You are on page 1of 7

- Màu xanh: Chủ đề của bài (PowerPoint)

- Màu đỏ: Tên các phần (PowerPoint)

- Màu tím: Các mục trong PowerPoint (PowerPoint)

- Màu đen: Người thuyết trình nhìn vào để đọc

Mở đầu:
- Xin kính chào thầy và các bạn, ngày hôm nay, nhóm 4 của chúng em sẽ đưa tới cho thầy và các
bạn bài thuyết trình về chủ đề: Xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh. Em là … và sau đây
là phần thuyết trình của em về phần: Xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh gắn với quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và tăng cường vũ khí trang bị.
a) Gắn với quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước:
- Củng cố quốc phòng, an ninh, nhằm giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Với mục tiêu là: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn
dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, tranh thủ tối đa sự đồng tình,
ủng hộ của cộng đồng quốc tế để bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân, chế độ xã hội chủ nghĩa, nền văn hóa
và lợi ích quốc gia - dân tộc.
- Tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh với phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại:
Trong đó, cần củng cố tiềm lực chính trị - tinh thần, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; củng cố niềm tin của
nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy lòng yêu nước, khát vọng
phát triển đất nước , kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Phát triển công nghiệp
quốc phòng, an ninh gắn với công nghiệp quốc gia theo hướng tự chủ, tự cường, hiện đại; kết
hợp quốc phòng - kinh tế ở vùng, khu kinh tế trọng điểm, địa bàn chiến lược, biên giới, biển,
đảo.
- Kết hợp trong xây dựng lực lượng vũ trang với lực lượng nghiên cứu khoa học, nhân lực chất
lượng cao cho cả mục tiêu quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Chú trọng
bồi dưỡng nâng cao nhận thức của nhân dân về nhiệm vụ quốc phòng, an ninh bảo vệ Tổ quốc,
an ninh nhân dân với chất lượng nguồn nhân lực cho kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Củng
cố, xây dựng lực lượng quốc phòng, an ninh, trọng tâm xây dựng Quân đội nhân dân, Công an
nhân dân cách mạng.
- Củng cố quốc phòng, an ninh ở khu vực phòng thủ luôn gắn với thực hiện các chương trình,
mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, phát triển các khu kinh tế -
quốc phòng. Kết hợp đầu tư xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ kinh tế, văn hóa, xã hội
với xây dựng khu vực phòng thủ biển, đảo, biên giới , bố trí lại các điểm, cụm dân cư, xây dựng
hệ thống chính trị cơ sở, “thế trận lòng dân” vững chắc, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên giới,
biển, đảo.
- Tăng cường quốc phòng, an ninh với mở rộng hợp tác quốc tế, đấu tranh quốc phòng gắn với
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại. Hợp tác về quốc phòng, an ninh tạo thời cơ thuận
lợi cho hợp tác quốc tế ổn định, bền vững, đi vào chiều sâu, tạo điều kiện cho hợp tác phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, thu hút nguồn lực, nhân lực chất lượng cao, khoa học,
công nghệ. Nâng cao hiệu quả hợp tác kinh tế thương mại của doanh nghiệp quốc phòng, an
ninh, mở rộng xuất nhập khẩu sản phẩm quốc phòng và kinh tế, làm cho thị trường hàng hóa
phục vụ quốc phòng, an ninh, kinh tế ngày càng đa dạng.
Kết luận: Củng cố, xây dựng tiềm lực quốc phòng và an ninh gắn với quá trình công
nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước là vấn đề rộng, cần nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc
quan điểm của Đảng về mối quan hệ hữu cơ của các thành tố này, góp phần đưa Nghị quyết Đại
hội XIII của Đảng vào cuộc sống.
b) Tăng cường vũ khí trang bị:
- Chất lượng sản phẩm quốc phòng, nhất là vũ khí, đạn dược được nâng cao, bảo đảm an toàn
trong huấn luyện và sẵn sàng chiến đấu, tạo được niềm tin cho bộ đội. Số lượng, chủng loại,
chất lượng và tiến độ sửa chữa VKTBKT, nhất là cho hải quân và phòng không-không quân ngày
càng tốt hơn. Bên cạnh đó, thực hiện chủ trương của Đảng về kết hợp quốc phòng với kinh tế,
ngành CNQP đã đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, (các chỉ tiêu SXKD tăng trưởng khá, nhiều
ngành hàng kinh tế có vị trí vững chắc trên thị trường, một số loại sản phẩm đã xuất khẩu vào
các thị trường khó tính, từ đó có điều kiện tích lũy, duy trì hoạt động của các dây chuyền quốc
phòng và tái đầu tư mở rộng sản xuất, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa (CNH, HĐH) đất nước.
- Do vũ khí, trang bị kỹ thuật có vai trò rất quan trọng trong chiến tranh hiện đại. Là một quốc
gia đang phát triển, trình độ khoa học, công nghệ còn thấp song Nhà nước Việt Nam chú trọng
bảo đảm cho quân đội những loại vũ khí, trang bị kỹ thuật cần thiết để bảo vệ đất nước. Để
trang bị kỹ thuật cho lực lượng vũ trang, ngoài giữ gìn, bảo quản tốt, cải tiến có chọn lọc những
vũ khí, trang bị hiện có, Việt Nam đầu tư thích đáng để tự sản xuất một số phương tiện, vũ khí
phù hợp với khả năng công nghệ của mình đồng thời mua sắm một số vũ khí, trang bị kỹ thuật
hiện đại đáp ứng các yêu cầu tăng cường sức mạnh chiến đấu cho các lực lượng vũ trang nhân
dân. Việt Nam chủ trương từng bước nâng cao sức mạnh của hệ thống Công nghiệp Quốc
phòng. Việc phát triển trang bị hậu cần được tiến hành theo hướng nghiên cứu, cải tiến nâng
cao chất lượng các mặt hàng phục vụ bộ đội chiến đấu trong điều kiện chiến tranh công nghệ
cao. Trang bị vũ khí được đầu tư thích đáng để mua sắm, sản xuất, nghiên cứu chế tạo đáp ứng
nhu cầu thường xuyên của Quân đội và các tình huống chiến tranh. Công tác nghiên cứu khoa
học công nghệ phục vụ sản xuất trang bị vũ khí cần được đẩy mạnh đồng thời với việc tăng
cường bảo quản, quản lý, sử dụng hợp lý và phát huy hiệu quả các loại trang bị vũ khí hiện có.
Để thực hiện tốt việc tăng cường trang bị vũ khí , chúng ta cần rà soát đội ngũ cán bộ
làm công tác KHCN, nhất là các viện nghiên cứu, để đề xuất đào tạo, bổ sung cán bộ chuyên
ngành còn thiếu và cán bộ trình độ cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ về nghiên cứu, thiết kế, chế
tạo vũ khí mới . Đảng và Nhà nước cần có các chính sách ưu đãi nhằm thu hút các nhân lực
tham gia,phục vụ công tác sản xuất vũ khí để phát triển, cải tiến một số loại vũ khí, trang bị hiện
có của quân đội.
- Và đó là phần thuyết trình của em, sau đây xin mời bạn … tiếp nối buổi thuyết trình này.
- Xin chào thầy và các bạn, em là … và em sẽ tiếp tục đưa tới cho thầy và các bạn phần: Tăng
cường nghiên cứu khoa học quân sự đi đôi với công tác giáo dục, quản lí con người, nhân sự.
- “Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát triễn. Vì vậy, nghiên cứu, đề xuất một số giải
pháp nâng cao chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học trong các nhà trường Quân đội hiện
nay là vấn đề có tính cấp thiết.
- Nhận thức đúng vai trò của công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học, những năm qua, các học
viện, nhà trường Quân đội đã từng bước đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp nâng
cao chất lượng các mặt công tác này. Nâng cao chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học
trong các nhà trường Quân đội là một nội dung quan trọng, với một số giải pháp cơ bản sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, chỉ huy các cấp, đội ngũ cán bộ, giảng
viên, học viên đối với nhiệm vụ giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học.
- Đại hội XI Đảng bộ Quân đội xác định: “Nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nghiên cứu
khoa học tại các nhà trường”, “Tập trung đầu tư xây dựng một số học viện, nhà trường theo mô
hình “Nhà trường thông minh, tiếp cận cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Đây là cơ sở
để các nhà trường Quân đội cần quán triệt sâu sắc nghị quyết của các cấp về nâng cao chất
lượng giáo dục, đào tạo và nghiên cứu khoa học. Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức tốt việc
học tập, quán triệt, tạo sự thống nhất về nhận thức, hành động trong thực hiện đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về nhiệm vụ quân sự, quốc phòng và
công tác giáo dục, đào tạo, nghiên cứu khoa học cho cán bộ, giảng viên, cán bộ nghiên cứu, học
viên.
Hai là, tiếp tục đổi mới quy trình, chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo gắn
với nhiệm vụ nghiên cứu khoa học.
- Tiếp tục đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học ở tất cả các cấp học, ngành học; kết hợp chặt
chẽ giữa nghiên cứu cơ bản với nghiên cứu ứng dụng; tập trung đầu tư, bồi dưỡng phát triển
đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học đầu ngành; có chính sách phù hợp trong xây
dựng đội ngũ cán bộ giảng dạy, khoa học trẻ, tạo nguồn kế cận. Căn cứ các đề tài, chuyên đề
giảng viên, học viên đăng ký, nhà trường phân công đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu
hướng dẫn, giúp học viên trong suốt quá trình tham gia nghiên cứu khoa học. Kịp thời sơ kết,
tổng kết, đánh giá chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, biểu dương, khen thưởng cán bộ,
giảng viên, học viên có thành tích cao trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Kiên quyết đấu
tranh phê phán, loại bỏ các động cơ tiêu cực, nhất là bệnh thành tích trong đào tạo và nghiên
cứu khoa học.
Ba là, thường xuyên kiện toàn, phát triển đội ngũ nhà giáo, cán bộ nghiên cứu khoa học.
- Tiếp tục xây dựng đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục có trình độ tương xứng với công
việc, ngành đào tạo đạt chuẩn theo quy định của Nhà nước và Bộ Quốc phòng. Đẩy mạnh công
tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu khoa học.
Không ngừng nâng cao trình độ học vấn, khả năng tư duy nghiên cứu khoa học, tay nghề sư
phạm và kinh nghiệm thực tiễn; tích cực đổi mới phương pháp dạy học, nghiên cứu khoa học
nhằm khơi dậy, phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, khả năng tự học, tự rèn và năng lực
hoạt động thực tiễn cho đội ngũ giảng viên, cán bộ nghiên cứu, học viên để đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Tiếp tục xây dựng, phát triển đội ngũ
nhà giáo, cán bộ nghiên cứu khoa học bảo đảm đủ số lượng và chất lượng, chú trọng bản lĩnh
chính trị, trình độ giảng dạy, nghiên cứu khoa học. Chú ý xây dựng các chuyên gia đầu ngành,
nhà giáo, cán bộ nghiên cứu có trình độ cao; kết hợp chặt chẽ việc tạo nguồn với đào tạo và sử
dụng; tận dụng kinh nghiệm của các nhà giáo, cán bộ nghiên cứu đã qua thực tiễn chiến đấu,
xây dựng đơn vị vào hoạt động giảng dạy và nghiên cứu khoa học. Cùng với đưa cán bộ, giảng
viên đi thực tế đơn vị, cần tăng cường mời lãnh đạo các bộ, ngành, địa phương, chuyên gia đầu
ngành, chỉ huy các đơn vị tham gia giảng dạy và nghiên cứu khoa học.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, đầu tư cơ sở vật chất đáp ứng yêu cầu đào tạo, nghiên
cứu khoa học.
- Tập trung xây dựng, hoàn thiện quy chế giáo dục, đào tạo và hoạt động khoa học và công nghệ
đúng quy định, hướng dẫn. Quan tâm bồi dưỡng, trọng dụng và đãi ngộ đội ngũ cán bộ khoa
học và công nghệ, nhất là các chuyên gia đầu ngành, nhân tài trong lĩnh vực khoa học và công
nghệ, thực hiện tốt bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ nhà giáo, nhà khoa học qua thực tiễn; có
chính sách thu hút nhân tài về các học viện, nhà trường công tác. Tiếp tục bổ sung, hoàn thiện
quy chế, quy định về kết hợp giáo dục, đào tạo với nghiên cứu khoa học; phát huy vai trò của
các lực lượng trong nghiên cứu khoa học; duy trì nền nếp, xây dựng môi trường hoạt động và
sinh hoạt khoa học sôi nổi, rộng khắp, phù hợp với nhu cầu và trình độ các đối tượng; tạo động
lực, thu hút cán bộ, giảng viên ở các loại hình đào tạo tích cực tham gia. Cơ quan quản lý khoa
học cần đổi mới, bám sát mục tiêu, yêu cầu đào tạo, xây dựng chương trình, kế hoạch nghiên
cứu khoa học, đảm bảo yêu cầu trước mắt và có tính cơ bản, lâu dài, cụ thể, chi tiết đến từng
đề tài, làm cơ sở để triển khai đồng bộ, thống nhất. Các khâu thẩm định, xét duyệt đề cương, tổ
chức nghiên cứu, hoàn chỉnh, nghiệm thu, ứng dụng vào thực tiễn phải thực hiện nghiêm túc,
chặt chẽ, đúng quy trình. Thực hiện tốt công tác tham mưu về chủ trương, biện pháp, cơ chế,
chính sách, tạo sự ràng buộc, huy động được trí tuệ và năng lực của các lực lượng đối với hoạt
động đào tạo, nghiên cứu khoa học; trong đó, ưu tiên triển khai các đề tài phục vụ trực tiếp
nhiệm vụ giáo dục, đào tạo của nhà trường và Quân đội.
- Tiếp tục quan tâm, đầu tư cơ sở vật chất, từng bước hiện đại hóa trang, thiết bị dạy học, quản
lý đào tạo, nghiên cứu khoa học. Hoàn thiện hệ thống quản lý điều hành, phần mềm quản lý
giáo dục, nghiên cứu khoa học; hệ thống giảng đường, thư viện, phòng thí nghiệm, dữ liệu
thông tin, tài liệu,... tạo sự đột phá thực hiện đồng bộ, hiệu quả đề án ứng dụng công nghệ
trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy học, nghiên cứu khoa học.
- Thực hiện tốt các giải pháp trên đây, góp phần nâng cao chất lượng công tác giáo dục, đào
tạo, nghiên cứu khoa học ở các nhà trường Quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ
quốc.
- Em xin kết thúc phần thuyết trình của em tại đây, và sau đây là phần thuyết trình cuối cùng.
Xin mời bạn … sẽ lên trình bày phần cuối cùng.
- Em là … và sau đây là phần cuối cùng của bài học hôm nay, có tên là: Xây dựng đội ngũ cán bộ
trong lực lượng vũ trang đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
- Vậy trước tiên thì ta phải hiểu khái niệm Lực Lượng Vũ Trang là gì?
- Lực lượng vũ trang là lực lượng chiến đấu của nhà nước có nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền ,an
ninh, quốc gia và giữ gìn trật tự an toàn xã hội. Do tính chất nhiệm vụ đặc biệt, cho nên lực
lượng này được hưởng những chế độ đặc biệt.
- Vậy thì Lực Lượng Vũ Trang bao gồm những đơn vị nào?
- Lực lượng vũ trang nhân dân gồm Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và Dân quân tự vệ.
- Lực lượng vũ trang nhân dân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, Nhân dân, Đảng và Nhà nước;
có nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ
Nhân dân, Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, thành quả cách mạng; cùng toàn dân xây
dựng đất nước và thực hiện nghĩa vụ quốc tế.
- Cẩn trọng trong lựa chọn cán bộ trong lực lượng vũ trang :
- Công tác cán bộ bao gồm nhiều khâu, từ tuyển chọn, nhận xét, đánh giá cán bộ đến quy
hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ... Mỗi khâu có vai trò, ý nghĩa
quan trọng khác nhau, trong đó, công tác quy hoạch cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, đã
được Đảng khẳng định trong “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước”:Quy hoạch cán bộ là một nội dung trọng yếu của công tác cán bộ, bảo đảm cho
công tác cán bộ đi vào nền nếp, chủ động, có tầm nhìn xa, đáp ứng cả nhiệm vụ trước mắt và
lâu dài.
- Làm tốt công tác quy hoạch cán bộ góp phần tạo sự chủ động, khắc phục tình trạng hẫng hụt
trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, bảo đảm tính kế thừa, phát triển và sự chuyển tiếp liên
tục, vững vàng giữa các thế hệ cán bộ. Đây chính là sự cụ thể hóa quyết tâm liên tục đổi mới,
tập trung sức lãnh đạo nâng cao công tác quy hoạch cán bộ, làm cơ sở cho việc nâng cao chất
lượng công tác cán bộ của Đảng và Các cán bộ quy hoạch Ban Chấp hành Trung ương, về cơ bản
bảo đảm số lượng, cơ cấu, chất lượng; đã được đào tạo qua 5 lớp bồi dưỡng kiến thức mới cho
cán bộ cấp chiến lược, là nguồn nhân sự hết sức quan trọng để chủ động chuẩn bị công tác
nhân sự Đại hội XIII của Đảng.
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đánh giá cán bộ, Bộ Chính trị (khóa
XII) có Quy định số 89-QĐ/TW về khung tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí đánh
giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp và Quy định số 90-QĐ/TW về tiêu chuẩn chức danh, tiêu
chí đánh giá cán bộ thuộc diện Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý.
- Khung tiêu chí đánh giá cán bộ đã quy định rõ 2 nhóm tiêu chí: Về chính trị tư tưởng; đạo đức,
lối sống; ý thức tổ chức kỷ luật; tác phong, lề lối làm việc và kết quả thực hiện chức trách,
nhiệm vụ được giao. Trong đó, có những tiêu chí chung và những tiêu chí đặc thù cho 6 chức
danh cán bộ của hệ thống chính trị, bao gồm cơ quan tham mưu của Đảng; cơ quan hành chính
nhà nước; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị-xã hội; lực lượng vũ trang; tòa án nhân
dân và viện kiểm sát nhân dân. Nội dung đánh giá cho một chức danh cụ thể là những chức
trách, nhiệm vụ của chức danh đó theo quy định của Đảng, Nhà nước. Điều này tạo điều kiện
thuận lợi cho các chủ thể có thẩm quyền nhận xét, đánh giá cán bộ do mình quản lý.
- Trọng dụng người có tài có đức:
_ Quy trình công tác cán bộ tiếp tục được đổi mới, trong đó có công tác sử dụng cán bộ. Dấu ấn
trong nhiệm kỳ XII là đã đẩy mạnh thí điểm đổi mới cách tuyển chọn cán bộ lãnh đạo, quản lý,
bảo đảm dân chủ, khách quan, công khai, minh bạch, chặt chẽ hơn trong sử dụng cán bộ.
_ Thực hiện Đề án này nhằm phát hiện, thu hút, trọng dụng những người có đức, có tài, phát
huy được phẩm chất, trình độ, năng lực, kinh nghiệm công tác; đóng góp trí tuệ, sức lực cho sự
phát triển bền vững của đất nước; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý cấp vụ,
cấp sở, cấp phòng; tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh; từng bước đổi mới quy trình bổ
nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý; hạn chế và loại trừ dần dần tình trạng cục bộ, khép kín trong
công tác quy hoạch, bổ nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý tại các bộ, ban, ngành, địa phương.
_ Đổi mới công tác tuyển chọn mới chỉ là bước đầu, vẫn còn một số điều cần rút ra bài học kinh
nghiệm qua thí điểm và cần sự kiểm chứng bằng thực tế công việc sau bổ nhiệm của các ứng
viên ở vị trí mới.
_ Khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới
_ Dành sự quan tâm đặc biệt để xây dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất, năng lực, đồng thời tạo
điều kiện để cán bộ, đảng viên phát huy năng lực, sở trường trong công tác
_ Điều này một lần nữa khẳng định đây là vấn đề được Đảng rất quan tâm, qua đó giúp cán bộ
đảng viên tự tin hơn, dám bước qua những lối mòn, những thách thức, có thêm những cơ hội
để cống hiến cho đất nước, cho nhân dân.
- Để khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm “khi cán bộ thực hiện thí điểm mà kết quả không
đạt hoặc chỉ đạt được một phần mục tiêu đề ra hoặc gặp rủi ro, xảy ra thiệt hại thì cấp có thẩm
quyền phải kịp thời xác định rõ nguyên nhân khách quan, chủ quan, đánh giá công tâm để xem
xét, xử lý phù hợp, nếu thực hiện đúng chủ trương, có động cơ trong sáng, vì lợi ích chung thì
được xem xét miễn hoặc giảm nhẹ trách nhiệm”. Những dự liệu này góp phần tạo niềm tin và
động lực để cán bộ, đảng viên dám dấn thân cống hiến vì lợi ích chung.
Việc xây dựng cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ có tư duy đổi mới, dám nghĩ, dám
làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm là giải pháp căn cơ đối với công tác cán bộ, qua đó
thúc đẩy sự phát triển của cơ quan, đơn vị, địa phương và rộng hơn là sự phát triển của cả đất
nước. Đây chính là cơ chế tạo động lực cho sự đổi mới, bứt phá, khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách
nhiệm, khát vọng cống hiến, nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam phồn
thịnh, phát triển đúng như tinh thần Đại hội XIII của Đảng đã xác định.
Kết thúc:
- Và trên đây là bài thuyết trình của nhóm 4, có ai có câu hỏi nào để đặt cho nhóm không ạ?
Nếu không có thì tụi mình xin kết thúc bài thuyết trình của mình ở đây. Xin cảm ơn mọi người
đã dành thời gian ra để lắng nghe bài thuyết trình của tụi mình.

You might also like