Professional Documents
Culture Documents
Nghiên cứu bệnh-chứng (Case control study) thường được dùng trong dịch tễ
học để tìm nguyên nhân gây bệnh, đặc biệt các trường hợp bệnh hiếm hoặc khó có
điều kiện theo dõi thời gian dài như trong nghiên cứu đoàn hệ. Lợi điểm cùa nghiên
cứu bệnh-chứng cho kết quả nhanh, ít tốn kém nhưng do hồi cứu lại các sự kiện ở
quá khứ nên có nhiều sai lệch (bias) trong thu thập thông tin, vì vậy các kết luận về
mối liên hệ nhân quả giữa yếu tố phơi nhiễm và bệnh không có tính thuyết phục cao.
Trong loại hình nghiên cứu này, tại thời điểm bắt đầu nghiên cứu bệnh đã
xảy ra rồi, nhà nghiên cứu truy ngược lại quá khứ để tìm yếu tố phơi nhiễm. Nghiên
cứu này luôn luôn có một nhóm chứng là những người khỏe mạnh hoặc mắc bệnh
khác với bệnh của nhóm nghiên cứu. Số người chọn trong nhóm chứng có thể nhiều
gấp 2-4 lần so với nhóm bệnh. Ví dụ: Trong 3 năm tại khoa Sản bệnh viện nhận điều
trị 30 bệnh nhân bị ung thư cổ tử cung (CTC). Các nhà khoa học đặt giả thuyết rằng
có thể ung thư CTC gây ra do Human papilloma virus (HPV). Chọn nhóm chứng
gồm 60 người là các phụ nữ có cùng độ tuổi không mắc bệnh ung thư CTC. Tất cả
các đối tượng này đều được làm xét nghiệm PCR để tìm HPV. Kết quả xét nghiệm
PCR cho thấy có 22/30 (73,3%) bệnh nhân mắc ung thư CTC có HPV (+), trong khi
chỉ 10/60 (16,6%) phụ nữ không bị ung thư CTC có HPV (+) (Bảng 5.1)
1 1 1 1
𝑆𝐸[log(𝑂𝑅)] = + + +
𝑎 𝑏 𝑐 𝑑
1 1 1 1
𝑆𝐸[log(𝑂𝑅)] = + + +
22 8 10 50
Kết luận: Ăn thịt gia cầm, tiếp xúc với chim, đi du lịch và tiếp xúc với người bị cúm
không liên hệ đến bệnh cúm gà. Chơi trong nhà làm tăng nguy cơ nhiễm bệnh có lẽ
do có đông người tụ tập trong không gian kín và chật hẹp.
Họat động ngoài trời (tiếp 2/14 (14) 8/37 (22) 0,0 (0,0-2,5) 0,225
xúc người bị cúm)
Chim nuôi trong nhà 6/12 (50) 14/31 (45) 1,4 (0,3-6,4) 0,901
Con vật khác trong nhà 2/13 (15) 1/33 (3) 2,5 (0,1-97,4) 0,999
Chơi trong nhà 0/15 13/41 (32) 0,0 (0,0-0,5) 0,013
Dùng nước+ xà phòng rửa 5/14 (36) 25/38 (66) 0,3 (0,1-1,0) 0,058
dao