Professional Documents
Culture Documents
Ngôn ngữ
Tiếng Ba Na liên quan đến Tiếng Kinh.
Người Ba Na nói tiếng Ba Na thuộc Ngữ chi Ba Na là một ngôn ngữ thuộc Ngữ
hệ Nam Á (hay còn gọi ngôn ngữ Môn-Khmer), cùng với đó là Ngữ chi Ba
Na và Ngữ chi Việt-Mường được xếp vào ngôn ngữ Môn-Khmer.
Nhà cửa
Nhà sàn của người Ba Na trong khuôn viên Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)
Trong thời điểm hiện nay, trai gái yêu thương và tự nguyện đến với hôn nhân phổ
biến hơn nhiều so với quyết định gả bán của cha mẹ. Tuổi kết hôn cũng đang co xu
hướng tăng lên, thường con trai trên 25 tuổi mới lấy vợ, con gái khoảng 20 tuổi
mới lấy chồng. Việc gả bán con cái theo ý riêng của cha mẹ thường chỉ xảy ra giữa
gia đình giàu có với gia đình nghèo vì lý do kinh tế, hay sắc đẹp. Các gia đình
tương đương về điều kiện kinh tế, về địa vị xã hội thì con cái của họ phần lớn tự do
tìm hiểu để đi đến hôn nhân. Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời, lựa chọn thông gia dựa
trên việc so sánh giàu nghèo đã ít còn được đặt ra như trong quá khứ. Sự chênh
lệch tuổi tác giữa nam và nữ (thậm chí chênh lệch nhiều) cũng không phải là điều
quan trọng. Vấn đề mang tính quyết định để đi đến hôn nhân, trong thời điểm hiện
tại là trai gái phải thương yêu nhau. Tiêu chuẩn hàng đầu để các chàng trai, cô gái
nơi đây chọn bạn đời chính là đạo đức, sức khoẻ và tính cần cù, siêng năng và thạo
việc.
Đối với người Ba Na, hôn nhân một vợ một chồng từ lâu đã mang tính phổ biến và
bền vững. Trong làng, vào thời điểm hiện tại, tất cả đều là các gia đình một vợ một
chồng sinh sống cùng con cái. Dù do cha mẹ gả bán hay do họ tự tìm đến với nhau
do tiếng gọi của tình yếu thì hầu như tất cả các cặp vợ chồng đều sống với nhau
hạnh phúc đến đầu bạc, răng long. Rất ít trường hợp li dị. Các lý do dẫn đến li dị
giữa các cặp vợ chồng thường là do người vợ vô sinh, đàn ông ngoại tình hay có
những bất hòa không giải quyết được dẫn đến chửi mắng, đánh đập nhau. Hiện
nay, giải quyết vấn đề li dị của các cặp vợ chồng không chỉ dừng lại ở quyết định
của Hội đồng già làng như trước kia, mà phải được đưa ra xử lý theo pháp luật hiện
hành của Nhà nước. Tuy nhiên, khi vừa xảy ra những lục đục giữa các cặp vợ
chồng trong làng, Hội đồng già làng, thông qua Tổ hòa giải đã thể hiện vai trò của
mình. Nếu việc hoà giải không đạt được kết quả như ý, hai vợ chồng vẫn quyết ly
dị thì họ buộc phải đưa vụ việc ra giải quyết trước luật pháp.
Là một dân tộc theo nguyên tắc ngoại hôn dòng họ nên phong tục của người Ba Na
khuyến khích những đôi trai gái khác dòng họ kết hôn với nhau. Nếu xác định
được rõ ràng hai người trong cùng một krung ktum (dòng họ) thì chuyện cưới xin
khó xảy ra. Tuy nhiên, do có sự phân biệt giữa họ gần và họ xa nên nguyên tắc hôn
nhân ngoài dòng họ ở đây được thực thi với hai cấp độ khác nhau:
Thứ nhất, toàn bộ các thành viên nam nữ thuộc họ gần (krung ktum gel), tức là con
cháu trong vòng ba đời của một ông bà tổ, bao gồm cả bên cha và bên mẹ, như:
con cô, con cậu, con chú con bác, con dì con già; cháu cô cháu cậu, cháu chú cháu
bác, cháu dì cháu già...(còn gọi là gia đình) tuyệt đối không có quan hệ tính giao và hôn
nhân. Với người Gia-rai, một dân tộc láng giềng, cư trú tập trung tại tỉnh Gia Lai,
không có sự ngăn cấm kết hôn một cách nghiêm ngặt giữa hai người cùng một
dòng họ thuộc đời thứ ba, nhất là con cô con cậu. Người Ba Na làng Kon Rờ Bàng
ở Kon Tum thì khác, nếu ai vi phạm quy định đó tức đã mắc tội loạn luân (hagăm)
và bị làng xử phạt rất nặng theo luật tục. Họ cho rằng người cùng một dòng họ lấy
nhau là trái với đạo đức, khiến thần linh nổi giận gây ra các tai họa để trừng phạt
con người như cháy làng, dịch bệnh, mất mùa... Dòng họ nào để xảy ra chuyện đó
sẽ phải chuẩn bị đủ ba con trâu, ba con dê, ba con gà và 3 ché rượu để cúng thần
nhà rông, thần nước để giải hạn cho dân làng và chính hai gia đình đó. Nghi thức
quan trọng nhất trong lễ cúng là chủ làng đọc lời cúng mời giàng về ăn uống và
dân làng buộc đôi trai gái bị phạt lấy một ít tiết của con vật hiến sinh hòa với rượu,
đổ vào vỏ bầu mang đến từng nhà trong làng, dùng cành cây tre nhúng vào quả bầu
đựng nước rồi quết lên chân cầu thang với ngụ ý xua đuổi, tẩy uế mọi rủi ro tai
họa, mong giàng đừng bắt tội dân làng...[8]
Thứ hai, các thành viên nam, nữ thuộc họ xa (krung ktum gel), tức là con cháu của
một ông bà tổ, từ đời thứ bốn trở lên, tính theo đằng cha, cũng có thể lấy được
nhau, nhưng phải làm một lễ cúng nhỏ tạ lỗi với tổ tiên. Khi đó họ sẽ không mắc
vào tội loạn luân và không vi phạm luật tục.(đời thứ 5 mới lấy được)[8]
Những trường hợp nam, nữ quan hệ tình cảm sâu nặng với nhau mà không đi đến
hôn nhân, không làm thủ tục cưới hỏi thì làng thì bắt vạ một con dê, một con bò,
hoặc một con gà. Trước thập niên 1960, trai gái chưa cưới xin có quan hệ với nhau
lỡ có con, phải tiến hành lễ cúng thần trước khi trỉa lúa, vào khoảng đầu tháng 4,
với lễ vật là một con dê và một con lợn. Người dân quan niệm các trường hợp vi
phạm này đã làm ảnh hưởng đến thần đất, thần lúa nên buộc phải tiến hành lễ cúng
phạt trước khi trỉa lúa nếu không dân làng sẽ mất mùa, đói kém. Vào ngày tổ chức
nghi lễ, những con lợn, dê lễ vật được giết thịt lấy máu trộn với rượu. Cũng tương
tự như những người mắc tội loạn luân, đôi trai gái phạm tội phải lần lượt mang thứ
máu chộn rượu đó bôi vào chân từng chiếc cầu thang lên nhà trong làng, vừa bôi
vừa xin lỗi mọi người xin đừng nhớ, xin bỏ qua chuyện cũ... Trong trường hợp
người con gái có chửa mà không chịu khai ra bố của đứa trẻ thi cô ta sẽ phải chịu
hình phạt một mình, từ trách nhiệm chuẩn bị lễ vật tới việc thực hiện các thủ tục
trong lễ cúng. Trường hợp hai bên cùng nhau nhận lỗi thì chàng trai phải chịu trách
nhiệm cao hơn. Không chỉ chuẩn bị lễ vật nộp phạt và thực hiện nghi lễ, người con
trai còn phải cưới cô gái làm vợ và chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ nên người. Nếu
đã bị phát hiện và thừa nhận là cha của đứa trẻ mà không cưới cô gái và không
chịu chăm sóc đứa trẻ, ngoài việc nộp phạt cho làng, chàng trai còn phải đền cho
cô gái một con bò. Trường hợp người con gái có quan hệ với nhiều người con trai,
khi có thai, chàng trai có quan hệ với cô sau cùng phải đền nhiều hơn hoặc có thể
chia thành các phần trách nhiệm đều nhau.[8]
Theo phong tục truyền thống của người Ba Na làng Kon Rờ Bàng, những trường
hợp chồng hay vợ chết sớm chưa được làm lễ bỏ mả, người goá có thể tái giá,
nhưng trước đó phải tiến hành một lễ cúng với lễ vật gồm một ghè rượu, một con
gà. Sau khi tiến hành nghi lễ, việc tái giá của người goá được dân làng đồng tình,
ủng hộ. Vì vậy, nghi lễ này cũng có vai trò tương tự lễ bỏ mả. Tuy nhiên, đó là lễ
bỏ mả sớm. Thời gian sớm nhất có thể thực hiện nghi lễ này là 3 năm sau khi
người chồng hoặc người vợ mất đi. Trong trường hợp người goá có quan hệ trai,
gái trước thời điểm này sẽ bị làng phạt một bò làm lễ cúng, vì tội vi phạm quy định
hôn nhân. Sau khi người mẹ chết, nếu bố lấy vợ mới, con cái thường không ở với
bố và mẹ kế mà về sống với ông bà nội. Chỉ khi ông bà nội cũng đã mất, không
còn nơi nương tựa, con của người vợ trước mới ở chung với người vợ sau của bố.
Trong trường hợp người đàn ông đang sống cùng vợ con, nhưng lại có quan hệ tình
cảm sâu nặng với người phụ nữ khác, luật tục bắt buộc ông ta phải làm thủ tục li
dị, bỏ người vợ trước mới có quyền cưới người vợ sau. Về trai gái khi quen nhau
nếu người con gái có bầu mà người trai không nhận thì người trai sẽ bị làng phạt
vạ theo tục lệ mỗi làng để cúng ma làng như mỗ trâu mỗ lợn và vài ghè rượu mời
chức sắc trong làng đến uống , nếu không sẽ bị đuổi khỏi làng...[8]
Lịch Sử
Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây
Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số
đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao
nguyên miền Trung nước ta. Dân tộc Ba Na là tộc người có dân số đông trong cộng
đồng các dân tộc sinh sống ở cao nguyên miền Trung Việt Nam. Người Ba Na
cũng là chủ nhân của những sắc màu văn hoá độc đáo, đặc trưng cho cư dân của
vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió.
Kinh tế
Người Ba Na sinh sống nhờ nông nghiệp, chủ yếu là trồng rẫy. Cùng với trồng trọt,
từng gia đình thường có nuôi gia cầm, gia súc như trâu, bò, dê, lợn, gà. Chó cũng
được nuôi nhưng không bị giết thịt. Hầu như mỗi làng đều có lò rèn. Một số nơi
biết làm đồ gốm đơn giản, phụ nữ dệt vải tự túc đồ mặc trong gia đình. Đàn ông
đan chiếu, lưới, các loại gùi, giỏ, mủng... Việc mua bán theo nguyên tắc hàng đổi
hàng, xác định giá trị bằng gà, rìu, gùi thóc, lợn hay nồi đồng, ché, chiêng, cồng,
trâu v.v.
Văn hoá
Trang phục