You are on page 1of 10

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

KHOA LUẬT QUỐC TẾ

BÀI TỔNG HỢP CHƯƠNG IV

MÔN LUẬT BIỂN

Lớp Quốc Tế 47.1 - Nhóm 6

1. Võ Nguyễn Minh Hằng - 2253801015102

2. Huỳnh Nhật Hào - 2253801015104

3. Lê Thị Thúy Hảo - 2253801015106

4. Đặng Vũ Hiệp - 2253801015108

5. Lê Minh Hiếu - 2253801015109

6. Nguyễn Thị Lê Hoa - 2253801015112

7. Lê Ánh Hoàng - 2253801015115

8. Đỗ Phương Hồng - 2253801015117

9. Trương Ngọc Ánh Hồng - 2253801015118

10. Đoàn Thị Tiên Hương - 2253801015119


MỤC LỤC
CHƯƠNG 4: PHÂN ĐỊNH BIỂN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ BIỂN
..............................................................................................................................................1
I. Những vấn đề pháp lý cơ bản về phân định biển.......................................1
1. Khái niệm và nguyên tắc phân định biển..............................................1
2. Phân định lãnh hải........................................................................................1
3. Phân định đặc quyền kinh tế và thềm lục địa.......................................2
4. Thực trạng phân định biển giữa Việt Nam và các nước......................3
II. Giải quyết tranh chấp về biển......................................................................6
1. Khái niệm, phân loại tranh chấp về biển và nguồn luật giải quyết
tranh chấp về biển.......................................................................................................6
2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp biển..................................................7
3. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS 1982...............................8
CHƯƠNG 4: PHÂN ĐỊNH BIỂN VÀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ BIỂN
I. Những vấn đề pháp lý cơ bản về phân định biển
1. Khái niệm và nguyên tắc phân định biển
Phân định biển là hoạt động xác định phạm vi, giới hạn của các vùng biển giữa các
quốc gia hữu quan. Phân định biển gồm phân định lãnh hải và phân định đặc quyền kinh
tế, thềm lục địa (đặt ra giữa các quốc gia có sự chống lấn các vùng biển này). Có hai
nguyên tắc cơ bản trong phân định biển:
+ Nguyên tắc thoả thuận.
+ Nguyên tắc công bằng.

2. Phân định lãnh hải


Biên giới quốc gia trên biển được xác định trong hai trường hợp:
 Trường hợp thứ nhất, khi quốc gia có toàn bộ hoặc một phần bờ biển đối diện hoặc
bờ biển liền kề nhau
Trong trường hợp này, các quốc gia liên quan sẽ thỏa thuận xác định biên giới thông
qua việc ký kết hiệp định phân định biên giới trên biển. Thông thường, đường biên giới
khi hai quốc gia đối diện hoặc liền kề nhau được xác định là đường trung tuyến hoặc
đường cách đều (gọi chung là đường trung tuyến cách đều) để phân định ranh giới vùng
nội thủy, lãnh hải giữa hai quốc gia nếu các quốc gia không có thỏa thuận khác. (Điều 15
UNCLOS 1982).
Như vậy, để phân định lãnh hải nguyên tắc trung tuyến cách đều chiếm ưu thế, bởi các
lý do sau:
- Do tính chất đơn giản, tiện lợi và có tính khoa học của nó. Đường cách đều bao giờ cũng
cho phép hình dung và vạch ngay được trên thực tế một con đường phân định.
- Về nguyên tắc chung, phân định chủ yếu dựa trên các yếu tố địa lý. Xuất phát từ danh
nghĩa khoảng cách, đường cách đều là một phương pháp tự nhiên nhất bởi vì “Prima
Facie” (ngay từ đầu) nó đã cho phép một sự phân chia ngang bằng.
- Đường cách đều trong phần lớn các trường hợp phân định đều cho một kết quả công
bằng1

1
Nguyễn Hồng Thao (Chủ biên), Công ước biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
2008, tr.109

1
 Trường hợp thứ hai, quốc gia ven biển đơn phương hoạch định biên giới trên biển
trong trường hợp toàn bộ hoặc một phần bờ biển của quốc gia này không đối diện hoặc
tiếp giáp với bất kỳ quốc gia nào
Trong trường hợp này, xác định biên giới quốc gia trên biển là nhằm phân định nội
thủy, lãnh hải thuộc chủ quyền quốc gia với các vùng quốc gia có quyền chủ quyền trên
biển.
Tuy nhiên, quốc gia ven biển phải tuân thủ các nguyên tắc chung của luật biển quốc tế.
Sau khi đã xác định được đường cơ sở và chiều rộng lãnh hải, công bố chính thức, công
khai trên hải đồ tỷ lệ lớn, đường biên giới quốc gia trên biển chính là ranh giới phía ngoài
của lãnh hải.2

3. Phân định đặc quyền kinh tế và thềm lục địa

 Vùng đặc quyền kinh tế


Điều 57 UNCLOS 1982 nêu rõ Vùng đặc quyền kinh tế không mở rộng quá 200 hải lý
kể từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải. Vùng đặc quyền kinh tế là một vùng
đặc thù trong đó quốc gia ven biển thực hiện thẩm quyền riêng biệt của mình nhằm mục
đích kinh tế được Công ước về Luật Biển 1982 quy định:
Đối với các quốc gia ven biển: Quốc gia ven biển có các quyền chủ quyền về việc
thăm dò, bảo tồn và quản lý các tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên sinh vật hoặc không
sinh vật của vùng nước đáy biển, của đáy biển và vùng đất dưới đáy biển cũng như những
hoạt động khác nhằm thăm dò, khai thác vùng này vì mục đích kinh tế.
Đối với các quốc gia khác: Được hưởng quyền tự do hàng hải, hàng không; được tự do
đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, được tự do sử dụng biển vào các mục đích khác hợp pháp
về mặt quốc tế. Tuy nhiên, mọi tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn khai thác tài nguyên
trên vùng đặc quyền kinh tế phải có sự xin phép và đồng ý của quốc gia ven biển.

 Thềm lục địa


Khoản 1 và khoản 5 Điều 76 UNCLOS 1982 có quy định về thềm lục địa, theo đó
thềm lục địa là vùng đáy biển và lòng đất dưới đáy biển nằm bên ngoài lãnh hải của quốc
gia ven biển, trên phần kéo dài tự nhiên của lãnh thổ đất liền của quốc gia này cho đến bờ
2
Trần Thăng Long, Lê Minh Nhựt (Đồng chủ biên), Công pháp quốc tế (Luật Quốc tế), hệ thống kiến
thức cơ bản, câu hỏi lý thuyết, nhận định, bài tập và hệ thống văn bản pháp luật, NXB Đại học quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, 2021, tr.114, 115

2
ngoài của rìa lục địa hoặc tới giới hạn 200 hải lý tính từ đường cơ sở khi bờ ngoài của rìa
lục địa ở khoảng cách gần hơn.
Tuy nhiên, bề rộng tối đa của Thềm lục địa tính theo bờ ngoài của rìa lục địa, không
được vượt quá giới hạn 350 hải lý tính từ Đường cơ sở, hoặc không quá 100 hải lý bên
ngoài đường thẳng sâu 2.500m. Như vậy Thềm lục địa cách đường cơ sở từ 200 đến tối đa
là 350 hải lý tùy theo nền của lục địa.
Quốc gia ven biển thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò
và khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, tài nguyên không sinh vật như dầu khí,
các tài nguyên sinh vật như cá, tôm...) của mình. Vì đây là đặc quyền của quốc gia ven
biển nên không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có sự thỏa thuận
của quốc gia đó. Nghĩa là chỉ quốc gia ven biển mới có quyền cho phép và quy định việc
khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì. Tuy nhiên, quốc gia ven biển khi thực hiện
quyền đối với thềm lục địa không được đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước
phía trên, không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia
khác.
Khi tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở, quốc gia ven
biển phải nộp một khoản đóng góp tiền hay hiện vật theo quy định của công ước. Quốc
gia ven biển có quyền tài phán về nghiên cứu khoa học. Mọi nghiên cứu khoa học biển
trên thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển. Tất cả các quốc gia khác đều
có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống
dẫn ngầm phải thỏa thuận với quốc gia ven biển về tuyến đường đi của ống dẫn hoặc
đường cáp đó.
Như vậy đối với những khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam, chỉ có Việt Nam mới có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Mọi hành động thăm dò và khai thác của quốc gia khác mà không được sự đồng ý và thỏa
thuận của Việt Nam là xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.

4. Thực trạng phân định biển giữa Việt Nam và các nước
a. Việt Nam và Trung Quốc
Vịnh Bắc Bộ có diện tích khoảng 126.250 km 2 (36.000 hải lý vuông), chiều ngang nơi
rộng nhất khoảng 310 km (176 hải lý), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh rộng khoảng 220 km (119
hải lý). Bờ biển của Vịnh có tổng chiều dài khoảng 1458 km, trong đó bờ biển Việt Nam
dài khoảng 763 km và Trung Quốc khoảng 695 km. Vịnh có hai cửa: eo biển Quỳnh Châu

3
nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam với bề rộng khoảng 19 hải lý và cửa chính
của Vịnh từ đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) tới đảo Hải Nam (Trung Quốc) rộng khoảng 112 hải
lý. Phần Vịnh phía Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long
Vĩ nằm cách đất liền Việt Nam khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng
130 km. Phía Trung Quốc chỉ có một số ít đảo nhỏ ở phía Đông Bắc Vịnh như đảo Vị
Châu, đảo Tà Dương.
Do chiều rộng của Vịnh Bắc Bộ nơi rộng nhất không đến 200 hải lý và do bờ biển
Việt Nam và Trung Quốc chủ yếu nằm đối diện nên theo quy định UNCLOS 1982 vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh bị “chồng lấn” lên nhau. Ngoài
ra, vùng lãnh hải của hai nước cũng có hiện tượng chồng lấn. Như vậy, để phân định các
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và lãnh hải thì hai nước phải tiến hành đàm phán và
ký kết các điều ước để giải quyết việc phân định hòa bình.
Từ năm 1992 đến năm 2000, ta và Trung Quốc tổ chức 10 vòng đàm phán chính thức
và không chính thức ở cấp Đoàn đàm phán Chính phủ, 18 vòng đàm phán cấp Nhóm công
tác liên hợp cấp chuyên viên, 08 vòng đàm phán cấp Tổ chuyên viên liên hợp không
chính thức và 10 vòng đàm phán của Tổ chuyên gia đo vẽ phục vụ phân định.
Ngày 25/12/2000, hai nước đã ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ. Hai bên cam kết tôn
trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên đối với lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ.

b. Việt Nam và Campuchia


Hiệp định về vùng nước lịch sử với Cam-pu-chia: Việt Nam và Căm-pu-chia cần phải
phân định ranh giới lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong
Vịnh Thái Lan. Năm 1982 hai nước ký Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa hai nước với
các nội dung chính là: hai bên thỏa thuận sẽ cùng tiến hành tuần tiễu, kiểm soát trong
vùng nước lịch sử, việc đánh bắt hải sản của nhân dân địa phương hai nước trong vùng
biển này vẫn theo tập quán làm ăn từ trước tới nay, còn việc khai thác tài nguyên thiên
nhiên khác do hai bên cùng nhau thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận không bên nào
được đơn phương tiến hành. Theo Hiệp ước năm 1983 về nguyên tắc giải quyết vấn đề
biên giới giữa Việt Nam và Căm-pu-chia, vào thời gian thích hợp ta và Căm-pu-chia sẽ
thương lượng để phân định ranh giới biển giữa hai nước trong vùng biển này theo tinh
thần bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.

4
c. Việt Nam và Thái Lan
Vịnh Thái Lan (còn gọi là Vịnh Xiêm) là một vùng biển nửa kín, với diện tích khoảng
300.000 km2, giới hạn bởi bờ biển 4 nước Thái Lan (1560km), Việt Nam (230 km),
Malaixia (150 km) và Campuchia (460 km). Vịnh thông ra Biển Đông ở phía Nam bằng
một cửa duy nhất hợp bởi mũi Cà Mau và mũi Trenggranu cách nhau chừng 400 km (215
hải lý). Vịnh khá dài (chừng 450 hải lý) nhưng có diện tích nhỏ, chiều rộng trung bình là
385 km (208 hải lý), có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam về an ninh quốc phòng và
kinh tế do có ngư trường rộng lớn và tiềm năng dầu khí. Trong Vịnh có một số đảo quan
trọng của hai nước, phía Việt Nam có đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu…, phía Thái Lan có
đảo Ko Phangun, Ko Samui...
Từ năm 1992 đến năm 1997 ta và Thái Lan tiến hành 09 vòng đàm phán phân định
vùng biển chồng lấn giữa hai nước. Ngày 9/8/1997, tại Băng-cốc, đại diện Chính phủ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đại diện Chính phủ Vương quốc Thái Lan
đã ký Hiệp định phân định ranh giới trên biển giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan.

d. Việt Nam và Indonesia


Do quan điểm sử dụng nguyên tắc phân định biển và đường cơ sở để tính chiều rộng
lãnh hải khác nhau, nên giữa Indonesia và Việt Nam có một vùng biển chồng lấn rộng
lớn. Chính vì vậy, từ năm 1978 đến năm 2003, hai nước Việt Nam và Indonesia đã tiến
hành đàm phán cấp chuyên viên để phân định thềm lục địa trong vùng biển giáp ranh giữa
hai nước
Tuy vậy, đàm phán về ranh giới biển giữa hai nước vẫn chưa kết thúc, bởi vì vùng đặc
quyền kinh tế chồng lấn giữa hai nước vẫn chưa dược phân định. Từ khi hai nước ký kết
Hiệp định phân định thềm lục địa, ngư dân của hai nước đã có một hành lang pháp lý rõ
ràng, do đó trong quá trình khai thác hải sản trên vùng biển giáp ranh ít xảy ra vi phạm.
Đồng thời hai bên cũng tiếp tục đàm phán để phân địnhvùng đặc quyền kinh tế dựa trên
luật pháp quốc tế, luật biển quốc tế và quy định của UNCLOS 1982.

e. Việt Nam và Malaysia

5
Trên thực tế cho thấy vùng biển giáp ranh giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một
vùng biển chồng lấn trên thềm lục địa của hai nước rộng khoảng 2.800 km2. Khu vực này
nằm ở cửa vịnh Thái Lan có độ sâu nhỏ, trung bình khoảng 50 m, địa hình đáy biển tương
đối bằng phẳng.
Hai nước Việt Nam và Malaysia đều là thành viên của UNCLOS, cho nên nguyên
tắc chung để giải quyết phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là nguyên tắc
công bằng đã được ghi nhận trong các Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS 1982. Yêu cầu
của thực tế diễn ra đó là hai bên phải tuần tự đàm phán, thu hẹp những bất đồng, mâu
thuẫn, nhằm tìm ra giải pháp công bằng mà hai bên có thể chấp nhận.

II. Giải quyết tranh chấp về biển


1. Khái niệm, phân loại tranh chấp về biển và nguồn luật giải quyết tranh
chấp về biển
a. Khái niệm tranh chấp về biển
Tranh chấp về biển là những đòi hỏi đối lập nhau về yêu sách, quyền, nghĩa vụ giữa
các quốc gia liên quan đến biển.

b. Phân loại tranh chấp về biển


Tranh chấp về phân định các vùng biển;
Tranh chấp về chủ quyền đối với các vùng biển và các thực thể địa lý tự nhiên ở biển;
Tranh chấp về việc thực thi chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán trong các
vùng biển...

c. Nguồn luật giải quyết tranh chấp về biển


Việc giải quyết tranh chấp trên biển trong Luật quốc tế hiện đại chủ yếu dựa trên các
quy định của Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS 1982), có
hiệu lực từ ngày 16/11/1994. Công ước Luật biển năm 1982 vừa là cơ sở pháp lý quốc tế
quan trọng hỗ trợ các quốc gia trong việc quản lý, khai thác, sử dụng và bảo vệ có hiệu
quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên ở biển, vừa là công cụ hữu hiệu để các quốc gia giải
quyết các tranh chấp phát sinh từ biển. Vấn đề giải quyết tranh chấp về biển được quy
định tại phần XV, từ Điều 279 đến Điều 299 của Công ước và các bản phụ lục có liên
quan, bao gồm các vấn đề cơ bản như: nguyên tắc giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục
giải quyết tranh chấp, cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp; trình tự, thủ tục hoà

6
giải (Phụ lục V); tổ chức, thẩm quyền, và thủ tục tố tụng của Toà án Quốc tế về Luật biển
(Phụ lục VI); thẩm quyền, thủ tục và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, (Phụ lục VII);
về việc giải quyết tranh chấp bằng toà án trọng tài đặc biệt (Phụ lục VIII),... Ngoài ra còn
có:
 Hiệp định quốc tế song phương
 Tập quán quốc tế;
 Các văn kiện pháp lý-chính trị quốc tế.

2. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp biển


Nguyên tắc cơ bản và quan trọng nhất trong giải quyết tranh chấp quốc tế về biển là
bằng biện pháp hoà bình. Theo đó, các bên liên quan phải xem giải quyết tranh chấp bằng
biện pháp hoà bình là một nghĩa vụ bắt buộc. Điều này đồng nghĩa với việc Luật quốc tế
nghiêm cấm các quốc gia sử dụng vũ lực để giải quyết các tranh chấp quốc tế nói chung
và tranh chấp biển nói riêng. Việc quy định các biện pháp hoà bình giải quyết tranh chấp
quốc tế quy định tại điều 33 Hiến chương Liên hợp quốc còn tạo ra cho các bên tranh
chấp các sự lựa chọn biện pháp thích hợp cho các tình huống tranh chấp cụ thể. Thực tế,
Luật quốc tế không tạo ra một “công thức” bắt buộc chung cho các quốc gia trong giải
quyết tranh chấp. Việc lựa chọn phương pháp nào là hoàn toàn phụ thuộc vào các bên liên
quan thoả thuận. Thậm chí các bên có thể không lựa chọn các biện pháp đã nêu trong điều
33 Hiến chương Liên hợp quốc mà đề xuất một phương pháp khác phù hợp hơn. Điều bắt
buộc duy nhất mà các bên phải tuân theo là phải giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hoà
bình sao cho đảm bảo hoà bình và an ninh quốc tế.
Bên cạnh đó, việc giải quyết tranh chấp quốc tế về biển cũng phái tính đến nguyên tắc
tôn trọng quyền lợi của các quốc gia không có biển và các quốc gia bất lợi về mặt địa lý.
Đây cũng có thể xem là một nguyên tắc đặc trưng trong luật biển và giải quyết tranh chấp
quốc tế về biển. Xuất phát từ quan niệm biển là của chung, Luật biển quốc tế đã giành cho
các quốc gia không có biển hoặc các quốc gia bất lợi về mặt địa lý một số quyền lợi liên
quan đến biển. Trong đó, có thể kể đến trước tiên đó là quyền đi qua không gây hại của
tàu thuyền nước ngoài trong lãnh hải các quốc gia ven biển. Tiếp đến là quyền được khai
thác một phần nguồn lợi thuỷ hải sản trong vùng đặc quyền kinh tế. Hoặc là một số quyền
lợi khác ở các vùng biển khác như nghiên cứu khoa học biển, lắp đặt các đảo nhân tạo ...
Do đó, khi giải quyết tranh chấp quốc tế về biển, các bên liên quan phải tính đến quyền
lợi hợp pháp của các quốc gia không có biển hoặc các quốc gia bất lợi về mặt địa lý.
7
3. Cơ chế giải quyết tranh chấp theo UNCLOS 1982
a. Các quy định chung về giải quyết tranh chấp theo UNCLOS 1982.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp quốc tế bằng biện pháp hòa bình.
CSPL: Phần thứ XV và các phụ lục V, VI, VII và VIII của UNCLOS 1982.

b. Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thủ tục ngoại giao
Giải quyết tranh chấp bằng thủ tục ngoại giao có 2 hình thức là đàm phán trực tiếp và
thông qua bên thứ ba.
 Đối với đàm phán trực tiếp:
Khái niệm: Đàm phán trực tiếp là sự trao đổi, thỏa thuận, thương lượng trực tiếp giữa
các bên tranh chấp để giải quyết tranh chấp.
Ưu điểm của biện pháp này là các bên được bày tỏ quan điểm, yêu sách trực tiếp để
thấu hiểu lẫn nhau, giảm bớt căng thẳng, bất đồng, hiểu nhầm. Phương pháp này cũng
giúp các bên hữu quan được tự do thỏa thuận thể thức, thủ tục, thời gian trong suốt quá
trình đàm phán.
Tuy nhiên, thủ tục này khó thành công khi các bên tranh chấp thường căng thẳng, chỉ
trích lẫn nhau và luôn đặt lợi ích của quốc gia mình lên trên dẫn đến khó dung hòa.
 Đối với đàm phán thông qua bên thứ ba:
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp trung gian
+ Phương pháp hòa giải

c. Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thủ tục tài phán
Biện pháp giải quyết tranh chấp bằng cơ chế tài phán quốc tế bao gồm giải quyết
tranh chấp quốc tế bằng tòa án quốc tế và trọng tài quốc tế. Tòa trọng tài có nhiều điểm
chung với tòa án thường trực, như về nguyên tắc việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài
hay tài phán quốc tế được thực hiện dựa trên cơ sở luật quốc tế.

You might also like