You are on page 1of 20

BT1 : Tìm hiểu về thành phần động của tải gió và tổ hợp SRSS , giải

thích
BT2 : Tìm hiểu về tải dộng đất , SRSS
BT3 : Lập sơ đồ mind map về nguyên lý TKKC

Bài tập 1:

TIÊU CHUẨN XÂY DỰNG TCXD 229:1999


CHỈ DẪN TÍNH TOÁN THÀNH PHẦN ĐỘNG CỦA TẢI TRỌNG
GIÓ THEO TIÊU CHUẨN TCVN 2737:1995

Phạm vi áp dụng


Chỉ dẫn này dùng để tính toán thành phần động của tải trọng gió tác
dụng lên các kết cấu,

nền móng, nhà và công trình theo tiêu chuẩn tải trọng và tác động TCVN
2737 : 1995.

Thành phần động của tải trọng gió phải được kể đến khi tính toán các
công trình tháp, trụ, ống khói, cột điện, thiết bị dạng cột, hành lang băng
tải, các giàn giá lộ thiên..., các nhà nhiều tầng cao hơn 40 mét, các
khung ngang nhà công nghiệp một tầng một nhịp có độ cao trên 36 mét
và tỉ số độ cao trên nhịp lớn hơn 1,5.

Đối với công trình cao và kết cấu mềm (ống khói, trụ, tháp,...) còn phải
tiến hành kiểm tra mất ổn định khí động. Việc kiểm tra có thể tham khảo
phần phụ lục C của chỉ dẫn này.

Đối với các công trình đặc thù thuộc các ngành: giao thông, thủy lợi,
điện lực, bưu điện... cần chú ý đến các yêu cầu tính toán riêng cho phù
hợp với đặc tính của từng loại công trình.

Nguyên tắc cơ bản :

Thành phần động của tải trọng gió được xác định theo các phương tương
ứng với phương tính toán thành phần tĩnh của tải trọng gió.
Thành phần động của tải trọng gió tác động lên công trình là lực do xung
của vận tốc gió và lực quán tính của công trình gây ra. Giá trị của lực
này được xác định trên cơ sở thành phần tĩnh của tải trọng gió nhân với
các hệ số có kể đến ảnh hưởng của xung vận tốc gió và lực quán tính của
công trình.

Việc tính toán công trình chịu tác dụng của động lực của tải trọng gió
bao gồm: Xác định thành phần động của tải trọng gió và phản ứng của
công trình do thành phần động của tải trọng gió gây ra ứng với từng
dạng dao động.

Trình tự các bước tính toán xác định thành phần động của tải trọng
gió

• Xác định xem công trình có thuộc phạm vi phải tính thành phần
động và phải kiểm tra mất ổn định khí động học theo các điều 1.2
và 1.3 trong chỉ dẫn.
• Thiết lập sơ đồ tính toán động lực
• Sơ đồ tính toán được chọn là hệ thanh công xôn có hữu hạn điểm
tập trung khối lượng
• Chia công trình thành n phần sao cho mỗi phần có độ cứng và áp
lực gió lên bề mặt công trình có thể coi như không đổi.
• Vị trí của các điểm tập trung khối lượng đặt tương ứng với cao
trình trọng tâm của các kết cấu truyền tải trọng ngang của công
trình (sàn nhà, mặt bằng bố trí giằng ngang, sàn thao tác), hoặc
trọng tâm của các kết cấu, các thiết bị cố định, các vật liệu chứa
thường xuyên (nước trong các bầu đài của các tháp nước...).
• Xác định giá trị tiêu chuẩn thành phần động của tải trọng gió tác
dụng lên các phần tính toán của công trình, khi chỉ kể đến ảnh
hưởng của xung vận tốc gió.
• Xác định hệ số áp lực động và hệ số tương quan không gian đối
với các phần tính toán của công trình theo bảng 3, bảng 4 và bảng
5.
• Xác định giá trị tiêu chuẩn thành phần động của tải trọng gió tác
dụng lên các phần tính toán của công trình, khi chỉ kể đến ảnh
hưởng của xung vận tốc gió theo điều 4.2.
• Xác định giá trị tiêu chuẩn và giá trị tính toán của thành phần
động tải trọng gió lên các phần tính toán của công trình.
• Xác định tần số và dạng dao động
• Xác định tần số dao động thứ nhất f1 (Hz) của công trình. Có thể
vận dụng các công thức trong phụ lục B, các điều từ B.1 đến B.3.
• So sánh tần số f1 với tần số giới hạn fL trong bảng 2. Nếu f1 > fL
thì giá trị tiêu chuẩn thành phần động của tải trọng gió lên các phần
công trình được xác định theo điều 4.2. Nếu tần số f1 < fL thì giá
trị tiêu chuẩn thành phần động của tải trọng gió được xác định theo
điều từ 4.3 đến 4.8.
• Xác định giá trị tính toán thành phần động của tải trọng gió lên các
phần tính toán của công trình theo điều 4.9.
• Tổ hợp nội lực và chuyển vị của công trình do thành phần tĩnh và
động của tải trọng gió gây ra theo điều 4.12.

Xác định thành phần động của tải trọng gió theo TCVN 2737 : 1995.

Tùy thuộc mức độ nhạy cảm của công trình đối với tác dụng động lực
của tải trọng gió mà thành phần động của tải trọng gió chỉ cần kể tác
động do thành phần xung của vận tốc gió hoặc cả với lực quán tính của
công trình.

Mức độ nhạy cảm được đánh giá qua tương quan giữa giá trị các tần số
dao động riêng cơ bản của công trình, đặt biệt là tần số dao động riêng
thứ nhất, với tần số giới hạn fL có trong bảng 2. Các giá trị cho trong
bảng này lấy theo TCVN 2737 : 1995.

Đối với công trình và các bộ phận kết cấu có tần số dao động cơ bản f1
(Hz) lớn hơn giá trị giới hạn của tần số dao động riêng fL quy định trong
điều 4.1, thành phần dao động của tải trọng gió chỉ cần kể đến tác dụng
của xung vận tốc gió. Khi đó giá trị tiêu chuẩn thành phần động của áp
lực gió Wpj tác dụng lên phần thứ j của công trình được xác định theo
công thức:

Wpj = Wj ζjv (4.1)

Trong đó:

Wpj – áp lực, đơn vị tính toán là daN/m2 hoặc kN/m2 tùy theo đơn vị
tính toán của Wj ;

Wj – là giá trị tiêu chuẩn thành phần tĩnh của áp lực gió, tác dụng lên
phần thứ j của công trình, xác định theo điều 4.10 ;

ζj – là hệ số áp lực động của tải trọng gió, ở độ cao tương ứng với phần
thứ j của công trình, không thứ nguyên. Các giá trị của ζj lấy theo TCVN
2737 : 1995 và được cho trong bảng 3.

v – hệ số tương quan không gian áp lực động của tải trọng gió ứng với
các dạng dao động khác nhau của công trình, không thứ nguyên. Trong
công thức (4.1), v được lấy bằng v1. Nếu bề mặt đón gió của công trình
có dạng chữ nhật định hướng song song với các trục cơ bản trong hình 1
thì các giá trị của v1 lấy theo bảng 4, trong đó các tham số p và % xác
định theo bảng 5, giá trị của v ứng với dạng dao động thứ 2 và thứ 3 là
v2 = v3 = 1. Các giá trị trong bảng 4 và bảng 5 lấy theo TCVN 2737 :
1995.

Giá trị tiêu chuẩn phần động của tải trọng gió tác dụng lên phần thứ j
ứng với dạng dao động thứ i được xác định theo công thức :

Trong đó :
Wp(ji) - lực, đơn vị tính toán thường lấy là daN hoặc kN tùy theo đơn vị
tính toán của W trong
công thức tính hệ số ψi ;
Mj – khối lượng tập trung của phần công trình thứ j, (t) ;

ξi – hệ số động lực ứng với dạng dao động thứ i, không thứ nguyên, phụ
thuộc và thông số ε1 và độ giảm lôga của dao động :

Trong đó :
y – hệ số độ tin cậy của tải trọng gió, lấy bằng 1,2 ; Wn – giá trị của áp
lực gió (N/m2) ;
fi – tần số dao động riêng thứ i (Hz).

Tùy thuộc mức độ nhạy cảm của công trình đối với tác dụng động lực
của tải trọng gió mà thành phần động của tải trọng gió chỉ cần kể tác
động do thành phần xung của vận tốc gió hoặc cả với lực quán tính của
công trình.

Phản ứng của công trình và thành phần động của tải trọng gió :

Phương trình vi phân tổng quát mô tả dao động của thanh công xôn có
hữu hạn bậc tự do, khi bỏ

qua trọng lượng của thanh:


Trong đó :
[M], [C], [K] – là ma trận khối lượng, ma trận cản, và ma trận độ cứng
của hệ

..., U - là véc tơ gia tốc, vận tốc và dịch chuyển của những tọa độ xác
định bậc tự do của hệ W’(τ) – là véc tơ lực kích động đặt tại các tọa độ
tương ứng.

Dùng phép biến đổi :


u = [φ]p (A.2)

Phương trình (A.1), với những điều kiện : [M] là ma trận đường chéo :
[C] và [K] là các ma trận đối xứng xác định dương thì có thể đưa về hệ
phương trình vi phân độc lập :

với yi, là tỉ lệ cản của kết cấu ứng với dạng dao động thứ i ;
Tổ hợp SRSS

Tổ hợp SRSS (căn của tổng bình phương các thành phần) được sử dụng
để xác định hệ quả tác động của các trường hợp tải trọng có xét đến sự
tham gia của nhiều dạng dao động như thành phần dộng của tải trọng gió
hoặc tải trọng động đất.

TCXD 229:1999 (Chỉ dẫn xác định thành phần động của tải trọng gió)
mục 4.12 Quy định: Nội lực và chuyển vị gây ra do thành phần động
của tải trọng gió được xác định theo quy tắc SRSS

TCVN 9386:2012 (Thiết kế công trình chịu động đất) mục 4.3.3.3.2(2)
quy định Hệ quả tác động được xác định theo quy tắc SRSS. Hệ quả tác
động ở đây chính là nội lực và chuyển vị.
Tuy nhiên, gần đây, số lượng các công trình cao tầng càng lớn, và số
lượng các kỹ sư tham gia thiết kế nhà cao tầng càng lớn, và một số
lượng lớn các kỹ sư đang sử dụng một hình thức khác để xác định hệ
quả tác động của các tải trọng trên, đó chính là sử dụng quy tắc SRSS để
tổ hợp tải trọng; tức là tính toán tổ hợp thành 1 tải trọng thành phần
động của tải trọng gió từ các dạng dao động, sau đó gán vào mô hình và
xác định nội lực.
Nguyên nhân chủ yếu của cách làm trên chính là việc giảm thời gian
phân tích, và giảm mức độ phức tạp của các trườn hợp tổ hợp trong mô
hình của công trình có nhiều tháp. Vì chúng ta đều biết rằng thời gian
phân tích nội lực của Etabs phụ thuộc số lượng trường hợp tải trọng.
Càng nhiều trường hợp tải trọng thì thời gian phân tích càng lâu; và do
đó, nếu tổng hợp thành 1 tải trọng gió động duy nhất thì thời gian phân
tích sẽ ngắn hơn so với việc khai báo nhiều trường hợp tải trọng gió ứng
với các Mode dao động.

Giả thiết sơ đồ (A1) và (A2) là các trường hợp tải trọng ứng với 2 dạng
dao động khác nhau của công trình; sơ đồ (B) là sơ đồ tải trọng được xác
định theo quy tắc tổ hợp SRSS của 2 trường hợp (A1) và (A2). Các số
liệu chỉ mang tính minh họa đơn giản.
Trong hình số 2 phía dưới, sơ đồ (M_A1) và (M_A2) là biểu đồ mô men
tương ứng của sơ đồ tải trọng (A1), (A2). Phía dưới mỗi sơ đồ này có bổ
sung thêm lực cắt đáy (Q) để làm rõ thêm giá trị so sánh.

Sơ đồ (M_SRSS) là sơ đồ nội lực xác định theo tổ hợp SRSS từ các sơ
đồ (M_A1) và (M_A2), đây chính là sơ đồ tuân thủ quy tắc được hướng
dẫn theo các tiêu chuẩn

Sơ đồ (M_B) là sơ đồ nội lực tương ứng với sơ đồ tải trọng (B).

Có thể dễ dàng nhận ra rằng về tổng thể (M_SRSS) và (M_B) có giá trị
sai khác nhau, về cả mô men và lực cắt đáy.

Cũng cần nói thêm rằng ví dụ trên chỉ là điển hình để cho thấy sự sai
khác trong các cách tổ hợp, chứ không phải là ví dụ để khẳng định tính
an toàn; cũng như mức độ sai khác của hai phương pháp khi áp dụng cho
các công trình thực tế.

Ví dụ đơn giản trên cho thấy sự sai khác giữa 2 phương pháp tổ hợp, và
có thể khẳng định rằng việc đơn giản hóa tính toán bằng cách tổ hợp tải
trọng sẽ mang đến kết quả sai khác so với quy định của các tiêu chuẩn.
Bài tập 2 : Tải trọng động đất
THEO TIÊU CHUẨN QUỐC GIA TCVN 9386:2012 THIẾT KẾ
CÔNG TRÌNH CHỊU ĐỘNG ĐẤT

Phạm vi áp dụng của tiêu chuẩn: Thiết kế công trình chịu động đất

Tiêu chuẩn này áp dụng để thiết kế nhà và công trình xây dựng
trong vùng có động đất. Mục đích của tiêu chuẩn này là để bảo đảm
trong trường hợp có động đất thì:

- Sinh mạng con người được bảo vệ;


- Các hư hỏng được hạn chế;
- Những công trình quan trọng có chức năng bảo vệ dân sự vẫn có thể
duy trì hoạt động.
Những công trình đặc biệt như nhà máy điện hạt nhân, công trình ngoài
khơi và các đập lớn nằm ngoài phạm vi quy định của tiêu chuẩn này.

Ngoài những điều khoản của các tiêu chuẩn khác có liên quan, tiêu
chuẩn thiết kế này chỉ bao gồm những điều khoản buộc phải tuân theo
khi thiết kế công trình trong vùng động đất. Tiêu chuẩn này bổ sung về
khía cạnh kháng chấn cho các tiêu chuẩn khác.

Những nguyên tắc cơ bản của thiết kế cơ sở trong vùng có động đất, vấn
đề nguy cơ động đất phải được xem xét ngay trong giai đoạn đầu của
việc thiết kế công trình, điều này cho phép tạo ra một hệ kết cấu thỏa
mãn những yêu cầu cơ bản đặt ra với chi phí có thể chấp nhận được.

Những nguyên tắc chỉ đạo trong thiết kế cơ sở:

- Tính đơn giản về kết cấu;

Tính đơn giản về kết cấu, đặc trưng bởi các đường truyền lực động đất
trực tiếp và rõ ràng, là một mục tiêu quan trọng vì sự mô hình hóa, sự
phân tích, định kích thước, cấu tạo và cách thi công công trình càng đơn
giản thì càng đỡ thiếu tin cậy. Vì thế việc dự đoán ứng xử kháng chấn
càng tin cậy hơn.
- Tính đều đặn, đối xứng và siêu tĩnh;

Tính đồng đều trong mặt bằng được đặc trưng bởi sự phân bố đều các
cấu kiện chịu lực cho phép truyền trực tiếp và nhanh chóng các lực quán
tính sinh ra bởi những khối lượng phân bố trong công trình. Nếu cần,
tính đồng đều có thể tạo ra bằng cách chia nhỏ công trình thành các đơn
nguyên độc lập về mặt động lực nhờ các khe kháng chấn.

Tính đồng đều theo mặt đứng của công trình cũng quan trọng, vì nó có
xu hướng loại trừ sự xuất hiện của các vùng nhạy cảm, tại đó sự tập
trung ứng suất hoặc yêu cầu có độ dẻo kết cấu lớn có thể sớm gây nên sự
sụp đổ.
Mối quan hệ chặt chẽ giữa sự phân bố khối lượng và sự phân bố độ bền
và độ cứng sẽ loại trừ được sự lệch tâm lớn giữa khối lượng và độ cứng.

Nếu cấu hình của ngôi nhà đối xứng hoặc gần đối xứng, phương pháp
thích hợp nhất để đạt tính đồng đều là bố trí các cấu kiện đối xứng và
phân bố chúng đồng đều trong mặt bằng.

Sử dụng các cấu kiện chịu lực được phân bố đều đặn sẽ làm tăng bậc
siêu tĩnh, cho phép phân bố lại nội lực một cách có lợi hơn và tiêu tán
năng lượng dàn trải trên toàn bộ công trình.
- Có độ cứng và độ bền theo cả hai phương;

(1)P Chuyển động động đất theo phương ngang diễn ra theo hai
phươngvuông góc và vì thế kết cấu công trình phải có khả năng chịu
được các tác động ngang theo bất kỳ phương nào.

(2) Để thỏa mãn (1)P, các cấu kiện chịu lực cần bố trí theo hai phương
vuông góc nhau trong mặt bằng, để bảo đảm các đặc trưng về độ cứng
và độ bền tương tự nhau theo cả hai phương chính.

(3) Việc lựa chọn các đặc trưng độ cứng của công trình, trong khi tìm
cách giảm thiểu các hệ quả của tác động động đất (có tính đến các đặc
trưng cụ thể của động đất tại địa điểm xây dựng) cũng cần hạn chế sự
phát triển các chuyển vị quá lớn có thể dẫn tới sự mất ổn định do những
hiệu ứng bậc hai hoặc do các hư hỏng nghiêm trọng.

- Có độ cứng và độ bền chống xoắn;

Ngoài độ cứng và độ bền theo phương ngang, kết cấu nhà cần có độ
cứng và độ bền chống xoắn phù hợp nhằm hạn chế sự phát triển của
những chuyển vị xoắn có xu hướng gây ra các ứng suất không đều trong
các cấu kiện chịu lực khác nhau. Nhằm mục đích đó, việc bố trí các cấu
kiện kháng chấn chính gần với chu vi của nhà là rất có lợi.

- Sàn tầng có ứng xử như tấm cứng;


Trong ngôi nhà, các sàn (kể cả sàn mái) đóng một vai trò rất quan trọng
trong sự làm việc tổng thể của kết cấu chịu động đất. Chúng làm việc
như những tấm cứng ngang, tiếp nhận và truyền các lực quán tính sang
hệ kết cấu thẳng đứng và bảo đảm cho các hệ thống này cùng nhau làm
việc khi chịu tác động động đất theo phương ngang. Tác động của sàn
như tấm cứng có tác dụng đặc biệt trong trường hợp hệ kết cấu thẳng
đứng là phức tạp và không đều đặn, hoặc trong trường hợp sử dụng đồng
thời các hệ kết cấu có các đặc trưng biến dạng theo phương ngang khác
nhau (ví dụ như trong hệ ghép hoặc hỗn hợp).

Các hệ sàn và mái cần có độ bền và độ cứng trong mặt phẳng, có sự liên
kết hiệu quả với các hệ kết cấu thẳng đứng. Đặc biệt cần quan tâm đến
các trường hợp có cấu hình rời rạc hoặc kéo rất dài trong mặt phẳng và
trường hợp có những lỗ mở lớn trên sàn, đặc biệt khi các lỗ mở này nằm
gần với các cấu kiện thẳng đứng chính làm giảm hiệu quả của mối nối
giữa kết cấu theo phương ngang và phương đứng.

Các tấm cứng cần có đủ độ cứng trong mặt phẳng để phân bố các lực
quán tính ngang tới hệ kết cấu thẳng đứng chịu tải phù hợp với những
giả thiết tính, đặc biệt khi có những thay đổi đáng kể về độ cứng hoặc có
phần nhô ra thụt vào của cấu kiện thẳng đứng phía trên và phía dưới tấm
cứng.

- Có móng thích hợp.

Đối với tác động động đất, việc thiết kế và thi công móng và sự liên kết
với kết cấu bên trên

phải bảo đảm toàn bộ công trình chịu kích động động đất đồng đều.

Đối với kết cấu bao gồm một số tường chịu lực rời rạc, có thể khác nhau
về độ cứng và chiều rộng, thường chọn hệ móng cứng, kiểu hộp hoặc
kiểu nhiều ngăn, gồm một bản đáy và một bản nắp.
Đối với nhà và công trình có những cấu kiện móng độc lập (móng đơn
hoặc móng cọc), nên dùng bản giằng móng hoặc dầm giằng móng liên
kết các cấu kiện này theo hai hướng chính tuân thủ các quy định của
5.4.1.2 của phần nền móng, tường chắn và các vấn đề địa kỹ thuật.

Để thiết kế chịu động đất, các kết cấu nhà được phân thành hai loại
đều đặn và không đều đặn.

Sự phân loại này có liên quan tới các vấn đề sau trong thiết kế chịu động
đất:
- Mô hình kết cấu, có thể dùng mô hình đơn giản hóa ở dạng phẳng
hoặc mô hình không gian.

- Phương pháp phân tích, có thể là phân tích phổ phản ứng đả được đơn
giản hóa (phương pháp phân tích tĩnh lực ngang tương đương) hoặc
phân tích dạng dao động.

- Giá trị của hệ số ứng xử q có thể lấy nhỏ hơn nếu kết cấu không đều
đặn theo chiều cao

Về phương diện các hệ quả của tính đều đặn của kết cấu trong phân tích
và thiết kế, các đặc trưng về tính đều đặn của nhà trong mặt bằng và theo
mặt đứng được xem xét độc lập

Các tiêu chí mô tả tính đều đặn theo mỗi phương ngang trong mặt bằng
và theo mặt đứng cho trong 4.2.3.2 và 4.2.3.3; các quy định liên quan tới
việc mô hình hóa và phân tích cho trong 4.3.

Các tiêu chí về tính đều đặn trong 4.2 3.2 và 4.2 3.3 nên được xem là
những điều kiện cần. Cần kiểm tra tính đều đặn được giả định của kết
cấu để đảm bảo nó không bị thay đổi bởi các đặc trưng khác chưa được
kể đến trong các tiêu chí đó

Đối với các nhà không đều đặn theo mặt đứng, giá trị suy giảm của hệ số
ứng xử được lấy bằng giá trị tham chiếu nhân với hệ số 0,8.
Các yêu cầu và tiêu chí

Các hệ quả của tính không đều đặn trong mặt bằng do khối xây chèn gây
ra phải được xét trong tính toán

Các hệ quả của tính không đều đặn theo chiều cao do khối xây chèn gây
ra phải được xét trong tính toán.

Cần xét tới tính rất thiếu tin cậy liên quan tới ứng xử của khối xây chèn
(ví dụ tính biến động các tính chất cơ học của chúng và sự liên kết giữa
chúng với khung bao quanh, khả năng sửa đổi chúng trong quá trình sử
dụng công trình, cũng như mức độ hư hỏng không đồng đều của chúng
khi chịu động đất).

Cần xét tới các hệ quả cục bộ bất lợi có thể có do tương tác giữa khung
với khối xây chèn

Kiểm tra an toàn

Để kiểm tra an toàn, cần xem xét các trạng thái giới hạn cần thiết

Đối với các nhà và công trình có mức độ quan trọng khác mức I (xem
Phụ lục E, Phần 1), việc kiểm tra cho trong 4.4.2 và 4.4.3 được xem là
thỏa mãn nếu thỏa mãn cả hai điều kiện sau:
Tổng lực cắt đáy do tình huống thiết kế chịu động đất được tính với hệ
số ứng xử bằng giá trị dùng cho kết cấu có độ tiêu tán thấp (xem
2.2.2(2)) là nhỏ hơn tổng lực cắt đáy do các tổ hợp tác động cần thiết
khác mà công trình được thiết kế trên cơ sở phân tích đàn hồi tuyến tính.
Yêu cầu này áp dụng cho lực cắt tác động lên toàn bộ kết cấu tại đáy của
công trình (móng hoặc đỉnh của phần cứng phía dưới).

Các biện pháp cụ thể cho trong 2.2.4 là được xét tới, ngoại trừ các quy
định trong 2.2.4.1(2) - (3).

Phương pháp phân tích tĩnh lực ngang tương đương

• Điều kiện áp dụng phương pháp tĩnh lực ngang tương đương:
• Chu kỳ dao động cơ bản T1 theo hai hướng chính nhỏ hơn các giá
trị sau: 4.TC và 2 giây; với TC là thông số xác định dạng của phổ
phản ứng gia tốc
• Thỏa mãn tính đều đặn theo mặt đứng
• Lực cắt đáy được xác định theo công thức:
• Fb = Sd(T1).m.λ
• Trong đó: m là tổng khối lượng của công trình; λ là hệ số điều
chỉnh, xét đến khối lượng hữu hiệu của dạng dao động cơ bản đầu
tiên, khi T1 < 2TC và nhà có trên 2 tầng thì λ = 0,85; các trường
hợp khác λ = 1.

Phương pháp phân tích phổ phản ứng dạng dao động

• Xác định số dạng dao động cần xét đến theo mục 4.3.3.3.1. Có thể
xác định theo điều kiện tổng khối lượng hữu hiệu của các dạng dao
động được xét chiếm ít nhất 90% tổng khối lượng của kết cấu.
Khối lượng hữu hiệu của công trình ứng với dạng dao động thứ i
được xác định theo công thức
• Mtd,i = (∑mj.yj)2/(∑mj.yj2)
• Lực cắt đáy ứng với dạng dao động thứ i được xác định theo công
thức: Fb = Mtd,i.Sd(Ti)
• Khi các dạng dao động được xem là độc lập (Tj < 0,9*Ti), giá trị
lớn nhất EE của hệ quả tác động động đất có thể lấy bằng: EE =
√(∑EEi2), trong đó EEi là giá trị của hệ quả tác động động đất do
dạng dao động thứ i gây ra.

Tổ hợp các hệ quả của các thành phần tác động động đất

• Các thành phần nằm ngang (thành phần theo phương X và thành
phần theo phương Y) của tác động động đất phải được xem là tác
động đồng thời. Các hệ quả tác động do tổ hợp các thành phần nằm
ngang của tác động động đất có thể xác định bằng cách sử dụng hai
tổ hợp sau:

EEdx + 0,3*EEdy

0,3*EEdx + EEdy

• Trong đó, EEdx và EEdy là các hệ quả tác động do đặt tác động động
đất dọc theo trục X và trục Y.

Tổ hợp tác động động đất với các tác động khác

• Tổ hợp nội lực có tải trọng động đất đối với trường hợp không có
ứng suất trước được xác định theo công thức:

TH = TT + k.HT + ĐĐ

• Trong đó k là hệ số tổ hợp của hoạt tải, xác định theo bảng 3.4 của
tiêu chuẩn, ví dụ đối với hoạt tải khu vực văn phòng thì k = 0,3;
hoạt tải của khu vực hội họp là k = 0,6.
Tính toán chuyển vị

• Chuyển vị của một điểm của hệ kết cấu gây ra bởi tác động động
đất thiết kế ds được xác định dựa trên chuyển vị của cùng điểm đó
của hệ kết cấu được xác định bằng phân tích tuyến tính dc:

ds = qd*dc

• Trong đó qd là hệ số ứng xử chuyển vị, giả thiết bằng hệ số ứng xử
q trừ khi có các quy định khác.

You might also like