You are on page 1of 12

Chương 4

CHIẾN TRANH NHÂN DÂN BẢO VỆ TỔ QUỐC VIỆT NAM


XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

4.1. Những vấn đề chung về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
4.1.1. Mục đích, đối tượng của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
4.1.1.1. Khái niệm.
“CTND là cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, lấy LLVT nhân dân làm nòng cốt
nhằm bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc và bảo vệ Nhân
dân, Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN”1.
4.1.1.2. Mục đích của chiến tranh nhân dân.
CTND bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là cuộc chiến tranh do toàn thể nhân dân
Việt Nam tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, nhằm:
- Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ an ninh
quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hóa.
- Bảo vệ Đảng, nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN; bảo vệ sự nghiệp đổi mới,
CNH - HĐH đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia dân tộc.
- Bảo vệ an ninh chính trị, TTATXH và nền văn hóa; giữ vững ổn định chính trị và
môi trường hòa bình, phát triển đất nước theo định hướng XHCN.
4.1.1.3. Đối tượng tác chiến của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
* Đối tượng tác chiến của CTND bảo vệ Tổ quốc:
Là các thế lực thù địch có hành động phá hoại, xâm lược lật đổ cách mạng. Hiện nay
chúng thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình” bạo loạn lật đổ để xóa bỏ chủ nghĩa xã hội
ở nước ta và sẵn sàng sử dụng LLVT, hành động quân sự can thiệp khi có thời cơ.
Hiện nay, QP&AN đang phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Các thế lực thù
địch câu kết với các phần tử phản động, cơ hội chính trị trong nước chưa từ bỏ âm mưu
chống phá cách mạng Việt Nam, nhất là phá hoại nền tảng chính trị, tư tưởng, nhằm xóa bỏ
vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ XHCN ở Việt Nam; âm mưu “phi chính trị
hóa” Quân đội, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ nhân dân với Đảng và Quân
đội.
- Nghị quyết đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng đã dự báo tình hình
quốc tế, khu vực và trong nước là: “Hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế lớn
nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất phức tạp, gay gắt; cục diện đa cực ngày
càng rõ nét. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển nhưng gặp nhiều trở ngại,
thách thức; chủ nghĩa dân túy, bảo hộ có xu hướng tăng lên; sự điều chỉnh chính sách, quan
hệ đối ngoại của các nước lớn trong khu vực và trên thế giới diễn biến khó lường. Tăng
trưởng kinh tế thế giới và thương mại, đầu tư quốc tế có xu hướng giảm; nợ công toàn cầu
tăng, rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng. Đặc biệt, đại dịch Covid-19
diễn biến phức tạp, khó kiểm soát, gây ra suy thoái trầm trọng và khủng hoảng kinh tế toàn

. Luật quốc phòng, Điều 3, 2019, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2019.
1

1
cầu, có khả năng kéo dài sang đầu thập niên 20; làm thay đổi sâu sắc trật tự, cấu trúc kinh tế,
phương thức quản trị toàn cầu, cách thức hoạt động kinh tế và tổ chức đời sống xã hội của
thể giới…Khu vực châu Á - thái Bình Dương, có vị trí trọng yếu trên thế giới, tiềm ẩn những
nhân tố gây mất ổn định, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên đặc biệt là Biển Đông diễn biến
ngày càng phức tạp và khó lường.”1
- Trong tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải nắm vững đối tượng chiến lược của cách
mạng và đối tượng tác chiến để khắc phục tư tưởng mơ hồ mất cảnh giác “để có phương án
chủ động phòng ngừa, tránh bị động phòng ngừa, tránh bị động đối đầu, cô lập. Kiên quyết
không để xảy ra những diễn biến xấu.
- Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không để lâm vào bị động, đảm bảo đủ sức đối
phó thắng lợi. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khóa IX của Đảng ta đã xác định: “Đối
tượng trực tiếp của cách mạng nước ta là tất cả những thế lực cản trở, xâm hại đến sự
nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, đối tượng tác chiến của quân
và dân ta là những lực lượng gây bạo loạn lật đổ, gây xung đột vũ trang và gây chiến tranh
xâm lược”2.
* Âm mưu, thủ đoạn.
Xuất phát từ bản chất phản động, hiếu chiến, chủ nghĩa đế quốc đang lợi dụng “vấn
đề khủng bố” và “chống khủng bố” để thi hành học thuyết “đánh đòn phủ đầu”, nhằm áp đặt
các giá trị của chúng đối với các quốc gia, dân tộc. Âm mưu xóa bỏ chủ nghĩa xã hội trên đất
nước ta là mục tiêu nhất quán của của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Hiện nay, chúng đang đẩy mạnh thực hiện chiến lược “DBHB” kết hợp với BLLĐ và
khi điều kiện cho phép, chúng sẽ sẵn sàng tiến hành phát động chiến tranh với việc sử dụng
vũ khí công nghệ cao để xâm lược nước ta, chúng đang triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo, dân chủ, nhân quyền, để tạo cớ can thiệp vào công việc nội bộ của ta. Cho nên, chúng
ta phải thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, phải tỉnh táo, thận trọng trong
xử lý các “điểm nóng” không thể để địch tạo nguyên cớ can thiệp vào công việc nội bộ của
ta hoặc tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta.
Thực hiện đánh nhanh, thắng nhanh, kết hợp tiến công quân sự từ bên ngoài vào với
hành động bạo loạn lật đổ từ bên trong; đồng thời kết hợp với các biện pháp phi vũ trang để
lừa bịp dư luận.
* Khi tiến hành chiến tranh xâm lược địch có những mạnh, yếu sau:
- Điểm mạnh:
Có ưu thế tuyệt đối về sức mạnh quân sự, kinh tế và tiềm lực khoa học công nghệ, có
thể cấu kết được với lực lượng phản động nội địa, thực hiện trong đánh ra ngoài đánh vào.
Nếu địch tiến hành chiến tranh xâm lược nước ta, chúng sẽ triệt để sử dụng ưu thế vũ
khí công nghệ hiện đại để đánh phủ đầu, liên tục ngày đêm trong phạm vi cả nước với
phương châm đánh nhanh, giải quyết nhanh, nhằm triệt phá tiềm lực kinh tế - quân sự, quốc
phòng làm mất khả năng đề kháng của quân và dân ta, tạo điều kiện thuận lợi cho bộ binh
đánh chiếm những mục tiêu quan trọng.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII , NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.
207, 208.
2.
Bộ Quốc phòng - Sách trắng Quốc phòng Việt Nam 2019, NXB Chính trị Quốc gia sự thật, 2019, Tr, 6.
2
- Điểm yếu:
Tuy nhiên, cuộc chiến tranh xâm lược của kẻ thù cũng bộc lộ những mặt yếu cơ bản
không thể khắc phục được: Cuộc chiến tranh đó là phi nghĩa, phản cách mạng sẽ bị nhân dân
trong nước và trên thể giới phản đối mạnh mẽ, phát sinh nhiều mâu thuẫn nội bộ, khó thực
hiện được chiến lược đánh nhanh, giải quyết nhanh, dễ bị sa lầy trong thế trận chiến tranh
nhân dân rộng khắp. Chúng buộc phải phân tán, đối phó khắp nơi, vấp phải mâu thuẫn khó
giải quyết của chiến tranh xâm lược, dẫn đến bị động, lúng túng, tinh thần hoang mang dao
động, giảm sút ý chí.
Địa hình, thời tiết nước ta hiểm trở, phức tạp nên vũ khí hiện đại của địch không thể
triển khai và phát huy hiệu quả. Mỗi loại vũ khí trang bị đều có nhược điểm của nó và nhất
định quân và dân ta cũng sẽ tìm được cách đối phó thắng lợi trong thế trận chiến tranh nhân
dân rộng khắp. Chi phí chiến tranh công nghệ cao rất lớn, bảo đảm vật chất kỹ thuật tốn kém
và gặp nhiều khó khăn, nhất là khi chiến tranh kéo dài. Do đó, chúng nhất định bị thất bại.
4.1.2. Tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân Việt Nam bảo vệ Tổ quốc.
4.1.2.1. Tính chất:
- Là cuộc CTND toàn dân, toàn diện lấy LLVT ba thứ quân làm nòng cốt, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
CTND bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là cuộc chiến tranh vì nhân dân và do nhân
dân thực hiện, phát huy nhân tài dân, sức dân để thực hiện chiến tranh, nhân dân thực sự là
chủ thể của cuộc chiến tranh rộng khắp đất nước; đánh địch toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
để thực hiện mục đích chính trị của cuộc chiến tranh là bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa trong bất cứ tình huống nào. Đồng thời, thực hiện mục tiêu chiến lược là
tiêu diệt và đập tan lực lượng bạo loạn, tiêu hao, tiêu diệt, đánh bại ý chí xâm lược của địch,
giữ vững sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, giữ vững địa bàn,
bảo vệ dân, bảo vệ thành quả của cách mạng và giành thắng lợi trong chiến tranh
CTND bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là cuộc chiến tranh mang tính toàn dân, toàn
diện, độc lập, tự chủ, tự cường nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong mọi
tình huống đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý, điều hành của
Nhà nước với lực lượng của toàn dân tham gia đánh giặc; bao gồm cả lực lượng quân sự, lực
lượng chính trị, trong đó LLVT nhân dân làm nòng cốt. Vì vậy, phải thường xuyên giáo dục
cho nhân dân về nhiệm vụ QP&AN, không ngừng nâng cao trình độ giác ngộ sâu sắc về hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, về mục đích chính trị của cuộc chiến
tranh là bảo bệ nhân dân, vì cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Qua
đó, làm cho nhân dân luôn nêu cao tinh thần cách mạng, đề cao trách nhiệm bảo vệ Tổ quốc,
chủ động đấu tranh chống lại âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, không mơ hồ mất cảnh giác, sẵn
sàng đối phó khi tình huống chiến tranh xảy ra.
- Là cuộc chiến tranh chính nghĩa, tự vệ cách mạng, nhằm bảo vệ độc lập tự do dân
tộc, bảo vệ độc lập chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của đất nước bảo vệ Đảng, bảo
vệ chế độ XHCN, bảo vệ nhân dân và mọi thành quả của cách mạng.
Đây là cuộc chiến tranh chính nghĩa, cách mạng, tự vệ, bảo vệ thành quả cách
mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nhằm bảo vệ nền độc lập tự do
của dân tộc, cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, góp phần bảo
vệ hòa bình trên thế giới. Vì vậy, tính chất chính nghĩa của cuộc chiến tranh không
những là nguồn sức mạnh to lớn, động viên, cổ vũ nhân dân đấu tranh chống kẻ thù
3
xâm lược, mà còn quyết định đến việc huy động lực lượng, trí tuệ, tinh thần và cơ sở
vật chất của toàn dân tạo thành sức mạnh tổng hợp của cả nước đánh giặc. Đồng thời,
chúng ta sẽ nhận được sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ của nhân dân tiến bộ trên thế
giới, kể cả nhân dân nước đi xâm lược. Do đó, tính chất chính nghĩa của cuộc chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa sẽ phát huy cao độ chủ
nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam đánh thắng mọi kẻ thù xâm
lược.
- Là cuộc chiến tranh mang tính hiện đại về vũ khí trang bị, tri thức và nghệ thuật
quân sự.
Cuộc chiến tranh mà nhân dân Việt Nam tiến hành diễn ra trong điều kiện chiến tranh hiện
đại với trang bị vũ khí hiện đại hơn, tính chất, mức độ của chiến tranh sẽ khốc liệt hơn, mức độ
chính xác, tính hủy diệt lớn hơn, đòi hỏi sự hy sinh gian khổ nhiều hơn, tinh thần chịu đựng căng
thẳng hơn, yêu cầu về bản lĩnh chính trị của nhân dân vững vàng và cao hơn. Đồng thời, phản ánh
nước ta vẫn là một nước có tiềm lực kinh tế, quân sự và khoa học công nghệ yếu hơn
địch. Điều cơ bản là phải phát huy truyền thống nghệ thuật quân sự của dân tộc ta: lấy nhỏ
thắng lớn, lấy ít địch nhiều, lấy chất lượng cao, sức sức mạnh tổng hợp của toàn dân để đánh
lại kẻ thù có quân số đông, vũ khí, trang bị hiện đại, có tiềm lực lớn về kinh tế và quân sự.
4.1.2.2. Đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc:
Chúng ta tiến hành chiến tranh chống xâm lược trong điều kiện mới của đất nước, có
nhiều thuận lợi do thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước đem lại, tạo lên sự thay
đổi sâu sắc trên tất cả các lĩnh vực của xã hội về chính trị, quân sự, kinh tế, tinh thần, văn
hoá xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đây là những điều kiện cơ bản để
Đảng, Nhà nước và nhân dân thực hiện cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, nước ta
đã hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, có những thời cơ và thách thức đối với lĩnh vực
QP&AN. Vì vậy, chúng ta phải biết tận dụng tối đa thời cơ để xây dựng, phát triển đất nước
làm cho dân giàu, nước mạnh xã hội dân chủ, công bằng và văn minh. Đồng thời, phải hạn
chế thấp nhất những thách thức, những cản trở tác động vào công cuộc xây dựng và bảo Tổ
quốc.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, chúng ta phải đối phó với
kẻ thù xâm lược có tiềm lực về kinh tế, quân sự, có vũ khí công nghệ cao, sức tàn phá lớn,
trong lúc các nguồn viền trợ của các nước đối với ta như trong chiến tranh giải phóng trước
đây không còn nữa. Bởi vậy, cách mạng Việt Nam phải dựa vào sức mình là chính, phát huy
cao độ tính độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, trí tuệ, bản lĩnh và nghị lực phi thường của nhân
dân; của các cấp, các ngành, các địa phương tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả nước chung
sức, đồng lòng đứng lên đánh địch bảo vệ Tổ quốc. Đồng thời, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ
của nhân dân yêu chuộng hoà bình và các lực lượng tiến bộ trên thế giới tạo ra lực lượng
đông đảo, một mặt trận rộng rãi cùng Việt Nam đấu tranh, lên án hành động xâm lược của kẻ
thù.
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay, là cuộc chiến tranh
toàn diện, với mục đích chiến tranh đối với cả hai bên tham chiến đều rất kiên quyết và triệt
để. Đối với địch, chúng dùng mọi âm mưu, thủ đoạn vừa tinh vi, vừa xảo quyệt và thâm độc
chống phá cách mạng Việt Nam bằng chiến lược “diễn biến hòa bình”, “bạo loạn lật đổ”…
chúng đánh Việt Nam một cách toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội về kinh
tế, chính trị - xã hội, văn hóa, QPAN và đối ngoại... nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
4
Cộng sản Việt Nam và chế độ XHCN ở nước ta, đè bẹp ý chí để kháng của nhân dân, buộc
Việt Nam phải khuất phục đi theo con đường tư bản chủ nghĩa. Để đạt được mục đích trên,
kẻ thù dùng nhiều chiêu thức, lợi dụng mọi phương tiện, đánh chúng ta mọi lúc, mọi nơi,
vào các tổ chức, mọi con người, trên mọi không gian, thời gian…. Đồng thời, kẻ thù tìm mọi
cách tạo dựng thời cơ để tạo nguyên cớ xâm lược nước ta.
Đối với Việt Nam, phải luôn chủ động, bình tĩnh, tỉnh táo, sáng suốt trong đánh giá
âm mưu, thủ đoạn, hành động của kẻ thù và bằng mọi biện pháp phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả dân tộc đánh bại hành động xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
CTND bảo vệ Tổ quốc sẽ diễn ra hết sức gay go, quyết liệt và phức tạp, đan xen nhau
ngay từ đầu cũng như suốt quá trình chiến tranh. Tuy nhiên, đấu tranh quân sự với địch trên
chiến trường vẫn giữ vai trò chủ yếu quyết định. Vì vậy, chúng ta vừa phải xây dựng quân
đội nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và từng bước hiện đại, lực lượng
dân quân tự vệ, lực lượng dự bị động viên đông đảo, rộng khắp và vững mạnh; lực lượng
này, phải được thường xuyên huấn luyện, nâng cao chất lượng chiến đấu. Đồng thời, phải vũ
trang cho toàn dân, xây dựng mỗi người dân thực sự là người chiến sĩ vừa sản xuất, vừa sẵn
sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc; xây dựng thế trận CTND vững mạnh và nền quốc phòng
toàn dân vững chắc bảo đảm chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trong chiến tranh, chiến sự diễn ra rất quyết liệt, phức tạp, khẩn trương, ngay từ đầu,
trên không gian rộng, nhiều chiều, trên toàn bộ hay trên một phần đất nước. Nước ta với
chiều sâu lớn, do đó hình thái chiến tranh xen kẽ, không phân tuyến, không có sự phân biệt
giữa hậu phương và tiền tuyến. Chúng ta vừa phải chống cuộc tiến công đường không, vừa
chống cuộc tiến công đường bộ với sức mạnh áp đảo từ ngoài vào, đồng thời vừa phải đối
phó với lực lượng phản động gây bạo loạn từ bên trong. Quy mô chiến tranh lớn diễn ra từ
đầu, thương vong về người, tiêu hao về vật chất kỹ thuật sẽ rất lớn, nhu cầu bảo đảm cho
chiến tranh đòi hỏi rất cao và khẩn trương. Đây là sự khắc nhiệt và thử thách rất cao của
cuộc chiến tranh hiện đại mà kẻ thù thực hiện đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN của
nhân dân Việt Nam. Đòi hỏi chiến tranh nhân dân Việt Nam phải nâng lên tầm cao mới về
chất, mới đáp ứng được yêu cầu mục tiêu bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Những đặc điểm trên, tác động rất lớn đến tinh thần, tâm lý của mọi người dân, đến công
tác chuẩn bị đầy đủ mọi mặt cho chiến tranh để giành và giữ quyền chủ động đánh địch ngay từ
đầu và suốt quá trình chiến tranh. Đòi hỏi sự hy sinh và lòng dũng cảm, ý chí bền bỉ kiên cường và
quyết tâm rất cao của toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem hết tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
4.2. Quan điểm của Đảng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
Từ trong thực tiễn, Đảng ta nhận định: “Trong một vài thập kỷ tới, ít có khả năng xảy
ra chiến tranh thế giới. Nhưng chiến tranh cục bộ, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ
trang, hoạt động can thiệp lật đổ còn xảy ra ở nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp.
Nếu đất nước phải đối mặt với một cuộc chiến tranh xâm lược mới của kẻ thù, chúng ta cần
nắm vững sáu quan điểm cơ bản của Đảng trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam”1.

1
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết TW8/ khóa IX, Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội,
2001, tr 5.
5
4.2.1. Tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đành giặc, lấy lực lượng vũ trang nhân
dân làm nòng cốt. Kết hợp tác chiến của lực lượng vũ trang địa phương với tác chiến của
các binh đoàn chủ lực.
* Vị trí:
Đây là quan điểm cơ bản xuyên suốt, thể hiện tính nhân dân sâu sắc trong chiến tranh.
Khẳng định đây là cuộc chiến tranh của dân, do dân và vì dân với tinh thần đầy đủ nhất. Là
điều kiện để phát huy cao nhất sức mạnh tổng hợp trong cuộc chiến tranh.
* Nội dung:
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN mang tính chất hoàn toàn
chính nghĩa và tính chất nhân dân thực sự. Vì vậy, phải dựa vào sức mạnh của toàn dân, phải
huy động được sức mạnh tinh thần và vật chất của mọi tầng lớp nhân dân, phải huy động
mọi lực lượng tham gia chiến đấu tạo nên thế trận “thiên la địa võng” đẩy địch vào thế bị
động, bị tiêu hao lớn về sinh lực, vật lực và cuối cùng nhất định địch phải chịu thất bại.
- Phải kết hợp chặt chẽ giữa tác chiến của LLVT địa phương với tác chiến của các
đơn vị chủ lực để thực hiện việc tiêu hao địch rộng rãi và thực hiện những đòn tiêu diệt tập
trung với quy mô vừa và lớn.
- Trong điều kiện mới ta phải lấy nhỏ thắng lớn, lấy ít địch nhiều để đánh thắng
những đội quân mạnh hơn ta gấp nhiều lần. Đảng ta không chỉ dựa vào LLVT mà phải dựa
vào sức mạnh của toàn dân, tiến hành chiến tranh nhân dân, toàn dân đánh giặc…
- Động viên toàn dân đánh giặc, chúng ta phải động viên và tổ chức quần chúng cùng
LLVT nhân dân trực tiếp chiến đấu và phục vụ chiến đấu chống lại chiến tranh xâm lực của
kẻ thù. Đánh giặc bằng mọi thứ vũ khí có trong tay, bằng những cách đánh độc đáo sáng
tạo…
- Toàn dân đánh giặc phải có lực lượng nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân gồm
3 thứ quân Bộ đội chủ lực, Bộ đội địa phương và Dân quân tự vệ. Dân quân tự vệ là lực
lượng nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc ở cơ sở, Bộ đội địa phương và Dân quân
tự vệ làm nòng cốt cho phong trào chiến tranh nhân dân ở địa phương. Bộ đội chủ lực cùng
lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt cho toàn dân đánh giặc trên chiến trường cả
nước.
Xây dựng LLVT nhân dân ba thứ quân tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân,
với Đảng và Nhà nước, có nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; bảo vệ Đảng, Nhà nước và nhân dân.
- Tiến hành chiến tranh toàn dân, đó là truyền thống đồng thời là quy luật giành thắng
lợi trong chiến tranh của dân tộc ta chống những kẻ thù xâm lược lớn mạnh hơn ta gấp nhiều
lần, từ xa xưa tổ tiên ta đã tiến hành chiến tranh nhân dân để đánh thắng các triều đại phong
kiến phương bắc, cũng như dưới sự lãnh đạo của Đảng dân tộc ta đã đánh thắng thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, ngày nay chúng ta kế thừa và phát huy truyền thống ấy lên một trình
độ mới phù hợp với điều kiện mới thực hiện chiến tranh toàn dân đánh thắng một cuộc tiến
công xâm lược của địch.
* Biện pháp:
- Tăng cường GDQP&AN cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là thế hệ trẻ nói chung và
sinh viên nói riêng.

6
- Không ngừng chăm lo xây dựng LLVT vững mạnh toàn diện, đặc biệt là chất lượng
chính trị.
- Không ngừng nghiên cứu nghệ thuật quân sự, nghiên cứu các cuộc chiến tranh gần
đây trên thế giới để phát triển nghệ thuật quân sự lên một tầm cao mới. Xây dựng tỉnh, thành
phố thành khu vực phòng thủ vững chắc.
4.2.2. Tiến hành chiến tranh toàn diện, kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh quân sự, chính
trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa và tư tưởng lấy đấu tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng
lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để giành thắng lợi trong chiến tranh.
* Vị trí:
Quan điểm trên có vai trò quan trọng vừa mang tính chỉ đạo và hướng dẫn hành động
cụ thể để giành thắng lợi trong chiến tranh.
* Nội dung:
Chiến tranh là một cuộc thử thách toàn diện đối với sức mạnh vật chất, tinh thần của
quốc gia. Để phát huy đến mức cao nhất sức mạnh của toàn dân đánh bại chiến tranh tổng
lực của địch, chúng ta phải đánh địch trên tất cả các mặt trận: Quân sự, chính trị, ngoại giao,
kinh tế, văn hóa tư tưởng. Mỗi mặt trận đấu tranh đều có vị trí quan trọng của nó.
- Về đấu tranh vũ trang:
Đây là một hình thức đấu tranh cơ bản, giữ vai trò quyết định trực tiếp trong việc tiêu
hao, tiêu diệt lực lượng quân sự của địch. Đấu tranh vũ trang được tiến hành bởi lực lượng
của toàn dân, trong đó LLVT giữ vai trò nòng cốt.
- Về đấu tranh chính trị:
Đây là một hình thức đấu tranh cơ bản, thông qua đó mà nêu cao được chính nghĩa
của ta, vạch trần bản chất xâm lược, phi nghĩa và tội ác dã man của địch. Tiến hành đấu
tranh chính trị sẽ góp phần đập tan mọi luận điệu tuyên truyền, xuyên tạc, lừa gạt và chia rẽ
của địch, làm cho bọn hiếu chiến, xâm lược ngày càng bị cô lập và suy yếu về chính trị, tạo
điều kiện thuận lợi cho các mặt trận đấu tranh khác. Nội dung đấu tranh về chính trị rất
phong phú. Trong đó, phải tăng cường tuyên truyền, giáo dục làm cho toàn thể nhân dân
hiểu rõ bản chất phi nghĩa của chiến tranh xâm lược do địch tiến hành, vạch trần bộ mặt “tự
do”, “dân chủ”, “nhân quyền” giả hiệu và những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của
chúng. Đồng thời, khẳng định tính đúng đắn của con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
nước ta, khơi dậy trong nhân dân truyền thống quật cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm,
ý chí độc lập, tự chủ, tự giác, tự cường, lòng căm thù giặc sâu sắc, làm cho mọi người đồng
lòng chống giặc.
- Về đấu tranh tư tưởng, văn hoá:
Đây là cuộc đấu tranh nhằm “nâng cao cảnh giác cách mạng, vạch trần các thủ đoạn
phá hoại về tư tưởng, góp phần làm thất bại một bước “diễn biến hòa bình” của các thế lực
thù địch”, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa MLN, TTHCM, bảo vệ đường lối quan điểm
của Đảng; kiên định mục tiêu, bảo vệ đường lối quan điểm của Đảng; kiên định mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Nội dung đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, văn hóa bao gồm nhiều vấn đề, trong đó
cần phải chủ động tiến công làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư
tưởng, văn hóa của các thế lực thù địch ngay tại địa phương, cơ sở. Phải đấu tranh chống
địch xuyên tạc, bóp méo chủ nghĩa MLN, TTHCM, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
7
nước; phải nắm chắc mọi diễn biến, kịp thời xử trí những tình huống phức tạp, đề phòng
nguy cơ “tự diễn biến” từ trong nội bộ. Đề cao trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, tổ chức
Đảng; đấu tranh loại trừ tham nhũng, lãng phí, quan liêu; ngăn chặn sự suy thoái về đạo đức,
lối sống và đầy lùi các tệ nạn xã hội tại cường cơ sở địa phương, giữ gìn và phát huy những
tinh hoa trong bản sắc văn hóa dân tộc.
- Về đấu tranh kinh tế:
Phải làm thất bại âm mưu và hành động phá hoại về kinh tế của địch, bảo vệ bằng
được tiềm lực kinh tế của ta, bảo vệ các trung tâm kinh tế, các khu công nghiệp, khu chế
xuất trước mọi thủ đoạn đánh phá của địch, bảo vệ sản xuất và ổn định đời sống cho nhân
dân, bảo vệ định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế. Phát huy tinh thần tự lực,
tự cường, phát triển sản xuất ở các địa phương, góp phần xây dựng tiềm lực kinh tế cho đất
nước; đồng thời phải sử dụng tốt mọi nguồn viện trợ của các nước, các lực lượng tiến bộ trên
thế giới.
- Về đấu tranh ngoại giao:
Đây là mặt trận đấu tranh có ý nghĩa chiến lược quan trọng nhằm phát huy thế mạnh
của ta trên trường quốc tế. Phải vạch trần bản chất xâm lược phi nghĩa của địch, tính chất
chính nghĩa của ta, triệt để lợi dụng những mâu thuẫn trong hàng ngũ địch làm cho chúng
ngày càng bị cô lập, lúng túng và bị động trên chiến trường, trong nước và trên thế giới. Phải
thực hiện chính sách nhất quán thêm bạn, bớt thù và nguyên tắc lợi dụng những mâu thuẫn
trong hàng ngũ kẻ thù.
* Biện pháp:
- Đảng phải có đường lối chiến lược, sách lược đúng tạo thế và lực cho từng mặt trận
để tạo nên sức mạnh, trước mắt chống âm mưu “DBHB” BLLĐ của địch. Động viên sức
mạnh của toàn dân tiến hành đấu tranh trên các mặt trận khi kẻ thù phát động chiến tranh
xâm lược.
- Phải vận dụng nhiều hình thức, biện pháp đấu tranh thích hợp trên từng mặt; đồng
thời có nghệ thuật chỉ đạo, phối hợp chặt chẽ giữa các mặt trận đấu tranh trong từng giai
đoạn cũng như cả quá trình phát triển của cuộc chiến tranh. Song phải quán triệt lấy đấu
tranh quân sự là chủ yếu, lấy thắng lợi trên chiến trường là yếu tố quyết định để kết thúc
chiến tranh.
4.2.3. Chuẩn bị mọi mặt trên cả nước cũng như từng khu vực để đủ sức đánh được lâu
dài, ra sức thu hẹp không gian, rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi càng
sớm càng tốt.
Kẻ thù xâm lược ta là nước lớn, có quân đông, trang bị vũ khí kỹ thuật cao, tiềm lực
quân sự, kinh tế mạnh hơn ta nhiều lần, chúng thực hiện đánh nhanh giải quyết nhanh theo
học thuyết “Không - Bộ - Biển” để đạt mục đích chiến tranh xâm lược.
Vì vậy ta phải chuẩn bị trên cả nước cũng như từng khu vực để đánh được lâu dài, ra
sức tạo thời cơ, nắm vững thời cơ chủ động đối phó và giành thắng lợi trong thời gian cần
thiết. Trên cơ sở đó ta mới dồn sức để rút ngắn thời gian của chiến tranh giành thắng lợi
càng sớm càng tốt. Ta kiên quyết ngăn chặn địch không cho chúng mở rộng để thu hẹp
không gian của chiến tranh. Mặt khác cũng phải chuẩn bị sẵn sàng để thắng địch trong điều
kiện chiến tranh mở rộng.

8
- Chuẩn bị đầy đủ mọi mặt trên cả nước và từng khu vực.
Đây là nhiệm vụ vừa là giải pháp trọng yếu, cấp bách và thường xuyên. Nó bao gồm
mọi hoạt động của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân tiến hành chuẩn bị nhằm tăng nhanh các
tiềm lực của từng địa phương, của đất nước, bảo đảm đủ khả năng chủ động, tự lực đánh
địch giành thắng lợi trong bất cứ tình huống nào, bảo vệ vững chắc địa phương, góp phần
bảo vệ vững chắc đất nước. Nội dung chuẩn bị phải toàn diện trên tất cả các mặt chính trị,
kinh tế, QP&AN, không ngừng xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an
ninh nhân dân phù hợp với hoàn cảnh mới.
- Thu hẹp không gian chiến tranh:
Chiến tranh xâm lược của địch nếu xảy ra có thể sẽ diễn ra cả trên bộ, trên biển, trên
không,trên biên giới, trong đất liền, hải đảo. Chúng ta phải tạo được thế, tạo được lực, tạo
thời cơ để thu hẹp không gian chiến tranh, không cho địch mở rộng chiến tranh ra phạm vi
cả nước.
Đối với từng địa phương cơ sở phải tự lực đánh địch, bảo vệ địa phương mình, thực
hiện tỉnh giữ tỉnh, huyện giữ huyện, xã giữ xã; phải bám trụ kiên cường để chủ động đánh
địch, kìm giữ địch, buộc địch phải đối phó mọi nơi, tạo điều kiện cho quân chủ lực đánh đòn
quyết định.
- Rút ngắn thời gian chiến tranh :
Trong chiến tranh tương lai, địch vẫn dựa vào vũ khí trang bị hiện đại, tiềm lực kinh
tế, quân sự hơn chúng ta để thực hiện chiến lược “đánh nhanh, giải quyết nhanh” nhằm đạt
mục đích chiến tranh xâm lược. Đối với ta, để đánh bại ý đồ đó, một mặt ta buộc chúng phải
sa lầy kéo dài chiến tranh, mặt khác ta phải tập trung mọi nỗ lực tạo ra thời cơ có lợi, tranh
thủ thời cơ giành thắng lợi trong thời gian ngắn để hạn chế bớt tổn thất. Từng địa phương
phải chuẩn bị chu đáo mọi mặt từ thời bình. Khi chiến tranh xảy ra cần phải tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng, của toàn dân, vận dụng linh
hoạt các hình thức và phương pháp đấu tranh với sự nỗ lực cao nhất, tạo ra điều kiện, thời cơ
có lợi cho bộ đội chủ lực và cùng với bộ đội chủ lực khi thời cơ xuất hiện thì kịp thời nắm
lấy thời cơ, tiến công kiên quyết và mạnh mẽ, đánh bại ý chí xâm lược của địch trong thời
gian ngắn hoặc tương đối ngắn.
4.2.4. Kết hợp kháng chiến với xây dựng, vừa kháng chiến vừa xây dựng, ra sức sản xuất
thực hành tiết kiệm giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta càng đánh càng mạnh.
- Đây là quan điểm cơ bản của Đảng ta chỉ đạo xuyên suốt quá trình đấu tranh cách
mạng, thể hiện ở sự kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ chống xâm lược để bảo vệ Tổ quốc với
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội ngay trong quá trình chiến tranh. Muốn duy trì được
sức mạnh đánh thắng kẻ thù xâm lược, phải kiên cường trụ bám, củng cố và giữ vững hậu
phương chiến lược và hậu phương trên từng hướng chiến trường, trên từng địa phương.
Từng địa phương cũng như cả nước phải phát huy cao nhất nội lực vừa chiến đấu, vừa xây
dựng, vừa tích cực đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, tích cực lấy vũ khí của địch để
đánh địch.
- Đây là một kinh nghiệm đồng thời là một truyền thống chống giặc ngoại xâm trước
đây cũng như cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Nếu chiến tranh có xảy ra chúng
ta phải tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, cuộc chiến đó sẽ diễn ra quyết
liệt ngay từ đầu.

9
- Quy mô chiến tranh, thương vong về người, hao tổn về vật chất kỹ thuật sẽ rất lớn,
nhu cầu bảo đảm cho chiến tranh và ổn định đời sống nhân dân đòi hỏi cao và khẩn trương.
Vì vậy muốn duy trì được sức mạnh để đánh thắng kẻ thù xâm lược, ta cần phải có tiềm lực
kinh tế, quân sự nhất định bảo đảm cho tác chiến giành thắng lợi.
- Vì vậy trong chiến tranh ta phải: vừa kháng chiến vừa duy trì và đẩy mạnh sản xuất
bảo đảm nhu cầu vật chất kỹ thuật cho chiến tranh, ổn định đời sống nhân dân.
- Ta phải thực hành tiết kiệm trong xây dựng và trong chiến tranh, lấy của địch đánh
địch, giữ gìn và bồi dưỡng lực lượng ta. Không ngừng tăng thêm tiềm lực cho chiến tranh,
càng đánh càng mạnh.

4.2.5. Kết hợp đấu tranh quân sự với bảo đảm an ninh chính trị, giữ gìn trật tự an toàn xã
hội, trấn áp kịp thời mọi âm mưu và hành động phá hoại gây bạo loạn.
- Hiện nay kẻ địch đang đẩy mạnh chiến lược “DBHB”, BLLĐ để chống phá cách
mạng nước ta nếu chiến tranh xảy ra địch sẽ tăng cường đánh phá bằng nhiều biện pháp, tiến
hành chiến tranh tâm lý, chiến tranh gián điệp, lợi dụng dân tộc, tôn giáo, các tổ chức phản
động chống đối để kích động, chia rẽ, làm mất ổn định chính trị, gây rối bạo loạn lật đổ ở
hậu phương ta để phối hợp với lực lượng tiến công từ ngoài vào.
- Vì vậy đi đôi với đấu tranh quân sự trên chiến trường ta phải kịp thời trấn áp mọi
âm mưu và hành động phá hoại của địch ở hậu phương ta, bảo đảm giữ vững an ninh chính
trị trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc hậu phương, giữ vững sự chi viện sức người, sức
của cho tiền tuyến, càng đánh càng mạnh, càng đánh càng thắng.
4.2.6. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh thần tự lực tự
cường, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, sự đồng tình ủng hộ của nhân dân tiến bộ trên thế
giới.
- Cuộc chiến tranh xâm lược của địch là tàn bạo và vô nhân đạo sẽ bị nhân dân tiến
bộ trên thế giới phản đối. Đây là truyền thống và bài học kinh nghiệm trong đấu tranh dựng
nước, giữ nước của dân tộc ta. Truyền thống của dân tộc ta là tự lực, tự cường, kiên cường,
bất khuất, mưu trí, sáng tạo trong lao động, sản xuất, trong chiến đấu. Chủ tịch Hồ Chí Minh
chỉ rõ: mang sức ta mà giải phóng cho ta.
- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, phát huy tinh thần tự lực, tự
cường, tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế. Đoàn kết mở rộng quan hệ tranh thủ sự ủng hộ của nhân
dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới, kể cả nhân dân đất nước có quân xâm lược. Mục đích
là phát huy nội lực, tranh thủ ngoại lực để tạo sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi trong chiến
tranh. Tuy nhiên, sức mạnh nội lực là chủ yếu, sức mạnh ngoại lực là quan trọng.
* Các quan điểm cơ bản của Đảng về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc có mối
quan hệ khăng khít, tác động, bổ trợ cho nhau. Mỗi quan điểm của Đảng chỉ đạo sâu sắc, cụ
thể về một yếu tố của chiến tranh nhân dân. Nghiên cứu và quán triệt đầy đủ các quan điểm
của Đảng vừa làm cơ sở vận dụng, vừa củng cố niềm tin vào khả năng bảo vệ Tổ quốc của
nhân dân ta. Đồng thời, là vũ khí lí luận đấu tranh với những nhận thức, tư tưởng lệch lạc,
mơ hồ xem nhẹ vai trò của chiến tranh nhân dân hoặc thiếu lòng tin vào khả năng bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa.
4.3. Một số nội dung chủ yếu của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc.
4.3.1. Tổ chức thế trận chiến tranh nhân dân:
10
- Thế trận chiến tranh nhân dân là sự tổ chức bố trí lực lượng để tiến hành chiến
tranh và hoạt động tác chiến.
- Nội dung
Thế trận chiến tranh bố trí rộng trên cả nước nhưng phải có trọng tâm, trọng điểm.
Xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh toàn diện, có khả năng độc lập tác chiến, đồng thời
phối hợp với bộ đội chủ lực và đơn vị bạn đánh địch liên tục dài ngày, liên kết thành thế trận
làng nước.
Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp
quốc phòng Việt Nam, nhằm bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa;
giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng và phát triển đất nước; bảo vệ độc lập,
chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng và
cả hệ thống chính trị.
Thế trận chiến tranh nhân dân được xây dựng trên nền tảng “thế trận lòng dân”, biểu
hiện ở lòng trung thành vô hạn với Tổ quốc, nhân dân và chế độ XHCN; lòng yêu nước,
niềm tự hào dân tộc, sự đồng thuận, tin tưởng tuyệt đối của nhân dân vào sự lãnh đạo của
Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới và
chế độ XHCN ở Việt Nam, vào khả năng và sức mạnh tổng hợp của đất nước, sức mạnh vô
địch của nhân dân và của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; quan tâm đến nguyện vọng chính
đáng của nhân dân; kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc nảy sinh, tạo sự đồng thuận xã
hội, góp phần xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc; động viên toàn dân tham gia xây
dựng nền QP&AN nhân dân; nêu cao tinh thần đấu tranh tự bảo vệ mình, bảo vệ lợi ích quốc
gia - dân tộc và hướng tới mục tiêu xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc.
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng nòng cốt trong xây dựng “thế trận lòng
dân”, tích cực tham gia xây dựng cơ sở chính trị, giúp nhân dân phát triển sản xuất, xóa đói,
giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới; phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa,
đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, nhất là
ở các địa bàn chiến lược, trọng yếu về quốc phòng và an ninh; giữ vững bản chất, truyền
thống, phẩm chất tốt đẹp của “Bộ đội Cụ Hồ”, tăng cường mối quan hệ mật thiết quân - dân,
tạo niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, Quân đội và chế độ xã hội chủ nghĩa.
4.3.2. Tổ chức lực lượng chiến tranh nhân dân
- Lực lượng chiến tranh nhân dân là toàn dân đánh giặc, đánh giặc toàn diện lấy lực
lượng vũ trang nhân dân ba thứ quân làm nòng cốt.
Lực lượng toàn dân gồm các ngành, các cấp và quần chúng nhân dân; là lực lượng
đông đảo nhất, nhanh nhất, kịp thời nhất và là chỗ dựa vững chắc nhất của quốc phòng. Việt
Nam chủ trương xây dựng lực lượng quốc phòng toàn dân của dân, do dân, vì dân; phát huy
sức mạnh tổng hợp của toàn dân để xây dựng lực lượng quốc phòng bảo vệ Tổ quốc, thông
qua việc củng cố vững chắc hệ thống chính trị, bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể nhân dân, trong đó hệ thống chính trị là hạt nhân của lực lượng quốc phòng,
có vai trò quyết định trong huy động, phát huy sức mạnh quốc phòng của đất nước. Việc xây
dựng, củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức quần chúng có ý nghĩa rất
quan trọng trong tập hợp, vận động quần chúng thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh;
trực tiếp đấu tranh bảo vệ địa phương, cơ quan, đơn vị mình, góp phần giữ vững ổn định
chính trị, trật tự an toàn xã hội.
11
- Lực lượng toàn dân được tổ chức chặt chẽ thành lực lượng quần chúng rộng rãi và
lực lượng quân sự.
- Lực lượng vũ trang nhân dân được xây dựng vững mạnh toàn diện, coi trọng cả số
lượng và chất lượng trong đó lấy chất lượng là chính, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở.
LLVT nhân dân ba thứ quân bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, dân quân tự
vệ, là nòng cốt xây dựng nền Quốc phòng toàn dân; có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên
định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; có sức mạnh chiến đấu ngày càng cao; tổ
chức tinh, gọn, mạnh, cơ động, linh hoạt, hiệu quả; cơ cấu tổ chức đồng bộ, hợp lý; phù hợp
với quan điểm, đường lối quốc phòng toàn dân, chiến tranh nhân dân; đồng thời sẵn sàng
phát triển lực lượng đáp ứng yêu cầu của chiến tranh.
Bộ đội chủ lực được tổ chức tinh nhuệ, có hỏa lực mạnh; trang bị phương tiện cơ
động nhanh, có thể đảm nhiệm tác chiến độc lập và tác chiến hợp đồng quân, binh chủng;
chú trọng xây dựng các đơn vị đặc nhiệm, đặc công tinh nhuệ.
Bộ đội địa phương được tổ chức phù hợp với đặc điểm tình hình, nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh của từng địa phương, trên từng địa bàn lãnh thổ, vùng, miền, biên giới, ven
biển, hải đảo; được trang bị vũ khí phù hợp, phát huy hiệu quả trong khu vực phòng thủ.
4.3.3. Phối hợp chặt chẽ chống quân địch tiến công từ bên ngoài vào và bạo loạn lật đổ từ
bên trong.
Kẻ thù xâm lược nước ta có thể sẽ sử dụng lực lượng tiến công từ bên ngoài vào và
bạo loạn lật đổ ở bên trong, đánh nhanh giải quyết nhanh, vì vậy buộc ta phải chủ động ngăn
chặn ý đồ của chúng, không để kẻ địch cấu kết với nhau.
Trong quá trình chuẩn bị lực lượng vũ trang phải có kế hoạch, phương án chiến đấu
và được quán triệt tới mọi người, kết hợp giải quyết tốt các tình huống chiến đấu diễn ra .

KẾT LUẬN:
Chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ta vẫn phải “lấy ít
đánh nhiều”, “lấy nhỏ đánh lớn”, chống lại kẻ thù xâm lược có tiềm lực kinh tế, quân sự lớn
hơn ta nhiều lần. Con đường đi đến thắng lợi của nhân dân ta vẫn phải tiến hành chiến tranh
nhân dân, toàn dân, toàn diện, đánh địch bằng cả quân sự, chính trị, ngoại giao… bằng lực
lượng chính trị và lực lượng vũ trang, kết hợp lực lượng tại chỗ và lực lượng cơ động, đánh
địch trên mọi địa bàn, địa hình của đất nước ta. Từ tính chất và đặc điểm của chiến tranh
hiện nay, chúng ta phải nắm vững và vận dụng sáng tạo những quan điểm cơ bản của Đảng
trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc để xây dựng phát triển nghệ thuật quân sự Việt Nam.
Trước mắt mỗi sinh viên phải gắng sức học tập tốt, góp sức mình vào sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

CÂU HỎI NGHIÊN CỨU, THẢO LUẬN


1. Mục đích, tính chất, đặc điểm của chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc?
2. Quan điểm của Đảng về chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN?

12

You might also like