Professional Documents
Culture Documents
Giáo Trình Mô Đun Marketing (Nghề Kế Toán Doanh Nghiệp - Trình Độ Trung Cấp) - CĐ Kỹ Thuật Công Nghệ BR-VT - 1429029
Giáo Trình Mô Đun Marketing (Nghề Kế Toán Doanh Nghiệp - Trình Độ Trung Cấp) - CĐ Kỹ Thuật Công Nghệ BR-VT - 1429029
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU
TRƯỜNG CAO ĐẲNG KỸ THUẬT CÔNG NGHỆ BRVT
GIÁO TRÌNH
MÔ ĐUN: MARKETING
NGHỀ: KẾ TOÁN DOANH NGHIỆP
TRÌNH ĐỘ: TRUNG CẤP
(Ban hành kèm theo Quyết định số: /QĐCĐKTCN ngày tháng năm
của Hiệu trưởng trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ BR – VT)
BÀ RỊA – VŨNG TÀU, NĂM 2020
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
TUYÊN BỐ BẢN QUYỀN
Nhằm đáp ứng nhu cầu học tập và nghiên cứu cho giảng viên và sinh viên
nghề Kế toán doanh nghiệp trong trường Cao đẳng Kỹ thuật Công nghệ Bà
Rịa – Vũng Tàu. Chúng tôi đã thực hiện biên soạn tài liệu Kế toán thanh toán
này.
Tài liệu được biên soạn thuộc giáo trình phục vụ giảng dạy và học tập,
lưu hành nội bộ trong nhà trường nên các nguồn thông tin có thể được phép
dùng nguyên bản hoặc trích dùng cho các mục đích đào tạo và tham khảo.
Mọi mục đích khác mang tính lệch lạc hoặc sử dụng với mục đích kinh
doanh thiếu lành mạnh sẽ bị nghiêm cấm.
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
LỜI GIỚI THIỆU
Giáo trình “Marketing” được biên soạn dựa theo khung chương trình đào
tạo Trung cấp nghề Kế toán doanh nghiệp đã được trường Cao đẳng Kỹ
thuật Công nghệ Bà Rịa – Vũng Tàu phê duyệt.
Tác giả đã nghiên cứu một số tài liệu kết hợp với kinh nghiệm làm việc
thực tế để viết nên giáo trình. Nội dung được tác giả trình bày cô đọng, dễ
hiểu hệ thống kiến thức nền tảng về Marketing hiện đại, bao gồm các khía
cạnh: nghiên cứu thị trường, xây dựng và phát triển các mối quan hệ khách
hàng, thiết kế chương trình phân phối sản phẩm, tổ chức phân phối sản
phẩm, định giá sản phẩm, quảng bá thương hiệu, tổ chức sự kiện…
Với kiến thức được trang bị, người học có khả năng nắm bắt tâm lý khách
hàng, nghiên cứu thị trị trường, nghiên cứu hành vi tiêu dùng và nhu cầu khách
hàng, hoạch định chiến lược quảng bá thương hiệu và phát triển sản phẩm
hiệu quả, nhạy bén nhận biết cơ hội và thách thức trước các đối thủ cạnh
tranh.
Nội dung giáo trình được chia thành 7 bài, trong đó:
Bài 1: Tổng quan về Marketing
Bài 2: Nghiên cứu Marketing
Bài 3: Phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, định vị trong thị
trường
Bài 4: Chiến lược sản phẩm
Bài 5: Chiến lược giá
Bài 6: Chiến lược phân phối
Bài 7: Chiến lược xúc tiến
Trong quá trình biên soạn, chắc chắn giáo trình còn nhiều thiếu sót. Tác giả
mong nhận được ý kiến đóng góp của quý thầy/cô và các em học sinh, sinh
viên để tiếp tục hoàn thiện hơn.
3
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Xin chân thành cảm ơn quý đồng nghiệp, bạn bè đã có những ý kiến đóng
góp trong quá trình biên soạn giáo trình này.
Bà Rịa – Vũng Tàu, ngày….. tháng….. năm
Tham gia biên soạn
1. Lương Thị Kim Tuyến – Chủ biên
4
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
MỤC LỤC
Trang
5
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
GIÁO TRÌNH MÔ ĐUN
Tên mô đun: Marketing
Mã mô đun: MĐ24
Vị trí, tính chất, ý nghĩa và vai trò của mô đun:
Vị trí: Marketing được bố trí giảng dạy trước mô đun chuyên ngành như
Kế toán bán hàng, Kế toán tiền lương, Kế toán giá thành và sau mô đun Kinh
tế vi mô, Kinh tế vĩ mô.
Tính chất: là mô đun tự chọn.
Ý nghĩa và vai trò: Marketing là môn học cung cấp cho người học những
kiến thức căn bản nhất trong lĩnh vực Marketing, giúp người học bước đầu
vận dụng các kiến thức kỹ năng của môn học vào các hoạt động Marketing
của doanh nghiệp.
Mục tiêu của mô đun:
Về kiến thức:
+ Trình bày được khái niệm, tầm quan trọng, bản chất, các chức năng cơ
bản của Marketing đối với doanh nghiệp.
+ Trình bày được môi trường Marketing
+ Trình bày được khái niệm về thị trường, phân khúc thị trường, định vị
sản phẩm, định vị thương hiệu.
+ Trình bày được các chiến lược sản phẩm, chiến lược giá, chiến lược
phân phối và truyền thông
+ Trình bày được các nguyên lý Marketing và các công cụ Marketing
Về kỹ năng:
+ Lựa chọn được công cụ Marketing phù hợp với từng ngành nghề của
doanh nghiệp.
+ Tổ chức được các hoạt động Marketing trong doanh nghiệp
+ Quản lý được danh mục sản phẩm, định giá, tổ chức phân phối và
truyền thông Marketing trong doanh nghiệp
6
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
+ Phân tích được các điểm mạnh, yếu của mình, phát hiện được các cơ
hội, rủi ro cho doanh nghiệp;
+ Xác định được các yếu tố tác động đến quyết định mua hàng.
+ Xác định được thị trường phù hợp, nhu cầu của người tiêu dùng, ;
+ Giải thích được hành vi mua sắm của người tiêu dùng ;
+ Xác định được các tiêu chí để phân khúc thị trường ;
+ Xác định được giá cả và sản phẩm phù hợp cho từng phân khúc thị
trường;
+ Xác định được hình thức quảng bá sản phẩm và kênh phân phối sản
phẩm đến người tiêu dùng;
Về năng lực tự chủ và trách nhiệm:
+ Có kỹ năng lập luận, thuyết trình trước công chúng.
+ Có năng lực dẫn dắt về chuyên môn Marketing, có sáng kiến trong quá
trình thực hiện nhiệm vụ được giao.
+ Có khả năng tự định hướng, thích nghi với môi trường làm việc khác
nhau.
+ Có khả năng đưa ra được kết luận về các vấn đề chuyên môn, nghiệp
vụ thông thường.
+ Có năng lực lập kế hoạch, điều phối, phát huy trí tuệ tập thể.
Nội dung của mô đun:
7
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
BÀI 1: TỔNG QUAN VỀ MARKETING
Mã bài: 24.1
Giới thiệu:
Marketing đang phát triển nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu cũng như
Việt Nam, nhưng cũng gặp phải nhiều thách thức do những quan niệm không
đúng về nó. Các doanh nghiệp đua nhau làm marketing quá mức dẫn đến
người tiêu dùng có nhận thức “nghi ngờ thiện chí” của marketing.
Từ đó việc hiểu bản chất của marketing giúp các doanh nghiệp có định
hướng tốt hơn khi làm marketing và giúp cho công chúng hiểu đúng và đủ từ
đó có thiện chí hơn với hoạt động marketing.
Mục tiêu:
Trình bày được khái niệm và bản chất của Marketing.
Trình bày được các quan điểm khác nhau về Marketing, sự cần thiết của
hoạt động marketing trong sản xuất kinh doanh.
Phân biệt được môi trường Marketing.
Phân tích được sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường vĩ mô và vi mô
đến việc xây dựng chiến lược Marketing của doanh nghiệp.
Lựa chọn được công cụ marketing phù hợp với từng ngành nghề của
doanh nghiệp.
Có khả năng định hướng, thích nghi với các môi trường làm việc khác
nhau.
Nội dung:
1. Sự ra đời và phát triển của Marketing
1.1. Sự ra đời và phát triển
Trên thế giới marketing xuất hiện gắn liền với trao đổi hàng hoá bởi có
trao đổi là đối tác để có mối quan hệ lâu dài với đối tác cần thực hiện các
hoạt động marketing. Tuy nhiên marketing thực sự phát triển khi cạnh tranh
8
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
xuất hiện ở Việt Nam trong thời kỳ bao cấp tuy khẩu hiệu “ vui lòng khách
đến vừa lòng khách đi” đã thể hiện định hướng khách hàng nhưng marketing
chưa phát triển vì sản xuất bao nhiêu được tiêu thụ bấy nhiêu ko có cạnh
tranh. Sản lượng sản xuất ra ko đáng kể so với nhu cầu.
Trong cơ chế thị trường sản xuất gắn với thị trường quá trình tìm kiến giải
pháp tiêu thụ sản phẩm thúc đẩy sản xuất kinh doanh làm cho marketing phát
triển hơn và hình thành môn khoa học về marketing hoàn chỉnh.
Trong cơ chế thị trường sản xuất gắn với thị trường quá trình tìm kiến giải
pháp tiêu thụ sản phẩm thúc đẩy sản xuất kinh doanh làm cho marketing phát
triển hơn và hình thành môn khoa học về marketing hoàn chỉnh.
Ngày nay marketing ngày càng hoàn thiện hơn ko chỉ gắn với tiêu thụ sản
phẩm màn còn chú trọng các khâu trước sản xuất trong sản xuất và sau sản
xuất . Marketing được coi như 12 thứ vũ khí sắc bén mà các doanh nghiệp sử
dụng để tạo ra lợi thế cạnh tranh. Các hoạt động marketing được thể hiện
rất rõ nét khi các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vốn vào Việt Nam với
chương trình nghiên cứu thăm dò thị trường và các biện pháp quảng cáo tiếp
thị nhằm thúc đẩy tiêu thụ. Ngày nay ko chỉ các doanh nghiệp nước ngoài mà
cả các doanh nghiệp trong nước và người dân nói chung đều nhận thức và
xem maketing (các hoạt động quảng cáo, tiếp thị như ) “ một phần tất yếu
của cuộc sống”
Marketing làm thay đổi tư duy hành động của các doanh nghiệp nhằm tạo
lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh
1.2. Khái niệm và bản chất của Marketing
Marketing là quá trình doanh nghiệp thích nghi với thị trường tạo ra các
cuộc trao đổi nhằm thoả mãn nhu cầu mong muốn của mọi người
Marketing là tiến trình quản trị. Marketing cần được xem là một bộ phận
chức năng trong một tổ chức và cần có nhiều kỹ năng quản trị
9
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Toàn bộ các hoạt động Marketing hướng theo khách hàng. Marketing phải
nhận ra và thỏa mãn những yêu cầu, mong muốn của khách hàng.
Marketing thỏa mãn nhu cầu khách hàng một cách hiệu quả và có lợi. Một
tổ chức không thể thỏa mãn tất cả mọi người trong mọi lúc, các nhà làm
Marketing đôi khi phải có sự điều chỉnh
Trao đổi là khái niệm quyết định tạo nền móng cho Marketing. Tuy nhiên,
các hoạt động Marketing lại tạo điều kiện cho quá trình trao đổi diễn ra thuận
lợi nhằm mục đích thỏa mãn những đòi hỏi và ước muốn của con người
Nội dung hoạt động Marketing bao gồm thiết kế, định giá, xúc tiến và phân
phối sản phẩm. Marketing dùng những phương cách này để kích thích sự trao
đổi.
1.3. Khác biệt giữa quan điểm bán hàng và quan điểm Marketing
Bán hàng Marketing
10
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
tại. Chú trọng lợi ích người mua.
Chú trọng quyền lợi người bán
2. Mục tiêu và chức năng của Marketing
❖ Mục tiêu
Marketing hướng tới ba mục tiêu chủ yếu sau:
Thỏa mãn khách hàng: Là vấn đề sống còn của công ty. Các nỗ lực
Marketing nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng, làm cho họ hài lòng, trung
thành với công ty, qua đó thu phục thêm khách hàng mới.
Chiến thắng trong cạnh tranh: Giải pháp Marketing giúp công ty đối phó
tốt với các thách thức cạnh tranh, bảo đảm vị thế cạnh tranh thắng lợi trên thị
trường.
Lợi nhuận lâu dài: Marketing phải tạo ra mức lợi nhuận cần thiết giúp
công ty tích lũy và phát triển.
❖ Chức năng
Chức năng cơ bản của Marketing là dựa trên sự phân tích môi trường để
quản trị Marketing, cụ thể là:
Phân tích môi trường và nghiên cứu Marketing: dự báo và thích ứng với
những yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự thành công hay thất bại; tập hợp
các thông tin để quyết định các vấn đề Marketing.
Mở rộng phạm vi hoạt động: lựa chọn và đưa ra cách thức thâm nhập
những thị trường mới.
11
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Phân tích người tiêu thụ: xem xét và đánh giá những đặc tính, yêu cầu,
tiến trình mua của người tiêu thụ; lựa chọn các nhóm người tiêu thụ để
hướng các nỗ lực Marketing vào.
Hoạch định sản phẩm: phát triển và duy trì sản phẩm, dòng và tập hợp
sản phẩm, hình ảnh sản phẩm, nhãn hiệu, bao bì; loại bỏ sản phẩm yếu kém.
Hoạch định phân phối: Xây dựng mối liên hệ với trung gian phân phối,
quản lý dự trữ, tồn kho, vận chuyển và phân phối hàng hóa và dịch vụ, bán sỉ
và bán lẻ.
Hoạch định xúc tiến: thông đạt với khách hàng, với công chúng và các
nhóm khác thông qua các hình thức của quảng cáo, quan hệ công chúng, bán
hàng cá nhân và khuyến mãi.
Hoạch định giá: xác định các mức giá, kỹ thuật định giá, các điều khoản
bán hàng, điều chỉnh giá và sử dụng giá như một yếu tố tích cực hay thụ
động.
Thực hiện kiểm soát và đánh giá Marketing: Hoạch định, thực hiện và
kiểm soát các chương trình, chiến lược Marketing, đánh giá các rủi ro và lợi
ích của các quyết định và tập trung vào chất lượng toàn diện.
3. Phân loại Marketing
❖ Căn cứ vào lĩnh vực hoạt động
Marketing trong kinh doanh: Marketing được ứng dụng trong những lĩnh
vực sản
xuất kinh doanh như:
Marketing công nghiệp.
Marketing thương mại.
Marketing du lịch.
Marketing dịch vụ.
12
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Marketing phi kinh doanh: hay còn gọi là Marketing xã hội. Hình thức
Marketing này được ứng dụng trong những lĩnh vực chính trị, văn hóa, y tế,
giáo dục, xã hội…
❖ Căn cứ vào quy mô hoạt động
Marketing vi mô: do các doanh nghiệp thực hiện.
Marketing vĩ mô: do các cơ quan của chính phủ thực hiện nhằm định
hướng phát triển các ngành kinh tế, hoặc thị trường chung cả nước.
❖ Căn cứ vào phạm vi hoạt động
Marketing trong nước: thực hiện Marketing trong phạm vi lãnh thổ một
quốc gia. Marketing quốc tế: do các tổ chức đa quốc gia thực hiện trên
phạm vi toàn cầu.
❖ Căn cứ vào khách hàng
Marketing cho tổ chức: đối tượng tác động của Marketing là các nhà sử
dụng công nghiệp, trung gian, các tổ chức chính phủ … Marketing cho người
tiêu dùng: các cá nhân, hộ gia đình là đối tượng phục vụ của Marketing.
❖ Căn cứ vào đặc điểm cấu tạo sản phẩm
Marketing sản phẩm hữu hình: Marketing được sử dụng trong những tổ
chức cung cấp các loại sản phẩm cụ thể như thực phẩm, hàng kim khí điện
máy,…
Marketing sản phẩm vô hình: còn gọi là Marketing dịch vụ. Marketing được
ứng dụng trong các tổ chức cung cấp dịch vụ vận chuyển, bảo hiểm, du lịch,
thông tin,…
4. Môi trường Marketing
4.1. Môi trường vĩ mô
a. Dân số
Môi trường dân số bao gồm các yếu tố như quy mô dân số, mật độ dân số,
tuổi tác, giới tính, chủng tộc, trình độ học vấn, nghề nghiệp…Đó là các khía
13
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
cạnh được người làm Marketing quan tâm nhiều nhất bởi nó liên quan trực
tiếp đến con người và con người là tác nhân tạo ra thị trường.
Những biến động về dân số có thể làm thay đổi về mặt lượng của thị
trường ( tăng hoặc giảm quy mô dân số sẽ dẫn đến tăng hoặc giảm quy mô
thị trường) đồng thời nó cũng ảnh hưởng trực tiếp, làm thay đổi về mặt chất
của thị trường ( Tuổi trung bình cao hơn trong cơ cấu dân số sẽ dẫn đến sự
gia tăng về nhu cầu liên quan đến sức khỏe trong cộng đồng dân chúng).
Những sự chuyển dịch về dân số: Là sự gia tăng về quy mô dân số ở một
số quốc gia, một số khu vực do tình trạng di dân. Ngoài ra còn có tình trạng
dân chúng tập trung vào các đô thị lớn do điều kiện làm việc và đời sống cao
hơn tạo ra quy mô và mật độ dân số cao ở các đô thị lớn.
Những thay đổi về cơ cấu tuổi tác trong dân chúng: Tỷ lệ sinh đẻ thấp ở
một số quốc gia phát triển tạo ra cơ cấu tuổi tác già. Ngoài ra các điều kiện
phúc lợi xã hội ở các quốc gia phát triển làm cho tuổi thọ trung bình trong dân
chúng cao hơn cũng dẫn đến cơ cấu tuổi tác già.
Sự thay đổi về cơ cấu gia đình: Xu hướng hiện này là sự xuất hiện ngày
càng nhiều số lượng thanh niên độc thân, sống độc lập với gia đình; các cặp
vợ chồng có con cái ít hơn, tạo ra một cơ cấu gia đình có quy mô nhỏ; vai trò
phụ nữ ngày càng nâng cao trong gia đình và xã hội.
Một cơ cấu dân cư có trình độ văn hóa cao hơn: Sự nâng cao về đời sống
kinh tế, văn hóa và giáo dục tạo ra một tỷ lệ cao hơn dân số có trình độ văn
hóa. Sự thay đổi này tạo ra trên thị trường những nhu cầu tiêu dùng cao cấp
hơn, đòi hỏi nhiều hơn các nhu cầu giải trí, văn hóa, tinh thần.
b. Kinh tế
Môi trường kinh tế bao gồm những yếu tố tác động đến khả năng chi tiêu
của khách hàng và tạo ra những mẫu tiêu dùng khác biệt. Việc hiểu thị
trường không chỉ biết rõ về yếu tố mong muốn của con người mà còn phải
nắm được khả năng chi tiêu của họ. Khả năng chi tiêu này ngoài việc phụ
thuộc vào nhu cầu và giá cả, còn phụ thuộc rất nhiều vào tình hình kinh tế,
14
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
mức thu nhập của người dân, nhu cầu tiết kiệm và các điều kiện tài chính tín
dụng. Do đó, các nhà Marketing phải nhận biết được các xu hướng chính về
thu nhập trong dân chúng và những thay đổi về chi tiêu của các nhóm dân
chúng khác biệt. Xu hướng tăng lên về thu nhập trung bình trong dân chúng
ngoài việc sẽ tạo ra một sức mua cao hơn trên thị trường còn dẫn đến những
nhu cầu, mong muốn khác biệt hơn từ phía người tiêu dùng. Họ có thể đòi hỏi
nhiều hơn hay sẵn sàng bỏ ra một số tiền cao hơn cho các yếu tố chất lượng,
sự đa dạng, tính tiện dụng, tính thẩm mỹ hay giá trị tinh thần mà sản phẩm
hay dịch vụ có khả năng mang lại.
Ngoài ra, một xu hướng khác là sự phân bổ về thu nhập có nhiều phân hóa
trong dân chúng cũng là một vấn đề mà các nhà Marketing cần quan tâm.
Chính sự phân hóa này làm đa dạng hơn về nhu cầu, mong muốn của người
tiêu dùng và tạo ra trên thị trường nhiều phân khúc khác biệt.
c. Tự nhiên
Môi trường tự nhiên bao gồm các nguồn tài nguyên thiên nhiên được xem là
những nhân tố đầu vào cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp và còn có
những ảnh hưởng nhất định đến các hoạt động Marketing của doanh nghiệp
đó. Những ảnh hưởng đó như sau:
Sự khan hiếm nguồn nguyên vật liệu: Sự thiếu hụt này là hệ quả của
việc khai thác quá mức nguồn lực thiên nhiên của các ngành công nghiệp –
dịch vụ. Sự thiếu hụt này ảnh hưởng khá lớn đến hoạt động của một doanh
nghiệp như làm tăng chi phí sản xuất, cần thiết phải thay đổi hình ảnh sản
phẩm, dịch vụ trước công chúng, và những nỗ lực nghiên cứu tìm kiếm
nguồn nguyên liệu mới.
Sự gia tăng chi phí năng lượng làm tăng chi phí hoạt động sản xuất của
một doanh nghiệp đồng thời làm tăng chi phí sinh hoạt, sử dụng sản phẩm –
dịch vụ của người tiêu dùng.
Tình trạng ô nhiễm môi trường tăng lên do hoạt động của các ngành công
nghiệp và sự sinh hoạt của con. Do đó, rất nhiều các doanh nghiệp , hiệp hội,
15
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
quốc gia quan tâm và có những nỗ lực kìm nén tình trạng này. Điều này ảnh
hưởng to lớn đến hoạt động của doanh nghiệp và ý thức sinh hoạt tiêu dùng
của dân chúng
d. Công nghệ
Tiến bộ khoa học kỹ thuật tác động đến thị trường ở những mặt như sau:
Khởi đầu những ngành công nghiệp mới như máy vi tính, dịch vụ
mạng….
Làm thay đổi căn bản hay xóa bỏ hoàn toàn các sản phẩm hiện hữu.
Kích thích sự phát triển những sản phẩm liên quan hoặc không liên quan
đến kỹ thuật mới Sự phát triển công nghệ làm chu kỳ sống của sản phẩm bị
rút ngắn lại. Sự ra đời ngày càng nhiều và với tốc độ ngày càng cao của các
sản phẩm mới ưu việt hơn thay thế các sản phẩm hiện hữu trên thị trường
làm cho chu kỳ sống của chúng bị rút ngắn lại.
e. Pháp luật
Các quyết định Marketing của một doanh nghiệp thường bị ảnh hưởng bởi
nhiều yếu tố pháp luật. Đó có thể là các điều khoản pháp luật, các chính sách
được nhà nước, chính phủ và chính quyền địa phương ban hành. Các yếu tố
này điều chỉnh những hoạt động của doanh nghiệp theo khuôn khổ cho phép
của pháp luật.
Hệ thống pháp luật của một quốc gia bao gồm: Hiến pháp, luật dân sự,
luật công ty,luật thương mại, luật thuế thu nhập doanh nghiệp, luật thu ế giá
trị gia tăng, luật đầu tư nước ngoài, luật đất đai…Các quy định về quảng cáo,
bảo vệ bản quyền, hay các quy định về loại sản phẩm dịch vụ nào được kinh
doanh và không được kinh doanh, các vấn đề về đảm bảo chất lượng sản
phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm.
Các chính sách nhà nước liên quan đến doanh nghiệp bao gồm các chính
sách đặc thù về từng lĩnh vực như: chính sách thuế quan, tài trợ trong doanh
16
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
nghiệp, trong giao thông, trong xuất nhập khẩu và khuyến khích đầu tư trong
và ngoài nước.
Môi trường pháp luật – chính trị trước hết là để bảo vệ quyền lợi giữa các
công ty với nhau. Thứ hai là để bảo vệ người tiêu dùng tránh được các giao
dịch mua bán không công bằng. Thứ ba là để bảo vệ lợi ích rộng lớn của xã
hội tránh khỏi các hành vi kinh doanh sai lệch.
f. Văn hóa
Con người sinh ra và lớn lên trong một xã hội cụ thể và những niềm tin,
nhận thức về các giá trị, chuẩn mực, truyền thống, hành vi của họ bị ảnh
hưởng từ xã hội, từ nền văn hóa mà họ đang sinh sống. Một số đặc trưng về
môi trường văn hóaxã hội sau đây có tác động đến hoạt động Marketing của
một doanh nghiệp:
Tính bền vững của các giá trị văn hóa cốt lõi: Hầu hết các giá trị văn hóa
được hình thành, tồn tại và được tôn thờ theo suốt chiều dài lịch sử của một
dâ tộc, hay một quốc gia và là nền tảng của niềm tin và giá trị cuộc sống của
mỗi người. Do đó, nó thường rất bền vững và khó thay đổi. Trong mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc luôn luôn tồn tại những giá trị văn hóa khác biệt có từ xa xưa,
được truyền từ đời này sang đời khác một cách tự nhiên. Vì vậy, để tiếp cận,
thu phục được một thị trường, các nhà Marketing phải thấu hiểu được nền
văn hóa riêng biệt của nơi đó, tránh những hành vi, những thông điệp, thậm
chí những sản phẩm dịch vụ không tương thích với các giá trị văn hóa ở đó.
Ngoài ra tính đặc thù của các nền văn hóa khác biệt đôi khi còn giúp sản
phẩm của doanh nghiệp xâm nhập tốt hơn vào thị trường đó.
Các nhóm văn hóa nhỏ: Trong xã hội luôn tồn tại những nhóm văn hóa
nhỏ, đó là những nhóm người chia xẻ với nhau những cảm nhận giá trị. Các
nhóm tôn giáo,chủng tộc, giới thanh niên, phụ nữ,… tất cả đại diện cho
những nhóm có những niềm tin, nhận thức, sự ưa ghét và hành vi khác biệt.
Họ hình thành ra những nhóm tiêu dùng có những nhu cầu, mong muốn rất
17
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
khác biệt, do đó người làm Marketing phải nhận ra và lựa chọn nhóm nào sẽ
làm thị trường mục tiêu cho doanh nghiệp mình.
Sự biến đổi trong văn hóa thứ cấp: Các giá trị cốt lõi thường có tính bền
vững nhưng vẫn có những biến đổi văn hóa xảy ra. Vì vậy, các nhà Marketing
phải tiên đoán được những biến đổi này nhằm nhận dạng các cơ hội và thách
thức mới.
4.2. Môi trường vi mô
❖ Môi trường nội tại doanh nghiệp
Trong việc thiết kế một kế hoạch Marketing cho doanh nghiệp, bộ phận
Marketing phải chịu sự lãnh đạo của ban giám đốc công ty đồng thời phải
hợp tác với những bộ phận khác trong doanh nghiệp như: bộ phận nghiên cứu
và phát triển (R&D), nhân sự, vật tư, sản xuất, tài chính và kế toán của doanh
nghiệp đó. Tất cả các bộ phận liên quan này hình thành nên một môi trường
nội tại của doanh nghiệp.
Ban giám đốc công ty là người thiết lập nên những nhiệm vụ, những mục
tiêu chung, chiến lược tổng thể và các chính sách của doanh nghiệp. Nhà
quản trị Marketing phải đưa ra những quyết định trong phạm vi những kế
hoạch được hoạch định bởi ban giám đốc. Các chương trình hành động, kế
hoạch Marketing đầu tiên phải được thông qua bởi ban giám đốc trước khi
thực hiện.
Bộ phận tài chính đóng vai trò là người tìm kiếm và cung cấp nguồn tài
chính để thực hiện các chương trình Marketing. Bộ phận R&D tập trung vào
việc thiết kế và tạo ra một sản phẩm có những tính năng thu hút và tương
thích với nhu cầu, mong muốn từ thị trường. Bộ phận thu mua có nhiệm vụ
tìm kiếm nhà cung ứng và nguồn nguyên vật liệu thích hợp. Bộ phận sản
xuất có nhiệm vụ tạo ra sản phẩm đúng số lượng và chất lượng. Bộ phận kế
toán phải tính toán những khoản lời lỗ để biết được các mục tiêu Marketing
đã được thực hiện như thế nào. Tất cả các hoạt động của các bộ phận khác
18
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
nhau trong doanh nghiệp cùng tác động đến kế hoạch và hoạt động Marketing
trong doanh nghiệp đó
❖ Nhà cung ứng
Là những cá nhân hoặc tổ chức cung cấp các nguồn lực (có thể là sản
phẩm, dịch vụ, nguyên, nhiên vật liệu và nguồn nhân lực) cần thiết cho hoạt
động của doanh nghiệp. Sự tăng giá hay khan hiếm các nguồn lực này trên thị
trường có thể ảnh hưởng rất nhiều đến các hoạt động Marketing của doanh
nghiệp.
Các nhà cung ứng bảo đảm nguồn lực cần thiết cho doanh nghiệp trong
việc sản xuất kinh doanh sản phẩm. Các nhà quản trị Marketing cần phải
nắm bắt được khả năng của các nhà cung ứng cả về chất lẫn về lượng. Sự
thiếu hụt hay chậm trễ về lượng cung ứng, sự không bảo đảm về chất lượng
đầu vào hoặc sự tăng giá từ phía nhà cung ứng cũng gây khó khăn cho các
hoạt động Marketing bởi vì điều đó có thể gây tác hại đến khả năng thỏa mãn
khách hàng mục tiêu của doanh nghiệp và chắc chắn sẽ ảnh hưởng trực tiếp
đến doanh thu vì khách hàng chuyển sang tiêu dùng các sản phẩm của các đối
thủ cạnh tranh.
❖ Các trung gian Marketing
Các trung gian Marketing có trách nhiệm giúp doanh nghiệp truyền thông,
bán và phân phối sản phẩm đến người tiêu dùng cuối cùng. Đó có thể là các
trung gian phân phối, công ty cung ứng dịch vụ Marketing như quảng cáo,
nghiên cứu thị trường, các cơ sở vật chất phục vụ phân phối hay các tổ chức
tài chính.
Trung gian phân phối: Là các doanh nghiệp hoặc cá nhân mà hoạt động
của họ hỗ trợ các nhà sản xuất trong việc tìm kiếm khách hàng, tiêu thụ sản
phẩm. Họ có thể là các nhà bán buôn, bán lẻ, đại lý và môi giới. Các trung
gian này sẽ tạo ra những điều kiện thuận lợi về địa điểm, thời gian và sự am
19
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
hiểu khách hàng, giúp cho quá trình tiêu thụ sản phẩm trở nên nhanh chóng và
tiết kiệm chi phí hơn.
Tổ chức cung cấp dịch vụ lưu thông sản phẩm: Các tổ chức này giúp các
trung gian phân phối dự trữ sản phẩm và vận chuyển chúng từ nơi sản xuất
đến nơi tiêu dùng. Đây là các doanh nghiệp chuyên hoạt động trong các lĩnh
vực như kho bãi, vận tải.
Tổ chức cung cấp dịch vụ Marketing: bao gồm các công ty nghiên cứu thị
trường, quảng cáo, tư vấn. Hoạt động của họ giúp cho các doanh nghiệp định
hướng chính xác hơn về nhu cầu, mong muốn của khách hàng và định vị tốt
sản phẩm của họ trên thị trường. Tổ chức cung cấp dịch vụ tài chính tín
dụng: bao gồm các ngân hàng, các công ty tài chính, các công ty bảo hiểm. Họ
cung cấp tài chính cho các doanh nghiệp thực hiện việc sản xuất hay lưu
thông sản phẩm. Việc tăng cường hay thu hẹp khả năng tín dụng có thể ảnh
hưởng đến hiệu quả hoạt động Marketing của doanh nghiệp. Vì thế doanh
nghiệp cần thiết lập mối quan hệ bền vững với các tổ chức tài chính tín dụng
quan trọng này.
❖ Khách hàng
Khách hàng là đối tượng phục vụ của doanh nghiệp và là nhân tố tạo nên
thị trường. Do đó doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ những khách hàng
của mình. Nhìn chung có các dạng khách hàng sau đây:
Người tiêu dùng: Là những cá nhân, hộ gia đình mua sản phẩm để sử
dụng cho mục đích cá nhân và gia đình.
Nhà sản xuất: Là các tổ chức mua sản phẩm cho mục đích sản xuất và
hoạt động của mình.
Trung gian phân phối: Là các tổ chức hay cá nhân mua sản phẩm với mục
đích bán lại để kiếm lời.
20
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Các cơ quan nhà nước và doanh nghiệp phi lợi nhuận: Là những tổ chức
mua sản phẩm để sử dụng trong cơ quan công quyền hoặc chuyển giao cho
những người cần tới nó với mục đích xã hội.
Khách hàng quốc tế: Là những người mua ở nước ngoài bao gồm người
tiêu thụ, người sản xuất, người bán lại và các cơ quan nhà nước.
❖ Đối thủ cạnh tranh
Mỗi doanh nghiệp tùy hoàn cảnh có những hình thức đối thủ cạnh tranh
khác nhau. Cơ bản có bốn loại cơ bản sau:
Đối thủ cạnh tranh về ước muốn: Đó là sự cạnh tranh từ tất cả các doanh
nghiệp ở các ngành nghề khác nhau về các ước muốn tức thời mà người tiêu
thụ muốn thỏa mãn. Chẳng hạn họ có thể hướng ước muốn của một người
có thu nhập tùy dụng vào việc mua sản phẩm của họ thay vì muốn mua sản
phẩm khác.
Đối thủ cạnh tranh về loại sản phẩm: Đó là cạnh tranh về các loại sản
phẩm có thể thỏa mãn được một ước muốn đặc thù nào đó.
Đối thủ cạnh tranh về hình thái sản phẩm: Đó là sự cạnh tranh của những
hãng sản xuất về các hình thái sản phẩm khác nhau.
Đối thủ cạnh tranh về nhãn hiệu sản phẩm: Đó là sự cạnh tranh từ các
doanh nghiệp sản xuất sản phẩm cùng loại với nhãn hiệu khác nhau.
❖ Công chúng
Công chúng là bất kỳ nhóm nào quan tâm thực sự hay sẽ quan tâm đến
doanh nghiệp và có ảnh hưởng đến khả năng đạt tới những mục tiêu đề ra
của doanh nghiệp. Công chúng có thể hỗ trợ hoặc chống lại những nỗ lực
của công ty đang phục vụ thị trường. Công chúng bao gồm:
Giới tài chính: Có ảnh hưởng đến khả năng đảm bảo nguồn vốn của
doanh nghiệp. Công chúng cơ bản trong giới tài chính là ngân hàng, các công
ty tài chính, các công ty chứng khoán và các công ty bảo hiểm. Doanh nghiệp
có thể giành được sự ủng hộ của giới này thông qua các báo cáo về hoạt
21
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
động sản xuất kinh doanh hàng năm, các giải trình có liên quan đến hoạt động
tài chính và những chứng cứ thể hiện tính hiệu quả và ổn định của doanh
nghiệp.
Giới truyền thông: Đây là các cơ quan báo chí, truyền hình, truyền thanh.
Doanh nghiệp cần phải quan tâm để làm thế nào các phương tiện truyền
thông này đưa tin có lợi về hoạt động của doanh nghiệp hơn. Các thông tin về
doanh nghiệp của giới truyền thông là hết sức quan trọng, có thể ảnh hưởng
tích cực hoặc tiêu cực đến hình ảnh công ty trước người tiêu dùng và các giới
công chúng khác. Công ty có thể tranh thủ sự thiện cảm của giới truyền thông
bằng chính chất lượng sản phẩm và dịch vụ của mình và bằng các hoạt động
xã hội như lập các quỹ hỗ trợ, các hoạt động từ thiện, tài trợ cho các cuộc thi,
…
Giới công quyền: Các hoạt động của công ty đòi hỏi phải tuân thủ các
quy định của nhà nước về vấn đề an toàn thực phẩm, quảng cáo trung thực,
quyền lợi và trách nhiệm của doanh nghiệp, quyền của người tiêu dùng, môi
trường xã hội,… thông qua hệ thống luật pháp, quy chế… ràng buộc hoạt
động của họ.
Giới địa phương: Mọi doanh nghiệp đều phải có quan hệ với những
người láng giềng và tổ chức ở địa phương.
Các tổ chức xã hội: Bao gồm các tổ chức bảo vệ người tiêu dùng, bảo vệ
sức khỏe cộng đồng; các nhóm bảo vệ môi trường…Một mối quan hệ tốt và
đáp ứng những yêu cầu của các nhóm này sẽ tạo ra hình ảnh tốt đẹp cho sản
phẩm và danh tiếng của doanh nghiệp.
Công chúng rộng rãi: Doanh nghiệp cần phải theo dõi chặt chẽ thái độ
của quần chúng rộng rãi đối với sản phẩm. dịch vụ cũng như hoạt động của
doanh nghiệp. Hình ảnh của doanh nghiệp và sản phẩm dưới con mắt của
quần chúng có ảnh hưởng đến hoạt động thương mại của họ.
22
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Công chúng nội bộ: bao gồm toàn bộ cán bộ công nhân viên trong một
doanh nghiệp. Khi người nhân viên cảm thấy thoải mái với công ty của họ thì
thái độ tích cực này sẽ lây lan sang các giới bên ngoài công ty.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Câu 1.1: Marketing khác với bán hàng như thế nào? Theo bạn người bán hàng
giỏi có phải là người marketing giỏi hay không? Bạn sẽ trở thành một nhà
Marketing chuyên nghiệp, hay một người bán hàng chuyên nghiệp khi bạn đi
làm sau tốt nghiệp? Hãy giải thích?
Câu 1.2: Hãy phân biệt marketing truyền thống với marketing hiện đại. Lấy
ví dụ minh họa cho một sản phẩm cụ thể?
Câu 1.3: Tại sao trong những năm gần đây, nhiều tổ chức phi lợi nhuận đã
vận dụng công việc Marketing? Hãy trình bày chi tiết về một ví dụ đặc
trưng?
Câu 1.4: Có người cho rằng Marketing trong thời đại hiện nay là nhằm
hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống của con người. Bạn hãy bình luận
câu nói trên?
23
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
BÀI 2: NGHIÊN CỨU MARKETING
Mã bài: 24.2
Giới thiệu:
Thông tin là cầu nối quan trọng giữa nhà marketing và thị trường mục tiêu
của sản phẩm. Nghiên cứu marketing nhằm đảm bảo thu thập thông tin cần
thiết theo quan điểm vấn đề marketing cụ thể đang được đặt ra trước doanh
nghiệp. Hầu hết các doanh nghiệp lớn đều có những bộ phận nghiên cứu
marketing.
Nghiên cứu marketing là một quá trình gồm 5 giai đoạn. Đầu tiên là xác
định vấn đề nghiên cứu một cách rõ ràng và đề ra mục tiêu nghiên cứu. Thứ
hai là soạn thảo kế hoạch thu thập thông tin có sử dụng các số liệu sơ cấp và
thứ cấp. Mỗi loại dữ liệu có phương pháp thu thập thích hợp của nó. Thứ ba
là thu thập thông tin thôn bên ngoài hoặc bên trong doanh nghiệp hoặc trong
phòng thí nghiệm. Thứ tư là phân tích và xử lý các thông tin thu thập để làm
cơ sở cho việc báo cáo. Cuối cùng là trình bày kết quả chủ yếu để tạo cho
nhà quản trị marketing ra quyết định có cơ sở và khoa học hơn.
Mục tiêu:
Trình bày các yếu tố tác động đến hành vi của người tiêu dùng và tổ chức.
Trình bày được các dạng hành vi khác biệt của người tiêu dùng và tổ
chức.
Trình bày được khái niệm và vai trò của nghiên cứu Marketing.
Mô tả được quy trình ra quyết định mua của người tiêu dùng tổ chức.
Mô tả được quy trình nghiên cứu Marketing.
Phân tích được những nhân tố ảnh hưởng đến hành vi tiêu dùng của cá
nhân và tổ chức.
Có ý thức đúng đắn trong việc nhìn nhận, đánh giá một kế hoạch
Marketing.
Nội dung:
24
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
1. Hành vi mua hàng của người tiêu dùng
1.1. Mô hình hành vi mua hàng của người tiêu dùng
❖ Khái niệm hành vi mua của người tiêu dùng.
Nghiên cứu hành vi mua của người tiêu dùng chính là việc nghiên cứu cách
thức mà mỗi một người tiêu dùng sẽ thực hiện trong việc đưa ra các quyết
định sử dụng tài sản của họ liên quan đến việc mua sắm và sử dụng hàng
hoá. Những hiểu biết về hành vi người tiêu dùng sẽ giúp trả lời các câu hỏi:
Ai là người mua? Người tiêu dùng sẽ mua những hàng hoá và dịch vụ nào?
Tại sao họ lại mua những hàng hoá và dịch vụ đó? Họ sẽ mua như thế nào?
Mua khi nào? Mua ở đâu?
❖ Mô hình hành vi mua của người tiêu dùng.
Một câu hỏi cơ bản đặt ra là: người tiêu dùng sẽ phản ứng như thế nào
trước những kích thích marketing mà một công ty có thể vận dụng? Một công
ty sẽ có ưu thế to lớn trong cạnh tranh nếu họ thực sự hiểu rõ những phản
ứng của người tiêu dùng trước các tính năng khác nhau của sản phẩm, giá cả
hàng hoá, các chương trình quảng cáo, khuyến mãi…Vì vậy, doanh nghiệp
cần phải tìm ra mối liên hệ giữa các yếu tố kích thích của thị trường và phản
ứng đáp lại của người mua. Có thể mô tả mối liên hệ trên qua mô hình sau:
Mô hình đơn giản về hành vi mua của người tiêu dùng
❖ Văn hóa:
26
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Văn hóa là hệ thống những giá trị, niềm tin, truyền thống và chuẩn mực
được hình thành và gắn liền với một xã hội, một chế độ, một tôn giáo hay
dân tộc nhất định, được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Văn hoá
là nguyên nhân đầu tiên, cơ bản quyết định nhu cầu và hành vi của con người.
Những điều cơ bản về giá trị, sự cảm thụ, sự ưa thích, tác phong, thói quen,
hành vi ứng xử mà chúng ta quan sát được qua việc mua sắm hàng hóa đều
chứa đựng bản sắc của văn hoá. Những người có trình độ văn hoá cao, thái độ
của họ đối với các sản phẩm rất khác biệt với những người có trình độ văn
hoá thấp.
❖ Nhánh văn hoá:
Bất kỳ nền văn hoá nào cũng bao gồm những bộ phận cấu thành nhỏ hơn –
nhánh văn hoá. Nhánh văn hoá đem lại cho các thành viên của mình khả năng
hòa đồng và giao tiếp cụ thể hơn với những người giống mình. Nguồn gốc
dân tộc, chủng tộc, sắc tộc và môi trường địa lý gắn bó với nhánh văn hoá.
Nhánh văn hoá luôn có ảnh hưởng sâu sắc tới sự quan tâm, đến cách đánh giá
về giá trị hàng hoá và sở thích. Cách thức lựa chọn, mua sắm và sử dụng hàng
hoá của những người thuộc nhánh văn hoá khác nhau là khác nhau.
❖ Giai tầng xã hội
Giai tầng xã hội là những nhóm tương đối ổn định trong khuôn khổ xã hội,
được sắp xếp theo thứ bậc đẳng cấp và được đặc trưng bởi những quan
điểm giá trị, lợi ích và hành vi đạo đức giống nhau ở các thành viên. Sự hình
thành đẳng cấp xã hội không chỉ phụ thuộc vào một yếu tố duy nhất là của
cải, tiền bạc, mà là cả sự kết hợp của trình độ văn hoá, nghề nghiệp, những
định hướng giá trị và những yếu tố đặc trưng khác. Địa vị xã hội của con
người cao hay thấp tùy thuộc vào chỗ họ thuộc tầng lớp xã hội nào. Với một
con người cụ thể sự chuyển đổi giai tầng xã hội cao hơn hay tụt xuống giai
tầng xã hội thấp hơn là hiện tượng thường xảy ra. Điều quan trọng bậc nhất
mà các nhà marketing cần quan tâm là những người cùng chung một giai tầng
27
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
xã hội sẽ có khuynh hướng xử sự giống nhau. Các giai tầng xã hội đều có
những đặc trưng về sở thích rõ rệt đối với các hàng hóa như quần áo, đồ nội
thất, xe hơi, cách tiêu khiển giải trí. Cho nên một số nhà hoạt động thị trường
đã tập trung nỗ lực vào một giai tầng xã hội nào đó. Ví dụ: sân gôn, khách sạn
5 sao dành cho người giàu và giới thượng lưu; trong rạp hát, trên máy bay…
giá vé được phân thành hai loại.
(2) Những yếu tố mang tính chất xã hội.
❖ Gia đình
Gia đình của người mua là yếu tố có ảnh hưởng mạnh tới hành vi mua vì:
thứ nhất, sự biến động của nhu cầu hàng hóa luôn gắn với sự hình thành và
biến động của gia đình; thứ hai, những quyết định mua sắm của những cá
nhân luôn chịu ảnh hưởng của các cá nhân khác trong gia đình.
Gia đình thường được chia thành 2 loại:
Gia đình định hướng: bao gồm ông bà, cha mẹ, con cái Yếu tố đầu tiên
ảnh hưởng sâu sa đến sự hình thành hành vi mua. Từ ông, bà, cha, mẹ mỗi cá
nhân có được những định hướng về tôn giáo, chính trị, kinh tế, những tham
vọng cá nhân, giá trị bản thân và tình cảm.
Gia đình hôn phối: bao gồm vợ, chồng và con cái. Gia đình kết hôn được
coi là một trung tâm mua.
Nhà quản trị marketing cần quan tâm khi nghiên cứu gia đình kết hôn là vai
trò ảnh hưởng tương đối của người vợ, người chồng, con cái trong việc mua
sắm các loại hàng hoá và dịch vụ cụ thể. Vai trò và ảnh hưởng của chồng, vợ
thay đổi tùy thuộc vào loại sản phẩm, vai trò và địa vị họ nắm giữ trong gia
đình, trình độ hiểu biết và kinh nghiệm về các lĩnh vực hàng hoá khác nhau.
❖ Các nhóm ảnh hưởng
Nhóm tham khảo: Là những nhóm mà một cá nhân xem xét khi hình thành
thái độ và quan điểm của người đó.
28
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Nhóm tham khảo bao gồm:
Nhóm thân thuộc: Là những nhóm mà cá nhân nằm trong đó và có tác động
qua lại lẫn nhau như ông bà, cha mẹ, anh chị, bạn bè, đồng nghiệp, công
đoàn, đoàn thể và Nhóm ngưỡng mộ: là nhóm mà cá nhân có mong muốn
được gia nhập. Ước muốn đó tạo ra động cơ thúc đẩy cá nhân có những ứng
xử kể cả trong việc sử dụng hàng hoá cũng giống như các thần tượng của
họ.
Nhóm bất ưng: Là nhóm mà hành vi, ứng xử của họ không được sự chấp
nhận của cá nhân. Cá nhân thường có các hành động tẩy chay những hoạt
động, hành vi của các thành viên nhóm bất ưng này, kể cả các hoạt động và
hành vi mua sắm
❖ Vai trò và địa vị xã hội
Cá nhân là một thành viên của rất nhiều các nhóm xã hội. Vị trí của nó
trong mỗi nhóm đó có thể xác định theo vai trò và địa vị. Ví dụ, vai trò của cá
nhân trong quan hệ với bố mẹ là con cái, trong gia đình riêng đóng vai trò là
chồng hay vợ, trong công ty đóng vai trò là nhà quản lý sản xuất.. Mỗi vai trò
có một địa vị nhất định phản ánh mức độ đánh giá tốt về nó của xã hội. Con
người thường lựa chọn những thứ hàng hoá nói lên vai trò và địa vị của mình
trong xã hội. Giám đốc công ty thường sử dụng những phương tiện giao
thông cao cấp, mua sắm những hàng hoá đắt tiền và tham gia vào các hoạt
động giải trí thời thượng. Các nhà marketing phải cố gắng biến sản phẩm
của họ thành các biểu tượng địa vị. Chẳng hạn, quảng cáo chiếc xe Mercedes
đắt tiền gắn với hình ảnh những người đàn ông sang trọng, thành đạt.
(3) Các yếu tố mang tính cá nhân.
❖ Tuổi tác và đường đời.
Ở những lứa tuổi khác nhau người tiêu dùng sẽ có những nhu cầu và mong
muốn khác nhau. Tính chất tiêu dùng cũng phụ thuộc và các giai đoạn trên
đường đời. Ở từng giai đoạn mà người tiêu dùng có những nhu cầu, khả năng
29
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
tài chính và sở thích khác nhau, do đó có những hành vi và sự lựa chọn trong
mua sắm Những người làm marketing khi xác định thị trường mua dựa vào
việc phân chia khách hàng thành từng nhóm theo các giai đoạn của chu kỳ đời
sống gia đình để phát triển chính sách sản phẩm và các chính sách marketing
khác cho phù hợp.
❖ Nghề nghiệp
Nghề nghiệp có ảnh hưởng nhất định đến tính chất của hàng hoá và dịch
vụ được chọn. Sự lựa chọn quần áo, giày dép, thức ăn, các hình thức giải trí
của một công nhân rất khác với vị giám đốc điều hành công ty. Các nhà làm
marketing cần cố gắng để nhận biết khách hàng theo nhóm nghề nghiệp khác
nhau và cần phải có sự quan tâm thích đáng về những sản phẩm hoặc dịch vụ
mà khách hàng trong mỗi nhóm yêu cầu.
❖ Trình độ học vấn
Trình độ học vấn cũng tạo ra các nhu cầu rất khác nhau trong giới tiêu
dùng. Trình độ học vấn càng cao tạo ra một xu hướng tiêu dùng tiên tiến và
hiện đại hơn, có sự lựa chọn nhiều hơn, chú ý nhiều đến tính thẩm mỹ, chất
lượng, nhãn hiệu, bao bì, tính an toàn và các dịch vụ kèm theo, đồng thời các
nhu cầu về hoạt động giải trí, du lịch, sách báo, âm nhạc, sức khỏe và học
tập cũng cao hơn. Để tiến hành tiêu dùng một sản phẩm, người có trình độ
văn hóa cao thường bỏ nhiều công sức trong việc tìm tòi thông tin, so sánh
trước khi đưa ra quyết định tiêu dùng.
❖ Tình trạng kinh tế
Tình trạng kinh tế bao gồm: thu nhập, phần tiết kiệm, khả năng đi vay
..của người tiêu dùng có ảnh hưởng lớn đến loại hàng hoá và số lượng hàng
hóa mà họ lựa chọn, mua sắm. Thu nhập là nhân tố ảnh hưởng rất mạnh đến
cầu của các loại hàng hoá. Nhìn chung, người nghèo nhu cầu về hàng hóa
nhạy cảm về thu nhập hơn so với người giàu. Trong các loại hàng hoá mang
tính chất thiết yếu sự nhạy cảm về thu nhập thường thấp hơn những lo ại
30
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
hàng xa xỉ. Những người kinh doanh phải thường xuyên theo dõi xu thế biến
động trong lĩnh vực tài chính cá nhân, các khoản tiết kiệm, tỷ lệ lãi suất để
điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình cho phù hợp.
❖ Cá tính
Theo Philip Kotler: “Cá tính là những đặc tính tâm lý nổi bật của mỗi con
người tạo ra thế ứng xử (những phản ứng đáp lại) có tính ổn định và nhất
quán đối với môi trường xung quanh”.
Cá tính thường được mô tả bằng những đặc tính vốn có của cá thể như:
tính tự tin, tính thận trọng, tính tự lập, tính khiêm nhường, tính thích hơn
người, tính ngăn nắp, dễ dãi, tính năng động, tính bảo thủ, cởi mở…Cá tính
và thói quen bộc lộ trong hành vi mua có mối quan hệ chặt chẽ. Khi lựa chọn
hàng hoá những người thận trọng luôn tìm kiếm thông tin và họ chỉ ra quyết
định mua khi họ nhận thấy thông tin đã đầy đủ. Với loại khách hàng này kiểu
chào hàng “dùng thử trước khi mua” sẽ tạo được sự thiện cảm của họ ngay
từ lần chào hàng đầu tiên
❖ Lối sống
Lối sống của một con người được thể hiện qua hành động, sự quan tâm,
quan điểm của người đó về những gì thuộc môi trường xung quanh. Lối sống
gần rất chặt với nguồn gốc xã hội, nhánh văn hoá và nghề nghiệp, nhóm xã
hội, tình trạng kinh tế và hoàn cảnh gia đình. Song lối sống còn chứa đựng
nhiều hơn thế. Chỉ lối sống mới phác họa một cách đầy đủ nhất chân dung
của con người. Sự lựa chọn hàng hóa của người tiêu dùng thể hiện lối sống
của họ. Những người làm marketing cần phải khám phá được mối liên quan
giữa hàng hoá và lối sống. Sản phẩm phải được định vị theo lối sống, nhất là
những sản phẩm thuộc nhóm hàng mỹ phẩm, thời trang, du lịch, đồ uống, xe
hơi, xe máy…
(4) Những yếu tố tâm lý
❖ Động cơ
31
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Động cơ là nhu cầu đã trở nên bức thiết đến mức buộc con người hành
động để thỏa mãn nó. Về bản chất động cơ là động lực thúc đẩy con người
hành động để thoả mãn một nhu cầu hay ước muốn nào đó về vật chất hoặc
về tinh thần, hoặc cả hai. Cơ sở để hình thành động cơ chính là nhu cầu.
Những người làm marketing cần phải nắm bắt đúng nhu cầu của khách hàng,
thúc đẩy nhu cầu thành động cơ. Động cơ thúc đẩy con người hành động.
Song hành động của con người diễn ra như thế nào lại phụ thuộc rất lớn vào
sự nhận thức của họ về môi trường xung quanh
❖ Nhận thức
Nhận thức là khả năng tư duy của con người. Đó là quá trình thông qua đó
một cá nhân lựa chọn, tổ chức và giải thích các thông tin để tạo nên một bức
tranh có ý nghĩa về thế giới xung quanh. Nhận thức không chỉ phụ thuộc vào
đặc tính của tác nhân kích thích mà còn tùy thuộc vào mối tương quan giữa tác
nhân kích thích với môi trường xung quanh và bản thân của cá thể. Sự hấp
dẫn của một nhãn hiệu không chỉ do các kích thích của nhãn hiệu đó tới các
giác quan của khách hàng mà còn phụ thuộc vào những yếu tố khác như: nhãn
hiệu đó được trưng bày trên giá như thế nào ? Được bày bán ở siêu thị hay ở
cửa hàng nhỏ? Người mua có tâm trạng vui hay buồn, mua theo cảm xúc hay
lý trí ? Những người làm marketing phải tìm ra những giải pháp để các
chương trình quảng cáo, truyền thông phải đảm bảo được tính hấp dẫn bằng
những thông điệp được mã hoá bởi các kích thích mới lạ, độc đáo và đủ mạnh
để lôi kéo sự chú ý của người nhận tin.
❖ Sự hiểu biết
Sự hiểu biết diễn tả những thay đổi trong hành vi của một con người phát
sinh từ kinh nghiệm. Kinh nghiệm trong ý thức của con người là trình độ của
họ về cuộc sống, về hàng hoá, về đối nhân xử thế. Đó là kết quả của những
tương tác của động cơ (mục đích mua), các vật kích thích (những hàng hóa cụ
thể), những gợi ý (những gợi ý của bạn bè, gia đình, quảng cáo..), sự đáp lại
32
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
và củng cố (Những điều xảy ra khi người mua sử dụng hàng hoá so với mong
đợi của họ về hàng hoá đó). Kinh nghiệm mà mỗi con người có được là do
học hỏi và sự từng trải.
Sự hiểu biết hay kinh nghiệm giúp người mua khả năng khái quát hoá và sự
phân biệt trong việc tiếp xúc với các vật kích thích tương tự nhau. Đối với
những công ty mà sản phẩm của họ đã có những ghi nhận tốt trong hiểu biết
của khách hàng, cần phải củng cố và duy trì những cặp nhu cầu sản phẩm
cho phù hợp với các động cơ của người mua, đồng thời với việc tổ chức các
hoạt động marketing khác để hỗ trợ và phát triển những hiểu biết của khách
hàng theo xu hướng tích cực. Đối với công ty mới có thể thâm nhập thị
trường bằng cách cung ứng những sản phẩm gợi nên sự ưa chuộng giống
như đối thủ cạnh tranh. Người mua sẽ dễ dàng chuyển dịch lòng trung thành
sang nhãn hiệu tương tự hơn là sang nhãn hiệu mà họ chưa biết đến. Song
công ty cũng có thể thành công khi họ thiết kế ra những hàng hoá gợi được sự
thôi thúc khác bằng cách cống hiến những lợi ích mạnh mẽ cho khách hàng
khiến cho họ phải thay đổi sự hiểu biết của mình.
❖ Niềm tin và thái độ
Thông qua thực tiễn và sự hiểu biết người ta có được niềm tin và thái độ.
Những điều này đến lượt chúng, ảnh hưởng đến hành vi mua của họ.
Niềm tin là sự nhận định chứa đựng một ý nghĩa cụ thể mà người ta có
được về một cái gì đó. Sự hình thành niềm tin về cơ bản xuất phát từ sự hiểu
biết nên ảnh hưởng khá quan trọng đến hành vi mua. Nhà kinh doanh cần
quan tâm đến niềm tin của khách hàng đối với những hàng hoá và dịch vụ cụ
thể để thiết kế ra những sản phẩm hoặc hình ảnh của nhãn hiệu đáp ứng
được niềm tin của họ.
Thái độ là sự đánh giá có ý thức những tình cảm, và những xu hướng hành
động có tính chất tốt hay xấu về một khách thể hay một ý tưởng nào đó. Thái
độ đặt con người vào một khung suy nghĩ thích hay không thích, cảm thấy
33
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
gần gũi hay xa lánh một đối tượng hay một ý tưởng cụ thể nào đó. Người
mua sẽ tìm đến nhãn hiệu mà họ có thái độ tốt khi động cơ xuất hiện. Quan
điểm hay thái độ rất khó thay đổi vì nó dẫn dắt con người hành động theo
một thói quen khá bền vững mà người ta có thể tiết kiệm được công sức và
sự suy nghĩ khi hành động. Thay đổi quan điểm đòi hỏi phải thay đổi về nhận
thức, phương thức ứng xử và cần có thời gian. Nhà kinh doanh cần định vị
sản phẩm của họ theo quan điểm của người mua hơn là tìm cách sửa đổi
quan điểm của họ.
Tóm lại, quyết định mua của người tiêu dùng là kết quả tác động qua lại
phức tạp của các yếu tố văn hoá, xã hội, tâm lý. Trong đó có nhiều yếu tố,
việc gây ảnh hưởng của các nỗ lực marketing là có hạn, song nó rất hữu ích
trong việc giúp cho các nhà marketing có thể nhận dạng chính xác được người
mua ở các đoạn thị trường khác nhau.
1.3. Các dạng hành vi mua sắm
Người tiêu dùng có các dạng hành vi mua sắm rất khác biệt tùy theo dạng
quyết định. Có sự khác biệt rất lớn giữa việc mua các sản phẩm rẻ tiền, tiêu
dùng hàng ngày với những sản phẩm đắt tiền, có giá trị cao, và tần suất mua
thấp. Các quyết định mua càng phức tạp thì đòi hỏi sự tham gia và cân nhắc
nhiều hơn của người tiêu dùng vào quá trình quyết định mua.
(1) Hành vi mua phức tạp
Người tiêu dùng thực hiện hành vi mua phức tạp khi có nhiều người cũng
tham dự vào tiến trình ra quyết định mua và họ nhận thức rõ ràng sự khác biệt
giữa các nhãn hiệu. Hành vi mua thường xảy ra khi sản phẩm được cân nhắc
mua là sản phẩm đắt tiền, nhiều rủi ro trong tiêu dùng và có giá trị tự thể
hiện cao cho người sử dụng.
(2) Hành vi mua thỏa hiệp.
Hành vi mua này xảy ra đối với những sản phẩm đắt tiền, nhiều rủi ro và
mua không thường xuyên, nhưng lại không có sự khác biệt giữa các nhãn hiệu
34
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
trên thị trường. Trong trường hợp này, do tính dị biệt giữa các nhãn hiệu
không quá cao, người mua có thể đưa ra quyết định mua một cách tương đối
nhanh chóng, sự lựa chọn của họ lúc này đôi lúc được quyết định do một mức
giá phù hợp, các dịch vụ hỗ trợ, các chương trình khuyến mãi, hoặc tính tiện
lợi trong quá trình mua.
(3) Hành vi mua theo thói quen
Hành vi mua này xảy ra khi sản phẩm được cân nhắc mua là những sản
phẩm có giá trị thấp, tiêu dùng hàng ngày và sự khác biệt giữa các nhãn hiệu
bày bán trên thị trường là rất thấp. Khi có nhu cầu người tiêu dùng chỉ việc ra
cửa hàng và chọn một nhãn hiệu. Nếu như việc lựa chọn này lặp đi lặp lại
với một nhãn hiệu thì thường là do thói quen hơn là sự trung thành vì trong
quá trình tiêu dùng họ khó nhận thấy tính ưu việt hay sự khác biệt giữa các
nhãn hiệu. Trong hành vi mua này, người tiêu dùng thường đi theo hướng
niềm tin thái độ hành vi. Họ không tốn nhiều thời gian và công sức để tìm
kiếm thông tin về nhãn hiệu lựa chọn, không đo lường, so sánh giữa các đặc
tính của các nhãn hiệu. Thay vào đó chủ yếu
dựa vào những thông điệp quảng cáo, mức giá, các chương trình khuyến
mãi, và sự tiện lợi trong khi mua. Sự mua lặp lại một nhãn hiệu đơn thuần chỉ
là do sự quen thuộc của người tiêu dùng đối với nhãn hiệu đó.
(4) Hành vi mua nhiều lựa chọn
Người tiêu dùng thực hiện hành vi mua này khi họ mua những sản phẩm
dịch vụ có giá trị thấp, tiêu dùng hàng ngày những nhãn hiệu có nhiều sự khác
biệt. Đối với những loại sản phẩm này, sự chuyển dịch nhãn hiệu trong tiêu
dùng là rất lớn. Người tiêu dùng có thể quyết định lựa chọn nhãn hiệu này
vào một thời điểm cụ thể nhưng vào một thời điểm cụ thể nhưng vào thời
điểm khác dưới sự tác động của các tác nhân Marketing họ sẽ chuyển qua
mua nhãn hiệu khác. Sự chuyển dịch này là do không thỏa mãn trong tiêu dùng
mà do mục đích muốn thay đổi thử một nhãn hiệu sản phẩm mới.
35
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
a. Nhận biết nhu cầu
Bước khởi đầu của tiến trình mua là sự nhận biết về một nhu cầu muốn
được thoả mãn của người tiêu dùng. Nhu cầu được phát sinh bởi nhiều yếu
tố kích thích cả bên trong lẫn bên ngoài. Ở giai đoạn này, nhiệm vụ của các
nhà marketing là xác định xem có những loại nhu cầu nào được phát sinh? Cái
gì tạo ra chúng và người mua muốn thỏa mãn chúng bằng những sản phẩm
cụ thể nào? Một nhu cầu mới nảy sinh cần có những sản phẩm mới để đáp
ứng. Đó chính là nguồn ý tưởng quan trọng hình thành những sản phẩm mới
và triển khai các chương trình marketing một cách hiệu quả để thúc đẩy nhu
cầu trở thành động cơ.
b.Tìm kiếm thông tin
Khi sự thôi thúc nhu cầu đủ mạnh cá nhân có thể tìm kiếm thông tin thoả
mãn nhu cầu và ước muốn của mình. Khi tìm kiếm thông tin người tiêu dùng
có thể sử dụng những nguồn cơ bản sau:
Nguồn thông tin cá nhân: Gia đình, bạn bè, hàng xóm…
Nguồn thông tin thương mại: Quảng cáo, người bán hàng, hội chợ, triển
lãm, bao bì, nhãn hiệu.
Nguồn thông tin đại chúng: Ấn phẩm có liên quan đến hàng hoá, dư
luận…
Nguồn thông tin kinh nghiệm: trực tiếp xem xét, dùng thử…
Mức độ ảnh hưởng của những nguồn thông tin nói trên thay đổi tuỳ theo
loại sản phẩm và đặc tính của khách hàng. Nguồn thông tin thương mại
thường thực hiện chức năng thông báo, nguồn thông tin cá nhân lại trở thành
phổ biến cho hành động mua theo thói quen hoặc theo định kỳ. Nhờ kết quả
của việc thu thập thông tin mà người tiêu dùng có thể biết được các loại nhãn
hiệu của lớp sản phẩm và những đặc tính của chúng. Người ta gọi bộ nhãn
hiệu cóđược ở bước này là “bộ đầy đủ các nhãn hiệu” Trong bước này, nhà
marketing cần quan tâm và lý giải cụ thể:
36
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
+ Có những nguồn thông tin nào mà khách hàng có thể tiếp cận để thu thập
những thông tin có liên quan.
+ Nguồn tin nào gây ảnh hưởng quan trọng tới việc tiếp nhận nhãn hiệu
của công ty vào bộ sưu tập nhãn hiệu của người mua.
+ Những loại thông điệp và kênh phân phối thông điệp nào là phù hợp để
người mua dễ dàng và thuận lợi trong việc xử lý thông tin mà họ cần.
c. Đánh giá lựa chọn
Khi đã có “bộ sưu tập nhãn hiệu”, người tiêu dùng sẽ triển khai bước tiếp
theo là đánh giá các phương án có khả năng thay thế cho nhau để đi đến lựa
chọn nhãn hiệu quyết định mua. Vấn đề quan trọng nhất mà nhà marketing
cần phải kiểm soát được trong giai đoạn này là quan điểm và thái độ của
người tiêu dùng, hay nói cụ thể hơn là các tiêu chuẩn về niềm tin của họ
trong việc đánh giá các nhãn hiệu có khả năng cạnh tranh với nhau. Tiến trình
đánh giá của người mua thường được thực hiện theo phương pháp như sau:
Thứ nhất: Người mua thường coi một sản phẩm bao gồm một tập hợp
các thuộc tính. Những thuộc tính này phản ánh lợi ích của sản phẩm mà
người mua mong đợi. Thuộc tính của sản phẩm phản ánh các mặt:
+ Đặc tính kỹ thuật, lý hoá: công thức, thành phần, màu sắc, cỡ, khổ.
+ Đặc tính sử dụng: thời gian sử dụng, độ bền, tính đặc thù.
+ Đặc tính tâm lý: đẹp, trẻ trung, sự thoải mái, lòng tự hào về quyền sở
hữu.
+ Đặc tính kết hợp: giá cả, nhãn hiệu, đóng gói, các dịch vụ.
Thứ hai: Người tiêu dùng có khuynh hướng phân loại về mức độ quan
trọng của các thuộc tính khác nhau. Người tiêu dùng thường xác định thuộc
tính nổi bậc và thuộc tính quan trọng. Thuộc tính nổi bậc là thuộc tính mà
người tiêu dùng cho là có ý nghĩa khi được yêu cầu hình dung ra các thuộc tính
của sản phẩm. Những thuộc tính này có thể do họ bị ảnh hưởng của quảng
cáo hoặc dư luận xã hội. Thuộc tính quan trọng là những thuộc tính mà người
tiêu dùng chờ đợi ở sản phẩm trong việc nó thỏa mãn nhu cầu của họ. Khi
37
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
được yêu cầu đánh giá các thuộc tính của sản phẩm người tiêu dùng sẽ nghĩ
ngay đến thuộc tính nổi bật. Song khi mua họ lại quan tâm đến thuộc tính
quan trọng. Các nhà marketing cần quan tâm
nhiều đến tầm quan trọng của thuộc tính hơn là mặt nổi của nó.
Thứ ba: Người tiêu dùng có khuynh hướng xây dựng niềm tin của mình
gắn với các nhãn hiệu. Họ đồng nhất một chuỗi niềm tin của mình về sản
phẩm với hình ảnh nhãn hiệu. Ví dụ: niềm tin của người tiêu dùng về loại
bột giặc có chất lượng cao, tẩy sạch các vết bẩn…đồng nhất với nhãn hiệu
OMO.
Niềm tin của người tiêu dùng về nhãn hiệu có thể thay đổi qua nhận thức
và kinh nghiệm nhờ việc tiêu dùng thực sự của họ. Vì vậy, các nhà marketing
có thể khắc hoạ và làm thay đổi niềm tin của khách hàng bằng các nỗ lực
marketing, song sự nỗ lực đó phải đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng
khi họ thực sự mua và sử dụng hàng hoá.
Thứ tư: Người tiêu dùng có xu hướng gán cho mỗi thuộc tính của sản
phẩm một chức năng hữu ích. Xu hướng lựa chọn của người tiêu dùng là họ
tìm đến những hàng hóa nhãn hiệu đem lại cho họ tổng số sự thỏa mãn từ các
đặc tính của sản phẩm là tối đa.
d. Quyết định mua.
Kết thúc giai đoạn đánh giá các phương án, người tiêu dùng đã có một bộ
nhãn hiệu lựa chọn được sắp xếp theo thứ tự. Ý định mua thường dành cho
những sản phẩm có thứ hạng cao nhất. Song để đi đến quyết định mua người
tiêu dùng còn chịu sự chi phối của nhiều yếu tố kìm hãm.Để thúc đẩy quá
trình dẫn đến quyết định mua hàng của người tiêu dùng, các nhà marketing
cần đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến bán như : phiếu mua hàng, giảm giá,
quà tặng, quảng cáo, trình bày hàng hóa, dịch vụ sau bán hàng..
e. Đánh giá sau khi mua.
38
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Sau khi mua, người tiêu dùng có thể hài lòng hoặc không hài lòng về sản
phẩm. Khách hàng chỉ hài lòng khi tính năng và công dụng của sản phẩm đáp
ứng một cách tốt nhất sự chờ đợi của họ, từ đó sẽ dẫn đến hành vi mua lặp
lại và họ sẽ giới thiệu cho người khác biết về sản phẩm đó. Theo các nhà
marketing “Một khách hàng hài lòng là quảng cáo tốt nhất của chúng ta”.
Khi người tiêu dùng cảm thấy không thỏa mãn với sản phẩm đã mua, họ
sẽ cố gắng làm giảm bớt sự khó chịu để thiết lập sự cân bằng tâm lý thông
qua việc từ bỏ hay chuyển sang nhãn hiệu khác, đồng thời có thể họ sẽ lan
truyền thông tin bất lợi cho doanh nghiệp. Những đánh giá của khách hàng sau
khi mua được coi là những thành công hay chưa thành công về các nỗ lực
marketing của công ty. Nếu khách hàng có thái độ thiện chí đối với nhãn hiệu
của công ty thì đó chính là cơ hội gia tăng thị trường và duy trì lòng trung
thành của khách hàng. Ngược lại với thái độ thiếu thiện chí của khách hàng
nhà marketing cần phải tìm cách khắc phục để có thể giảm bớt mức độ
không hài lòng của họ. Như vậy, người làm Marketing cần phải nhớ rằng
công việc của họ không kết thúc khi sản phẩm đã được bán ra mà còn kéo dài
đến cả giai đoạn sau khi mua.
2. Hành vi mua hàng của tổ chức
2.1. Các loại thị trường tổ chức
Thị trường tổ chức gồm người mua là các tổ chức mua sản phẩm để sản
xuất, bán lại hoặc phục vụ cho các cơ quan công quyền. Các loại thị trường
tổ chức bao gồm:
Thị trường công nghiệp
Thị trường công nghiệp bao gồm tất cả các tổ chức mua sản phẩm để sản
xuất ra các sản phẩm khác nhằm mục đích cung ứng cho người tiêu dùng. Các
nhà sản xuất thường có nhu cầu rất lớn về các loại sản phẩm bảo đảm cho
hoạt động sản xuất kinh doanh được tiến hành liên tục như: máy móc thiết bị,
phụ tùng thay thế, nguyên vật liệu, nhiên liệu…
39
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Thị trường người bán lại
Thị trường này bao gồm những cá nhân hoặc tổ chức mua sản phẩm để
bán lại cho người khác với mục đích kiếm lời. Khối lượng sản phẩm giao
dịch trong thị trường này thường rất lớn.
Thị trường công quyền
Bao gồm các đơn vị chính quyền từ trung ương đến địa phương mua hay
thuê những mặt hàng cần thiết để thực hiện chức năng cơ bản theo sự phân
công của chính phủ.
2.2. Những đặc tính của các thị trường tổ chức
Thị trường tổ chức cũng giống như thị trường người tiêu dùng ở chỗ nó
bao gồm những người mua sản phẩm với mục đích thỏa mãn nhu cầu nào đó.
Tuy nhiên thị trường tổ chức có nhiều khác biệt đối với thị trường người tiêu
dùng ở các đặc điểm sau:
Kết cấu của thị trường và đặc tính của cầu
Thị trường các tổ chức có số người mua ít hơn những khối lượng giao dịch
thì lớn hơn rất nhiều so với thị trường người tiêu dùng. Thị trường các tổ
chức mang tính tập trung về mặt địa lý nhiều hơn, chẳng hạn như ở các khu
công nghiệp, khu chế xuất, các thành phố lớn... Cầu của khách hàng tổ chức
được phát sinh từ cầu của người tiêu dùng. Ta gọi đó là cầu phái sinh. (Cầu
của thị trường mang tính chất thứ phát hay thụ động). Phần lớn thị trường các
tổ chức là thị trường không co giãn. Việc tăng hay giảm lượng mua trong
ngắn hạn đối với thị trường này không bị ảnh hưởng nhiều với yếu tố giá cả
vì nhu cầu phục vụ cho sản xuất của họ đã được ấn định. Nhu cầu của thị
trường các tổ chức có tính chất dao động thất thường, nghĩa là có khuynh
hướng rất dễ biến động và thay đổi nhanh hơn so với nhu cầu về sản phẩm
trong thị trường người tiêu dùng. Các nhà kinh tế gọi điều này là nguyên lý
gia tốc.
40
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Ví dụ: Một sự thay đổi nhỏ của nhu cầu thị trường người tiêu dùng (10%)
có thể dẫn đến một sự thay đổi rất lớn về nhu cầu của tổ chức mua hàng
(20%)
Bản chất của đơn vị mua
Việc mua sắm của các tổ chức thường liên quan đến nhiều bên tham gia
hơn so với thị trường người tiêu dùng và có tính chất chuyên nghiệp hơn nên
để có thể làm được việc đó, người đại diện mua phải được huấn luyện thông
thạo. Việc mua càng phức tạp càng cần nhiều người tham gia vào tiến trình
quyết định. Điều đó bắt buộc các đơn vị bán cũng cần có các đại diện thương
mại được huấn luyện kỹ.
Các đặc tính khác
Tính mua trực tiếp: Quan hệ mua bán giữa các công ty cung ứng và công
ty mua thường là quan hệ trực tiếp, không qua trung gian nhằm giảm chi phí
Tính tương hỗ hay hợp tác: Khách hàng mua tư liệu sản xuất thường
chọn những nhà cung ứng có quan hệ hợp tác kinh tế với mình như vừa cấp
vốn vừa lạ mua thành phẩm.
Tính thuê mướn: Các khách mua tổ chức ngày càng hướng đến việc thuê
mướn thay vì mua đứt. Điều này thường xảy ra đối với các doanh nghiệp
trong các ngành may, xây dựng, giao thông vận tải....
2.3. Hành vi mua của khách hàng tổ chức
Những người tham gia vào quá trình mua hàng
Việc mua hàng của doanh nghiệp là một công việc phức tạp, có sự tham
gia và ảnh hưởng từ nhiều cá nhân, nhiều bộ phận trong và ngoài doanh
nghiệp đó. Họ có thể đảm nhiệm một hoặc nhiều vai trò sau đây:
a. Người sử dụng
Là những thành viên trong doanh nghiệp sẽ sử dụng sản phẩm hoặc dịch
vụ được mua. Trong nhiều trường hợp, những người sử dụng là những người
đưa ra các đề xuất mua hàng và định ra các quy cách sản phẩm sẽ được mua.
41
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
b. Người ảnh hưởng
Là những thành viên trong doanh nghiệp có ảnh hưởng đến quyết định
mua. Những người này thường trợ giúp xác định quy cách sản phẩm và cung
cấp những thông tin cần thiết cho việc đo lường các lựa chọn. Các kỹ thuật
viên là những người có ảnh hưởng quan trọng nhất đến quyết định mua.
c. Người mua
Là người thực hiện việc mua hàng. Đây là người có nhiệm vụ lựa chọn nhà
cung ứng và chuẩn bị các điều kiện mua hàng. Những người mua này có thể
giúp định hình các quy cách sản phẩm, tuy nhiên nhiệm vụ chính của họ là lựa
chọn nhà cung ứng và đàm phán. Trong một số nhiệm vụ mua phức tạp hơn
đòi hỏi phải có sự tham gia của những người có trách nhiệm cao hơn trong
doanh nghiệp thực hiện việc đàm phán mua hàng.
d. Người quyết định
Là những người trong doanh nghiệp có quyền hạn trong việc lựa chọn và
thông qua sự lựa chọn nhà cung ứng sau cùng. Đối với các tình huống mua
thông thường người mau có thể là người ra quyết định.
e. Người bảo vệ
Là những người kiểm soát dòng thông tin đi đến các thành viên khác trong
nội bộ công ty. Chẳng hạn các nhân viên mua thường xuyên ngăn không cho
người bán tiếp xúc trực tiếp với người ra quyết định. Người bảo vệ cũng có
thể là nhân viên kỹ thuật và các thư ký.
Các loại quyết định mua và tiến trình ra quyết định mua
Khách hàng công nghiệp khi mua thường đối diện với một loạt các quyết
định. Số lượng các quyết định tùy thuộc vào các dạng tình huống mua. Có 3
dạng tình huống mua cụ thể:
a. Mua hàng lặp lại không có thay đổi
Đây là tình huống mà người mua giao đơn đặt hàng lặp lại có kèm theo bất
cứ một sự thay đổi hay điều chỉnh nào cả. ở tình huống này bộ phận mua
42
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
hàng của doanh nghiệp tự xử lý theo các thủ tục thông thường. Người mua
lựa chọn nhà cung ứng theo một danh sách có sẵn và sự lựa chọn này tùy
thuộc vào mức độ thỏa mãn trong những lần mua trước.
b. Mua hàng lặp lại có điều chỉnh
Trong trường hợp này người mua đưa vào đơn đặt hàng lặp lại có kèm theo
những thay đổi liên quan đến tính năng, quy cách sản phẩm, giá cả và những
điều kiện cung ứng khác hoặc có thể thay thế các nhà cung cấp khác.
c. Mua mới
Đây là tình huống mà người mua tiến hành mua sản phẩm và dịch vụ lần
đầu tiên. Thông thường doanh nghiệp phải đối mặt với những đòi hỏi về sản
phẩm mới, do đó họ phải có nhu cầu mua sản phẩm mới. Ở đây yêu cầu
doanh nghiệp phải thông qua nhiều quyết định liên quan như quy cách sản
phẩm, tìm kiếm và lựa chọn nhà cung ứng, các vấn đề về giá cả, hình thức
thanh toán, số lượng hàng đặt, thời gian giao hàng và các dịch vụ kèm theo.
Nhận thức vấn đề
Nhận thức vấn đề có thể xảy ra như một kết quả của kích thích bên trong
hoặc bên ngoài.
Những kích thích bên trong:
+ Quyết định sản xuất sản phẩm mới làm nảy sinh nhu cầu về trang thiết
bị, nguyên vật liệu mới hoặc bổ sung.
+ Đổi mới,trang bị lại tài sản cố định.
+ Thay đổi những người cung ứng mới khi phát hiện ra những lợi thế về
giá cả,chất lượng vật tư hoặc dịch vụ…
Những kích thích bên ngoài:
+ Do tác động chào hàng của người bán qua triển lãm,quảng cáo…
+ Ý tưởng mới xuất phát từ đối thủ cạnh tranh.
Mô tả khái quát nhu cầu
43
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Xác định đặc tính chung của hàng hóa để xác định mặt hàng và số lượng
cần mua. Đối với những TLSX phức tạp, giá trị lớn, việc mô tả nhu cầu
thường có sự tham gia của nhiều thành viên liên quan đến sử dụng và đánh
giá hiệu suất của những TLSX. Họ thường xếp hạng các chỉ tiêu tho tầm
quan trọng của chúng đối với việc sản xuất sản phẩm và hiệu quả kinh tế.
Các chỉ tiêu thường được sử dụng như độ tin cậy, độ chính xác, giá cả. Trong
giai đoạn này, người mua TLSX thường có nhu cầu rất lớn về thông tin liên
quan đến hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ định mua. Vì vậy, vai trò của người
chào hàng rất quan trọng. Sự giúp đỡ tận tình, trung thực trong việc giúp
người mua xác định nhanh chóng và chính xác các nhu cầu sẽ gây ấn tượng
tốt đẹp trong việc lựa chọn người cung ứng ở giai đoạn tiếp theo.
Đánh giá các đặc tính TLSX
Việc đánh giá các đặc tính TLSX do một nhóm chuyên gia kỹ thuật thực
hiện (lãnh đạo công ty quyết định). Họ thường tập trung vào những vấn đề
sau:
+ Những giá trị mà việc sử dụng có thể đem lại cho người sử dụng.
+ Tương quan giữa chi phí do việc sử dụng và giá trị đem lại.
+ Nhu cầu sử dụng có cần đến tất cả những đặc tính mà hàng hoá đó có
không ? Sự tương ứng giữa nhu cầu sử dụng và các đặc tính của TLSX đến
mức độ nào ?
+ Có loại hàng hoá nào đáp ứng đầy đủ nhất các yêu cầu sử dụng ?
+ Có thể tự sản xuất TLSX được không ? Tự sản xuất có rẻ hơn đi mua
không ?
+ Có thể lựa chọn mặt hàng đã tiêu chuẩn hoá sử dụng được không ?
+ Mối quan hệ giữa việc trang bị công nghệ mới có tương xứng với hiệu
quả sử dụng TLSX mua sắm xét theo quy mô ?
+ Có thể tìm kiếm người cung ứng nào được coi là tốt ?
+ Có người mua nào mua được TLSX với giá rẻ hơn giá mà người cung
ứng chào hàng ?
44
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Các nhà marketing cần phải căn cứ vào các tiêu chuẩn trên để định vị sản
phẩm của mình trên thị trường TLSX. Khi đã chọn được thị trường mục tiêu
và định được sản phẩm, tiếp đến phải tìm đến những ảnh hưởng quan trọng
nhất để giới thiệu, quảng cáo…các đặc tính của sản phẩm mà khách hàng
mục tiêu mong đợi.
Tìm kiếm nhà cung ứng:
Người mua TLSX cố gắng phát hiện những nhà cung ứng thích hợp nhất.
Họ thường dựa vào các nguồn thông tin cơ bản như:
+ Tạp chí thương mại, quảng cáo, triển lãm, hội chợ, niên giám điện
thoại..
+ Mạng Internet
+ Trực tiếp tiếp xúc với nhà cung ứng.
+ Thông tin nội bộ…
Kết quả sẽ xếp hạng được các nhà cung ứng thuộc diện có khả năng lựa
chọn. Tuỳ vào loại TLSX mà các tiêu chuẩn liên quan đến lựa chọn nhà cung
ứng được sắp xếp theo thứ tự khác nhau.
Các công ty cung ứng phải cung cấp cho người mua đầy đủ các thông tin
về sản phẩm, về danh tiếng của công ty. Các hoạt động khuyến mãi cúng
cần chú trọng để được người mua đưa vào diện nhà cung ứng được lựa chọn.
Đề nghị chào hàng
Ở giai đoạn này, người mua TLSX sẽ mời các nhà cung ứng thuộc diện sẽ
được lựa chọn trực tiếp chào hàng. Họ sẽ so sánh tiêu chuẩn mà họ yêu cầu
với những tiêu chuẩn mà người chào hàng đưa ra để quyết định chọn người
cung ứng. Nhà marketing của công ty cung ứng phải khéo léo trong việc giới
thiệu hàng hoá. Những tài liệu được cung cấp đầy đủ, có độ tin cậy cao, đội
ngũ nhân viên chào hàng giỏi là những yếu tố quan trọng để tìm lợi thế cạnh
tranh trong việc tìm kiếm khách hàng.
Lựa chọn nhà cung ứng
45
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Người mua TLSX sẽ nghiên cứu kỹ lưỡng các bản chào hàng và lựa chọn
người cung ứng. Họ không chỉ phân tích, xem xét năng lực kỹ thuật, mà còn
xem xét khả năng thực hiện hợp đồng và dịch vụ sau khi bán như: giao hàng
đúng hẹn, phương thức thanh toán thuận lợi…của các công ty cung ứng đang
cạnh tranh với nhau. Các tiêu chuẩn thường được sử dụng phân tích để đánh
giá bao gồm:
+ Tiêu chuẩn hiệu suất
+ Tiêu chuẩn kinh tế (giá cả và chi phí mua sắm)
+ Tiêu chuẩn thích hợp (mức độ thuận lợi trong việc hợp tác giữa hai bên)
+ Tiêu chuẩn thích nghi (sự thích ứng của người cung ứng về những thay
đổi trong yêu cầu của người mua)
+ Tiêu chuẩn pháp lý.
Các nhà marketing của công ty cung ứng nên coi những tiêu chuẩn trên là
những hướng dẫn trong việc lựa chọn các nỗ lực marketing để cạnh tranh với
các đối thủ cung ứng khác.
Lập đơn đặt hàng
Trong giai đoạn này, hai bên trực tiếp trao đổi và ký kết hợp đồng mua bán.
Cả hai bên cụ thể hoá các điều kiện và yêu cầu liên quan đến việc mua bán
như: số lượng, quy cách, phẩm chất, giá, danh mục mặt hàng, các loại dịch
vụ, phương thức, thời hạn giao hàng và thanh toán, những ràng buộc thực
hiện hợp đồng. Người bán cần giúp đỡ người mua soạn thảo một cách nhanh
chóng, chính xác đơn đặt hàng cùng với những cam kết đáp ứng với nhu cầu
của người mua.
Đánh giá hiệu quả
Trong giai đoạn này, người mua xem xét việc thực hiện của bên bán. Để
duy trì được khách hàng cho những hợp đồng tiếp theo, người bán phải biết
được mức độ hài lòng của người mua về các hoạt động mua bán mà hai bên
đã ký kết và thực hiện.
46
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
3. Nghiên cứu Marketing
3.1. Khái niệm và các loại hình nghiên cứu Marketing
a. Khái niệm
“Nghiên cứu Marketing là quá trình thu thập và phân tích có hệ thống
những dữ liệu về các vấn đề liên quan đến hoạt động Marketing”.
Theo khái niệm này, mục đích của nghiên cứu Marketing là đề ra các giải
pháp cho những vấn đề gặp phải trong quá trình hoạt động Marketing của
doanh nghiệp. Trong thực tế, các hoạt động Marketing của doanh nghiệp
thường gặp phải nhiều vấn đề như:
* Xác định và đo lường các cơ hội kinh doanh
* Phân tích và lựa chọn thị trường mục tiêu
* Cung cấp thông tin để hoạch định và thực hiện chiến lược Marketing
mix
* Đo lường đánh giá các hoạt động Marketing
b. Các loại hình nghiên cứu Marketing
(1) Dựa vào mục tiêu nghiên cứu
Có thể phân loại nghiên cứu marketing dựa vào mục tiêu nghiên cứu
marketing. Nghiên cứu marketing có thể nhắm đến mục tiêu (1) nhận diện và
xác định vấn đề cần nghiên cứu, (2) mô tả vấn đề đã được xác định, (3) phát
hiện những mối quan hệ giữa các biến số trong vấn đề nghiên cứu để đề ra
giải pháp giải quyết vấn đề...
Tương ứng với các mục tiêu nghiên cứu này, chúng ta có các dạng nghiên
cứu marketing: nghiên cứu thăm dò, nghiên cứu mô tả và nghiên cứu nhân
quả.
❖ Nghiên cứu thăm dò (Exploratory Studies):
Mục tiêu của nghiên cứu thăm dò là nhằm xác định hoặc nhận diện các vấn
đề đang tồn tại trong hoạt động marketing. Đó có thể là sự giảm sút về doanh
số bán hay sự kém cỏi của hệ thống phân phối... Loại nghiên cứu này được
47
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
sử dụng trong giai đoạn đầu tiên của tiến trình nghiên cứu marketing để giúp
xác định đúng vấn đề cần nghiên cứu.
Nghiên cứu thăm dò có thể chia làm các giai đoạn:
Thu thập các dữ liệu thứ cấp và thực hiện việc quan sát liên tục tình hình
hoạt động marketing của doanh nghiệp, trên cơ sở đó đưa ra các giả thuyết về
các tình huống có “vấn đề”.
Thu thập dữ liệu để làm rõ những vấn đề đã được giả thuyết. Ở giai
đoạn này, ngoài các dữ liệu thứ cấp thu thập được, có thể sử dụng các
chuyên gia có kinh nghiệm để giúp khái niệm đúng được vấn đề và mô tả tình
huống của vấn đề.
Sử dụng các phân tích giả định để xác định ranh giới và phạm vi của vấn
đề cần nghiên cứu. Đây là bước quan trọng, bởi nó sẽ giúp việc nghiên cứu
tập trung vào các nội dung chủ yếu, bỏ qua các nội dung hoặc các yếu tố ít có
ảnh hưởng đến vấn đề nghiên cứu, từ đó nhà nghiên cứu có thể tiết kiệm
được chi phí cũng như xác định thời gian hợp lý để tiến hành các các cuộc
nghiên cứu.
Bước cuối cùng là tổng hợp để xác định chính xác vấn đề cần nghiên
cứu.
❖ Nghiên cứu mô tả (Descriptive Studies):
Khi đã xác định đúng vấn đề nghiên cứu, cần phải mô tả những đặc điểm,
tính chất liên quan đến vấn đề.
Nghiên cứu mô tả tập trung vào việc mô tả các đặc điểm của vấn đề mà
không tìm cách chỉ rõ các mối quan hệ bên trong vấn đề nghiên cứu. Chẳng
hạn, mô tả quy mô, tiềm năng của thị trường, các yếu tố ảnh hưởng đến sự
tăng trưởng hay đình trệ của thị trường...
Nghiên cứu mô tả giúp người nghiên cứu xác định quy mô của việc nghiên
cứu cần tiến hành, hình dung được toàn diện “môi trường” của vấn đề, và
48
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
nhờ đó trong một số trường hợp, người nghiên cứu có thể ước đoán được xu
thế và chiều hướng phát triển của vấn đề.
Để nghiên cứu mô tả, ngoài nguồn dữ liệu thứ cấp, người nghiên cứu cần
phải thu thập dữ liệu sơ cấp, sử dụng các thử nghiệm marketing hoặc lập các
mô hình giả định để phân tích.
❖ Nghiên cứu nhân quả (Causal Studies):
Nghiên cứu nhân quả nhằm phát hiện các mối quan hệ nhân quả trong vấn
đề nghiên cứu, và nhờ vậy đây là loại nghiên cứu nhằm mục tiêu tìm ra giải
pháp để giải quyết vấn đề. Để thực hiện nghiên cứu nhân quả, người nghiên
cứu có thể sử dụng các mô hình phân tích giả định, nhưng thông thường và
phù hợp hơn cho việc nghiên cứu là sử dụng các mô hình thử nghiệm.
Trong thực tế, việc nhận diện một quan hệ nhân quả giữa hai biến số
không phải là đơn giản. Do tính hệ thống của mọi hiện tượng, sự vật cho nên
một kết quả xảy ra không phải do một nguyên nhân duy nhất mà có thể do
nhiều nguyên nhân tạo nên. Vì vậy, khi tìm hiểu các quan hệ nhân quả,
thường người ta chú ý các nguyên nhân chủ yếu nhất.
Để kết luận một quan hệ là quan hệ nhân quả, cần có điều kiện sau:
Phải có nhiều bằng chứng rõ ràng về mối liên quan giữa một tác nhân và
một kết quả quan sát được.
Phải có bằng chứng là tác nhân đã đi trước kết quả.
Phải chứng tỏ một cách rõ rệt là ngoài tác nhân đó không thể có lời giải
thích có căn cứ nào khác về kết quả đã nhận được, nghĩa là những sự giải
thích khác (ngoài tác nhân đã nêu) phải được loại trừ. Để có thể thực hiện
được điều này, như đã nói ở trên, muốn nghiên cứu quan hệ nhân quả, cần
phải giữ cho các yếu tố liên quan khác là không đổi. Chẳng hạn cầu sản
phẩm là đại lượng tỷ lệ nghịch với giá cả sản phẩm đó trong các điều kiện
khác không đổi (giá cả sản phẩm bổ sung, thay thế, thị hiếu người tiêu
dùng...)
49
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
(2) Dựa vào cách thức nghiên cứu
Nghiên cứu tại bàn là phương pháp nghiên cứu mà các dữ liệu cần
thu thập là dữ liệu thứ cấp (có sẵn). Các dữ liệu đó đã được thu thập và xử lý
cho mục đích nào đó trước đây và được nhà nghiên cứu tiếp tục sử dụng để
phục vụ cho việc nghiên cứu của mình.
Nghiên cứu tại hiện trường là nghiên cứu mà các dữ liệu thu thập và xử lý
là các dữ liệu sơ cấp.
(3) Dựa vào đặc điểm thông tin
Nghiên cứu định tính: là nghiên cứu trong đó dữ liệu cần thu thập là dữ liệu
định tính
Nghiên cứu định lượng: là các nghiên cứu trong đó dữ liệu cần thu thập là
dữ liệu định lượng
(4) Dựa vào mức độ am hiểu thị trường
Nghiên cứu đột xuất: nhằm mục đích giải quyết các vấn marketing mà
doanh nghiệp đang gặp phải.
Nghiên cứu kết hợp: Cơ quan nghiên cứu chuyên nghiệp thực hiện định kỳ
nghiên cứu cho nhiều khách hàng cùng lúc
3.2. Quy trình nghiên cứu Marketing
(1). Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu
Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu là bước đầu tiên và khó nhất trong
quá trình nghiên cứu. Đôi khi giám đốc Marketing biết công ty đang gặp phải
một số vấn đề khó khăn nhưng có thể không biết cụ thể những khó khăn đó
xuất phát từ những nguyên nhân cụ thể nào.
50
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Ví dụ: Doanh số bán của công ty sụt giảm có thể do các nguyên nhân như
phân khúc thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, sản phẩm, giá cả, hệ
thống phân phối hoặc chương trình xúc tiến được xác định không phù hợp với
thực tế. Cần phải phân biệt được bản chất và hiện tượng của vấn đề cần
nghiên cứu.
Sau khi xác định được vấn đề nghiên cứu, người làm Marketing phải làm rõ
mục tiêu nghiên cứu cần đạt được.
(2). Xây dựng kế hoạch nghiên cứu
Để việc nghiên cứu đạt hiệu quả doanh nghiệp cần phải thiết kế bản kế
hoạch nghiên cứu bao gồm các nội dung:
Xác định các dữ liệu cần thu thập: Tùy theo mục tiêu nghiên cứu doanh
nghiệp cần phải xác định các dữ liệu thích hợp.
Xác định phương pháp thu thập dữ liệu: Người nghiên cứu có thể sử
dụng một trong các phương pháp như quan sát, thử nghiệm, hay điều tra.
Xác định các kỹ thuật dùng để xử lý dữ liệu: Người nghiên cứu có thể sử
dụng các kỹ thuật như phân tích, xây dựng mô hình hay hệ thống thông tin
Marketing.
Xác định ngân sách nghiên cứu: Ngân sách nghiên cứu sẽ tùy thuộc vào
thời gian nghiên cứu và vấn đề nghiên cứu.3.3. Thực hiện nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu gồm thu thập và xử lý dữ liệu. Việc thu thập dữ
liệu có thể do công ty tiến hành hoặc thuê ngoài. Nếu công ty tiến hành thì dữ
liệu sẽ đảm bảo tính bí mật hơn. Nếu thuê ngoài thì việc thu thập dữ liệu có
thể nhanh hơn. Thu thập dữ liệu là khâu dễ xảy ra sai sót nhất, do đó khâu
này cần phải được quản lý kỹ để đảm bảo tính chính xác của số liệu nghiên
cứu. Các dữ liệu thu thập có thể xuất phát từ hai nguồn:
Nguồn dữ liệu thứ cấp: là các nguồn dữ liệu có sẵn, nó bao gồm:
+ Nguồn nội bộ: Các báo cáo công ty về chi phí, doanh thu, lợi nhuận,……
51
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
+ Nguồn bên ngoài: thư viện (sách báo, tạp chí, đặc san, báo cáo nghiên
cứu, niên giám thống kế) và tổ hợp thông tin về người tiêu dùng, bán buôn,
bán lẻ… do các công ty nghiên cứu thị trường thực hiện để bán cho khách
hàng mà không xuất bản.
Nguồn dữ liệu sơ cấp: được thu thập qua một trong ba kỹ thuật chính
như sau:
+ Quan sát: là phương pháp thu thập thông tin trong đó nhà nghiên cứu tiến
hành quan sát đối tượng nghiên cứu. Ví dụ: quan sát cách bố trí, trình bày sản
phẩm trong cửa hàng, quan sát thói quen sử dụng sản phẩm.
+ Nghiên cứu thử nghiệm: Là phương pháp thích hợp nhất để thu thập các
thông tin về quan hệ nhân quả bằng cách tác động những thử nghiệm khác
nhau vào các nhóm thử nghiệm khác nhau, kiểm tra các yếu tố ngoại lai và
kiểm tra sự khác biệt của các nhóm sau thử nghiệm. Nghiên cứu quan sát có
thể được dùng để thu thập thông tin trong nghiên cứu thử nghiệm.
+ Điều tra: Phương pháp này có thể được thực hiện trực tiếp hay gián tiếp.
Phương pháp trực tiếp bao gồm 2 hình thức phỏng vấn. Thứ nhất là phỏng
vấn tay đôi giữa nhà nghiên cứu và đối tượng cần thu thập thông tin về chủ
đề nghiên cứu. Thứ hai là phỏng vấn nhóm trong đó một nhóm các đối tượng
nghiên cứu và người điều khiển ngồi lại với nhau để làm rõ một chủ đề
nghiên cứu. Phương pháp gián tiếp bao gồm điều tra qua điện thoại, qua bưu
điện và qua internet. Trong kỹ thuật điều tra cần phải có bản câu hỏi và chọn
mẫu đối tượng điều tra .
Bảng câu hỏi là công cụ phổ biến nhất hiện nay trong kỹ thuật điều tra.
Để thiết lập bản câu hỏi nhà nghiên cứu phải quyết định loại câu hỏi, hình
thức câu hỏi, từ ngữ dùng trong câu hỏi, thứ tự của các câu
hỏi và mối liên hệ của mỗi câu hỏi đến mục tiêu nghiên cứu.
Hình thức câu hỏi có 2 dạng:
52
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Câu hỏi đóng: đưa ra tất cả các khả năng trả lời, đối tượng phỏng vấn sẽ
chọn một trong các khả năng đó.
Câu hỏi mở: cho phép đối tượng phỏng vấn trả lời theo suy nghĩ của họ.
Yêu cầu đối với bảng câu hỏi:
Đơn giản, dễ hiểu, thông dụng, chính xác, khách quan.
Thứ tự câu hỏi phải tuân theo một thứ tự logic như những câu hỏi giạn
lọc giới thiệu ở đầu, các câu hỏi chính ở giữa, cuối cùng là các câu hỏi về
đặc trưng xã hộidân số của người trả lời hoặc của doanh nghiệp hay tổ
chức.
Chú ý: Những câu hỏi dễ thường được để đầu để khuyến khích trả lời,
những câu khó để cuối.
Thang đo của các câu hỏi : có 4 kiểu
Thang biểu danh: dùng để xác định thứ bậc, cấp độ.
Thang thứ tự: dùng để xếp hạng theo ưu đãi.
Thang khoảng cách: dùng để xác định mức chênh lệch giữa giá bán các
sản phẩm tương tự.
Thang tỉ lệ: dùng trong điều tra liên quan đến kích cỡ doanh số của doanh
nghiệp.
Sau khi thu thập dữ liệu, nhà nghiên cứu phải xử lý, phân tích số liệu bằng
phương pháp phân tích thống kê, mô hình và hệ thống thông tin Marketing từ
đó đưa ra những kiến nghị. Họ cần phải kiểm tra xử lý số liệu và mã hóa nó
để máy tính tính toán các chỉ tiêu thống kê. Cuối cùng nhà nghiên cứu trình
bày, báo cáo kết quả nghiên cứu cho người phụ trách Marketing của doanh
nghiệp.
Chọn mẫu nghiên cứu: Thông thường việc nghiên cứu Marketing được
tiến hành trên một mẫu nhỏ để rút ra những kết luận chung về đám đông.
Mẫu là một tập hợp nhỏ, điển hình và được chọn ra từ đám đông. Có hai cách
chọn mẫu: Chọn mẫu có xác suất là chọn mẫu mang tính ngẫu nhiên bảo
53
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
đảm tất cả các đối tượng trong đám đông đều có cùng cơ hội tham gia vào
chọn mẫu và chọn mẫu phi xác suất là đối tượng được chọn không theo quy
luật ngẫu nhiên mà theo sự tiện lợi và những đánh giá chủ quan của nhà
nghiên cứu. Sau khi thu thập dữ liệu, người nghiên cứu cần phải xử lý bằng
nhiều phương cách
như phân tích định tính và phân tích định lượng. Trong phân tích định lượng,
kỹ thuật phân tích thống kê được áp dụng. Người ta phân biệt phân tích định
lượng thành hai loại đối nhau, đó là phương pháp mô tả và phương pháp nhân
quả. Các dữ liệu thu thập có thể dùng vào các mô hình. Mô hình là tượng
trưng đơn giản hóa của thực tế, chỉ giữ lại một số các yếu tố hợp thành, đặc
biệt những yếu tố được nhận thức là quan trọng nhất. Muốn xây dựng một
mô hình cần phải xác định cho được các đặc trưng của mô hình, đánh giá các
thông số và chỉ khi nào mô hình được đánh giá là chính xác thì có thể đưa vào
sử dụng.
Các dữ liệu thu thập phải được đưa đến người phục trách Marketing xử lý
thông qua hệ thống thông tin Marketing. Đó là kênh truyền thông tin trước,
trong và sau khi ra quyết định.
(4). Trình bày báo các kết quả nghiên cứu
Yêu cầu của bản báo cáo là phải rõ ràng, gọn, chính xác. Cấu trúc của một
bản báo cáo gồm có các nội dung sau:
Trang nhan đề.
Mục lục.
Lời giới thiệu (vấn đề và mục tiêu cần nghiên cứu).
Tóm tắt báo cáo.
Phương pháp áp dụng trong thu thập và phân tích.
Kết quả nghiên cứu.
Kết luận và đề xuất giải pháp.
Phụ lập.
54
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Câu 2.1: Để hiểu rõ khách hàng, các doanh nghiệp có thể thu thập các nguồn
thông tin về khách hàng như thế nào?
Câu 2.2: Các nguồn thông tin Marketing khác nhau và phương pháp thu thập
thông tin đó?
Câu 2.3: Trình bày các nguồn thông tin nghiên cứu Marketing? Liên hệ các
doanh nghiệp nơi bạn đang làm việc hoặc hiểu biết?
55
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
BÀI 3: PHÂN KHÚC THỊ TRƯỜNG, LỰA CHỌN THỊ TRƯỜNG MỤC
TIÊU, ĐỊNH VỊ TRONG THỊ TRƯỜNG
Mã bài: 24.3
Giới thiệu:
Thị trường là nơi diễn ra quá trình trao đổi, mua bán; nơi mà các người mua
và bán đến với nhau để mua bán các sản phẩm và dịch vụ. Thị trường là môi
trường của kinh doanh , là tấm gương soi để các cơ sở kinh doanh nhận biết
nhu cầu xã hội và để đánh giá cao hiệu quả kinh doanh của các công ty. Tổng
quát nhất, chúng ta có hai loại thị trường chính, đó là thị trường người tiêu
dùng là cá nhân và thị trường người tiêu dùng là tổ chức.
Hành vi mua hàng của cá nhân khác với hành vi mua hàng của tổ chức ở các
yếu tố tác động. Khách hàng là cá nhân phụ thuộc vào các thuộc tính của
chính bản thân người mua như thái độ, động cơ, kiến thức, nhân cách. Trong
khi khách hàng là tổ chức phụ thuộc nhiều vào các yếu tố về chất lượng, giá
cả và dịch vụ trong sản phẩm mà doanh nghiệp mua.
Muốn thành công trên thị trường, công ty phải tìm hiểu hành vi, thái độ và
động cơ mua hàng của khách hàng. Nói cách khác là cần nghiên cứu thị
trường để tìm rõ thị trường thì mới có khả năng đáp ứng được nhu cầu của
khách hàng.
Mục tiêu:
Trình bày được khái niệm thị trường, phân khúc thị trường, định vị trong
thị trường.
Trình bày được cách đánh giá, lựa chọn, thị trường mục tiêu.
Trình bày được phương pháp định vị sản phẩm trong thị trường.
Xác định được thị trường mục tiêu, định vị sản phẩm và định vị thương
hiệu
Có ý thức đúng đắn trong việc nhìn nhận, đánh giá một kế hoạch
Marketing.
56
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Nội dung:
1. Khái quát về thị trường
1.1. Khái niệm
Thị trường ra đời gắn liền với nền sản xuất hàng hoá, nó là môi trường để
tiến hành các hoạt động giao dịch mang tính chất thương mại của mọi doanh
nghiệp công nghiệp. Trong một xã hội phát triển, thị trường không nhất thiết
chỉ là địa điểm cụ thể gặp gỡ trực tiếp giữa người mua và người bán mà
doanh nghiệp và khách hàng có thể chỉ giao dịch, thỏa thuận với nhau thông
qua các phương tiện thông tin viễn thông hiện đại. Cùng với sự phát triển của
sản xuất hàng hoá, khái niệm thị trường ngày càng trở nên phong phú và đa
dạng. Có một số khái niệm phổ biến về thị trường như sau:
● Thị trường là nơi mua bán hàng hoá, là nơi gặp gỡ để tiến hành hoạt
động mua bán giữa người mua và người bán.
● Thị trường là biểu hiện thu gọn của quá trình mà thông qua đó các
quyết định của các tổ chức,đơn vị kinh tế về tiêu dùng các mặt hàng nào, các
quyết định của các doanh nghiệp về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và
quyết định của người lao động về việc làm là bao lâu, cho ai đều được quyết
định bằng giá cả.
● Thị trường là sự kết hợp giữa cung và cầu, trong đó những người mua
và người bán bình đẳng cùng cạnh tranh. Số lượng người mua và người bán
nhiều hay ít phản ánh quy mô của thị trường lớn hay nhỏ. Việc xác định nên
mua hay bán hàng hóa và dịch vụ với khối lượng và giá cả bao nhiêu do quan
hệ cung cầu quyết định. Từ đó ta thấy thị trường còn là nơi thực hiện sự kết
hợp giữa hai khâu sản xuất và tiêu dùng hàng hoá.
● Thị trường là phạm trù riêng của nền sản xuất hàng hoá. Hoạt động cơ
bản của thị trường được thể hiện qua 3 nhân tố có mối quan hệ hữu cơ với
nhau nhu cầu hàng hoá dịch vụ, cung ứng hàng hoá dịch vụ và giá cả hàng hoá
dịch vụ.
57
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
1.2. Phân loại thị trường
Thị trường người tiêu dùng bao gồm tất cả các cá nhân, các hộ tiêu dùng
mua sắm hàng hóa hoặc dịch vụ cho mục đích tiêu dùng cá nhân.
Họ là người cuối cùng tiêu dùng sản phẩm do quá trình sản xuất tạo ra.
Người tiêu dùng có thể là một cá nhân, một hộ gia đình hoặc một nhóm
người.
Người tiêu dùng rất khác nhau về tuổi tác, mức thu nhập, trình độ học vấn,
thị hiếu, tâm lý… Các sản phẩm cho tiêu dùng cá nhân cũng rất đa dạng như
quần áo, thức ăn, đồ dùng gia đình, xe cộ, đồ trang sức, các dịch vụ vui chơi
giải trí, giao lưu tình cảm… Nhờ tiêu dùng các sản phẩm đó, con người đáp
ứng được các nhu cầu cá nhân để tồn tại. Mặt khác, cũng qua tiêu dùng, con
người có thể thể hiện mình trước con mắt của cộng đồng. Đó chính là văn
hoá tiêu dùng của họ. Mỗi quốc gia, dân tộc khác nhau thì văn hoá tiêu dùng
khác nhau. Văn hoá tiêu dùng tạo nên hành vi tiêu dùng. Vì thế, mỗi doanh
nghiệp có thể chia người tiêu dùng thành các đoạn thị trường nhỏ để dễ phục
vụ. Ví dụ, thời trang nam giới, nữ giới, thời trang phong cách teen, thời trang
cao cấp….
Thị trường các doanh nghiệp bao gồm tất cả các cá nhân hay tổ chức
mua sắm hàng hoá và dịch vụ cho một trong các mục đích sau đây:
Để sản xuất ra những hàng hóa hay dịch vụ khác.
Để bán lại cho những người sản xuất hoặc cho người tiêu dùng.
Để tiến hành hoạt động của cơ quan.
Các ngành quan trọng hình thành trên thị trường các doanh nghiệp
bao gồm:
Nông, lâm, ngư nghiệp.
Công nghiệp khai khoáng.
Xây dựng.
Công nghiệp chế biến.
58
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Giao thông vận tải, thông tin liên lạc, công trình công cộng.
Bán buôn và bán lẻ.
Tài chính, bảo hiểm, ngân hàng.
Doanh nghiệp nhà nước (trung ương, địa phương)
Dịch vụ.
2. Phân khúc thị trường
2.1. Khái niệm
Phân khúc thị trường là chia thị trường không đồng nhất thành các khúc thị
trường đồng nhất để làm nổi rõ lên sự khác biệt về nhu cầu, tính cách hay
hành vi. Sở dĩ doanh nghiệp phải phân khúc thị trường là để nhận rõ nhu cầu
của khách hàng trong từng khúc, từ đó giúp doanh nghiệp triển khai hỗn hợp
Marketing ( Marketing mix) thích ứng nhằm thỏa mãn những nhu cầu đó.
Thông qua những chương trình Marketing tương ứng với từng khúc thị trường
riêng biệt nhà quản trị có thể thực hiện các công việc Marketing tốt hơn, sử
dụng các nguồn lực hiệu quả hơn. Chẳng hạn một doanh nghiệp nhỏ với
nguồn lực giới hạn có thể cạnh tranh hiệu quả bằng việc định vị mạnh mẽ
trong vài khúc thị trường phù hợp với năng lực của mình. Một doanh nghiệp
có quy mô trung bình hay quy mô lớn cũng xem phân khúc thị trường là một
công việc cần thiết để củng cố và mở rộng thị trường.
2.2. Yêu cầu của phân khúc thị trường
Khi phân khúc thị trường phải đạt các yêu cầu sau:
Tính đo lường được: Quy mô và mãi lực của các phân khúc phải đo lường
được.
Tính tiếp cận được: Các khúc thị trường phải vươn tới và phục vụ được
bằng hệ thống phân phối và các hoạt động truyền thông.
Tính hấp dẫn: Các phân khúc thị trường phải có quy mô lớn và sinh lời
được.
59
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Tính khả thi:Công ty phải có đủ khả năng về nhân lực, tài chính, kỹ thuật,
Marketing để đáp ứng được đòi hỏi của các khúc thị trường đã phân.
2.3. Các tiêu thức phân khúc thị trường
Có rất nhiều tiêu thức dùng để phân khúc thị trường. Người làm Marketing
phải nghiên cứu, thử nghiệm để đưa ra tiêu thức phân khúc thích hợp. Họ có
thể sử dụng một tiêu thức hoặc phối hợp nhiều tiêu thức để phân khúc thị
trường.
Phân khúc theo khu vực địa lý
Có thể chia thị trường ra theo từng miền trong nước như miền Bắc, miền
Trung, miền Nam hay thị trường nội địa và thị trường quốc tế.
Phân khúc theo dân số
Phân khúc theo độ tuổi
Phân khúc theo giới tính
Quy mô gia đình
Phân khúc theo tâm lý
Các tầng lớp xã hội
Lối sống
Cá tính
Phân khúc theo hành vi mua hàng
Dịp mua
Lợi ích khi mua hàng
Mức sử dụng
Mức trung thành với nhãn hiệu
2.4. Các bước phân khúc thị trường
Việc phân khúc thị trường được tiến hành qua các bước sau: xác định thị
trường kinh doanh, xác định tiêu thức để phân khúc thị trường, tiến hành phân
khúc thị trường bằng các tiêu thức đã lựa chọn
Bước 1: Xác định thị trường kinh doanh
60
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Phải xác định được thị trường kinh doanh mà công ty hướng tới. Thị trường
này sẽ bao gồm nhiều nhóm khách hàng không đồng nhất....
Bước 2: Xác định tiêu thức để phân khúc thị trường.
Tìm ra các tiêu thức để phân khúc thị trường vốn không đồng nhất thành
các nhóm khách hàng đồng nhất.
Bước 3: Tiến hành phân khúc thị trường theo tiêu thức đã được lựa chọn
3. Lựa chọn thị trường mục tiêu
3.1. Đánh giá các khúc thị trường
Khi đánh giá các đoạn thị trường doanh nghiệp có thể căn cứ vào các tiêu
chuẩn sau:
Quy mô và mức tăng trưởng của khúc thị trường:
Qui mô thể hiện ở doanh số tại thị trường đó và mức tăng trưởng thể hiện
ở tốc độ tăng của doanh số .
Sự hấp dẫn của đoạn thị trường:
+ Mối đe dọa của đối thủ cạnh tranh hiện có
+ Mối đe dọa của các đối thủ cạnh tranh mới
+ Mối đe dọa của các sản phẩm thay thế
+ Áp lực từ phía khách hàng
+ Áp lực từ phía nhà cung cấp.
Các mục tiêu và khả năng nguồn lực của công ty:
Phải xem xét kinh doanh sản phẩm đó có phù hợp với mục tiêu và nguồn
lực của công ty hay không.
3.2. Lựa chọn thị trường mục tiêu
Việc lựa chọn thị trường mục tiêu có thể được thực hiện bằng 3 cách sau:
Theo đuổi toàn bộ thị trường bằng một mặt hàng.
61
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Một SP và một chương trình marketing hướng tới đại đa số khách mua.
Trông cậy vào kiểu phân phối hàng loạt, quảng cáo tràn lan.
Tạo một hình ảnh hảo hạng trong ý nghĩ công chúng.
Ưu điểm: Tiết kiệm chi phí.
Hoạt động trong nhiều khúc thị trường và tung ra ở mỗi khúc những sản
phẩm khác nhau.
Ưu điểm: Doanh số cao hơn marketing không phân biệt, tuy nhiên, nó làm
tăng thêm nhiều loại chi phí.
Công ty, thay vì theo đuổi một phần nhỏ chiếm được trong một thị trường
lớn thì nên theo đuổi chiếm lấy một phần lớn của một hay vài tiểu thị trường.
Marketing tập trung có thể gặp bất trắc hơn hai trường hợp trên, chẳng
hạn thị trường đó có thể bị mất trắng.
3.3. Các căn cứ xác định cách lựa chọn thị trường
Nguồn lực của công ty: nguồn lực hạn chế => Marketing tập trung.
Tính đồng nhất của sản phẩm: SP đồng nhất => Marketing không phân
biệt, SP không đồng nhất => Marketing phân biệt hay tập trung.
Mức thâm niên của SP: SP mới => Marketing không phân biệt hoặc tập
trung, SP có thời gian tồn tại trên thị trường lâu hơn => Marketing phân biệt.
Tính đồng nhất thị trường: khách hàng đồng nhất => Marketing không
phân biệt.
62
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Các chiến lược Marketing của đối thủ cạnh tranh: đối thủ dùng Marketing
không phân biệt => Marketing phân biệt.
4. Định vị trong thị trường
4.1. Khái niệm
Định vị trong thị trường là việc đưa các ấn tượng tốt, đặc sắc, khó quên về
sản phẩm công ty vào trong tâm trí khách hàng bằng các chiến lược Marketing
mix thích hợp.
4.2. Các mức độ định vị
Định vị địa điểm
Định vị ngành
Định vị công ty
Định vị sản phẩm.
4.3. Chiến lược định vị sản phẩm
Định vị dựa trên một thuộc tính của sản phẩm (Bột giặt Tide : “trắng như
Tide”).
Định vị dựa trên lợi ích của sản phẩm đem lại cho khách hàng
(Colgate:“ngừa sâu răng”).
Định vị dựa trên công dụng của sản phẩm ( Bã mía có thể vừa làm nguyên
liệu cho nhà ván ép, vừa làm nguyên liệu cho nhà máy giấy).
Định vị dựa trên tầng lớp người sử dụng (Sữa dành cho trẻ em và cho
người già).
Định vị so sánh với đối thủ cạnh tranh (Quảng cáo các loại bột giặt
thường cho rằng trắng hơn các loại bột giặt khác).
Định vị tách biệt hẳn các đối thủ cạnh tranh (Nước bổ dưỡng Bacchus so
với các loại nước uống tăng lực khác).
Định vị so sánh với các loại sản phẩm khác (Hương thơm của một loại
dầu xịt phòng có mùi thơm tỏa ra giống như một loại hoa).
63
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
4.4. Các bước của quá trình định vị
Bước 1: Xác định mức độ định vị (quốc gia, ngành, công ty, sản phẩm).
Bước 2: Xác định các đặc điểm cốt lõi quan trọng cho các khúc thị
trường đã lựa chọn.
Bước 3: Xác định các thuộc tính quan trọng trên một bản đồ định vị.
Bước 4: Đánh giá các lựa chọn định vị.
Các đặc điểm định vị cần hơn hẳn đối thủ cạnh tranh.
Xác định vị trí thị trường chưa bị xâm chiếm bởi các đối thủ cạnh tranh để
tấn công.
Định vị lại để cạnh tranh có hiệu quả.
Muốn định vị thành công phải đạt được các yêu cầu sau:
Các đặc điểm định vị phải thỏa mãn đầy đủ nhu cầu của khách hàng mục
tiêu
Các yếu tố định vị cần đúng sự thật,phù hợp với cảm nhận của khách hàng
mục tiêu.
Các yếu tố định vị cần độc đáo, không trùng lặp với đối thủ cạnh tranh.
Bước 5: Thực hiện định vị và marketing mix.
Định vị cần được thông tin tới khách hàng bằng tất cả các phương tiện
truyền thông. Tất cả các thành phần trong công ty, nhân viên, các chính sách,
các hoạt động truyền thông cần được xây dựng thành các hình ảnh đặc sắc
nhằm thể hiện chiến lược định vị. Marketing mix là chìa khóa quan trọng để
thực hiện chiến lược định vị góp phần tạo rặ đặc sắc và khác biệt.
ĐỊNH VỊ THỂ HIỆN CỤ THỂ
64
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
1. Dẫn đầu thị phần 1. Doanh số lớn nhất
2. Dẫn đầu chất lượng 2. Chất lượng tốt nhất
3. Dẫn đầu dịch vụ 3. Chăm sóc tốt nhất khách hàng.
4. Dẫn đầu công nghệ 4. Phát triển công nghệ mới đầu tiên
5. Dẫn đầu về đổi mới 5. Sáng tạo nhất trong áp dụng các công
6. Dẫn đầu về sự năng động nghệ mới.
7. Dẫn đầu về mối quan hệ 6. Thích ứng nhất.
8. Dẫn đầu về sự kính trọng 7. Gắn liền sự thành công đối với khách
9. Dẫn đầu về sự hiểu biết hàng
10. Dẫn đầu toàn cầu 8. Hoàn hảo nhất
11. Dẫn đầu về giá cả rẻ 9. Chuyên nghiệp nhất
12. Dẫn đầu về giá trị 10. Vị trí kinh doanh toàn cầu
11. Giá thấp nhất
12. Sản phẩm có giá trị tốt nhất
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Knorr là một trong những thương hiệu số một của Unilever, công ty đã đầu
tư rất nhiều để phát triển các sản phẩm Knorr và nước mắm Knorr cũng
không phải là ngoại lệ. Kể từ năm 2002, công ty TNHH Unilever Việt Nam
đã khánh thành nhà máy sản xuất và đóng chai Quốc Dương, đặt tại thị trấn
Dương Đông, Phú Quốc có dây chuyền hiện đại, hoàn chỉnh đầu tiên tại
huyện đảo Phú Quốc. Đến thời điểm hiện nay, đây vẫn là nhà máy sản xuất
và đóng chai nước mắm có quy mô lớn. Nhà máy có quy trình sản xuất khép
kín từ khâu nguyên liệu đầu vào cho tới thành phẩm, theo tiêu chuẩn quản lý
chất lượng quốc tế, hệ thống quản lý tiên tiến và tuân thủ đúng quy trình tiệt
trùng, đảm bảo tiêu chuẩn về VSATTP. Chính vì được sản xuất và đóng chai
ngay tại nguồn nguyên liệu, nước mắm chấm Knorr Phú Quốc của Unilever
Việt Nam đã đem đến cho người tiêu dùng hương vị nước mắm Phú Quốc
65
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
chính gốc và đảm bảo chất lượng VSATTP tuyệt đối. Nước mắm Knorr là
sản phẩm nước mắm đầu tiên có các clip quảng cáo trên đài truyền hình.
Trước khi xuất hiện các clip quảng cáo của nước mắm Knorr, các sản phẩm
nước mắm trong nước được tiêu thụ rất nhiều, phải kể đến ở đây là nước
mắm Cá chim trắng, Phú Quốc… Sau khi xuất hiện trên truyền hình, Knorr đã
được người tiêu dùng đón nhận và dần sử dụng thay thế các loại nước mắm
đã sử dụng trước đó. Có thể nói, với sự tiên phong trong việc truyền thông về
nước mắm, Knorr đã gặt hái được nhiều thành công. Sau đó rất nhiều clip
quảng cáo đã được công ty tung ra nhằm giới thiệu sản phẩm của mình đến
người tiêu dùng. Tuy nhiên, thời gian gần đây, chúng ta không còn gặp các
quảng cáo của nước mắm Knorr trên truyền hình hay trên
Hiện nay ở thị trường Việt Nam, Knorr kinh doanh hai dòng sản phẩm
nước mắm chính là:
● Knorr nhãn xanh: Nước mắm chấm Knorr.
⮚ Chai nhỏ dung tích 300ml: giá bán 15.000 VNĐ
⮚ Chai to dung tích 550ml : giá bán 26.500 VNĐ
● Knorr nhãn vàng: Nước mắm chấm Knorr Phú Quốc. Chai dung tích
300ml: giá bán 17.500 VNĐ
Tuy nhiên, trong thời gian Knorr thay đổi công nghệ thì công ty Masan
Group đã giới thiệu nước mắm Chinsu tới người tiêu dùng và đến khi sản
xuất trở lại bình thường thì thị phần đã bị Chinsu và Nam Ngư chia sẻ khá
lớn. Công ty đã đưa ra nhiều nỗ lực marketing để phục hồi thị trường nhưng
không mấy thành công và không chiếm lĩnh lại được thị trường đã mất vào
tay Chinsu và Nam Ngư. Và cuối cùng công ty đã quyết định ngừng cung cấp
sản phẩm ra thị trường.
Câu hỏi
1. Phân tích đoạn thị trường mà Knorr đã lựa chọn.
2. Phân tích hình ảnh định vị của Knorr?
66
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
3. Theo Anh/Chị nguyên nhân tại sao Knorr thất bại trên thị trường?
67
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
BÀI 4: CHIẾN LƯỢC SẢN PHẨM
Mã bài: 24.4
Giới thiệu:
Sản phẩm là yếu tố đầu tiên quan trọng nhất đối với hệ thống marketing
hỗn hợp. Marketing nhấn mạnh các giá trị, lợi ích của sản phẩm đem lại cho
khách hàng. Liên quan đến chính sách sản phẩm doanh nghiệp cần phải xây
dựng hệ thống các công cụ khác nhau: công cụ về nhãn hiệu, bao gói, dịch
vụ, chủng loại, danh mục sản phẩm, phát triển sản phẩm mới, chu kỳ sống
sản phẩm. Để hình thành chiến lược sản phẩm người làm marketing phải có
đầy đủ những thông tin cần thiết liên quan đến nhu cầu, hành vi của khách
hàng, thông tin về đối thủ cạnh tranh, khả năng nguồn lực của doanh nghiệp
và các thông tin cụ thể về sản phẩm dịch vụ cung cấp ra thị trường.
Mục tiêu:
Trình bày được tầm quan trọng của sản phẩm trong kinh doanh; chiến
lược tập hợp sản phẩm; dòng sản phẩm và sản phẩm cụ thể.
Trình bày được chu kỳ sống của sản phẩm và tiến trình phát triển một
sản phẩm mới.
Quản lý được danh mục sản phẩm của doanh nghiệp.
Có ý thức đúng đắn trong việc nhìn nhận, đánh giá một kế hoạch
Marketing.
Nội dung:
1. Chiến lược sản phẩm
1.1. Sản phẩm theo quan điểm Marketing
Sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể đưa vào một thị trường để đạt được sự
chú ý, sự chấp nhận, sử dụng hoặc tiêu thụ, có khả năng thỏa mãn được một
ước muốn hay một nhu cầu.
Như vậy, sản phẩm có thể tồn tại dưới dạng vật chất hay phi vật chất,
bao gồm hàng hóa, dịch vụ, con người, nơi chốn, tổ chức, hoạt động, tư
68
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
tưởng hay sự hứa hẹn thỏa mãn một hay nhiều nhu cầu của thị trường ở một
thời điểm cụ thể.
Một sản phẩm được cấu thành bởi 3 lớp
Lõi lợi ích: là cái mà vì nó khách hàng mua sản phẩm.
Lớp vật chất: Những vật thể tạo nên lõi lợi ích, bao gồm 5 yếu tố: bao bì,
nhãn hiệu, đặc điểm, chất lượng và kiểu dáng sản phẩm.
Lớp dịch vụ (lớp tăng thêm) bao gồm những dịch vụ và lợi ích phụ thêm
để phân biệt với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, đó là các vật phẩm
trang bị thêm nơi phục vụ, dịch vụ sau bán, bảo hành, giao hàng và cho hưởng
tín dụng.
● Phân loại sản phẩm
Muốn xác định chiến lược cho một sản phẩm thì trước hết cần phải hiểu
sản phẩm đó thuộc loại gì, bởi vì mỗi loại sản phẩm khác nhau đòi hỏi có
một chiến lược khác nhau. Tùy theo tiêu thức phân loại khác nhau có các loại
sản phẩm khác nhau như sau
Theo mục đích sử dụng của người mua hàng
Hàng tiêu dùng: là những mặt hàng thỏa mãn nhu cầu cá nhân hay gia
đình, có thể bao gồm hàng mua thường ngày, hàng mua có đắn đo, hàng đặc
hiệu và hàng không thiết yếu.
Hàng tư liêu sản xuất: là những mặt hàng phục vụ cho sản xuất và chế
biến của các doanh nghiệp, bao gồm nguyên liệu và phụ liệu, các trang thiết
bị cơ bản và các vật tư cung ứng, dịch vụ bảo trì, sửa chữa, tư vấn, phục vụ
việc kinh doanh.
Theo thời gian sử dụng
Hàng bền: là những hàng hóa thường được sử dụng rất nhiều lần.
Hàng không bền: là những hàng hóa thường chỉ qua được một lần hay vài
lần sử dụng.
Theo đặc điểm cấu tạo
69
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Sản phẩm hữu hình: là sản phẩm mà người ta có thể thấy, nếm, sờ, nghe,
hoặc ngửi được trước khi mua.
Dịch vụ: là những hoạt động, ích lợi hay những cách thỏa mãn nhu cầu
khác được đưa ra chào bán. Các dịch vụ thì không cụ thể, không đồng nhất,
không tách bạch ra được giữa sản xuất và tiêu dùng và không thể dự trữ
được.
Theo tính chất phức tạp của các loại sản phẩm
Hàng đơn giản: là những hàng hóa không đa dạng như một số mặt hàng
nông sản phẩm.
Hàng phức tạp: là những hàng hóa có nhiều chủng loại, kiểu, cỡ, màu sắc
khác nhau như mặt hàng công nghệ phẩm.
Đặc tính của sản phẩm
Mỗi sản phẩm có thể được mô tả theo những đặc tính khác nhau.
Đặc tính kỹ thuật, lý, hóa: gồm công thức, thành phần, vật liệu, kiểu
dáng, màu sắc, cỡ khổ, vật liệu…
Đặc tính sử dụng: gồm thời gian sử dụng, tính đặc thù, độ bền, an toàn,
hiệu năng,…
Đặc tính tâm lý: gồm vẻ đẹp, vẻ trẻ trung, sự thoải mái, sự vững chắc.
Đặc tính kết hợp: gồm giá cả, nhãn hiệu, sự đóng gói, tên gọi, các dịch
vụ…
Marketing quan tâm nhiều nhất đến mối quan hệ giữa các đặc tính này với
nhận thức, thái độ, tập quán tiêu dùng của người tiêu thụ. Chính những đặc
tính của sản phẩm là những yếu tố quyết định nhất đến sự lựa chọn của
những người tiêu thụ so với các sản phẩm cạnh tranh khác. Do vậy, người
sản xuất thường tạo ra nhiều mẫu sản phẩm, mỗi mẫu có đặc tính riêng để
xem xét người tiêu thụ hướng mạnh nhất vào đặc trưng nào để từ đó định ra
những đặc trưng chủ chốt của sản phẩm nhằm lôi kéo khách hàng.
● Nhãn hiệu
70
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Việc lựa chọn nhãn hiệu cho sản phẩm cũng là một yếu tố chủ chốt trong
việc xác định sản phẩm. Vai trò của nhãn hiệu là ghi dấu những hàng hóa hay
dịch vụ qua hình ảnh, qua từ ngữ hay được thiết kế một cách tổng hợp cả
hình ảnh và từ ngữ.
Trong nhãn hiệu chúng ta phân biệt:
Tên hiệu ( brand name): phần đọc được của nhãn hiệu
Dấu hiệu ( brand mark): phần không đọc được của nhãn hiệu.
Nhãn hiệu thương mại hay thương hiệu ( trademark) : là toàn bộ hay một
phần của nhãn hiệu được luật pháp bảo vệ.
Nhãn hiệu có các chức năng sau:
Chức năng thực tiễn: nhãn hiệu cho phép ghi nhớ dễ dàng kết quả của
quá trình lựa chọn trước đây, nhờ đó giúp người tiêu thụ có thể tìm lại nhanh
chóng các nhãn hiệu mà họ cho là thích hợp.
Chức năng bảo đảm:: đối với người tiêu thụ, một nhãn hiệu quen thuộc là
sự đảm bảo cho một chất lượng tốt.
Chức năng cá thể hóa: khi người tiêu thụ lựa chọn một nhãn hiệu nào đó
tức là khẳng định nét độc đáo, nhân cách của họ.
Chức năng tạo sự thích thú: người tiêu thụ cảm thấy thích thú khi chọn
lựa tha hồ trong nhiều sản phẩm có nhãn hiệu đa dạng. Điều này không thể
thấy trong một cửa hàng không có nhiều nhãn hiệu.
Chức năng chuyên biệt: khi nhãn hiệu phản ánh một hình ảnh độc nhất
các đặc trưng của sản phẩm, ví dụ nhãn hiệu xe hơi thường là con thú, ngôi
sao, dòng sông, con chim để chỉ sự di chuyển nhanh.
Chức năng dễ phân biệt: khi nhãn hiệu là điểm duy nhất để người tiêu
thụ bám vào trong việc lựa chọn mua sản phẩm, nhất là đối với những sản
phẩm có màu sắc giống nhau rất khó phân biệt bằng mắt.
Chiến lược lựa chọn nhãn hiệu:
71
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Lựa chọn một nhãn hiệu duy nhất cho tất cả các sản phẩm: thực hiện
chiến lược này có tác dụng bảo đảm sự nổi tiếng nhanh chóng của sản phẩm
những lại có nguy cơ trong trường hợp thất bại, sẽ làm hại đến tất cả các
sản phẩm.
Phân biệt hóa các nhãn hiệu cho từng dòng sản phẩm: khi một công ty sản
xuất ra những dòng sản phẩm hoàn toàn khác nhau thì không nên sử dụng một
nhãn hiệu chung nhằm tạo sự lựa chọn dễ dàng cho người mua hàng.
Phân biệt hóa các nhãn hiệu cho tất cả các sản phẩm: thực hiện chiến
lược này cho phép sản phẩm thâm nhập vào những phân khúc thị trường
mạnh hơn, nhưng khi đưa sản phẩm vào thị trường cần phải tăng thêm chi
phí cho quảng cáo.
Kết hợp thương hiệu của doanh nghiệp với tên riêng của từng sản phẩm
như Nestea, Nescafe….
Yêu cầu đối với nhãn hiệu:
Phải nói lên được một điều gì đó về lợi ích sản phẩm.
Phải nói lên chất lượng của sản phẩm như tính năng, màu sắc…
Phải dễ đọc, dễ viết, dễ nhận ra, dễ nhớ, có thể sử dụng ở nước ngoài
và khi dịch ra tiếng nước ngoài không có ý nghĩa xấu.
Nhãn hiệu, thương hiệu là tài sản vô hình của doanh nghiệp vì nhờ nhãn
hiệu và thương hiệu nổi tiếng mà doanh nghiệp có thể bán được nhiều hàng
hơn, giá cả cao hơn và do đó lợi nhuận mang lại sẽ nhiều hơn.
● Bao bì, sự đóng gói
Đóng gói là việc đặt sản phẩm vào trong bao bì. Sự đóng gói và việc lựa
chọn bao bì cũng là một quyết định quan trọng của chiến lược sản phẩm. Cả
đóng gói và bao bì đều có chức năng sau:
Bảo vệ sản phẩm: chống ẩm ướt, vỡ, bể.
72
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Tạo thuận lợi cho việc chuyên chở: đảm bảo việc chất xếp, bốc dỡ
nhanh chóng, vận chuyển an toàn.
Tạo thuận lợi cho việc bán hàng: giúp cho việc bán hàng nhanh chóng,
nhất là bán hàng tự phục vụ.
Tạo sự thích ứng của sản phẩm đối với nhu cầu của người tiêu thụ:
những thông tin ghi trên bao bì, đã gợi lại những yếu tố đã trình bày trong
quảng cáo, nhận ra nhãn hiệu dễ dàng và giúp người mua chuyên chở hàng
hóa về nhà được an toàn.
Tạo thuận lợi cho việc tiêu dùng: nhờ hướng dẫn, định lượng ghi trên bao
bì, việc tiêu dùng trở nên dễ dàng.
Dễ bảo quản hàng hóa: trong quá trình dự trữ, nhờ có bao gói sản phẩm
được bảo quản tốt hơn.
Do có nhiều chức năng quan trọng như vậy nên các doanh nghiệp rất quan
tâm đến việc đổi mới bao bì, đóng gói để ngày càng phù hợp với việc kinh
doanh trên thị trường.
● Những dịch vụ gắn liền với sản phẩm
Một nguyên tắc cơ bản của Marketing là phải làm sao cho người mua hài
lòng. Có thể họ hài lòng khi được cung ứng hàng hóa dịch vụ với chất lượng
tốt, giá cả phải chăng và họ cũng có thể hài lòng do được phục vụ tốt trong
quá trình bán hàng. Trong một số trường hợp, dịch vụ khách hàng trở thành
một trong những yếu tố quyết định đến việc mua hàng của khách hàng.
Các dịch vụ gồm có:
Cho hưởng tín dụng, điều kiện giao hàng.
Bảo hành.
Sửa chữa không mất tiền.
Cho thử miễn phí.
Lắp ráp, hiệu chỉnh sản phẩm.
Hướng dẫn cách sử dụng, bảo trì sản phẩm.
73
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
1.2. Các khái niệm
Dòng sản phẩm
Dòng sản phẩm là một nhóm những sản phẩm có liên hệ mật thiết với
nhau bởi vì chúng thực hiện một chức năng tương tự, được bán cho cùng một
nhóm khách hàng qua cũng một kênh như nhau hay tạo ra một khung giá cụ
thể.
Tập hợp sản phẩm
Tập hợp sản phẩm là tổng hợp những dòng sản phẩm và món hàng mà một
người bán cụ thể đưa ra để bán cho những người mua.
Tập hợp sản phẩm của một doanh nghiệp sẽ có chiều rộng, chiều dài,
chiều sâu và tính đồng nhất trong tập hợp
Chiều rộng của tập hợp là số lượng các dòng sản phẩm.
Chiều dài của tập hợp là tổng số món hàng của doanh nghiệp.
Chiều sâu của tập hợp thể hiện số mẫu của mỗi sản phẩm trong dòng
sản phẩm. Đếm chiều sâu của tập hợp thể hiện số mẫu của mỗi sản phẩm
trong dòng sản phẩm. Đếm tất cả số mẫu khác nhau của mỗi món hàng
người ta có thể tính ra chiều sâu trung bình của tập hợp sản phẩm đó.
Tính đồng nhất của tập hợp thể hiện mức liên quan mật thiết đến mức
độ nào giữa các dòng sản phẩm về sử dụng, thiết bị sản xuất, kênh phân
phối.
Chiến lược sản phẩm
Chiến lược sản phẩm là sự cố kết gắn bó của sự lựa chọn và của những
biện pháp phải sử dụng để xác định một tập hợp sản phẩm bao gồm các
dòng sản phẩm và các món hàng sao cho phù hợp với từng thị trường và phù
hợp với từng giai đoạn khác nhau trong chu kỳ sống của sản phẩm đó.
1.3. Các chiến lược sản phẩm
74
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Các chiến lược sản phẩm bao gồm: chiến lược tập hợp sản phẩm, chiến
lược dòng sản phẩm và chiến lược cho từng sản phẩm cụ thể.
Chiến lược tập hợp sản phẩm
Bốn tham số đặc trưng cho tập hợp sản phẩm giúp doanh nghiệp xác định
chiến lược tập hợp sản phẩm như sau:
Chiến lược mở rộng tập hợp sản phẩm: chiến lược này được thực hiện
bằng cách tăng thêm các dòng sản phẩm thích hợp.
Chiến lược kéo dài dòng sản phẩm: chiến lược này được thực hiện bằng
cách tăng thêm số mặt hàng cho mỗi dòng sản phẩm tạo cho công ty có được
các dòng sản phẩm hoàn chỉnh.
Chiến lược tăng chiều sâu của tập hợp sản phẩm: chiến lược này được
thực hiện bằng cách tăng dân số mẫu biến thể của mỗi sản phẩm như thay
đổi kích cỡ, mùi vị cho mỗi sản phẩm.
Chiến lược tăng giảm tính đồng nhất của tập hợp sản phẩm: chiến lược
này được thực hiện tùy thuộc doanh nghiệp muốn có uy tín vững chắc trong
một lĩnh vực hay tham gia vào nhiều lĩnh vực khác nhau
Chiến lược dòng sản phẩm
Trong kinh doanh ít có doanh nghiệp nào chỉ có một sản phẩm duy nhất mà
thường có cả một dòng sản phẩm, nhờ đó giúp doanh nghiệp phân bổ rủi ro
tốt hơn. Vì thế doanh nghiệp cần có một chiến lược về dòng sản phẩm bao
gồm:
Chiến lược thiết lập các dòng sản phẩm: để việc kinh doanh được an
toàn, có hiệu quả cần phải thiết lập các dòng sản phẩm thích hợp và từng
bước củng cố các dòng về lượng cũng như về chất để thể lực của doanh
nghiệp ngày càng tăng.
Chiến lược phát triển dòng sản phẩm: chiến lược phát triển dòng sản
phẩm thể hiện bởi sự phát triển các món hàng trong các dòng sản phẩm đó.
75
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Việc phát triển dòng sản phẩm có thể thực hiện theo hai cách: dãn rộng và bổ
sung.
a. Chiến lược dãn rộng dòng sản phẩm
Để dãn rộng dòng sản phẩm, công ty có thể dẫn xuống, dẫn lên hoặc dãn
ra cả hai phía
Dãn xuống: Ban đầu công ty cung cấp sản phẩm để ổn định phân khúc
trên cùng của thị trường (sản phẩmcao cấp), sau đó mới kéo dài dòng sản
phẩm xuống các phân khúc phía dưới.
Dãn lên: Công ty cung cấp sản phẩm cho các phân khúc ở phía dưới của
thị trường có thể muốn xâm nhập vào các phân khúc phía trên của thị trường
để tìm kiếm một mức phát triển cao hơn.
Dãn ra cả hai phía: Công ty cung cấp sản phẩm cho những phân khúc nằm
ở phần giữa của thị trường có thể quyết định dãn mặt hàng theo cả hai
hướng. Việc dãn ra đó chắc chắn sẽ gặp phải sự phản công của cả hai đầu.
Vì vậy muốn chiến lược này thành công, doanh nghiệp phải đưa ra những sản
phẩm tốt hơn mà giá cả lại rẻ hơn so với những đối thủ cạnh tranh đó.
b. Chiến lược bổ sung dòng sản phẩm
Chiến lược hạn chế dòng sản phẩm: trong quá trình kinh doanh cạnh
tranh trên thị trường doanh nghiệp sẽ phát hiện ra những dòng sản phẩm hay
những sản phẩm không có hiệu quả nữa và phải nhanh chóng từ bỏ chúng để
dồn mọi tiềm lực phát huy những sản phẩm hiện đang còn có hiệu quả.
Chiến lược cải biến dòng sản phẩm: trong chiến lược này, các sản phẩm
hiện có trong dòng sản phẩm được sửa đổi ít nhiều như cải tiến về hình
dáng, cỡ khổ, vật liệu, màu sắc, bao bì, nhãn hiệu từ đó cũng làm cho khách
hàng tiêu dùng nhiều hơn.
Chiến lược hiện đại hóa dòng sản phẩm: mục đích của chiến lược này là
làm cho các sản phẩm sát hợp với nhu cầu ngày một nâng cao của thị trường.
Để hiện đại hóa dòng sản phẩm doanh nghiệp nên điều chỉnh từng phần vì
76
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
làm như vậy sẽ giúp tránh được khó khăn về mặt tài chính đồng thời giúp
doanh nghiệp nhận xét được phản ứng của khách hàng và các trung gian đối
với mẫu mã mới đó trước khi thay đổi các dòng sản phẩm.
Chiến lược cho từng sản phẩm cụ thể
a. Chiến lược đổi mới sản phẩm
Chiến lược này nhằm tạo ra những sản phẩm mới để bán trên thị trường
hiện có hoặc thị trường mới. Đây là chiến lược khác mạo hiểm vì mức độ
thành công của đổi mới thường không cao do đó nguy cơ rủi ro rất lớn. Theo
Choffray và Dorey có hai chiến lược đổi mới sản phẩm:
Chiến lược đổi mới phản ứng: đẩy là chiến lược được thực hiện khi có
sự thay đổi của thị trường. Thực chất đây là chiến lược bắt chước nhanh của
người thứ hai. Muốn thực hiện được chiến lược này cần phải có hai điều
kiện: thứ nhất, doanh nghiệp phải có khả năng lớn về Marketing; thứ hai,
doanh nghiệp phải có sự mềm dẻo cao trong cơ cấu tổ chức và sản xuất.
Chiến lược đổi mới chủ động: đây là chiến lược được thực hiện khi chưa
có sự thay đổi của thị trường nhưng doanh nghiệp vì muốn tìm kiếm mức
phát triển cao hơn, bảo đảm sự thành công do nắm trong tay một bằng phát
minh và sẵn sàng có nguồn vốn lớn nên họ đã mạnh dạn mạo hiểm đổi mới
sản phẩm. Chiến lược đổi mới này khi được thực hiện phải trải qua 5 giai
đoạn của việc triển khai một sản phẩm mới.
b. Chiến lược bắt chước sản phẩm
Chiến lược này được thực hiện khi doanh nghiệp không dám đổi mới vì sợ
rủi ro nhưng lại không muốn để sản phẩm của mình bị già cỗi đi. Vì vậy
nhiều doanh nghiệp tìm cách thay đổi sản phẩm của mình bằng cách bắt
chước các sản phẩm mới mà các hãng khác phát hành có hiệu quả.
Sự bắt chước có thể mang tính chất đổi mới, bởi vì đây không phải là sự
sao chép nguyên xi các sản phẩm khác mà là tập hợp hầu hết các ưu điểm
77
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
sẵn có trong mỗi sản phẩm cạnh tranh. Do đó sản phẩm bắt chước sẽ hội tụ
tất cả ưu điểm của các sản phẩm cạnh tranh đó.
Tuy nhiên chiến lược này cần được thực hiện tương đối nhanh chóng bởi
lẽ nếu bắt chước chậm quá sẽ làm tăng thêm sự ứ đọng hàng hóa mà thôi.
c. Chiến lược thích ứng sản phẩm
Trong quá trình tồn tại sản phẩm trên thị trường, doanh nghiệp cần quan
tâm đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá bán đáp ứng sự chờ
đợi của khách hàng. Để nâng cao chất lượng sản phẩm cần quan tâm đến
việc cải tiến công nghệ, tay nghề, nguyên vật liệu, kiểm tra chặt chẽ chất
lượng sản phẩm.
Để hạ giá bán, doanh nghiệp cần tiến hành phương pháp phân tích giá trị
để loại bỏ các chi phí vô ích.
d. Chiến lược tái định vị sản phẩm.
Mục đích của chiến lược này là nhằm tạo một vị trí mới cho một sản
phẩm hay cho một nhãn hiệu trên thị trường hiện có vào tâm trí người tiêu
dùng. Để thực hiện chiến lược này, doanh nghiệp cần:
Tạo cho sản phẩm có một vị trí đặc biệt trong trí nhớ người mua và khách
hàng tương lai.
Tạo sự khác biệt với các sản phẩm cạnh tranh.
2. Nghiên cứu chu kỳ sống sản phẩm
2.1. Khái niệm chu kỳ sống sản phẩm
Chu kỳ sống sản phẩm là khoảng thời gian sản phẩm tồn tại trên thị
trường trong đó có các giai đoạn trong lịch sử thương mại của một sản phẩm
được mô tả khác nhau, nhờ đó các công ty có thể hoạch định được tốt hơn các
kế hoạch Marketing. Một chu kỳ sống điển hình của một sản phẩm được
biểu thị bằng một đường biểu diễn có dạng hình chữ S và gồm có 4 giai đoạn
78
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
: mở đầu, tăng trưởng, thưởng thành và suy thoái.
2.2. Đặc điểm các giai đoạn chu kỳ sống sản phẩm
Trong mỗi chu kỳ sống sản phẩm mỗi giai đoạn đều có đặc điểm riêng, cụ
thể:
● Đối với giai đoạn mở đầu ( giai đoạn tung sản phẩm vào thị trường)
Đây là giai đoạn mở đầu của việc đưa hàng hóa ra bán chính thức trên thị
trường. Bởi vậy, nó đòi hỏi phải có thời gian và sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi
mặt.
Đặc trưng
Giai đoạn này có những đặc trưng như sau:
* Mức tiêu thụ thường tăng chậm: do các nguyên nhân sau:
Công ty chậm mở rộng năng lực sản xuất
Công ty còn gặp phải những vướng mắc về kỹ thuật
Chậm triển khai một kênh phân phối hiệu quả
Khách hàng chưa từ bỏ thói quen tiêu dùng trước đây
Khả năng mua sắm còn hạn chế
* Lợi nhuận còn rất ít hoặc chịu lỗ
Chiến lược Marketing mix:
Chiến lược của hoạt động marketing trong giai đoạn này là:
* Sản phẩm
Phải quan tâm đến việc hiệu chỉnh kỹ thuật và thương mại sản phẩm.
Tăng cường kiểm tra chất lượng sản phẩm.
* Giá cả:
Giá hớt váng thị trường đối với sản phẩm độc đáo, chưa từng có trên thị
trường.
Giá bán thâm nhập thị trường đối với sản phẩm phổ biến
Giá khu vực: mỗi nơi có giá khác nhau.
79
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Giá hạ thấp nhất thời.
* Phân phối: Phân phối có giới hạn: độc quyền hay chọn lọc, phụ phí cao.
* Xúc tiến: Xúc tiến để tạo sự hiểu biết về sản phẩm và những lợi ích của
nó. Ưu tiên nhắm tới người tiên phong vfa người khuyến khích tiêu dùng.
Phương tiện của xúc tiến là bán hàng cá nhân hay tập mẫu catalog
● Đối với giai đoạn tăng trưởng
Mức tiêu thụ bắt đầu tăng mạnh, trên thị trường xuất hiện nhiều đối thủ
cạnh tranh mới, lợi nhuận trong giai đoạn này tăng. Để khai thác và kéo dài cơ
hội này, chiến lược của hoạt động marketing có thể triển khai theo hướng:
* Sản phẩm : Nâng cao chất lượng hàng hóa, tạo cho nó tính chất mới, sản
xuất những mẫu mã mới.
* Giá cả:
Giữ nguyên mức giá hoặc giảm chút ít để thu hút khách hàng.
Giữ nguyên hoặc tăng chi phí kích thích tiêu thụ
* Phân phối
Xâm nhập vào những phần thị trường mới.
Sử dụng kênh phân phối mới.
Tồn kho dự trữ lớn và nguồn tiếp tế nhanh chóng.
* Xúc tiến
Tiếp tục thông tin mạnh mẽ về hàng hóa cho công chúng
Thay đổi đôi chút về thông điệp quảng cáo để kích thích khách hàng
● Đối với giai đoạn trưởng thành ( giai đoạn chín muồi)
Nhịp độ tăng mức tiêu thụ bắt đầu chững lại, hàng hóa tràn đầy trên các
kênh lưu thông, cạnh tranh trên thị trường diễn ra gay gắt, lợi nhuận giảm sút.
Về thời gian giai đoạn này thường dài hơn các giai đoạn trước và đặt ra
những nhiệm vụ phức tạp trong lĩnh vực quản trị marketing. Để tiếp tục tồn
tại trên thị trường các nhà quản trị marketing có thể có các phương án lựa
chọn như sau:
80
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Tìm thị trường mới cho hàng hóa.
Cải biến hàng hóa, thay đổi một số yếu tố, đặc tính của hàng hóa.
Cải biến các công cụ marketing – mix.
● Đối với giai đoạn suy thoái
Mức tiêu thụ các loại hàng hóa giảm sút. Việc giảm sút có thể diễn ra
nhanh chóng, chậm chạp, thậm chí đến số không. Cũng có hàng hóa mức tiêu
thụ chúng giảm xuống thấp rồi dừng lại ở đó trong nhiều năm.
Mức tiêu thụ giảm do các nguyên nhân:
Thành tựu về công nghệ làm xuất hiện hàng hóa mới thay thế.
Thị trường của người tiêu dùng thay đổi.
Cạnh tranh gay gắt.
Trong giai đoạn này lợi nhuận giảm mạnh, một số công ty rút khỏi thị
trường, số còn lại có thể thu hẹp chủng loại hàng hóa chào bán, từ bỏ phần
thị trường nhỏ, những kênh thương mại ít hiệu quả nhất, cắt giảm chi phí
khuyến khích, hạ giá bán nhiều hơn Việc giữ lại hàng hóa đã suy thoái có thể
làm giảm uy tín của công ty, vì vậy để hạn chế ảnh hưởng xấu của hiện
tượng này, công ty cần quan tâm các khía cạnh sau:
Phải luôn theo dõi để phát hiện những hàng hóa bước vào giai đoạn suy
thoái.
Đối với từng mặt hàng phải quyết định nhanh chóng nên tiếp tục lưu giữ
hay thải loại chúng ra khỏi danh mục hàng hóa của công ty.
3. Chiến lược phát triển sản phẩm mới
3.1. Khái niệm sản phẩm mới
Sản phẩm mới là sản phẩm được số khách hàng tiềm năng cảm nhận như
mới, bao gồm sản phẩm mới hoàn toàn, sản phẩm cải tiến, sản phẩm hoàn
chỉnh và sản phẩm có nhãn hiệu mới mà doanh nghiệp phát triển.
81
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
3.2. Các giai đoạn phát triển sản phẩm mới
Mỗi quy trình triển khai sản phẩm mới gồm có 8 giai đoạn chính sau:
Tìm ra những ý tưởng mới
Mục đích của giai đoạn này là tìm ra những ý tưởng về sản phẩm mới càng
nhiều càng tốt. Những ý tưởng đó có thể xuất phát từ khách hàng, từ những
chuyến tham quan đây đó, từ quan sát cạnh tranh hay từ việc xem triển lãm
trưng bày, từ những ý kiến của nhân viên trong doanh nghiệp hay có thể từ
việc áp dụng phương pháp của năng lực tư duy sáng tạo .
Chọn lọc và đánh giá ý tưởng mới
Thông thường doanh nghiệp rất đắn đo giữa nhiều ý tưởng mới. Chọn ý
tưởng nào? và ý tưởng nào sẽ phù hợp nhất với mục tiêu, chiến lược và tiềm
lực của doanh nghiệp? Nếu không loại được ý tưởng kém cỏi thì sẽ tốn kém
rất nhiều chi phí trong những giai đoạn tiếp theo và đồng thời không mang lại
hiệu quả kinh tế cao. Cho nên trong quá trình chọn lọc và đánh giá những ý
tưởng mới cần phải mô tả sản phẩm mới, thị trường mục tiêu và mức cạnh
tranh đồng thời phải đưa ra một số ước lượng chặt chẽ về quy mô thị
trường, giá cả sản phẩm, thời gian và chi phí dành cho việc triển khai, chi phí
sản xuất và tốc độ thu hồi vốn.
Phát triển và thử nghiệm khái niệm
Khái niệm sản phẩm đó là sự chuyển đạt một ý tưởng thành những ngôn
từ cho khách hàng hiểu được. Nhiệm vụ của người làm Marketing là phát
triển ý tưởng thành những khái niệm và đánh giá mức hấp dẫn đối với khách
hàng của từng khái niệm ấy để có thể chọn ra sản phẩm đáp ứng tốt nhất
nhu cầu của người tiêu dùng. Khái niệm sản phẩm mô tả kiểu dáng, màu sắc,
cỡ khổ, mùi vị, tính năng sử dụng và giá của sản phẩm. Sau đó đưa những
khái niệm ấy ra thử nghiệm ở nhóm khách hàng thích hợp mà công ty đang
muốn hướng đến bằng các câu hỏi như khái niệm sản phẩm đó đã rõ chưa,
82
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
sản phẩm có đáp ứng nhu cầu hay không hay theo bạn nên cải tiến đặc điểm
gì…
Hoạch định chiến lược Marketing
Đến đây doanh nghiệp phải triển khai sơ bộ một chiến lược Marketing để
tung sản phẩm ra thị trường. Bản chiến lược Marketing gồm ba phần:
Phần thứ nhất mô tả quy mô, cơ cấu, hành vi của thị trường mục tiêu, dự
kiến định vị và bán sản phẩm, thị phần và mức lợi nhuận mong đợi trong vài
năm đầu.
Phần thứ hai dự kiến giá sản phẩm, chiến lược phân phối và kinh phí
Marketing cho năm đầu tiên.
Phần thứ ba trình bày chỉ tiêu mức tiêu thụ, lợi nhuận lâu dài và chiến
lược Marketing mix theo thời gian.
Phân tích về mặt kinh doanh
Sau khi quyết định xong về khái niệm sản phẩm và chiến lược Marketing,
công ty có thể đánh giá mức hấp dẫn về mặt kinh doanh của sản phẩm mới
này bao gồm việc xem xét các dự đoán về doanh số, chi phí, tiền lãi để xác
định có thỏa mãn các mục tiêu của doanh nghiệp hay không.
Phát triển sản phẩm
Nếu khái niệm sản phẩm qua phân tích về mặt kinh doanh thỏa mãn được
các mục tiêu của doanh nghiệp thì sẽ được chuyển đến bộ phận nghiên cứu
và phát triển để phát triển thành sản phẩm vật chất. ở đây, bộ phận R&D sẽ
phát triển thành một hay nhiều dạng mẫu vật chất của khái niệm sản phẩm,
sau đó mang các mẫu này đi thử nghiệm ở khách hàng để xem xét mức độ đạt
yêu cầu về mặt kỹ thuật của sản phẩm.
Thử nghiệm trên thị trường
Nếu sản phẩm vượt qua được những thử nghiệm về tính năng và khách
hàng thì được tiếp tục thử nghiệm trên thị trường. Thử nghiệm trên thị
trường cho phép thu được những thông tin có giá trị về người mua, các đại lý,
83
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
hiệu quả của chương trình Marketing, tiềm năng của thị trường để doanh
nghiệp chuẩn bị tung sản phẩm.
Thương mại hóa sản phẩm
Sau khi thử nghiệm trên thị trường, với nhiều thông tin được thu thập, ban
lãnh đạo doanh nghiệp sẽ quyết định tung sản phẩm ra thị trường hay không.
Nếu doanh nghiệp tiếp tục thương mại hóa sản phẩm thì phải cân nhắc đến
bốn quyết định quan trọng đó là:
Chọn thời điểm để tung sản phẩm ra thị trường sao cho có lợi.
Chọn khu vực để tung sản phẩm ra thị trường.
Xác định khách hàng triển vọng của thị trường mục tiêu.
Cách thức giới thiệu sản phẩm có hiệu quả khi tung chúng ra thị trường.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Câu 4.1: So sánh quan điểm marketing về sản phẩm hàng hóa với quan điểm
của kinh tế học, ý nghĩa của nó đối với người làm marketing?
Câu 4.2: Qua một ví dụ thực tế phân tích chiến lược nhãn hiệu, bao gói, dịch
vụ, chủng loại, danh mục sản phẩm của doanh nghiệp?
Câu 4.3: Một người khởi sự doanh nghiệp phát triển một loại máy bán nước
soda đóng chai tự phục vụ. khách hàng có thể tự pha chế loại soda đóng trong
chai nhựa với 18 hương vị thông thường và loại cho người ăn kiêng bằng việc
đưa một chai rỗng vào vòi, thả tiền xu vào máy và bấm một số nút trong
chuỗi nút bấm. Máy sẽ rót loại soda yêu cầu và in ra nhãn chai với các thông
tin về loại soda chứa trong chai để khách hàng dán vào chai. Người khởi
xướng phải xác định nơi đặt loại máy này bằng việc nghiên cứu thị trường và
tập hợp các điểm bán lẻ dựa trên các phát hiện của anh ta qua cuộc điều tra.
Ý tưởng về sản phẩm mới này có đặc điểm nổi trội gì so với các sản
phẩm thông thường hiện có trên thị trường? Việc phân phối tự động như vậy
có gì khác biệt so với phân phối truyền thống?
84
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
85
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
BÀI 5: CHIẾN LƯỢC GIÁ
Mã bài: 24.5
Giới thiệu:
Việc xác định giá vừa mang yếu tố khoa học vừa mang yếu tố nghệ thuật
vì giá là yếu tố rất nhạy cảm với chất lượng sản phẩm. Trong các chiến lược
marketing hỗn hợp, chiến lược giá trực tiếp đem lại doanh thu và lợi nhuận
cho doanh nghiệp, các chiến lược khác mang bản chất chi phí. Việc xác định
giá của doanh nghiệp và phản ứng của đối thủ cạnh tranh thường diễn ra rất
nhanh. Sự hình thành và vận động của giá chịu sự tác động của cả các yếu tố
bên trong và bên ngoài doanh nghiệp. Vì vậy, khi đưa ra các quyết định về giá
đòi hỏi phải tính toán đến nhiều khía cạnh khác nhau. Có nhiều phương pháp
xác định giá khác nhau, doanh nghiệp có thể áp dụng một hoặc kết hợp nhiều
phương pháp trong định giá để xây dựng một miền giá có thể. Từ đó, xác định
mức giá bán cụ thể nằm trong miền giá đó. Chính sách giá cần được điều
chỉnh linh hoạt theo các tình huống của thị trường, cạnh tranh theo danh mục,
chủng loại, đặc điểm sản phẩm kèm theo, theo địa lý, khuyến mại,...
Mục tiêu:
Trình bày được khái niệm và tầm quan trọng của giá trong Marketing
Trình bày được một số chiến lược định giá điển hình, quy trình định giá
cho một sản phẩm mới.
Xây dựng được chiến lược định giá.
Phân tích được các yếu tố ảnh hưởng đến việc định giá.
Có ý thức đúng đắn trong việc nhìn nhận, đánh giá một kế hoạch
Marketing.
Nội dung:
1. Khái niệm và tầm quan trọng của giá trong Marketing
1.1. Khái niệm về giá
86
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Giá là số lượng đơn vị tiền tệ cần thiết mà khách hàng phải bỏ ra để có
được một sản phẩm với một chất lượng nhất định, vào một thời điểm nhất
định, ở một nơi nhất định.
1.2. Tầm quan trọng của giá
Giá là một yếu tố cơ bản, là một trong bốn biến số quan trọng của
Marketing mix mang lại thu nhập trong khi tất cả những biến số khác chỉ sinh
ra đầu tư và chi phí. Biến số giá cũng gây ra những phản ứng tức thì hơn
những biến số khác của Marketing mix đối với người tiêu dùng cũng như đối
với người cạnh tranh. Giá có ảnh hưởng lớn đến doanh số và do đó ảnh
hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Đối với người tiêu dùng, giá có tác động mạnh mẽ đến chi tiêu, do đó, giá
thường là tiêu chuẩn quan trọng của việc mua và lựa chọn của họ. Mặc dù,
trên thị trường hiện nay cạnh tranh về giá đã nhường vị trí hàng đầu cho cạnh
tranh về chất lượng và dịch vụ hậu mãi, nhưng giá vẫn có một vai trò quan
trọng đối với công việc kinh doanh .
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc định giá
a. Những yếu tố bên trong
Mục tiêu Marketing của doanh nghiệp
“Tồn tại”: Tồn tại sẽ trở thành mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp trong
những trường hợp trên thị trường có quá nhiều người sản xuất hay cung cấp
dịch vụ cùng loại. Với sự cạnh tranh gay gắt, để đảm bảo việc làm cho các
doanh nghiệp, buộc họ phải định một mức giá thấp với hy vọng sẽ có những
phản ứng đáp lại một cách thuận lợi từ phía người tiêu dùng. Trong trường
hợp này, sự tồn tại của doanh nghiệp quan trọng hơn lợi nhuận.
“Tối đa hóa lợi nhuận trước mắt”: Nhiều doanh nghiệp đôi khi ra sức tăng
tối đa lợi nhuận trước mắt. Họ tiến hành ước lượng số cầu sản phẩm trên thị
trường và các chi phí ứng với các mức giá khác nhau. Sau đó, họ lựa chọn
mức giá đảm bảo thu được lợi nhuận trước mắt cao nhất để đủ bù đắp các
87
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
loại chi phí. Trong tất cả mọi trường hợp như vậy, đối với công ty, sự thành
công về tài chính trước mắt quan trọng hơn sự thành công lâu dài.
“Tối đa hóa khối lượng bán ra”: Khối lượng bán ra là một đại lượng
nghịch biến với giá đề ra. Mục tiêu này có thể được áp dụng trong trường
hợp như cần tận dụng một cách tối đa công suất thiết bị, cần đảm bảo việc
làm cho đầy đủ người lao động hay khi công ty bán ra khối lượng lớn thì khả
năng giảm chi phí sẽ cao và lợi nhuận lâu dài sẽ tăng và cuối cùng sẽ giành
được vị trí dẫn đầu về thị phần để có lợi thế cạnh tranh so với đối thủ.
Muốn đạt mục tiêu này, họ bắt buộc phải chấp nhận một mức giá tương đối
thấp.
“Dẫn đầu về chất lượng sản phẩm”: Doanh nghiệp có thể đặt ra cho
mình một mục tiêu phấn đấu để sản phẩm sản xuất ra có các chỉ tiêu về chất
lượng tốt nhất. Thông thường điều đó đòi hỏi phải định giá cao cho sản phẩm
để đủ bù đắp các chi phí và tiến hành các công tác nghiên cứu, thiết kế, thử
nghiệm đắt tiền.
“Giữ thế ổn định, tránh những phản ứng bất lợi từ đối thủ cạnh tranh ”:
Trong trường hợp này, các doanh nghiệp thường né tránh cạnh tranh về giá,
chấp nhận giá hiện có trên thị trường. Họ chú ý nhiều đến các chỉ tiêu về
chất lượng và những dịch vụ sau khi bán
Chiến lược Marketing mix
Các quyết định về giá phải liên kết chặt chẽ với việc thiết kế sản phẩm,
vấn đề phân phối và với các quyết định xúc tiến bán hàng nhằm mục đích
hình thành nên một chương trình Marketing nhất bộ, có hiệu quả. Đồng thời
mọi quyết định có liên quan đến Marketing mix đều ảnh hưởng đến các quyết
định về giá
Ví dụ: Một nhà sản xuất đang sử dụng nhiều nhà bán lẻ và mong muốn
rằng những người này sẽ ủng hộ và cổ động cho các sản phẩm của họ, khi
đó họ có thể đưa vào giá phần lãi lớn cho nhà buôn. Các công ty thường quyết
định giá sản phẩm trước, từ đó mới đưa ra những quyết định Marketing khác
88
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
cho sản phẩm. Chẳng hạn, thông qua cuộc nghiên cứu, hãng xe hơi Ford thấy
rằng hiện nay có một khúc thị trường chuộng xe thể thao. Họ quyết định thiết
kế Mustang để bán với mức giá mà khúc thị trường này sẵn sàng mua. Tương
tự như vậy, hãng xe Honda đã thiết kế xe gắn máy Wave Alpha để bán với
mức giá cạnh tranh với các loại xe máy khác có giá trung bình tại thị trường
Việt Nam. Trong cả hai trường hợp, giá cả là yếu tố định vị cho chính sản
phẩm, xác định thị trường của sản phẩm và quyết định
đặc điểm và phí tổn của sản phẩm. Như thế, các doanh nghiệp phải xem
xét tổng thể các chương trình Marketing khi định giá. Nếu sản phẩm được
định vị dựa trên những yếu tố phi giá, thì các quyết định về
chất lượng, quảng cáo và phân phối sẽ ảnh hưởng mạnh lên giá cả. Nếu
giá cả là một yếu tố định vị chính yếu, thì giá cả sẽ ảnh hưởng mạnh lên
những quyết định của các khâu khác.
Vị trí trên đường biểu diễn của chu kỳ sống sản phẩm
Mỗi sản phẩm có chu kỳ sống khác nhau tùy vào đặc tính của nó. Vị trí trên
đường biểu diễn chu kỳ sống một sản phẩm là cơ sở quan trọng đối với việc
định giá. Mỗi giai đoạn khác nhau của đường biểu diễn này sẽ kèm theo sự
thay đổi của lượng cầu gây ra những hậu quả trong chính sách về giá.
Ví dụ: Ở giai đoạn mở đầu, xác định giá cả để tung ra thị trường là rất
quan trọng, quyết định sự thắng lợi về buôn bán và tài chính đối với sản
phẩm mới.
Chi phí
Chi phí tạo nền cho việc định giá một sản phẩm. Doanh nghiệp dựa vào đó
để đề ra một mức giá có thể trang trải cho mọi chi phí về sản xuất, phân
phối, bán sản phẩm và bao gồm cả một khoảng lời hợp lý cho những nỗ lực
và rủi ro của mình. Nếu chi phí của doanh nghiệp cao hơn chi phí của những
đối thủ cạnh tranh khi sản xuất và bán một sản phẩm tương đương thì doanh
nghiệp sẽ phải đề ra một mức giá cao hơn và khi đó sẽ ở vào thế bất lợi
trong cạnh tranh.
89
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Trong cơ cấu giá bán có hai bộ phận chi phí
Chi phí cố định: là những chi phí không thay đổi theo mức độ sản xuất.
Ví dụ: tiền mặt bằng, khấu hao tài sản cố định...
Chi phí biến đổi: là những chi phí thay đổi trực tiếp theo mức độ sản
xuất.
Ví dụ: nguyên vật liệu, bao bì.....
Tổng chi phí: là tổng số của định phí và biến phí cho bất kỳ mức độ sản
xuất nhất định nào đó. Khi nghiên cứu định phí và biến phí người ta đi đến
việc xác định điểm hòa vốn.
Điểm hòa vốn ( giao điểm giữa đường tổng doanh thu và tổng chi phí) là
điểm tại đó tiền bán hàng chỉ đủ bù đắp các chi phí, lãi bằng không.
b. Những yếu tố bên ngoài
Tính chất cạnh tranh của thị trường
Chính sách giá của doanh nghiệp sẽ bị phụ thuộc vào các kiểu thị trường
khác nhau.
Thị trường cạnh tranh hoàn hảo: Thị trường bao gồm nhiều người mua và
nhiều người bán trao đổi với nhau một thứ hàng hóa đồng nhất như gạo, bánh
mì... Trên thị trường này, người bán và người mua phải chấp nhận giá chứ
không phải là người ấn định giá. Người bán không thể bán giá cao hơn hoặc
không cần bán thấp hơn giá hiện hành. Ở những thị trường như vậy, người
bán không mất nhiều thì giờ vào việc
hoạch định những chiến lược Marketing.
Thị trường cạnh tranh độc quyền: Thị trường bao gồm nhiều người mua
và người bán giao dịch với nhau trong một khoảng giá rộng chứ không phải là
một giá thị trường thống nhất. Lý do khiến có một khoảng giá rộng như vậy
là vì người bán có thể đa dạng hóa những cống hiến của họ đối với sản
phẩm như sự khác nhau về chất lượng, mẫu mã hay hay các dịch vụ đi kèm.
Do có nhiều đối thủ cạnh tranh nên
90
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
chiến lược Marketing của họ ít ảnh hưởng đến từng công ty hơn là với thị
trường độc quyền cạnh tranh (độc quyền của nhóm người bán)
Thị trường độc quyền cạnh tranh: Thị trường bao gồm một số ít người
bán, rất nhạy cảm với những chiến lược Marketing của nhau. Mỗi người bán
đều cảnh giác trước những chiến lược và thay đổi của đối thủ cạnh tranh.
Họ hết sức chú ý đến phản ứng của đối thủ cạnh tranh cũng như thái độ của
khách hàng.
Thị trường độc quyền hoàn toàn: Thị trường chỉ có một người bán, người
bán đó có thể là một doanh nghiệp độc quyền nhà nước, một doanh nghiệp
độc quyền tư nhân có điều tiết hay tổ chức độc quyền tư nhân không có điều
tiết của nhà nước.
Số cầu
Mỗi mức giá mà doanh nghiệp đưa ra đều sẽ dẫn đến một mức cầu khác
nhau. Điều này thể hiện sự nhạy cảm của người mua trước giá. Do đó để
định giá sản phẩm các doanh nghiệp phải tính đến sự nhạy cảm của thị
trường đối với giá có nghĩa là doanh nghiệp cần xác định hệ số co giãn của
cầu với giá khi định giá. Ví dụ muốn khuyến khích mua hàng nhất là đối với
những sản phẩm có độ co giãn của cầu rất cao thì phải xác định một giá
tương đối thấp hoặc không cao lắm. Hoặc đối với những sản phẩm có độ co
giãn cầu kém thì có thể định giá sản phẩm cao nhất có thể để tăng lợi nhuận.
Như vậy số cầu của khách hàng như là một cái phanh hãm việc tăng hay
giảm giá.
Giá và hàng hóa của đối thủ cạnh tranh
Số cầu quyết định độ cao của giá (giá trần), chi phí làm nền cho việc định
giá (giá sàn), riêng giá của đối thủ và phản ứng của họ giúp doanh nghiệp xác
định xem giá của mình có thể quy định ở mức nào. Người tiêu dùng đánh giá
về giá cả và giá trị của một sản phẩm thường dựa trên giá cả và giá trị của
những sản phẩm tương đương. Do đó doanh nghiệp cần phải biết giá cả và
91
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
giá trị của mỗi sản phẩm đưa ra của các đối thủ cạnh tranh để định ra một
mức giá cho mình. Như vậy, khi định giá bán sản phẩm, doanh nghiệp luôn
đặt mình trong mối tương quan với các đối thủ cạnh tranh để điều chỉnh cho
phù hợp.
Các chế độ chính sách quản lý của nhà nước
Đây là những bắt buộc của luật pháp mà doanh nghiệp cần phải chấp hành
khi định giá cho sản phẩm. Một doanh nghiệp không phải lúc nào cũng được
tự do trong việc định giá. Nhà nước bằng nhiều cách khác nhau can thiệp vào
cơ chế giá của doanh nghiệp. Có hai lý do chính:
Một: Nhà nước muốn kiểm soát sự tiến triển của giá cả (kiềm chế chỉ số
giá, hạn chế lạm phát). Một nền kinh tế có phát triển hay không một phần
phụ thuộc và việc nhà nước có chi phối được giá cả hay không. Do đó với
một số mặt hàng thiết yếu nhà nước sẽ quy định giá. Đối với một số mặt
hàng khác nhà nước sẽ đưa ra khung giá để có cơ sở vận dụng. Còn đối với
những mặt hàng nhà nước không quy định giá và không đưa ra khung giá
chuẩn thì doanh nghiệp được toàn quyền quyết định giá
Hai: Để khuyến khích tự do cạnh tranh.
2. Các phương pháp định giá
2.1. Định giá dựa vào chi phí
Đây là phương pháp đơn giản nhất. Phương pháp định giá này hướng vào
mục tiêu chi phí và lợi nhuận của doanh nghiệp. Theo đó, người ta sẽ cộng
thêm một mức lời dự kiến vào chi phí của một sản phẩm. công thức cụ thể
như sau:
Trong đó: G: giá
Z: chi phí một đơn vị sản phẩm.
m: mức lời dự kiến
92
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Phương pháp này tuy đơn giản nhất so với các phương pháp khác nhưng
nhìn chung chưa hợp lý vì bỏ qua yếu tố cầu và cạnh tranh trên thị trường. Vì
vậy, phương pháp này mang tính chủ quan nhiều hơn.
2.2. Định giá dựa vào người mua
Ngày càng có nhiều doanh nghiệp định giá dựa trên giá trị được cảm nhận
của sản phẩm. Họ xem sự cảm nhận về giá trị của người mua, chứ không
phải chi phí của người bán, là chìa khóa để định giá. Họ sử dụng yếu tố phi
giá trong chương trình Marketing để xây dựng giá trị được cảm nhận trong
tâm trí người mua. Doanh nghiệp sử dụng lối định giá này phải thiết lập được
giá trị nơi ý nghĩ của người mua trong sự tương quan với những cống hiến
cạnh tranh khác
2.3. Định giá dựa vào cạnh tranh
Định giá theo thời giá
Theo phương pháp này, khi định giá, doanh nghiệp chủ yếu dựa vào giá cả
của các đối thủ cạnh tranh mà ít chú ý vào chi phí và số cầu của riêng mình.
Doanh nghiệp có thể định giá bằng, thấp hơn, hoặc cao hơn đối thủ cạnh
tranh chính. Phương pháp này được áp dụng khá phổ biến trong những trường
hợp độ co giãn của cầu khó đo lường được.
Định giá đấu thầu kín
Định giá dựa vào cạnh tranh cũng được sử dụng trong đấu thầu kín.
Trường hợp này, công ty sẽ định giá dựa vào giá của đối thủ cạnh tranh hơn
là chi phí và cầu của mình. Muốn giành được hợp đồng công ty phải định giá
thấp hơn.
3. Mục tiêu chiến lược định giá và các chiến lược định giá điển hình
3.1. Mục tiêu chiến lược định giá
Tối đa hóa doanh số: Gia tăng doanh số, gia tăng thị phần
93
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Tối đa hóa lợi nhuận: Nâng cao hệ số hiệu quả trên vốn đầu tư.
Giữ ổn định thị trường: Chấp nhận giá cạnh tranh, thực hiện cạnh tranh
không dựa trên giá cả.
Mục tiêu khác: Dẫn đầu về chất lượng sản phẩm, ngăn ngừa đối thủ
tham gia vào thị trường.
3.2. Các chiến lược định giá điển hình
Chiến lược định giá cho tập hợp sản phẩm
Định giá dòng sản phẩm: Các doanh nghiệp thường triển khai nhiều sản
phẩm đa dạng hơn là những sản phẩm đơn lẻ. Sau đó họ quyết định các bậc
giá cho những sản phẩm khác nhau trong cùng một dòng ấy. Các bậc giá đó
cần tính đến những khác biệt về chi phí, những đánh giá của khách hàng về
các đặc điểm khác nhau và giá cả của đối thủ cạnh tranh.
Định giá sản phẩm tùy chọn: Nhiều doanh nghiệp cung cấp những sản
phẩm với những đặc tính tự chọn. Công ty phải xác định bộ phận nào là phần
tự chọn và quyết định giá cho phần đó.
Định giá sản phẩm bổ sung: Các doanh nghiệp trong những ngành nào đó
sản xuất các sản phẩm phải được dùng với sản phẩm chính yếu khác. Các
nhà sản xuất thường định giá chúng thấp và dồn mức lời cao cho những sản
phẩm bổ sung.
Chiến lược điều chỉnh giá
Định giá chiết khấu và các khoản giảm giá: Phần lớn các doanh nghiệp
sẽ điều chỉnh giá căn bản của họ để thưởng cho một số việc làm của khách
hàng. Những điều chỉnh giá cả này được gọi là các khoản chiết khấu hay
giảm giá
+ Chiết khấu tiền mặt: là giảm giá cho những khách hàng mua thanh toán
ngay tức thì. Việc chiết khấu phải được đảm bảo cho tất cả mọi khách hàng
đáp ứng được điều kiện này. Đây là việc làm đang được áp dụng rộng rãi
94
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
trong nhiều ngành nhằm mục đích cải thiện tài chính cho người bán và làm
bớt chi phí thu nợ cũng như nợ khó đòi.
+ Chiết khấu số lượng: là giảm giá cho những người mua với khối lượng
lớn.
Ví dụ: giá mua 10 sản phẩm khách giá mua 100 sản phẩm.
+ Chiết khấu theo mùa: là giảm giá cho khách hàng mua hàng hóa hay dịch
vụ vào mùa ế ẩm. Chiết khấu theo mùa cho phép người bán duy trì sản xuất
đều đặn suốt cả năm.
Ví dụ: Các khách sạn sẽ thực hiện chiết khấu giảm giá vào mùa vắng
khách.
+ Khoản giảm giá thêm: là dạng khác của việc giảm giá từ giá bán lẻ.
Chẳng hạn giảm giá đổi hàng là việc giảm giá dành cho chuyện trả lại món
hàng cũ khi mua món hàng mới. Loại này rất phổ biến trong ngành xe hơi,
cũng như một số loại hàng bền khác như tivi, tủ lạnh, máy giặt. Giảm giá xúc
tiến là những khoản bớt giá để thưởng cho những nhà buôn tham gia vào
chương trình xúc tiến.
Định giá phân biệt: Nhiều doanh nghiệp thường hay thay đổi giá căn bản
cho phù hợp với từng đối tượng khách hàng, phù hợp với từng sản phẩm, khu
vực tiêu thụ... Đây là trường hợp doanh nghiệp bán một sản phẩm với nhiều
mức giá khác nhau không dựa trên cơ sở là chi phí khác nhau. Có nhiều dạng
giá phân biệt:
+ Định giá theo đối tượng khách hàng: vé xem phim dành cho sinh viên.
+ Định giá theo hình thức sản phẩm: bột giặt trong bao giá khác trong hộp
+ Định giá theo khu vực: trong cũng một rạp giá khác nhau theo từng khu
vực.
+ Định giá theo thời gian:
Khi thực hiện chính sách giá thực hiện chính sách giá phân biệt, cần chú ý:
+ Phải hợp pháp: Nhiều nơi có luật cấm áp dụng chính sách giá phân biệt
nếu không chứng minh được sự khác nhau về chi phí.
95
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
+ Thị trường có thể phân khúc được và những khúc thị trường này phải thể
hiện các mức nhu cầu khác nhau.
+ Khách hàng ở khu vực giá thấp không mua đi bán lại.
+ Đối thủ cạnh tranh không tấn công bằng giá vào khu vực giá cao.
Chiến lược thay đổi giá
Sau khi triển khai các cơ cấu giá và chiến lược về giá, các doanh nghiệp sẽ
gặp phải những tình huống mà khi ấy họ sẽ muốn giảm hay tăng giá lên.
a. Giảm giá
Việc giảm giá thường để đối đối phó trong những trường hợp như:
Nhà máy còn công suất hoạt động hay quá thừa năng lực. Ở đây, doanh
nghiệp cần có thêm khách, nhưng không thể đạt được qua việc đã tăng cường
nỗ lực bán, cải tiến sản phẩm, cũng những biện pháp khác nữa. Những hoàn
cảnh này có thể gây nên những trận chiến giá cả.
Giảm giá do đối phó với những đối thủ cạnh tranh nhằm tìm kiếm thêm
thị trường.
Do khả năng tiêu thụ không cao, thị phần đang suy giảm.
Do muốn khống chế thị trường.
b. Tăng giá
Việc tăng giá có thể ảnh hưởng không tốt cho việc bán hàng những việc
tăng giá thành công có thể làm gia tăng lợi nhuận một cách đáng kể. Việc tăng
giá có thể xuất phát từ những yếu sau:
Sự tăng chi phí diễn ra dai dẳng có tính toàn cầu. Mức tăng năng suất
không sánh kịp với vật giá gia tăng đã làm giảm dần biên lợi nhuận.
Lượng cầu quá lớn: Khi một công ty không thể cung ứng được tất cả nhu
cầu cho khách hàng của mình, công ty ấy có thể nâng giá lên.
Doanh nghiệp có thể thực hiện việc tăng giá như sau:
Giảm bớt trọng lượng hay kích thước sản phẩm
Giảm bớt những đặc tính của sản phẩm.
96
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Loại bỏ những dịch vụ sản phẩm như giao hàng, bảo hành,...
Sử dụng bao bì rẻ tiền hơn
Doanh nghiệp phải hỗ trợ việc tăng giá bằng một chương trình truyền
thông nhằm nói cho khách hàng biết lý do tăng giá
* Phản ứng của người mua:
Việc thay đổi giá chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến người mua, các nhà cạnh
tranh, các nhà phân phối và cũng có thể làm cho chính quyền quan tâm. Đối
với người mua, tùy theo nhận thức của từng người mà có những phản ứng
khác nhau như mua thêm nhiều hơn để tránh tăng giá hoặc chuyển sang mua
sản phẩm cùng loại khác. Họ có thể giải thích sai việc giảm giá như sau:
Món hàng sắp bị một kiểu khác thay thế.
Món hàng có khuyết điểm và bán không chạy.
Công ty đang gặp khó khăn về tài chính.
Chất lượng hàng đã bị giảm xuống rối.
* Phản ứng của đối thủ cạnh tranh
Phản ứng của đối thủ cạnh tranh rất đa dạng trước sự thay đổi giá cả.
Điều này tùy thuộc rất lớn vào số lượng doanh nghiệp trên thị trường, quy mô
của các đối thủ, tính chất và đặc điểm của sản phẩm cũng như thông tin từ
khách hàng.
Tại sao đối thủ cạnh tranh thay đổi giá cả?
Sự thay đổi giá cả là tạm thời hay vĩnh viễn ?
Thị phần và lợi nhuận của doanh nghiệp bị ảnh hưởng ra sao nếu không
phản ứng?
Những phản ứng khác nhau của đối thủ cạnh tranh và của doanh nghiệp
khác?
Chiến lược định giá sản phẩm mới
Khác với định giá theo chi phí, lúc này doanh nghiệp có thể định giá cho sản
phẩm mới theo hai cách sau:
97
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
a. Định giá thâm nhập thị trường
Với chiến lược này, các doanh nghiệp định giá sản phẩm tương đối thấp,
hy vọng rằng sẽ thu hút được một lượng khách mua đủ lớn và đạt được một
thị phần lớn
Những điều kiện sau thuận lợi cho định giá thấp:
Thị trường rất nhạy với giá cả và một giá thấp kích thích sức tăng trưởng
nhiều hơn.
Các chi phí về sản xuất và phân phối giảm theo cùng với mức kinh
nghiệm sản xuất tích lũy được.
Một giá thấp sẽ không thu hút sự cạnh tranh thực tế và tiềm tàng..
b. Định giá nhằm chắt lọc thị trường
Là chiến lược trong đó doanh nghiệp định giá cao ngay từ đầu làm cho sản
phẩm mới “chớp” thị trường. Sau khi lượng tiêu thụ chậm lại, doanh nghiệp
mới hạ giá sản phẩm xuống để lôi kéo lớp khách hàng kế tiếp vốn nhạy cảm
với giá cả. Bằng cách này, doanh nghiệp vớt được lượng doanh thu tối đa từ
những khúc thị trường khác nhau.
Chiến lược này có ý nghĩa dưới những điều kiện sau:
Một số lượng người mua đủ để có mức cầu hiện hành cao.
Phí tổn trên mỗi đơn vị khi sản xuất với khối lượng nhỏ không quá cao.
Giá ban đầu cao sẽ không thu hút thêm các đối thủ cạnh tranh.
Giá cao gây ra ấn tượng về hình ảnh một sản phẩm hảo hạng
Chiến lược định giá tâm lý
Giá cả thường phản ánh các thuộc tính của sản phẩm. Rất nhiều khách
hàng dùng giá cả để đo lường chất lượng sản phẩm. Khi áp dụng chính sách
giá tâm lý, nhà sản xuất xem xét yếu tố tâm lý của giá cả chứ không đơn
thuần về khía cạnh kinh tế Bên cạnh đó có những sản phẩm rất khó xác định
chất lượng căn cứ vào giá bán của sản phẩm. Giá cao đối với họ nghĩa là chất
lượng cao. Họ nghĩ “Tiền nào của nấy”
98
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
4. Tiến trình xác định giá bán cho một sản phẩm mới
4.1. Lựa chọn mục tiêu của giá
Để tồn tại.
Để tối đa hóa lợi nhuận.
Để thu hồi vốn nhanh.
Để dẫn đầu về chất lượng sản phẩm .
4.2. Xác định số cầu của sản phẩm
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự ít nhạy cảm về giá:
Tính đặc trưng của sản phẩm.
Khách hàng không chú ý đến chất lượng của sản phẩm thay thế.
Chi tiêu khi mua sản phẩm này thấp hơn thu nhập của khách hàng.
Sản phẩm có chất lượng, uy tín cao hơn và mang tính độc quyền.
Mỗi mức giá mà công ty đưa sản phẩm ra thị trường dều ảnh hưởng đên
mức cầu của thị trường.
4.3. Dự tính chi phí
Chi phí cố định.
Chi phí biến đổi.
Tổng chi phí.
Điểm hòa vốn.
4.4. Phân tích sản phẩm, chi phí và giá cả của đối thủ cạnh tranh
Doanh nghiệp cần có mức chuẩn về chi phí của công ty so với chi phí của
đối thủ cạnh tranh để biết mình có đang hoạt động ở mức lợi thế về chi phí
hay không.
Doanh nghiệp cần biết về giá cả và giá trị sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh để có thể sử dụng nó như mấu chốt cơ bản nhằm định giá cho sản
phẩm của mình.
99
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Doanh nghiệp sử dụng chiến lược định giá để tạo vị trí cho sản phẩm
của mình so với vị trí của sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
4.5. Lựa chọn phương pháp định giá
Doanh nghiệp có thể dựa vào mô hình 3C để định giá, tức là phải xem xét
tới các phương pháp định giá sau:
Định giá dựa vào phí tổn.
Định giá dựa vào giá trị cảm nhận của người mua.
Định giá dựa vào cạnh tranh.
4.6. Lựa chọn mức giá cuối cùng
Xem xét một số yếu tố khác trước khi quyết định giá:
Khả năng chấp nhận giá đó của khách hàng.
So sánh giá với mục tiêu chính sách giá của doanh nghiệp.
Phản ứng của những nhà phân phối và đối thủ.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Câu 5.1: Phân tích các yếu tố bên trong và bên ngoài chi phối đến việc hình
thành giá của một sản phẩm cụ thể trên thị trường?
Câu 5.2: Sử dụng các phương pháp hình thành giá, xây dựng miền giá chấp
nhận của một sản phẩm có thực trên thị trường? Lấy ví dụ cụ thể phân tích
việc áp dụng các chiến lược giá của doanh nghiệp trên thị trường?
Câu 5.3: Việc định giá và đề ra các chính sách giá cả của công ty do phòng
kinh doanh thực hiện. Các quyết định về giá cả cuối cùng do ban giám đốc
quyết định. Giá bán của công ty phụ thuộc nhiều vào sự biến động của giá
gas trên thế giới, tình hình thị trường trong nước và kế hoạch lợi nhuận của
công ty. Anpha đã xác định chính sách giá linh hoạt hợp lý nhằm mục tiêu
chinh phục các đoạn thị trường khác nhau. Đối với giá bán cho các đại lý, các
thành viên tham gia kênh phân phối, công ty thực hiện nguyên tắc sau:
100
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
● Phần chiết khấu cho các đơn vị thành viên phải đảm bảo lợi nhuận cho
họ.
● Phần chiết khấu cho các đơn vị thành viên khác nhau nên khác nhau do
việc thực hiện các công việc khác nhau.
● So với các đối thủ cạnh tranh, phần chiết khấu của công ty phải phù
hợp với mức chiết khấu chung.
● Đảm bảo một tỷ lệ lợi nhuận phù hợp cho mỗi cấp phân phối.
● Mức chiết khấu của các sản phẩm cùng chủng loại thay đổi xung
quanh mức chiết khấu của thị trường.
Yêu cầu: Từ thông tin trên phân tích chính sách hình thành giá của doanh
nghiệp?
101
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
BÀI 6: CHIẾN LƯỢC PHÂN PHỐI
Mã bài: 24.6
Giới thiệu:
Doanh nghiệp phải tổ chức được hệ thống kênh phân phối để đưa hàng
hóa đến người tiêu dùng cuối cùng. Những quyết định về phân phối thường
khó khăn, phức tạp, có ảnh hưởng lâu dài. Tham gia vào kênh phân phối có
các thành viên kênh: Nhà bán buôn, bán sỉ; nhà bán lẻ; nhà đại lý, môi giới.
Các kênh phân phối hoạt động rất phức tạp bao gồm nhiều mối quan hệ hợp
tác và xung đột. Doanh nghiệp có thể lựa chọn các kênh sẵn có trên thị trường
hoặc phải tự xây dựng kênh phân phối tối ưu cho mình thông qua nhiều căn
cứ khác nhau. Loại kênh doanh nghiệp lựa chọn rất đa dạng theo đặc điểm
chiều dài kênh, bề rộng kênh hay theo hình thức quản lý kênh là truyền thống
hay liên kết dọc. Việc quản lý hoạt động kênh bao gồm nhiều công việc đa
dạng như: Lựa chọn kênh, lựa chọn các thành viên kênh, khuyến khích các
thành viên, đánh giá hoạt động của họ, giải quyết các mâu thuẫn xung đột
trong kênh khi nó xảy ra, thực hiện hoạt động phân phối vật chất trong kênh
phân phối,... Các nhà bán buôn và bán lẻ là hai cấp trung gian quan trọng nhất
của hệ thống phân phối. Ngày nay họ có sự phát triển rất đa dạng tạo thành
nhiều loại hình bán buôn và bán lẻ khác nhau và họ cũng có các chiến lược
marketing riêng.
Mục tiêu:
Trình bày được khái niệm và tầm quan trọng của phân phối trong
Marketing;
Trình bày được các kênh phân phối phổ biến
Lựa chọn được kênh phân phối và truyền thông phù hợp trong doanh
nghiệp.
102
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Có ý thức đúng đắn trong việc nhìn nhận, đánh giá một kế hoạch
Marketing.
Nội dung:
1. Khái niệm và tầm quan trọng của phân phối trong Marketing
1.1. Khái niệm về phân phối
Phân phối trong Marketing là một quá trình chuyển đưa sản phẩm từ nhà
sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng, thể hiện qua nhiều phương thức và
hoạt động khác nhau. Phân phối trong Marketing làm thay đổi sở hữu sản
phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng thông qua các thành viên trung
gian. Phân phối làm cho cung cầu ăn khớp với nhau. Theo ý nghĩa đó, phân
phối là sáng tạo ra dịch vụ. Những người tiêu dùng thì thường phân tán theo
địa lý, lại có những yêu cầu đa dạng về chất lượng cũng như số lượng sản
phẩm, trong khi đó các nhà sản xuất thì lại tập trung và chuyên môn hóa nên
cần có vai trò của người phân phối để đưa sản phẩm và dịch vụ tới người
tiêu dùng đúng với yêu cầu.
1.2. Tầm quan trọng của phân phối
Vai trò của phân phối trong Marketing mix là đưa sản phẩm đến thị trường
mục tiêu. Những quyết định phân phối có ảnh hưởng lớn đến các nỗ lực
Marketing. Do các trung gian thực hiện một số chức năng phân phối nên kế
hoạch Marketing của công ty cũng sẽ khác nhau khi lựa chọn những trung
gian phân phối khác nhau. Sự lựa chọn hệ thống phân phối là một trong
những quyết định quan trọng nhất của
công ty. Những mối quan hệ chặt chẽ giữa các trung gian cần có thời gian để
phát triển. Nếu giữa các thành viên phân phối có những ràng buộc chặt chẽ,
doanh nghiệp mới sẽ gặp nhiều khó khăn khi thâm nhập. Khi đã xây dựng
được những liên minh trong phân phối, sản phẩm mới sẽ dễ dàng tung ra thị
103
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
trường hơn. Những thành viên phân phối cần hoạt động trong sự hợp tác.
Những nhà phân phối mạnh sẽ tăng cường khả năng Marketing của công ty.
Như vậy, chiến lược phân phối hợp lý, thuận tiện cho người mua sẽ góp
làm cho sản phẩm lưu thông thông suốt, nhanh chóng dễ xâm nhập thị trường.
Hiện nay, nhiều doanh nghiệp nhận ra tầm quan trọng của mối quan hệ được
xây dựng thông qua hệ thống phân phối. Do vậy, nhiều công ty cố giành
chiếm trước các mối quan hệ với các trung gian. Song song đó, họ phải tìm
cách phát triển và duy trì mối quan hệ lâu dài với các nhà cung cấp và khách
hàng. Chi phí và lợi nhuận cũng bị ảnh hưởng bởi quyết định lựa chọn kênh
phân phối. Một công ty thực hiện các chức năng phân phối phải tự trang trải
hết các khoản chi phí và đổi lại sẽ thu hết phần lợi nhuận. Một công ty sử
dụng trung gian để giảm chi phí phân phối thì lợi nhuận cũng giảm vì trung
gian phải hưởng phần đóng góp của họ.
Mặt khác, khi sử dụng trung gian, tổng lợi nhuận công ty có thể tăng nếu
mức bán của trung gian vượt cao hơn mức bán do công ty tự phân phối. Mức
độ chiếm lĩnh thị trường của sản phẩm thường chịu ảnh hưởng bởi số lượng,
vị trí, khả năng thâm nhập thị trường, hình ảnh, dịch vụ và các kế hoạch
Marketing của các nhà buôn sỉ, buôn lẻ. Tuy nhiên, sử dụng quá nhiều trung
gian sẽ dẫn đến những mối liên hệ với người tiêu dùng ít đi và mức độ kiểm
soát Marketing cũng thấp hơn.
2. Kênh phân phối
2.1. Kênh phân phối
a. Khái niệm
Kênh phân phối sản phẩm là tập hợp các tổ chức và cá nhân làm nhiệm vụ
chuyển đưa sản phẩm từ nhà sản xuất đến người tiêu dùng cuối cùng. Kênh
phân phối kết hợp tất cả các thành viên tham gia vào tiến trình phân phối gồm
nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, nhà buôn sỉ, nhà buôn lẻ, đại lý và người
tiêu dùng.
104
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
b. Cấu trúc kênh phân phối
Một kênh phân phối có thể đơn giản hoặc phức tạp. Kênh phân phối có
nhiều kiểu cấu trúc khác nhau nhưng nhìn chung có thể đưa về hai dạng sau
đây:
Kênh phân phối sản phẩm tiêu dùng
Kênh phân phối sản phẩm tiêu dùng thường phức tạp và phong phú. Tùy
theo từng loại sản phẩm, từng thị trường, từng doanh nghiệp mà số lượng
kênh và cấu trúc kênh cũng khác nhau. Tuy nhiên, những cấu trúc khác nhau đó
đều dựa trên những kênh cơ bản sau:
Kênh không có trung gian gọi là kênh trực tiếp.
Kênh có trung gian gọi là kênh gián tiếp.
Kênh trực tiếp hay kênh có một trung gian gọi là kênh ngắn.
Kênh có từ hai trung gian trở lên là kênh dài.
Kênh phân phối cho sản phẩm công nghiệp
Các kênh phân phối hàng công nghiệp thường ngắn hơn kênh phân phối
hàng tiêu dùng. Những nhà sử dụng công nghiệp thường ít về số lượng,
nhưng mua với số lượng lớn.
105
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
c. Các trung gian trong kênh phân phối
Tầm quan trọng của trung gian phân phối
Hỗ trợ nghiên cứu Marketing
Ảnh hưởng đến các chỉ tiêu tài chính của doanh nghiệp
Hỗ trợ các hoạt động xúc tiến của doanh nghiệp
Hỗ trợ cung cấp dịch vụ khách hàng
Ảnh hưởng đến các quyết định về sản phẩm
Ảnh hưởng đến các quyết định về giá
Cầu nối sản xuất với tiêu dùng.
Hỗ trợ nhà sản xuất đáp ứng nhu cầu đa dạng, đơn lẻ của khách hàng.
Các trung gian trong kênh phân phối
❖ Nhà bán lẻ
Bán lẻ bao gồm nhiều hoạt động kinh doanh liên quan đến bán sản phẩm
cho người tiêu dùng cuối cùng là cá nhân, hộ gia đình. Đây là giai đoạn cuối
cùng trong kênh phân phối. Nhà sản xuất, nhà nhập khẩu, nhà bán buôn cũng
có thể tham gia bán lẻ khi họ bán hàng trực tiếp cho người tiêu dùng cuối
cùng. Nhưng phần lớn công việc bán lẻ và chiếm lĩnh thị trường là do nhà bán
lẻ chuyên nghiệp đảm nhận.
Các nhà bán lẻ có các chức năng sau:
106
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Tham gia tiến trình phân phối bằng cách tập hợp và phân loại sản phẩm
từ những nhà cung cấp khác nhau, đồng bộ, sắp xếp sản phẩm để phục vụ
nhu cầu phong phú và đa dạng của khách hàng.
Cung cấp thông tin cho người tiêu thụ thông qua quảng cáo, trưng bày,
nhân viên bán. Ngoài ra còn hỗ trợ nghiên cứu Marketing, cung cấp thông tin
phản hồi cho những thành viên phân phối khác trong kênh.
Dự trữ sản phẩm, ghi giá, chất xếp và những công việc chăm sóc, chuẩn
bị sản phẩm sẵn sàng bán ra.
Tạo thuận tiện và hoàn tất những giao dịch bằng cách cung cấp sản phẩm
đúng vị trí, thời gian, các chính sách tín dụng và những dịch vụ khác cho khách
hàng. Hoạt động bán lẻ rất đa dạng về quy mô và hình thức từ những người
bán hàng rong đến các cửa hàng và siêu thị lớn. Có các hình thức hoạt động
của các cửa hàng bán lẻ sau:
Cửa hàng bán lẻ độc lập: Là các cửa hàng bán lẻ không phụ thuộc nhau.
Hệ thống bán lẻ: có nhiều đầu mối bán lẻ có chung sở hữu và được tiêu
chuẩn hóa, chuyên môn hóa , có chung hệ thống kiểm soát.
Bán lẻ đặc quyền: sự hợp tác giữa nhà sản xuất. nhà cung cấp dịch vụ và
nhà bán lẻ để cho phép nhà bán lẻ kinh doanh với tên hiệu và quy tắc riêng
biệt.
Hợp tác bán lẻ: Một số cửa hàng bán lẻ liên kết với nhau để chia sẻ chi
phí bán hàng, dự trữ, vận chuyển, quảng cáo
❖ Nhà bán buôn
Là những người mua sản phẩm từ những nhà sản xuất hoặc cung cấp sản
phẩm để bán lại cho các nhà sử dụng công nghiệp, nhà bán lẻ và những nhà
bán buôn khác. Họ không bán trực tiếp cho người tiêu dùng cuối cùng. Những
nhà sản xuất và những nhà cung cấp dịch vụ đôi khi có hệ thống bán buôn
của riêng họ nhưng cũng có thể sử dụng những nhà bán buôn độc lập bên
ngoài. Bán buôn thường thực hiện với số lượng lớn nên được giảm chi phí
107
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
phân phối sản phẩm vật chất. Những nhà bán buôn giữ chức năng quan trọng
trong hệ thống phân phối. Họ có những chức năng sau:
Giúp nhà sản xuất và nhà cung cấp dịch vụ phân phối sản phẩm đến
những địa phương mà họ chưa tạo được quan hệ với khách hàng.
Cung cấp những thông tin nhằm hỗ trợ việc nghiên cứu Marketing của
nhà sản xuất, nhà cung cấp dịch vụ, các tổ chức người tiêu thụ.
Thu mua và phân loại sản phẩm nhằm tạo điều kiện dễ dàng cho khách
hàng trong việc lựa chọn.
Giúp các nhà bán lẻ trong việc huấn luyện nhân viên bán hàng, trưng bày
và giới thiệu sản phẩm, xây dựng hệ thống kế toán, kiểm kho.
Dự trữ sản phẩm để đảm bảo cung cấp hàng hóa đầy đặn cho những nhà
bán lẻ hay các nhà sản xuất khác.
❖ Đại lý
Đại lý là người thay mặt cho người bán hoặc người mua để thực hiện các
giao dịch với khách hàng. Họ nhận được một khoản hoa hồng hoặc thù lao do
bên sử dụng trả theo hợp đồng đã ký kết. Đại lý thường là cá nhân hoặc
doanh nghiệp có vị trí kinh doanh thuận lợi, có năng lực bán hàng. Đại lý có
thể làm đại diện cho một hoặc nhiều công ty khác nhau những không là đối
thủ cạnh tranh trực tiếp của nhau.
Đại lý gồm có: đại lý hoa hồng, đại lý bao tiêu, đại lý độc quyền và tổng
đại lý
❖ Người môi giới
Người môi giới là người không tham gia vào mua bán hàng hóa mà chỉ làm
nhiệm vụ chắp nối người bán với người mua, không chịu một sự rủi ro nào
và được hưởng thù lao của bên sử dụng môi giới. Người môi giới là một
trung gian rất cần thiết vì trên thị trường có rất nhiều người bán và rất nhiều
người mua, giữa họ không có điều kiện để hiểu biết nhau. Người môi giới
làm cho quá trình mua bán được nhanh chóng, tin tưởng và hiệu quả. Người
108
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
môi giới và đại lý giống nhau ở đặc điểm không sở hữu sản phẩm và chỉ thực
hiện một số chức năng nhất định.
d. Các luồng lưu chuyển trong kênh phân phối
Trong một kênh phân phối thường có các luồng lưu chuyển hoạt động
đồng thời với nhau, đó là:
Luồng lưu chuyển sản phẩm: thể hiện sự vận động của sản phẩm trong
không gian thông qua các phương tiện vận tải.
Luồng lưu chuyển quyền sở hữu: quyền sở hữu sản phẩm được chuyển
từ nhà sản xuất qua các thành viên phân phối đến người mua cuối cùng.
Luồng lưu chuyển thanh toán: thể hiện sự vận động của tiền mặt hay chi
phiếu và hối phiếu đi ngược từ người tiêu dùng qua trung gian đến nhà sản
xuất.
Luồng lưu chuyển thông tin: thể hiện sự trao đổi thông tin về mua bán
sản phẩm giữa các thành viên và cả thông tin phản hồi từ người tiêu dùng
cuối cùng.
Luồng lưu chuyển các hoạt động xúc tiến: thể hiện những hoạt động
thông tin và thúc đẩy việc bán hàng giữa những thành viên trong kênh. Các
hoạt động này cũng nhằm hướng đến người tiêu dùng cuối cùng.
2.2. Lựa chọn kênh phân phối
a. Các căn cứ để lựa chọn
Lựa chọn kênh phân phối là một quá trình phân tích, đánh giá các nhân tố
ảnh hưởng đến việc lựa chọn kênh và trung gian thích hợp để tiêu thụ sản
phẩm. Đây là một trong những quyết định Marketing quan trọng ảnh hưởng
đến doanh số, chi phí và thị phần của công ty.
Căn cứ vào các mục tiêu phân phối
Chiếm lĩnh thị trường: để sản phẩm có thể bao quát được thị trường mục
tiêu, các doanh nghiệp có thể lựa chọn kênh phân phối dài với hệ thống các
cửa hàng có quy mô lớn và nhiều tầng nấc phân phối.
109
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Xây dựng hình ảnh sản phẩm: với mục tiêu này sản phẩm không chỉ cần
hiện diện trên nhiều khu vực thị trường, nhiều điểm bán mà còn cần chú ý
lựa chọn vị trí cửa hàng, cách trưng bày...
Kiểm soát: Những kênh ngắn thường được kiểm soát dễ hơn những kênh
dài nên để đạt được những mục tiêu này các doanh nghiệp có xu hướng chọn
những kênh ít trung gian.
Giảm chi phí, tăng lợi nhuận: hướng lựa chọn những kênh với trung gian
có khả năng phân phối mạnh, từ đó chi phí phân phối sẽ thấp và lợi nhuận
tăng lên.
Căn cứ vào đặc điểm của thị trường
Loại thị trường: do hành vi mua của khách hàng công nghiệp khác với
người tiêu dùng là cá nhân hay gia đình nên các doanh nghiệp cần thiết kế
những kênh phân phối khác nhau.
Quy mô khách hàng tiềm năng: Nếu lượng khách hàng ít nên sử dụng
kênh trực tiếp hay kênh ngắn. Kênh dài chỉ được sử dụng khi lượng khách
hàng nhiều.
Mức độ tập trung về mặt địa lý của thị trường: những thị trường có nhu
cầu lớn và tập trung nên dùng kênh trực tiếp hay kênh ngắn. Ngược lại khi thị
trường phân tán thì nên sử dụng kênh dài.
Quy mô đơn hàng: đối với khách hàng có số lượng mua lớn như siêu thị
thì doanh nghiệp có thể bán hàng trực tiếp. Nếu số lượng mua của khách
hàng nhỏ như các điểm bán lẻ thì nên sử dụng các trung gian bán buôn để
phân phối.
Căn cứ vào sản phẩm
Đặc điểm của sản phẩm: đối với những sản phẩm có giá trị thấp, sử
dụng thường xuyên thì nên phân phối qua nhiều kênh và nhiều trung gian.
Những sản phẩm dễ hư hỏng, cồng kềnh thường được phân phối qua các
110
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
kênh ngắn. Đối với những sản phẩm có tính kỹ thuật cao, cần dịch vụ chuyên
môn hỗ trợ đòi hỏi phải chọn các trung gian chuyên nghiệp.
Các giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm: tùy từng giai đoạn của chu kỳ
sống sản phẩm mà những yêu cầu khi lựa chọn kênh và trung gian phân phối
sẽ khác nhau.
Căn cứ vào đặc điểm của trung gian
Năng lực của các trung gian: thể hiện qua khả năng tiêu thụ sản phẩm. uy
tín trên thị trường, trình độ đội ngũ bán hàng, hệ thống cửa hàng, vốn, khả
năng thanh toán, vị trí kinh doanh, khả năng cung cấp dịch vụ... doanh nghiệp
tùy theo năng lực của mỗi trung gian sẽ giao các nhiệm vụ phân phối khác
nhau.
Ý muốn của các trung gian: trung gian có thể không muốn nhận phân phối
sản phẩm cho công ty mặc dù họ có khả năng bởi vì có thể họ đã phân phối
sản phẩm khác.
Chính sách kinh doanh: quan điểm và chiến lược kinh doanh của doanh
nghiệp có thể không thống nhất với các trung gian phân phối, cho nên trong
quá trình lựa chọn các doanh nghiệp cần phải xem xét chính sách kinh doanh
của họ có phù hợp hoặc mâu thuẫn với mình hay không
Căn cứ vào năng lực của doanh nghiệp
Ngoài những căn cứ đã nêu, khi lựa chọn kênh phân phối, doanh nghiệp
phải đánh giá năng lực của mình, cụ thể:
Năng lực và kinh nghiệm quản lý: Nếu có đủ năng lực và kinh nghiệm
quản lý, doanh nghiệp có thể trực tiếp điều hành hệ thống phân phối với
nhiều kênh, nhiều trung gian
Khả năng tài chính: Nếu doanh nghiệp có nguồn tài chính mạnh thì có thể
tự đảm nhận và điều hành việc phân phối qua hệ thống cửa hàng của mình.
111
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Danh tiếng và uy tín của doanh nghiệp: những doanh nghiệp nổi tiếng lâu
năm, có uy tín trên thị trường dễ lựa chọn trung gian phân phối hơn các công
ty khác.
Căn cứ vào ý muốn cạnh tranh của doanh nghiệp
Những quyết định thiết kế kênh phân phối của doanh nghiệp chịu tác động
bới ý muốn cạnh tranh của họ. Có nhiều doanh nghiệp thích xây dựng hệ
thống các cửa hàng của mình tại các trung tâm thương mại....Nhưng cũng có
những doanh nghiệp thích xây dựng hệ thống cửa hàng theo kiểu phân tán
Căn cứ vào đặc điểm môi trường
Những quyết định về thiết kế kênh, hình thức bán, sử dụng và quản lý
trung gian... phải tuân theo những quy định pháp luật hiện hành. Nếu thị
trường đang vào giai đoạn suy thoái thì nên tổ chức kênh phân phối ngắn và
bỏ bớt những dịch vụ không cần thiết làm giá bán tăng lên
b. Các chiến lược phân phối
Chiến lược phân phối là sự cố kết gắn bó của sự lựa chọn và của những
biện pháp phải sử dụng để đưa sản phẩm về mặt vật chất cũng như quyền
sở hữu hay quyền sử dụng sản phẩm từ tay nhà sản xuất đến người tiêu dùng
cuối cùng nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Đối với các doanh nghiệp sản xuất,
có các chiến lược phân phối sau:
Chiến lược phân phối rộng rãi (Extensive distribution strategy)
Các nhà sản xuất hàng tiêu dùng và các loại nguyên liệu thông thường vẫn
dùng cách phân phối rộng rãi, khi đó lượng hàng dự trữ của họ ở càng nhiều
cửa hàng càng tốt. Những loại hàng này phải tiện lợi cho việc lưu trữ tương
đối lâu như: thuốc lá, bột giặt, bánh kẹo...
Chiến lược phân phối chọn lọc (Selective distribution strategy)
Doanh nghiệp chỉ lựa chọn một số trung gian ở một số nơi nhất định để
tiêu thụ sản phẩm mà không cần phải phân tán lực lượng ra nhiều điểm bán,
nhằm dành được thị phần cần thiết với sự kiểm soát chặt chẽ và tiết kiệm
112
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
chi phí. Hình thức này thường áp dụng cho loại hàng hóa có giá trị cao, khách
hàng thường suy nghĩ tính toán nhiều mới quyết định mua.
Chiến lược phân phối độc quyền (Exclusive distribution strategy)
Doanh nghiệp chỉ sử dụng một số trung gian rất hạn chế ở một khu vực thị
trường để tiêu thụ sản phẩm. Họ yêu cầu đại lý chỉ được bán hàng của mình,
tuyệt đối không được bán hàng của đối thủ cạnh tranh.
Cách phân phối này giúp đề cao hình ảnh của sản phẩm và có thể mang lại
cho doanh nghiệp nhiều thành công hơn.
3. Những quyết định về quản trị kênh phân phối
3.1. Tuyển chọn các thành viên của kênh
Mỗi nhà sản xuất sẽ có khả năng khác nhau trong việc thu hút các trung
gian có chất lượng cho kênh dự định. Một số nhà sản xuất không gặp khó
khăn gì trong việc tuyển một trung gian. Ngược lại, cũng có nhiều nhà sản
xuất phải cực nhọc mới tìm được trung gian theo tiêu chuẩn mong muốn.
Các nhà sản xuất ít nhất phải xác định được các trung gian tốt cần phải hội
đủ những đặc điểm gì. Họ sẽ đánh giá các trung gian về thâm niên trong
nghề, những mặt hàng họ bán, mức lợi nhuận và phát triển, khả năng chi trả,
tính hợp tác và uy tín. Tùy theo đối tượng mà các đặc điểm này có thể thay
đổi. Để lựa chọn được kênh tối ưu, người làm Marketing cần phân tích một
số yêu cầu mà nhà sản xuất đặt ra để đạt mục tiêu phân phối. Các yêu cầu đó
có thể là:
Yêu cầu bao phủ thị trường.
Mức độ điều khiển kênh mong muốn.
Tổng chi phí phân phối thấp nhất.
Đảm bảo tính linh hoạt của kênh.
3.2. Khuyến khích các thành viên hoạt động
Các trung gian phải được thường xuyên khuyến khích hoạt động. Nhà sản
xuất phải tạo được mối liên hệ chặt chẽ với các thành viên, kịp thời khen
113
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
thưởng động viên họ và tiến hành các hoạt động xúc tiến đối với thành viên
như là những người bạn hàng, khách hàng của nhà sản xuất. Một số chương
trình mà các nhà sản xuất có thể áp dụng để khuyến khích trực tiếp các thành
viên kênh của mình là:
Trợ cấp quảng cáo.
Chi phí cho sản phẩm mẫu trưng bày.
Thi tuyển chọn người bán.
Trợ cấp cho các bộ phận chức năng, kho bãi.
Thanh toán phí cho khoảng không gian trưng bày.
Cử người diễn thuyết, giới thiệu sản phẩm.
Biếu, tặng hàng hóa.
Ấn định mức doanh số bán hàng đảm bảo.
Nghiên cứu địa điểm.
Phần thưởng cho khách hàng.
Viết nhãn hàng hóa.
Hệ thống đặt hàng tự động.
Chi phí vận chuyển tới người bán buôn, bán lẻ.
Ưu tiên cho việc tự do quản lý trả hàng.
Đóng góp vào công việc từ thiện cho các nhân viên trong cửa hàng.
Đóng góp vào những dịp kỷ niệm đặc biệt.
Phần quà cho người mua khi đi xem phòng trưng bày.
Đào tạo nhân viên cửa hàng.
Thanh toán một số chi phí đồ đạc cố định trong cửa hàng.
Thanh toán chi phí cửa hàng mới hoặc sửa sang cửa hàng hiện có.
Thay đổi hình thức giúp cho hoạt động xúc tiến.
Trả một phần lương cho nhân viên bán.
Điều chỉnh giá hàng tồn kho.
Đề cập đến tên cửa hiệu hoặc của nhà phân phối trong các quảng cáo.
Cử người kiểm tra hàng hóa trong kho, vận chuyển hàng.
114
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
3.3. Đánh giá các thành viên
Định kỳ hoặc có thể đột xuất người làm Marketing cần phải đánh giá hoạt
động của các thành viên kênh như mức doanh số, hàng tồn kho, thời gian giao
hàng, các dịch vụ mà họ cung cấp và quy trình xử lý hàng thất thoát, hư hỏng.
4. Một số hoạt động phân phối sản phẩm vật chất
4.1. Xử lý đơn đặt hàng
Khi nhận được đơn đặt hàng, bộ phận xử lý đơn đặt hàng phải nhanh
chóng kiểm tra lại lượng hàng tồn kho, khả năng chi trả của khách hàng, sau
đó lập các hóa đơn và chứng từ cần thiết để giao cho các bộ phận khác thực
hiện các khâu tiếp theo. Doanh nghiệp nên sử dụng các phương tiện thông tin
hiện đại để thực hiện nhanh nhất quá trình xử lý đơn đặt hàng.
4.2. Lưu kho
Mọi doanh nghiệp đều phải tồn trữ hàng trong khi chờ bán. Việc dự trữ
hàng là cần thiết vì sản xuất và tiêu thụ ít khi cùng nhịp. Doanh nghiệp phải
quyết định số lượng những địa điểm kho bãi vì điều này sẽ giúp đưa hàng hóa
đến người mua một cách nhanh chóng. Số lượng địa điểm kho bãi phải được
tính toán để đạt tới sự cân bằng giữa dịch vụ cho khách và chi phí phân phối.
4.3. Xác định lượng hàng tồn kho
Xác định lượng hàng tồn kho cũng là một quyết định ảnh hưởng tới việc
thỏa mãn khách hàng bởi vì nếu lượng hàng tồn kho đầy đủ thì các đơn hàng
sẽ được cung cấp ngay lập tức. Tuy nhiên, trên thực tế, các doanh nghiệp
phải tính toán hết sức tỉ mỉ cho vấn đề này vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến
doanh số và lợi nhuận của họ. Chi phí lưu kho tăng theo tốc độ tăng dần đều
khi mức độ phục vụ khách tiến đến mức 100%. Do vậy, người làm Marketing
cần phải biết khi nào đặt thêm hàng và đặt thêm bao nhiêu. Họ phải xác định
được điểm đặt hàng mới nghĩa là khi mức lưu kho tụt xuống một mức nào đó
là phải tiến hành đặt hàng ngay.
4.4. Chọn phương tiện vận chuyển
115
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Vận chuyển là một yếu tố quan trọng của quá trình lưu thông hàng hóa và
tiêu thụ sản phẩm. Vận chuyển hợp lý sẽ góp phần tiết kiệm chi phí lưu
thông, giảm giá bán, tăng sức cạnh tranh cho sản phẩm, giảm lượng tồn kho,
bảo toàn được phẩm chất hàng hóa... Để nâng cao tính hiệu quả của phân
phối, người ta thường quan tâm đến việc tiết giảm chi phí vận chuyển sản
phẩm bởi vì chi phí này chiếm tỷ trọng lớn trong doanh số bán hàng (từ 10%
đến 25%).
Người làm Marketing cần phải tổ chức lực lượng vận tải để đảm bảo đưa
hàng hóa đến nơi mua hàng một cách đầy đủ, kịp thời với chi phí hợp lý nhất.
Đây là quá trình lựa chọn phương tiện vận tải, phương thức vận tải, tuyến
đường, khoảng cách giữa điểm nhận, điểm giao, các thủ tục gửi hàng, giao
hàng, nhận hàng, bảo hiểm... Doanh nghiệp có thể lựa chọn một hay nhiều
các phương tiện vận chuyển sau:
Vận chuyển bằng đường sắt.
Vận chuyển bằng đường thủy.
Vận chuyển bằng đường bộ.
Vận chuyển bằng đường hàng không.
Vận chuyển bằng đường ống.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Câu 6.1:
Jan Karon bán được hơn 10 triệu bản cuốn tiểu thuyết của cô gồm 6 tập
về Mitford, một thành phố tưởng tượng ở phía bắc Carolina. Chuỗi truyện
của Karin tập trung vào cuộc sống tại một thị trấn nhỏ được nhìn qua con
mắt của một thầy tu quản lý nhà thờ, một con người trung thực và đáng mến,
có niềm tin mãnh liệt vào Chúa và sự phát triển và mở rộng của đức hạnh.
Nhà xuất bản Viking Press – nhà xuất bản của cuốn sách trên xác định chiến
lược phân đoạn thị trường của mình là tập trung vào những người có mong
116
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
muốn hoạt động giải trí liên quan đến đức tin vào Chúa và thường mua sách ở
những cửa hàng sách Thiên chúa giáo. Sau khi phát hành tập đầu tiên, cuốn
sách được tiêu thụ rất nhanh chóng. Viking tiến hành một nghiên cứu thị
trường và phát hiện ra rằng chuỗi tiểu thuyết Mitford có tính hấp dẫn tương
tự như tiểu thuyết của Andy Taylor (tiểu thuyết văn học cho mọi độc giả) và
có sức thu hút một lượng lớn độc giả. Do đó, tiểu thuyết này được bày bán
tại các chuỗi cửa hàng sách phổ biến như Waldenbooks và Barnes & Nobles
cũng như những cửa hàng bán lẻ sách khác.
Câu hỏi:
1. Nhà xuất bản Viking Press thay đổi chiến lược phân phối của mình như
thế nào? Tại sao?
2. Họ sử dụng cách tiếp cận nào trong chiến lược phân đoạn thị trường,
lựa chọn thị trường mục tiêu trong giai đoạn đầu và cho những tập tiếp theo
của cuốn sách?
Câu 6.2:
Lâu nay Nokia nhà sản xuất ĐTDĐ số 1 thế giới và cũng đang đứng đầu
tại Việt Nam không có chính sách nhà phân phối độc quyền tại Việt Nam.
Tuy nhiên, trong số các nhà phân phối chính thức của hãng này, gồm Cty phân
phối FPT (FDC), Công ty Thuận Phát, Công ty Lucky, thì doanh số của FDC
mang lại chiếm phần lớn trong tổng doanh số của Nokia tại VN.
1. FPT – Nhà phân phối đầu tiên của Nokia tại Việt Nam Nokia dự định
tiếp tục hợp tác với FPT về việc mở rộng việc cung cấp các dịch vụ WiFi tại
các điểm kết nối của FPT và tăng cường hợp tác trong lĩnh vực truyền thông
số trực tuyến tại Việt Nam.
Nokia và FPT còn dự kiến hợp tác trong việc phát triển cộng đồng Việt
Nam trong lĩnh vực di động cũng như phát triển ngành truyền thông hội tụ số.
FPT và Nokia đã có bề dày kinh nghiệm hợp tác thành công trong lĩnh vực
phân phối điện thoại di động Nokia tại thị trường Việt Nam. Việc hợp tác
117
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
chiến lược giữa 2 bên trong thời gian tới sẽ đóng góp trực tiếp cho sự phát
triển của ngành công nghiệp nội dung số và các thiết bị di động của Việt
Nam, nhằm phát triển cộng đồng. Đó cũng là xu thế tất yếu trong thời đại
của các công dân điện tử. Trung tâm Phân phối sản phẩm Nokia được thành
lập sau khi FPT trở thành nhà phân phối chính thức sản phẩm Nokia tại Việt
Nam, là một trong những đơn vị trẻ nhất của Công ty Phân phối FPT và có
những bước tăng trưởng mạnh mẽ, đầy ấn tượng. Trong năm 2007, trung tâm
Phân phối sản phẩm Nokia đã đạt doanh số 310 triệu USD, với mức tăng
trưởng 77%, tiếp tục khẳng định chuỗi thành tích kinh doanh của mình. Tính
cho đến nay Công ty Phân Phối FPT Nhà phân phối chính thức ĐTDĐ Nokia
tại Việt Nam đã có bốn Showroom trải dài từ Bắc chí Nam được đưa vào
phục vụ người tiêu dùng. Tất cả Showroom FPTNokia đều quy chuẩn phong
cách phục vụ chuyên nghiệp, không gian trưng bày hiện đại, sang trọng, mang
đậm tính công nghệ cao bởi sự tụ hội của các dòng sản phẩm Nokia chính
hãng với nhiều tính năng nổi trội
2. Petrosetco– Lính mới trong lĩnh vực công nghệ Dự báo 35 năm tới thị
trường điện thoại sẽ có nhiều biến động vì vậy NOKIA cần một hệ thống
phân phối chuyên nghiệp thông qua các đối tác tiềm năng. Petrosetco là ứng
viên số một với năng lực về tài chính, đội ngũ nhân sự, mạng lưới kinh doanh
và quan trọng là sự hỗ trợ đắc lực của tập đoàn mẹ (tập đoàn Dầu khí Việt
Nam – PetroVietnam) Trong thời gian vừa qua, giá điện thoại Nokia không ổn
định có thể do có tình trạng “làm giá” từ sự độc quyền của FPT. Thêm nhà
phân phối, giá điện thoại Nokia có thể sẽ không giảm nhưng ổn định hơn,
nguồn hàng cung cấp dồi dào hơn. Đồng thời, các đại lý bán lẻ có chi nhánh
tại các tỉnh sẽ thuận lợi hơn khi các nhà phân phối phải mở rộng địa bàn để
cạnh tranh. Chọn thêm Petrosetco, Nokia giải tỏa được tình trạng phụ thuộc
quá nhiều vào FDC, đồng thời mở rộng thêm được kênh phân phối trên toàn
VN chuẩn bị cho thời kỳ bùng nổ phân phối từ năm 2009 Với tốc độ phát
triển tới 5060%, miếng bánh của thị trường di động Việt Nam đang quá lớn,
118
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
vì vậy Nokia cần có thêm nhà phân phối để mở rộng địa bàn và để các đại lý
bán lẻ có điều kiện chọn lựa tổng đại lý. Chuyện Petrosetco trở thành đối tác
của Nokia là do Nokia muốn tìm nhà phân phối có khả năng làm đối trọng với
FPT đối tác đang nắm đến 80% thị phần của Nokia tại Việt Nam. Chính vì
thế, ngay khi mới ra đời, Petrosetco đã tập trung đội ngũ gồm những người
từng là nhà tư vấn chiến lược cho Nokia tại Việt Nam và nhiều quốc gia khác
Để trở thành đối tác phân phối chính thức của Nokia, Petrosetco đã thành lập
đơn vị trực thuộc mới là Chi nhánh Viễn thông Dầu khí (PV Telecom) chuyên
phân phối sản phẩm Nokia cho các nhà bán lẻ điện thoại di động trên toàn
quốc.
Mạng lưới bán lẻ ĐTDĐ Các đại lý bán lẻ điện thoại di động trong nước
đều tỏ ra phấn khởi trước sự kiện hãng điện thoại Nokia chọn thêm một nhà
phân phối cho thị trường Việt Nam là công ty PV Telecom. Với sự xuất hiện
của PV Telecom, các cửa hàng bán lẻ sẽ có thêm lựa chọn nhà cung cấp. Thị
trường phân phối có sự cạnh tranh, các đại lý bán lẻ sẽ được hỗ trợ tốt hơn
và người tiêu dùng cũng được hưởng lợi từ sự cạnh tranh này. Mới đây,
Petrosetco đã tổ chức cuộc họp với 500 đại lý tại TPHCM như một cuộc biểu
dương tiềm lực và cho biết sẽ mở 8 chi nhánh trên toàn quốc. Đặc biệt,
Petrosetco đang có chiến lược toả mạng lưới phân phối về các tỉnh, những
nơi mà FDC còn để trống. Trước cục diện cạnh tranh mới, FPT đã cho ra đời
một nhánh bán lẻ mới với tên gọi FPT Retail, sẽ phân phối các mặt hàng
truyền thống của tập đoàn này, với kỳ vọng đạt doanh số 400 triệu USD vào
năm 2009. Trong cuộc chạy đua bán lẻ ĐTDĐ hiện nay cho thấy một xu
hướng mới: Các cửa hàng lớn, trang trí bắt mắt, phục vụ ân cần đang ngày
càng trở thành những trung tâm thu hút khách hàng. Siêu thị ĐTDĐ: "Lên ngôi"
nhờ đảm bảo quyền lợi khách hàng Song song với sự bùng nổ về sản phẩm,
thị trường ĐTDĐ Việt Nam năm 2008 đánh dấu sự thăng tiến của nhiều
thương hiệu bán lẻ như Thế giới di động, Viễn thông A, MobiMart, Đức
Hiếu, XNK Viettel...Số lượng ĐTDĐ bán ra từ những hệ thống bán lẻ lớn
119
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
chiếm tới 50% thị phần. Con số này là rất ý nghĩa khi năm 2007, con số này
chỉ khoảng trên dưới 25%. Và được phỏng đoán sẽ tăng thêm 15 20 % trong
năm nay cho dù việc tăng này tập trung vào những dòng sản phẩm có giá trị
thấp Hiện nay, xu hướng khách hàng thường ngả sang chọn mua điện thoại
tại những siêu thị lớn và có uy tín. Thứ nhất, các siêu thị hàng công nghệ có
sự phong phú về các dòng sản phẩm, luôn được ưu tiên cập nhật những sản
phẩm mới nhất từ các hãng. Ngoài những yêu cầu cơ bản của nơi bán như
thương hiệu uy tín, chất lượng sản phẩm, phục vụ chuyên nghiệp, bảo
hành…, khách hàng mua điện thoại di động nói riêng hay các thiết bị kỹ thuật
số nói chung cần những giá trị cộng thêm như: gia tăng quyền lợi bằng các
khuyến mãi liên kết, tải game, nhạc, trang trí để tạo phong cách riêng cho
điện thoại… Các nhà bán lẻ ĐTDĐ gần như gạt bỏ những cửa hàng nhỏ ra
khỏi danh sách "đối thủ cạnh tranh" của mình. Sự cạnh tranh trên thị trường
do những doanh nghiệp lớn "so găng" với nhau bằng chất lượng dịch vụ, kỹ
năng tư vấn và chế độ hậu mãi. Lợi thế đặc biệt của những hệ thống bán lẻ
chuyên nghiệp mà những cửa hàng nhỏ lẻ không có được là sự liên kết chặt
chẽ với nhà sản xuất. Các hãng điện thoại nói chung và HTC nói riêng sẽ kết
hợp chặt chẽ với các chuỗi bán lẻ này để bán hàng vì đây là chuỗi cửa hàng
tiếp cận với khách hàng 1 cách trực tiếp và tốt nhất. . Đây là một trong những
đặc điểm tất yếu của một thị trường đang phát triển, đầy tiềm năng và rất
năng động. Các nhà phân phối lớn xuất hiện, với một hệ thống chuỗi cửa
hàng mở rộng trong cả nước, lượng hàng phong phú và một chất lượng dịch
vụ chuyên nghiệp, các nhà phân phối lớn đã góp phần dần dần thay đổi thói
quen mua hàng của người tiêu dùng. Các thương hiệu sản xuất điện thoại di
động cũng đã hợp tác chặt chẽ với các đại lý phân phối này để đưa đến tay
khách hàng những sản phẩm phù hợp với nhu cầu, thị hiếu với mức giá tốt
nhất Sự kết hợp chặt chẽ giữa sản xuất và lưu thông cũng cho phép các cửa
hàng lớn có thể giảm được chi phí bán hàng, cạnh tranh về giá với các cửa
hàng nhỏ lẻ. Ngoài ra là những chương trình khuyến mãi, giảm giá, kết hợp
120
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
với các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông để có được những gói sản phẩm tốt
nhất do các hãng triển khai cũng tập trung nhiều vào các điểm tiêu thụ mạnh.
Câu hỏi: Phân tích hệ thống bán lẻ ĐTDĐ của Nokia tại Việt Nam?
121
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
BÀI 7: CHIẾN LƯỢC XÚC TIẾN
Mã bài: 24.7
Giới thiệu:
Các quyết định về xúc tiến hỗn hợp (truyền thông marketing) với 5 công cụ
chủ yếu (quảng cáo, xúc tiến bán, bán hàng cá nhân, tuyên truyền – quan hệ
công chúng, marketing trực tiếp) là những công cụ có chức năng truyền tin về
sản phẩm thương hiệu, giúp thực hiện chiến lược định vị của doanh nghiệp.
Hoạt động quảng cáo hiện được các doanh nghiệp dành nhiều sự quan tâm
và ngân sách nhất vì nó mang tính xã hội cao, thích hợp cho việc tạo dựng
hình ảnh, có thể tiếp cận đến một số lượng lớn công chúng.
Xúc tiến bán tác động trực tiếp đến lợi ích của khách hàng nên có thể tạo
ra sự kích thích bán nhanh. Tuy nhiên, hiệu quả thường cũng trong một
khoảng thời gian ngắn và nếu sử dụng liên tục công cụ này có thể làm xấu đi
hình ảnh về nhãn hiệu.
Tuyên truyền bao gồm rất nhiều công cụ khác nhau, hiện nay marketing
hiện đại rất coi trọng công cụ này trong hoạt động truyền thông. Tuyên
truyền có thể tác động sâu sắc đến mức độ hiểu biết của xã hội, có khả năng
thuyết phục lớn đối với khách hàng.
Bán hàng cá nhân là công cụ đặc biệt quan trọng khi khách hàng của doanh
nghiệp là các doanh nghiệp khác và các tổ chức. Nó có sự tác động qua lại
giữa người bán và người mua, tính phù hợp trong giao tiếp, quan hệ cá nhân
có thể được xây dựng giữa người mua và người bán và khả năng thuyết phục,
bán được hàng cao.
Marketing trực tiếp có sự liên hệ trực tiếp giữa chủ thể và khách hàng
bằng những phương tiện thông tin như internet, email, thư, telemarketing, fax,
catalogue và đề nghị câu trả lời từ phía khách hàng. Marketing trực tiếp đang
được rất nhiều doanh nghiệp quan tâm, phát triển thông qua các trang web trên
mạng internet.
122
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Mục tiêu:
Trình bày được tầm quan trọng của xúc tiến trong Marketing
Trình bày được đặc điểm khái quát của các hoạt động xúc tiến.
Phân tích được các yếu tố ảnh hưởng đến hỗn hợp xúc tiến.
Xác định được kinh phí dành cho hoạt động xúc tiến.
Có ý thức đúng đắn trong việc nhìn nhận, đánh giá một kế hoạch
Marketing.
Nội dung:
1. Tầm quan trọng của xúc tiến trong Marketing
1.1. Các khái niệm
Xúc tiến là những nỗ lực của doanh nghiệp để thông tin, thuyết phục,
nhắc nhở và khuyến khích khách hàng mua sản phẩm, cũng như hiểu rõ về
doanh nghiệp. Nhờ xúc tiến mà doanh nghiệp có thể bán ra nhiều hơn và
nhanh hơn.
Những hoạt động xúc tiến này được thể hiện qua nhãn hiệu, bao bì, gian
hàng trưng bày, bán hàng cá nhân, dịch vụ khách hàng, hội chợ, cuộc thi và
những thông điệp qua các phương tiện thông tin ( như báo chí, truyền
hình,truyền thanh, thư, áp phích, phương tiện vận chuyển…). Những hoạt
động này do công ty hoặc các tổ chức thông tin thực hiện
Hỗn hợp xúc tiến
Hiện nay, các công ty thường thực hiện các hoạt động truyền thông
Marketing đến khách hàng, các giới trung gian và những giới công chúng khác
bằng một hỗn hợp truyền thông Marketing (Marketing Communication Mix),
hay còn gọi là hỗn hợp xúc tiến (Promotion mix). Một hỗn hợp xúc tiến bao
gồm 5 công cụ chủ yếu sau đây:
Quảng cáo (Advertising)
Tuyên truyền và quan hệ công chúng (Publicity & Public Relations)
Khuyến mãi ( Sales Promotion)
123
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Bán hàng trực tiếp ( Personal Selling)
Marketing trực tiếp ( Direct Marketing)
Hỗn hợp xúc tiến nói riêng và Marketing mix nói chung phải được phối hợp
tốt để hoạt động truyền thông đạt hiệu quả tối đa.
1.2. Mục đích và tầm quan trọng của xúc tiến
a. Mục đích
Thông báo cho khách hàng mục tiêu về sự có mặt của sản phẩm công ty
trên thị trường. Điều này rất là quan trọng vì kênh phân phối thường dài, giữa
người sản xuất và người tiêu dùng phải trải qua nhiều trung gian. Nhà sản
xuất phải thông báo cho trung gian và người tiêu dùng về sản phẩm cung cấp.
Tương tự, các trung gian bán buôn, bán lẻ cũng phải thông tin cho khách
hàng. Do số lượng khách hàng tiềm năng ngày càng gia tăng và ranh giới thị
trường cũng ngày càng được coi trọng. Những sản phẩm tốt nhất vẫn sẽ thất
bại nếu không ai biết chúng đang có trên thị trường. Cho nên một trong những
mục tiêu của xúc tiến là tìm cách thông tin liên tục trên thị trường
Khuyến khích khách hàng mua sản phẩm, thúc đẩy mua nhanh hơn và
nhiều hơn. Xúc tiến cũng dùng để so sánh cho khách hàng thấy được sản
phẩm của doanh nghiệp khác với sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh khác.
Xúc tiến còn là một công cụ dùng để thuyết phục khách hàng. Sự cạnh tranh
giữa các ngành, giữa các doanh nghiệp trong cùng ngành ngày càng gia tăng
tạo nên áp lực cho các chương trình xúc tiến. Trong một nền kinh tế phát
triển, một sản phẩm dù được sản xuất ra để thỏa mãn nhu cầu cơ bản vẫn
cần có hoạt động xúc tiến để thuyết phục khách hàng vì họ có quá nhiều
nhãn hiệu để lựa chọn.
Người tiêu dùng cần được nhắc nhở về sự có sẵn và những lợi ích của sản
phẩm. Các doanh nghiệp tung ra hàng ngàn thông điệp tràn ngập trên thị
trường nhằm lôi kéo khách hàng và hình thành thị trường mới cho sản phẩm.
124
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Do vậy, ngay cả những doanh nghiệp đã thành công cũng phải thường xuyên
nhắc nhở khách hàng về những sản phẩm, về công ty để duy trì thị trường.
b. Tầm quan trọng của xúc tiến
Xúc tiến là một yếu tố trọng yếu của Marketing mix. Một hỗn hợp xúc tiến
hiệu quả sẽ có những đóng góp quan trọng cho sự thành công của chiến lược
Marketing. Tạo sự khác biệt cho sản phẩm, phân khúc thị trường, thúc đẩy
tiêu thụ, xây dựng nhãn hiệu…tất cả đều cần hoạt động xúc tiến.
Những lợi ích của xúc tiến:
Xây dựng hình ảnh cho công ty và sản phẩm.
Thông tin về những đặc trưng của sản phẩm.
Xây dựng nhận thức về sản phẩm mới.
Quảng bá sản phẩm hiện có.
Tái định vị hình ảnh hoặc công dụng của những sản phẩm bán chậm hay
bão hòa.
Tạo sự hăng hái cho các thành viên phân phối.
Giới thiệu các điểm bán.
Thuyết phục khách hàng thay đổi sản phẩm.
Thúc đẩy khách hàng mua.
Chứng minh sự hợp lý của giá bán.
Giải đáp thắc mắc của khách hàng.
Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng.
Cung cấp dịch vụ sau khi bán cho khách hàng.
Duy trì sự trung thành nhãn hiệu.
Tạo thế thuận lợi cho công ty so với đối thủ.
1.3. Đặc trưng của một số công cụ xúc tiến
125
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
1.4. Một số yếu tố ảnh hưởng đến hỗn hợp xúc tiến
a. Loại sản phẩm Thị trường
Hiệu quả của công cụ xúc tiến tùy thuộc thị trường là hàng tiêu dùng hay
hàng công nghiệp.
Với hàng tiêu dùng : Quảng cáo > Khuyến mãi > Bán hàng trực tiếp >
Tuyên truyền
Với hàng công nghiệp : Bán hàng trực tiếp > Khuyến mãi > Quảng cáo >
Tuyên truyền
b. Sự sẵn sàng mua
126
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Khách hàng mục tiêu có thể ở một trong sáu giai đoạn của sự sẵn sàng
mua, đó là: nhận biết, hiểu rõ, thích, ưa chuộng, tin tưởng và mua. Các giai
đoạn này gọi là hệ thống hiệu ứng (Hierarchy of Effects) thể hiện tiến trình
người mua trải qua để đi đến một quyết định mua
Nhận biết: công việc người bán là làm cho người mua biết sự tồn tại của
sản phẩm hay nhãn hiệu. Mục tiêu là tạo sự quen thuộc về sản phẩm, tên sản
phẩm. Trong một thị trường có nhiều nhãn hiệu cạnh tranh, những mẫu
quảng cáo khác lạ có thể tạo ra mức độ nhận biết cao về nhãn hiệu ngay cả
trước khi khách hàng thấy sản phẩm.
Hiểu rõ: dựa trên sự nhận biết để tìm hiểu đặc điểm của sản phẩm.
Khách hàng có thể nhầm lẫn sản phẩm của các công ty trong cùng một ngành.
Công ty cần phát triển một chiến dịch thông tin để gia tăng sự hiểu biết của
khách hàng về hững cải tiến, đổi mới, khác biệt của sản phẩm. Trong hai giai
đoạn trên, quảng cáo và quan hệ công chúng giữ vai trò chính yếu để thông tin
trên thị trường.
Thích: thể hiện sự thiện cảm của thị trường đối với một sản phẩm hay
một nhãn hiệu. Xúc tiến được sử dụng để làm những đối tượng có hiểu biết
đi từ sự thờ ơ đến sự quan tâm về một nhãn hiệu. Một kỹ thuật chung
thường dùng là kết hợp sản phẩm với một biểu tượng hay một con người
hấp dẫn để đề cao giá trị cung cấp.
127
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Ưa chuộng: làm cho nhãn hiệu nổi bật để thị trường ưa thích hơn. Người
mua quan tâm nhiều nhãn hiệu của cùng một loại sản phẩm nhưng vẫn quyết
định mua cho đến khi có sự ưa thích một nhãn hiệu nào đó hơn những nhãn
hiệu khác. Xúc tiến có thể hướng khách hàng đến sự so sánh sản phẩm của
doanh nghiệp với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh để tạo ra sự ưa thích nhãn
hiệu hơn.
Tin tưởng: là giai đoạn quan trọng để có quyết định mua. Mục tiêu của
xúc tiến lúc này là gia tăng mong muốn thỏa mãn nhu cầu của người mua.
Việc sử dụng thử và cảm nhận về lợi ích sản phẩm sẽ rất hiệu quả trong
việc thuyết phục khách hàng sở hữu sản phẩm. Bên cạnh quảng cáo, bán
hàng trực tiếp có thể làm khách hàng thích, ưa chuộng và tin tưởng sản phẩm
hơn.
Mua: quyết định mua có thể bị chậm trễ hay trì hoãn không thời hạn ngay
cả đối với những người tin rằng họ nên mua sản phẩm. Những người này bị
kìm hãm vì những yếu tố tình huống như không đủ tiền vào lúc đó hay do bản
năng phản kháng. Khuyến mãi qua hình thức giảm giá, thưởng...để đối phó
tình trạng này
c. Giai đoạn hiện tại của chu kỳ sống sản phẩm
128
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
d. Sự lựa chọn chiến lược đẩy hay kéo
Nhà sản xuất có thể hướng các nỗ lực xúc tiến vào cả trung gian phân phối
và người sử dụng cuối cùng. Một chương trình xúc tiến chủ yếu hưởng đến
các trung gian được gọi là chiến lược đẩy. Một chương trình xúc tiến tập
trung vào người sử dụng cuối cùng gọi là chiến lược kéo.
129
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Trong chiến lược đẩy, nhà sản xuất hướng các hoạt động xúc tiến chủ yếu
vào các nhà phân phối để tạo liên hệ trước trong kênh phân phối. Sản phẩm
được “đẩy” ra thị trường thông qua các kênh phân phối. Nhà sản xuất xúc tiến
mạnh đến các trung gian phân phối để thúc đẩy họ mua sản phẩm và tiếp tục
xúc tiến để bán đến người tiêu dùng. Chiến lược đẩy thường tập trung vào
bán hàng cá nhân và khuyến mãi cho các trung gian, kể cả nhân viên bán hàng.
Chiến lược đẩy có xu hướng được sử dụng ngày càng nhiều hơn khi cung
trên thị trường ngày càng lớn. Với chiến lược kéo, các hoạt động xúc tiến
hướng đến người tiêu dùng cuối cùng. Người tiêu dùng sẽ yêu cầu sản phẩm
từ các nhà phân phối và những người này sẽ đặt hàng lại nhà sản xuất. Như
vậy, những hoạt động xúc tiến trong chiến lược “kéo” sản phẩm thông qua
các kênh phân phối. Chiến lược này sử dụng nhiều quảng cáo và khuyến mãi
cho người tiêu dùng. Trong thực tế, một số công ty sử dụng một trong hai
chiến lược đó những một số khác lại sử dụng kết hợp cả hai.
2. Kinh phí dành cho xúc tiến
2.1. Xác định theo phần trăm trên doanh thu
Số tiền chi cho xúc tiến có thể được xây dựng dựa vào một tỷ lệ phần
trăm trên doanh thu dự kiến trong thời kỳ đó. Nhưng cũng có những doanh
nghiệp xác định khoản tiền cho xúc tiến theo giá bán từng đơn vị sản phẩm,
rồi từ đó tính tổng để suy ra ngân sách xúc tiến.
2.2. Xác định theo khả năng tài chính
Ngân sách dành cho xúc tiến được xác định là một khoản tiền nhất định
dựa trên khả năng tài chính của công ty. Thường công ty sử dụng phương
pháp này khi làm ăn có lãi.
2.3. Xác định theo cạnh tranh
Số tiền dành cho hoạt động xúc tiến có thể được quyết định dựa trên ngân
sách xúc tiến của các đối thủ cạnh tranh chủ yếu.
2.4. Xác định theo mục tiêu và nhiệm vụ thực hiện
130
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Doanh nghiệp sẽ xác định các mục tiêu và những hoạt động xúc tiến cần
thực hiện để đạt được những mục tiêu này. Sau đó, dự tính các chi phí phát
sinh do thực hiện các công việc ấy. Tổng các chi phí này là ngân sách xúc
tiến.
3. Các thành phần trong hỗn hợp xúc tiến
3.1. Quảng cáo
a. Khái niệm và bản chất của quảng cáo
Quảng cáo là việc sử dụng các phương tiện thông tin để truyền đạt tin tức
về chất lượng hay ưu điểm của sản phẩm đến khách hàng. Để thực hiện
được việc này, các doanh nghiệp phải chi ra một khoản tiền nhất định.
Do quảng cáo có nhiều hình thức và cách sử dụng khác nhau nên khó khái
quát hóa những đặc trưng khác biệt so với những thành phần khác trong hỗn
hợp xúc tiến.
Về bản chất, quảng cáo có những điểm cần lưu ý:
Sự trình bày mang tính đại chúng ( Public presentation): Quảng cáo là cách
truyền đạt thông tin công khai về sản phẩm một cách chuẩn hóa và hợp pháp.
Do có nhiều người tiếp nhận quảng cáo nên người bán biết rằng nhờ nó
người mua có thể đã hiểu biết và chấp nhận sản phẩm.
Sự lan tỏa (Pervasiveness): quảng cáo là cách làm thông tin tràn ngập.
Quảng cáo giúp người bán lặp lại thông điệp nhiều lần giúp người mua nhận
và so sánh thông điệp của các hãng khác nhau để lựa chọn. Quy mô quảng cáo
lớn thể hiện một cách tích cực về tầm cỡ, danh tiếng và sự thành công của
doanh nghiệp.
Diễn đạt có tính khuếch đại (Amplified Expressiveness): quảng cáo cung
cấp cơ hội tạo kịch tính trong sự trình bày sản phẩm và công ty qua việc sử
dụng khéo léo yếu tố hình ảnh, âm thanh, màu sắc.... Tuy nhiên, lạm dụng các
yếu tố này có thể làm loãng, rối thông điệp.
131
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Tính vô cảm (Impersonality): Quảng cáo không thúc ép mùa như lực lượng
bán hàng. Khán thính giả không bắt buộc chú ý hay đáp ứng. Quảng cáo chỉ là
một hình thức độc thoại, không phải là đối thoại với khách hàng. Nói cách
khác, quảng cáo được sử dụng để xây dựng hình ảnh sản phẩm trong dài
hạn, không tác động nhanh đến mức bán. Quảng cáo là một phương tiện hiệu
quả để thông tin đến nhiều người mua phân tán với chi phí bình quân thấp.
Quảng cáo có thể ảnh hưởng đến mức bán thông qua cách trình bày. Khách
hàng thường tin rằng những nhãn hiệu được quảng cáo mạnh phải có giá trị
tốt.
b. Mục tiêu của quảng cáo
Mục tiêu của quảng cáo là giới thiệu một sản phẩm hay dịch vụ nào đó
nhằm ảnh hưởng đến các tập tính của công chúng, đặc biệt là khách hàng
mục tiêu. Mục tiêu của quảng cáo phải tùy thuộc vào những quyết định trước
đó về thị trường mục tiêu, về định vị và về Marketing Mix. Những chiến lược
định vị và Marketing mix xác định công việc quảng cáo phải làm trong toàn bộ
chương trình Marketing.
Mục tiêu của quảng cáo có thể phân thành hai nhóm:
Nhóm hướng đến số cầu (DemandOriented)
Nhóm hướng đến hình ảnh
Những quảng cáo theo mục tiêu này thường kết hợp với hoạt động quan hệ
công chúng nhằm giúp họ biết đến hình ảnh của ngành, của doanh nghiệp và
của thương hiệu.
c. Phương tiện quảng cáo
Hiện nay, các doanh nghiệp có thể quảng cáo trên rất nhiều phương tiện.
Những phương tiện này có thể phân chia thành các nhóm sau:
Nhóm phương tiện in ấn như báo chí, tạp chí, ấn phẩm thương mại...Đây
là những phương tiện đã có khá lâu vfa được sử dụng phổ biến từ trước đến
nay.
132
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Nhóm phương tiện điện tử như truyền thanh, truyền hình, phim,
internet...Những phương tiện này bắt đầu xuất hiện từ giữa thế kỷ 20 và
nhanh chóng trở thành những phương tiện quảng cáo có hiệu quả.
Nhóm phương tiện ngoài trời, ngoài đường như pano, áp phích, bảng
hiệu... Có nguồn gốc từ thời cổ đại và vẫn được sử dụng phổ biến hiện nay.
Nhóm phương tiện quảng cáo trực tiếp như thư trực tiếp, điện thoại...
Nhóm các phương tiện khác như quảng cáo trên các trên các vật phẩm...
Khi lựa chọn phương tiện quảng cáo, doanh nghiệp cần chú ý các tham số
sau:
Phạm vi: chỉ số lượng người xem, nghe, đọc quảng cáo trên một phương
tiện trong thị trường mục tiêu. Đối với tivi và radio, tham số này chỉ lượng
người xem hoặc nghe quảng cáo
Tần suất: số lần quảng cáo xuất hiện trên một phương tiện
Tác động: Bộ phận quảng cáo cũng phải quyết định mức tác động mà
quảng cáo phải có được mỗi khi đến được với khách hàng.
3.2. Tuyên truyền và quan hệ công chúng
a. Tuyên truyền:
Tuyên truyền là hình thức truyền thông không mang tính cá nhân cho một
sản phẩm hay cho một doanh nghiệp bằng cách đưa các tin tức có ý nghĩa
thương mại về chúng trên các phương tiện thông tin mà không phải trả tiền
Các hình thức tuyên truyền gồm có: viết bài giới thiệu sản phẩm hay doanh
nghiệp đăng trên các báo,........
Đặc điểm của tuyên truyền:
Ít tốn kém
Độ tin cậy cao
Nhiều độc giả hơn
Nhiều thông tin hơn.
Kịp thời
133
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Khó điều khiển
Số lần đưa tin có giới hạn
b. Quan hệ công chúng
Đây là những hoạt động truyền thông để xây dựng và bảo vệ danh tiếng
của công ty, sản phẩm trước các giới công chúng. Hiện nay thường gọi tắt là
PR. Đối tượng nhận các thông điệp PR là các giới công chúng bao gồm: giới
tiêu thụ, các nhà đầu tư, chính phủ, các báo đài, các thành viên phân phối, nhân
viên và những nhóm công chúng khác.
Đặc trưng của PR:
Sự tin cậy cao
Làm mất sự phòng thủ của khách hàng
Kịch tính hóa
Mục tiêu của quan hệ công chúng
Đạt được những vị trí và thời điểm tốt trên các phương tiện cho các thông
cáo báo chí và diễn giả của công ty.
Truyền thông những báo cáo về thành quả hoạt động của công ty
Đạt được vị trí cần thiết cho công ty khi nổ ra những cuộc tranh luận, bút
chiến.
Kết hợp hoạt động xã hội với quảng cáo.
Giành nhiều phương tiện tường thuật hơn cạnh tranh
Vươn tới nhiều nhiều nhóm phương tiện.
Xây dựng thiện cảm của công chúng với sản phẩm, công ty và với ngành
Một số hình thức hoạt động của quan hệ công chúng
Quan hệ báo chí: Cung cấp những thông tin có giá trị cho các phương tiện
để lôi kéo sự chú ý về sản phẩm, về công ty,...
Tuyên truyền sản phẩm: Công bố rộng rãi các thông tin để giới thiệu sản
phẩm mới, sự cải tiến sản phẩm, những đặc tính của sản phẩm.
134
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Truyền thông của công ty: Là những hoạt động truyền thông bên trong lẫn
bên ngoài nhằm phát triển sự hiểu biết về công ty.
Vận động hành lang: Là công việc vận động các cơ quan lập pháp, quản
lý nhà nước, các nhà chính trị để thúc đẩy hoặc hạn chế một số quy định hay
đạo luật
Tư vấn: Tư vấn cho các nhà quản trị trong lĩnh vực, phát ngôn và những
vấn đề nâng cao vị trí và hình ảnh công ty
Một số công cụ chủ yếu của quan hệ công chúng
Xuất bản phẩm: Bao gồm các tư liệu như báo cáo hàng năm, những cuốn
sách nhỏ, những bài báo, những tư liệu nghe nhìn, bản tin của công ty và các
tạp chí
Tổ chức sự kiện: Tổ chức các buổi lễ khai trương, động thổ, khánh
thành, kỷ niệm...
Tài trợ: tài trợ từ thiện, tài trợ thương mại,...
Tin tức: đây là các tin tức về công ty, sản phẩm và con người của công ty
đó.
Bài nói chuyện: Giám đốc công ty có thể trình bày về tình hình hoạt động
doanh nghiệp và trả lời thắc mắc của các khách hàng trong các cuộc hội nghị.
Hoạt động công ích: Các công ty có thể nâng cao uy tín của mình bằng
cách đóng góp tiền bạc và thời gian cho những sự nghiệp công ích một cách
thích đáng
Phương tiện nhận dạng: đó là những phương tiện dùng trong kinh doanh
như logo, bảng hiệu, áo quần đồng phục, văn phòng phẩm.
3.3. Khuyến mãi
a. Khái niệm
Khuyến mãi là những khích lệ ngắn hạn để khuyến khích việc mua một
sản phẩm vật chất hay một dịch vụ.
135
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Mặc dù khuyến mãi có nhiều công cụ khác nhau nhưng chúng có ba đặc
trưng
Truyền thông: Khuyến mãi gây sự chú ý và cung cấp những thông tin dẫn
người tiêu thụ đến sản phẩm.
Kích thích: khuyến mãi dùng những công cụ thúc đẩy, động viên, gia tăng
lợi ích để thuyết phục khách hàng mua ngay. Quảng cáo đưa ra lý do để mua
còn khuyến mãi tạo ra sự kích thích để mua
Chào mời: khuyến mãi như một lời mời chào thúc giục khách hàng mua
ngay sản phẩm.
Doanh nghiệp sử dụng khuyến mãi là công cụ để tạo ra phản ứng mua
nhanh và mạnh hơn. Khuyến mãi có thể được sử dụng để sản phẩm được
chú ý và nâng cao mức bán đang giảm sút. Khuyến mãi có hiệu quả trong
ngắn hạn, tuy nhiên không hiệu quả khi xây dựng sự ưa thích nhãn hiệu lâu
dài.
b. Mục tiêu của khuyến mãi
Mục tiêu của khuyến mãi đến trung gian phân phối
Tăng mức mua bán sản phẩm và dự trữ của nhà phân phối
Khuyến khích mua vào thời điểm vắng khách.
Đạt nhiều diện tích trưng bày và vị trí tốt hơn.
Gia tăng nhiệt tình bán hàng.
Tăng cường phân phối sản phẩm.
Khuyến khích ủng hộ sản phẩm mới, kiểu dáng mới.
Mục tiêu khuyến mãi đến người sử dụng
Khuyến khích mua nhiều sản phẩm
Động viên sử dụng thử sản phẩm.
Lôi kéo khách hàng từ nhãn hiệu cạnh tranh
Gia tăng sự nhận thức nhãn hiệu sản phẩm
Khuyến khích mua lại sản phẩm.
136
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Thôi thúc mua sắm bốc đồng.
Công cụ khuyến mãi
Hiện nay, các công cụ khuyến mãi rất đa dạng. Tùy theo đối tượng, mục
tiêu khuyến mãi, các doanh nghiệp lựa chọn các công cụ khác nhau.
3.4. Bán hàng cá nhân
Khái niệm
Bán hàng trực tiếp là sự giao tiếp mặt đối mặt của nhân viên bán hàng với
khách hàng tiềm năng để trình bày, giới thiệu và bán sản phẩm.
Mục tiêu của bán hàng trực tiếp
Các mục tiêu của bán hàng trực tiếp được trình bày trong bảng sau:
3.5. Marketing trực tiếp
Khái niệm
Marketing trực tiếp là việc sử dụng điện thoại, thư điện tử và những công
cụ tiếp xúc khác (không phải là người) để giao tiếp và dẫn dụ một đáp ứng
từ những khách hàng riêng biệt hoặc tiềm năng.
137
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Hầu hết các công ty chủ yếu dựa vào quảng cáo, khuyến mãi và bán hàng
cá nhân. Họ sử dụng quảng cáo, quan hệ công chúng để tạo nhận thức, quan
tâm và sự ưa thích,khuyến mãi để kích thích mua và bán hàng cá nhân để tiếp
cận bán. Marketing trực tiếp là để dẫn đến bán hàng trực tiếp không qua trung
gian.
Lợi ích của Marketing trực tiếp
Hiện nay, do sự phát triển của các phương tiện thông tin liên lạc, các doanh
nghiệp có thể sử dụng nhiều cách thức để giao dịch trực tiếp với khách hàng.
Các nhà sản xuất, nhà bán lẻ, công ty dịch vụ, công ty bán hàng qua catalog và
cả các tổ chức phi lợi nhuận đều sử dụng Marketing trực tiếp. Marketing trực
tiếp mang đến nhiều lợi ích cho người tiêu thụ. Những người đặt hàng qua
thư điện tử thì vui, tiện lợi và không bị quấy rối (phiền nhiễu). Cách thức này
tiết kiệm thời gian. Họ có thể lựa chọn tại nhà qua những catalog giới thiệu
về hàng hóa và những cách sống mới. Họ có thể nhận quà mà không cần rời
nhà. Những khách hàng công nghiệp cũng có nhiều thuận lợi. Họ có thể hiểu
biết nhiều sản phẩm và dịch vụ mà không cần tốn thời gian gặp nhân viên
bán hàng.
Marketing trực tiếp cũng cung cấp lợi ích cho người bán:
Cách thức này có thể lựa chọn nhiều khách hàng tiềm năng tốt hơn.
Thông điệp bán được cá nhân hóa và khách hàng hóa.
Marketing trực tiếp có thể xây dựng những quan hệ liên tục với mỗi
khách hàng.
Có thể đến khách hàng tiềm năng vào những thời điểm thích hợp và được
tiếp nhận nhiều hơn.
Qua Marketing trực tiếp có thể thử nghiệm những thay đổi về cách quảng
cáo, tiêu đề, giá, lợi ích....
Đối thủ cạnh tranh không xem được những chiến lược của công ty dành
riêng cho khách hàng
Đánh giá được hiệu quả vì có thể đo lường phản ứng của khách hàng.
138
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Mục tiêu của Marketing trực tiếp
Mục tiêu của Marketing trực tiếp muốn đạt được là làm khách hàng tiềm
năng mua ngay. Sự thành công của một chiến dịch thể hiện qua tỉ lệ đáp ứng
(response rate).
Ngoài ra, Marketing trực tiếp còn có những mục tiêu sau:
Tác động đến nhận thức và dự định mua sau đó của khách hàng .
Tạo cơ hội cho nhân viên bán hàng.
Gửi những thông điệp nhấn mạnh đến hình ảnh và sự ưa thích công ty.
Thông tin và hướng dẫn khách hàng để chuẩn bị cho lần mua sau.
Một số hình thức của Marketing trực tiếp
Marketing qua catalog (Catalog marketing): Nhiều công ty dùng hình thức
bán hàng qua thư điện tử sau khi họ phát hành ra catalog. Nội dung của catalog
có thể bổ sung thông tin chi tiết về đặc trưng của catalog, về sản phẩm, bộ
sưu tập hàng mẫu, số hotline để giải đáp thắc mắc, quà tặng, giảm giá......
Marketing qua thư điện tử trực tiếp (DirectMail Marketing): trong đó có
thư, mẫu quảng cáo nhỏ, phim, số điện thoại miễn phí.....
Marketing từ xa qua điện thoại, thư (telemarketing): là một công cụ quan
trọng trong Marketing trực tiếp và được sử dụng ngày càng nhiều.
Marketing trực tiếp trên các kênh truyền hình, truyền thanh, báo chí và tạp
chí.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Câu 7.1:
Công ty Bia Hà Thành có kinh nghiệm trên 100 năm sản xuất các loại bia
chai, bia lon cung cấp chủ yếu cho thị trường Hà Nội và các tỉnh phía bắc với
thị phần khoảng 30%. Bia Hà Thành có vị thơm, mát đặc trưng và thường có
độ cồn nhẹ (từ 3 – 5% cồn). Trên thị trường hiện đang phổ biến các nhãn
hiệu bia nổi tiếng như Heineken, Tiger, Carlsberg, Foster, Halida, Sài Gòn,
139
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
Anchor và một số nhãn hiệu bia địa phương khác. Tất cả các sản phẩm bia
hiện tại trên thị trường đều dành cho nam giới với độ cồn từ 4,5 đến 5%.
Công ty Bia Hà Thành nhận thấy rằng phụ nữ có xu thế tiêu dùng bia ngày
càng tăng và sở thích của họ là những loại bia nhẹ, thơm, đây lại là thế mạnh
của Công ty. Công ty quyết định phát triển sản phẩm bia mới có độ cồn nhẹ
dành cho phụ nữ thành thị.
Câu hỏi:
1. Đề xuất ý tưởng định vị cho sản phẩm mới này? Từ ý tưởng định vị trên
đưa ra ba ý tưởng cho thông điệp quảng cáo (cần phân tích chủ đề của ý
tưởng)?
2. Theo bạn phương tiện quảng cáo nào là phù hợp nhất để truyền tải
thông điệp quảng cáo đến khách hàng mục tiêu? Giải thích lựa chọn đó?
140
BM/QT10/P.ĐTSV/04/04
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Nguyễn Văn Hùng (Chủ biên), Marketing căn bản, NXB Kinh tế TP
Hồ Chí Minh, 2013.
2. Th.S. Đinh Tiến Minh, Giáo trình Marketing căn bản, NXB Lao động,
2014.
3. Jack Trout, Al Ries, The 22 Immutable Laws of Marketing, NXB Hồng
Đức, 2017.
4. Allan Dib, Kế hoạch Marketing trên một – trang – giấy, NXB Lao Động
Xã Hội, 2019.
141