Professional Documents
Culture Documents
và chồi của chúng được sử dụng để sản xuất chè. Nó là loại cây
xanh lưu niên mọc thành bụi họăc các cây nhỏ, thông thường
được xén tỉa để thấp hơn 2 mét (6fit) khi được trồng để lấy lá. Nó
có rễ cái dài. Hoa của nó màu trắng ánh vàng, đường kính từ 2,5 –
xanh, chè ô long và chè đen tất cả đều được chế biến từ loài cây
này, nhưng được chế biến ở các mức độ oxi hóa khác nhau.
Lá non và còn các lá có xanh lục nhạt được thu hoạch để sản xuất
chè khi mặt bên dưới của chúng còn các sợi lông tơ ngắn màu
trắng Các lá già có màu lục sẫm...Các độ tuổi khác nhau của lá chè
tạo ra các sản phẩm chè khác nhau về chất lượng, do thành phần
hóa học trong các lá này là khác nhau. Thông thường, chỉ có lá
chồi và 2 đến 3 lá mới mọc gần thời gian đó được thu hoạch để chế
42
biến. Việc thu hoạch thủ công bằng tay diễn ra đều đặn sau khoảng
1 đến 2 tuần.
chức năng như rượu, chiếm tỉ lệ 25%. Vitamin C chỉ có trong trà
xanh (tươi: 0,6 %). Tương tác giữa cafein với đa phenol làm cho
cafein trong trà ít nguy hiểm hơn trong cà phê (cafein là một
alcoloid độc). Tuy nhiên khi tỉ lệ nhỏ, cafein làm cho chè trở
thành một chất kích thích thần kinh, thuận lợi cho hoạt động trí
não và hoạt động cơ bắp. Chè cũng là một chất lợi tiểu, kích thích
hệ thống tuần hoàn máu và hô hấp. Chè xanh và chè đen chiếm
một chương trong sách Dược học ở Pháp (xuất bản lần thứ X năm
1994). Hình như chè làm sáng mắt ra, trí óc sảng khoái, nhuận
tràng, vô hiệu hóa nhiều chất độc trong cơ thể. Nó có tác động
vào tim, phổi và bao tử. Người cho rằng, nhai lá chè thay cho kẹo
chewinggum chống được hôi miệng. Bã chè làm phân bón rất tốt.
- Đất có tầng canh tác > 80cm, kết cấu tơi xốp.
45
Cây chè yêu cầu các yếu tố khi hậu bình quân hàng năm như
màu hồng. Tannin là một hỗn hợp có tính chất bảo vệ gỗ, da,
chống thối rữa, mục nát. Nó cũng có thể gây ung thư ở thực
quản. Tỷ lệ trong lá thường quanh 12-13%, khi lá hái cuối mùa
có thể lên đến 18%. Tám chất polyphenol nổi trội chiếm 40-
60mg/g trà (có nhiều trong lá trà non hơn lá trà già) : catecin (C),
46
bốn dẫn xuất gallat của chúng : catechin gallat (CG), epicatechin
gallat (EGCG). Khi chè lên men, các chất catechin giảm . Khi
còn epicatechin gallat thì phân hủy ra gallic acid cùng các mảnh
hoá chất nhỏ khác. Một thành phần quan trọng của tannin là
tannic acid có tác dụng bóc vảy tế bào biểu mô ở ruột, thoái hóa
tế bào gan, thêm nhiễm ngoài tiểu cầu và ngoài mạch tế bào bạch
cầu đơn nhân thận,... Tannic acid trong trà pha là (mg/mL) 55-59
từ lá, 80-95 từ mụn ; trong chè nấu, số lượng lên đến 85-95 từ lá,
ích nên việc chiết xuất nó đã được khảo cứu từ lâu, đặc biệt để
73
Đây là khâu kỹ thuật then chốt để nâng cao chất lượng sản phẩm.
Đây là yêu cầu mà người dân vùng chè cần đạt được là sao đều,
sao tới độ, phải nắm chắc nguyên lý thao tác "Đúng kỹ thuật".
Kinh nghiệm truyền thống của người dân (Yêu cầu: Sao, vò,
chỉnh lửa)
Tiêu chuẩn đạt được khi sào chè: Màu sắc bề ngoài chuyển từ
xanh tươi sang xanh tối, nắm chặt chè trong tay thấy cảm giác
dính, uốn cong cuống mập mà không gẫy, loại được mùi ngái,
(Kinh nghiệm truyền thống của người dân làm chè - chủ yếu là
người dân thăm nương chè để quyết định thời gian thu hoạch....)
trên mặt lá, làm chúng dễ hoà tan khi pha chè, đồng thời tạo cho
Vò chè theo cách: Vò nóng, khi vò cần đảm bảo các nguyên tắc,
phút) thì vò xong một mẻ. Chè thường có cọng mập, búp lớn nên
thường cần vò nóng. Khi vò nóng thường phải lợi dụng dính kết
cao trong nhiệt độ cao để vê sản phẩm thành viên hoặc bằng động
tác làm cuộn lá lên cọng thành sợi. Tất cả những động tác đó đều
nhằm đạt tới đích tối ưu hoá sắc, hương, vị, hình của sản phẩm.
Kết thúc quá trình làm héo, sao chè tươi, vò, cần rải sản phẩm lên
nong, nia cho tiếp tục khô, tuyệt đối tránh ánh nắng trực xạ. Khi
sản phẩm khô tới mức lá chè có thể bóp vụn, cọng chè có thể bẻ
gẫy là đạt yêu cầu độ ẩm, phải thực hiện sấy khô nhỏ lửa để chè
Chè tươi → Diệt men → Vò chè→ Làm khô → Sao lăn gia
Trong chè xanh tuỳ theo từng phương pháp diệt men khác
nhau và phương pháp làm khô khác nhau mà lại chia ra nhiều loại
đen.
Phương pháp hấp: Dùng hơi quá nhiệt, có áp suất cao từ nồi
hơi để diệt men. Độ dày lớp chè trên băng tải buồng hấp < 25cm,
nhiệt độ hơi nước 105 – 1150C ứng với áp suất hơi từ 5 – 6 atm,
thời gian hấp 2 phút và làm nguội nhanh bằng không khí mát
trong 2 phút
Nhiệt độ thành máy sao > = 2000C, nhiệt độ hơi nóng trong
hộ gia đình, nhiệt độ hơi nóng trong thùng sao 130 – 1500C.
Thời gian sao chè diệt men chỉ cần 2 – 3 phút, nhưng để kết
hợp làm giảm lượng nước trong chè, nên kéo dài thêm 2- 3 phút
việc của thiết bị, nhưng phải đảm bảo nguyên tắc: lượng chè tươi
1000
c; Thời gian chần chè từ 3-5 phút/ mẻ; Lượng chè/ mẻ tuỳ
Hiện nay một số công ty sản xuất chè trong nước đã điều chỉnh
chè ở mức thủy phần 8% nhưng theo điều kiện bảo quản chất
lượng chè nhanh xuống cấp. Nhiều khách hàng nước ngoài
phàn nàn về việc xuống cấp nhanh của chè Việt Nam do điều
kiện bảo quản chưa đạt yêu cầu, nên chất lượng của chè xuất
182
khẩu chưa được đảm bảo. Đó cũng là một phần nguyên nhân
làm cho chè Việt Nam chưa có chỗ đứng trên thịtrường thế giới
Việt Nam đã có TCVN 1457-83 chè đen, chè xanh. Bao gói,
ghi nhãn, vận chuyển và bảo quản. Tiêu chuẩn này áp dụng cho
Bao bì nhãn khác, thương hiệu trước đây cũng rất ít được
quan tâm, nhưng trong hội nhập thương mại thế giới WTO vào
những năm tới, đây là một vấn đề quan trọng cho sự thành đạt của
sản xuất – kinh doanh, phải coi là khoản đầu tư không thể thiếu.
Tóm lại Với công nghệ kỹ thuật còn non, yếu , ngành chè
Việt Nam còn phải phấn đấu liên tục để đáp ứng yêu cầu hội nhập
Mới đây, Hiệp hội Chè Việt Nam đã đưa ra cảnh báo khả năng
ngành chè mất thị trường EU sau khi Anh và nhiều nước châu Âu
đưa ra thông báo báo về việc dư lượng thuốc bảo vệ thực vật
trong các sản phẩm chè xuất khẩu của ta vượt ngưỡng cho phép
nhiều lần.
Một lần nữa, câu chuyện về chất lượng của các sản phẩm
chè lại được nói đến như hệ quả của sự mất cân đối giữa sự phát
triển ồ ạt của các cơ sở chế biến chè dẫn đến việc khai thác cạn
183
kiệt các vùng nguyên liệu. Tình trạng cũng sẽ đe dọa không nhỏ
đến mục tiêu tăng kim ngạch xuất khẩu của ngành chè đạt khoảng
Chỉ tính riêng các doanh nghiệp chế biến chè chúng ta có 650 cơ
sở công nghiệp với tổng công suất trên 3.100 tấn búp tươi/ngày.
Với sản lượng 546.000 tấn chè búp tươi năm 2005 chỉ đáp ứng
được khoảng 88% nhu cầu nguyên liệu chè búp của các cơ sở chế
biến này.
Ngoài ra còn có hàng trăm cơ sở chế biến chè thủ công bán công
nghiệp cùng tham gia thu mua nguyên liệu để sơ chế và nhiều cơ
sở đấu trộn ướp hương đóng gói chè. Do thiếu nguyên liệu nên
nhiều cơ sở không quan tâm đến chất lượng nguyên liệu đầu vào,
đặc biệt kiểm soát dư lượng thuốc bảo vệ thực vật trên chè, giá cả
thu mua không hợp lý nên không khuyến khích người sản xuất
coi trọng chất lượng nguyên liệu, thiếu chăm sóc vườn chè đúng
quy cách, dẫn đến năng suất chè bình quân của cả nước chỉ đạt
5,7 tấn/ha (mà nếu chăm sóc tốt nhiều vườn chè cho năng suất
20-25 tấn/ha.
Bên cạnh đó, trang thiết bị công nghệ chế biến lạc hậu nên hầu
hết chè Việt Nam được xuất khẩu ở dạng nguyên liệu, chè thành
184
phẩm mới chỉ chiếm 7% tổng kim ngạch xuất khẩu, chè nguyên
Một số lãnh đạo quản lý ngành chè lại có quan điểm giá tăng
như vậy thì nông dân sẽ được lợi, nhưng về lâu dài, theo các
chuyên gia trong ngành, khi giá đẩy lên thì chất lượng chè kém
đi. Khi hái chè, thông thường người trồng chè chỉ ngắt một búp, 2
lá, nhưng bây giờ họ dùng liềm cắt cành dài khiến cây chè bị tổn
Chất lượng chè kém đi thì xuất khẩu sẽ giảm sút. Với cơ cấu
trên 2/3 sản lượng chè được sản xuất dành cho xuất khẩu, trong
khi chỉ có non 1/3 tiêu dùng trong nước. khi kim ngạch xuất khẩu
giảm tất yếu sẽ dẫn đến chuyện đình đốn trong sản xuất.
Chính vì thế chúng ta cần phải có biện pháp giúp ngành chè
Việt Nam thoát khỏi tình trạng hiện nay, đưa giá chè Việt Nam
lên ngang hàng với các nước, muốn làm được điều này phải có sự
hợp tác chặt chẽ giữa các cơ quan lãnh đạo và bà con nông dân
nhằm cải tiến kỹ thuật trồng trọt và chế biến để chất lượng chè
ngày một tăng . Đồng thời cần thực hiện mộ số giải pháp để phát