước bên trong
“đường lưỡi bò” đó có được quy chế pháp lý của các vùng nước quần đảo, Cộng Hòa
Trung Hoa đã không thực thi chủ quyền và quyền tài phán của mình đối toàn bộ các vùng
nước bên trong “đường lưỡi bò” này, tàu và máy bay nước ngoài vẫn tiếp tục được hưởng
quyền tự do hàng hải và hàng không trong vùng nước nằm trong đường này, thay cho
quyền đi qua không gây hại và quyền được qua lại các tuyến hàng hải và hàng không đã
được ấn định của vùng nước quần đảo. Vì thế, có thể kết luận là toàn bộ các vùng nước
bên trong “đường lưỡi bò” không thể được xem là các vùng nước quần đảo của Cộng hòa
Trung Hoa.
Theo các tiêu chí để thỏa mãn một vùng nước được coi là vùng nước lịch sử, thì Trung
Quốc cũng phải chứng minh được họ đã thực thi chủ quyền trên toàn bộ vùng nước trong
đường lưỡi bò này một cách thật sự và liên tục trong một thời gian dài. Điều này thật
không đơn giản, bởi vì:
Thời điểm mà Trung Quốc thực sự đặt chân lên quần đảo Hoàng Sa là năm 1909, với
hành động của Lý Chuẩn, tuy nhiên lúc này Hoàng Sa đã không còn là một lãnh thổ vô
chủ nữa. Việt Nam đã thực thi chủ quyền của mình từ ít nhất là năm 1816.
Đường lưỡi bò không phải là con đường có tính ổn định và xác định. Từ 11 đoạn, năm
1953, Trung Quốc đã phải bỏ đi hai đoạn trong vịnh Bắc Bộ vì quá vô lý. Tính chất
không liên tục của con đường này được các tác giả Trung Quốc giải thích là để cho
“những điều chỉnh cần thiết trong tương lai”. Đặc tính quan trọng nhất của một đường
biên giới quốc tế là sự ổn định và dứt khoát. “Đường lưỡi bò” không thể hiện được đặc
tính đó, thêm nữa, vị trí của nó lại không được xác định tọa độ rõ ràng, vì thế khó mà
biểu thị là một đường biên giới được.
Vấn đề thứ hai theo Yann Huei Song thì mặc dù “đường lưỡi bò” đã xuất hiện trên các
bản đồ xuất bản ở Trung Hoa lục địa từ năm 1949, nhưng chưa bao giờ Cộng Hòa Nhân
Dân Trung Hoa yêu sách chính thức các vùng nước nằm trong đường này như các vùng
nước lịch sử. Đại diện của Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đã không tuyên bố như vậy
trong Hội nghị Công ước Luật biển lần III.Theo luật pháp quốc tế, các hành vi mà quốc
gia thể hiện phải mang tính công khai ý chí thực thi chủ quyền trên lãnh thổ đó. Những
hành vi bí mật không thể tạo nên cơ sở cho quyền lịch sử, ít nhất các quốc gia phải có cơ
hội được biết những gì đang diễn ra.
Như vậy, kể cả Cộng Hòa Trung Hoa lẫn Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa đều chưa bao
giờ công bố chính thức yêu sách về vùng biển bên trong “đường lưỡi bò” đó.
Đặc biệt, Điều 1 Tuyên bố năm 1958 về lãnh hải của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa đã
nhấn mạnh rằng:
“Chiều rộng lãnh hải nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa là 12 hải lý. Điều khoản này
áp dụng cho tất cả các lãnh thổ của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, bao gồm lục
địa Trung Quốc và các đảo ven bờ của lục địa cũng như các đảo Đài Loan và xung quanh
đó, quần đảo Penghu (Bành Hồ) và tất cả các đảo khác thuộc Trung Quốc bị phân cách
với đất liền và các đảo ven bờ biển của nó bởi biển cả”.
Như vậy, Tuyên bố 1958 của Trung Quốc xác định rõ ràng các đảo bị tách biệt với lục địa
bởi biển cả, chứ không phải là vùng nước lịch sử. Chẳng lẽ lại tồn tại vùng biển cả nằm
trong nội thủy của Trung Quốc? Không thể có điều vô lý đó. Do vậy, Tuyên bố và các
đạo luật của các nhà chức trách Trung Quốc, đặc biệt Tuyên bố năm 1958 của Cộng hòa
Nhân dân Trung Hoa là không phù hợp với yêu sách lịch sử được phân định bởi “đường
lưỡi bò”.
Tuyên bố về đường cơ sở của Trung Quốc ngày 15/5/1996 càng làm cho sự mập mờ này
của họ bởi họ yêu sách một đường cơ sở nối cả Hoàng Sa nhưng lại không đề cập gì đến
Trường Sa.
Hơn nữa, tại hội nghị San Francisco tháng 9 năm 1951, các quốc gia tham gia đã khước
từ đề nghị trao trả cho Trung Quốc hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và thực tế tranh
chấp về chủ quyền trên Hoàng Sa giữa Việt Nam và Trung Quốc hay tranh chấp chủ
quyền đối với toàn bộ hay một phần quần đảo Trường Sa giữa Việt Nam, Malaysia,
Philippines và Trung Quốc cho thấy không thể nói là “đường lưỡi bò” được các quốc gia
khác công nhận. Như vậy, có thể nói là yêu sách này chưa bao giờ có được sự thừa nhận
của cộng đồng quốc tế.
Từ những phân tích trên, nhóm khẳng định rằng, việc Trung Quốc tuyên bố đường lưỡi
bò là không có cơ sở pháp lí và không có quyền lịch sử với các vùng biển ở Biển Đông
theo Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982 mà Trung Quốc là thành viên.
b. Những quốc gia nào bị ảnh hưởng bởi Tuyên bố nói trên? Tại sao?
Các quốc gia bị ảnh hưởng bởi tuyên bố "Đường lưỡi bò" của Trung Quốc là Việt Nam,
Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei.
Bởi vì:
Đường lưỡi bò của Trung Quốc lấn lên vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của các
quốc gia này.
Theo năm tháng, "đường lưỡi bò” dần dần bành trướng đến khi nó bao trùm phần lớn
Biển Đông, vào cách bờ biển của các nước khác dưới 100 hải lý, mà không hề có một lập
luận nào dựa trên luật pháp hay tập quán quốc tế.

9. Năm 2016, Tòa trọng tài theo Phụ lục VII của CULB 1982 đã ra phán quyết vụ
Philippines kiện Trung Quốc; bằng kiến thức về Luật biển quốc tế đã được học,
anh/chị hãy cho biết:
a. Philippines kiện Trung Quốc về vụ việc gì?
Với tư cách là một quốc gia thành viên Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển 1982
(UNCLOS), ngày 22/1/2013, Philippines đã đệ đơn kiện về việc Trung Quốc đã giải thích
và áp dụng sai UNCLOS theo Điều 279, Điều 283, Điều 284 lên Tòa Trọng tài Thường
trực The Haye (PCA).7l
Cụ thể, Philippines khởi kiện Trung Quốc 15 nội dung, tập trung vào 3 nhóm vấn đề:
a. Yêu sách đường chín đoạn Trung Quốc đưa ra dựa trên "Quyền lịch sử" không phù
hợp với UNCLOS cho nên nó vô giá trị.
b. Philippines yêu cầu PCA xác định xem, theo UNCLOS, thì một số thực thể địa lý, mà
cả Philippines lẫn Trung Quốc yêu sách, là đảo, đá, bãi cạn lúc nổi lúc chìm hay bãi
ngầm nằm hoàn toàn dưới mực nước biển, trên cơ sở đó để xác định hiệu lực pháp lý của
các thực thể này đến đâu (có hay không có lãnh hải 12 hải lý, vùng đặc quyền kinh tế 200
hải lý).
c. Philippines yêu cầu PCA tuyên bố Trung Quốc đã vi phạm UNCLOS khi cản trở
Philippines thực thi các quyền chủ quyền, quyền tài phán và quyền tự do của Philippines
theo UNCLOS cũng như việc Trung Quốc gây tổn hại môi trường biển trong các hoạt
động bồi lấp xây dựng đảo, đánh bắt cá mà nước này tiến hành.
Ngày 29/10/2015, PCA - Tòa Trọng tài Thường trực The Haye, ra thông cáo báo chí về
vụ kiện giữa Cộng hòa Philippines với Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa; trong đó đã
khẳng định rằng PCA có thẩm quyền thụ lý, xét xử vụ kiện này theo đúng quy định của
UNCLOS và rằng, cả Trung Quốc và Philippines đều là thành viên ràng buộc của
UNCLOS có trách nhiệm và nghĩa vụ tuân thủ mọi điều khoản của UNCLOS. Việc
Trung Quốc từ chối tham gia vụ kiện không làm mất đi thẩm quyền ra phán quyết của
PCA.
PCA đã bác bỏ lập luận của Trung Quốc rằng Philippines chủ yếu khởi kiện các nội dung
liên quan đến chủ quyền lãnh thổ và phân định biên giới biển giữa 2 nước, do đó nó vượt
qua thẩm quyền của PCA. Ngược lại Tòa khẳng định, bản chất vụ kiện của Philippines
phản ánh tranh chấp giữa 2 nước liên quan đến việc giải thích và áp dụng UNCLOS.
Đồng thời, PCA cũng đã bác bỏ lập luận của Trung Quốc cho rằng Tuyên bố về ứng xử
của các bên trên Biển Đông (DOC) ký giữa Trung Quốc với ASEAN năm 2002 là thỏa
thuận để giải quyết tranh chấp Biển Đông thông qua thương lượng. PCA phán quyết rằng
DOC chỉ là một thỏa thuận chính trị mà không ràng buộc pháp lý, do đó không liên quan
đến các quy định trong UNCLOS về việc ưu tiên giải quyết tranh chấp thông qua bất kỳ
phương tiện nào mà hai bên đồng ý.
b. Phụ lục VII của CULB 1982 đề cập đến nội dung gì? TRANG 91 HỆ THÔNG
VBPLQT & VN
Phụ lục VII của CULB 1982 đề cập về thẩm quyền, thủ tục và giải quyết tranh chấp bằng
trọng tài gồm các nội dung như sau:
Thứ 1, thẩm quyền thành lập trọng tài quy định tại Điều 1 Phụ lục VII CULB 1982;
Thứ 2, Theo quy định của Điều 3, Phụ lục VII về trọng tài, trọng tài gồm 5 thành viên,
trừ khi các bên tranh chấp có thỏa thuận khác;
Thứ 3, chức năng của trọng tài: Theo quy định tại Điều 4, Phụ lục VII của UNCLOS,
trọng tài thi hành các chức năng theo đúng Phụ lục VII và các quy định khác của
UNCLOS, Điều 6 về những nghĩa vụ của các bên;
Thứ 4, về xét xử vắng mặt của một bên được quy định tại Điều 9 Phụ lục VII;
Thứ 5: giải thích và thi hành bản án.
Tòa trọng tài được thành lập và hoạt động theo đúng Phụ lục VII của Công ước luật biển,
là cơ quan tài phán quốc tế.
Tòa trọng tài thực hiện các chức năng của mình theo đúng phụ lục VII và các quy định
khác của Công ước trong việc giải quyết các tranh chấp liên quan tới luật biển. Bản án
của Tòa trọng tài có tính tối hậu và không được kháng cao, trừ khi các bên trong vụ tranh
chấp đã có thỏa thuận trước về một thủ tục kháng cáo. Tất cả các bên trong vụ tranh chấp
khi được Tòa trọng tài giải quyết vụ việc bằng bản án thì đều phải tuân theo.
c. Phán quyết của Tòa đề cập tới nội dung gì?
Chiều ngày 12/7/2016 (theo Thông cáo báo chí của Tòa Trọng tài), Phán quyết của Hội
đồng Trọng tài đã chính thức được công bố. Nội dung của Phán quyết đã đề cập đầy đủ 7
nội dung mà Tòa Trọng tài đã lựa chọn thuộc thẩm quyền xét xử của mình trong số 15
điểm của đơn khởi kiện. Nội dung Phán quyết của Tòa chỉ tập trung phán xét về việc
giải thích và áp dụng sai các quy định của Công ước LHQ về Luật Biển, không liên quan
gì đến tranh chấp chủ quyền lãnh thổ và tranh chấp về việc phân định các vùng chồng
lấn; cụ thể là:
a. Bác bỏ “Quyền lịch sử” đối với tài nguyên trong đường 9 đoạn;
Toà Trọng tài nhận thấy có thẩm quyền để xem xét tranh chấp giữa các bên liên quan đến
quyền lịch sử và nguồn của quyền hưởng các vùng biển tại Biển Đông. Về mặt nội dung
thực chất, Toà kết luận rằng Công ước quy định một cách toàn diện về các quyền đối với
các vùng biển, và việc bảo vệ các quyền tồn tại trước Công ước liên quan đến tài nguyên
đã được xem xét, nhưng chúng không được thông qua và quy định tại Công ước.
Theo đó, Tòa kết luận rằng trong phạm vi quyền lịch sử của Trung Quốc đối với các
nguồn tài nguyên trong các vùng biển ở Biển Đông, quyền này bị xóa bỏ do chúng không
phù hợp với chế định vùng đặc quyền kinh tế trong Công ước.
Toà cũng nhận thấy dù trong lịch sử, những người đi biển cũng như ngư dân từ Trung
Quốc cũng như từ các nước khác đã sử dụng các đảo tại Biển Đông nhưng không có bất
kỳ bằng chứng nào cho thấy về mặt lịch sử Trung Quốc đã chỉ một mình thực hiện việc
kiểm soát vùng nước này cũng như tài nguyên tại đây.
Vì vậy, Tòa kết luận không có cơ sở pháp lý để Trung Quốc yêu sách quyền lịch sử đối
với tài nguyên tại các vùng biển phía bên trong đường 9 đoạn.
b. Khẳng định các cấu trúc (thực thể địa lý) thuộc Trường Sa không có hiệu lực để có
vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý;
Tiếp theo, Tòa Trọng tài xem xét đến quyền hưởng các vùng biển và quy chế của các cấu
trúc. Trước tiên, Tòa tiến hành đánh giá liệu một số bãi do Trung Quốc yêu sách có nổi
khi thuỷ triều lên đỉnh hay không.
Các cấu trúc nổi khi thủy triều lên cao sẽ tạo ra quyền ít nhất đối với lãnh hải 12 hải lý
trong khi các cấu trúc chìm khi thuỷ triều lên cao sẽ không tạo ra quyền như vậy.
Toà nhận thấy rằng các bãi này đã bị làm biến đổi mạnh mẽ do việc bồi đắp, xây dựng và
Toà cũng nhắc lại rằng Công ước phân loại các cấu trúc dựa trên điều kiện tự nhiên của
chúng và dựa vào các tài liệu lịch sử để đánh giá các cấu trúc.
Sau đó, Tòa tiến hành đánh giá liệu các có cấu trúc nào trong số các cấu trúc do Trung
Quốc yêu sách có thể tạo ra vùng biển ngoài phạm vi 12 hải lý không.
Theo Công ước, các đảo tạo ra vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý và thềm lục địa nhưng
các “đảo đá không thích hợp cho con người đến ở và có đời sống kinh tế riêng không có
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa”.
Toà kết luận rằng quy định này phụ thuộc vào khả năng khách quan của các cấu trúc khi
chúng ở tình trạng tự nhiên để có thể duy trì một cộng đồng dân cư ổn định hoặc các hoạt
động kinh tế mà không phụ thuộc vào các nguồn lực từ bên ngoài hoặc hoàn toàn chỉ có
tính chất khai thác.
Toà cũng nhận thấy rằng sự có mặt của các nhân viên công vụ trên các cấu trúc là phụ
thuộc vào sự hỗ trợ từ bên ngoài và không phản ánh khả năng của các cấu trúc.
Toà cũng thấy rằng các bằng chứng lịch sử có ý nghĩa hơn và nhận thấy quần đảo Trường
Sa trong lịch sử được sử dụng bởi một số nhóm nhỏ các ngư dân và rằng đã có một vài
hoạt động khai thác phân dơi và đánh cá của Nhật Bản.
Tòa kết luận rằng việc việc sử dụng ngắn hạn như vậy không phải là sự định cư của một
cộng đồng ổn định và rằng các hoạt động kinh tế trong lịch sử chỉ là hoạt động mang tính
khai thác.
Theo đó, Toà kết luận rằng không một cấu trúc nào tại Trường Sa có khả năng tạo ra các
vùng biển mở rộng.
c. Toà cũng quyết định rằng các đảo Trường Sa không thể cùng nhau tạo ra các vùng
biển như một thực thể thống nhất.
Các hoạt động của Trung Quốc ngăn cản Philippines thực hiện các quyền của mình trong
vùng đặc quyền kinh tế, kể cả vùng biển xung quanh bãi cạn Scarborough là vi phạm
UNCLOS 1982;
d. Các hoạt động khai thác, xây đảo nhân tạo của Trung Quốc đã gây hại cho môi trường
biển;
Gây hại cho môi trường biển: Toà xem xét ảnh hưởng với môi trường biển của các hoạt
động bồi đắp và xây dựng nhân tạo trên 7 cấu trúc của Quần đảo Trường Sa gần đây của
Trung Quốc, và nhận thấy rằng Trung Quốc đã gây hại nghiêm trọng với môi trường của
các rặng san hô và vi phạm nghĩa vụ bảo tồn và bảo vệ các hệ sinh thái dễ bị tổn thương
và môi trường sống của các loài đang suy yếu, bị đe doạ và bị huỷ diệt.
Toà cũng cho rằng nhà chức trách Trung Quốc đã nhận thức được việc ngư dân Trung
Quốc đã đánh bắt các loài rùa biển, san hô và trai khổng lồ quý hiếm trên diện rộng ở
Biển Đông (bằng các biện pháp gây ra tổn hại nghiêm trọng với môi trường rặng san hô)
và đã không thực hiện các nghĩa vụ của nước này trong việc ngăn chặn và chấm dứt các
hoạt động này.
Toà nhận thấy rằng việc bồi đắp và xây dựng đảo nhân tạo trên quy mô lớn của Trung
Quốc gần đây là không phù hợp với nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước trong
quá trình giải quyết tranh chấp, trong chừng mực mà Trung Quốc đã gây ra những tác hại
không thể sửa chữa được với môi trường biển, xây dựng một đảo nhân tạo lớn trong vùng
đặc quyền kinh tế của Phi-líp-pin, và phá huỷ các bằng chứng về điều kiện tự nhiên của
các cấu trúc ở Biển Đông mà là một phần của tranh chấp giữa các Bên.
e. Tất cả những hoạt động đó của Trung Quốc đã làm trầm trọng thêm tranh chấp.
Làm trầm trọng thêm tranh chấp: Cuối cùng, Toà xem xét liệu các hoạt động của Trung
Quốc kể từ khi Toà bắt đầu xem xét vụ việc có làm trầm trọng thêm tranh chấp giữa các
bên hay không.
Toà nhận thấy rằng Toà thiếu thẩm quyền để xem xét tác động của vụ đối đầu giữa tàu
hải quân của Phi-líp-pin và tàu hải quân và chấp pháp của Trung Quốc ở Bãi cạn Second
Thomas, cho rằng tranh chấp này liên quan đến các hoạt động quân sự và do vậy, nằm
ngoài cơ chế giải quyết tranh chấp bắt buộc.
10. Tháng 5/2014, Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương 981 cách Đảo Lý Sơn
của Việt Nam 119 hải lý. Bằng kiến thức về Luật biển quốc tế đã được học, anh/chị
hãy cho biết:
a. Việt Nam dùng Đảo Lý Sơn để làm gì theo quy định của CULB 1982? Việc sử
dụng đó có phù hợp với quy định của CULB 1982 không?

b. Giàn khoan Hải Dương 981 được hạ đặt ở vùng biển nào theo quy định của
CULB 1982 và Luật Biển Việt Nam 2012?

c. Trung Quốc đã vi phạm nội dung gì theo quy định của CULB 1982?

d. Việt Nam có thể áp dụng cơ chế nào để giải quyết tranh chấp vụ việc này?

NHẬN ĐỊNH CỦA THẦY PHƯƠNG:

1.1 Vùng biển nằm bên trong đường cơ sở gọi là nội thủy
→ Nhận định Sai. Theo Điều 8.1 UNCLOS 1982.
Đúng với quốc gia ven biển, sai với quốc gia quần đảo (quy định tại Điều 46 UNCLOS),
quốc gia quần đảo sẽ vạch đường cơ sở theo một cách khác (theo Điều 47 UNCLOS), sẽ
lấy các vòng ngoài cùng của tất cả các đảo thuộc quốc gia đó và vòng đó sẽ là đường cơ
sở, vùng biển nằm trong vùng cơ sở gọi là vùng nước quần đảo, nội thuỷ của qg quần đảo
được xác định (tại Điều 50 UNCLOS) là các đường khép kín tại các vịnh, cửa sông cửa
vịnh.
Quốc gia ven biển thì đường cơ sở là đường thẳng.

1.2 Đường cơ sở (base line) là biên giới quốc gia trên biển.
-> Sai. Biên giới quốc gia trên biển là ranh giới phía ngoài của lãnh hải (Điều 2, 3
UNCLOS – Điều 5, 11 LBQG)
- Nội thủy và lãnh hải là 2 vùng có chủ quyền tối cao của quốc gia
→ Nhận định SAI. Theo Điều 2, 3 UNCLOS 1982, Điều 11 Luật biển VN 2012, Điều 5
Luật biên giới quốc gia 2003
Biên giới là ranh giới để giới hạn chủ quyền lãnh thổ của 1 quốc gia (có biên giới đất
liền, trên không, trên biển). Biên giới quốc gia trên biển cũng là ranh giới giới hạn các
vùng biển là chủ quyền của quốc gia. Theo UNCLOS 1982 thì QG có chủ quyền đối với
nội thuỷ và lãnh hải. Vì vậy biên giới trên biển của quốc gia phải là ranh giới bên ngoài
của lãnh hải còn đường cơ sở nó chỉ giới hạn phần nội thuỷ.

1.3. Phương pháp xác định đường cơ sở của quốc gia ven biển và quốc gia quần đảo
là khác nhau.
-> Đúng. Đường cơ sở của quốc gia ven biển đc xác định theo Đ5, 7, 14 unclos 1982.
Đường cơ sở của quốc gia quần đảo được xác định theo Đ47.

1.4. Chế độ pháp lý của nội thủy của quốc gia ven biển với vùng nước quần đảo của
quốc gia quần đảo là giống nhau.
-> Sai. Quốc gia ven biển hay quần đảo đều có chủ quyền tuyệt đối…Có khác biệt. Đ49,
Đ52, 53 công ước quy định tàu thuyền của nước ngoài và các phương tiện bay của nước
ngoài đc quyền đi qua k gây hại
-> Nhận định sai. (có điểm giống nhau về chủ quyền tuyệt đối với TNTN, thăm dò, khai
thác, đánh bắt, xây đảo nhân tạo trong vùng nước quần đảo và vùng nước nội thủy)
tuy nhiên, Chế độ pháp lý không giống nhau hoàn toàn. vd sự khác biệt về chế độ hoạt
động của tàu thuyền, phương tiện bay trong vùng nội thủy của QGVB hay vùng nước
quần đảo.
Trong Điều 49, 52, 53 của UNCLOS quy định tàu thuyền của nước ngoài hay các
phương tiện bay của nước ngoài có quyền đi qua không gây hại của vùng nước quần đảo
của quốc gia quần đảo hay vùng trời của quốc gia quần đảo mà không có nghĩa vụ phải
xin phép. Tuy nhiên phải đi đúng tuyến đường, thời gian…
Không có bất cứ trường hợp ngoại lệ nào có quyền đi qua không gây hại đối với lãnh hải
hay vùng nội thuỷ đối với quốc gia ven biển. Nếu muốn hoạt động ở nội thuỷ thì bắt buộc
phải xin phép đối với quốc gia ven biển.

1.5. Quyền đi qua không gây hại được áp dụng cho tàu thuyền và phương tiện bay
của nước ngoài trong lãnh hải quốc gia ven biển
Điều 49, Điều 52, 53… Thiếu ở trường hợp Quốc gia quần đảo.
-> Sai. Quyền đi qua không gây hại của nước ngoài trong lãnh hải của quốc gia ven biển
áp dụng cho tàu thuyền chứ không áp dụng cho phương tiện bay Đ17, 18, 19…
QGQĐ: Điều 12.2,3,4, Điều 23, 24
-> Nhận định sai. Quốc gia ven biển có chủ quyền hoàn toàn độc lập. Quyền đi qua
không gây hại tại lãnh hải của quốc gia ven biển chỉ áp dụng cho tàu thuyền chứ không
áp dụng cho các phương tiện bay.
CSPL: khoản 4 Điều 21, Điều 17, Điều 18 , Điều 19 UNCLOS, Luật Biển VN 2012: điều
12.2,3,4, điều 23, điều 24
Điều 2.2 UNCLOS quốc gia ven biển có chủ quyền trên vùng trời -> các phương tiện bay
không có quyền tự do, vùng trời được đặt dưới quyền kiểm soát tuyệt đối của quốc gia
ven biển.

1.6 Quyền tài phán của quốc gia ven biển đối với tàu nước ngoài khi đi qua lãnh hải
quốc gia ven biển là trọn vẹn và đầy đủ.
-> Sai. Tàu nước ngoài đi qua lãnh hải quốc gia ven biển có thể là tàu thương mại nước
ngoài, tàu quân sự Nước ngoài, tàu công vụ nước ngoài. Có sự phân hóa về quy chế pháp
lý của các loại tàu trên
-> Nhận định sai. điều 28 LBVN
Theo tiểu mục a, b,c Phần II UNCLOS 1982 quy định về tàu công vụ, và tàu quân sự
được hưởng quy chế đặc biệt: đó là quyền tài phán của quốc gia ven biển. vd như các loại
tàu này đi qua ven biển khi thực hiện quyền không gây hại. Tàu thương mại của nước
ngoài khi đi qua ven biển của nước ngoài hay vn nói riêng thì không được hưởng quyền
gây hại. công ước (điều 27, 28) quy định cho thực hiện các quyền tài phán hình sự và dân
sự. Không phải tất cả các hành vi vi phạm trên tàu thương mại đều được thực hiện quyền
tài phán về hình sự mà các hành vi đó phải thuộc trường hợp nằm ở khoản 1 Điều 27
UNCLOS.
Quyền tài phán của qg ven biển chỉ được thực hiện trong phạm vi giới hạn.

1.7 Vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế thuộc chủ quyền hoàn toàn
và trọn vẹn của quốc gia ven biển (chế độ pháp lý của vùng tiếp giáp lãnh hải và đặc
quyền kinh tế)
-> Sai.
Tiếp giáp lãnh hải theo công ước thì không quá 24 hải lý, còn vùng đặc quyền kinh tế do
quốc gia sáng lập không được quá 200 hải lý.
Theo điều 2 UNCLOS, QG ven biển không có chủ quyền đối với vùng trời của 2 vùng
trên. Mặt khác tại điều 58 UNCLOS quy định các quốc gia khác được thực hiện 1 quyền
là quyền tự do hàng không ở vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển => quyền tự
do hàng không của nước ngoài (đ58) nó sẽ được thực hiện trên vùng trời của vùng đặc
quyền kinh tế và vùng tiếp giáp lãnh hải.
Ở vùng tiếp giáp lãnh hải và vùng đặc quyền kinh tế, nước ngoài Tự Do hoạt động mà
không cần xin phép, miễn sao hoạt động đó không gây ảnh hưởng đến QGVB theo công
ước. Các QGVB phải tôn trọng và tạo điều kiện cho tàu thuyền nước ngoài thực hiện
quyền này.

1.8 Trong phạm vi thềm lục địa của quốc gia ven biển, nước ngoài có quyền tự do
đặt dây cáp, ống dẫn ngầm.
-> Sai. Điều 79 Khoản 1 quy định tất cả các quốc gia đều có quyền đặt dây cáp ngầm
dưới vùng biển quốc gia của mình, nhưng Khoản 3 quy định cần phải có sự thỏa thuận,
chấp thuận của các quốc gia ven biển, việc lắp đặt dây cáp ngầm, ống dẫn ngầm ko phải
quyền tự do.
Điều 18 Luật Biển VN 2012: nước ngoài muốn đc lắp đặt dây cáp phải có sự chấp thuận
bằng văn bản của VN.
Nếu quốc gia ven biển không cho phép thì nước ngoài không thể thực hiện việc đặt dây
cáp ống d
CSPL: khoản 4 điều 18 LBVN 2012, Điều 79 UNCLOS dẫn ngầm.
Điều 18 luật biển vn 2012, ngoài việc nhà nước vn cho phép nc ngoài thực hiện việc lắp
đặt ống dẫn ngầm thì các cơ quan chức năng của vn không cho phép bằng văn bản thì
nước ngoài không được lắp đặt dây cáp ống dẫn ngầm

1.9 Tàu thuyền hoạt động trên biển cả chịu sự tài phán của quốc gia mà tàu có quốc
tịch.
-> Đúng. Căn cứ pháp lý theo Điều 92 khoản 1, Điều 94 và Điều 97 của Công ước LHQ
về Luật biển 1982.
vd như sự kiện sinh tử trên tàu thì việc điều tra truy tố xét xử là thuộc về quốc gia quốc
tịch của tàu.
vd: điều 3 blhs 2015 các hành vi thực hiện trên lãnh thổ việt nam => xử lý theo bl vn
vd: một tàu biển mang quốc tịch VN xảy ra hoạt động tội phạm, vấn đề đặt ra là QG nào
sẽ có thẩm quyền xử lý? -> cần phải tuân theo PL hình sự VN

Theo Unclos khi hoạt động trên biển quốc tế, tàu thuyền của các quốc gia có biển hay
không có biển đều phải treo cờ của quốc gia mà tàu mang quốc tịch. Các tài thuyền chỉ
hoạt động dưới cờ của 1 quốc gia và chỉ thuộc quyền tài phán của quốc gia này khi ở
biển cả.

1.10. Các quyền tự do mà các quốc gia được thực hiện ở biển cả là không bị giới hạn
-> Sai. Theo Công ước về biển 1982 các quy định về biển cả thì ở điều 87 một số quyền
tự do có giới hạn: ví dụ quyền tự do lắp đặt các công trình thì phải phù hợp hay tuân thủ
phần 6 của công ước, không được ảnh hưởng đến quyền của các quốc gia ven biển; quyền
tự do đánh bắt hải sản có giới hạn: gìn giữ môi trường biển, tài nguyên sinh vật biển Đ;
quyền tự do nghiên cứu khoa học biển cả phải tuân thủ các quy định về nghiên cứu khoa
học biển Phần VII. Các quốc gia bên cạnh quyền khai thác đánh bắt thủy hải sản thì phải
bảo vệ tài nguyên biển.

1.11. Một số quyền và nghĩa vụ của các quốc gia ở biển cả cũng được áp dụng ở
vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven biển
-> Đúng. Quyền tự do hàng hải và quyền tự do hàng không vẫn có thể được áp dụng
CSPL: Điều 58 và Điều 87.1

1.12: Nguyên tắc vùng và tài nguyên thiên nhiên ở Vùng là di sản chung của loài
người Điều 136 cho phép các quốc gia tự do khai thác tài nguyên thiên nhiên của
vùng
Nhận định sai. CSPL: Điều 137 cho thấy Vùng không thuộc sở hữu riêng của bất kì QG
hay tổ chức, cá nhân nào nên các cá nhân, tổ chức, QG không có quyền tự do khai thác
mà cần phải làm thủ tục xin phép
Nguyên tắc: “vùng và tài nguyên của vùng là di sản chung của loài người” - điều 136. Có
nghĩa Vùng và TNTN ở đáy đại dương không nằm trong chủ quyền riêng của QG nào cả
Điều 137, 136 cho thấy vùng và tntn ở vùng xét về thuộc sở hữu thì ko thuộc sở hữu của
cá nhân, của riêng biệt bất kỳ nước nào mà sở hữu chung của các quốc gia

1.13. Việc xác định biên giới lãnh hải và ranh giới vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục
địa phải do các quốc gia hữu quan thỏa thuận
-> Sai. Việc thỏa thuận giữa các nước về việc xác định chỉ đặt ra trong trường hợp khi
Lãnh hải, VĐQKT của các QG nằm trong tình trạng tiếp giáp, liền kề, đối diện nhau tạo
nên sự chồng lấn. Căn cứ pháp lý tại Điều 15 và Điều 74 UNCLOS
VD: vùng biển bên ngoài vịnh Bắc bộ, VN không chồng lấn với bất kì quốc gia nào →
VN tuyên bố đường cơ sở và chiều rộng lãnh hải, … khác với trong vịnh bắc bộ, cần có
sự thỏa thuận với Trung Quốc → Hiệp định 2000

1.14. Các tranh chấp về giải thích và áp dụng Unclos 1982 bắt buộc giải quyết bằng
các thủ tục tài phán theo quy định của Unclos
-> Sai. Theo quy định của UNCLOS thì các tranh chấp liên quan đến giải thích và áp
dụng UNCLOS 1982 có nhiều cách giải quyết khác bằng các biện pháp hòa bình khác
nhau do các bên thỏa thuận không nhất quyết bằng các thủ tục tài phán…, được nêu ra ở
Mục 1, Điều 284, 281, 282.
Điều 282 quy định các bên phải thỏa thuận trong các ĐƯQT
1.15. Các tranh chấp về giải thích và áp dụng Unclos 1982 do Tòa án Quốc tế về
Luật biển (Itlos) theo Phụ lục VI giải quyết
-> Sai. Đ287.1, 3, 4, 5, Đ289. Điều kiện đầu tiên là các bên phải thống nhất lựa chọn giải
quyết tranh chấp

1.16. Theo Unclos 1982, Trọng tài quốc tế về Luật biển theo Phụ lục VII có thẩm
quyền ưu tiên trong thụ lý, giải quyết các vụ tranh chấp
-> Đúng. CSPL: Điều 287 Khoản 3, 5 dẫn đến Tòa trọng tài theo Phụ lục VII
Vd: vụ kiện giữa PLP và TQ vì cả hai bên không có sự thỏa thuận

1.17. Mỗi đảo sẽ có vùng lãnh hải, đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của đảo đó
-> Sai. Đ121; Đ19, 20 LBVN.
CSPL: Điều 121 UNCLOS, Điều 19 và Điều 20 LBVN
Chỉ những đảo đá thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế riêng
thì mới có nội thủy, lãnh hải, vùng tiếp giáp lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục
địa. Còn đảo đá không thích hợp cho đời sống con người hoặc cho một đời sống kinh tế
riêng thì không có vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.

You might also like