You are on page 1of 12

Nguồn: Tuyển tập Giới và Xã hội số 3 -2016, trang 13-26

(Trung tâm nghiên cứu Giới và Xã hội, Trường Đại học Hoa Sen, TP. HCM)

GIỚI, GIỚI TÍNH TỪ GÓC ĐỘ LÝ THUYẾT KIẾN TẠO XÃ HỘI

Nguyễn Xuân Nghĩa

1. Đặt vấn đề

Các tài liệu, giáo trình về giới đều đưa ra sự phân biệt căn bản giữa khái
niệm giới tính (sex) và giới (gender). Thông thường, giới tính nói đến những
đặc điểm sinh học của nam giới và nữ giới, có tính phổ quát và không thay
đổi, và giới chỉ những đặc điểm mà xã hội hoặc các nền văn hóa gán cho
nam giới và nữ giới, hay nói cách khác giới là những ứng xử được xem là
thích hợp mà mỗi xã hội, văn hóa chờ đợi ở từng giới tính. Khác với giới
tính, những đặc điểm giới có tính đặc thù của từng xã hội và có thể thay đổi.

Tuy nhiên những câu chuyện sau đây buộc ta suy nghĩ lại sự phân biệt trên.
Nhà nhân học Christine Helliwee đi nghiên cứu một làng thuộc đảo Borneo,
Indonesia. Khi bà mới đến dân làng tranh cãi xem bà là nam hay nữ, mặc
dù họ biết khi tắm trên sông bà mặc xà rông (trang phục phổ biến dành cho
phụ nữ ở địa phương) và đường nét cơ thể bà hiện lên khá rõ (Mai Huy
Bích, 2013, tr. 190-191). Sở dĩ họ tranh cãi về giới tính của bà vì dáng đi
của bà không giống phụ nữ địa phương (tay hơi lắc lư, đung đưa ra xa mình
và hông), đầu gối của bà hơi xương xẩu chứ không tròn; bà dám đi một
mình xuyên qua rừng từ làng này đến làng khác; bà không biết buộc xa rông
đúng cách của phụ nữ, bà không đeo hoa tai, không biết rành mạch các loại
thóc…

Cũng vậy, từ lâu, những dữ liệu nhân học về giới buộc ta đặt lại những
khuôn mẩu, những định kiến về giới. Margaret Mead, trong một nghiên cứu
ở Tân Ghi-nê về ba tộc người; ở tộc người Arapesh bà nhận thấy cả hai
giới đều có những hành vi, ứng xử giống nhau: đều nhạy cảm và thân thiện,

1
hợp tác mà trong nền văn hóa phương Tây xếp vào nữ tính; về phía Nam
Ghi-nê, tộc người Mudugumor, với tập quán săn đầu người và ăn thịt người,
cả hai giới đều có tính ích kỷ và hiếu chiến; ở phía tây Ghi-nê, tộc người
Tchambuli cho thấy những khác biệt giữa hai giới: phụ nữ đầu óc lý trí và
thống trị, nam giới ngược lại, tình cảm, chịu đựng, thích chăm sóc, nuôi
dưỡng con cái (Mead, 1963 [1935]). Trong một nghiên cứu khác, về các thổ
dân Bắc Mỹ và châu Á, Thái Bình Dương, có một hạng người được gọi là
berdache, là những cá nhân mà cấu tạo cơ thể thuộc về giới này, nhưng
nhận thức mình thuộc giới khác và tiếp thu những hành vi của giới khác.

Một vài câu chuyện trên cho thấy xác định giới tính không chỉ tùy thuộc yếu
tố sinh lý và nhận thức căn tính về giới (gender identity)1 biến đổi tùy nền
văn hóa, tùy thuộc từng cá nhân và trong mỗi cá nhân lại tùy thuộc biến
chuyển thời gian.

Nhìn chung, trong việc giải thích những khác biệt giữa nam và nữ, xã hội
học đưa ra nhiều lối tiếp cận khác nhau. Có thể nêu ra ba dòng lý thuyết
chính. Trước tiên là những quan điểm dựa trên sinh học để giải thích sự
khác biệt trong hành vi giữa nam và nữ. Dòng lý thuyết thứ hai giải thích sự
khác biệt này với việc nhấn mạnh vai trò của môi trường xã hội, của quá
trình xã hội hóa. Và cuối cùng quan điểm cho rằng cả giới tính và giới đều
không đặt trên cơ sở sinh học mà chúng đều là những kiến tạo xã hội, có
nghĩa là do con người, do xã hội tạo ra. Đây là luận điểm của lý thuyết kiến
tạo xã hội (social constructivism).

2. Giới, giới tính và sinh học

Sự khác biệt trong hành vi của nam và nữ là do yếu tố sinh học, là do yếu
tố giới tính hơn là yếu tố giới? Nếu vậy, thì mức độ thế nào?

1
Là kinh nghiệm, nhận thức của cá nhân về giới tính, về giới của chính mình.
2
Rất nhiều nhà nghiên cứu cho rằng những yếu tố sinh học ở con người –
như hóc môn, nhiễm sắc thể, cấu tạo gen, não bộ, bộ phận sinh dục… - qui
định những khác biệt bẩm sinh trong hành vi giữa nam và nữ. Họ cho rằng
những khác biệt này có thể tìm thấy trong tất cả các nền văn hóa, điều này
có nghĩa là các yếu tố tự nhiên là tác nhân của bất bình đẳng giữa các giới
mà ta thấy ở tất cả các nền văn hóa. Một dữ liệu mà các tác giả này thường
nêu lên, hầu hết trong mọi nền văn hóa, đàn ông chứ không phải phụ nữ,
đặc biệt trong các xã hội sơ khai, tham gia vào việc săn bắt và chiến tranh.
Từ đó, lập luận, đàn ông có những cơ sở sinh học hướng về sự hung hăng,
hiếu chiến, điều này ít thấy ở người phụ nữ.

Nhưng nhiều nhà nghiên cứu khác không đồng ý với lập luận này. Họ cho
thấy mức độ hung hăng ở nam giới thay đổi tùy nền văn hóa và ngược lại
tính thụ động, dịu dàng của người phụ nữ cũng thay đổi theo các nền văn
hóa (M. Mead). Các tác giả cũng phê bình các lý thuyết về “khác biệt tự
nhiên” thường đặt cơ sở trên những dữ liệu nghiên cứu hành vi của động
vật hơn là các dữ liệu nhân học và sử học. Hơn thế nữa, cho dù một hành
vi nào đó ít nhiều có tính cách phổ quát, cũng không thể lập luận nó có
nguồn gốc sinh học, bởi lẽ chúng cũng có thể do yếu tố văn hóa – xã hội.
Lấy thí dụ, trong hầu hết các nền văn hóa, người phụ nữ dành nhiều thời
gian cho việc nuôi dưỡng con cái, do đó học không có điều kiện để tham gia
vào việc săn bắt hay chiến tranh.

Mặc dù không gạt bỏ giả thuyết yếu tố sinh học quy định những khuôn mẫu
hành vi con người, nhưng suốt thế kỷ qua, các nghiên cứu nhằm xác định
nguồn gốc sinh lý ảnh hưởng lên hành vi con người đều cho thấy thất bại
(Giddens, 2009, tr. 602). Không có một chứng cứ nào về cơ chế liên kết các
yếu tố sinh học với những hành vi xã hội phức tạp theo giới tính của con
người. Các lý thuyết cho rằng cá nhân con người đã đi theo các khuynh
hướng bẩm sinh đã không thấy vai trò cực kỳ quan trọng của tương tác xã
hội trong việc hình thành hành vi con người.
3
3. Quá trình xã hội hóa về giới

Dòng lý thuyết thứ hai giải thích sự khác biệt trong hành vi giữa nam và nữ
bằng cách nhấn mạnh vai trò của môi trường xã hội, của quá trình xã hội
hóa. Như Simone de Beauvoir từng viết “Người ta không sinh ra là phụ nữ,
mà trở thành phụ nữ”. Hay nói cách khác, dòng lý thuyết này chú trọng
nghiên cứu quá trình xã hội hóa về giới, là quá trình học hỏi vai trò giới thông
qua các tác nhân xã hội như gia đình, nhà trường, phương tiện truyền thông
đại chúng… Dòng lý thuyết này cũng dựa trên sự phân biệt giới tính và giới
và cho thấy đứa trẻ sinh ra đã mang giới tính và phát triển theo giới. Với các
tác nhân xã hội hóa sơ cấp và thứ cấp, trẻ em dần dần nội tâm hóa những
chuẩn mực, những chờ đợi của xã hội để có thể thích ứng theo giới tính của
chúng. Theo quan điểm này những bất bình đẳng giữa nam và nữ là kết
quả của quá trình xã hội hóa về các vai trò giới khác nhau. Trước đây, trong
một nghiên cứu, chúng tôi đã nêu lên quá trình xã hội hóa về giới trong gia
đình ở trẻ em Việt Nam qua các tập tục, kiêng cữ khi bà mẹ mang thai, qua
cách đặt tên con, qua cách ăn mặc, ứng xử, qua đồ chơi, trò chơi của trẻ
em, qua quan hệ bạn bè, qua sự mong đợi về tính cách của con trai và con
gái, qua cách giáo dục của cha mẹ… (Nguyễn Xuân Nghĩa, 2000).

Đây cũng là quan điểm chức năng luận (functionalist), chủ trương nam và
nữ là khác nhau do việc học hỏi vai trò giới và khác nhau do nhận thức về
căn tính giới (gender identity). Trong quá trình học hỏi và nhận thức này, họ
chịu tác động bởi những chế tài tiêu cực và tích cực, ví như “có thế chứ,
con trai phải mạnh mẽ như vậy”, “con trai không được chơi búp bê, con trai
không được đeo bông tai”, “Cho con trai chơi súng, kiếm – bằng nhựa thôi
– là để tạo tính tình mạnh mẽ” (Một phụ huynh; Nguyễn Xuân Nghĩa, 2000,
tr. 30)… Những chế tài này giúp những đứa trẻ, thanh thiếu niên nam nữ,
học hỏi và tuân thủ các vai trò giới. Nếu một cá nhân nào có những ứng xử
giới không tương ứng với giới tính thì bị xem là lệch lạc. Theo các nhà chức
năng luận, các tác nhân xã hội hóa góp phần củng cố xã hội, khi chỉ nhìn
4
thấy một quá trình xã hội hóa về giới diễn ra một cách thuận lợi, êm đẹp với
các thế hệ trẻ.

Lối giải thích chức năng luận này bị nhiều phê phán. Các tác nhân xã hội
hóa như gia đình, bạn bè, trường học, các phương tiện truyền thông đại
chúng, các tổ chức xã hội có thể đưa ra những khuôn mẫu ứng xử khác
nhau. Hơn thế nữa, quan điểm này không thấy rằng những cá nhân tiếp
nhận quá trình xã hội hóa không phải là những đối tượng thụ động, mặc
nhiên chấp nhận quá trình xã hội hóa, mà là những chủ thể năng động và
sáng tạo. Những chủ thể này có thể khước từ, biến đổi những chờ đợi của
xã hội về vai trò giới.

Mặc dù đặt lại vấn đề lối tiếp cận tổng thể về việc tiếp nhận các vai trò giới,
nhiều cuộc nghiên cứu cho thấy ở mức độ nào đó căn tính về giới là kết quả
của ảnh hưởng xã hội.
Ảnh hưởng xã hội trên căn tính thể hiện trên nhiều mặt. Cho dù có những
bậc cha mẹ dạy dỗ con cái họ một cách “phi giới tính” (non – sexist), vẫn
thấy tồn tại những khuôn mẫu về giới khó phủ nhận được. Lấy thí dụ, những
nghiên cứu về quan hệ giữa cha mẹ - con cái cho thấy vẫn có những khác
biệt rõ trong cách đối xử giữa trẻ nam và nữ cho dù cha mẹ vẫn tin rằng
không có khác biệt trong ứng xử của họ. Đồ chơi, sách hình, các chương
trình ti vi mà trẻ trải nghiệm tất cả đều cho thấy khác biệt về thuộc tính của
trẻ nam/nữ. Mặc dù hiện nay đang có những thay đổi, các tính chất của nam
giới đều nhiều hơn trên sách báo, chương trình tivi, phim dành cho trẻ em.
Và mặt khác tính chất của nam giới thể hiện qua những vai trò chủ động,
phiêu lưu, hành động, vai trò của nữ được mô tả thụ động, chờ đợi và hướng
về những công việc nội trợ. Những nhà nghiên cứu nữ quyền cũng cho thấy
những sản phẩm văn hóa và các phương tiện truyền thông nhắm vào giới
trẻ thể hiện những lối ứng xử truyền thống về giới và hướng họ tới những
mục tiêu mà xã hội mong muốn.

5
4. Giới, giới tính và biến chuyển kỹ thuật: tiên đề của lý thuyết kiến
tạo xã hội

Hàng ngàn năm năm qua, việc sinh con và nuôi dưỡng con chiếm hầu hết
cuộc sống của người phụ nữ. Trong các xã hội truyền thống, việc ngừa thai
chưa được biết đến hoặc không hiệu quả. Cho đến thế kỷ 18, ở châu Âu và
Bắc Mỹ, việc người phụ nữ có thể 20 lần trong quãng đời của họ có mang
bầu là điều phổ biến, nhưng thường đưa đến việc sẩy thai hay trẻ sơ sinh
chết. Ngày nay nhiều nơi trên thế giới, nhất là ở các nước đang phát triển,
số con trung bình của người phụ nữ còn rất cao, chẳng hạn, vùng hạ Sahara
châu Phi là 5,6, gấp đôi tỷ lệ trung bình của thế giới. Về số con lý tưởng, ở
Kenya người dân mong muốn có 4,1; tỷ lệ này là 8,5 ở Chad và Nigeria. Và
nam giới thường mong muốn có số con nhiều hơn. Ngày nay, những tiến
bộ trong kỹ thuật sinh sản đã thay đổi tình huống này. Những tiến bộ trong
phương pháp ngừa thai cho phép nam giới và nữ giới chọn lựa số con mong
muốn. Nhưng việc ngừa thai còn tùy thuộc sự chấp nhận và khả năng tiếp
cận. Vào năm 2003, chỉ 20% gia đình ở châu Phi tiếp cận được kỹ thuật
ngừa thai.

Kế tiếp, những tiến bộ của y khoa, ngày nay ở các nước phát triển, việc sinh
đẻ đều có việc tham gia của y tá, bác sĩ nên tỷ lệ trẻ sơ sinh chết rất thấp.
Nhưng ở các nước đang phát triển tỷ lệ này vẫn còn cao, thêm vào đó là do
việc nữ vị thành niên mang thai. Mỗi năm có khoảng 10% trẻ em sinh ra là
do phụ nữ dưới 20 tuổi, trong số này 90% xảy ra ở các nước đang phát
triển.

Trong quá khứ, cha mẹ chỉ biết được giới tính của con khi sinh ra và biết
chúng có lành mạnh hay không. Nhưng ngày nay với kỹ thuật siêu âm, kỹ
thuật chọc ối (amniocentesis) người ta có thể thấy trước những bất thường
về thể chất hay nhiễm sắc thể ở thai nhi. Những kỹ thuật mới như vậy đặt

6
các cặp vợ chồng và xã hội trước quyết định về mặt luật pháp và đạo đức
mới, ví như quyết định có sinh ra một đứa con khuyết tật hay không?

Từ những năm 1970, các kỹ thuật trợ giúp sinh sản, đặc biệt là thụ thai trong
ống nghiệm cho phép những cặp vợ chồng vô sinh có thể có con.

Những biến đổi kỹ thuật nói trên đã biến những yếu tố mà trước đây ta xem
là tự nhiên, là định mệnh tự nhiên, nay lại trở thành những chọn lựa của con
người. Yếu tố sinh học của một cá nhân không còn là yếu tố tuyệt đối quyết
định người đó có thể có con hay không, thay vào đó những yếu tố như thu
nhập, khả năng tiếp cận những kỹ thuật mới quyết định sự vô sinh về sinh
học có phải là một cản trở hay không.

Ngày nay kỹ thuật di truyền bắt đầu phát triển mạnh. Ảnh hưởng của những
kỹ thuật này lên giới tính là vấn đề gây tranh luận. Những người ủng hộ các
kỹ thuật này nêu lên rất nhiều lợi ích. Ví như có thể xác định các yếu gen
cho thấy một số người dễ mắc một số bệnh nào đó. Việc tái lập trình di
truyền sẽ bảo đảm các bệnh trên sẽ không còn truyền từ thế hệ này sang
thế hệ khác. Đi xa hơn, người ta có thể thiết kế thân thể trước khi sinh của
cá nhân về màu da, tóc, màu mắt, trọng lượng… Kỹ thuật di truyền này đặt
ra nhiều cơ hội và vấn đề. Nếu cha mẹ có thể chọn lựa thiết kế đứa con họ
sẽ sinh ra, thì cha mẹ sẽ chọn lựa gì? Đâu là những giới hạn những chọn
lựa này? Hay là họ áp đặt những ước muốn của họ lên đứa trẻ? Hơn nữa
ta cũng biết rằng những kỹ thuật di truyền là không rẽ và chỉ dành cho những
tầng lớp xã hội khá giả. Vậy điều gì sẽ xảy ra cho những đứa trẻ thuộc các
tầng lớp bên dưới, những đứa trẻ vẫn được tiếp tục được sinh ra một cách
tự nhiên? Các nhà xã hội học đã lập luận, việc tiếp cận khác nhau về các
kỹ thuật di truyền có thể dẫn đến một “tầng lớp tiện dân về mặt sinh học”,
và tầng lớp này sẽ chịu nhiều định kiến, kỳ thị từ những kẻ hưởng lợi các
kỹ thuật di truyền. Họ sẽ gặp khó khăn trong việc kiếm việc làm, trong đời

7
sống, trong bảo hiểm sức khỏe… Hiện tượng mất cân bằng giới tính ở nhiều
xã hội hiện nay, cũng phải được đặt ra trong những suy nghĩ vừa nêu.

Tác động của khoa học kỹ thuật lên giới tính là tiên đề cơ sở cho những suy
tư của lý thuyết kiến tạo xã hội.

5. Giới, giới tính là kiến tạo xã hội


Như đã nêu trên, trong những năm gần đây các lý thuyết về xã hội hóa giới
và về vai trò giới ít nhiều bị phê phán bởi nhiều nhà xã hội học, đặc biệt là
các tác giả theo lý thuyết kiến tạo xã hội. Thuyết kiến tạo xã hội (social
constructionism) là một lý thuyết về tri thức, nhưng đầu tiên chỉ là một thuật
ngữ chung chung để chỉ các lý thuyết nhấn mạnh tính chất được kiến tạo
về mặt xã hội của đời sống xã hội. Có thể quy nguồn gốc lý thuyết này từ
William Isaac Thomas và các nhà xã hội học thuộc trường phái Chicago,
cũng như nhà xã hội học hiện tượng luận Alfred Schutz. Ý tưởng chính của
các tác giả này: xã hội do con người tạo ra một cách năng động và sáng
tạo, họ hình dung xã hội như là được tạo nên, chứ không phải đơn thuần
tồn tại một cách đương nhiên. Xã hội như là mạng lưới được kết dệt nên do
tương tác giữa các cá nhân và nhóm. Thuật ngữ này chính thức được đưa
vào từ vựng xã hội học do công trình của Peter Berger và Thomas
Luckmann – The Construction of Reality (1966), (Kiến tạo xã hội về hiện
thực). Tác phẩm này xem ra muốn tổng hợp tư tưởng của É. Durkheim và
G.H. Mead, dựa trên mệnh đề chính “Xã hội là một sản phẩm của con người.
Xã hội là một hiện thực khách quan. Con người là một sản phẩm của xã
hội”. Quan điểm này được áp dụng vào nghiên cứu tôn giáo, các hành vi
lệch lạc, vào tri thức giáo dục (Mary Douglas và Basil Berstein), vào tâm lý
học… Nhìn chung, lý thuyết kiến tạo xã hội thường tương phản với cái được
gọi là bản chất luận (essentialism)2 bởi vì nó vượt ra khỏi những ý tưởng về

2
Theo các nghiên cứu hiện nay, có hai cách nhìn về các yếu tố quy định giới tính. Cách nhìn bản chất luận quan
niệm một đặc điểm nhất định (bộ phận sinh dục, hay nhiễm sắc thể X, Y) là cơ bản để xác định giới tính của một
người. Cách nhìn kia cho rằng có nhiều yếu tố góp phần xác định phân loại giới tính, ví như cách ăn mặc, tóc tai,
gen, vóc dáng cơ thể… Không một yếu tố nào tự nó là đủ để xác định người nào đó là nam hay nữ.
8
những gì là hiển nhiên do tự nhiên mang lại và nó đặt nghi vấn với những
nguồn gốc xã hội và lịch sử của hiện tượng xã hội (Marshall, 1998, tr. 609).

Thay cho quan điểm truyền thống xem giới tính gắn liền với yếu tố sinh học
và giới gắn liền với văn hóa, một số nhà xã hội học theo lý thuyết kiến tạo
xã hội cho rằng cả giới tính và giới đều là những sản phẩm do xã hội kiến
tạo ra. Không chỉ giới là một kiến tạo xã hội thuần túy, do đó không có cái
được gọi là “bản chất” giới, mà ngay cả chính cơ thể con người là đối tượng
mà các lực xã hội có thể định hình và thay đổi bằng nhiều cách. Thân thể
con người không còn là “tự nhiên” nữa mà chúng ta có thể kiến tạo, tái kiến
tạo chúng như chúng ta mong muốn, bằng nhiều cách như tập luyện, ăn
kiêng, thay đổi bằng các thời trang, bằng giải phẫu thẩm mỹ và bằng phẫu
thuật chuyển đổi giới tính. Như vậy, kỹ thuật đang làm mờ đi ranh giới thể
chất của cơ thể. Từ đó, có lập luận cơ thể con người và yếu tố sinh học
không phải là cái gì có sẵn, nhưng ngược lại lệ thuộc vào con người và lệ
thuộc chọn lựa của cá nhân trong các bối cảnh xã hội nhất định.

Vì vậy một số nhà theo lý thuyết kiến tạo luận xã hội (theo nghĩa chặt chẽ
nhất) phủ nhận cơ sở sinh học của sự khác biệt giới. Họ cho rằng căn tính
giới xuất hiện trong tương quan khi con người nhận thức được những khác
biệt về giới trong xã hội và cái nhận thức này đến lượt nó góp phần định
hình các khác biệt về giới nêu trên. Lấy thí dụ, một xã hội quan niệm nam
tính có đặc điểm là sức mạnh thể chất và có thái độ “mạnh mẽ” sẽ khuyến
khích nam giới trau dồi, tạo ra một hình ảnh về cơ thể “cơ bắp”, và một loạt
ứng xử đặc thù, không tự nhiên nào đó. Nói cách khác, căn tính giới và
những khác biệt giới tính có quan hệ khắng khít với nhau trên cơ thể của
từng cá nhân.

6. Lý thuyết kiến tạo xã hội và cộng đồng thiểu số LGBT

9
Lý thuyết kiến tạo xã hội về giới tính có liên quan đến vấn đề thời thượng,
chúng ta hãy nghe tâm sự của một số người đồng tính, những người chuyển
giới sau đây:

-““Em đã suy nghĩ rất nhiều về mọi thứ, lựa chọn giữa được và mất, giữa
đau thể xác hay đau tinh thần, cuối cùng em đã quyết định chuyển giới để
trở thành con gái, được sống thật với chính mình” – Đó là tâm sự của An
Vi, tên thật là Trần Anh Vũ, 23 tuổi, quê Kiên Giang, người đã chuyển giới
vào năm 2014. An Vi nói, giờ em cảm thấy hạnh phúc hơn rất nhiều, được
bạn bè khen nữ tính hơn, xinh hơn, có việc làm ổn định hơn sau khi chuyển
giới. Tuy nhiên, đằng sau nụ cười của An Vi là chuỗi ngày đẫm nước mắt,
cũng như những thách thức phía trước mà những người chuyển giới sẽ
phải đối mặt.” (Lại Thìn, 2015)

-“Hồi mới sinh Dung, nhìn thấy con, ba mẹ Dung mừng lắm, vì “có thằng
con trai nối dõi tông đường” nhưng mà đau khổ không hiểu tại sao Dung là
con gái mà mang hình hài này, hình hài của một đứa con trai… Trước khi
đi (Sài Gòn), sau bao nhiêu đêm thức trắng, Dung đã quyết định nói với mẹ
sự thật: "Có lẽ con yêu đàn ông, con không thể trở thành đứa con trai mà
mẹ mong muốn, không thể có vợ, có con cho mẹ ẫm bồng. Con xin lỗi mẹ...
Mẹ đã rất sốc và khóc rất nhiều” (Ngô Đồng, 2015)

-“Chúng con không có tội gì, con không đua đòi để được chuyển đổi giới
tính mà bởi tạo hóa đã sắp đặt nhầm lẫn cho con. Khó khăn lắm chúng con
mới đủ tiền để phẫu thuật nhưng khi trở về VN thì chúng con bị coi như
những tên tội phạm. Con phải sống chui sống nhủi, muốn làm gì cũng phải
nhờ người khác làm giùm.Chúng con có công việc, có thu nhập và chúng
con không làm gì ảnh hưởng đến xã hội…” (Hoàng Điệp, 2015).

Những tâm sự trên cho thấy ở một số bộ phận khá đông những người đồng
tính, hiện tượng này là có thật chứ không phải là một “phong trào”, một “lối
sống dễ dàng”. Rõ ràng ở đây không có sự trùng khớp giữa yếu tố sinh học
10
và nhận thức căn tính giới của một số cá nhân. Và cũng chính quan điểm
về “bản chất” giới tính tự nhiên đã gây đau khổ, thậm chí phân biệt đối xử
với những cá nhân này.

7. Thay lời kết luận


- Khi lý thuyết kiến tạo xã hội đưa ra nhận định một hiện tượng xã hội
là một kiến tạo xã hội không có nghĩa là hiện tượng trên chỉ do đầu óc thuần
túy của con người tạo ra và như vậy không tồn tại. Ta biết rằng lý thuyết
kiến tạo xã hội là một phản ứng lại thuyết duy khách thể, duy thực chứng.
Trong chủ đề ta đang đề cập đây, mọi người đều thấy có những khác biệt
về giới tính - đây là thực tại, là điều có thực - và đi đôi với chúng là những
vai trò, những biểu trưng, tin tưởng gắn liền với những khác biệt trên. Và
trong việc lý giải những khác biệt này, lối tiếp cận kiến tạo luận cho rằng
khác biệt trên không phải là một định mệnh sinh học, mà là một kiến tạo xã
hội, có nghĩa chúng là sản phẩm của văn hóa, xã hội và lịch sử của một
nhóm người nhất định vào một thời gian và không gian nhất định.
- Giới là một kiến tạo xã hội. Điều này mọi người có thể nhất trí. Nhưng
khi cho rằng giới tính cũng là kiến tạo xã hội, điều này chỉ tồn tại với một bộ
phận cá nhân trong xã hội, tuy nhiên đây là điểm mới mẻ, độc đáo, có tính
dự báo của lý thuyết kiến tạo xã hội, và cũng vì thế lý thuyết kiến tạo xã hội
được xem có quan điểm bênh vực cho những nhóm thiểu số chống lại
những quan điểm mang tính thống trị3. Và phải chăng nếu chúng ta chấp
nhận – trong một số trường hợp nhất định - giới tính cũng là kiến tạo xã hội,
thì sẽ tồn tại ít hơn hiện tượng kỳ thị với cộng đồng thiểu số những người
đồng tính, lưỡng tính và chuyển giới (LGBT)?

TÀI LIỆU THAM KHẢO

3
Tuy nhiên lý thuyết kiến tạo xã hội cũng bị phê phán chủ trương một thứ lý thuyết tương đối luận và từ đó có thể
rơi vào mâu thuẫn trong lập luận.
11
- Giddens, A. (2009). “Sexuality and gender”, trong Sociology, 6th ed.
Polity Press.
- Jackson, S. Weeks, J. (2005). “Social Constructivism”, trong Chris
Beasley, Gender and Sexuality: Critical Theories, Critical Thinkers, London:
Sage.
- Mai Huy Bích, (2013). “Giới trong nhãn quan xã hội học”, trong Bùi
Quang Dũng (cb), Xã hội học, Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.
- Marshall G. (1998). Dictionary of Sociology. Oxford University Press.
- Mead, M. (1963). Sex and Temperament in Three Primitive Societies.
New York: William Morrow, 1963; orig. 1935.
- Nguyễn Xuân Nghĩa, (2000). Quá trình xã hội hóa về giới ở trẻ em,
Ban Xuất Bản Đại học Mở - Bán công, Tp. HCM
- Thái Thị Ngọc Dư, (2004), Giới và phát triển, Đại học Mở - Bán công,
TpHCM
- Wharton, A. (2005). The Sociology of Gender: An Introduction To
Theory and Research, Malden, MA: Blackwell Pulishing.
* Bài trên trang web
- Hoàng Điệp, “Bàn về quyền nhân thân: Nóng với chuyện chuyển giới”,
Tuổi trẻ online, 20/7/15, xem trên http://tuoitre.vn/tin/phap-
luat/20150710/ban-ve-quyen-nhan-than-nong-voi-chuyen-chuyen-
gioi/775467.html
- Lại Thìn, “Hành trình đau đớn để được “sống thực” củ những người
chuyển giới”, Đài Tiếng nói Việt Nam, 9/6/2015, http://vov.vn/xa-hoi/hanh-
trinh-dau-don-de-duoc-song-that-cua-nhung-nguoi-chuyen-gioi-
406301.vov)
- Ngô Đồng, “Tâm sự về cuộc đời của một người chuyển giới”, Công
An Tp Hồ Chí Minh, 25/04/2015; http://congan.com.vn/doi-song/tam-su-ve-
cuoc-doi-cua-mot-nguoi-chuyen-gioi_1196.html

12

You might also like