Professional Documents
Culture Documents
1
Nguyễn Hồng Thao (Chủ biên), Công ước biển 1982 và chiến lược biển của Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia,
2008, tr.109
1
Trường hợp thứ hai, quốc gia ven biển đơn phương hoạch định biên giới trên biển
trong trường hợp toàn bộ hoặc một phần bờ biển của quốc gia này không đối diện hoặc
tiếp giáp với bất kỳ quốc gia nào
Trong trường hợp này, xác định biên giới quốc gia trên biển là nhằm phân định nội
thủy, lãnh hải thuộc chủ quyền quốc gia với các vùng quốc gia có quyền chủ quyền trên
biển.
Tuy nhiên, quốc gia ven biển phải tuân thủ các nguyên tắc chung của luật biển quốc tế.
Sau khi đã xác định được đường cơ sở và chiều rộng lãnh hải, công bố chính thức, công
khai trên hải đồ tỷ lệ lớn, đường biên giới quốc gia trên biển chính là ranh giới phía ngoài
của lãnh hải.2
2
ngoài của rìa lục địa hoặc tới giới hạn 200 hải lý tính từ đường cơ sở khi bờ ngoài của rìa
lục địa ở khoảng cách gần hơn.
Tuy nhiên, bề rộng tối đa của Thềm lục địa tính theo bờ ngoài của rìa lục địa, không
được vượt quá giới hạn 350 hải lý tính từ Đường cơ sở, hoặc không quá 100 hải lý bên
ngoài đường thẳng sâu 2.500m. Như vậy Thềm lục địa cách đường cơ sở từ 200 đến tối đa
là 350 hải lý tùy theo nền của lục địa.
Quốc gia ven biển thực hiện các quyền chủ quyền đối với thềm lục địa về mặt thăm dò
và khai thác tài nguyên thiên nhiên (khoáng sản, tài nguyên không sinh vật như dầu khí,
các tài nguyên sinh vật như cá, tôm...) của mình. Vì đây là đặc quyền của quốc gia ven
biển nên không ai có quyền tiến hành các hoạt động như vậy nếu không có sự thỏa thuận
của quốc gia đó. Nghĩa là chỉ quốc gia ven biển mới có quyền cho phép và quy định việc
khoan ở thềm lục địa bất kỳ vào mục đích gì. Tuy nhiên, quốc gia ven biển khi thực hiện
quyền đối với thềm lục địa không được đụng chạm đến chế độ pháp lý của vùng nước
phía trên, không được gây thiệt hại đến hàng hải hay các quyền tự do của các quốc gia
khác.
Khi tiến hành khai thác thềm lục địa ngoài 200 hải lý kể từ đường cơ sở, quốc gia ven
biển phải nộp một khoản đóng góp tiền hay hiện vật theo quy định của công ước. Quốc
gia ven biển có quyền tài phán về nghiên cứu khoa học. Mọi nghiên cứu khoa học biển
trên thềm lục địa phải có sự đồng ý của quốc gia ven biển. Tất cả các quốc gia khác đều
có quyền lắp đặt các dây cáp và ống dẫn ngầm ở thềm lục địa. Quốc gia đặt cáp hoặc ống
dẫn ngầm phải thỏa thuận với quốc gia ven biển về tuyến đường đi của ống dẫn hoặc
đường cáp đó.
Như vậy đối với những khu vực thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của
Việt Nam, chỉ có Việt Nam mới có quyền thăm dò và khai thác tài nguyên thiên nhiên.
Mọi hành động thăm dò và khai thác của quốc gia khác mà không được sự đồng ý và thỏa
thuận của Việt Nam là xâm phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam.
4. Thực trạng phân định biển giữa Việt Nam và các nước
a. Việt Nam và Trung Quốc
Vịnh Bắc Bộ có diện tích khoảng 126.250 km 2 (36.000 hải lý vuông), chiều ngang nơi
rộng nhất khoảng 310 km (176 hải lý), nơi hẹp nhất ở cửa Vịnh rộng khoảng 220 km (119
hải lý). Bờ biển của Vịnh có tổng chiều dài khoảng 1458 km, trong đó bờ biển Việt Nam
dài khoảng 763 km và Trung Quốc khoảng 695 km. Vịnh có hai cửa: eo biển Quỳnh Châu
3
nằm giữa bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam với bề rộng khoảng 19 hải lý và cửa chính
của Vịnh từ đảo Cồn Cỏ (Việt Nam) tới đảo Hải Nam (Trung Quốc) rộng khoảng 112 hải
lý. Phần Vịnh phía Việt Nam có khoảng 2.300 đảo, đá ven bờ, đặc biệt có đảo Bạch Long
Vĩ nằm cách đất liền Việt Nam khoảng 110 km, cách đảo Hải Nam (Trung Quốc) khoảng
130 km. Phía Trung Quốc chỉ có một số ít đảo nhỏ ở phía Đông Bắc Vịnh như đảo Vị
Châu, đảo Tà Dương.
Do chiều rộng của Vịnh Bắc Bộ nơi rộng nhất không đến 200 hải lý và do bờ biển
Việt Nam và Trung Quốc chủ yếu nằm đối diện nên theo quy định UNCLOS 1982 vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong Vịnh bị “chồng lấn” lên nhau. Ngoài
ra, vùng lãnh hải của hai nước cũng có hiện tượng chồng lấn. Như vậy, để phân định các
vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa và lãnh hải thì hai nước phải tiến hành đàm phán và
ký kết các điều ước để giải quyết việc phân định hòa bình.
Từ năm 1992 đến năm 2000, ta và Trung Quốc tổ chức 10 vòng đàm phán chính thức
và không chính thức ở cấp Đoàn đàm phán Chính phủ, 18 vòng đàm phán cấp Nhóm công
tác liên hợp cấp chuyên viên, 08 vòng đàm phán cấp Tổ chuyên viên liên hợp không
chính thức và 10 vòng đàm phán của Tổ chuyên gia đo vẽ phục vụ phân định.
Ngày 25/12/2000, hai nước đã ký Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa giữa Việt Nam và Trung Quốc trong Vịnh Bắc Bộ. Hai bên cam kết tôn
trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên đối với lãnh hải, vùng
đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong Vịnh Bắc Bộ.
4
c. Việt Nam và Thái Lan
Vịnh Thái Lan (còn gọi là Vịnh Xiêm) là một vùng biển nửa kín, với diện tích khoảng
300.000 km2, giới hạn bởi bờ biển 4 nước Thái Lan (1560km), Việt Nam (230 km),
Malaixia (150 km) và Campuchia (460 km). Vịnh thông ra Biển Đông ở phía Nam bằng
một cửa duy nhất hợp bởi mũi Cà Mau và mũi Trenggranu cách nhau chừng 400 km (215
hải lý). Vịnh khá dài (chừng 450 hải lý) nhưng có diện tích nhỏ, chiều rộng trung bình là
385 km (208 hải lý), có ý nghĩa quan trọng đối với Việt Nam về an ninh quốc phòng và
kinh tế do có ngư trường rộng lớn và tiềm năng dầu khí. Trong Vịnh có một số đảo quan
trọng của hai nước, phía Việt Nam có đảo Phú Quốc, đảo Thổ Chu…, phía Thái Lan có
đảo Ko Phangun, Ko Samui...
Từ năm 1992 đến năm 1997 ta và Thái Lan tiến hành 09 vòng đàm phán phân định
vùng biển chồng lấn giữa hai nước. Ngày 9/8/1997, tại Băng-cốc, đại diện Chính phủ
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và đại diện Chính phủ Vương quốc Thái Lan
đã ký Hiệp định phân định ranh giới trên biển giữa hai nước trong Vịnh Thái Lan.
5
Trên thực tế cho thấy vùng biển giáp ranh giữa Việt Nam và Malaysia tồn tại một
vùng biển chồng lấn trên thềm lục địa của hai nước rộng khoảng 2.800 km2. Khu vực này
nằm ở cửa vịnh Thái Lan có độ sâu nhỏ, trung bình khoảng 50 m, địa hình đáy biển tương
đối bằng phẳng.
Hai nước Việt Nam và Malaysia đều là thành viên của UNCLOS, cho nên nguyên
tắc chung để giải quyết phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế là nguyên tắc
công bằng đã được ghi nhận trong các Điều 74 và Điều 83 của UNCLOS 1982. Yêu cầu
của thực tế diễn ra đó là hai bên phải tuần tự đàm phán, thu hẹp những bất đồng, mâu
thuẫn, nhằm tìm ra giải pháp công bằng mà hai bên có thể chấp nhận.
6
giải (Phụ lục V); tổ chức, thẩm quyền, và thủ tục tố tụng của Toà án Quốc tế về Luật biển
(Phụ lục VI); thẩm quyền, thủ tục và giải quyết tranh chấp bằng trọng tài, (Phụ lục VII);
về việc giải quyết tranh chấp bằng toà án trọng tài đặc biệt (Phụ lục VIII),... Ngoài ra còn
có:
Hiệp định quốc tế song phương
Tập quán quốc tế;
Các văn kiện pháp lý-chính trị quốc tế.
b. Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thủ tục ngoại giao
Giải quyết tranh chấp bằng thủ tục ngoại giao có 2 hình thức là đàm phán trực tiếp và
thông qua bên thứ ba.
Đối với đàm phán trực tiếp:
Khái niệm: Đàm phán trực tiếp là sự trao đổi, thỏa thuận, thương lượng trực tiếp giữa
các bên tranh chấp để giải quyết tranh chấp.
Ưu điểm của biện pháp này là các bên được bày tỏ quan điểm, yêu sách trực tiếp để
thấu hiểu lẫn nhau, giảm bớt căng thẳng, bất đồng, hiểu nhầm. Phương pháp này cũng
giúp các bên hữu quan được tự do thỏa thuận thể thức, thủ tục, thời gian trong suốt quá
trình đàm phán.
Tuy nhiên, thủ tục này khó thành công khi các bên tranh chấp thường căng thẳng, chỉ
trích lẫn nhau và luôn đặt lợi ích của quốc gia mình lên trên dẫn đến khó dung hòa.
Đối với đàm phán thông qua bên thứ ba:
+ Phương pháp điều tra
+ Phương pháp trung gian
+ Phương pháp hòa giải
c. Giải quyết tranh chấp bằng biện pháp thủ tục tài phán
Biện pháp giải quyết tranh chấp bằng cơ chế tài phán quốc tế bao gồm giải quyết
tranh chấp quốc tế bằng tòa án quốc tế và trọng tài quốc tế. Tòa trọng tài có nhiều điểm
chung với tòa án thường trực, như về nguyên tắc việc giải quyết tranh chấp tại trọng tài
hay tài phán quốc tế được thực hiện dựa trên cơ sở luật quốc tế.