You are on page 1of 11

1.

Nhận thức về người đồng tính và quyền của người đồng tính trên thế giới
Thực chất của vấn đề đồng tính là ở thiên hướng tình dục. Đây là từ dùng để chỉ sự hấp
dẫn về tình cảm, sự lãng mạn, trìu mến và hấp dẫn về tình dục của một người đối với những
người cùng giới, khác giới hay đối với cả hai. Nhận thức về thiên hướng tình dục có cả một
quá trình lâu dài trên thế giới. Một người bị hấp dẫn bởi những người khác giới được gọi
là heterosexual (người có thiên hướng tình dục với người khác giới) – bắt nguồn từ tiếng
Hi Lạp heteros có nghĩa là “khác”. Nhiều người sử dụng từ straight (thẳng) để chỉ những
nam giới hay phụ nữ có thiên hướng tình dục với người khác giới. Một người bị hấp dẫn
bởi những người cùng giới được gọi là homosexual (đồng tính luyến ái) (bắt nguồn từ tiếng
Hi Lạp homos có nghĩa là “cùng”). Những cuộc thảo luận ngày nay xung quanh khái niệm
sở thích tình dục (sexual preference), hay đối tượng ham muốn tình dục của một người.
Tuy nhiên, ngày càng có nhiều nhà tình dục học và các chuyên gia khác chọn cụm từ thiên
hướng tình dục (sexual orientation) thay vì sở thích tình dục, vì sở thích tình dục cho thấy
rằng sự hấp dẫn tình dục luôn là vấn đề của sự lựa chọn. Nhà tình dục học John Money
(1987) đã viết:

“Sở thích tình dục là một thuật ngữ mang tính đạo đức và chính trị. Về mặt khái niệm, nó
dùng để chỉ sự lựa chọn tự nguyện, có nghĩa là một người chọn hoặc thích trở thành người
đồng tính luyến ái thay vì là người có thiên hướng tình dục với người khác giới hay là
người ái nam ái nữ và ngược lại. Về mặt chính trị, sở thích tình dục là một thuật ngữ nguy
hiểm vì nó ám chỉ rằng nếu người đồng tính luyến ái chọn được sở thích của mình thì họ
có thể bị pháp luật ép buộc, dưới sự đe doạ của việc sẽ bị trừng phạt, để phải chọn trở thành
người có thiên hướng tình dục với người khác giới. Ở đây có thể thấy khái niệm về sự lựa
chọn tình nguyện là sai, và cũng là sai khi áp dụng nó để nói về sự lựa chọn của người có
khuynh hướng chỉ dùng một tay hay sự lựa chọn tiếng mẹ đẻ. Bạn không thể chọn tiếng
mẹ đẻ của mình, cho dù bạn sinh ra chưa có nó”[1].
Vào những năm 1940 và 1950, Alfred Kinsey và các đồng nghiệp của ông đã đưa ra ý kiến
rằng thiên hướng tình dục tồn tại dọc một thể liên tục. Trước nghiên cứu của Kinsey về
thói quen tình dục của người Mỹ, các chuyên gia (cũng như công chúng) nói chung tin rằng
hầu hết mọi người hoặc là người đồng tính luyến ái hoặc là người có xu hướng tình dục
với người khác giới. Kinsey đoán rằng các loại thiên hướng tình dục không hề rõ ràng như
mọi người vẫn tưởng. Trong thang 7 điểm của Kinsey dùng để đo thiên hướng tình dục (0
điểm có nghĩa là một người hoàn toàn có thiên hướng tình dục với người khác giới, 6 điểm
có nghĩa là một người hoàn toàn đồng tính luyến ái), những người trong thử nghiệm mẫu
của ông đều từng ít nhất đã bị hấp dẫn một chút với những người cùng giới, tuy nhiên hầu
hết những người đó đều không thể hiện khao khát đó của mình. Giống với trường hợp của
nhiều nghiên cứu khoa học xã hội, các kết luận của Kinsey về tình trạng ái nam ái nữ bị
nghi ngờ. Ví dụ, hai nhà tâm lý học Robert Carson và James Butcher (1992) đã viết: “Trên
quan điểm của chúng tôi, nhiều con số mà Kinsey và các đồng nghiệp đưa ra không khẳng
định được tính phổ quát của tình trạng ái nam ái nữ như một số loại trung lập dục tính cơ
bản. Điều mà họ nêu là nhiều đàn ông từ chối không quan hệ tình dục với phụ nữ có thể và
có “sự thỏa mãn tối đa” bằng cách quan hệ tình dục với người đàn ông khác, là do nghiên
cứu của họ, giờ thì ai cũng biết, được thực hiện trên những người tù, hoặc tương tự”. Điều
quan trọng là cần phải nhớ rằng tình dục hướng giới tính khác cũng là vấn đề thuộc thiên
hướng tình dục, giống như đồng tính luyến ái hay ái nam ái nữ. Mặc dù nhiều người cho
rằng có thể chuyển đổi thiên hướng tình dục của một người, thường là những người có
thiên hướng tình dục với người khác giới nói về những người đồng tính luyến ái, thì câu
nói đó (dù đúng hay sai) cũng cần phải được áp dụng một cách công bằng cho tất cả mọi
người thuộc tất cả các thiên hướng tình dục[2].

Năm 1990, tổ chức Y tế thế giới (WHO) đã loại đồng tính ra khỏi danh sách các loại bệnh.
Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cộng đồng giới tính này. Trước năm 1990,
dường như các kiến thức về đồng tính trên thế giới cũng chưa được biết đến nhiều, chưa
được định hình một cách cụ thể, và do đó các quan niệm cũ, các tác động ảnh hưởng từ
nhiều nguyên nhân khác nhau đã khiến cho các tổ chức có cái nhìn chưa đúng đắn về hiện
tượng đồng tính. Nguồn gốc của hiện tượng này đều được các tài liệu nghiên cứu cho rằng
đã xuất hiện từ rất xa xưa trên trái đất[3]. Tập quán tình dục thay đổi theo thời gian. Khái
niệm “đồng tính luyến ái” hiện đang được hiểu ở các nước Tây phương là một khái niệm
mới, không tương ứng với khái niệm trước đây. Trong cuộc đời của nhiều người quan trọng
trong lịch sử như Alexandre Đại Đế, Leonardo da Vinci, Michelangelo, Plato,… có thể
được xem là có quan hệ tình dục với người cùng phái, nhưng khái niệm “đồng tính luyến
ái” hiện đại là một khái niệm họ chưa được biết đến. Tại châu Á việc ái tình đồng tính là
một việc hằng ngày từ xưa. Những người Tây phương đến các khu này thường sửng sốt về
việc nó được chấp nhận và trưng bày công khai. Tại Trung Quốc, quan hệ đồng tính được
ghi nhận từ năm 600 TCN. Nhiều từ nói trại được dùng để miêu tả việc này. Các mối quan
hệ thường giữa những người có tuổi tác và địa vị xã hội khác biệt nhau. Trong quyển Hồng
Lâu Mộng, những việc âu yếm và quan hệ tình dục giữa những người đồng giới không gì
xa lạ đối với độc giả. Tại Nhật Bản, thói quen này được gọi là shudo (chúng đạo) hay
nanshoku (nam sắc), đã được ghi lại trong nhiều tài liệu trên một nghìn năm và là một phần
quan trọng trong các tu viện đạo Phật cũng như truyền thống samurai. Nền văn hóa ái tình
đồng tính này đã dẫn đến một truyền thống hình vẽ và văn chương ghi nhận và ca tụng các
quan hệ này. Tương tự, tại Thái Lan không có khái niệm “đồng tính luyến ái” mãi đến cuối
thế kỷ XX. Tuy nhiên, kathoey hay “trai nữ” (cô chàng) là một phần trong xã hội Thái
trong nhiều thế kỷ. Họ là những người nam giới ăn mặc quần áo phụ nữ, có thể đã cắt bỏ
phần ngoài của bộ phận sinh dục nam. Họ thường được xã hội chấp nhận, không bị phiền
toái, tuy nhiên một gia đình có con trai trở thành kathoey thường thất vọng. Quan niệm của
đạo Phật trong xã hội Thái chấp nhận một giới tính thứ ba.

Tại phương Tây, những tài liệu Tây phương lâu đời nhất (trong hình thức mỹ thuật, văn
học, và truyền thuyết) về mối quan hệ đồng tính được tìm thấy từ Hy Lạp thời thượng cổ,
nơi các mối quan hệ đồng tính được xã hội tạo nên, được thành lập qua thời gian từ thành
phố này đến thành phố khác. Lệ này, một hệ thống của những mối quan hệ giữa một người
đàn ông lớn tuổi và một thanh niên đang trưởng thành, được xem là có giá trị dạy dỗ, đồng
thời để kiềm chế mức độ gia tăng dân số, đôi khi bị xem là làm mất trật tự. Plato đã ca ngợi
những lợi ích của việc này trong các tác phẩm lúc đầu, nhưng trong các tác phẩm sau này
ông đã đề nghị ngăn cấm nó. Trong thời Phục Hưng, những thành phố ở miền bắc nước Ý,
đặc biệt là Firenze và Venezia, rất nổi tiếng về việc ái tình đồng tính, được phần đông dân
số nam theo và được tạo theo kiểu mẫu ở Hy Lạp và La Mã (Ruggiero, 1985; Rocke, 1996).
Tuy nhiên, trong khi phần đông dân số người nam theo tục lệ này, những nhà chức trách
vẫn khởi tố, phạt và bắt bớ nhiều người. Chính nhạc disco có nguồn gốc từ sự liên kết ban
đầu với lối sống của một bộ phận giới đồng tính luyến ái nam ở thành phố New York và
sau đó được phát triển trên nền tảng nhạc đại chúng da đen trong những năm của thập niên
1970.

Trong những năm tháng đó, nhiều quốc gia đã đưa đồng tính vào danh sách các bệnh về
tâm thần. Quan niệm đồng tính luyến ái là rối loạn tâm lý là một quan niệm phổ biến ở
phương Tây từ thế kỷ XIX và sang đến một phần thế kỷ XX, và có lẽ nó lan truyền cùng
với sự phổ biến của y học phương Tây. Đến những thập niên cuối thế kỷ XX, khoa học đã
khẳng định đồng tính luyến ái không phải là bệnh. Nhiều nước lần lượt loại bỏ đồng tính
luyến ái khỏi danh sách bệnh tâm thần, bắt đầu là Hiệp hội tâm lý Hoa Kỳ đã loại đồng
tính ra khỏi danh sách bệnh tâm thần vào năm 1973. Tại Trung Quốc năm 2001 cũng đã
loại đồng tính luyến ái khỏi danh sách bệnh tâm thần. Đồng tính luyến ái được coi là một
phần của đa dạng tính dục con người, chứ không phải là bệnh. Đến năm 1990, như đã nêu
ở trên, Tổ chức Y tế Thế giới, là cơ quan của Liên Hợp Quốc cố vấn chuyên môn cho các
quốc gia về y tế, đã loại bỏ đồng tính luyến ái khỏi danh sách bệnh tâm thần. Động thái
này đã một lần nữa khẳng định đồng tính chỉ là một xu hướng tính dục như bao xu hướng
khác (lưỡng giới, vô tính,..) góp phần xua đuổi quan niệm nặng nề tại các nước trên thế
giới về giới đồng tính. Đến thời điểm hiện tại đã hình thành hai quan điểm quan trọng về
nguyên nhân của xu hướng tình dục này, đó là do các mặt tác động về xã hội và do mặt
sinh lí, thần kinh của con người.

Tuy nhiên, có thể nhận thấy, việc tổ chức WHO loại bỏ đồng tính khỏi danh sách bệnh
dường như chưa được tác dụng như mong đợi tại các quốc gia cụ thể trên thế giới trong
những giai đoạn tiếp theo. Trong giai đoạn đó, các tổ chức quốc tế khác vẫn chưa ban hành
những tuyên bố nào bảo vệ những người có xu hướng lệch lạc tình dục, các quốc gia phần
lớn là không đồng tình với xu hướng đồng tính, thậm chí có một số quốc gia còn cho đó là
tội, phải bị xử phạt, thậm chí là đi tù, tử hình,… (chẳng hạn như Ba Lan năm 1932, Đan
Mạch năm 1933, Thụy Điển năm 1944 và Anh năm 1967, cộng đồng đồng tính vẫn chưa
có quyền hợp pháp dẫu chỉ là hạn chế cho đến giữa những năm 70). Thực sự đây quả là
những điều rất đau đớn đối với giới đồng tính.

Sau khi sự xuất hiện của nhiều tổ chức đồng tính trong bộ phận khác nhau của thế giới thì
bắt đầu thảo luận vấn đề nhân quyền liên quan đến đồng tính. Năm 1993, các vấn đề về
định hướng giới tính được đưa vào chương trình nghị sự của Hội nghị Liên hợp quốc về
Nhân quyền tại Vienna (Áo) nhưng bị phản đối bởi các nước bảo thủ, bao gồm cả
Singapore. Tuy nhiên, trong năm 1990 tại Mỹ, bang San Francisco đã thành lập một tổ
chức quốc tế cho giới Gay (đồng tính nam) và Lesbian (đồng tính nữ) với tên gọi Ủy ban
Nhân quyền (IGLHRC). Năm 1994, vấn đề định hướng tình dục lại bùng nổ từ cuộc tranh
luận tại Hội nghị quốc tế về Dân số và Phát triển (ICPD, Cairo, Ai Cập), và các đảng đối
lập bảo thủ. Indonesia là quốc gia đã có những bác bỏ một cách rõ ràng về vấn đề này.
Trong cùng năm đó, Nam Phi trở thành quốc gia đầu tiên ghi nhận vấn đề đảm bảo không
phân biệt đối xử dựa trên khuynh hướng tình dục trong Hiến pháp. Vào tháng 4/2001, Hà
Lan trở thành quốc gia đầu tiên hợp pháp hóa hôn nhân cho giới đồng tính nam và đồng
tính nữ. Theo luật của nước này, một trong hai người đồng tính muốn kết hôn với nhau
phải là công dân hoặc đã cứ trú lâu dài tại Hà Lan. Hiệp ước Quốc tế về Quyền chính trị
và Quyền dân sự (ICCPR), mà Hoa Kỳ là một thành viên ký kết, cấm phân biệt đối xử trên
cơ sở giới tính[4]. Năm 1994, trong vụ Nicholas Toonen kiện Australia, Uỷ ban Nhân
quyền Liên hiệp quốc (cơ quan theo dõi sự tuân thủ và phân xử bạo hành theo ICCPR)
nhận định các luật trừng phạt hành vi đồng giới ở người trưởng thành liên ứng là xâm phạm
các nguyên tắc bảo vệ chống kỳ thị trong ICCPR[5]. Đặt biệt, Uỷ ban Nhân quyền cho rằng
“khuynh hướng tình cảm giới tính” là một tình trạng được bảo vệ trước sự phân biệt đối
xử, theo ICCPR, nhận định rằng tham chiếu đến “tính dục” trong các điều khoản 2 và 26
là đã bao gồm khuynh hướng tính dục[6]. Nên, cùng một ứng dụng đúng lý đối với hôn
nhân, việc ngăn chặn những người đồng giới nam và nữ đi đến hôn nhân dân sự là một
hình thức kỳ thị về thiên hướng tình cảm giới tính[7]. Giai đoạn 2001-2003, các cuộc tranh
luận sự phân biệt giới tính ảnh hưởng đến nhân quyền càng mạnh mẽ. Brazil đã đề nghị Ủy
ban nhân quyền của Liên hợp quốc nên có những động thái ghi nhận nhân quyền con người
trong đó có khuynh hướng tình dục như một khía cạnh của quyền con người. Từ đó đến
nay, các tuyên ngôn nhân quyền của tổ chức Liên hợp quốc (UNESCO), đặc biệt là Nghị
quyết của Hội đồng Nhân quyền Liên Hiệp Quốc (tháng 6/2011) đã khẳng định “mọi người
đều có quyền bình đẳng, bất kể thiên hướng tình dục như thế nào”. Liên hiệp quốc cũng có
một phạm vi rộng rãi trong việc xác thực những tiến triển – thay vì cố định – của định
nghĩa về gia đình. Uỷ ban Nhân quyền LHQ đã lưu ý rằng “khái niệm gia đình có thể khác
biệt trong vài khía cạnh, giữa các quốc gia, và ngay cả giữa các tôn giáo, và vì thế không
thể đưa ra một định nghĩa chuẩn mực chung”[8]. Uỷ ban Quyền trẻ em LHQ đã tuyên bố
điều này trong “Nhận định về môi trường gia đình”, rằng cần phản ánh “những cấu trúc gia
đình khác nhau, phát sinh từ các mẫu hình văn hóa và các quan hệ tình cảm gia đình đa
dạng đang nổi lên”[9].

Hiện nay, trên thế giới, có thể nhận thấy đồng tính là một hiện tượng không xa lạ dưới
nhiều góc độ. Sự kì thị, sự phân biệt của người dân các nước phương Tây đối với cộng
đồng giới tính này đã có sự biến chuyển tích cực một cách rõ rệt hơn. Cho dù người đồng
tính chắc chắn vẫn phải trải qua các giai đoạn đấu tranh lâu dài hơn nữa nhưng thực tế,
nhận thức về họ đã rõ ràng và phổ biến hơn nhiều so với các nước phương Đông. Điều này
đã được chứng minh qua thực tế ngày càng có thêm các quốc gia cho phép kết hôn đồng
giới và hoàn thiện hệ thống quyền của người đồng tính (nhất là quyền dân sự của các cặp
đôi kết hôn đồng tính). Chấm dứt kỳ thị trong tiếp cận hôn nhân dân sự đã trở thành vấn đề
bức bách ở nhiều quốc gia. Đến thời điểm hiện tại, các quốc gia sau đây đã công nhận kết
hôn đồng giới: Hà Lan (Luật hôn nhân đồng giới ban hành năm 2001), Bỉ (ban hành Luật
hôn nhân đồng giới năm 2003), Tây Ban Nha (năm thông qua: 2005), Canada (năm thông
qua: 2005), Nam Phi (năm thông qua: 2006), Na Uy (năm thông qua: 2008), Thụy Điển
(2009), Bồ Đào Nha (2010), Iceland (2010), Argentina (15/7/2010, là quốc gia đầu tiên ở
khu vực Mỹ la tinh công nhận), Brazin (2011), Hoa Kỳ (các bang Massachusetts,
Connecticut, Iowa, Vermont,… và gần đây nhất là TP. New York công nhận vào tháng
6/2011). Bên cạnh đó, theo báo cáo của ILGA (International Lesbian, Gay, Bisexual, Trans
and Intersex Association) cho đến tháng 5/2010, có 32 quốc gia trên thế giới chấp nhận
đồng tính nữ nhưng không chấp nhận đồng tính nam[10]. Cũng theo báo cáo này, quan hệ
đồng tính bị cấm tại 44 quốc gia trên thế giới, trong đó có một số quốc gia như Iran,
Mauritania, Saudi Arabia, Sudan, Yemen và một phần của Nigeria + Somalia có thể xử
phạt đến chết nếu phát hiện quan hệ đồng tính. Trong báo cáo này không đề cập tới Việt
Nam nhưng chúng ta biết rằng tại Việt Nam không có quy định ủng hộ hay xử phạt về quan
hệ đồng tính. Có thể thấy, dù đã có những tiến bộ trong việc giảm kỳ thị và từng bước tôn
trọng quyền của người đồng tính nhưng những nỗ lực đó còn quá ít ỏi. Nhìn chung, trên
phạm vi toàn thế giới hiện nay, người đồng tính vẫn chưa thực sự được bảo vệ bởi hệ thống
chính sách pháp luật và thêm vào nữa một số quyền tự do cơ bản của họ vẫn bị vi phạm[11].

Hiện nay tuy đồng tính luyến ái đã có được cái nhìn tích cực từ phía cộng đồng nhưng thực
tế ở nhiều nơi trên thế giới người đồng tính vẫn còn bị coi thường và nhiều quyền lợi của
họ bị vi phạm nghiêm trọng[12]. Gay gắt và hà khắc nhất có thể nói đến việc họ bị tước
đoạt quyền được sống. Không những thế, họ còn bị xâm hại về thân thể và bạo hành bởi
những người có quan niệm cực đoan về vấn đề đồng tính và thậm chí là bởi cả những người
thân thiết trong gia đình, ở trường học, trong cộng đồng làng xóm và nơi làm việc. Ở mức
độ nhẹ hơn, người đồng tính còn bị phân biệt đối xử trong việc tiếp cận với các dịch vụ xã
hội cơ bản: y tế, giáo dục, văn hóa… Họ cũng bị phân biệt đối xử trong lĩnh vực lao động
việc làm. Nhiều người lãnh đạo và chủ nơi làm việc cho rằng người đồng tính có ảnh hưởng
xấu đến môi trường văn hóa chung của nơi làm việc và họ có thể sẽ lôi kéo những người
lao động khác. Pháp luật nhiều nước cũng không cho phép người đồng tính kết hôn.

Ở những nước từ chối đi đến hôn nhân cho các cặp đồng giới, các bất bình đẳng có hệ
thống như vậy, theo lệ thường, vẫn được khoan thứ. Trong tường trình này, tổ chức Human
Rights Watch xem xét sự bất bình đẳng đó qua lăng kính của luật pháp và thực tiễn nhân
quyền quốc tế. Quyền hôn nhân là một quyền con người cơ bản. Việc áp dụng không thoái
thác sự bảo vệ quốc tế chống đối xử bất bình đẳng phát ra một đòi hỏi rằng các cặp đồng
giới nam và nữ – trong phạm vi luật pháp quốc tế chống phân biệt đối xử, – không kém gì
các cặp dị giới, cần thụ hưởng quyền không có bất kỳ “loại trừ” hôn nhân dân sự nào. Hơn
nữa, các dẫn chứng tóm tắt trong văn bản này cho thấy xu hướng ở nhiều quốc gia đi tới
công nhận quyền này. Nhiều phán lệnh đã đáp lại lời kêu gọi bình đẳng trong công nhận
các quan hệ tìmh cảm, bằng việc tạo nên một chế định tương đương nhằm điều tiết các
quan hệ đồng giới. Các luật về điều được gọi là “kết hợp dân sự” hay “đối ngẫu gia đình”
được chấp nhận ở nhiều nước và vô số các vùng. Các bước như vậy thể hiện sự tiến bộ,
nhưng là tiến bộ không đầy đủ. Những nỗ lực này gần như tạo nên địa vị tương đồng với
hôn nhân tuy vẫn giữ những khác biệt quan trọng. Chúng có lẽ phản ánh định kiến rơi rớt
lại đối với các đôi cùng giới, hay quan niệm bất bình đẳng vốn có về cái tạo nên một “quan
hệ tình cảm sai phạm”. Chính quyền nào cam kết với bình đẳng thì không thể đảo ngược
hợp pháp phạm vi nào đó của đời sống dân sự khi cho phép miễn trừ trước những vùng bất
bình đẳng. Các nguyên tắc nhân quyền đòi hỏi chính quyền chấm dứt phân biệt đối xử
trong hôn nhân dân sự trên cơ sở thiên hướng tình cảm giới tính, và để mở địa vị hôn nhân
đến tất cả.

3. Nhận thức về người đồng tính và quyền của người đồng tính tại Việt Nam
Hiện nay, tuy không có luật cấm quan hệ tình dục đồng tính, nhưng Luật hôn nhân và gia
đình cấm hôn nhân giữa những người cùng giới tính và chưa có nhiều nghiên cứu về các
khía cạnh khác nhau của đồng tính luyến ái. Đại bộ phận người dân còn kỳ thị cũng như
có những suy nghĩ sai lệch về người đồng tính. Điều này có thể tác động xấu đến không
chỉ những người đồng tính mà còn đến xã hội nói chung. Các chính quyền trong lịch sử
Việt Nam chưa bao giờ đưa ra luật về quan hệ đồng tính. Luật Hồng Đức có đề cập đến
hãm hiếp, ngoại tình, và loạn luân nhưng không nhắc gì đến đồng tính. Chính quyền thực
dân Pháp cũng không cấm đoán các hành vi đồng tính trong các thuộc địa. Mặc dù mại
dâm nữ là phạm pháp, luật pháp không đề cập gì đến mại dâm nam. Tuy nhiên, những hành
vi đồng tính có thể bị khởi tố dưới các tội danh như “vi phạm luân lý”. Trong những trường
hợp hiếm hoi mà hành vi đồng tính bị trừng phạt, tội danh là “ngoại tình” hay “hãm hiếp”.
Tuy vậy, đám cưới đồng tính từng được tổ chức ở Việt Nam. Ngày 7/4/1997, hãng thông
tấn Reuters đưa tin về đám cưới đồng tính đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh giữa 02 người
nam. Tiệc cưới diễn ra tại một khách sạn với 100 khách mời, và bị nhiều người dân phản
đối. Ngày 7/3/1998, hai người đồng tính nữ làm đám cưới tại Vĩnh Long, nhưng giấy xin
phép kết hôn không được chấp nhận. Sau các đám cưới này, Quốc hội thông qua đạo luật
cấm hôn nhân đồng tính vào năm 2000. Năm 2002, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội
kêu gọi liệt kê đồng tính luyến ái trong các “tệ nạn xã hội” cần phải bài trừ như mại dâm
và ma túy nhưng đến nay Chính phủ Việt Nam vẫn không có chính sách nào về quan hệ
đồng tính. Ngày 05/08/2008, chính phủ Việt Nam ban hành Nghị định số 88/2008/NĐ-
CP quy định việc xác định lại giới tính đối với người có khuyết tật bẩm sinh về giới tính
hoặc giới tính chưa được định hình chính xác. Những người này là khác với người đồng
tính. Hiện nay pháp luật Việt Nam chưa có hệ thống chính sách nào về nhóm đối tượng dễ
bị tổn thương này mặc dù đã có những quan tâm đặc biệt đến các nhóm xã hội yếu thế khác
(trẻ em, phụ nữ, người khuyết tật, dân tộc thiểu số…)[13]. Chính vì thế chúng ta cần xây
dựng một hành lang pháp lý đầy đủ nhằm bảo vệ những quyền lợi chính đáng của người
đồng tính. Những phân biệt đối xử trong việc tiếp cận với các dịch vụ thiết yếu cần được
phát hiện và xử phạt.
Trong tổng số 813 người là đồng tính nam tại Việt Nam được phỏng vấn trong nghiên cứu
của STD/HIV/AIDS Prevention Center (SHAPC, Trung tâm phòng chống các bệnh lây
truyền qua đường tình dục/virus gây ra suy giảm miễn dịch ở người) đã chỉ ra rằng kiến
thức, nhận thức về tình dục đồng giới rất hạn chế (đây là một xu hướng tình dục, có thể do
bẩm sinh, có thể do yếu tổ xã hội, hoặc do cả bẩm sinh lẫn xã hội): có tới 36% người dân
được hỏi cho biết họ coi tình dục đồng giới là tệ nạn xã hội; 68% cho rằng đó là một căn
bệnh; 48% cho rằng đây là một thứ quan hệ bệnh hoạn; 27% cho rằng tình dục đồng giới
là đua đòi, hư hỏng; 56% cho rằng tình dục đồng giới là điều trái với tự nhiên. Có thể nhận
thấy, khó khăn và bi kịch lớn nhất là người đồng tính không được thừa nhận, không được
sống với con người thật của mình. Nhìn chung, ở Việt Nam thái độ của xã hội đối với đồng
tính luyến ái là kỳ thị ở các mức độ khác nhau hoặc không thể hiện thái độ rõ ràng như
phớt lờ, không quan tâm. Một tỉ lệ rất nhỏ người dân có thái độ cởi mở với người đồng
tính. Nhiều người bắt đầu kêu gọi nên có thái độ cởi mở hơn đối với người đồng tính. Chưa
có ghi nhận nào về sự khuyến khích, cỗ vũ việc đồng tính luyến ái. Nghiên cứu của Viện
ISEE (Viện nghiên cứu xã hội – kinh tế và môi trường) về sự kỳ thị của người đồng tính
nam tại Việt Nam cho thấy:
– 1,5% cho biết đã bị đuổi học khi bị phát hiện là người đồng tính.

– 4,1% : bị kỳ thị về vấn đề nhà ở.

– 4,5% : cho biết từng bị tấn công và bị đánh đập vì là người đồng tính.

– 15,1% : cho biết bị gia đình chửi mắng vì là người đồng tính.

Nhiều người coi đồng tính luyến ái là không bình thường thậm chí là bệnh hoạn đặc biệt là
ở nông thôn. Do đó hành vi âu yếm của hai người cùng giới có thể làm cho nhiều người
cảm thấy ghê tởm. Nhiều bậc cha mẹ cảm thấy bị tổn thương, kinh ngạc, giận dữ, mắc cỡ
hoặc hoang mang khi biết con mình đồng tính. Một số người tìm cách thay đổi con mình,
trong khi một số người khác thì không quan tâm đến con nữa. Tuy nhiên, một số ít người
bắt đầu nhìn nhận người đồng tính cũng như khẳng định đồng tính luyến ái không phải là
bệnh. Thái độ đối với người đồng tính có xu hướng cởi mở hơn. Một số nhà tư vấn tâm lý
cũng khuyên mọi người nên có thái độ bình tĩnh, tìm cách thấu hiểu và hỗ trợ khi biết người
thân hoặc bạn bè là người đồng tính đặc biệt là cha mẹ khi biết sự thật về con mình. Cha
mẹ cũng cần thời gian để dần dần chấp nhận việc này. Trong cuộc thăm dò năm 2007 của
Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, với câu hỏi “Người đồng tính luyến ái có xấu hay
không?”, hơn 80% học sinh trả lời là “không”. Các học sinh này giải thích rằng vì đó là
quyền tự do của mỗi người hoặc việc là người đồng tính không phải lỗi do bản thân người
đó. Khi phát hiện trong lớp có bạn đồng tính, 72% học sinh khẳng định vẫn giữ mối quan
hệ bình thường với bạn, kèm theo động viên (34%) và giữ kín bí mật cho bạn (35%), 2%
học cảm thấy khinh bỉ và 13% thấy sợ. Vài chuyên gia tâm lý cho rằng giáo viên cần tôn
trọng sự riêng tư của học sinh đồng tính và nên động viên họ để họ không tự đánh giá thấp
bản thân, còn cha mẹ của những học sinh này cũng cần được cung cấp kiến thức về vấn đề
này để tạo mối quan hệ gần gũi, thông cảm để họ không cảm thấy bị cô lập.

Trong xã hội, thường những đối tượng nào bị đẩy vào nhóm yếu thế mới thấy được sự bất
bình đẳng dù ít dù nhiều trên nhiều phương diện. Đối với vấn đề đồng tính nói riêng và
nhóm đối tượng yếu thế nói chung thường có điểm chung là bình thường thì không mấy ai
nhắc đến nhưng nếu có một sự kiện nào đó nổi bật liên quan đến sự bình đẳng của họ trong
xã hội thì tự nhiên sẽ thành “tâm điểm”, nhận được sự quan tâm của hầu hết tầng lớp trong
xã hội. Tuy nhiên, để “tâm điểm” hay sự quan tâm này tồn tại lâu dài, phát triển thành làn
sóng ủng hộ hay không thì còn phụ thuộc nhiều yếu tố. Tại Việt Nam, hiện tượng đồng tính
đã không còn là điều xa lạ, thậm chí nhiều người đặt ra câu hỏi tại sao càng ngày có nhiều
người đồng tính như vậy. Nhìn chung, trong quan niệm của đại bộ phận dân chúng Việt
Nam, đồng tính vẫn là một loại bệnh, là những đối tượng “đáng bỏ đi” của xã hội. Hơn
nữa, người đồng tính tại nước ta chưa được công nhận, chưa có quyền kết hôn[14]. Để tìm
hiểu nhận thức về đồng tính cũng như quyền của người đồng tính tại Việt Nam, xin được
phân tích thông qua một số sự kiện gần đây. Những “đám cưới đồng tính” trong thời gian
qua ở Việt Nam là một trong những loại sự kiện mang tính chất “tâm điểm dư luận” rõ rệt.

3.1. Những hiệu ứng


Phải nói rằng trong thời điểm như hiện nay khi vấn đề nhân quyền đang thực sự rất nóng
từ quốc gia này đến quốc gia khác thì ngày càng có nhiều nhóm đối tượng muốn lên tiếng
để mong nhận được sự bình đẳng trong xã hội, chí ít là những quyền liên quan đến hạnh
phúc cá nhân. Khi đó, hai “đám cưới” của hai cặp đồng tính (nữ, Hà Nội, tháng 12/2010)
và đồng tính (nam, TP. Hồ Chí Minh, tháng 6/2011) thực sự trở thành hiện tượng vì thực
tế pháp luật hiện hành của Việt Nam chưa cho phép kết hôn đồng giới. Tuy nhiên, có thể
nhận thấy, dù những hiện tượng này chưa được pháp luật công nhận nhưng đã tạo ra những
hiệu ứng nhất định:

– Thường thì các cặp đôi đồng tính rất ngại công khai (come out) với gia đình, xã hội về
giới tính và tình yêu của mình. Vì vậy, mỗi khi có ai đó dám công khai sự thật về giới tính
thì luôn nhận được sự ủng hộ, sự ngưỡng mộ (đôi khi chỉ là ủng hộ hay ngưỡng mộ ngầm)
và thậm chí là “ước gì mình được như họ” của cộng đồng người trong giới. Có thể với hai
cặp đôi nói trên đã công khai với gia đình, với bạn bè từ trước đó nhưng việc họ tổ chức
một buổi tiệc (mà giới truyền thông và mọi người vẫn gọi nó là “đám cưới”) thì việc công
khai đã rộng rãi hơn. Giờ đây, hai cặp đôi ấy không chỉ lên tiếng cho bản thân mình mà đã
đại diện cho cộng đồng trong giới công khai và khẳng định, hoàn toàn có thể có tình yêu
trong giới của mình. Dũng cảm và tiên phong là những điều mà mọi người ca ngợi.

– Tại Việt Nam hiện nay, kiến thức cũng như nhận thức của xã hội, các tầng lớp còn khá
hạn chế về đồng tính, ví dụ như hầu như ai cũng cho đây là bệnh, là sự đi ngược lại các giá
trị cuộc sống cũng như nhân văn vì nó “không bình thường”. Vì vậy, trong bối cảnh đó,
việc không ít người phản đối các sự kiện “đám cưới” này là điều cũng dễ hiểu. Bên cạnh
đó, một bộ phận không nhỏ người đồng tính có lối sống không lành mạnh, gây ra nhiều
bức xúc cho các tầng lớp khác trong xã hội, làm cho cái nhìn không thiện cảm ngày càng
tăng lên. Chính vì vậy, người ta còn e dè với vấn đề nhạy cảm này, không muốn nhắc đến,
không muốn luận bàn quá sâu, đôi khi còn hiểu sai trầm trọng về giới này. Từ đó, người
đồng tính khó được sự cảm thông của xã hội, khó tiến tới công khai và tìm quyền lợi cho
bản thân. Xuất phát từ những điều trên, Việt Nam chưa có được những thông tin, những
định hướng đúng đắn cho vấn đề cộng đồng người đồng tính. Các hoạt động liên quan đến
cộng đồng nhằm tìm kiếm bình đẳng khá manh mún, nhỏ lẻ thông qua các nhóm, câu lạc
bộ, diễn đàn và gần đây nhất là những hoạt động của Viện nghiên cứu xã hội, kinh tế và
môi trường (ISEE, Hà Nội). Vì vậy, từ những “đám cưới” đồng tính này đã góp phần tạo
nên một làn sóng, hay chính xác hơn là một cơ hội để các chủ thể có liên quan được lên
tiếng về quan điểm của mình cho cộng đồng. Có lẽ, phải bắt nguồn từ báo chí, từ những
làn sóng nhỏ để có thể tiến đến những đấu tranh liên quan đến xây dựng hệ thống thể chế.

3.2. Những tồn tại


Thực sự hai “đám cưới” đồng tính nói trên đã mang lại những hiệu ứng khả quan như vậy
và qua đó đã cho chúng ta thấy những vấn đề có lẽ nên nhìn nhận lại:

– Hầu như ai cũng xem đây là “kết hôn đồng giới”, là “kết hôn” trái phép. Hầu hết các phản
hồi trên các diễn đàn, các trang tin đều nhận định chung như vậy. Tuy nhiên, thực tế những
sự kiện như thế chưa thể được xem là “kết hôn” vì đơn giản pháp luật hiện nay chưa cho
phép. Vì vậy nếu những cặp đôi này muốn “kết hôn” thực sự cũng không thể kết hôn được
(trừ khi UBND xã/phường đồng ý cho cặp đôi này đăng ký kết hôn thì mới xem là đăng ký
kết hôn trái phép). Hãy nhìn nhận cái mà mọi người gọi là “đám cưới” ấy chỉ là một buổi
tiệc, một cơ hội để họ công khai với nhiều người hơn. Chúng tôi cho rằng, thông thường,
hôn nhân không đơn giản chỉ là để ràng buộc nhau mà là để hai người có trách nhiệm hơn
với nhau. Nếu không có trách nhiệm, thì dù có hôn nhân, có kết hôn hay không thì cũng
như nhau. Đối với các cặp đồng tính ở Việt Nam thì bản thân việc yêu nhau đã là sự dũng
cảm, công khai càng đáng quý (tuy không có sự công nhận của pháp luật nhưng sẽ rất hạnh
phúc nếu họ vẫn luôn ở bên nhau lâu dài). Điều đó, nếu có xảy ra thì sẽ hạnh phúc hơn
nhiều lần những cặp đôi nam nữ được Nhà nước công nhận mà lại sống không có trách
nhiệm với bản thân, gia đình và xã hội. Vì vậy, các lập luận cho quan niệm hôn nhân là thể
chế giữa một người nam và một người nữ dường như đã bị lung lay.

– Có nhiều người đặt ra câu hỏi: “Tương lai đất nước sẽ như thế nào, sẽ hy vọng gì vào
những cặp đôi như thế này?”. Trong hàng loạt phản hồi về hai “đám cưới” nói trên cũng
thấp thoáng những nội dung như câu hỏi này nhưng nó nhanh chóng bị lu mờ bởi những
phản hồi ủng hộ, đồng tình, chúc mừng khác. Đây cũng là một câu hỏi đáng để suy nghĩ
(có mặt được và chưa được). Đúng là các cặp đôi đồng tính chỉ có thể xin con nuôi hoặc
nhờ người mang thai hộ (như vậy là không thể có con của mình hoặc chỉ có thể có con của
1 trong 2 người). Nhưng nếu nói tương lai đất nước không chờ đợi được gì ở họ thì e là
còn quá phiến diện. Bản thân họ cũng là những con người – một bộ phận của xã hội hiện
đại. Hàng ngày họ vẫn góp sức mình cho xã hội qua công việc, cho dù là ở vị trí nào đi
chăng nữa. Sự cống hiến cho đất nước có thể bằng nhiều cách, không thể chỉ nhận định
việc không sinh sản bình thường là không mang lại điều gì cho tương lai đất nước. Thực
tế, hầu hết những người đồng tính khá thành đạt, nhiều người rất tài năng, đóng góp trong
nhiều lĩnh vực cho xã hội. Ai cũng có quyền mưu cầu hạnh phúc và lựa chọn hạnh phúc
cho bản thân.

– Hiện nay, tại Việt Nam, tại Việt Nam, nhiều quan niệm vẫn thực sự chưa hiểu về người
đồng tính, vẫn xem đây là một căn bệnh, không có sự công bằng xã hội đối với các chủ thể
bình thường khác. Nhưng thực tế trên thế giới đã dần công nhận cộng đồng giới tính này,
trao cho họ quyền kết hôn. Với xu hướng đó, Việt Nam không thể không thể hiện quan
điểm của mình. Thực tế, trong chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh của Quốc hội Khóa
XIII của Việt Nam đã đưa tên Luật bảo vệ người đồng tính, người chuyển giới vào chương
trình. Đây có thể xem là một bước tiến khá quan trong việc xây dựng và ban hành pháp
luật tại Việt Nam về khía cạnh bảo vệ những đối tượng yếu thế trong xã hội. Cho dù đề
xuất đó có thể không thành hiện thực giống như vấn đề quyền được chết (được đưa vào dự
thảo sửa đổi Bộ luật dân sự năm 2005 nhưng Quốc hội không đồng ý thông qua) nhưng ít
nhất, các nhà làm luật sẽ có sự ghi nhận, có sự tìm hiểu và nghiên cứu. Điều quan trọng
nhất là nó có thể tạo nền tảng cho việc thay đổi được tầm nhìn và nhận thức. Trong thời
gian sắp đến Bộ luật dân sự, Luật hôn nhân và gia đình cũng sẽ được tiến hành sửa đổi.
Đây có thể được xem là những sự kiện sẽ thu hút sự quan tâm của nhiều tầng lớp xã hội.

– Bên cạnh đó, còn có một số quan niệm về hôn nhân đồng giới cần được xem xét lại như:
các cặp đồng tính không phải là môi trường tốt để nuôi dưỡng con cái, quan hệ đồng tính
là trái với đạo đức và xâm phạm sự thiêng liêng của thể chế hôn nhân, hôn nhân đồng tính
sẽ đe dọa thể chế hôn nhân, không nên thay đổi hôn nhân dị tính vì đó là một thể chế truyền
thống lâu đời,… Các quan niệm này hầu như chỉ xuất phát từ góc độ của người dị tính (yêu
người khác giới), chỉ nên tôn trọng người dị tính nên còn khá phiến diện và gay gắt.

– Thực tế, nhiều người là đồng tính nhưng vẫn chưa thực sự hiểu về chính bản thân của
mình. Một số quan niệm cho rằng hãy cố gắng hiểu bản thân mình trước, sau đó hãy mong
mọi người, xã hội hiểu được mình, hiểu được cộng đồng của mình. Đối tượng yếu thế cần
được lên tiếng nhưng nó phải xuất phát từ nền tảng vững chắc về kiến thức cũng như nhận
thức. Vì vậy, sự nhỏ lẻ, manh mún sẽ phải nhường bước cho những bước đi có quy mô
hơn.

Tài liệu tham khảo


[1] Money, John, Gay, Straight, and In-Between: The Sexology of Erotic Orientation, New York,
Oxford University Press, 1988.
[2] Thiên hướng tình dục là gì?, Bác sĩ George D. Zgourides, Thạc sĩ Christie S. Zgourides.
[3] Phần nguồn gốc hình thành đồng tính trong lịch sử được tác giả tập hợp từ nhiều trang thông
tin điện tử khác nhau về đồng tính.

[4] Hiệp ước Quốc tế về Quyền dân sự và Quyền chính trị, (ICCPR), G.A. res. 2200A (XXI), 21
LHQ. GAOR Bổ sung. (Số. 16) tại 52, Văn bản LHQ. A/6316 (1966), 999 U.N.T.S. 171, đã có
hiệu lực vào ngày 23/03/1976. Điều 26 của ICCPR tuyên bố: “Mọi người đều bình đẳng trước luật
pháp và không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào trước sự bảo vệ bình đẳng của luật pháp. Theo
đó, luật pháp phải ngăn cấm mọi sự kỳ thị và bảo đảm cho mọi người sự bảo vệ bình đẳng và có
hiệu quả chống lại sự phân biệt đối xử trên cơ sở của bất kỳ điều gì, như chủng tộc, màu da, giới
tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính trị hay tư tưởng, xuất thân xã hội hay dân tộc, tài sản, bẩm sinh,
hay một tình trạng tình trạng nào khác”.

[5] Nó cũng cho rằng họ xâm phạm những bảo vệ cho sự riêng tư trong Điều 17 của ICCPA. điều
này viết: “Không ai phải chịu sự can thiệp độc đoán và phi pháp vào sự riêng tư, vào gia đình, chỗ
ở và thư tín, cũng không ai phải chịu những công kích phi pháp vào nhân phẩm và danh dự“.

[6] Nicholas Toonen kiện Australia, Uỷ ban Nhân quyền, Vụ kiện số 488/1992, Văn bản
LHQ.CCPR/c/50/D/488/1992, tại 8.7.

[7] Cấm cản hôn nhân đồng giới có thể xem như sự phân biệt đối xử trên cơ sở giới tính vì hôn
nhân được mở ra cho mọi người mà không vì giới tính của đối ngẫu họ chọn lựa.
[8] “Nhận định chung thứ 19: Bảo vệ gia đình, quyền hôn nhân và bình đẳng của các phối ngẫu”,
Uỷ ban Nhân quyền, Văn kiện LHQ. HRI/GEN/1/Rev.2 (1990), tại 2.

[9] “Báo cáo về Kỳ họp thứ năm”, Uỷ ban Quyền trẻ em, Văn kiện LHQ. CREC/C/24, Phụ lục V.

[10] Danh sách các quốc gia này bao gồm có: Bangladesh, Belize, Brunei, Ghana, Grenada,
Guyana, Jamaica, Kenya, Kiribati, Kuwait, Lesotho, Malawi, Mauritius, Myanmar, Namibia,
Nauru, Nigeria, Pakistan, Palau, Papua New Guinea, St. Kitts and Nevis, Samoa, Seychelles, Sierra
Leone, Singapore, Swaziland, Tonga, Turkmenistan, Tuvalu, Uzbekistan, Zambia, và Zimbabwe.

[11] Điển hình như một số quyền đã được nêu trong Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền, năm 1948
mà hiện nay người đồng tính chưa được thụ hưởng đầy đủ:

– Điều 1: Mọi người sinh ra đều tự do và bình đẳng về phẩm giá và các quyền (quyền được tôn
trọng về phẩm giá của mỗi cá nhân)

– Điều 3: Mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an ninh cá nhân (quyền sống hay quyền
tồn tại)

– Điều 5: Không ai có thể bị tra tấn hoặc nhục hình, bị đối xử hoặc chịu hình phạt tàn nhẫn vô
nhân đạo (quyền không bị xâm phạm thân thể)

– Điều 16: Nam và nữ khi đủ tuổi đều có quyền kết hôn và xây dựng gia đình, không có bất kỳ sự
hạn chế nào về chủng tộc, quốc tịch và tôn giáo. Họ được hưởng mọi quyền bình đẳng như nhau
khi kết hôn, trong thời gian chung sống và sau khi ly hôn (quyền kết hôn và xây dựng gia đình)

– Điều 21: Mọi người đều có quyền được tham gia bình đẳng vào các dịch vụ công cộng ở nước
mình (quyền bình đẳng trong việc huởng các dịch vụ xã hội)

– Điều 23: Quyền được làm việc, tự do chọn nghề, được có những điều kiện làm việc thuận lợi,
chính đáng và được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp (quyền làm việc tạo thu nhập).

Nguồn: Bùi Thị Cẩm Tú (Viện Nghiên cứuMôi trường & Phát triển bền vững, Viện Khoa học xã
hội Việt Nam), Bảo vệ quyền của người đồng tính – Một vấn đề đáng được lưu tâm, Hội thảo
“Quyền con người: tiếp cận liên ngành KHXH” do Đoàn Thanh niên Viện KHXH Việt Nam tổ
chức ngày 01/08/2011.

[12] Bùi Thị Cẩm Tú (Viện Nghiên cứuMôi trường & Phát triển bền vững, Viện Khoa học xã hội
Việt Nam), Bảo vệ quyền của người đồng tính – Một vấn đề đáng được lưu tâm, tlđd.

[13] Bùi Thị Cẩm Tú (Viện Nghiên cứuMôi trường & Phát triển bền vững, Viện Khoa học xã hội
Việt Nam), Bảo vệ quyền của người đồng tính – Một vấn đề đáng được lưu tâm, tlđd.

[14] Quy định tại khoản 5, điều 10, Luật hôn nhân gia đình năm 2000.

You might also like