You are on page 1of 18

Thực trạng đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ từ ngân

sách Nhà nước


TS. Nguyễn Hồ Phi Hà - Học viện Tài chính
 04:00 01/01/2018

Đảng và Nhà nước luôn coi khoa học và công nghệ là quốc sách hàng
đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, nền tảng và nhân tố quyết định
thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế
của đất nước. Điều này đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết số 20-NQ/TW
Khóa XI của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Luật
Khoa học và công nghệ năm 2013 và Chiến lược Phát triển khoa học và
công nghệ Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. Với chủ trương đó, đầu tư cho
lĩnh vực khoa học và công nghệ luôn nhận được sự ưu tiên từ ngân sách
nhà nước.
Thực trạng đầu tư cho hoạt động khoa học công nghệ từ ngân sách
nhà nước
Trên cơ sở các quan điểm của Đảng và Nhà nước, môi trường chính sách
và pháp luật điều chỉnh hoạt động khoa học và công nghệ trong những
năm qua liên tục được cải tổ và đổi mới mạnh mẽ. Luật Khoa học và công
nghệ năm 2013 ra đời, thay thế cho Luật Khoa học và công nghệ năm
2000.
Tiếp theo, là các nghị định, thông tư đã ra đời để cụ thể hóa Luật như:
Thông tư liên tịch số 121/2014/TTLT-BTC- BKHCN ngày 25/8/2014 của 
liên  bộ Tài  chính - Khoa học và Công nghệ hướng dẫn xây dựng dự toán,
quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí thực hiện nhiệm vụ thường xuyên
theo chức năng của tổ chức khoa học và công nghệ công lập; Thông tư
liên tịch số 16/2015/TTLT-BKHCN-BTC ngày 01/9/2015 hướng dẫn việc
quản lý, xử lý tài sản được hình thành thông qua việc triển khai thực hiện
nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư
liên tịch số 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN ngày 22/4/2015 hướng dẫn định
mức xây dựng, phân bổ dự toán và quyết toán kinh phí đối với nhiệm vụ
khoa học và công nghệ có sử dụng ngân sách nhà nước; Thông tư liên tịch
số 27/2015/TTLT/BKHCN-BTC ngày 30/12/2015 quy định khoán chi thực
hiện nhiệm vụ khoa học và công nghệ sử dụng Ngân sách nhà nước…
Hiện nay, hoạt động khoa học và công nghệ phần lớn được đầu tư từ ngân
sách nhà nước. Điều này đã được cụ thể hóa rõ nét ở Nghị định số
95/2014/NĐ-CP ngày 17/10/2014 của Chính phủ quy định về đầu tư và cơ
chế tài chính đối với hoạt động khoa học và công nghệ. Bình quân hàng
năm, đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ
với mức kinh phí vào khoảng 1,4 - 1,85% tổng chi ngân sách nhà nước,
chiếm từ 0,4 đến 0,6 GDP.
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ từ năm 2006
đến năm 2015 đều có xu hướng tăng: Năm 2006 là 5.429 tỷ đồng, đến
năm 2015 đạt 17.390 tỷ đồng, qua đó cho thấy sự quan tâm của Đảng và
Nhà nước đối với hoạt động khoa học và công nghệ.
Trong tổng đầu tư quốc gia cho nghiên cứu và phát triển khoa học và công
nghệ là 13.390,6 tỷ đồng thì đầu tư từ ngân sách nhà nước chiếm hơn một
nửa: 7.591,6 tỷ đồng (tương đương 56,7%), trong khi nguồn đầu tư từ
doanh nghiệp là 5.597,3 tỷ đồng đạt 41,8%, còn lại chỉ có 201,7 tỷ đồng
(tương đương 1,5%) là từ nguồn vốn nước ngoài.
Nhìn chung, đầu tư từ ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ
đóng vai trò hết sức quan trọng, và trong tổng đầu tư cho khoa học và
công nghệ chủ yếu đầu tư tập trung vào: (i) Đầu tư cho hoạt động nghiên
cứu khoa học, ứng dụng kỹ thuật, các nhiệm vụ Nhà nước 50%; (ii) Con
người chiếm 25%; (iii) Đầu tư để hỗ trợ đề tài cấp Bộ, ngành 15%; Đầu tư
để tăng cường cơ sở vật chất chiếm 15%. Và đầu tư từ ngân sách nhà
nước để phát triển khoa học và công nghệ được phân cấp: Ngân sách
trung ương thường chiếm tỷ trọng từ 70-75% và ngân sách địa phương
chiếm tỷ trọng 25- 30% (theo báo cáo của Bộ Khoa học và công nghệ).
Hiệu quả đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và
công nghệ
Đầu tư từ ngân sách nhà nước cho hoạt động khoa học và công nghệ đã
đạt được những kết quả sau:
Thứ nhất, luôn là nguồn đầu tư chủ yếu, cơ bản cho hoạt động nghiên cứu
khoa học; góp phần quan trọng vào quá trình thúc đẩy phát triển đào đạo
nguồn nhân lực, chuyển giao công nghệ (bình quân hàng năm chi ngân
sách nhà nước cho hoat động khoa học công nghệ chiếm khoảng 2% tổng
chi của ngân sách nhà nước, tương đương 0,6 GDP và tăng bình quân
mỗi năm là 19%).
Thứ hai, đã có sự thay đổi về cơ cấu, phân cấp để phù hợp với nhu cầu
nguồn lực đầu tư hiện tại, từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động khoa học và
công nghệ phát triển bền vững.
 
Thứ ba, cơ sở pháp lý về đầu tư ngân sách nhà nước cho khoa học và
công nghệ ngày càng hoàn thiện hơn, chi tiết và cụ thể hóa rõ nét hơn. Cụ
thể, gồm 38 văn bản cấp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ (Nghị định,
Quyết định), 88 văn bản cấp Bộ (Thông tư, Thông tư liên tịch).
Tuy nguồn đầu tư từ ngân sách nhà nước cho phát triển khoa học và công
nghệ thời gian qua đã có được những kết quả nhất định, nhưng bên cạnh
đó vẫn còn nhiều bất cập, cụ thể:
Một là, hàng năm, mặc dù đầu tư ngân sách nhà nước cho khoa học và
công nghệ đã có tăng nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ với nhu cầu phát triển,
đẩy mạnh các hoạt động nghiên cứu, đổi mới khoa học công nghệ như
hiện nay. So với các nước, nguồn lực tài chính từ ngân sách nhà nước để
đầu tư cho khoa học và công nghệ ở Việt Nam còn hạn chế, ở Việt Nam
ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học và công nghệ chỉ chiếm 0,6%
GDP, còn châu Âu năm 2013 là 2,01%, Nhật Bản năm 2013 là 3,47%, Mỹ
năm 2012 là 2,81%...
Hai là, việc phân bổ ngân sách nhà nước để phát triển khoa học và công
nghệ còn phân tán, dàn trải, thiếu tập trung, thiếu mục tiêu ưu tiên, chưa
đảm bảo theo những tiêu chí rõ ràng, thiếu cơ chế minh bạch (Chủ yếu tập
trung chi cho bộ máy; Chi cho đào tạo cán bộ khoa học và công nghệ còn
ở mức thấp khoảng 1.000USD/người/năm, trong khi mức chi trung bình ở
các nước phát triển là 55.000USD/người/năm; Chi lương cho cán bộ
nghiên cứu khoa học và công nghệ cũng còn thấp)… do đó dẫn đến hiệu
quả đầu tư còn thấp.
Ba là, hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư từ ngân sách nhà nước cho
khoa học và công nghệ còn thấp. Bởi hiện nay chưa xây dựng được một
cơ chế thực sự phù hợp, từ đó để gắn kết phân bổ ngân sách nhà nước
cho các tổ chức khoa học và công nghệ với các yêu cầu và nhiệm vụ cụ
thể về các sản phẩm khoa học và công nghệ mà các đơn vị nghiên cứu
cần thực hiện.
Giải pháp hoàn thiện chính sách đầu tư từ ngân sách nhà nước cho
khoa học và công nghệ
Từ thực tiễn đầu tư phát triển khoa học công nghệ từ nguồn vốn ngân sách
nhà nước trên và qua nghiên cứu, tác giả bài viết đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện chính sách như sau:
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện chính sách đầu tư ngân sách nhà nước cho
hoạt động khoa học và công nghệ, nhằm phân bổ nguồn lực ngân sách
nhà nước tưng xứng với nhu cầu phát triển khoa học và công nghệ hiện
nay; tránh phân bổ chồng chéo, trùng lắp,tránh đầu tư dàn trải, từ đó đảm
bảo sử dụng hiệu quả nguồn lực ngân sách nhà nước cho khoa học và
công nghệ.

Thứ hai, tăng cường vai trò, trách nhiệm của các tổ chức trong quản lý, sử
dụng kinh phí ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ, từ đó
tránh sử dụng không đúng mục đích, lãng phí, làm thất thoát ngân sách
nhà nước.
Thứ ba, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát đối với kết quả nghiên cứu
khoa học và công nghệ; sớm xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá mức độ
hoàn thành và chất lượng về thực hiện nhiệm vụ được giao của các đơn vị
khoa học và công nghệ; cần có quy định chặt chẽ, cụ thể, nâng cao trách
nhiệm của các tổ chức kiểm định, đánh giá độc lập; tiếp tục hoàn thiện chế
độ thông tin báo cáo, công tác tài chính kế toán và trách nhiệm giải trình
kết quả nghiên cứu của các đơn vị cung cấp các dịch vụ về khoa học và
công nghệ.

 
Thứ tư, tiếp tục rà soát, sắp xếp, chuyển đổi các tổ chức nghiên cứu khoa
học sang đơn vị sự nghiệp tự trang trải kinh phí. Ngân sách nhà nước
không cấp kinh phí hoạt động quản lý bộ máy thường xuyên mà thông qua
nhiệm vụ các tổ chức khoa học và công nghệ được thực hiện. Đồng thời,
để nâng cao hiệu quả việc sử dụng ngân sách nhà nước, thời gian tới cần
đẩy mạnh việc bố trí lại các tổ chức khoa học và công nghệ công lập, giảm
bớt đầu mối tổ chức, tập trung vào các tổ chức khoa học và công nghệ có
năng lực nghiên cứu chuyên sâu.
NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC CÔNG NGHỆ TRONG CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỸ – A2Z EDUCATION & CONSULTING
Các trường ĐH muốn phát huy đẩy đủ vai trò tự chủ trong nghiên cứu và
điều tra khoa học thì phải tìm kiếm những nhà khoa học xuất sắc và cải tổ
điều kiện kèm theo thao tác cho đội ngũ Giáo sư, giảng viên, nhà khoa học
và sinh viên cùa trường để họ phát huy tối đa năng lực, nhất là tính tự chủ
trong điều tra và nghiên cứu khoa học .
Đó là nhận định và đánh giá của Giáo sư nổi tiếng Walter Climston thuộc
Trường ĐH Thành Phố New York. Đặc biệt nghiên cứu và điều tra và tăng
trưởng ( R&D ) là yếu tố rất quan trọng trong những trường ĐH tiên tiến và
phát triển ở Mỹ. R&D không chỉ thiết yếu cho tăng trưởng khoa học và kỹ
năng và kiến thức điều tra và nghiên cứu mà còn đóng vai trò thiết yếu
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục. Một trong những bước tiến mới
của nghiên cứu và điều tra khoa học và công nghệ ở Mỹ là hiện có nhiều
trường ĐH duy trì bộ phận “ bán ” những khu công trình nghiên cứu và điều
tra khoa học, công nghệ. R&D ở những trường ĐH Mỹ cũng đã giúp xây
dựng nhiều công ty và tạo việc làm cho hàng triệu người lao động .
Trong hầu hết những nghành nghề dịch vụ thì R&D có ảnh hưởng tác động
rất lớn đến sự tăng trưởng khoa học, công nghệ và hướng nghiệp cho nhiều
nhà khoa học tương lai. Ngoài ra, R&D giúp những nhà nghiên cứu định hình
tầm nhìn và nhận thức đúng về những đề tài kim chỉ nan và khoanh vùng
phạm vi ứng dụng của chúng. R&D không chỉ giúp tăng trưởng ứng dụng
hoặc phủ định những hiệu quả kim chỉ nan mà còn truyền cảm hứng về
những hướng nghiên cứu và điều tra trọn vẹn mới, được hình thành từ trong
thực tiễn và những nhu yếu của xã hội có tương quan. Ngoài ra, R&D cũng
giúp cho những nhà khoa học sinh viên dễ tìm kiếm nguồn hỗ trợ vốn để
nghiên cứu và điều tra khoa học của mình. Thông thường, một đề án điều
tra và nghiên cứu, kể cả nghiên cứu và điều tra khoa học cơ bản, mà có
năng lực ứng dụng thoáng đãng thì luôn lôi cuốn và nhận được sự hỗ trợ
vốn lớn hơn những đề tài khoa học mang tính triết lý và khó tiến hành trong
thực tiễn. Đây cũng là yếu tố nan giải mà những trường ĐH Mỹ đang phải
xử lý .
Hiện nay, nhiều nhóm sinh viên tham gia trực tiếp vào dự án Bất Động Sản
R&D, khu công trình nghiên cứu và điều tra khoa học, công nghệ lớn, cũng
như góp thêm phần xử lý những yếu tố phức tạp của khoa học, công nghệ.
Đây là môi trường tự nhiên tốt cho những nhà khoa học kỹ sư tương lai có
thêm kinh nghiệm tay nghề, thiên nhiên và môi trường trong thực tiễn và
phát huy năng lượng sau khi ra trường. Ngoài ra, những trường ĐH Mỹ luôn
duy trì bộ phận nghiên cứu và điều tra khoa học và chuyển giao công nghệ
độc lập, trong đó tập trung chuyên sâu hướng dẫn sinh viên lựa chọn những
đề tài, nghành nghề dịch vụ khoa học nghiên cứu và điều tra, giúp tiếp cận
những giáo sư, giảng viên có kinh nghiệm tay nghề để hướng dẫn. Sau
những nghiên cứu và điều tra khoa học và quy trình chuyển giao công nghệ
thành công xuất sắc thì bộ phận này giúp ĐK quyền sở hữu trí tuệ, văn bằng
bản quyền trí tuệ hoặc liên kết những nguồn nhân lực, kinh tế tài chính để
tiến hành dự án Bất Động Sản và sản xuất .
Thời gian gần đây, các trường đại học ở Mỹ thường nhận được hai nguồn
tài trợ chính cho nghiên cứu khoa học của họ là các quỹ tài trợ nghiên cứu
khoa học quốc gia như NSF, DARPA, DoD, DoE, NIH… và các doanh nghiệp.
Đầu tư cho nghiên cứu khoa học trong các trường đại học từ các công ty tư
nhân thường gắn với kết quả, sản phẩm cụ thể và nhanh mang lại lợi ích
cho họ. Tuy nhiên, các quỹ tài trợ khoa học quốc gia không đặt mục tiêu lợi
nhuận, cho phép mở rộng nghiên cứu trên nhiểu lĩnh vực và thời gian nghiên
cứu có thể kéo dài, nhưng các quỹ này cũng quan tâm về hiệu quả đầu tư
và các nghiên cứu khoa học, công nghệ phải phục vụ lợi ích quốc gia, xã hội
và cộng đồng. Hiện nay, nhiều quỹ tài trợ nghiên cứu khoa học và các công
ty nhà nước, tư nhân ở Mỹ thường có quan hệ mật thiết với các trường đại
học, giáo sư và sinh viên có năng lực để đầu tư nghiên cứu khoa học, công
nghệ và giải quyết các vấn đề khoa học mà các công ty này quan tâm.

Bài 2: Sự phát triển công nghệ ở Hàn Quốc và bài học cho Việt Nam
Trong nhiều thập kỷ, chuyển giao công nghệ nước ngoài đóng một
vai trò quan trọng trong việc phát triển cơ sở tri thức và phát triển công nghệ của
Hàn Quốc. Quốc gia này đã nắm bắt thành công tỷ lệ lợi nhuận cao từ các hoạt
động nghiên cứu và phát triển (R&D) thông qua việc bắt chước và đổi mới công
nghệ. Vậy Việt Nam có thể học hỏi gì từ thành công của R&D tại Hàn Quốc.
Phát triển công nghệ ở Hàn Quốc

Xuyên suốt quá trình phát triển, chuyển giao công nghệ nước ngoài là nguồn lực

chính để phát triển nền tảng kiến thức cho các doanh nghiệp Hàn Quốc. Trong

những năm 1960 và 1970, các doanh nghiệp Hàn Quốc, ở giai đoạn đầu của quá

trình phát triển kinh tế, đã có được những công nghệ hoàn thiện từ các nước phát

triển thông qua việc tiếp thu công nghệ nước ngoài “trọn gói” để sản xuất các sản

phẩm tiêu chuẩn và được chuẩn hóa. Việc đổi mới công nghệ ở giai đoạn này chủ

yếu là bắt chước sao chép thông qua giải mã các thiết bị nhập khẩu, sự di chuyển

của nhân lực hoặc học hỏi thông qua sản xuất với các liên kết cùng với các công ty

đa quốc gia dọc theo chuỗi cung ứng, trong đó hàng hóa tư bản nhập khẩu vượt xa

các hàng hóa khác về mặt giá trị.

Các thỏa thuận thầu phụ cũng là một kênh quan trọng để tiếp thu các tiêu chuẩn và

thông số kỹ thuật quốc tế. Trong quá trình này, các tổ chức nghiên cứu công, chứ

không phải các trường đại học, đóng một vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới

công nghệ. Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KIST), được thành lập vào

thời kỳ này, giúp các doanh nghiệp có thêm năng lực đàm phán để có được những

đổi mới của nước ngoài.


Hàn Quốc luôn đẩy mạnh đầu tư nghiên cứu và phát triển. Ảnh minh họa:

Bloomberg

Khi các doanh nghiệp Hàn Quốc dần làm chủ được việc bắt chước sao chép, sức ép

cạnh tranh ngày càng tăng từ các nước đang phát triển đi sau cùng với việc mức

tiền lương trong nước tăng cao đã buộc các doanh nghiệp ở Hàn Quốc phải chuyển

trọng tâm sang các công nghệ thâm dụng tri thức hơn. Ở giai đoạn này, các doanh

nghiệp Hàn Quốc phụ thuộc nhiều hơn vào chuyển giao công nghệ chính thức như

FDI hoặc cấp phép của nước ngoài. Trong những năm 1980, FDI đã tăng từ 218

triệu USD trong năm 1967-1971 lên 1,76 tỷ USD trong năm 1982-1986 và cấp

phép của nước ngoài tăng từ 16,3 triệu USD lên 1,18 tỷ USD trong cùng thời kỳ.

Trong giai đoạn này, các doanh nghiệp tăng cường nghiên cứu và phát triển để

tăng lợi thế trong đàm phán chuyển giao công nghệ, giảm sự phụ thuộc vào công
nghệ nước ngoài và phát triển các sản phẩm khác biệt và có giá trị gia tăng cao

hơn.

Đầu tư cho R&D tăng từ 10,6 tỷ Won năm 1971 lên 3,4 nghìn tỷ Won năm 1990.

Chi tiêu cho R&D trên GDP tăng từ 0,32% lên 2,68% trong cùng thời kỳ. Khu vực

tư nhân ngày càng đóng vai trò quan trọng trong các nỗ lực R&D. Tỷ lệ R&D tư

nhân tăng từ 2% năm 1963 lên hơn 80% năm 1994, thuộc hàng cao nhất thế giới.

Các doanh nghiệp Hàn Quốc cũng toàn cầu hóa các hoạt động R&D của họ, cho

phép nắm bắt được các đổi mới trên đường biên công nghệ và phát triển hợp tác

quốc tế trong R&D. Chính phủ Hàn Quốc trong thời kỳ này đã đầu tư rất nhiều vào

việc phát triển nghiên cứu tại các trường đại học. Chính phủ đã ban hành luật

Khuyến khích Nghiên cứu Cơ bản vào năm 1998 để nâng cao năng lực nghiên cứu

trong các trường đại học trọng điểm. Số lượng các nhà nghiên cứu đã tăng gấp đôi

từ khoảng 21.300 lên 51.600 trong giai đoạn này. Chính phủ cũng ban hành chính

sách hồi hương các nhà khoa học Hàn Quốc từ nước ngoài. Các nhà khoa học này

trở thành nguồn nhân lực quan trọng của mạng lưới kỹ thuật và kiến thức để phát

triển công nghệ mới ở Hàn Quốc.

R&D tại Việt Nam có nhiều tiến bộ

Năm 2019, Cục Sở hữu trí tuệ (SHTT) Việt Nam ghi nhận sự gia tăng mạnh về số

lượng đơn đăng ký sở hữu trí tuệ (75.742 đơn đăng ký, tăng 26,7% so với năm
2018), xử lý 65.029 đăng ký (tăng 51,7% so với năm 2018) và cấp 40.715 bảo hộ

quyền SHTT (tăng 40,6% so với năm 2018). Phần lớn các văn bằng bảo hộ quyền

SHTT đã được cấp là dưới dạng nhãn hiệu. Theo Chỉ số Đổi mới sáng tạo toàn cầu

năm 2020, Việt Nam đạt điểm khá tốt về thương hiệu và thiết kế công nghiệp theo

xuất xứ (xếp thứ 20 và 43 trên 131) trong khi bằng sáng chế theo xuất xứ khá thấp,

xếp thứ 66.

Giống như các công cụ SHTT khác, đăng ký bảo hộ thương hiệu thể hiện việc tạo

ra tính mới hữu ích về mặt kinh tế và do đó có thể được sử dụng như một chỉ số thể

hiện mức đổi mới sáng tạo. Thương hiệu đặc biệt có giá trị trong lĩnh vực dịch vụ,

so với bằng sáng chế thì thương hiệu là đổi mới phi công nghệ và đại diện nhiều

hơn cho hoạt động của các doanh nghiệp nhỏ. Thương hiệu cũng là đại diện cho

hoạt động đổi mới sáng tạo gần với giai đoạn thương mại hóa. Trong những năm

gần đây tại Việt Nam, đăng ký bảo hộ thương hiệu của cả người cư trú và người

không cư trú đang gia tăng. Mặt khác, số lượng bằng sáng chế được cấp ở Việt

Nam vẫn còn tương đối thấp, đặc biệt là các bằng sáng chế do các đơn vị trong

nước đăng ký. Lý do có ít bằng sáng chế trong nước không nhất thiết là do có ít

hoạt động sáng chế. Thay vào đó, một số lượng lớn các công nghệ hữu ích không

đủ điều kiện cấp bằng sáng chế chủ yếu do các yêu cầu nghiêm ngặt về khả năng

cấp bằng: Tính đổi mới, có trình độ sáng tạo và khả năng áp dụng công nghiệp.

Tương tự như các nước đang phát triển khác, hầu hết các đơn đăng ký sáng chế ở
Việt Nam chủ yếu do người nước ngoài nộp. Bằng sáng chế của người nước ngoài

đăng ký chủ yếu nhằm bảo vệ sáng chế của họ không bị bắt chước và sản xuất tại

Việt Nam.

Sự cải thiện về số lượng sáng chế được cấp phản ánh sự cải thiện năng lực đổi mới

và hấp thụ công nghệ tại Việt Nam, hơn nữa, cũng có mối tương quan cao giữa số

công nghệ được cấp phép và số đơn đăng ký của nước ngoài với quá trình chuyển

giao công nghệ. Cho dù còn hạn chế nhưng tình hình chuyển giao quyền sở hữu

công nghiệp vẫn phát triển xét về số lượng các hợp đồng chuyển nhượng tại Việt

Nam trong 10 năm qua. Ví dụ, các hoạt động chuyển giao công nghệ trong các

trường đại học của Việt Nam gần đây đã đạt được những kết quả đáng khích lệ.

Nhiều hợp đồng chuyển giao công nghệ đã được ký kết giữa các trường đại học với

các doanh nghiệp hàng đầu Việt Nam và trên thế giới như Tập đoàn Vin, Tập đoàn

FPT, Tập đoàn SUN MicroSystems, Doanh nghiệp Cổ phần Bóng đèn và Phích

nước Rạng Đông...

Tuy nhiên, nhìn chung, việc thương mại hóa vẫn còn thưa thớt trong các viện

nghiên cứu. Hơn nữa, việc quản lý tài sản trí tuệ ở các viện nghiên cứu chưa được

quan tâm đúng mức. Tình trạng này dẫn đến việc hoạt động chuyển giao công nghệ

không thu hút được nguồn nhân lực tham gia và có rất ít tổ chức nào có đủ năng
lực chuyên môn để quản lý và chuyển giao vào sản xuất kinh doanh. Vậy Việt

Nam có thể học hỏi gì từ thành công của R&D tại Hàn Quốc?

Bài học từ Hàn Quốc

Việt Nam và Hàn Quốc cùng có một xuất phát điểm là đi lên từ một nước thuần

nông nghiệp. Tuy nhiên, mỗi nước có cơ hội, tiềm năng và mức đầu tư khác nhau

cho R&D. Nếu chia các giai đoạn phát triển KH&CN thành bốn cấp độ: Mua sắm

và vận hành dây chuyền thiết bị, công nghệ đồng bộ; Hấp thụ, đồng hóa công nghệ

nhập; Thích nghi, làm chủ công nghệ; Sáng tạo công nghệ và phát triển các công

nghệ mới nổi. Việt Nam và Hàn Quốc rõ ràng ở hai cấp độ khác nhau, hay ở giai

đoạn phát triển khác nhau. Vậy làm thế nào để Việt Nam có thể nhanh chóng bứt

phá, bắt kịp với nước láng giềng Hàn Quốc là một câu hỏi thách thức.

Để trở thành một trong 10 cơ sở ứng dụng công nghệ hàng đầu thế giới và dẫn
đầu ở Hàn Quốc như hiện nay, Viện Khoa học và Công nghệ Hàn Quốc (KIST) đã

áp dụng những cơ chế đặc biệt trong hoạt động, đưa nghiên cứu vào thực tiễn

(Trong ảnh: Viện Khoa học và công nghệ Hàn Quốc. Ảnh: KIST)

Tăng đầu tư vào R&D

Nghiên cứu chung của Bộ Khoa học và Công nghệ Việt Nam và Tổ chức SIRO’s

Data61 đã sử dụng mô hình dự báo có điều kiện để đánh giá tác động của thay đổi

đầu tư R&D đối với nền kinh tế Việt Nam. Trong kịch bản mô phỏng nghiên cứu

tác động của đầu tư R&D nếu Việt Nam đi theo con đường phát triển tương tự như

Hàn Quốc. Hàn Quốc là một ví dụ điển hình của việc “bắt kịp” thành công nhờ

cường độ đầu tư cho R&D. Trong những năm 1980 và 1990, đối mặt với sự cạnh

tranh ngày càng tăng của các nước đang phát triển với sản xuất lao động giá rẻ,

Hàn Quốc chuyển trọng tâm sang phát triển và áp dụng các công nghệ mức trung

bình, có hàm lượng tri thức nhiều hơn trên tất cả các lĩnh vực. Do công nghệ ở giai

đoạn này phức tạp hơn, khó tiếp thu và áp dụng hơn rất nhiều, nên các doanh

nghiệp Hàn Quốc ngày càng đẩy mạnh các hoạt động R&D của riêng họ. Đầu tư

cho R&D tăng vọt từ 28,6 triệu USD năm 1971 lên 4,7 tỷ USD vào năm 1990 và

lên 12,2 tỷ USD vào năm 2000. Tốc độ tăng trưởng chi tiêu cho R&D trên tổng sản

phẩm quốc nội (GDP) trung bình hằng năm trong giai đoạn 1981-1991 ở Hàn Quốc

là 24,2% mỗi năm. Trong kịch bản này, nhóm nghiên cứu mô phỏng tác động của

chi tiêu cho R&D đối với nền kinh tế Việt Nam với giả định rằng Việt Nam đi theo
con đường tương tự của Hàn Quốc và tốc độ tăng trưởng chi cho R&D trung bình

là 24,5%/năm trong 10 năm tới cho đến năm 2030. Sự gia tăng chi tiêu cho R&D

cũng có tác động đến sự gia tăng tiêu dùng và đầu tư, chủ yếu là do thu nhập của

lao động có kỹ năng và lao động phổ thông có sự gia tăng khi sản xuất phát triển

trong nền kinh tế sau này. Trong đó, mức tăng tiêu dùng và đầu tư thu được từ đầu

tư R&D lần lượt chiếm 20,2% và 11% tổng tiêu dùng và đầu tư vào năm 2045.

Nếu Việt Nam đi theo con đường tương tự của Hàn Quốc thì tác động sẽ tăng cao

hơn. Đầu tư cho R&D dự kiến sẽ đóng góp tới 15% tổng GDP dự báo vào năm

2045. Mức tăng tiềm năng trong tiêu dùng và đầu tư cũng cao hơn, lần lượt là

25,4% và 15%, so với 20.2% và 11% khi Việt Nam tăng đầu tư R&D theo mục

tiêu của Bộ Khoa học và Công nghệ.

Sự vào cuộc hơn nữa của các các tập đoàn lớn

Ở Hàn Quốc, vai trò của các chaebol trong chuyển đổi kinh tế đất nước là không

thể phủ nhận. Một trong những chiến lược của các chaebol để trở thành các nhà

tiên phong trong công nghệ toàn cầu là phải đầu tư mạnh vào R&D, chiếm lĩnh thị

trường thông qua sáp nhập và mua lại các công ty của Mỹ và châu Âu, những biện

pháp cho phép Hàn Quốc nâng cao năng lực công nghệ trong thời gian ngắn. Ở

Việt Nam như phân tích ở trên đã có sự vào cuộc của các "ông lớn" như Tập đoàn

Viễn thông Quân đội (Viettel), Tập đoàn Dầu khí quốc gia, Tập đoàn Vin, Tập
đoàn FPT, Tập đoàn SUN MicroSystems, Doanh nghiệp Cổ phần Bóng đèn và

Phích nước Rạng Đông… trong chuyển giao công nghệ và phát triển R&D. Có thể

nói bài học kinh nghiệm để có thể học hỏi thành công từ Hàn Quốc còn nhiều. Tuy

nhiên, một bài học sâu sắc nữa Việt Nam có thể học hỏi từ Hàn Quốc đó chính là:

Bên cạnh mở rộng đầu tư vào R&D, cũng nên xây dựng một hệ thống để đánh giá

hiệu quả và hiệu suất của các dự án đầu tư R&D. Mục đích là nhằm kịp thời phát

hiện, xử lý những dự án đầu tư "chi phí cao-hiệu quả thấp"; đồng thời giúp đổi mới

hoạt động R&D của Chính phủ; đề xuất được các giải pháp thay thế hữu ích. Các

quốc gia không thể dựa vào một cách duy nhất để đổi mới và thúc đẩy sự phát triển

của doanh nghiệp. Bằng chứng cho thấy các doanh nghiệp có thể theo đuổi R&D

độc lập cũng như đổi mới công nghệ để phát triển. Việc sao chép các công nghệ

tiên tiến là một quá trình học hỏi quan trọng nhằm bắt kịp các quốc gia đi trước,

nhưng trên thực tế nó vẫn chưa phải là điều kiện đủ. Đổi mới một cách tích cực

thông qua nghiên cứu và phát triển trong nước là rất quan trọng để bắt kịp công

nghệ thành công.

Trọng tâm của mỗi quốc gia trong phát triển công nghệ là khác nhau ở các giai

đoạn phát triển khác nhau. Đối với các doanh nghiệp đang trong giai đoạn phát

triển ban đầu, việc đổi mới công nghệ có thể có lợi thế lớn hơn cho sự phát triển

nhanh chóng của họ. Tuy nhiên, cùng với sự tiến bộ và tích lũy công nghệ, các
doanh nghiệp nên chuyển dần từ dựa vào ứng dụng, đổi mới công nghệ sang theo

đuổi R&D độc lập để đạt được sự phát triển bền vững và ổn định.

You might also like