You are on page 1of 9

Người Ba Na

Người Ba Na (Bahnar; các tên gọi khác: Jơ Lâng, Rơ Ngao, Tơ Lộ, Bơ Nâm,


Krem, Roh, Con Kde ) [3][4] là một dân tộc trong số 54 dân tộc tại Việt Nam [5].
Người Ba Na cư trú chủ yếu ở vùng Tây Nguyên và cao nguyên trung phần Việt
Nam, có dân số 174.456 người (đến năm 2003)[6] . Và có dân số 227.716 người vào
năm 2009.[7]

Hình ảnh nhà thờ gỗ Bana Kon Tum

Địa bàn cư trú

Hình ảnh người Bana Kon Tum


Theo Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, người Ba Na ở Việt Nam có dân số
227.716 người, cư trú tại 51 trên tổng số 63 tỉnh, thành phố. Người Ba Na cư trú
tập trung tại các tỉnh: Gia Lai (104.997 người, chiếm 11,8% dân số toàn tỉnh và
45,9% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Kon Tum (99.416 người, chiếm 12,5%
dân số toàn tỉnh và 43,7% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Phú Yên (4.145
người, chiếm 1,8 % tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Bình Định (18.175 người,
chiếm 8,0% tổng số người Ba Na tại Việt Nam), Đắk Lắk (301 người), Bình
Thuận (133 người)[1].
Người Ba Na có nhiều tên gọi khác nhau theo nơi cư trú hay phong tục tập quán
mỗi vùng.
Người Ba Na là dân tộc bản địa Việt Nam có từ lâu đời tập trung ở các vùng Tây
Nguyên điển hình là hai tỉnh Kon Tum, Gia Lai đây được coi là bản địa cũng như
địa bàn cư trú của người Ba Na
Tại Mỹ có một số người Ba Na nhập cư theo diện HO.[2]

Ngôn ngữ
Tiếng Ba Na liên quan đến Tiếng Kinh.
Người Ba Na nói tiếng Ba Na thuộc Ngữ chi Ba Na là một ngôn ngữ thuộc Ngữ
hệ Nam Á (hay còn gọi ngôn ngữ Môn-Khmer), cùng với đó là Ngữ chi Ba
Na và Ngữ chi Việt-Mường được xếp vào ngôn ngữ Môn-Khmer.

Nhà cửa

Nhà Rông người Ba Na


Ở mỗi làng có một nhà công cộng là nhà Rông to, đẹp ở giữa làng. Nhà rông cao
lớn và đẹp đứng nổi bật giữa làng, đó là trụ sở của làng, nơi các già làng họp bàn
việc công, nơi dân làng hội họp, nơi trai chưa vợ và góa vợ ngủ đêm, nơi tiến hành
các nghi lễ phong tục của cộng đồng và cũng là nơi tiếp khách lạ vào làng.
Nhà ở của người Ba Na thuộc loại hình nhà sàn. Trước đây khi chế độ gia đình lớn
còn thịnh hành, ở vùng người Ba Na sinh sống thường có những căn nhà dài hàng
trăm mét, tuy nhiên hiện nay chế độ gia đình lớn không còn nữa, mô hình các gia
đình nhỏ với những căn nhà sàn gọn gàng xuất hiện ngày càng nhiều. Nhà sàn ngắn
của các gia đình nhỏ là phổ biến. Nhà sàn thường dài từ 7m đến 15m, rộng từ 3m-
4m, cao từ 4m-5m, sàn cách mặt đất khoảng 1m đến 1,5m
Mặc dù có nhiều thay đổi, nhưng vẫn tìm được ở nhiều địa phương khác nhau
những ngôi nhà Ba Na với những đặc điểm đặc trưng của nhà cổ truyền Ba Na là
nhà nóc hình mai rùa hoặc chỉ còn là hai mái chính với hai mái phụ hình khum -
dấu vết của nóc hình mai rùa. Chỏm đầu dốc có "sừng" trang trí (với các kiểu khác
nhau tùy theo địa phương). Vách che nghiêng theo thế "thượng thu hạ thách". Có
nhà, cột xung quanh nhà cũng chôn nghiêng như thế vách. Thang đặt vào một sàn
lộ thiên trước cửa nhà. Trên sàn này người ta đặt cối giã gạo (cối chày tay). Điểm
đáng chú ý là dưới đáy cối có một cái "ngõng". Khi giã gạo người ta cắm cái ngõng
ấy vào một cái lỗ đục trên một thanh gỗ đặt trên sàn.
Nhà tre vách nhưng có thêm lớp đố, bên ngoài buộc rất cầu kỳ như là một lớp trang
trí.
Bộ khung nhà kết cấu đơn giản. Có làm vì kèo nhưng vẫn trên cơ sở của vì cột. Tổ
chức mặt bằng đơn giản.[3]

Hôn nhân, gia đình

Đứa trẻ người Ba Na


Người Ba Na cho phép tự do tìm hiểu và lựa chọn bạn đời, việc cưới xin đều theo
nếp cổ truyền. Vợ chồng trẻ ở luân phiên mỗi bên một thời gian, theo thỏa thuận
giữa hai gia đình hai bên, sau khi sinh con đầu lòng mới làm nhà riêng. Trẻ em
luôn được yêu quý. Dân làng không đặt trùng tên nhau. Trong trường hợp những
người trùng tên gặp nhau, họ làm lễ kết nghĩa, tùy tuổi tác mà xác lập quan hệ anh-
em, cha-con, mẹ-con.
Các con được thừa kế gia tài như nhau. Trong gia đình, mọi người sống hòa thuận
bình đẳng. Người Ba Na thờ cúng nhiều thần linh.[8]
Hôn nhân
Trước đây, trai gái Ba Na khi đến tuổi trưởng thành (20 tuổi đối với nam; 18 tuổi
đối với nữ), được tự do yêu thương, tìm hiểu lẫn nhau, nhưng quyền quyết định đi
đến hôn nhân không phải không có ảnh hưởng của cha mẹ. Trong thực tế, nhiều
khi cha mẹ can thiệp rất nhiều vào chuyện hôn nhân của con cái. Thậm chí, trong
một số trưởng hợp, quyết định gả cưới của cha mẹ hoàn toàn đi ngược lại mong
muốn của các con. Chính vì vậy, trong ngôn ngữ của người dân ở đây tồn tại hai
thuật ngữ hôn nhân. Trong tường hợp trai gái tự do yêu đương và tìm người bạn
đời tiến tới hôn nhân, người dân gọi là chărơihkơ ding (hôn nhân tự chọn); trường
hợp cha mẹ quyết định gả bán con theo ý kiến riềng của mình, người dân gọi là mẽ
bă pơ giao ăn (cha mẹ gả bán).[8]

Nhà sàn của người Ba Na trong khuôn viên Bảo tàng Quang Trung (Bình Định)
Trong thời điểm hiện nay, trai gái yêu thương và tự nguyện đến với hôn nhân phổ
biến hơn nhiều so với quyết định gả bán của cha mẹ. Tuổi kết hôn cũng đang co xu
hướng tăng lên, thường con trai trên 25 tuổi mới lấy vợ, con gái khoảng 20 tuổi
mới lấy chồng. Việc gả bán con cái theo ý riêng của cha mẹ thường chỉ xảy ra giữa
gia đình giàu có với gia đình nghèo vì lý do kinh tế, hay sắc đẹp. Các gia đình
tương đương về điều kiện kinh tế, về địa vị xã hội thì con cái của họ phần lớn tự do
tìm hiểu để đi đến hôn nhân. Tiêu chuẩn lựa chọn bạn đời, lựa chọn thông gia dựa
trên việc so sánh giàu nghèo đã ít còn được đặt ra như trong quá khứ. Sự chênh
lệch tuổi tác giữa nam và nữ (thậm chí chênh lệch nhiều) cũng không phải là điều
quan trọng. Vấn đề mang tính quyết định để đi đến hôn nhân, trong thời điểm hiện
tại là trai gái phải thương yêu nhau. Tiêu chuẩn hàng đầu để các chàng trai, cô gái
nơi đây chọn bạn đời chính là đạo đức, sức khoẻ và tính cần cù, siêng năng và thạo
việc.
Đối với người Ba Na, hôn nhân một vợ một chồng từ lâu đã mang tính phổ biến và
bền vững. Trong làng, vào thời điểm hiện tại, tất cả đều là các gia đình một vợ một
chồng sinh sống cùng con cái. Dù do cha mẹ gả bán hay do họ tự tìm đến với nhau
do tiếng gọi của tình yếu thì hầu như tất cả các cặp vợ chồng đều sống với nhau
hạnh phúc đến đầu bạc, răng long. Rất ít trường hợp li dị. Các lý do dẫn đến li dị
giữa các cặp vợ chồng thường là do người vợ vô sinh, đàn ông ngoại tình hay có
những bất hòa không giải quyết được dẫn đến chửi mắng, đánh đập nhau. Hiện
nay, giải quyết vấn đề li dị của các cặp vợ chồng không chỉ dừng lại ở quyết định
của Hội đồng già làng như trước kia, mà phải được đưa ra xử lý theo pháp luật hiện
hành của Nhà nước. Tuy nhiên, khi vừa xảy ra những lục đục giữa các cặp vợ
chồng trong làng, Hội đồng già làng, thông qua Tổ hòa giải đã thể hiện vai trò của
mình. Nếu việc hoà giải không đạt được kết quả như ý, hai vợ chồng vẫn quyết ly
dị thì họ buộc phải đưa vụ việc ra giải quyết trước luật pháp.
Là một dân tộc theo nguyên tắc ngoại hôn dòng họ nên phong tục của người Ba Na
khuyến khích những đôi trai gái khác dòng họ kết hôn với nhau. Nếu xác định
được rõ ràng hai người trong cùng một krung ktum (dòng họ) thì chuyện cưới xin
khó xảy ra. Tuy nhiên, do có sự phân biệt giữa họ gần và họ xa nên nguyên tắc hôn
nhân ngoài dòng họ ở đây được thực thi với hai cấp độ khác nhau:
Thứ nhất, toàn bộ các thành viên nam nữ thuộc họ gần (krung ktum gel), tức là con
cháu trong vòng ba đời của một ông bà tổ, bao gồm cả bên cha và bên mẹ, như:
con cô, con cậu, con chú con bác, con dì con già; cháu cô cháu cậu, cháu chú cháu
bác, cháu dì cháu già...(còn gọi là gia đình) tuyệt đối không có quan hệ tính giao và hôn
nhân. Với người Gia-rai, một dân tộc láng giềng, cư trú tập trung tại tỉnh Gia Lai,
không có sự ngăn cấm kết hôn một cách nghiêm ngặt giữa hai người cùng một
dòng họ thuộc đời thứ ba, nhất là con cô con cậu. Người Ba Na làng Kon Rờ Bàng
ở Kon Tum thì khác, nếu ai vi phạm quy định đó tức đã mắc tội loạn luân (hagăm)
và bị làng xử phạt rất nặng theo luật tục. Họ cho rằng người cùng một dòng họ lấy
nhau là trái với đạo đức, khiến thần linh nổi giận gây ra các tai họa để trừng phạt
con người như cháy làng, dịch bệnh, mất mùa... Dòng họ nào để xảy ra chuyện đó
sẽ phải chuẩn bị đủ ba con trâu, ba con dê, ba con gà và 3 ché rượu để cúng thần
nhà rông, thần nước để giải hạn cho dân làng và chính hai gia đình đó. Nghi thức
quan trọng nhất trong lễ cúng là chủ làng đọc lời cúng mời giàng về ăn uống và
dân làng buộc đôi trai gái bị phạt lấy một ít tiết của con vật hiến sinh hòa với rượu,
đổ vào vỏ bầu mang đến từng nhà trong làng, dùng cành cây tre nhúng vào quả bầu
đựng nước rồi quết lên chân cầu thang với ngụ ý xua đuổi, tẩy uế mọi rủi ro tai
họa, mong giàng đừng bắt tội dân làng...[8]
Thứ hai, các thành viên nam, nữ thuộc họ xa (krung ktum gel), tức là con cháu của
một ông bà tổ, từ đời thứ bốn trở lên, tính theo đằng cha, cũng có thể lấy được
nhau, nhưng phải làm một lễ cúng nhỏ tạ lỗi với tổ tiên. Khi đó họ sẽ không mắc
vào tội loạn luân và không vi phạm luật tục.(đời thứ 5 mới lấy được)[8]
Những trường hợp nam, nữ quan hệ tình cảm sâu nặng với nhau mà không đi đến
hôn nhân, không làm thủ tục cưới hỏi thì làng thì bắt vạ một con dê, một con bò,
hoặc một con gà. Trước thập niên 1960, trai gái chưa cưới xin có quan hệ với nhau
lỡ có con, phải tiến hành lễ cúng thần trước khi trỉa lúa, vào khoảng đầu tháng 4,
với lễ vật là một con dê và một con lợn. Người dân quan niệm các trường hợp vi
phạm này đã làm ảnh hưởng đến thần đất, thần lúa nên buộc phải tiến hành lễ cúng
phạt trước khi trỉa lúa nếu không dân làng sẽ mất mùa, đói kém. Vào ngày tổ chức
nghi lễ, những con lợn, dê lễ vật được giết thịt lấy máu trộn với rượu. Cũng tương
tự như những người mắc tội loạn luân, đôi trai gái phạm tội phải lần lượt mang thứ
máu chộn rượu đó bôi vào chân từng chiếc cầu thang lên nhà trong làng, vừa bôi
vừa xin lỗi mọi người xin đừng nhớ, xin bỏ qua chuyện cũ... Trong trường hợp
người con gái có chửa mà không chịu khai ra bố của đứa trẻ thi cô ta sẽ phải chịu
hình phạt một mình, từ trách nhiệm chuẩn bị lễ vật tới việc thực hiện các thủ tục
trong lễ cúng. Trường hợp hai bên cùng nhau nhận lỗi thì chàng trai phải chịu trách
nhiệm cao hơn. Không chỉ chuẩn bị lễ vật nộp phạt và thực hiện nghi lễ, người con
trai còn phải cưới cô gái làm vợ và chăm sóc, nuôi dưỡng đứa trẻ nên người. Nếu
đã bị phát hiện và thừa nhận là cha của đứa trẻ mà không cưới cô gái và không
chịu chăm sóc đứa trẻ, ngoài việc nộp phạt cho làng, chàng trai còn phải đền cho
cô gái một con bò. Trường hợp người con gái có quan hệ với nhiều người con trai,
khi có thai, chàng trai có quan hệ với cô sau cùng phải đền nhiều hơn hoặc có thể
chia thành các phần trách nhiệm đều nhau.[8]
Theo phong tục truyền thống của người Ba Na làng Kon Rờ Bàng, những trường
hợp chồng hay vợ chết sớm chưa được làm lễ bỏ mả, người goá có thể tái giá,
nhưng trước đó phải tiến hành một lễ cúng với lễ vật gồm một ghè rượu, một con
gà. Sau khi tiến hành nghi lễ, việc tái giá của người goá được dân làng đồng tình,
ủng hộ. Vì vậy, nghi lễ này cũng có vai trò tương tự lễ bỏ mả. Tuy nhiên, đó là lễ
bỏ mả sớm. Thời gian sớm nhất có thể thực hiện nghi lễ này là 3 năm sau khi
người chồng hoặc người vợ mất đi. Trong trường hợp người goá có quan hệ trai,
gái trước thời điểm này sẽ bị làng phạt một bò làm lễ cúng, vì tội vi phạm quy định
hôn nhân. Sau khi người mẹ chết, nếu bố lấy vợ mới, con cái thường không ở với
bố và mẹ kế mà về sống với ông bà nội. Chỉ khi ông bà nội cũng đã mất, không
còn nơi nương tựa, con của người vợ trước mới ở chung với người vợ sau của bố.
Trong trường hợp người đàn ông đang sống cùng vợ con, nhưng lại có quan hệ tình
cảm sâu nặng với người phụ nữ khác, luật tục bắt buộc ông ta phải làm thủ tục li
dị, bỏ người vợ trước mới có quyền cưới người vợ sau. Về trai gái khi quen nhau
nếu người con gái có bầu mà người trai không nhận thì người trai sẽ bị làng phạt
vạ theo tục lệ mỗi làng để cúng ma làng như mỗ trâu mỗ lợn và vài ghè rượu mời
chức sắc trong làng đến uống , nếu không sẽ bị đuổi khỏi làng...[8]

Lịch Sử
Dân tộc Ba Na là một trong những cư dân sinh tụ lâu đời ở Trường Sơn - Tây
Nguyên đã kiến lập nên nền văn hoá độc đáo ở đây. Họ là tộc người có dân số
đông nhất, chiếm vị trí rất quan trọng trong các lĩnh vực văn hoá, xã hội ở các cao
nguyên miền Trung nước ta. Dân tộc Ba Na là tộc người có dân số đông trong cộng
đồng các dân tộc sinh sống ở cao nguyên miền Trung Việt Nam. Người Ba Na
cũng là chủ nhân của những sắc màu văn hoá độc đáo, đặc trưng cho cư dân của
vùng đất Tây Nguyên đầy nắng và gió.

Kinh tế
Người Ba Na sinh sống nhờ nông nghiệp, chủ yếu là trồng rẫy. Cùng với trồng trọt,
từng gia đình thường có nuôi gia cầm, gia súc như trâu, bò, dê, lợn, gà. Chó cũng
được nuôi nhưng không bị giết thịt. Hầu như mỗi làng đều có lò rèn. Một số nơi
biết làm đồ gốm đơn giản, phụ nữ dệt vải tự túc đồ mặc trong gia đình. Đàn ông
đan chiếu, lưới, các loại gùi, giỏ, mủng... Việc mua bán theo nguyên tắc hàng đổi
hàng, xác định giá trị bằng gà, rìu, gùi thóc, lợn hay nồi đồng, ché, chiêng, cồng,
trâu v.v.

Văn hoá

Klong put của người Ba Na.


Đàn T'rưng của người Ba Na.
Nhạc cụ đa dạng: cồng, chiêng kết cấu đa dạng, đàn: t'rưng, brọ, khinh khung,
gôông, klông pút, kơni, kèn: tơ nốt, arơng, tơ tiếp,... Nghệ thuật chạm khắc gỗ phát
triển. Trong kho tàng văn nghệ dân gian, còn phải kể đến các làn điệu dân ca, các
điệu múa trong những ngày hội hay các nghi lễ tôn giáo. Những hình thức trang trí
sinh động trên nhà rông và đặc biệt những tượng nhà mồ v.v... mộc mạc, đơn sơ,
nhưng tinh tế và sinh động như cuộc sống của người Ba Na.[3]

Trang phục

Bộ đồ truyền thống nữ của người Bahnar-Rơngao Kon Tum


 Trang phục nam: nam giới Ba Na mặc áo chui đầu, cổ xẻ. Đây là loại áo cộc
tay, thân áo có đường trang trí sọc đỏ chạy ngang, gấu áo màu trắng. Nam
mang khố hình chữ T theo lối quấn ngang dưới bụng, luồn qua háng rồi che
một phần mông. Ngày rét, họ mang theo tấm choàng. Ngày trước nam giới búi
tóc giữa đỉnh đầu hoặc để xõa. Nếu có mang khăn thì thường chít theo kiểu đầu
rìu. Trong dịp lễ bỏ mả, họ thường búi tóc sau gáy và cắm một lông chim công.
Nam cũng thường mang vòng tay bằng đồng.
 Trang phục nữ: Phụ nữ Ba Na ưa để tóc ngang vai, có khi búi và cài lược hoặc
lông chim, hoặc trâm bằng đồng, thiếc. Có nhóm không chít khăn mà chỉ quấn
bằng chiếc dây vải hay vòng cườm. Có nhóm như ở An Khê, Mang Giang hoặc
một số nơi khác họ chít khăn trùm kín đầu, khăn chàm quấn gọn trên đầu.
Trước đây, họ đội nón hình vuông hoặc tròn trên có thoa sáp ong để khỏi ngấm
nước, đôi khi có áo tơi vừa mặc vừa che đầu. Họ thường đeo chuỗi hạt cườm ở
cổ và vòng tay bằng đồng xoắn ốc dài từ cổ đến khủy tay (theo kiểu hình nón
cụt). Nhẫn được dùng phổ biến và thường được đeo ở hai, ba ngón tay. Tục xả
tai phổ biến vừa mang ý nghĩa trang sức vừa mang ý nghĩa tín ngưỡng của cộng
đồng. Hoa tai có thể là kim loại, có thể là tre, gỗ. Tục cà răng mang theo quan
niệm của cộng đồng hơn là trang sức. Phụ nữ Ba Na mặc áo chủ yếu là loại
chui đầu, ngắn thân và váy. Áo có thể cộc tay hay dài tay. Váy là loại váy hở,
thường là ngắn hơn váy của người Ê Đê, ngày nay thì dài như nhau. Quanh
bụng còn đeo những vòng đồng và cài tẩu hút thọc vào đó.
Về tạo hình áo váy, người Ba Na không có gì khác biệt mấy so với dân tộc Gia-
rai hoặc Ê-đê. Tuy nhiên, nó khác nhau ở phong cách mỹ thuật trang trí hoa văn,
bố cục trên áo váy của người Ba Na. Theo nguyên tắc bố cục dải băng theo chiều
ngang thân người, dân tộc Ba Na dành phần chính ở giữa thân áo và váy với diện
tích hơn một nửa áo, váy cũng như hai ống tay để trang trí hoa văn (chủ yếu là hoa
văn với các màu trắng đỏ), nền chàm còn lại của áo váy không đáng kể so với diện
tích hoa văn. Thắt lưng váy được dệt thêu hoa văn và tua vải hai đầu, được thắt và
buông thõng dài hai đầu sang hai bên hông

You might also like