You are on page 1of 40

Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển

Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Bất bình đẳng và đói nghèo


Bangladesh là một trong những quốc gia đông dân có thu nhập thấp nhất trên
thế giới. Năm 2003, thu nhập bình quân của 140 triệu ngƣời dân Bangladesh là tƣơng
đƣơng với 1.770 đô-la Mỹ. Tính theo ngày thì khoảng 5 đô-la mỗi ngƣời một ngày, và
con số này cho phép ngƣời dân có đƣợc mức sinh hoạt tạm đủ. Nhƣng 5 đô-la một
ngày chỉ là con số bình quân, là mức thu nhập khi chia GDP đồng đều cho toàn dân
số, nhƣng chia đồng đều làm sao đƣợc. Vậy những ngƣời rơi xuống dƣới ngƣỡng
“bình quân” thì thu nhập ở mức bao nhiêu? Ngƣời dân nghèo nhất của Bangladesh
nhờ đến bao nhiêu tiền mới sống còn đƣợc đây? Bằng chứng do Ngân hàng Thế giới
cung cấp cho thấy có 36% ngƣời dân Bangladesh, tức khoảng 50 triệu ngƣời, sống
bằng “1 đô-la một ngày” hoặc thậm chí còn ít hơn nữa, và đó đúng với định nghĩa
quốc tế chuẩn về mức nghèo tuyệt đối.1
Xét trên phạm vi toàn cầu, có trên 1 tỷ ngƣời, hoặc cứ sáu ngƣời thì gần có
một ngƣời đƣợc cho là sống dƣới mức nghèo “1 đô-la một ngày”; 2,7 tỷ ngƣời, gần
bằng phân nửa dân số thế giới, chỉ sống nhờ vào chƣa tới “2 đô-la một ngày.” Đối với
ngƣời có trình độ đại học mà đọc cuốn sách này thì khó tƣởng tƣợng ra đƣợc mỗi
ngày chỉ sống bằng 1 hoặc 2 đô-la. Thế nhƣng đây chính là hoàn cảnh đang đối mặt
với hàng triệu ngƣời dân Bangladesh cùng hàng tỷ ngƣời dân trên khắp thế giới trong
cuộc sống thƣờng ngày.
Giải thích cho mức nghèo tuyệt đối ở Bangladesh và ở các quốc gia thu nhập
thấp khác là tổng sản lƣợng và GDP tính trên mỗi đầu ngƣời còn quá thấp. Nhƣng đây
không phải là yếu tố duy nhất. Mexico là quốc gia thu nhập trên trung bình có GDP
trên mỗi đầu ngƣời trong năm 2003 là tƣơng đƣơng 9.168 đô-la Mỹ, cao gấp năm lần
Bangladesh. Nếu GDP mà đƣợc chia đều ở Mexico thì mỗi ngƣời Mễ có đƣợc 25 đô-
la một ngày. Nhƣng thu nhập lại không chia đồng đều ở Mexico hay Bangladesh hay
bất kỳ ở quốc gia nào khác. Tỷ lệ 20% ngƣời giàu nhất ở Mexico chiếm trên 50%
tổng thu nhập nội địa, gấp gần mười lăm lần tỷ lệ 20% ngƣời nghèo nhất nhận đƣợc.
Kết hợp giữa mức thu nhập và phân phối thu nhập ở Mexico cho ra kết quả là có trên
10 triệu ngƣời Mễ (khoảng 10% dân số) sống dƣới mức nghèo “1 đô-la một ngày”.
Đƣa con ngƣời thoát khỏi cảnh nghèo đòi hỏi tăng trƣởng kinh tế. Tăng GDP
trên đầu ngƣời nói chung là có lợi cho những ngƣời sống dƣới lằn ranh nghèo (chuẩn
nghèo) cũng nhƣ những ngƣời sống giáp lằn ranh nghèo hoặc cao hơn lằn ranh nghèo
một chút. Nếu không có tăng trƣởng kinh tế bền vững, thì Bangladesh nhiều nhất là
chỉ đạt đƣợc mức thu nhập thấp cho phép là 5 đô-la một ngày. Nhƣng phân phối thu
nhập quốc gia cũng đóng một vai trò rất quan trọng. Bất bình đẳng tác động đến mức
nghèo do một mức thu nhập nhất định định ra; bất bình đẳng có thể tác động đến tăng
trƣởng cũng giống nhƣ tăng trƣởng có thể tác động đến mức bất bình đẳng; và điều
mà ngƣời ta quan tâm là bản thân bất bình đẳng, chứ không phụ thuộc vào tác động
của nó đối với cái nghèo và tăng trƣởng.

1
Lằn ranh nghèo tuyệt đối do Ngân hàng Thế giới định ra nguyên là 1 đô-la một ngày tính theo đồng
đô-la năm 1985 (PPP). Sau đó đƣợc điều chỉnh lại là 1,06 đô-la một ngày tính theo đồng đô-la năm
1993 (PPP). Điều chỉnh theo lạm phát giá ở Hoa Kỳ đƣa ra lằn ranh nghèo cho năm 2000-2001 là 1,30
đô-la một ngày. Ở đây ta cứ cho lằn ranh nghèo 1,08 đô-la một ngày là 1 đô-la một ngày nằm trong dấu
ngoặc kép “1 đô-la một ngày.” Tƣơng tự lằn ranh nghèo 2 đô-la một ngày thì vào khoảng 2,60 đô-la
một ngày trong năm 2000-2001 và đƣợc tính là “2 đô-la một ngày.” Cách chọn những mức lằn ranh
nghèo này sẽ đƣợc thảo luận ở những chƣơng sau. Các ƣớc tính về tình trạng nghèo nàn nói đến năm
2001 và trích từ cuốn “Những ngƣời nghèo nhất của thế giới sống ra sao kể từ đầu thập niên 1960?”
của Shaohua Chen và Martin Ravallion, World Bank Research Observer 19 số 2 (2004). Các ƣớc tính
dành cho Bangladesh và các quốc gia khác nhắc đến trong chƣơng này nếu không nêu nguồn trích dẫn
thì lấy từ World Development Indicators Online.
D. Perkins et al. 1 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Nếu cả tăng trƣởng kinh tế và phân phối tác động đến mức nghèo thì điều này
giúp ta hiểu đƣợc gì về chính sách? Đến cuối chƣơng này, chúng ta nghiên cứu những
yếu tố tiềm tàng của một chiến lƣợc phát triển vì ngƣời nghèo. Những yếu tố này bao
gồm kích thích tăng trƣởng kinh tế nhanh hơn nữa, cải thiện điều kiện cho ngƣời
nghèo bằng cách đầu tƣ vào giáo dục và chăm sóc y tế căn bản, và thiết kế các mạng
lƣới an sinh xã hội cũng nhƣ các chƣơng trình khác dành cho những nhóm ngƣời đặc
biệt dễ bị tác động.
ĐO LƯỜNG BẤT BÌNH ĐẲNG
Các nhà kinh tế thƣờng chú ý đến phân phối thu nhập giữa các hộ gia đình bên
trong một quốc gia. Nhƣng đây không phải là những thƣớc đo bất bình đẳng duy nhất
mà chúng ta muốn nghiên cứu. Thay vì chú ý đến thu nhập, thì những nhà kinh tế học
phát triển thƣờng nhìn vào phân phối mức tiêu dùng của hộ gia đình, thƣờng đƣợc tính
bằng chi phí hộ gia đình, dù đó là tính theo hình thức chủng loại hay tính thành tiền đi
nữa. Ở những nƣớc nghèo, có thể khó đo lƣờng đƣợc thu nhập, đặc biệt ở các hộ gia
đình nông nghiệp tự cung tự tiêu chứ không đƣa ra thị trƣờng phần lớn sản phẩm họ
làm ra. Tiêu thụ phần nào cũng có thể là một chỉ số phúc lợi đáng tin cậy hơn so với
thu nhập bởi vì tiêu thụ thƣờng không dao động từ thời điểm này qua thời điểm khác
quá nhiều so với thu nhập.
Ngƣời ta cũng có thể chú ý đến phân phối của cải, và đây là yếu tố bất bình
đẳng lớn hơn cả phân phối thu nhập hay tiêu thụ. Phân phối tài sản, dù là đất đai hay
học vấn, đều là yếu tố quan trọng giúp hiểu đƣợc những cơ hội mà cá nhân phải tận
dụng cho có năng suất và mang lại thu nhập cho gia đình. Phân phối thu nhập dựa trên
quyền sở hữu các yếu tố sản xuất (kể cả giá trị của những dịch vụ lao động mà ngƣời
ta “sở hữu”) và vai trò của các yếu tố đó trong quá trình sản xuất. Sở hữu đất đai và sở
hữu vốn thƣờng có mức tập trung cao, do đó bất kỳ điều gì nâng cao đƣợc doanh lợi
tƣơng đối ở hai yếu tố này đều làm cho phân phối thu nhập thành ra bất bình đẳng
hơn. Ngƣợc lại, tiền lƣơng cao hơn tƣơng đối cho lao động phổ thông – là yếu tố sản
xuất đƣợc phân phối rộng rãi nhất ở các quốc gia đang phát triển – thì thƣờng dẫn đến
phân phối bình đẳng hơn.
Ngoài quyết định nên xem xét phân phối thu nhập hay tiêu thụ (hoặc phân
phối tài sản hay của cải) bên trong một quốc gia, ngƣời ta còn có thể muốn nghiên
cứu cách mỗi yếu tố đó đƣợc phân phối giữa các quốc gia với nhau. Chúng ta đánh
giá mức bất bình đẳng toàn cầu ở cuối chƣơng sách này. Ngƣời ta cũng có thể xem xét
bên trong hộ gia đình ở những mô hình bất bình đẳng giữa các hộ gia đình với nhau,
và đây là điểm rất quan trọng nhằm hiểu rõ các vấn đề về giới tính và phúc lợi dành
cho trẻ em. Cho dù quan tâm đến lĩnh vực phân phối nào đi nữa, thì ngƣời ta vẫn cần
một bộ công cụ phân tích nhằm mô tả và hiểu rõ những hệ quả của phân phối.
Cách đơn giản nhất để mô tả bất kỳ loại phân phối nào là nêu rõ thuộc tính tần
suất phân phối của nó, thuộc tính này cho ta thấy có bao nhiêu (hay tỷ lệ mấy phần
trăm) gia đình hoặc cá thể thụ hƣởng các mức thu nhập (hay tiêu thụ) khác nhau.
Khung trên cùng của Hình 6-1 biểu diễn tần suất phân phối của mức tiêu thụ trong hộ
gia đình tính trên đầu ngƣời dành cho Bangladesh trong năm 2000. Mức phân phối
này dựa trên một cuộc khảo sát 7.000 hộ gia đình Bangladesh, đƣợc chọn ra để đại
diện cho 24 triệu hộ gia đình ở Bangladesh. Những hộ gia đình đƣợc khảo sát trả lời
các vấn biểu chi tiết hỏi về nguồn thu nhập và mức tiêu thụ nhiều loại hàng hóa khác
nhau. Những nhà nghiên cứu sử dụng thông tin này để ƣớc tính mức tiêu thụ hộ gia
đình theo đầu ngƣời.
Hình 6-1 cho ta thấy tỷ lệ phần trăm của cá thể có các mức tiêu thụ hàng năm
khác nhau bắt đầu từ mức thấp nhất và tăng dần theo số gia là 650 ta-ka, đơn vị tiền tệ
của Bangladesh, tƣơng đƣơng với 55 đô-la Mỹ. Gần 1 triệu ngƣời, chƣa đầy 1% dân
số Bangladesh, đƣợc báo cáo là có mức chi tiêu hàng năm thấp nhất theo cuộc khảo
D. Perkins et al. 2 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

sát, dƣới 3.250 ta-ka một năm (<270 đô-la); 8,4% (cột cao nhất trong hình) có mức
tiêu thụ tính trên đầu ngƣời từ 5.850 đến 6.500 ta-ka (khoảng 500 đô-la); và chƣa tới
phân nửa của 1% có số cao nhất báo cáo trong hình 6-1 là trên 22.750 ta-ka (gần bằng
1.900 đô-la). Ở Bangladesh có những hộ có mức tiêu thụ cao hơn. Hình 6-1 cho thấy
mức phân phối cho 95% cá thể đƣợc xếp hạng theo mức tiêu thụ tính trên đầu ngƣời
mà thôi. Nếu tính luôn số lƣợng 5% cao nhất thì cái “đuôi” của mức phân phối sẽ kéo
dài xa hơn về mút bên phải của biểu đồ.2
Tỷ lệ phần trăm dân số bên
trong khung tiêu thụ

Tiêu thụ tính trên đầu ngƣời (đồng ta-ka/năm)


Tỷ lệ phần trăm dân số bên
trong khung thu nhập

Thu nhập tính trên đầu ngƣời (đồng pê-sô/năm)


Tỷ lệ phần trăm dân số bên

HOA KỲ
trong khung thu nhập

Thu nhập hộ gia đình (đồng đô-la/năm)

Hình 6-1 Phân phối thu nhập: Bangladesh, Mexico, và Hoa Kỳ


Nguồn: Hợp tác với Claudio E. Montenegro, Ngân hàng Thế giới: Khảo sát dân số hiện tại của Hoa Kỳ,
phụ trang tháng 3/2004.

2
Những khảo sát thu nhập và chi tiêu hộ gia đình, giống nhƣ cuộc khảo sát ở Bangladesh, thƣờng
không nắm bắt đƣợc hai nhóm hộ gia đình. Thƣờng có khả năng chƣa thể hiện đúng cả những gia đình
nghèo nhất lẫn những gia đình giàu nhất. Những gia đình nghèo nhất, kể cả những ngƣời vô gia cƣ và
sống ở những nơi nhƣ nhà ga xe lửa hay mé sông, thƣờng không đƣợc tính đủ. Tƣơng tự, những hộ
sung túc nhất, có số lƣợng ít, thì khó là thành phần của mô hình mẫu thống kê. Cũng có một xu hƣớng
có nhiều hộ gia đình không muốn trả lời những khảo sát hoặc báo sai thu nhập của họ. Ngay cả với
cuộc khảo sát tốt nhất thì mức bất bình đẳng cũng có thể bị đánh giá thấp.
D. Perkins et al. 3 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Ta hãy nhìn hình dạng của thuộc tính tần suất phân phối của Bangladesh ở
hình 6-1. Mức phân phối không phải là hình chữ nhật, theo đó mọi mức tiêu thụ đƣợc
biểu diễn bằng tỷ lệ cá thể bằng nhau, và dĩ nhiên là ta đừng nên mong đợi nó bằng
nhau. Chiều cao của cột, mỗi cột đại diện cho một mức tiêu thụ khác nhau, đầu tiên
tăng lên rồi sau đó ngắn dần đi theo kiểu tiệm tiến. Mức phân phối cũng không phải là
phân phối bình thƣờng theo kiểu gọi là đƣờng cong hình chuông mà ta thƣờng thấy ở
các bài thống kê học. Nếu mức tiêu thụ hay thu nhập đƣợc phân phối bình thƣờng thì
có một số lƣợng hộ gia đình bằng nhau ở cả hai bên trục chính tâm và các đuôi đối
xứng so với mức phân phối cho ra các con số giống nhau ở cả yếu tố tiêu thụ hoặc thu
nhập thấp và cao. Chỉ số IQ đƣợc phân phối bình thƣờng nhƣng tiêu thụ và thu nhập
thì không nhƣ vậy. Thay vào đó phân phối đƣợc mô tả là bình thƣờng theo lô-ga-rit,
nghĩa là nếu ta lấy đi lô-ga-rit của tiêu thụ hay thu nhập của hộ gia đình và vẽ lại
đƣờng tần suất phân phối thì kết quả gần giống nhƣ đƣờng cong hình chuông quen
thuộc. Nếu phân phối bằng nhau nhiều, thì sẽ có một số rất ít cột rất cao ở giữa đồ thị,
cho thấy rằng gần nhƣ ai cũng có mức tiêu thụ gần nhƣ bằng nhau.
Phân phối bình thƣờng theo lô-ga-rit thể hiện điều ta đã biết về thu nhập.
Trong gần nhƣ tất cả mọi xã hội có một số hộ gia đình giàu có tƣơng đối nhỏ (thể hiện
ở phần đuôi thấp và dài ở đầu mút bên phải của đồ thị) và một số lớn hơn nhiều gồm
những gia đình có thu nhập thấp hơn tạo thành “cái bƣớu” của mức phân phối, nằm ở
đầu mút thấp hơn của dãy thu nhập. Hình dạng phân phối thu nhập đặc thù này không
chỉ có ở Bangladesh. Những kết quả tƣơng tự trong phân phối là đặc tính của những
nền kinh tế có thu nhập thấp, trung bình, và cao. Hai khung bên dƣới của Hình 6-1
minh họa cho điểm này. Các kết quả phân phối thu nhập ở đây dựa trên các khảo sát
hộ gia đình trong phạm vi hẹp ở Mexico và Hoa Kỳ. Dễ nhận thấy rằng cả ba quốc gia
đều cho thấy một mức phân phối bình thƣờng theo lô-ga-rit tƣơng tự nhƣ nhau, mỗi
quốc gia đều có đuôi thấp và dài ở đầu mút bên phải.
Bangladesh, Mexico và Hoa Kỳ đều có những tần suất phân phối có hình dạng
tƣơng tự nhƣ nhau nhƣng không hoàn toàn giống nhau. Điều này có nghĩa là mức độ
bất bình đẳng ở ba quốc gia rất khác nhau. Để thấy đƣợc những khác biệt này ta cần
sắp xếp lại dữ liệu có trong các tần suất phân phối. Những tần suất phân phối này có
hình dạng rất phức tạp và rất khó so sánh dù giữa các quốc gia với nhau hay trong nội
bộ các quốc gia theo từng thời kỳ khác nhau. Tính toán quy mô phân phối là một
cách làm dễ hơn nhằm xác định mức độ bất bình đẳng hiện hữu ở phân phối cơ bản.
Quy mô phân phối cho ta thấy phần chia trong tổng tiêu thụ hay phân phối
nhận đƣợc bởi các nhóm hộ gia đình khác nhau đƣợc phân loại theo mức tiêu thụ hay
thu nhập. Ngƣời ta có thể xếp loại các hộ gia đình hay cá thể theo thƣớc đo thập phân
(chia theo mƣời đơn vị) hay bách phân (chia theo một trăm đơn vị), nhƣng thƣờng thì
dùng thƣớc đo ngũ phân (chia theo năm đơn vị), nhƣ vậy là xếp các hộ gia đình từ
20% nghèo nhất, rồi đến 20% kế tiếp, từ từ đi lên 20% hộ gia đình giàu nhất. Trong
trƣờng hợp Bangladesh, mỗi đơn vị ngũ phân thay cho 30 triệu ngƣời. Cộng tất cả chi
tiêu tiêu thụ cá thể ở mỗi đơn vị ngũ phân và chia cho tổng tiêu thụ toàn quốc sẽ cho
ra phần chia của mỗi đơn vị ngũ phân.
BẢNG 6-1 Các mức phân phối tiêu thụ theo quy mô hay thu nhập bên trong mỗi đơn vị
ngũ phân ở Bangladesh, Mexico, và Hoa Kỳ
PHẦN CHIA TỔNG TIÊU THỤ HAY THU NHẬP
BANGLADESH MEXICO HOA KỲ
ĐƠN VỊ NGŨ PHÂN (2000) (2002) (2003)
20% dƣới đáy 9,0 3,5 3,4
20% thứ hai 12,5 8,2 8,7
20% thứ ba 16,0 13,3 14,8
20% thứ tƣ 21,5 21,2 23,4
20% trên đỉnh 41,0 53,7 49,8

D. Perkins et al. 4 Biên dịch: Lê Việt Ánh


Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Nguồn: Hợp tác với Claudio E. Montenegro, Ngân hàng Thế giới: Khảo sát dân số hiện tại của Hoa Kỳ,
phụ trang tháng 3/2004.
Bảng 6-1 chứa các ƣớc tính của Ngân hàng Thế giới về quy mô phân phối tiêu
thụ ở Bangladesh và và thu nhập hộ gia đình ở Mexico và Hoa Kỳ. Cách trình bày dữ
liệu nhƣ trên cho ta thấy rõ rằng trong ba quốc gia này thì Bangladesh có mức phân
phối tƣơng đối bằng nhau nhất vì phần chia theo đơn vị ngũ phân của họ sát gần nhau
hơn so với Mexico hay Hoa Kỳ. (Nếu nhƣ mức phân phối hoàn toàn bằng nhau thì
mỗi đơn vị ngũ phân sẽ nhận đƣợc 20% của số tổng.) Ở Bangladesh 20% trên đỉnh
nhận đƣợc 41% của tổng số tiêu thụ hộ gia đình, gấp khoảng 4,5 lần so với 20%
nghèo nhất nhận đƣợc. Ở Mexico và Hoa Kỳ tỷ lệ thì lớn hơn, khoảng 15:1 3. Có một
số khác biệt này là do ta đang đo lƣờng yếu tố nào – tiêu thụ hay thu nhập và tính trên
cơ sở đầu ngƣời hay hộ gia đình – nhƣng phần lớn khác biệt là do mức phân phối cơ
bản bên trong mỗi quốc gia.
Quy mô phân phối cho ta phƣơng tiện để áp dụng một số kỹ thuật khác mà
thƣờng đƣợc dùng để đo mức độ bất bình đẳng, kể cả một số kỹ thuật rút gọn toàn bộ
mức phân phối xuống còn một con số duy nhất mà thôi. Có thể dùng dữ liệu có đƣợc
từ quy mô phân phối để vẽ đường cong Lorenz (Hình 6-2). Đƣờng cong này đƣợc
đặt tên theo nhà thống kê học Max Lorenz đầu tiên viết một bài sử dụng kỹ thuật này
vào năm 1905. Ngƣời thụ hƣởng thu nhập trải dài từ mức thu nhập thấp nhất đến mức
thu nhập cao nhất theo trục hoành. Bản thân đƣờng cong cho thấy phần chia trong
tổng thu nhập nhận đƣợc bởi tỷ lệ phần trăm ngƣời thụ hƣởng theo lũy tích. Hình
dạng của đƣờng cong cho thấy mức bất bình đẳng trong phân phối thu nhập. Theo
định nghĩa, đƣờng cong phải tiếp xúc với đƣờng xiên 450 ở cả hai góc: góc dƣới bên
trái (0% ngƣời thụ hƣởng phải nhận 0% thu nhập) và góc trên bên phải (100% ngƣời
thụ hƣởng nhận đƣợc 100% thu nhập). Nếu ai ai cũng có thu nhập giống nhau thì
đƣờng cong Lorenz sẽ chạy dọc theo đƣờng xiên 450 (bình đẳng hoàn hảo). Nếu chỉ
có một hộ gia đình thụ hƣởng thu nhập còn tất cả các hộ khác đều không thì đƣờng
cong sẽ đi theo đƣờng đáy và biên bên phải của đồ thị (bất bình đẳng hoàn hảo).
Trong tất cả mọi tình huống thực tế thì đƣờng cong Lorenz nằm đâu đó lƣng chừng ở
giữa. Nếu bất bình đẳng lớn hơn thì đƣờng cong Lorenz lệch khỏi đƣờng xiên 450 của
mức bất bình đẳng hoàn hảo (khu vực có màu đậm sẽ lớn hơn, A). Khi so sánh các
đƣờng cong Lorenz, cho dù trong cùng một quốc gia ở những thời kỳ khác nhau hay
giữa các quốc gia với nhau, thì các đƣờng cong riêng biệt thƣờng cắt nhau. Khi điều
này xảy ra thì ta không rõ có phải bất bình đẳng đã tăng hay đã giảm theo thời gian
(hay có phải quốc gia này chịu nhiều bất bình đẳng hơn quốc gia nọ.)4

3
Không giống nhƣ phần lớn các quốc gia thu nhập thấp và trung bình, Hoa Kỳ có một hệ thống thuế
khóa toàn diện đánh vào thu nhập hộ gia đình và những khoản tái phân lợi tức xã hội của chính phủ (ví
dụ nhƣ phúc lợi xã hội). Dữ liệu báo cáo ở đây là dành cho thu nhập bằng tiền trƣớc thuế và sau tái
phân lợi tức xã hội bằng tiền mặt. Những phân bổ không dùng tiền mặt, nhƣ Medicare, thì không tính
tới. Khi đã gộp luôn thuế và tất cả các khoản tái phân lợi tức của chính phủ thì mức phân phối trở nên
hơi bình đẳng hơn. Tỷ lệ 20% trên đỉnh/20% dƣới đáy sụt xuống còn 10:1.
4
Nên làm rõ nguyên nhân của sự mơ hồ này. Vẽ hai đƣờng cong Lorenz và gọi điểm cắt nhau của hai
đƣờng là X. Dƣới điểm X, có mức bình đẳng tƣơng đối hơn chạy dọc theo đƣờng cong Lorenz sát với
trục nghiêng 450. Nhƣng phía trên điểm X, có mức bình đẳng tƣơng đối nhiều hơn chạy dọc theo đƣờng
cong Lorenz kia. Vì cả hai đƣờng cong Lorenz có các miền bình đẳng lớn hơn, nên nhìn chung không
có cách nào để xác định là đƣờng này tiêu biểu cho một mức phân phối bình đẳng hơn đƣờng kia.
D. Perkins et al. 5 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Tỷ lệ phần trăm tiêu thụ hay thu nhập theo lũy tích

Tỷ lệ phần trăm ngƣời thụ hƣởng theo lũy tích

HÌNH 6-2 Đường cong Lorenz

Các số đơn thƣờng đƣợc dùng để mô tả phân phối thu nhập. Một phƣơng pháp
thống kê thƣờng đƣợc dùng là tỷ lệ của phần chia thu nhập của 20% hộ gia đình trên
đỉnh so với phần chia mà 20% hay 40% dƣới đáy nhận đƣợc. Thống kê đƣợc sử dụng
phổ biến nhất là hệ số Gini (đặt tên theo nhà thống kê học ngƣời Ý Corrado Gini) có
thể đƣợc rút ra từ đƣờng cong Lorenz. Có thể hiểu tỷ lệ này là giá trị của khu vực A
chia cho khu vực A + B ở Hình 6-25. Phần chia của khu vực nằm giữa đƣờng xiên 450
và đƣờng cong Lorenz càng lớn thì hệ số Gini càng cao. Phạm vi theo lý thuyết của hệ
số Gini là từ 0 (bình đẳng hoàn hảo) cho đến 1 (bất bình đẳng hoàn hảo). Trên thực tế
các giá trị đo đƣợc trong các mức thu nhập trong nƣớc có phạm vi hẹp hơn nhiều,
thƣờng là từ 0,25 cho đến 0,60.
Rút gọn tất cả thông tin chứa trong tần suất phân phối thành một số đơn duy
nhất thì tất yếu sẽ làm mất đi một số thông tin về phân phối cơ bản. Cả Paraguay và
Nam Phi đều có hệ số Gini là 0,578, nhƣng các mức phân phối cơ bản thì không giống
nhau. Cả hai quốc gia đều có mức bất bình đẳng rất cao, nhƣng ở Nam Phi đơn vị ngũ
phân 20% thấp nhất thụ hƣởng đƣợc 3,5% thu nhập, trong khi ở Paraguay thì chỉ nhận
đƣợc có 2,2% mà thôi. Xét từ quan điểm ngƣời nghèo ở hai quốc gia này, thì chênh
lệch điểm hơn 1 phần trăm trong phần chia thu nhập là một con số đáng kể. Một chỉ
trích khác nhắm vào hệ số Gini là hệ số này rất dễ biến thiên hơn ở một số bộ phận
trong phân phối so với ở một số bộ phận khác. Đặc điểm này thể hiện rất rõ khi so
sánh bất bình đẳng ở Trung Quốc và Zimbabwe. Ở cả hai quốc gia, đơn vị ngũ phân
20% thấp nhất nhận đƣợc khoảng 4,6% thu nhập. Mặc dù tƣơng đƣơng nhƣ vậy,
nhƣng hệ số Gini của Trung Quốc ở mức 0,447 thì thấp hơn mức 0,568 ở Zimbabwe.
Lý do là vì có chênh lệch ở số thu nhập của 20% hộ giàu nhất nhận đƣợc: 50% ở
Trung Quốc so với 56% ở Zimbabwe. Mặc dù hệ số Gini còn nhiều khiếm khuyết,
nhƣng do những nhà nghiên cứu mong muốn tóm tắt tình trạng bất bình đẳng bằng
một con số kết hợp với một số thuộc tính hấp dẫn khác của hệ số Gini, kể cả cách

5
Có thể tính toán hệ số Gini bằng cách sử dụng một công thức tƣơng đối phức tạp dựa trên chênh lệch
thu nhập tuyệt đối quan sát đƣợc ở toàn dân số, sau đó dùng quy mô và thu nhập bình quân của dân số
để bình thƣờng hóa.
D. Perkins et al. 6 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

dùng đƣờng cong Lorenz để diễn giải theo hình học, nên ngƣời ta vẫn sử dụng nó
rộng rãi.6

CÁC MÔ HÌNH BẤT BÌNH ĐẲNG

Simon Kuznets là một trong những ngƣời đoạt giải Nobel đầu tiên về kinh tế và là
một nhà tiên phong trong công trình thực nghiệm về các tiến trình tăng trƣởng và phát
triển kinh tế. Ông cũng là nhà kinh tế học đầu tiên nghiên cứu những mô hình bất bình
đẳng. Trong bài diễn văn của chủ tọa đọc trƣớc phiên họp năm 1954 của Hiệp hội
Kinh tế Hoa Kỳ, Kuznets đã báo cáo dữ liệu lịch sử về phần chia thu nhập của Anh,
Đức, và Hoa Kỳ. Sau đó ông giới thiệu một số dữ liệu dành cho thế giới đang phát
triển: Tích Lan (bây giờ là Sri Lanca), Ấn Độ, và Puerto Rico. Vì dữ liệu hạn chế nên
Kuznets không đƣa vào bảng biểu hay sơ đồ; ông chỉ liệt kê luôn trong văn bản7.
Khoảng 50 năm sau, các nhà nghiên cứu ít bị bó buộc nhƣ vậy. Dữ liệu về tình trạng
bất bình đẳng rất phong phú cho hầu hết các quốc gia trên thế giới, mặc dù đối với đa
số nƣớc thì mỗi thập niên chỉ cập nhật hai hoặc ba lần mà thôi. Chất lƣợng và mức so
sánh đƣợc của các dữ liệu đôi khi cũng là vấn đề: Ngân hàng Thế giới, một trong
những nhà biên tập chính của những thông tin ấy, cũng thƣờng cảnh báo về việc so
sánh dữ liệu giữa các quốc gia và so sánh theo thời kỳ.
Bảng 6-2 nêu ra các ƣớc tính của hệ số Gini về phân phối mức tiêu thụ hộ gia
đình hay phân phối thu nhập dành cho các quốc gia theo khu vực. (Tất cả quốc gia in
hoa cho thấy phân phối đƣợc căn cứ trên thu nhập chứ không phải tiêu thụ, do thu
nhập thì gắn kết với bất bình đẳng nhiều hơn tiêu thụ bởi vì tiêu thụ có xu hƣớng biến
thiên ít theo thời kỳ hơn so với thu nhập.) Các quốc gia đƣợc chia thành ba nhóm bất
bình đẳng thu nhập: thấp (có hệ số Gini <0,40), trung bình (từ 0,40 đến 0,50) và cao
(>0,50). Điều dễ nhận thấy ngay là bất bình đẳng có xu hƣớng cao hơn ở Châu Mỹ
La-tinh và các phần của Châu Phi (đặc biệt ở khu vực Nam Châu Phi). Bất bình đẳng
thấp thì phổ biến ở Đông Nam Á, các nền kinh tế đang chuyển tiếp của Đông Âu và
Trung Á, và trong đa số các nền kinh tế thuộc Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế
(OECD), ngoại trừ Hoa Kỳ. Phần lớn Đông Á rơi vào trong phạm vi bất bình đẳng thu
nhập ở mức trung bình.
Điều gì giải thích những khác biệt này? Có liên quan gì đến những đặc điểm
cụ thể của các khu vực khác nhau không hay các khu vực là đại diện cho một yếu tố
khác, có lẽ là mức thu nhập chẳng hạn? Một ý tƣởng lâu đời cho rằng bản thân tăng
trƣởng kinh tế có thể gắn kết với bất bình đẳng. Trực giác cho thấy rằng tăng trƣởng
là một tiến trình bất quân bình nội tại. Một số cá thể thu đƣợc những lợi ích của tăng
trƣởng rất sớm, còn những ngƣời khác phải cần thời gian mới thụ hƣởng đƣợc lợi ích
và suất doanh lợi cũng cần có thời gian mới quân bình.

BẢNG 6-2 Hệ số Gini tính theo quốc gia và khu vực

MỨC BẤT BÌNH ĐẲNG


THẤP TRUNG BÌNH CAO
(Gini<0,400) (0,400<= Gini<0,500) (Gini>=0,500)
Châu Phi Ethiopia (0,300) Ghana (0,408) Malawi (0,503)
Burundi (0,333) Senegal (0,413) Niger (0,505)
Ai Cập (0,344) Kenya (0,425) Nigeria (0,506)
Algeria (0,353) Cameroon (0,446) Zambia (0,526)

6
Ngoài hệ số Gini và tỷ lệ 20% trên đỉnh/20% dƣới đáy hoặc 40% ra còn có những cách đo mức bất
bình đẳng bằng một số đơn khác. Thảo luận về các cách khác và các thuộc tính muốn có của bất kỳ
thƣớc đo bất bình đẳng nào cũng đều có thể tìm thấy trong cuốn Distribution and Development: A New
Look at the Developing World của Gary Fields (Cambridge, MA: MIT Press, 2001)
7
Simon Kuznets: “Tăng trƣởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập,” American Economic Review 45, số
1 (1955)
D. Perkins et al. 7 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Mauritania (0,390) Côte d’Ivoire (0,446) Zimbabwe (0,568)


Ma Rốc (0,395) The Gambia (0,475) Nam Phi (0,578)
Mozambique (0,396) Madagasca (0,475) Lesotho (0,632)
Tunisia (0,398) Burkina Faso (0,482)
Châu Á Mông Cổ (0,303) Căm-pu-chia (0,404) Papua New Guinea (0,509)
ĐÀI LOAN (0,312) SINGAPORE (0,425)
Bangladesh (0,318) Iran (0,430)
Ấn Độ (0,325) Thái Lan (0,432)
Pakistan (0,330) Trung Quốc (0,447)
ISRAEL (0,355) Philippines (0,461)
Jordan (0,364) MALAYSIA (0,492)
Nepal (0,367)
Lào (0,370)
Việt Nam (0,370)
Châu Âu C. HÒA CZECH (0,254) Thổ Nhĩ Kỳ (0,400)
và C. HÒA SLOVAK (0,258) Turkmenistan (0,408)
Trung Á Bosnia và Herzegovia (0,262)
Uzbekistan (0,268)
Hungary (0,269)
SLOVENIA (0,284)
Croatia (0,290)
Ukraine (0,290)
Romania (0,303)
Belarus (0,304)
Liên Bang Nga (0,310)
BUNGARIA (0,319)
Lithuania (0,319)
Kazakhtan (0,323)
Tajikistan (0,326)
LATVIA (0,336)
Ba Lan (0,341)
C. Hòa Kyrgyz (0,348)
Albania (0,353)
Azerbaijan (0,365)
Georgia (0,369)
Moldova (0,369)
ESTONIA (0,372)
Châu Mỹ Jamaica (0,379) Nicaragua (0,431) ARGENTINA (0,552)
La-tinh & Ecuador (0,437) EL SALVADOR (0,532)
Carribean URUGUAY (0,446) Mexico (0,546)
Bolivia (0,447) HONDURAS (0,550)
COSTA RICA (0,465) PANAMA (0,564)
C.HÒA DOMINICAN (0,474) CHILE (0,571)
VENEZUELA (0,491) COLOMBIA (0,576)
PERU (0,498) PARAGUAY (0,578)
BRAZIL (0,593)
GUATEMALA (0,599)
Thu nhập ĐAN MẠCH (0,247) HOA KỲ (0,408)
cao THỤY ĐIỂN (0,250)
(OECD) BỈ (0,250)
NA UY (0,258)
PHẦN LAN (0,269)
ĐỨC (0,283)
ÁO (0,300)
HÀ LAN (0,309)
HÀN QUỐC (0,316)
PHÁP (0,327)
CANADA (0,331)
HY LẠP (0,354)
IRELAND (0,359)
Ý (0,360)
VƢƠNG QUỐC ANH (0,360)
NEW ZEALAND (0,362)
BỒ ĐÀO NHA (0,365)
Ghi chú: Tên quốc gia bằng chữ in hoa cho thấy hệ số Gini đƣợc tính toán sử dụng dữ liệu phần chia thu nhập;
tên bằng chữ thƣờng đƣợc tính toán sử dụng phần chia chi tiêu. Những hệ số Gini đƣợc dựa trên dữ liệu từ
D. Perkins et al. 8 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

những năm khác nhau từ 1995-2002.


Nguồn: “Bảng 2.7: Phân phối thu nhập hay tiêu thụ,” Chỉ số phát triển thế giới (Washington, DC: Ngân hàng
Thế giới, tháng 3/2005); Dữ liệu cho Đài Loan, UNU/WIDER Cơ sở Dữ liệu về bất bình đẳng thu nhập thế
giới. Nghiên cứu thu nhập Luxembourg (Nguồn 1). Khảo sát phân phối thu nhập cá nhân, khu vực Đài Loan
(Khảo sát/Nguồn 2), Tập 2.0a, tháng 6/2005, xem tại www.wider.unu/wide/wild.htm, truy cập tháng 6/2005.

Tăng trưởng và bất bình đẳng


Kuznets là một trong những nhà kinh tế học đầu tiên suy đoán về mối quan hệ giữa
tăng trƣởng và bất bình đẳng, nêu ý kiến rằng bất bình đẳng có thể đầu tiên tăng lên
khi một quốc gia chuyển đổi từ một nền kinh tế nông nghiệp chủ đạo sang một nền
kinh tế công nghiệp. Cơ chế căn bản cho sự gia tăng tình trạng bất bình đẳng thu nhập
là kết quả của sự chênh lệch về lợi suất cho các yếu tố sản xuất giữa nông nghiệp (với
lợi suất thấp hơn và phân tán hơn) so với công nghiệp. Khi mọi ngƣời lao động trong
nông nghiệp thì thu nhập đƣợc chia tƣơng đối bằng nhau, nhƣng khi công nghiệp hóa
và đô thị hóa tiến triển thì tình trạng bất bình đẳng gia tăng. Khi có nhiều yếu tố hơn
tạo ra quá trình chuyển đổi từ đồng áng sang nhà máy, thì bất bình đẳng có thể bắt đầu
giảm xuống. Kuznets nhận ra ngay rằng cơ sở của mối quan hệ này là “có lẽ 5% thông
tin thực tế và 95% là suy đoán, và một phần trong đó cả do ý muốn chủ quan nữa.”
Những nhà kinh tế học khác đƣa ra những giải thích khác về quan hệ giữa tăng
trƣởng và bất bình đẳng. W. Arthur Lewis, ngƣời cũng từng đoạt giải Nobel, phát
triển một mô hình lý thuyết dự báo bất bình đẳng tăng lên theo sau đó là một “bƣớc
ngoặt” mà cuối cùng dẫn đến tình trạng bất bình đẳng giảm bớt. Sử dụng một mô hình
hai khu vực (nhƣ mô hình giới thiệu ở chƣơng 4): khu vực hiện đại hay công nghiệp
đối mặt với “nguồn cung lao động không hạn chế” khi nó đủ sức thu hút công nhân có
sản phẩm thấp hoặc thậm chí có biên tế bằng không từ khu vực nông nghiệp sang. Khi
tiền lƣơng bị kìm hãm do mức cung công nhân co dãn, tăng trƣởng công nghiệp kéo
theo phần chia lợi nhuận tăng lên. Khi thu nhập bình quân tăng thì lao động nhận
phần chia ít hơn từ tổng khiến bất bình đẳng tăng lên. Bƣớc ngoặt xảy ra khi tất cả
“lao động thặng dƣ” đƣợc tận dụng và nguồn cung lao động trở thành ít co dãn hơn.
Tiền lƣơng và phần chia thu nhập của lao động lúc đó bắt đầu tăng và tình trạng bất
bình đẳng giảm đi.8
Trong mô hình lao động thặng dư của Lewis, bất bình đẳng không chỉ là tác
động cần thiết của tăng trƣởng kinh tế; nó còn là nguyên nhân của tăng trƣởng. Một
mức phân phối thu nhập thiên về nhóm thu nhập cao góp phần vào tăng trƣởng bởi vì
những ngƣời thụ hƣởng lợi nhuận thƣờng tiết kiệm để có thêm tiền nhằm mở rộng
doanh nghiệp của mình. Thụ hƣởng thu nhập càng lớn thì họ đầu tƣ càng nhiều. Tiết
kiệm và đầu tƣ của họ làm gia tăng năng lực sản xuất của nền kinh tế và do đó kéo
theo gia tăng sản lƣợng. Theo Lewis, không những bất bình đẳng góp phần vào tăng
trƣởng mà còn nếu nhƣ cố tái phân phối thu nhập “trƣớc giai đoạn chín muồi” thì sẽ
có nguy cơ kìm hãm tăng trƣởng kinh tế. Đây là những kết luận rất có trọng lƣợng. Có
thể duy trì những kết luận này theo bằng chứng về tăng trƣởng kinh tế và bất bình
đẳng không?
Ý tƣởng của Kuznets, Lewis, cùng các nhà kinh tế học khác về tăng trƣởng và
bất bình đẳng có tác động lớn đến những nhà kinh tế học phát triển trong suốt nhiều
thập kỷ. Trong những năm 1960, một thời kỳ tăng trƣởng mạnh trong nhiều khu vực,
một số nhà kinh tế học thắc mắc lý do vì sao tăng trƣởng không mang lại kết quả giảm
nghèo nhanh hơn. Một ý kiến cho rằng đó là do có mối quan hệ mà đƣợc biết đến với
cái tên là mô hình chữ U lộn ngƣợc của Kuznets, hay đơn giản hơn là đường cong
Kuznets. Trong khoảng từ 15 đến 20 năm sau bài viết đầu tiên của Kuznets, những
nhà nghiên cứu có đƣợc trang bị nhiều dữ liệu hơn về bất bình đẳng và họ sử dụng các

8
W. Arthur Lewis, “Phát triển kinh tế khi có nguồn lao động không hạn chế,” Manchester School 22
(1954).
D. Perkins et al. 9 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

phân tích chủ yếu theo mặt cắt các quốc gia, gồm cả nhiều quốc gia đang phát triển,
để xem xét lại mối quan hệ đó. Trong phƣơng pháp này có một giả định trọng tâm cho
rằng những quốc gia có các mức thu nhập tính trên đầu ngƣời khác nhau có thể có
cùng tình trạng mà các quốc gia cá thể gặp phải theo thời kỳ khi họ đạt đƣợc tăng
trƣởng kinh tế. Những nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp này ủng hộ cho sự tồn tại của
đƣờng cong Kuznets.9 Xu hƣớng bất bình đẳng gia tăng và rồi giảm xuống theo mức
tăng thu nhập tính trên đầu ngƣời vẫn đƣợc cho là một thực tế thời thƣợng mãi cho
đến cuối thập niên 1980. Nghiên cứu sau giai đoạn đó đã lật đổ quan điểm này.
Những dữ liệu tốt hơn và phong phú hơn về bất bình đẳng thu nhập, đặc biệt
là dữ liệu theo từng thời kỳ của mỗi quốc gia, kết hợp với những phƣơng pháp toán
thống kê chính xác, đã cho phép các nhà nghiên cứu xác định các mô hình theo thời
kỳ bên trong một quốc gia riêng biệt. Ở Ấn Độ, một quốc gia thu nhập thấp có tình
trạng bất bình đẳng thu nhập thấp rất phổ biến, có bằng chứng cho thấy rằng bất bình
đẳng đã giảm một ít từ năm 1950 cho đến giữa thập niên 1960, nhƣng kể từ đó không
có xu hƣớng rõ rệt nào về hai phía cả.10 Ấn Độ từ trƣớc đến nay vẫn là một quốc gia
có sự phân phối thu nhập tƣơng đối bình đẳng. Hình 6-3 minh họa xu hƣớng của hệ số
Gini kể từ năm 1980 dành cho Chile và Đài Loan. Chile, một trong những nền kinh tế
Châu Mỹ La-tinh thành công nhất, suốt thời kỳ này là quốc gia có thu nhập trung
bình; Đài Loan đã tiến từ mức thu nhập trung bình sang thu nhập cao. Hệ số Gini của
Chile dao động theo từng năm nhƣng không cho thấy có mô hình cụ thể nào theo thời
kỳ, mặc dù đã tăng lên trong năm cuối cùng theo dữ liệu hiện có. Điều thấy rõ nhất
trong trƣờng hợp của Chile là tình trạng bất bình đẳng tồn tại xuyên suốt ở mức khá
cao. Đài Loan thì ít biến động hơn. Bất bình đẳng ở đảo quốc này kể từ năm 1980 có
hƣớng đi lên chậm và khiêm tốn. Điểm đáng chú ý nhất ở kinh nghiệm Đài Loan là
tình trạng bất bình đẳng ở mức rất thấp kéo dài một thời gian rất lâu.11 Không hề có
bằng chứng cho thấy có quan hệ chữ U ngƣợc ở cả Ấn Độ, Chile và Đài Loan.

9
Montek S. Ahluwalia,”Bất bình đẳng, nghèo nàn và phát triển,” Journal of Development Economics 3
(1976).
10
Michael Bruno, Martin Ravallion, và Lyn Squire, “Bình đẳng và tăng trƣởng ở các quốc gia đang
phát triển:quan điểm cũ và mới về các vấn đề kinh tế,” trích từ Phân phối thu nhập và tăng trưởng chất
lượng cao do Vai trò Tanzi và Ke-yong Chu biên tập (Cambridge, MA: MIT Press, 1998).
11
Ghi nhận về tăng trƣởng kinh tế vƣợt bậc cùng tình trạng bất bình đẳng rất thấp trong thu nhập của
Đài Loan là một kinh nghiệm khá độc đáo. Một số nền kinh tế trong giai đoạn chuyển đổi đề có mức
bất bình đẳng thấp tƣơng tự hoặc thậm chí còn thấp hơn nữa nhƣng không có quốc gia nào đạt đƣợc
mức thu nhập tính trên đầu ngƣời bằng Đài Loan. Trong số những nền kinh tế tăng trƣởng nhanh thì
Trung Quốc đã đạt đƣợc tỷ lệ tăng trƣởng tƣơng tự, dù chƣa đƣợc nhiều năm, tuy nhiên Trung Quốc
tăng trƣởng nhƣng có tình trạng bất bình đẳng rất cao. Điều này cũng d9ung1 khi áp dụng cho
Malaysia, Thái Lan, và Singapore. Gần nhất với Đài Loan về tăng trƣởng và bất bình đẳng là Hàn
Quốc.
D. Perkins et al. 10 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Hệ số Gini

Năm

Hình 6-3 Xu hướng bất bình đẳng, hệ số Gini ở Chile và Đài Loan
Hai chuỗi dữ liệu đƣợc áp dụng cho Chile vì không có một chuỗi liên tục cho toàn bộ thời kỳ.
Chuỗi dữ liệu 1 phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập gộp và chuỗi dữ liệu 2 phụ thuộc thu nhập dành cho
tiêu dùng.
Nguồn: Dữ liệu dành cho Chile: UNU/WIDER Cơ sở dữ liệu bất bình đẳng thu nhập thế giới, Chile
MIDEPLAN 1994; nhóm dữ liệu Deininger và Squire, Đo lƣờng bất bình đẳng thu nhập, xem tại
www.worldbank.org/research/dddeisqu.htm; World Bank 2004 (Nguồn 1), Caracterization Socioeconomica
Nacional (CASEN) và Encuesta Nacional de Empleo (Khảo sát/Nguồn 2), Tập 2.0a, tháng 6/2005, xem tại
www.wider.unu.edu/wild/wild.htm, truy cập tháng 6/2005; dữ liệu dành cho Đài Loan: UNU/WIDER, Cơ sở dữ
liệu bất bình đẳng thu nhập thế giới, Đài Loan CSO 2003, Đài Loan CSO 2004 (Nguồn 1), Khảo sát thu nhập và
chi tiêu gia đình (Khảo sát/Nguồn 2), Tập 2.0a, tháng 6/2005, xem tại www.wider.unu.edu/wild/wild.htm, truy cập
tháng 6/2005.

Do không nên khái quát hóa chỉ từ một vài trƣờng hợp riêng lẻ, nên ta cần
phải nhìn vào kinh nghiệm của nhiều quốc gia khác nhau. Khi làm vậy, các nhà
nghiên cứu đã nhận thấy có rất ít bằng chứng về một khuynh hƣớng cho thấy đầu tiên
tình trạng bất bình đẳng thu nhập gia tăng rồi sau đó giảm đi cùng với tăng trƣởng
kinh tế. Khi thu nhập tính trên đầu ngƣời tăng thì hệ số Gini thƣờng thấy có tăng mà
cũng có giảm.12 Mức bất bình đẳng kéo dài trong một quốc gia có thể là xu thế mạnh
nhất. Ngƣời ta ủng hộ lý thuyết đƣờng cong Kuznets ở cách phân tích mặt cắt ở thời
kỳ trƣớc là do tình trạng bất bình đẳng cao hơn của một tập hợp nhỏ các quốc gia có
thu nhập trung bình. Những kiểm nghiệm toán thống kê kỹ lƣỡng hơn cho thấy quan
hệ chữ U lộn ngƣợc không phải bị thúc đẩy bởi tăng trƣởng kinh tế mà bởi sự trùng
hợp ngẫu nhiên giữa mức bất bình đẳng cao của Châu Mỹ La-tinh và mức xếp hạng
thu nhập trung bình. Nghiên cứu đƣờng cong Kuznets cho ta thấy cần phải thận trọng
khi làm nghiên cứu thực nghiệm ở các quốc gia đang phát triển. Các mô hình quan sát
đƣợc ở nhiều quốc gia có thể chƣa cho ta hiểu rõ lắm những tiến trình làm động lực
xảy ra bên trong các quốc gia cuối cùng là gì.13

12
Klaus Deininger và Lyn Squire, “Cách thức mới nhìn về vấn đề cũ: bất bình đẳng và tăng trƣởng,”
Journal of Development Economics 57 (1998); Martin và Shaohua Chen, “Dữ liệu khảo sát mới cho ta
biết gì về những thay đổi gần đây ở lĩnh vực phân phối và cái nghèo?” World Bank Economic Review
11, số 2 (1997).
13
Thậm chí kinh nghiệm của Hoa Kỳ giờ đây cũng chối bỏ giả thuyết ban đầu của Kuznets. Bất bình
đẳng thu nhập ở Hoa Kỳ sụt giảm trong bốn thập niên theo sau cuộc Đại suy thoái. Nhƣng sau năm
1975, suốt trong thời kỳ tăng trƣởng liên tục trong nền kinh tế Mỹ thì thu nhập hộ gia đình trở nên ngày
càng bất bình đẳng, trái với những dự báo của đƣờng cong Kuznets. Các nhà kinh tế học tin rằng thay
D. Perkins et al. 11 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Mặc dù không chấp nhận đƣờng cong Kuznets là khuynh hƣớng chung nhƣng
ta cũng không có ý muốn nói rằng tăng trƣởng kinh tế không hề có tác động gì đối với
bất bình đẳng cũng nhƣ không muốn nói rằng có quan hệ tƣơng tự nhƣ đƣờng cong
Kuznets có thể xảy ra ở một số quốc gia. Do thiếu một mô hình phổ quát nên ta mới
thấy tính chất phức tạp của tiến trình đo lƣờng bất bình đẳng. Nghiên cứu đƣờng cong
Kuznets xác định đƣợc vai trò lớn của hoàn cảnh của mỗi quốc gia hay một khu vực
cụ thể; trong khi xác định các kết quả phân phối thì điều này có vẻ quan trọng hơn
nhiều so với mức thu nhập tính trên đầu ngƣời. Đây là một phát hiện rất đáng khích
lệ. Không phải quốc gia nào cũng đi theo một lộ trình phân phối giống nhƣ nhau và
điều này cho thấy chính sách nhà nƣớc có thể có phạm vi rộng rãi hơn để tác động đến
kết quả phân phối song hành với tăng trƣởng kinh tế.
Yếu tố gì khác có thể gây ra bất bình đẳng?
Nếu nhƣ bất bình đẳng không gắn kết một cách hệ thống với mức thu nhập thì
còn yếu tố gì khác giải thích đƣợc những khác biệt nhận thấy ở khắp các quốc gia và
khu vực trình bày ở Hình 6-2? Rõ ràng là lịch sử và chính trị đã đóng một vai trò quan
trọng. Một ví dụ rõ rệt là Nam Phi, quốc gia có mức bất bình đẳng thu nhập cao nhất
thế giới. Suốt nhiều thập niên chính phủ a-pac-thai không cho ngƣời da đen và ngƣời
Nam Phi không phải da trắng sở hữu đất canh tác hạng nhất, không cung cấp cho họ
nền học vấn tử tế, và không cho họ sống trong khu vực đô thị chính. Di sản của những
chính sách này vẫn tồn tại cho đến ngày nay, đƣợc phản ánh ở tình hình phân phối thu
nhập vô cùng bất bình đẳng (Hệ số Gini của Nam Phi trong năm 2000 là 0,58).
Lịch sử và chính trị cũng đóng vai trò chủ chốt ở các khu vực khác trên thế
giới. Vào cuối Chiến tranh Thế giới thứ II, Hoa Kỳ giúp thực hiện cải cách ruộng đất
ở Nam Triều Tiên làm một phần trong tiến trình giải quyết hậu quả 50 năm dƣới chế
độ cai trị của thực dân Nhật. Những cải cách này phân phối lại đất đai từ các hộ gia
đình của Nhật sang tay hộ gia đình Triều Tiên, cấp cho hàng triệu gia đình Triều Tiên
tài sản cốt lõi để sinh sống. Mức bất bình đẳng thấp ở các quốc gia Đông Âu và Trung
Á phần nào là sản phẩm của nhiều năm chính sách tiền lƣơng do luật định và nhà
nƣớc sở hữu phƣơng tiện sản xuất. Công dân ở các quốc gia này không có nhiều cơ
hội tích lũy tài sản nào để sản xuất ngoại trừ học vấn ra. Chẳng ngạc nhiên khi thị
trƣờng chuyển đổi thì tình trạng bất bình đẳng ở nhiều quốc gia này đang tăng lên; ở
một số trong đó thì điều này đang xảy ra song hành với tăng trƣởng kinh tế đƣợc vãn
hồi.
Một số bất bình đẳng ở mức cao trong khu vực Châu Mỹ La-tinh có thể truy
nguyên từ mô hình sở hữu đất đai có từ hàng thế kỷ nay. Không chỉ có sự góp phần
của di sản chế độ thực dân mà còn là do nhu cầu của các loại mùa màng cụ thể, kể cả
những ƣu thế của hình thức nông nghiệp đồn điền. Ở Đông Á, canh tác lúa là phù hợp
hơn đối với nông nghiệp gia đình và xác lập cơ sở cho tình trạng bình đẳng thu nhập
cao hơn trong khu vực. Của cải khoáng sản, cho dù là kim cƣơng hay dầu lửa, cũng có
xu thế gây ra tình trạng bất bình đẳng cao hơn. Nguồn nhân tố sản xuất có sẵn đã định
hình kết quả phân phối trong quá khứ và vẫn tiếp tục nhƣ vậy trong ngày nay.
Nguồn nhân tố có sẵn và “di sản dai dẳng của quá khứ” đóng vai trò quan
trọng trong việc định hình phân phối thu nhập của một quốc gia, nhƣng lựa chọn
chính sách ngày nay cũng tác động đến những kết quả này. Chính sách nhà nƣớc ảnh
hƣởng đến việc tích lũy tài sản, kể cả học vấn. Các quyết định chính sách tác động
đến tiến trình mở mang công nghệ và tiếp cận thị trƣờng, tạo điều kiện nâng cao năng
suất cùng suất sinh lợi cho yếu tố sản xuất. Thuế khóa và chi tiêu chính phủ, kể cả chi
tiêu cho mạng lƣới phúc lợi xã hội, tác động trực tiếp đến cách phân chia thu nhập.
Mức bất bình đẳng ở bất kỳ quốc gia nào cũng đều là kết quả của những tƣơng tác

đổi công nghệ, nhập cƣ, và thƣơng mại quốc tế gia tăng chính là một số yếu tố giải thích thời kỳ
chuyển tiếp hậu 1975 này.
D. Perkins et al. 12 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

phức tạp giữa các yếu tố lịch sử, chính trị, nguồn nhân tố có sẵn, các lực lƣợng thị
trƣờng, và chính sách nhà nƣớc.
TẠI SAO BẤT BÌNH ĐẲNG LÀ VẤN ĐỀ NGHIÊM TRỌNG
Nếu nhƣ phát triển kinh tế đòi hỏi phải giảm nghèo, thì lời giải thích đơn giản
nhất lý do tại sao bất bình đẳng là vấn đề nghiêm trọng chính là mức độ bất bình đẳng
cộng với mức thu nhập sẽ định ra mức độ nghèo. Cho dù không có tranh cãi phải định
nghĩa nghèo nhƣ thế nào (chốc nữa ta sẽ bàn đến đề tài này), nhƣng cần có một số ví
dụ rõ ràng về mối quan hệ giữa tăng trƣởng kinh tế, bất bình đẳng thu nhập, và tình
trạng nghèo khó. Nếu một nền kinh tế tăng trƣởng mà bất bình đẳng vẫn không đổi,
thì thu nhập của ngƣời nghèo đã tăng cùng một lƣợt với thu nhập của mọi thành phần
khác. Số ngũ phân nghèo nhất đã có thu nhập nhiều hơn, giúp nâng một số hộ gia đình
vƣợt qua khỏi mức nghèo. Tƣơng tự nhƣ vậy, nếu thu nhập tính trên đầu ngƣời vẫn
không đổi mà bất bình đẳng gia tăng, thì số ngũ phân ngƣời nghèo nhất có thu nhập ít
đi và một số hộ gia đình có lẽ đã rơi vào khu vực nghèo. Những tỷ lệ này chỉ thể hiện
những tính toán cơ bản chi phối mối quan hệ giữa nghèo nàn, tăng trƣởng, và bất bình
đẳng.
Nhƣng bất bình đẳng và tăng trƣởng không nên đƣợc xác định độc lập với
nhau. Có thể không có một khuynh hƣớng hệ thống giải thích bất bình đẳng biến đổi
ra sao khi quốc gia phát triển, nhƣng bất bình đẳng thƣờng thay đổi theo mức tăng của
thu nhập tính trên đầu ngƣời. Tƣơng tự nhƣ vậy, bất bình đẳng có thể tác động tốc độ
tăng trƣởng mà một nền kinh tế đạt đƣợc. Phải chăng những quốc gia có bất bình đẳng
nhiều thì tăng trƣởng thƣờng bị chậm lại, do đó càng phƣơng hại đến lợi ích của
ngƣời nghèo? Cuối cùng, bất bình đẳng thu nhập cũng là vấn đề hệ trọng ngay chính
bản thân nó. Xã hội có quan niệm riêng về bất bình đẳng và có thể muốn (hoặc không
muốn) chính phủ của họ can thiệp vào để đạt đƣợc một kết quả phân phối nào đó.
Cũng giống nhƣ từng có tranh luận về tác động của tăng trƣởng đối với bất
bình đẳng, hiện tại cũng đang có tranh luận bất bình đẳng tác động nhƣ thế nào đến
tăng trƣởng kinh tế. Nhƣ đã đƣợc bàn ở đầu chƣơng này, một số lý thuyết thời trƣớc
về phát triển kinh tế đã kết luận rằng bất bình đẳng có thể nâng tốc độ tăng trƣởng lên.
Khi tập trung thu nhập vào một số ít ngƣời hơn, thì có thể có nhiều tích lũy hơn để
dồn vào những đầu tƣ thiết yếu cho tiến trình tích lũy vốn. Thế nhƣng quan điểm phân
phối và tăng trƣởng đơn giản này không nắm bắt đƣợc các kênh khác theo đó bất bình
đẳng thu nhập có thể gây trì trệ cho tăng trƣởng kinh tế. Thảo luận đồng thời về mối
quan hệ giữa bất bình đẳng và tăng trƣởng sẽ nghiên cứu các kênh này.
Khi bất bình đẳng tăng cao thì có thể ít có những đầu tƣ đáng kể. Ngƣời nghèo
thƣờng có thể có những cơ hội đầu tƣ hứa hẹn. Mua trâu bò làm công việc đồng áng
hay cải thiện hệ thống dẫn nƣớc, đầu tƣ vào một món trang thiết bị hay xây một nhà
kho, hay cho con cái đi học, tất cả có thể mang lại lợi ích kinh tế tốt. Nhƣng các cá thể
hoặc gia đình có thể không đầu tƣ nhƣ trên vì không đủ khả năng. Thị trƣờng tín dụng
yếu kém và họ thiếu khả năng bảo đảm thế chấp với chủ vay khiến giảm đi lƣợng đầu
tƣ vào năng suất mà họ đang hoạt động và thế là dẫn đến tăng trƣởng kinh tế kém.
Nếu nền kinh tế có mức phân phối bình đẳng hơn thì sẽ có nhiều khả năng tài trợ và
theo đuổi những đầu tƣ vào năng suất nêu trên hơn.
Một kênh khác gắn liền bất bình đẳng với tăng trƣởng là thông qua tiến trình
chính trị. Có nhiều liên kết “kinh tế chính trị” giữa phân phối và thu nhập. Một số
ngƣời lập luận rằng khi bất bình đẳng tăng cao thì ngƣời giàu dùng của cải của họ để
bảo đảm kết quả có lợi cho họ, tác động lên mọi thứ từ chi tiêu nhà nƣớc (rót những
lƣợng tiền rất lớn vào các trƣờng đại học mà chỉ con cái nhà giàu theo học chứ không
đầu tƣ vào trƣờng tiểu học chẳng hạn) cho đến chính sách thƣơng mại (dùng thuế
nhập khẩu cùng các hình thức bảo hộ mậu dịch khác để duy trì các công ty độc quyền
nội địa). Những chính sách này có thể dẫn đến những kết quả thiếu hiệu quả làm
D. Perkins et al. 13 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

chậm tăng trƣởng kinh tế. Những ngƣời khác thì có những lập luận chính trị ngƣợc
lại. Khi bất bình đẳng tăng cao thì phong trào bình dân có thể nổi lên và tập trung
nhiều hơn vào các chính sách tái phân phối và ít tập trung hơn vào tăng trƣởng, dẫn
đến thuế cao hơn và ít đầu tƣ hơn. Bất bình đẳng tăng cao cũng thƣờng gắn liền với
nhiều bạo động hơn ở cả con ngƣời và chính trị, và đến lƣợt nó có thể xác lập lại chi
tiêu chuyển sang những lĩnh vực hoạt động ít có năng suất hơn (nhiều nhân viên cảnh
sát và dịch vụ an ninh tƣ nhân hơn) và càng làm ngƣời đầu tƣ nản lòng không muốn
đầu tƣ nhiều hơn.
Với vô số những quan hệ giữa bất bình đẳng và tăng trƣởng nhƣ vậy thì tác
động tổng thể là một vấn đề thực tế. Những nghiên cứu nhằm tìm tòi mối quan hệ này
thƣờng phụ thuộc vào những giảm thoái tăng trƣởng xuyên quốc gia đƣợc giới thiệu ở
Chƣơng 3. Những nghiên cứu trƣớc đó tìm đƣợc căn cứ thống kê cho thấy bất bình
đẳng cao ban đầu, đặc biệt về mặt sở hữu đất đai, gắn liền với tăng trƣởng chậm kéo
theo sau đó. Nhƣng những nghiên cứu về sau này sử dụng những tập hợp dữ liệu lớn
hơn cùng những kỹ thuật toán thống kê khác biệt thì nhận thấy không có tác động nhƣ
vậy hay thậm chí cả tác động ngƣợc lại.14 Bản chất dở dang của các kết quả này cũng
không gây ngạc nhiên nếu xét đến tính phức tạp và luân chuyển tiềm tàng của mối
quan hệ. Bất bình đẳng tác động đến tăng trƣởng và tăng trƣởng tác động đến bất bình
đẳng khiến rất khó xác định đƣợc bằng thống kê. Cũng khó có khả năng một mô hình
hệ thống mô tả đƣợc mối quan hệ giữa bất bình đẳng và tăng trƣởng dành cho tất cả
các quốc gia vào tất cả các thời kỳ. Điều này không có ý cho rằng trong hoàn cảnh cụ
thể của một quốc gia thì bất bình đẳng và tăng trƣởng là không có quan hệ với nhau.
Bất bình đẳng cao có thể kìm hãm tăng trƣởng, nhƣng nới lỏng sự kìm hãm này là
một thách thức gay go cho những nhà hoạch định chính sách.
ĐO LƯỜNG CÁI NGHÈO
Ngƣời ta thƣờng nhắc đến bất bình đẳng và nghèo nàn nhƣ thể hai tình trạng này là
một. Không phải vậy. Bất bình đẳng là một yếu tố xác định cái nghèo, nhƣng hai khái
niệm này rất khác nhau. Để hiểu lý do ta hãy xem xét nhƣ sau: Giả sử số phận đời ta
rơi vào nhóm ngũ phân 20% ở dƣới đáy của phân phối thu nhập. Nếu có thể lựa chọn
quốc gia để sống, thì đó là quốc gia nơi mà số 20% dƣới đáy nhận đƣợc 3,4% hay
3,5% hay 9,0% thu nhập hộ gia đình đây? Nếu trả lời, là quốc gia nơi ngƣời nghèo
nhất nhận đƣợc 9,0% thì tức là ta đã nhầm lẫn giữa bất bình đẳng và nghèo nàn rồi.
Có lẽ ta cũng quên mất những kết quả trình bày ở Bảng 6-1. Nhớ lại ở bảng ấy rằng
phần chia của số 20% ngƣời nghèo nhất Bangladesh là 9,0%, ở Mexico là 3,5% và ở
Hoa Kỳ là chỉ có 3,4% thôi đấy.
Cũng dễ hiểu là tại sao ta chọn nghèo ở Hoa Kỳ hơn là nghèo ở Bangladesh
hay Mexico. Rơi vào số 20% nghèo nhất ở Hoa Kỳ không có nghĩa có khả năng ta là
kẻ vô gia cƣ. Số 20% dƣới đáy ở nƣớc này là gần 60 triệu ngƣời. Một số ít trong
những ngƣời này thì vô gia cƣ nhƣng đại đa số thì không phải vậy. Hầu nhƣ tất cả đều
sống trong một nơi cƣ ngụ lâu bền có điện, có bếp ga hoặc bếp điện, có nƣớc sạch, và
hệ thống nƣớc gắn trong nhà. Phần lớn đƣợc chăm sóc y tế, cho dù đó chỉ là một
phòng cấp cứu tại một bệnh viện địa phƣơng, và trong thời thơ ấu nhận đƣợc một chế
độ tiêm chủng chống lại nhiều bệnh truyền nhiễm. Khó có khả năng họ chết vì sốt rét
hay tiêu chảy, mặc dù cả hai bệnh này đều rất phổ biến trong thời kỳ đầu của lịch sử
nƣớc này. Đối với những ngƣời có con cái, thì khả năng trẻ chết trƣớc sinh nhật lần
thứ nhất là rất thấp và đứa trẻ đó sẽ nhận đƣợc ít nhất là 12 năm học vấn. Những
ngƣời trong nhóm 20% dƣới đáy ở Hoa Kỳ đều có khả năng có TV và điện thoại, có

14
Hai bài viết thƣờng đƣợc trích dẫn mà đạt đến hai kết luận đối chọi nhau liên quan đế bất bình đẳng
là bài của Alberto Alesina và Dani Rodnik, “Chính trị phân phối và tăng trƣởng kinh tế,” Quarterly
Journal of Economics 109, số 2 (1994), và bài của Kristin Forbes, “Đánh giá lại mối quan hệ giữa bất
bình đẳng và tăng trƣởng,” American Economic Review 90, số 4 (2000).
D. Perkins et al. 14 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

lẽ có xe hơi, và có thể tiếp xúc với máy tính, ví dụ nhƣ tại thƣ viện công cộng nếu nhƣ
không có ở nhà.
Số 20% nghèo nhất là nghèo so với phần lớn những ngƣời Mỹ khác và có thể
họ nhận thấy điều này là đau đớn tinh thần, nhƣng họ vẫn có mức sinh hoạt cao hơn
nhiều so với ngƣời nghèo ở Bangladesh hay Mexico. Không ai trong số 20% dƣới đáy
ở Bangladesh (hay bất kỳ 20% nào khác) có khả năng thụ hƣởng những phúc lợi giáo
dục và y tế nhƣ những cá thể nghèo nhất ở Hoa Kỳ. Con số gần 30 triệu cá thể hình
thành nên nhóm ngũ phân dƣới đáy ở Bangladesh thì có khả năng sống trong chỗ ở sơ
sài có thể bị giông bão cuốn phăng đi bất cứ lúc nào. Thực phẩm thƣờng khan hiếm và
nƣớc sạch luôn thiếu thốn. Chung sống với ký sinh đƣờng ruột là hiện tƣợng bình
thƣờng; bệnh nhiễm trùng đều đặn lấy đi mạng sống của ngƣời trẻ cũng nhƣ già; và
chết ở tuổi sơ sinh là chuyện phổ biến. Tỷ lệ ngƣời đi học đang tăng, nhƣng thành tựu
học vấn của một ngƣời Bangladesh nghèo, đặc biệt ở phụ nữ, chỉ bằng một phân nhỏ
của ngƣời đồng đẳng bên Mỹ. Hàng tiêu dùng chỉ gồm có một ít bộ quần áo, một số
dụng cụ nhà bếp và chỉ vài món vặt vãnh khác. Phần lớn những ngƣời thuộc nhóm
20% dƣới đáy chƣa bao giờ đƣợc gọi một cuộc điện thoại hoặc đƣợc nhấn nút chuột
máy tính. Số 20% dƣới đáy của Hoa Kỳ chỉ thụ hƣởng 3,4% thu nhập hộ gia đình,
trong lúc số 20% dƣới đáy ở Bangladesh tiêu thụ đến 9,0% tổng chi tiêu tiêu dùng của
Bangladesh. Nhƣng số 20% dƣới đáy của Mỹ đƣợc chia một khối lƣợng lớn hơn của
tổng thu nhập và do đó thụ hƣởng đƣợc một tiêu chuẩn sinh hoạt cao hơn cho dù phần
chia tƣơng đối thì kém hơn nhiều.
Lằn ranh nghèo
Giống nhƣ cần phải có một tập hợp các công cụ để mô tả và hiểu rõ những kết
quả phân phối, ta cũng cần có một tập hợp các công cụ dùng để định nghĩa và đo
lƣờng cái nghèo. Chúng ta tập trung chủ yếu định nghĩa nghèo tuyệt đối là gì theo hai
lĩnh vực tiêu thụ và thu nhập, nhƣng quan trọng là phải nhận thấy rằng cái nghèo là rất
đa dạng và bao trùm những thiếu thốn không chỉ về phía thu nhập không mà thôi. Đây
là một ý tƣởng khá quen thuộc, vì nó song hành với tranh cãi về định nghĩa của phát
triển kinh tế. Cả Chỉ số Phát triển Con ngƣời lẫn Mục tiêu Phát triển cho Thiên niên
kỷ không chỉ lấy GDP tính trên đầu ngƣời làm thƣớc đo lợi ích mà những phƣơng
pháp tƣơng tự cũng đƣợc dùng để định nghĩa cái nghèo.
Lằn ranh nghèo (hay chuẩn nghèo) – đƣợc xác định là có một số đồng ta-ka
hay pê-sô hay đô-la nào đó để tiêu dùng trong một ngày – có thể nắm bắt đƣợc mức
độ thiếu thốn vật chất nhƣng lại không phản ánh đƣợc việc thụ hƣởng y tế và giáo
dục. Một gia đình có thể có đủ tiền để mua một giỏ thức ăn tối thiểu nhƣng nếu họ
không đến đƣợc với nguồn nƣớc uống an toàn thì dù mua đƣợc thức ăn cũng không
bảo đảm đáp ứng đƣợc nhu cầu dinh dƣỡng. Theo nghĩa khắt khe này thì đến đƣợc với
nguồn nƣớc uống sạch liên kết với thu nhập tiền bạc làm thành chỉ số xác định cái
nghèo tuyệt đối. Thụ hƣởng đƣợc dịch vụ công, kể cả y tế và giáo dục căn bản, thì có
thể có tác động đến chuẩn nghèo ngày nay và tác động đến cả sự lây truyền cái nghèo
qua nhiều thế hệ, chúng độc lập với mức tiêu thụ hiện tại. Một nội dung nữa của cái
nghèo là dễ bị ảnh hƣởng bởi những tác động xấu. Chi tiêu trong một giai đoạn có thể
nâng một gia đình thoát ra khỏi lằn ranh nghèo, nhƣng trong thời kỳ sau đó, thiên tai,
suy thoái trọn nền kinh tế, hoặc thậm chí sức khỏe yếu kém hay ngƣời chạy gạo chết
thì cũng có thể đẩy gia đình xuống dƣới lằn ranh nghèo. Gia đình hết thoát ra lại lâm
vào cảnh nghèo và để cải thiện tình hình sinh hoạt thì phải giảm khả năng dễ bị tác
động bởi ảnh hƣởng xấu.
Cái nghèo là đa diện và ta có thể đo lƣờng nhiều mặt của nó. Ngƣời ta chú ý
nhiều đến đo lƣờng cái nghèo thu nhập hoặc cái nghèo tiêu thụ. Những nhà kinh tế
phát triển thƣờng sử dụng một định nghĩa nghèo tuyệt đối khi một giá trị tiền bạc cụ
thể đƣợc xác định là lằn ranh phân định nghèo và không nghèo. Phần lớn quốc gia xác
D. Perkins et al. 15 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

định lằn ranh nghèo của đất nƣớc họ thƣờng dựa trên lƣợng chi phí tính trên đầu
ngƣời của một giỏ thức ăn tiêu thụ tối thiểu nào đó cùng với một số nhu yếu phẩm
khác (Xem Khung 6-1). Lƣơng thực đóng vai trò chủ đạo trong các gói tiêu thụ này
bởi vì nó có thể chiếm tới hai phần ba hoặc ba phần tƣ tổng chi tiêu của một gia đình
nghèo. Ở nhiều quốc gia thu nhập thấp, lằn ranh nghèo dựa trên tiêu chuẩn hấp thu
đƣợc 2.000 hoặc hơn 2.000 calory mỗi ngày. Mặc dù những yêu cầu về calory này có
vẻ rất “khoa học” nhƣng lằn ranh nghèo thật sự vẫn là một khái niệm xã hội phức tạp.
Thực phẩm mua đƣợc có đạt đƣợc những calory này hay không phụ thuộc vào những
thứ mà cá thể lựa chọn để mua. Chi tiêu mà thậm chí còn thấp hơn cả lằn ranh nghèo
vẫn có thể có đƣợc lƣợng calory theo yêu cầu nhƣng ít ai lại thật sự muốn mua một
giỏ tiêu thụ nhƣ vậy.
KHUNG 6-1 LẰN RANH NGHÈO QUỐC GIA Ở BANGLADESH, MEXICO,
VÀ HOA KỲ
Thay vì chỉ có một lằn ranh nghèo chính thức thì Bangladesh lại có nhiều.
Những lằn ranh nghèo riêng biệt tồn tại cho mỗi trong số 14 vùng để phản ánh những
chi phí khác nhau. Những lằn ranh vùng đƣợc chia thêm thành hai mức là trên và dƣới
để nắm bắt đƣợc những cƣờng độ nghèo khác nhau. Tất cả những lằn ranh nghèo đều
dựa trên khả năng hấp thu đƣợc một lƣợng calory tối thiểu hàng ngày là 2.112 calory.
Gói thực phẩm tiêu biểu để nạp vào đƣợc lƣợng calory này đƣợc nêu ra cụ thể vào đầu
thập niên 1990 bao gồm 11 món: gạo, lúa mì, đậu, sữa, dầu, thịt, cá nƣớc ngọt, khoai,
các loại rau khác, đƣờng, và trái cây. Chi phí của gói này đƣợc linh động điều chỉnh áp
dụng một chỉ số giá nội địa. Lằn ranh nghèo bên dƣới trong mỗi vùng tiêu biểu cho
mức nghèo mà một ngƣời không có tài nguyên để đáp ứng những nhu cầu thực phẩm
hay những nhu cầu không phải thực phẩm khác và phải hy sinh một ít yêu cầu calory
tối thiểu hàng ngày để đủ tiền mua các thứ thiết yếu không phải thực phẩm. Lằn ranh
nghèo phía trên tiêu biểu cho mức nghèo mà một ngƣời có đủ khả năng đáp ứng những
yêu cầu thực phẩm tối thiểu hàng ngày và đủ sức chi tiêu các món không phải thực
phẩm.
Mexico có ba lằn ranh nghèo chính thức nắm bắt đƣợc một phạm vi các điều kiện
nghèo. Bên trong những lằn ranh này có sự dị biệt giữa dân số thành thị và nông thôn.
Lằn ranh nghèo thấp nhất đƣợc ƣớc tính bằng cách tính toán chi phí của một gói thực
phẩm tiêu biểu, có xét đến yêu cầu dinh dƣỡng khác nhau của ngƣời dân nông thôn so
với ngƣời dân thành thị tính bằng số calory hàng ngày và số gram chất đạm. Rơi xuống
dƣới lằn ranh nghèo này là một ngƣời không thể đáp ứng đƣợc ngay cả những yêu cầu
dinh dƣỡng tối thiểu hàng ngày đã nêu. Rơi xuống dƣới lằn ranh nghèo thứ hai có
nghĩa là ngƣời ấy không đủ tài nguyên để đáp ứng cả yêu cầu dinh dƣỡng hàng ngày
lẫn chi phí giáo dục và y tế tối thiểu. Lằn ranh thứ ba là khi không đủ tài nguyên để
thanh toán mọi chi phí sinh hoạt cần thiết, bao gồm thực phẩm, giáo dục, y tế, quần áo
giày dép, nhà ở, và chi phí vận tải công cộng.
Hoa Kỳ cũng xác định nhiều lằn ranh nghèo thay đổi không phải theo vùng mà
theo quy mô hộ gia đình và tuổi của các thành viên trong gia đình. Lằn ranh nghèo của
Hoa Kỳ, cũng giống nhƣ của Bangladesh và Mexico, khởi đi bằng chi phí một giỏ các
món thực phẩm. Đƣợc thiết kế để đáp ứng nhu cầu dinh dƣỡng của một ngƣời với chi
phí tối thiểu, gói các món thực phẩm này vẫn dựa trên một cuộc khảo sát năm 1955 về
tiêu thụ thực phẩm trong hộ gia đình. Gói này bao gồm các suất sữa, phó-mát và kem;
thịt, gia cầm, và cá; trứng; đậu khô, đậu tƣơi, và các loại hạt; bột, ngũ cốc, và bánh;
trái cây có múi và cà chua; rau xanh sẫm và vàng sẫm; khoai; các loại rau và trái cây
khác; dầu mỡ; và đƣờng cùng kẹo. Chi phí cho gói thực phẩm này đƣợc nhân lên 3 lần
để đạt đến đƣợc ngƣỡng nghèo bởi vì cuộc khảo sát năm 1955 nhận thấy rằng gia đình
trung bình có ba ngƣời hoặc nhiều hơn thì chi tiêu khoảng 1/3 thu nhập dành cho chi
tiêu để mua thực phẩm. Do áp dụng những lằn ranh nghèo này trong năm 1965 nên giá
trị đồng đô-la cũng đƣợc điều chỉnh hàng năm để phù hợp với lạm phát giá. Gói các
món thực phẩm cũng nhƣ tỷ trọng thu nhập mà gia đình bỏ ra để mua thực phẩm suốt
50 năm qua chƣa hề đƣợc điều chỉnh, bất chấp những thay đổi trong chế độ ăn uống và
D. Perkins et al. 16 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

có bằng chứng cho thấy thậm chí ngƣời Mỹ nghèo cũng chi chƣa đến 1/3 thu nhập sau
thuế để mua thực phẩm.
Nguồn: Fernando Cortés Cáceres và các tác giả khác, “Evolucióny características de la pobreza en Mexico
en la última década del siglo XX,” Secretaría de Dessarrollo Social, Mexico, tháng 8/2002, xem tại
www.sedesol.gob.mx/publicacionnes/libros/evolucion.pdf; Eloise Cofer, Evelyn Grossman, và Faith
Clark, “Kế hoạch thực phẩm gia đình và chi phí thực phẩm: dành cho các nhà dinh dƣỡng và những lãnh
đạo khác mà phát triển hoặc dùng kế hoạch thực phẩm,” Home Economics Research Report số 20
(Washington, DC: U.S. Government Printing Office, tháng 11/1962) xem tại
aspe.hhs.gov/poverty/familyfoodplan.pdf.

Thƣờng thì chính phủ xác định nhiều lằn ranh nghèo chứ không phải chỉ một.
Do có những khác biệt khu vực nên những lằn ranh nghèo khác nhau có thể đƣợc áp
dụng ở khu vực đô thị và nông thôn hoặc nhƣ trong trƣờng hợp Bangladesh thì áp
dụng cho nhiều vùng khác nhau. Khi đã xác định một (hay những) lằn ranh nghèo và
thể hiện bằng đồng tiền của quốc gia rồi thì mức tiêu thụ hay thu nhập ấy cần phải
đƣợc điều chỉnh dựa trên thời kỳ căn bản là năm để tính toán những biến động giá cả
của gói hàng hóa căn bản. Mục tiêu là nhằm duy trì một lằn ranh nghèo không đổi
theo thời kỳ trong đó thứ đƣợc cho là không đổi chính là khả năng mua đƣợc giỏ thực
phẩm tiêu thụ cốt lõi cùng các thứ nhu yếu khác.15 Điều này cho phép các nhà hoạch
định chính sách và các nhà nghiên cứu vạch ra đƣợc tiến trình mà một quốc gia hay
một khu vực theo đuổi để nâng ngƣời nghèo thoát khỏi cái nghèo tuyệt đối.
Phần lớn các quốc gia có những lằn ranh nghèo riêng của mình và những lằn
ranh này có thể đƣợc sử dụng để so sánh trên phạm vi quốc tế. Ngƣời ta có thể so
sánh (hoặc kết hợp) số ngƣời đƣợc cho là nghèo ở Bangladesh, có lằn ranh nghèo khu
vực hàng ngày tính trên đầu ngƣời là khoảng từ 19 đến 32 ta ka (tƣơng đƣơng 1,70
đến 2,80 đô-la Mỹ) với số ngƣời đƣợc cho là nghèo ở Mexico có lằn ranh nghèo là từ
30 đến 40 pê-sô (4,60 đến 6,60 đô-la Mỹ), và ở Hoa Kỳ có lằn ranh nghèo hàng ngày
mỗi ngƣời là khoảng 16 đô-la16. So sánh này cho ra một mức nghèo theo cách nhìn
nhận riêng của mỗi nƣớc. Nhƣng những khác biệt sau đó ở mức nghèo trong các quốc
gia với nhau bản thân nó chính là một hàm số lằn ranh nghèo mà mỗi quốc gia lựa
chọn. Một phƣơng pháp khác đƣợc áp dụng rộng rãi hơn là xác lập một lằn ranh
nghèo toàn cầu duy nhất. Bằng cách áp dụng một lằn ranh nghèo duy nhất, ta có thể
thu đƣợc một hình ảnh nhất quán hơn về mức nghèo tuyệt đối trên khắp các quốc gia
và khu vực, và số ngƣời nghèo biến động theo từng thời kỳ theo cách nào.
1 đô-la một ngày
Khái niệm lằn ranh nghèo toàn cầu 1 đô-la một ngày bắt nguồn từ thập niên 1980 khi
Ngân hàng Thế giới chuẩn bị Bảng Báo cáo Phát triển Thế giới (WDR) cho năm
1990. Loạt báo cáo này, đƣợc phát hành hàng năm và đƣợc xem là ấn phẩm ngọn cờ
đầu của Ngân hàng Thế giới, chọn ra mỗi năm một đề tài để điều tra nghiên cứu. Ấn
bản 1990 tập trung nghiên cứu cái nghèo toàn cầu. Để đánh giá mức nghèo tuyệt đối
trên thế giới, WDR 1990 xem xét một tập hợp gồm 34 lằn ranh nghèo của từng quốc
15
Lằn ranh nghèo cũng có thể đƣợc thể hiện theo cách tƣơng đối. Ở Liên minh châu Âu thì cái nghèo
đôi khi đƣợc định nghĩa là sống dƣới 60% thu nhập bình quân. Với định nghĩa này thì lằn ranh nghèo
không biểu thị khả năng mua đƣợc một gói hàng hóa cố định mà thay đổi khi thu nhập bình quân thay
đổi. Áp dụng cách này thì cái nghèo tuyệt đối chỉ giảm khi thu nhập đƣợc phân phối bình đẳng hơn,
chứ không phải là có mức gia tăng phổ biến thu nhập tính trên đầu ngƣời.
16
Hoa Kỳ xác định cái nghèo dựa trên quy mô và thành phần của hộ gia đình. Các hộ có con nhỏ hoặc
ngƣời già đƣợc cho là có những yêu cầu thực phẩm khác nhau, do đó dẫn đến những lằn ranh nghèo
khác nhau. Các hộ có nhiều ngƣời hơn đƣợc cho là có tiết kiệm tiêu thụ nhờ quy mô và điều này cũng
tác động đến lằn ranh nghèo. Những yêu cầu hàng ngày tính trên đầu ngƣời trong năm 2004 nằm trong
phạm vi từ 27 đô-la cho một hộ gia đình có một ngƣời chƣa già cho đến 10,5 đô-la cho một hộ gia đình
có tám ngƣời gồm sáu đứa con. Do đa số hộ gia đình ở Hoa Kỳ có năm hoặc chƣa đến năm ngƣời nên
con số 16 đô-la chỉ lằn ranh nghèo bình quân dành cho các hộ có từ một đến năm ngƣời. Những giá trị
đƣợc nêu dành cho Bangladesh và Mexico chỉ lằn ranh nghèo “phía trên” đƣợc bàn đến trong Khung 6-
1 theo thứ tự cho hai năm 2000 và 2002.
D. Perkins et al. 17 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

gia cụ thể ở các quốc gia phát triển lẫn các quốc gia đang phát triển. Đúng nhƣ dự
kiến, những lằn ranh nghèo này thƣờng tăng lên cùng với mức thu nhập. Nếu chỉ tập
trung vào các quốc gia thu nhập thấp trong nhóm, thì lằn ranh nghèo có xu thế hạ thấp
xuống trong khoảng từ 275 đô-la đến 370 đô-la mỗi ngƣời một năm tính theo đồng
đô-la Mỹ (PPP) trong năm 1985. Ranh giới ở trên mức này, chỉ trên mức 1 đô-la một
chút, đƣợc dùng làm ngƣỡng nghèo toàn cầu. Áp dụng lằn ranh nghèo 1 đô-la một
ngày để ƣớc tính tần suất phân phối tiêu thụ trên mỗi đầu ngƣời ở các quốc gia thu
nhập thấp và trung bình, WDR 1990 đi đến kết luận rằng có 1,12 tỷ ngƣời, tức là một
phần ba dân số ở thế giới đang phát triển trong năm 1985 đang sống ở mức nghèo
tuyệt đối.
Để vạch rõ những thay đổi của cái nghèo theo thời kỳ thì ta cần tăng lằn ranh
nghèo tính theo tiền tệ địa phƣơng để đáp ứng với những biến động giá cả nội địa. Lý
tƣởng nhất là thực hiện điều này bằng cách sử dụng một chỉ số giá dựa trên những
hàng hóa mà ngƣời nghèo thƣờng tiêu thụ. Trong thực tế, thƣờng ngƣời ta dùng chỉ số
giá tiêu dùng của một quốc gia. Để đánh giá điều gì đã xảy ra với tình trạng nghèo
nàn trong khu vực và trên toàn cầu kể từ thập niên 1980, những nhà nghiên cứu đã
không chỉ điều chỉnh lằn ranh nghèo nguyên thủy 1 đô-la một ngày do có lạm phát giá
nội địa. Do có cải thiện những ƣớc tính PPP, dựa trên dữ liệu tốt hơn và có nhiều quốc
gia để so sánh hơn nên Ngân hàng Thế giới tính toán lại lằn ranh nghèo toàn cầu để
chuẩn bị cho Báo cáo Phát triển Thế giới, Đánh Nghèo đói cho năm 2000-01. Lằn
ranh nghèo mới tiếp tục đƣợc đặt cơ sở trên một tiểu tập hợp những lằn ranh nghèo
của quốc gia cụ thể và cho ra con số 1,08 đô-la một ngày, chiếu theo đồng đô-la Mỹ
PPP năm 1993. Mức này vẫn đƣợc nhắc đến là lằn ranh nghèo 1 đô-la một ngày. (Nhớ
là ở Ghi chú 1, ta ghi mức nghèo 1,08 đô-la một ngày của năm 1993 trong ngoặc kép
là “1 đô-la một ngày.”) Đối với năm gần đây nhất mà có dữ liệu là năm 2001 thì có
1,09 tỷ ngƣời sống dƣới mức “1 đô-la một ngày,” gần giống nhƣ con số năm 1985
dựa trên lằn ranh nghèo hơi thấp hơn một chút. Nhƣng trong năm 2001 thì con số này
tiêu biểu cho 21,1% dân số của thế giới đang phát triển, một tỷ lệ thấp hơn đáng kể
của dân số sống ở mức nghèo tuyệt đối so với năm 1985.
Trƣớc khi nghiên cứu các xu thế nghèo nàn trong phạm vi khu vực, ta cũng
nên xem xét cách sử dụng những lằn ranh nghèo chi tiết hơn và cũng nên xác định
một số thƣớc đo mức nghèo khác mà có thể dựa trên những lằn ranh ấy. Hình 6-4 tái
hiện tần suất phân phối của tiêu thụ tính trên đầu ngƣời ở Bangladesh trong năm 2000,
áp dụng lằn ranh nghèo “1 đô-la một ngày” (thể hiện bằng đồng ta-ka mỗi năm và có
điều chỉnh theo lạm phát giá nội địa từ năm 1993 đến năm 2000). Những cá thể có
mức tiêu thụ dƣới lằn ranh nghèo, khoảng chừng 36% dân số Bangladesh, đƣợc xem
là nghèo tuyệt đối. Điều thấy rõ là có một chút chủ quan ở cách phân biệt nghèo và
không nghèo nhƣ thế này. Phải chăng một ngƣời có vài đồng ta-ka chi tiêu nhiều hơn
sống khác biệt hơn nhiều so với ngƣời ở mấp mé dƣới mức nghèo tuyệt đối? Đặc
điểm chủ quan về lằn ranh nghèo này là không thể tránh khỏi. Nhƣng lằn ranh nghèo
vẫn rất hữu dụng vì nó cung cấp một ý nghĩa về mức nghèo tuyệt đối, một phƣơng
tiện để đánh giá mức độ thành công của các chính sách đƣợc thiết kế ra để làm giảm
nghèo, và một cơ chế kêu gọi chú ý và động viên các nguồn hỗ trợ để giảm bớt sự
thiếu thốn của con ngƣời. Những chiến lƣợc giảm số ngƣời ở dƣới lằn ranh nghèo
thành công thì thƣờng đi hơi quá trớn và cũng giúp luôn những ngƣời “mấp mé
nghèo,” những ngƣời nằm sát bên mé phải của lằn ranh nghèo trong tần suất phân
phối.

D. Perkins et al. 18 Biên dịch: Lê Việt Ánh


Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Nghèo
tuyệt
đối
Lằn ranh nghèo “1 đô-
la một ngày”
Phần trăm dân số

Tiêu thụ tính trên đầu người (ta-ka/năm)

Hình 6-4 Nghèo tuyệt đối ở Bangladesh


Nguồn: Hợp tác với Claudio E Montenegro, Ngân hàng Thế giới

Khi đã chọn ra lằn ranh nghèo thì có thể xác định mức nghèo tuyệt đối theo
nhiều cách. Cách đơn giản nhất là báo cáo số ngƣời nằm dƣới lằn ranh nghèo. Cũng
rành rọt không kém là dùng chỉ số đếm đầu người, là tỷ lệ giữa ngƣời nằm ở dƣới lằn
ranh nghèo so với tổng số dân. Một thƣớc đo khác là khoảng cách nghèo, diễn tả
mức độ nghiêm trọng của nghèo khó. Mức độ nghiêm trọng của nghèo khó đề cập có
bao nhiêu ngƣời rơi xuống dƣới lằn ranh nghèo và họ nằm cách lằn ranh ấy bao xa.
Xin nhìn lại Hình 6-4. Tƣởng tƣợng rằng nếu tần suất phân phối nằm dƣới lằn ranh
nghèo “1 đô-la một ngày” mà có hình chữ nhật đều đặn hơn, có nghĩa là nếu nhƣ phân
phối hơi cao hơn gần với gốc hơn và hơi thấp hơn gần với lằn ranh nghèo hơn, thì
điều này có nghĩa là cái nghèo trở nên nghiêm trọng hơn. Mặc dù có cùng số lƣợng
ngƣời rơi xuống dƣới lằn ranh nghèo nhƣng tổng số thu nhập mà họ cần để vƣơn tới
lằn ranh nghèo thì lớn hơn. Khoảng cách nghèo (PG) nắm bắt đƣợc những khác biệt
này, và có thể tính toán nhƣ sau
PG = [(PL – MC) / PL] x HI
trong đó PL là lằn ranh nghèo, MC là tiêu thụ trung bình tính trên đầu ngƣời của tất cả
cá thể ở dƣới lằn ranh nghèo, và HI là chỉ số đếm đầu ngƣời. Số hạng trong ngoặc của
phƣơng trình cho thấy một cách tƣơng đối ngƣời nghèo trung bình nằm ở cách lằn
ranh nghèo bao xa; chỉ số đếm đầu ngƣời HI sau đó tính chung số lƣợng này với tỷ lệ
phần trăm của ngƣời nghèo trong dân số. Khoảng cách nghèo, một thƣớc đo cần bao
nhiêu thu nhập để đem ngƣời nghèo đến với lằn ranh nghèo, tăng lên khi mức tiêu thụ
trung bình của ngƣời nghèo càng cách xa lằn ranh nghèo và phần chia của dân số mà
nằm dƣới lằn ranh nghèo càng cao.
NGHÈO BAO NHIÊU?
Hình 6-5 cho thấy một tập hợp các ƣớc tính nhất quán của hai nhà kinh tế học
của Ngân hàng Thế giới Shaohua Chen và Martin Ravallion về xu hƣớng ở thế giới
nghèo giữa năm 1981 và 2001. Sử dụng lằn ranh nghèo “1 đô-la một ngày”, thì thấy
D. Perkins et al. 19 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

có tin tốt lành là số ngƣời sống ở mức nghèo tuyệt đối đã giảm bớt 400 triệu ngƣời, từ
1,48 tỷ xuống còn 1,09 tỷ. Còn ngoạn mục hơn nữa là phần chia của đa số các quốc
gia đang phát triển dƣới chuẩn này đã giảm từ 40% xuống còn 21% chỉ trong hai thập
niên. Điều này cho thấy đã có một thành tựu lớn khó tin trong quá trình giảm bớt sự
thiếu thốn của con ngƣời. Tin xấu là 1,09 tỷ ngƣời nghèo vẫn còn đang chiếm tỷ lệ cứ
5 thì có 1 ngƣời hiện đang sống trong các quốc gia thu nhập thấp và trung bình. Quan
sát kỹ hơn những mô hình khu vực thì thấy tình hình lâm vào cảnh nghèo mang tính
cục bộ và không đều. Hầu nhƣ toàn bộ sự giảm nghèo đều xảy ra ở Đông Á, và bên
trong Đông Á thì phần lớn có sụt giảm là nhờ vào thành công của Trung Quốc. Phân
nửa thành công của Trung Quốc – đƣa trên 200 triệu ngƣời dân Trung Quốc vƣợt lên
mức “1 đô-la một ngày” – xảy ra trong chỉ ba năm, từ 1981 đến 1984. Sau đó phải
mất trên 15 năm nữa mới đƣa đƣợc thêm 200 triệu ngƣời Trung Quốc lên khỏi lằn
ranh nghèo. Nhiều nhà quan sát truy nguyên sự thành công đạt đƣợc từ 1981 đến 1984
nhờ cải cách kinh tế bắt đầu vào cuối thập niên 1970. Những cải cách này đã bãi bỏ
hợp tác hóa nông nghiệp và khuyến khích các hộ gia đình nông dân sản xuất và đƣa ra
thị trƣờng sản phẩm của họ, kéo họ thoát khỏi cảnh nghèo khó.

Mức nghèo của thế giới


Triệu người

Năm

Hình 6-5 Số người sống dưới “1 đô-la một ngày”


Nguồn: Shoahua Chen và Martin Ravallion, “Ngƣời nghèo nhất của thế giới ra sao kể từ đầu thập niên
1980?” World Bank Research Observer 19, số 2 (2004).

Tình hình giảm nghèo xảy ra rất ngoạn mục ở khắp tất cả khu vực Đông Á,
giảm nhiều nhất là ở Malaysia, Nam Triều Tiên, Đài Loan, và Thái Lan. Nhƣng xét
theo nghĩa tuyệt đối, nếu tính đến số lƣợng dân số khổng lồ của Trung Quốc thì thành
công của Trung Quốc thống trị cả toàn cầu. Để so sánh thì Nam Á tuy có Ấn Độ
thống trị nhƣng tình hình thấy ít có cải thiện. Mức giảm chỉ có 40 triệu ngƣời chứ
không phải là 420 triệu nhƣ ở Đông Á. Ở Châu Phi vùng Hạ Sahara thì xu thế đi
ngƣợc lại. Trong khi dân số của khu vực này tăng thì tình trạng nghèo tuyệt đối cũng

D. Perkins et al. 20 Biên dịch: Lê Việt Ánh


Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

tăng theo, từ 164 triệu trong năm 1981 lên đến 313 triệu ngƣời trong năm 200117.
Những xu thế trong các khu vực khác góp phần rất ít cho toàn cảnh vì hai lý do: lƣợng
dân số tƣơng đối ít và, vì chủ yếu là các quốc gia thu nhập trung bình, phần chia của
dân số sống ở mức “1 đô-la một ngày” đã và đang ở mức thấp.
Trong năm 1981, các quốc gia thu nhập thấp và trung bình có tổng dân số cả
thảy là 3,7 tỷ ngƣời. Đến năm 2001 dân số ấy đã tăng thành 5,2 tỷ. Thế nhƣng số
lƣợng nghèo tuyệt đối không tăng thêm 1,5 tỷ mà lại giảm! Diễn biến ở các con số
tuyệt đối là một cách để đánh dấu tiến bộ trong cuộc chiến đấu chống tình trạng nghèo
tuyệt đối. Nhƣng đó không phải là cách duy nhất. Chỉ số đếm đầu ngƣời cho thấy cái
nghèo liên quan đến lƣợng dân số và thể hiện rõ thông tin tốt hoặc xấu về cái nghèo
(Bảng 6-3). Trong năm 1981, chỉ số đếm đầu ngƣời của Trung Quốc là 64%; đến năm
2001 chỉ số đó giảm xuống chỉ còn 17%. Ở Nam Á, tình hình nghèo cũng giảm đáng
kể, từ trên 50% một chút giảm xuống còn 31%. Châu Phi vùng Hạ Sahara thì có tăng
chút đỉnh. Khi chỉ số đếm đầu ngƣời vẫn ở mức từ thấp cho đến khoảng giữa 40% thì
dân số tăng nhanh của Châu Phi đã khiến số dân sống dƣới “1 đô-la một ngày” tăng
lên gần gấp đôi. Châu Mỹ La-tinh cũng thành công có mức độ khi giảm đƣợc tỷ lệ
nghèo, nằm ở phạm vi 10%. Giai đoạn chuyển tiếp ở Đông Âu và Trung Á phản ánh
điều chúng ta đã biết ở Chƣơng 2. Tăng trƣởng kinh tế triệt tiêu trong thập niên 1990
và kết quả là cái nghèo tuyệt đối trong thập niên 1980 còn chƣa biết đến đã tăng
nhanh đạt đến con số ƣớc tính là 6% trong năm 1999, nhƣng rồi lại sụt giảm về mức
4% trong năm 2001.
Đối với thế giới nói chung thì tỷ lệ ngƣời chịu cảnh nghèo phải sống dƣới “1
đô-la một ngày” đã có chiều hƣớng giảm bớt. Có 40% thế giới đang phát triển hoặc,
cộng luôn các quốc gia đã phát triển, có 33% dân số toàn thế giới rơi xuống lằn ranh
nghèo dƣới “1 đô-la một ngày” trong năm 1981. Hai mƣơi năm sau, tỷ lệ này đứng ở
mức 21% trong thế giới đang phát triển và 18% của tổng dân số thế giới. Thậm chí
sau khi đã loại trừ thành công lịch sử của Trung Quốc thì cảnh nghèo cũng đã giảm
đáng kể ở nhiều nơi trên thế giới. Có thể có diễn biến tƣơng tự trong hai mƣơi năm
sắp tới hay không?
BẢNG 6-3 Nghèo tuyệt đối tính theo vùng, 1981-2001
CHỈ SỐ ĐẾM ĐẦU
SỐ NGƯỜI NGHÈO KHOẢNG CÁCH NGHÈO
NGƯỜI
VÙNG (triệu) (phần trăm) (phần trăm)
1981 1990 2001 1981 1990 2001 1981 1990 2001
Đông Á 796 472 271 58 30 15 21 8 3
(Một mình Trung Quốc) (634) (375) (212) (64) (33) (17) (23) (9) (3)
Nam Á 475 462 431 52 41 31 16 11 6
Châu Phi Hạ Sahara 164 227 313 42 45 46 17 19 21
Châu Mỹ La-tinh và Carribê 36 49 50 10 11 10 3 4 3
Trung Đông và Bắc Phi 9 6 7 5 2 2 1 <1 <1
Đông Âu và Trung Á 3 2 17 <1 <1 4 <1 <1 <1
Tổng cộng 1482 1219 1089 40 28 21 14 8 6
(Tổng cộng không tính thiếu thiếu thiếu
(848) (844) (877) (32) (26) (23)
Trung Quốc) số liệu số liệu số liệu
Ghi chú: Nghèo tuyệt đối là nói đến lằn ranh nghèo 1,08 đô-la một ngày (PPP 1993). Tổng nói đến những quốc gia
thu nhập thấp và trung bình mà thôi.
Nguồn: Shoahua Chen và Martin Ravallion, “Ngƣời nghèo nhất của thế giới ra sao kể từ đầu thập niên 1980?”
World Bank Research Observer 19, số 2 (2004).

Trƣớc khi cố trả lời câu hỏi này, ta cũng nên xem xét mức độ trầm trọng của
cái nghèo khi đo bằng khoảng cách nghèo (Bảng 6-3). Trong năm 1981, cái nghèo

17
Chen và Ravallion, “Ngƣời nghèo nhất của thế giới ra sao kể từ đầu thập niên 1980?” chỉ ra rằng những ƣớc
tính càng lâu chừng nào thì họ ít tin tƣởng vào kết quả chừng ấy vì thiếu số liệu của những cuộc khảo sát từ đầu
thập niên 1980. Điều này đặc biệt trong trƣờng hợp của Châu Phi. Xu hƣớng tiến về phía nghèo tuyệt đối ở Châu
Phi vùng Hạ Sahara thì không còn nghi ngờ gì nhƣng cƣờng độ của nó có thể chƣa chính xác.
D. Perkins et al. 21 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

tuyệt đối là rất trầm trọng ở hầu hết các khu vực đông dân của thế giới đang phát
triển. Ở Đông và Nam Á, cũng nhƣ Châu Phi vùng Hạ Sahara, khoảng cách nghèo là
từ 16 đến 21%. Nhƣng đến năm 2001 thì khoảng cách nghèo đã sụt giảm còn một con
số thập phân khắp mọi nơi trừ khu vực Châu Phi vùng Hạ Sahara thì lại tăng. Trên 1
tỷ ngƣời vẫn còn sống dƣới mức “1 đô-la một ngày” trong năm 2001, nhƣng phần lớn
đã tiến sát khá nhiều đến mức tiêu thụ gần nhƣ tối thiểu này. Thành công của Trung
Quốc khi hạ thấp khoảng cách nghèo từ 23 xuống còn 4% là một thành tựu đáng chú
ý trong lịch sử loài ngƣời. Trung Quốc cũng nắm giữ hứa hẹn về điều khả thi và do đó
cũng là điều mà những quốc gia ở Châu Phi có thể đạt đƣợc trong vài thập niên sắp
tới. Phần lớn châu Phi bắt đầu thế kỷ thứ hai mƣơi mốt bằng một khoảng cách nghèo
giống nhƣ mức của Trung Quốc hai mƣơi năm trƣớc. Tuy vậy, thách thức đang đối
mặt châu Phi thì lớn hơn. Trong năm 1981, Trung Quốc đã có mức phân phối thu
nhập bình đẳng hơn mức trung bình của phần lớn các quốc gia Châu Phi. Do đó, tỷ lệ
tăng trƣởng của Châu Phi cần phải nhanh hơn Trung Quốc hoặc chính sách tái phân
phối phải lớn hơn để tỷ lệ nghèo tuyệt đối giảm xuống nhanh đồng loạt. Rất khó hình
dung ra kết quả nhƣ vậy. Trung Quốc thụ hƣởng đƣợc một thời kỳ chuyển đổi kinh tế
mà đã mang lại tiến bộ kinh tế khổng lồ. Thật khó thấy đƣợc ở Châu Phi một điều
tƣơng tự nhƣ Trung Quốc khi chuyển mình từ chế độ chủ nghĩa xã hội sang kinh tế thị
trƣờng có tiềm lực mang lại tỷ lệ tăng trƣởng sản lƣợng đạt gần đến hai chữ số thập
phân. Tiến trình giảm nghèo tuyệt đối ở Châu Phi vùng Hạ Sahara vẫn còn là một
thách thức vô cùng lớn đối với các quốc gia Châu Phi cũng nhƣ cộng đồng quốc tế.
Những ý kiến bất đồng về mức nghèo tuyệt đối
Vì ƣớc tính mức nghèo tuyệt đối trên thế giới là rất phức tạp nên ta không
ngạc nhiên khi thấy không phải ai cũng nhất trí về những con số. Một số ngƣời chỉ
trích các con số đƣa ra quá thấp, một số thì lại cho là quá cao. Một nhóm lời chỉ trích
liên quan đến cách chọn ra lằn ranh nghèo; còn những lời chỉ trích khác thì nhắm vào
số ngƣời rơi xuống dƣới mức “1 và 2 đô-la một ngày.”
Tính chất hơi chủ quan khi định ra mọi lằn ranh nghèo cũng đã đƣợc xác nhận.
Có phải ngƣời sống ít hơn “1 đô-la một ngày” thì nghèo trong khi ngƣời tiêu thụ chỉ
trên “1 đô-la một ngày” một chút thì không nghèo? Một số nhà bình luận cũng thấy “1
đô-la một ngày” rõ ràng là một ngƣỡng quá thấp khó dùng để định nghĩa cái nghèo
tuyệt đối trên phạm vi toàn cầu. Giới hạn “1 đô-la một ngày” đã đƣợc diễn dịch là “vô
cùng nghèo,” thậm chí là “bần cùng,” và có thể thấp quá khó dùng làm chuẩn hợp lý
để vận dụng chính sách giảm nghèo. Những ngƣời khác cũng đã chỉ trích điều mà họ
gọi là bản chất đặc biệt chủ quan của lằn ranh nghèo “1 đô-la một ngày.” Họ lập luận
rằng sử dụng một lằn ranh nghèo cho toàn cầu thì khó khớp với lằn ranh nghèo của
từng quốc gia cụ thể và do đó xác định một lằn ranh nghèo mà có thể không phù hợp
với gói hàng hóa mà ngƣời nghèo cần mua để đạt đƣợc các nhu cầu căn bản của
mình18. Lập luận sau này rất đúng với những quốc gia thu nhập trung bình nơi có lằn
ranh nghèo thƣờng ở trên mức “1 đô-la một ngày.” Còn một số ngƣời khác nữa cho
rằng thậm chí “2 đô-la một ngày” cũng là một ngƣỡng quá thấp khó đƣợc dùng để xác
lập lằn ranh nghèo toàn cầu (Khung 6-2).

18
Xem T. N. Srinivasan cùng những ngƣời đóng góp khác cho bài “Đô-la một ngày: Vậy là bao
nhiêu?” trong tờ Focus, Trung tâm Phụ trách về Nghèo quốc tế, Chƣơng trình phát triển Liên Hiệp
Quốc (tháng 9/2004).
D. Perkins et al. 22 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

KHUNG 6-2 THÀNH PHẦN NÀO THÌ KHÔNG NGHÈO?


Nhà kinh tế học Lant Pritchett đưa ra lập luận không thể dùng hai mức “1 đô-la một
ngày” và “2 đô-la một ngày” làm thước đo hợp pháp cho cái nghèo toàn cầu được. Thay
vào đó ông đề nghị một lằn ranh nghèo không ít hơn 15 đô-la một ngày (2000,PPP),
gần sát với ranh giới bên dưới của lằn ranh nghèo ở các quốc gia thu nhập cao.
Pritchett lập luận như sau:
Vì nghèo là một khái niệm nên mỗi quốc gia nên được tự do đề ra định nghĩa về
nghèo cùng lằn ranh nghèo của quốc gia họ.... Nhưng để xác lập một chuẩn quốc
tế chung cho cái nghèo thu nhập – cho hoàn cảnh hình thành nên sự thiếu thốn
“khó chấp nhận được” trong hoàn cảnh sống của con người hoặc thu nhập “khó
chấp nhận được” trong một thế giới toàn cầu hóa – thì vô cùng bất công nếu một
người thì nghèo nếu sinh ra ở đất nước này mà lại không nghèo khi có một mức
thu nhập kém hơn đến mười lần nếu sinh ra ở một đất nước khác. Điều này có
nghĩa là trong khi Ấn Độ có thể định ra một lằn ranh nghèo cho phù hợp với năng
lực và hoàn cảnh của họ và Hoa Kỳ có thể định ra một lằn ranh nghèo khác, nhưng
nếu so sánh trên phạm vi quốc tế, khi chọn mức thấp hơn tức là có ý cho rằng điều
“khó chấp nhận” đối với một công dân Mỹ lại có thể chấp nhận đối với một con
người khác chỉ vì họ sinh sống ở một nơi khác.
Pritchett tiếp tục chỉ ra rằng cả hai mức “1 đô-la một ngày” và “2 đô-la một ngày” là hoàn
toàn không thích hợp với các mức tối thiểu có thể chấp nhận được về chỉ số lành mạnh
thể chất như tử suất của trẻ sơ sinh hay tình trạng đèo đẹt (số trẻ có chiều cao thiếu hai
mức lệch chuẩn kém hơn tiêu chuẩn y tế).
Pritchett đề nghị định nghĩa “1 đô-la một ngày” là “bần cùng,” “2 đô-la một ngày” là “vô
cùng nghèo,” và “15 đô-la một ngày” là nghèo toàn cầu. Ông kết luận, “Việc thay đổi
định nghĩa đơn giản này cho phép có sự liên tục và tương thích với những lượng định
về cái nghèo trước đây trong lúc vẫn ôm ấp một tầm nhìn dũng cảm mới về ước mơ
một thế giới không còn nghèo thật sự có ý nghĩa như thế nào.”
Nguồn: Lant Pritchett, “Thành phần nào thì không nghèo? Đề nghị một chuẩn nghèo cao hơn.”
CGD Tài liệu Công tác số 33, Trung tâm Phát triển Toàn cầu (tháng 11/2003)

Thừa nhận những chỉ trích trên đây nên Ngân hàng Thế giới cũng đã có báo cáo về
một lằn ranh nghèo “2 đô-la một ngày” (2,15 đô-la, PPP 1993), phù hợp hơn với
những chuẩn mà các nền kinh tế thu nhập trung bình áp dụng. Ở mức “2 đô-la một
ngày” thì tình hình nghèo trên thế giới dĩ nhiên tăng cao hơn mức “1 đô-la một ngày.”
Trong năm 2001, có 2,7 tỷ ngƣời, có nghĩa là hơn phân nửa dân số của những nền
kinh tế thu nhập thấp và trung bình rơi xuống dƣới lằn ranh nghèo này. Những chỉ số
đếm đầu ngƣời vọt lên đến 77% ở Nam Á và Châu Phi vùng Hạ Sahara. Trung Quốc
đứng ở mức 47% và châu Mỹ La-tinh là 25%. Khi so sánh các khu vực trên thế giới,
nếu áp dụng mức “2 đô-la một ngày” thì tình hình nghèo ở Châu Phi vùng Hạ Sahara
là trầm trọng nhất (khu vực này có khoảng cách nghèo cao nhất), nhƣng số ngƣời
nghèo ở tất cả các khu vực của châu Á vẫn còn cao gấp 3 lần so với Châu Phi vùng
Hạ Sahara (Hình 6-6). Ở phạm vi toàn cầu thì đã đạt đƣợc tiến bộ kể từ năm 1981, khi
tỷ suất thu nhập thấp và trung bình “2 đô-la một ngày” so với đầu ngƣời là 67%,
nhƣng mức giảm thì kém hơn so với chuẩn “1 đô-la một ngày.” Động thái “gộp
chung” những ngƣời nằm ở giữa “1 đô-la đến 2 đô-la một ngày” cho thấy rõ mức độ
dễ bị tác động của quá nhiều ngƣời trên thế giới khi đối mặt với khủng hoảng kinh tế
ở cả phạm vi hộ gia đình lẫn phạm vi toàn cầu. Rơi xuống mức nghèo cùng cực là một
thực tế đối mặt với hàng trăm triệu ngƣời.

D. Perkins et al. 23 Biên dịch: Lê Việt Ánh


Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

Trung Đông, Đông Âu,


Bắc Phi 3% Trung Á 3%
Châu Mỹ
La-tinh và
Caribê 5%

HÌNH 6-6 Phân phối theo vùng người sống dưới lằn ranh nghèo “2 đô-la một ngày”, 2001
Nguồn: Shoahua Chen và Martin Ravallion, “Ngƣời nghèo nhất của thế giới ra sao kể từ đầu thập niên 1980?”
World Bank Research Observer 19, số 2 (2004).

Mặc dù không ai tranh cãi bản chất phổ biến của cái nghèo tuyệt đối cũng nhƣ
mức trầm trọng của vấn đề ở Châu Phi, nhƣng vẫn còn có tranh cãi ở cƣờng độ của
nó. Nhà kinh tế học Xavier Sal-i-Martin cùng những ngƣời khác sử dụng ngƣỡng “1
và 2 đô-la một ngày” nhƣng lại tuyên bố rằng ƣớc tính của Ngân hàng Thế giới về số
lƣợng bao nhiêu ngƣời rơi xuống dƣới lằn ranh nghèo là quá cao 19. Thay cho ƣớc tính
của Ngân hàng Thế giới là có trên 1 tỷ ngƣời nghèo trong năm 2001, Sala-i-Martin
xác định chỉ có 3,5 triệu ngƣời hiện đang sống dƣới mức “1 đô-la một ngày” trong
năm 1998 là năm gần nhất trong nghiên cứu của ông mà thôi. Tỷ lệ đếm đầu ngƣời
của Ngân hàng Thế giới là 18% trong khi của Sala-i-Martin chỉ là 7%. Đây là chênh
lệch đáng kể khó xích lại gần nhau đƣợc. Một số chênh lệch là do Sala-i-Martin sử
dụng dữ liệu về thu nhập chứ không phải về tiêu thụ. Nếu cho lằn ranh nghèo là
không đổi thì những ƣớc tính về nghèo phải thấp hơn khi sử dụng thu nhập bởi vì xét
phạm vi tổng thể thì thu nhập luôn vƣợt quá tiêu thụ. Một khác biệt nữa là do Ngân
hàng Thế giới dựa vào những khảo sát hộ gia đình thay vì áp dụng dữ liệu thu nhập
quốc dân. Khảo sát hộ gia đình thƣờng cho ra mức tiêu thụ thấp hơn vì có thành kiến
hệ thống vì lý do những hộ gia đình có thu nhập khá hơn ít khi phản hồi những cuộc
khảo sát nhƣ vậy. Nhƣng những nhà nghiên cứu vẫn chƣa giải thích đƣợc khoảng
cách quá rộng trong những ƣớc tính dựa trên các nguồn dữ liệu khác nhau này. Điều
ngƣời ta biết chắc là hai cách thức này chỉ khác nhau ở mức độ chứ xu thế của cái
nghèo thì không khác. Cả hai cách thức đều phát hiện tỷ lệ nghèo đã giảm nhiều kể từ
năm 1980 ở Đông và Nam Á, và cả hai đều cho thấy rõ tình hình đang xấu đi ở Châu
Phi. Có thể rất khó xác định cụ thể số lƣợng chính xác những ngƣời đang đối mặt với
cái nghèo tuyệt đối nhƣng ít ai nghi ngờ rằng giảm bớt sự thiếu thốn cho con ngƣời
vẫn luôn là một thách thức cam go.
Thành phần nào thì nghèo?
Nếu ƣớc tính của Ngân hàng Thế giới mà đúng và gần nhƣ cứ 5 ngƣời Châu Phi và
Nam Á thì có 4 sống dƣới lằn ranh nghèo “2 đô-la một ngày” thì xác định ngƣời
19
Xavier Sala-i-Martin, “Phân phối thu nhập thế giới,” Tài liệu NBER số 8933 (tháng 5/2002) và Surji
Bhalla, Tưởng tượng không còn quốc gia – cái nghèo, bất bình đẳng và tăng trưởng trong thời đại toàn
cầu hóa (Washington, DC: Viện Kinh tế học quốc tế, 2002).
D. Perkins et al. 24 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

không nghèo có thể dễ dàng hơn xác định ngƣời nghèo. Đây là câu trả lời mang tính
chất hoài nghi cho câu hỏi “thành phần nào thì nghèo”? Cho dù đa số dân Châu Phi và
Nam Á đang sống trong những điều kiện rõ là nghèo, thì một số sống dƣới lằn ranh
nghèo rất xa và nghèo hơn những ngƣời khác nhiều. Có những đặc điểm về định
nghĩa tình trạng vô cùng nghèo.
Tỷ lệ nghèo ở nông thôn có xu hƣớng cao hơn thành thị. Điều này có thể làm
cho ngƣời quan sát hời hợt thấy ngạc nhiên khi đối chiếu hình ảnh những làng quê có
không gian rộng lớn cùng những bố trí mái tranh cùng nhà ở rất đẹp mắt với sự bầy
hầy của đô thị, chật chội chen chúc và hình nhƣ không có tổ chức nề nếp gì cả ở
những khu tồi tàn và lụp xụp20 rất phổ biến ở các đô thị lớn trong các quốc gia thu
nhập thấp và trung bình. Điều mà ngƣời quan sát hời hợt chƣa thấy chính là sự thiếu
vắng cơ hội ở khu vực nông thôn. Có ít cách kiếm thu nhập hơn, ít học vấn và chăm
sóc y tế hơn, và thƣờng bị tác động bởi thời tiết cùng các thế lực thiên nhiên hơn.
Nhiều cá thể thƣờng chọn cách rời bỏ miền quê để gia nhập các khu ổ chuột của thành
phố bởi vì có nhiều cơ hội kinh tế hơn khu vực đô thị. Bên trong khu vực nông thôn,
cái nghèo thƣờng phổ biến nhất ở các lao động phổ thông không ruộng đất hoặc đối
với khu vực Châu Phi vùng Hạ Sahara là ngƣời không có đồng cỏ chăn thả.
Ngoài khác biệt giữa nông thôn-thành thị ra, thì tỷ lệ nghèo cũng biến thiên
theo các vùng bên trong một quốc gia. Hai ví dụ là vùng Đông Bắc của Brazil và bang
Utter Pradesh của Ấn Độ, là hai cái túi nghèo sát đất và dai dẳng nhất suốt nhiều thập
niên qua. Cái nghèo dai dẳng của vùng phản ánh những hạn chế của việc phân phối
phát triển giữa các vùng và những giới hạn khắt khe mà cá nhân phải chịu khi trốn cái
nghèo bằng cách di cƣ từ vùng này sang vùng khác. Cái nghèo cũng mang bộ mặt
chủng tộc và thiểu số. Các giai cấp hạ đẳng ở Ấn Độ, một số dân tộc thiểu số ở Đông
Âu, và những nhóm thổ dân ở vùng núi Andes tất cả đều đã chịu cảnh nghèo vƣợt quá
những ngƣời khác trong xã hội.
Phụ nữ có nghèo hơn nam giới?
Muốn quan sát cái nghèo từ quan điểm giới tính thì yêu cầu phải xét đến phân phối
bên trong hộ gia đình, tức là cách phân chia tài nguyên bên trong các đơn vị gia đình.
Phần lớn nghiên cứu về vai trò và cơ hội ở các quốc gia đang phát triển và phát triển
kết luận rằng phụ nữ bị thua thiệt hơn nam giới trong nhiều phƣơng diện21. Phụ nữ ít
có quyền về tài sản, kể cả sở hữu đất đai và thƣờng bị tƣớc quyền thừa kế. Con gái
thƣờng ít nhận đƣợc giáo dục tiểu học và trung học hơn con trai, mặc dù ở nhiều quốc
gia và khu vực thì điều này không còn tồn tại. Thị trƣờng lao động có xu hƣớng kỳ thị
phụ nữ, làm cùng công việc giống nhau nhƣng đƣợc trả lƣơng ít hơn nam giới. Cộng
công việc làm ở nhà và công việc làm để kiếm thu nhập thì phụ nữ tính ra thƣờng lao
động nhiều giờ hơn trong tuần. Bạo lực gia đình đối với phụ nữ vẫn rất phổ biến. Việc
lựa chọn giới tính thiên về sinh con trai hơn con gái ở nhiều nơi trên thế giới.
Nếu xét đến những bất lợi trên thì cảnh nghèo của phụ nữ là quá rõ. Nhƣng
thật ra không phải vậy. Những đo lƣờng về tiêu thụ cá nhân thƣờng đƣợc dựa trên dữ
liệu hộ gia đình, và khó mà phân biệt rạch ròi ai tiêu thụ cái gì bên trong gia đình. Một
số hàng hóa, kể cả nhà ở, thì đƣợc tiêu thụ chung. Do thiếu dữ liệu về tiêu thụ cá nhân
xét theo giới tính nên một số nghiên cứu so sánh tỷ lệ nghèo giữa các hộ gia đình với
nhau mà do đàn ông hoặc phụ nữ làm chủ. Kết quả vẫn chƣa thống nhất. Một số loại
hình gia đình do phụ nữ làm chủ thì rất chật vật. Ở nhiều nơi trên thế giới, với những
quả phụ không có con trai nối dõi (Ấn Độ) và những phụ nữ lớn tuổi sống nhờ tiền

20
Nguyên văn favela chỉ vùng sƣờn đồi Morro de Favela ở Rio de Janeiro, Brazil, nơi những nô lệ
đƣợc phóng thích thành lập một cộng đồng những ngƣời chiếm ngụ vào cuối thế kỷ thứ 19. Theo thời
gian từ này đƣợc áp dụng để mô tả bất kỳ khu ổ chuột nào ở thành thị, đặc biệt ở châu Mỹ La-tinh.
21
Thảo luận này rút ra từ Ngân hàng Thế giới, Phát triển theo giới tính (Washington, DC: Oxford
University Press, 2001).
D. Perkins et al. 25 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

hƣu trí (Đông Âu) thì tỷ lệ nghèo rất cao. Nhƣng có những hộ gia đình do phụ nữ làm
chủ khác, tính luôn những phụ nữ không lập gia đình làm việc trong khu vực đô thị
hay phụ nữ có chồng lao động ở nƣớc ngoài và gởi kiều hối về thì có thể nằm trong tỷ
lệ kém hơn mức nghèo bình quân một chút. Những nghiên cứu về dinh dƣỡng đánh
giá mức thỏa mãn nhu cầu của phụ nữ so với nam giới phát hiện một số bằng chứng
thiếu thốn tƣơng đối của phụ nữ nhƣng kết quả biến thiên rất lớn giữa các vùng và bên
trong các quốc gia. Dù còn thiếu bằng chứng về cái nghèo của phụ nữ nhƣng khó mà
tƣởng tƣợng đƣợc rằng giảm bất bình đẳng giới tính lại không giúp giảm nghèo của
trẻ em gái trai và của phụ nữ cùng nam giới.
CÁC CHIẾN LƯỢC GIẢM NGHÈO
Báo cáo Phát triển Thế giới cho năm 1990 của ngân hàng Thế giới không chỉ ƣớc tính
khối lƣợng nghèo của thế giới mà còn phác thảo một chiến lƣợc nhằm giảm nghèo
trên toàn cầu. Chiến lƣợc có hai phần: (1) thúc đẩy tăng trƣởng kinh tế theo hƣớng thị
trƣờng và (2) cung cấp dịch vụ y tế và giáo dục căn bản cho ngƣời nghèo. Tăng
trƣởng kinh tế theo hƣớng thị trƣờng bao gồm nhiều đề nghị quen thuộc của “Thỏa
thuận chung Washinton”: ổn định kinh tế vĩ mô, mở cửa kinh tế rộng rãi hơn nữa để
đón thƣơng mại và đầu tƣ, tăng mức đầu tƣ công vào cơ sở hạ tầng, cải thiện thị
trƣờng tín dụng, và v.v… Kết hợp lại thì những chính sách này sẽ dẫn đến tăng nhu
cầu lao động, mà rất có lợi cho ngƣời nghèo vì tài sản chủ yếu mà ngƣời nghèo dựa
vào là chỉ có sức lao động mà thôi. Phần thứ hai của chiến lƣợc đòi hỏi đầu tƣ vào con
ngƣời. Hƣớng các dịch vụ y tế và giáo dục nhà nƣớc đến với ngƣời nghèo sẽ làm tăng
năng suất của họ và do đó góp phần vào việc giảm nghèo. Một phần thứ ba nhƣng ít
đƣợc nhấn mạnh là phát triển những mạng lƣới an sinh xã hội để giúp những ngƣời
không tận dụng đƣợc các cơ hội thị trƣờng. Nhóm ngƣời này bao gồm ngƣời bệnh và
ngƣời già nhƣng cũng tính luôn tất cả những ai phải hứng chịu những cú sốc hệ thống
nhƣ thiên tai hay khủng hoảng kinh tế vĩ mô.
Tăng trƣởng kinh tế đóng vai trò trọng tâm trong chiến lƣợc giảm nghèo đƣợc
Ngân hàng Thế giới đề nghị trong WDR 1990 và cả văn bản theo sau đó trong năm
2000-2001. Nhƣng cũng có những tiếng nói bất đồng. Năm 1996, Chƣơng trình Phát
triển Liên Hiệp Quốc (UNDP), một tổ chức đa phƣơng khác chuyên giải quyết những
khó khăn về phát triển, đã trình bày trong ấn phẩm chủ lực của mình là Báo cáo Phát
triển Con người nhƣ sau: “Những nhà hoạch định chính sách thƣờng bị mê hoặc bởi
khối lƣợng tăng trƣởng. Họ cần phải quan tâm nhiều hơn đến cơ cấu và chất lƣợng.”
Báo cáo tiếp tục xác định những vấn đề khó khăn về tăng trƣởng kinh tế mà “thất
nghiệp – khi nền kinh tế về tổng thể thì tăng nhƣng không mở mang đƣợc cơ hội nghề
nghiệp”; “tàn nhẫn – khi những thành quả của tăng trƣởng kinh tế chủ yếu chỉ có lợi
cho ngƣời giàu, để hàng triệu ngƣời vẫn phải vật lộn với cái nghèo thâm căn dai
dẳng”; “không tiếng nói – khi tăng trƣởng trong nền kinh tế không kèm theo sự mở
mang dân chủ hay chuyển trao quyền lực”; “thiếu căn cơ – khiến cho bản sắc văn hóa
của con ngƣời phải héo mòn”; và “không tương lai – khi thế hệ hiện tại nhũng lạm tài
nguyên mà các thế hệ tƣơng lai rất cần đến.”22
Báo cáo của UNDP nêu lên rất nhiều mối quan ngại. Một trong số đó là đặt
nghi vấn phải chăng (hoặc thƣờng đƣợc hay không) tăng trƣởng kinh tế là tốt cho
ngƣời nghèo, hay phải chăng những lợi ích có khả năng tập trung vào ngƣời giàu
nhiều hơn. Những tính toán căn bản về tăng trƣởng, phân phối, và cái nghèo cho thấy
rằng thông thƣờng thì tăng trƣởng lẽ ra phải tốt cho ngƣời nghèo. Ở đầu chƣơng này,
ta đã thấy bất bình đẳng không tăng theo với tăng trƣởng kinh tế một cách hệ thống.
Điều này cho thấy trong phần lớn trƣờng hợp tăng trƣởng lẽ ra phải có lợi cho ngƣời
nghèo cũng nhƣ có lợi cho mọi ngƣời khác trong xã hội. Chừng nào mà GDP tăng
22
Chƣơng trình Phát triển Liên Hiệp Quốc, Báo cáo phát triển con người, 1996 (New York: Oxford
University Press, 1996), 3-4.
D. Perkins et al. 26 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

nhanh hơn dân số thì thu nhập bình quân bên trong những nhóm ngũ phân thƣờng
cũng tăng. Rất nhiều nghiên cứu ủng hộ kết luận này.
“Tăng trưởng là tốt cho người nghèo”
Hình 6-7 tái hiện dữ liệu từ một trong những nghiên cứu này23. Mỗi quan sát đƣa ra so
sánh tăng trƣởng ở thu nhập của ngƣời nghèo, ở đây đƣợc xác định là con số 20%
dƣới đáy của phân phối thu nhập, tƣơng quan với tổng tăng trƣởng kinh tế (tăng
trƣởng tính theo GDP trên đầu ngƣời). Mỗi quan sát liên quan đến một kỳ tăng trƣởng
là 5 năm hoặc hơn ở một quốc gia cụ thể. Trong nhiều trƣờng hợp có nhiều hơn một
quan sát dành cho một quốc gia. Điều này xảy ra khi có thông tin về phân phối thu
nhập trong nhiều năm. Các kỳ tăng trƣởng có thời gian trung bình là 6 năm. Những kỳ
này diễn ra giữa năm 1956 đến 1999, mà phần lớn là trong thập niên 1980 và 1990.
Không phải mọi quốc gia đều đƣợc trình bày trong bộ dữ liệu, nhƣng có dữ liệu khá
đầy đủ về khu vực và cho toàn thể dân số thế giới24.
Tăng trƣởng trung bình hàng năm tính theo thu nhập trên đầu
ngƣời, nhóm ngũ phân nghèo nhất (%/năm)

Tăng trƣởng trung bình hàng năm tính theo thu nhập trên đầu ngƣời (%/năm)

HÌNH 6-7 Phải chăng tăng trưởng là tốt cho người nghèo?

Nguồn: David Dollar và Aart Kraay, “Tăng trƣởng là tốt cho ngƣời nghèo.” Journal of Economic
Growth (tháng 9/2002), xem tại (Dataset),
econ.worldbank.org/external/default/main?theSitePK=477872&contentMDK=20355294&menuPK=836389&page
PK=64168182&piPK=64168060, truy cập tháng 7/2005.

Xu hƣớng trong Hình 6-7 thống nhất với quan điểm cho rằng tăng trƣởng
thƣờng là tốt cho ngƣời nghèo. Đƣờng hồi quy có độ dốc tích cực là 1,2, cho thấy
rằng, tính trung bình, thu nhập của ngƣời nghèo tăng cùng tốc độ với GDP tính trên
đầu ngƣời. Độ dốc ƣớc tính thì lớn hơn 1,0, có nghĩa là nếu GDP tính trên đầu ngƣời

23
David Dollar và Aart Kraay, “Tăng trƣởng là tốt cho ngƣời nghèo.” Journal of Economic Growth 7
số 3 (2002). Những nghiên cứu trƣớc đó mà cũng đạt đƣợc những kết luận tƣơng tự là bài của Michael
Roemer và Mary Kay Gugerty, “Tăng trƣởng kinh tế có giảm nghèo không?” Bài thảo luận số 5
CAER, Harvard Institute for International Development (1997); và John Gallup, Steve Radelet, và
Andrew Warner, “Tăng trƣởng kinh tế và thu nhập của ngƣời nghèo,” Bài thảo luận số 36 CAER
Harvard Institute for International Development (1999).
24
Xuất phát từ nghiên cứu gốc thì những nền kinh tế OECD không đƣợc tính tới cũng nhƣ một số
ngoại lệ thống kê khác.
D. Perkins et al. 27 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

tăng, ví dụ nhƣ ở mức 5% thì đƣờng hồi quy dự báo thu nhập của ngƣời nghèo sẽ tăng
đƣợc 6%. Nhìn vào chênh lệch ở kết quả, phần lớn quan sát nằm ở miền một phần tƣ
nơi tăng trƣởng tính theo thu nhập đầu ngƣời giáp với tăng trƣởng ở thu nhập của
ngƣời nghèo là rất tích cực. Miền này có thể chia nhỏ thành hai phần. Kết quả của hơn
phân nửa quan sát nằm ở phía trên đƣờng 450 (không thấy trong hình) nơi thu nhập
của ngƣời nghèo tăng nhanh hơn thu nhập trung bình. Tăng trƣởng vẫn “tốt cho ngƣời
nghèo” ở những quan sát nằm phía dƣới đƣờng 450 nhƣng phía trên trục x. Trong
những trƣờng hợp này thì thu nhập của ngƣời nghèo tăng với tỷ lệ hơi kém hơn phần
còn lại của nền kinh tế.
Quay trở lại Hình 6-7, ta thấy còn có những trƣờng hợp tăng trưởng bần
cùng hóa, tình huống khi ngƣời nghèo thấy thu nhập bình quân của mình giảm sút
mặc dù có tăng trƣởng kinh tế. Mối quan ngại của UNDP về tăng trƣởng tàn nhẫn
trong một số trƣờng hợp hình nhƣ rất có cơ sở. Cứ trong khoảng 5 trƣờng hợp tăng
trƣởng kinh tế tích cực thì có một trƣờng hợp là mức thu nhập của ngƣời nghèo giảm.
Tuy nhiên, tăng trƣởng kinh tế nhanh lại làm giảm những hậu quả nhƣ vậy xuống mức
tối thiểu. Ở những dữ liệu này, khi tăng trƣởng vƣợt quá 5% thì chỉ có 2 trƣờng hợp là
bị tăng trƣởng bần cùng hóa25. Tăng trƣởng nhanh hình nhƣ đặc biệt tốt cho ngƣời
nghèo cũng nhƣ ngƣời không nghèo. Trƣờng hợp ngƣợc lại cũng đúng. Ngƣời nghèo
đặc biệt dễ bị tác động trong giai đoạn suy thoái kinh tế. Điều này thể hiện ở miền
phần tƣ phía dƣới bên trái, nơi có nhiều kết quả quan sát nằm rất xa dƣới đƣờng hồi
quy (một con số đáng kể ở Đông Âu và Trung Á ở cuối thập niên 1980 và đầu thập
niên 1990). Mặc dù có những ngoại lệ quan trọng nhƣng ghi nhận thực tế cho thấy
tăng trƣởng kinh tế thƣờng có lợi cho ngƣời nghèo hơn là bỏ ngƣời nghèo lại phía sau.
Tăng trưởng có khi chưa đủ
Trọng tâm tăng trƣởng kinh tế nhằm đạt đƣợc phát triển kinh tế là chủ đề chính của
cuốn sách này, cũng giống nhƣ vai trò của thị trƣờng là đạt đƣợc tăng trƣởng kinh tế
nhanh vậy. Nhƣng trong một số tình huống, để giảm cái nghèo tuyệt đối có thể cần
thứ khác nữa chứ không phải chỉ tăng trƣởng kinh tế và thế lực thị trƣờng mà thôi.
Trƣớc hết, có những trƣờng hợp nhƣ vừa mới xác định ở trên, khi lợi ích của nhóm
ngũ phân dƣới đáy sụt giảm bất chấp GDP tính trên đầu ngƣời tăng. Đây là những
trƣờng hợp khi mà kèm theo tăng trƣởng kinh tế là sự gia tăng bất bình đẳng trong thu
nhập quá lớn đến nỗi mọi lợi ích tiềm năng dành cho ngƣời nghèo nhờ GDP tính trên
đầu ngƣời đang gia tăng lại bị đảo ngƣợc. Những nhà nghiên cứu chƣa xác định đƣợc
mô hình tăng trƣởng hoặc loại hình chính sách nhà nƣớc nào có thể nêu đặc trƣng
những ngoại lệ trần trụi đối với “tăng trƣởng thì tốt cho ngƣời nghèo” này.
Thứ hai, ta nhận thấy dữ liệu ở Hình 6-7 dựa trên một thƣớc đo tình trạng
nghèo tƣơng đối chứ không phải là nghèo tuyệt đối. Trục tung đo những thay đổi nơi
thu nhập trung bình của nhóm 20% dƣới đáy, chứ không phải những thay đổi ở chỉ số
đầu ngƣời hay khoảng cách nghèo dựa trên lằn ranh nghèo “1 và 2 đô-la một ngày”.
Đây mới là sự khác biệt. Cứ tƣởng tƣợng một nền kinh tế nơi mà thu nhập bình quân
thì thấp và bất bình đẳng lại cao. Nếu nhóm 20% dƣới đáy chỉ thụ hƣởng đƣợc từ 2
đến 3% tổng thu nhập nhƣ ở nhiều quốc gia ở châu Mỹ La-tinh hay phía Nam Châu
Phi thì lợi ích của ngƣời nghèo cũng chẳng hề tiến triển đƣợc bao nhiêu cho dù thu
nhập của nhóm ngũ phân nghèo nhất cũng tăng cùng một mức nhƣ thu nhập bình
quân. Rất ít ngƣời nghèo vƣợt qua đƣợc lằn ranh nghèo, bởi vì phần chia thu nhập ban
đầu dành cho họ thì quá thấp. Khi mức bất bình đẳng cao làm giảm hơn nữa triển
vọng tăng trƣởng kinh tế nhiều hơn thì tình hình của ngƣời nghèo lại càng tồi tệ hơn.
Những trƣờng hợp tăng trƣởng bần cùng hóa và bất bình đẳng thu nhập đủ cao
để tăng trƣởng mang lại lợi ích èo uột thì không xảy ra thƣờng xuyên. Có một tình

25
Hai trƣờng hợp đó là Puerto Rico (1963-1969) và Singapore (1978-1983).
D. Perkins et al. 28 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

huống thứ ba phổ biến hơn. Đó là khi những thay đổi về phân phối hạ thấp thành quả
giảm nghèo do tăng trƣởng kinh tế mang lại. Khu vực châu Mỹ La-tinh trong thập
niên 1990 đã có đƣợc tăng trƣởng kinh tế rất khiêm tốn, nhƣng theo đó là bất bình
đẳng trong thu nhập lại tăng lên. Cứ giả sử nhƣ chƣa có thay đổi nào trong mức độ bất
bình đẳng thì mức tăng trƣởng kinh tế đạt đƣợc dù khiêm tốn cũng đã có thể giảm số
ngƣời sống dƣới “2 đô-la một ngày” bớt đi 90 triệu ngƣời26. Nhƣng do bất bình đẳng
gia tăng trong thập niên 1990 nên số ngƣời sống trong nghèo khó chỉ giảm bớt đƣợc
45 triệu ngƣời mà thôi. Cái nghèo ở châu Mỹ La-tinh chắc hẳn còn sụt giảm nhiều
hơn nữa nếu nhƣ vừa có tăng trƣởng kinh tế vừa bớt đi mức độ bất bình đẳng.
Cuối cùng, dữ liệu ở Hình 6-7 trình bày các tỷ lệ tăng trƣởng. Thế nhƣng tăng
trƣởng tác động đến lượng tuyệt đối trong thu nhập mà những cá nhân ở các nhóm
ngũ phân khác thật sự nhận đƣợc nhƣ thế nào đây? Thậm chí khi tăng trƣởng trong
thu nhập của ngƣời nghèo vƣợt quá thu nhập của ngƣời giàu đi nữa thì các nhóm ngũ
phân có thu nhập cao vẫn thƣờng thụ hƣởng một mức gia tăng lớn hơn trong thu nhập
tuyệt đối. Đây là do một tỷ lệ phần trăm nhỏ của số đông luôn luôn tiêu biểu cho thu
nhập phụ trội nhiều hơn là một tỷ lệ phần trăm lớn hơn của số ít. Cứ xem xét trƣờng
hợp của Bangladesh và Mexico trình bày ở đầu chƣơng này. Nếu tăng trƣởng kinh tế
trung hòa về lĩnh vực phân phối (GDP tính trên đầu ngƣời tăng nhƣng bất bình đẳng
vẫn giữ nguyên) thì cứ tăng thêm đƣợc 100 ta-ka hay pê-sô vào tay một ngƣời thuộc
nhóm 20% dƣới đáy, thì tính trung bình một ngƣời ở nhóm 20% trên đỉnh lại thụ
hƣởng đƣợc thêm 450 ta-ka ở Bangladesh và 1.500 pê-sô ở Mexico. Nói cách khác,
thậm chí khi tăng trƣởng là tốt cho ngƣời nghèo, thì khoảng cách thu nhập tuyệt đối
giữa ngƣời giàu và ngƣời nghèo vẫn tiếp tục nới rộng. Nhƣng nhƣ vậy vẫn là đƣợc
cho ngƣời nghèo vì số ngƣời ở dƣới lằn ranh nghèo có sụt giảm.
Tăng trưởng thân người nghèo
Trong khi ngƣời ta càng chú ý đến cái nghèo toàn cầu, thể hiện ở Mục tiêu Phát triển
của Thiên niên kỷ nhắm đến năm 2015 thì cắt giảm đƣợc phân nửa số ngƣời sống
dƣới “1 đô-la một ngày”, những chuyên gia phát triển thƣờng nhắc đến nhu cầu dành
cho các chiến lƣợc hƣớng trọng tâm về cái nghèo (Khung 6-3). Đôi khi điều này đƣợc
nhắc đến với cái tên là tăng trưởng thân người nghèo. Đây chƣa phải là một từ đƣợc
định nghĩa rõ ràng. Tăng trƣởng thân ngƣời nghèo có khi còn đƣợc mô tả là tình
huống khi tăng trƣởng thu nhập của ngƣời nghèo nhanh hơn tăng trƣởng thu nhập
bình quân. Định nghĩa này có rắc rối ở chỗ nó thiên về một tình huống khi thu nhập
của ngƣời nghèo tăng ví dụ là 3% trong khi GDP tính trên đầu ngƣời lại tăng 2%, chứ
không phải tình huống khi thu nhập của ngƣời nghèo tăng 4% trong khi GDP tính trên
đầu ngƣời thì tăng 6%. Nhƣng tiến trình giảm nghèo lại diễn biến nhanh hơn trong
trƣờng hợp thứ hai. Đây không hẳn là một phân biệt giả định. Kinh nghiệm của Trung
Quốc phản ánh tình huống thứ hai.
Mặc dù chƣa đƣợc định nghĩa rõ ràng, nhƣng ít nhất ý đồ của tăng trƣởng thân
ngƣời nghèo rất hiển nhiên. Chính phủ làm đƣợc gì để đạt tăng trƣởng kinh tế mà có
thể nhanh chóng cải thiện lợi ích của ngƣời nghèo đây? Câu trả lời nằm ở sự nắm bắt
rõ hơn những mối tƣơng tác phức tạp giữa tăng trƣởng, bất bình đẳng, và cái nghèo.
Tăng trƣởng thân ngƣời nghèo không tiêu biểu cho một lựa chọn phải có giữa quan
điểm thân tăng trƣởng với quan điểm thân ngƣời nghèo. Chiến lƣợc này đòi hỏi kết
hợp tăng trƣởng nhanh hơn nữa với nhiều cơ hội hơn nữa cho ngƣời nghèo tham gia
vào tiến trình tăng trƣởng ấy. Vậy là phải cần đến các chính sách mà vừa thúc đẩy
tăng trƣởng vừa đối phó với bất bình đẳng để đạt đƣợc các mục tiêu trên.

26
“Có phải tăng trƣởng là đã đủ?” Latin American Economics Policies 14 (Inter-American
Development Bank, 2001).
D. Perkins et al. 29 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

KHUNG 6-3 TẠI SAO CÁC CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN CẦN TẬP TRUNG VÀO
NGƯỜI NGHÈO?
Trong một cuộc phỏng vấn xuất hiện trên tờ Tài chính và Phát triển, một tập san
của Quỹ Tiền tệ Quốc tế, nhà kinh tế học của Đại học Harvard Dani Rodrik đã phát biểu
hùng hồn về những chiến lược cải cách nhằm áp dụng một chính sách tập trung vào
tình trạng nghèo nàn.
Trước hết, khi xét đến phúc lợi xã hội thì phần lớn mọi người, đặc biệt là những
chính phủ được dân cử, đặt nặng lợi ích của người nghèo hơn lợi ích của người giàu.
Tỷ lệ tăng trưởng kinh tế không phải là con số thống kê đầy đủ để đánh giá phúc lợi vì
nó bỏ qua không chỉ mức thu nhập mà còn cả phân phối thu nhập nữa. Một chính sách
nhằm tăng thu nhập của người nghèo thêm một đồng ru-pi dù ít cũng có thể rất đáng
có, cho dù nó làm xã hội mất đi có thể nhiều hơn một ru-pi. Nhìn từ quan điểm này thì
hoàn toàn hợp lý và đúng đắn để chính phủ xem xét hai chiến lược tăng trưởng đối lập
nhau để chọn ra một mà có lợi hơn cho người nghèo, cho dù tác động của nó đối với
tổng tăng trưởng có thể ít được bảo đảm hơn.
Thứ hai, cho dù phúc lợi của người nghèo không được đặt quá nặng đi nữa, thì
những can thiệp nhằm giúp đỡ người nghèo có thể vẫn là một cách hiệu quả để tăng
mức thu nhập bình quân. Tình trạng nghèo nàn gắn liền rất tự nhiên với những lỗi lầm
và khiếm khuyết của thị trường. Người nghèo vẫn cứ nghèo vì họ không thể vay mượn
chút nào từ doanh lợi trong tương lai để đầu tư vào giáo dục, kỹ năng, mùa màng mới,
và hoạt động doanh thương. Họ bị tách khỏi hoạt động kinh tế vì họ thiếu thốn nhiều
hàng hóa tập thể (như quyền tài sản, an sinh xã hội, và cơ sở hạ tầng) và thiếu thốn cả
thông tin về những cơ hội nơi thị trường. Một giáo điều chuẩn của lý thuyết kinh tế nói
rằng tăng thu nhập bình quân thực tế đòi hỏi những can thiệp được thiết kế để thu
ngắn khoảng cách giữa chi phí tư và chi phí xã hội. Sẽ có ưu tiên cho những cơ hội
như vậy ở nơi nào mà có ưu tư nhiều về cái nghèo.
Thứ ba, tập trung vào tình trạng nghèo nàn cũng được bảo đảm phải nhìn từ
quan điểm của một đường lối phát triển bao quát hơn hướng tới năng lực. Nếu chỉ tập
trung vào mức tiêu thụ hay thu nhập mà thôi thì đó là một cách thức phát triển quá hạn
hẹp. Như nhà kinh tế học đoạt giải Nobel Amartya Sen đã nhấn mạnh, mục tiêu bao
trùm của phát triển là phải tối đa hóa khả năng của con người để sống được cuộc sống
mà họ trân quý. Người nghèo đối mặt với rào cản lớn nhất trong phương diện này và
do đó họ là thành phần xứng đáng nhất được chính sách quan tâm khẩn cấp.
Nguồn: Trích từ “Tăng trưởng đối với giảm nghèo: cuộc tranh luận rỗng tuếch” của Dani Rodnik
đăng trên báo Finance and Development, số 4 (tháng 12, 2000).

Thỏa thuận chung Washington (the Washington Consensus) và người nghèo


Cần phải có tăng trƣởng kinh tế nhanh hơn nữa ở phần lớn các quốc gia thu nhập thấp
và trung bình để giảm bớt cái nghèo. Những ngƣời nêu nghi vấn tăng trƣởng có tốt
cho ngƣời nghèo không cũng có thể hoài nghi về khả năng thị trƣờng có thể giúp
đƣợc gì cho ngƣời nghèo. Cạnh tranh đƣợc cho là bóc lột ngƣời nghèo bằng cách trả
cho sức lao động của họ “quá ít” hoặc bằng cách tính tiền cho những món đầu vào
hoặc hàng hóa họ mua “quá nhiều”. Các chính sách gắn kết với Thỏa thuận chung
Washington thƣờng bị nhìn với ánh mắt chỉ trích, đƣợc cho là chỉ bảo vệ lợi ích của
các quốc gia giàu hay công dân giàu trong những quốc gia nghèo mà hy sinh đám
đông quần chúng nghèo trong những quốc gia thu nhập thấp và trung bình. Nhƣng
những chỉ trích trên đây có hợp lý không? Có thể các chiến lƣợc thân thị trƣờng phục
vụ đƣợc cho ngƣời nghèo không? Ở đây chúng ta quan sát hai thành phần chính của
Thỏa thuận chung Washington – bình ổn kinh tế vĩ mô và mở cửa kinh tế - cùng tác
động của hai thành phần này đối với ngƣời nghèo.
Đạt đƣợc bình ổn kinh tế vĩ mô là điểm trọng tâm của Thỏa thuận chung
Washington. Duy trì kỷ luật tài chính và giảm lạm phát giá là những nét chính của
bình ổn kinh tế vĩ mô. Sự bình ổn thƣờng kéo theo tác động giảm thâm thủng ngân
sách, đạt đƣợc bằng cách cắt giảm chi tiêu của chính phủ. Đến lƣợt điều này thƣờng
D. Perkins et al. 30 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

dẫn tới phản ứng cho rằng ngƣời nghèo bị thiệt thỏi nếu giảm chi tiêu nhà nƣớc vào
các dịch vụ căn bản. Cũng có nhiều sự thật trong những mối quan ngại nhƣ vậy,
nhƣng đó chƣa phải là toàn cảnh. Chi tiêu chính phủ thƣờng không đến đƣợc với
ngƣời nghèo, vì các chƣơng trình, kể cả các chƣơng trình về y tế và giáo dục, thƣờng
nhắm vào các thành phần ngũ phân có thu nhập cao hơn.
Duy trì thâm thủng ngân sách không bền vững cũng dẫn tới lạm phát giá, mà
điều này thƣờng có tác động xấu đến ngƣời nghèo nhiều hơn là ngƣời giàu. Những cá
nhân thu nhập cao hơn luôn có những cách để tránh đƣợc những hậu quả tiêu cực của
lạm phát giá phi mã. Họ có thể gởi tiết kiệm ra nƣớc ngoài hoặc đƣa tài sản vào đất
đai hay bất động sản, mà đây thƣờng là những cách để chống lạm phát. Nhƣng ngƣời
nghèo lại thiếu những lựa chọn nhƣ vậy. Những khoản tiết kiệm nhỏ nhoi mà họ có
đƣợc mất hút trong nạn lạm phát giá dai dẳng; chi phí vay mƣợn dù tối thiểu cũng
tăng cao; và bất kỳ loại hình thu nhập cố định nào, ví dụ nhƣ tiền hƣu trí, cũng nhanh
chóng trở thành tƣơng đối vô giá trị. Lạm phát giá thƣờng dẫn tới đồng tiền mất giá,
và nhƣ vậy tăng chi phí hàng nhập khẩu. Trong khi điều này tác động đến việc mua
sắm hàng xa xỉ của ngƣời giàu, thì nó cũng tác động xấu đến ngƣời nghèo vì giá nhiên
liệu và các mặt hàng nhu yếu cũng tăng. Khi giá nhiên liệu tăng cao, thì cƣớc vận tải
cũng tăng, tác động đến nhiều món hàng mà ngƣời nghèo lệ thuộc. Lạm phát giá cũng
là cái thắng ngăn cản đầu tƣ và tăng trƣởng kinh tế, và tăng trƣởng kinh tế chậm hơn
thì không có ích lợi gì cho ngƣời nghèo. Nhìn chung, bình ổn kinh tế vĩ mô thƣờng tốt
cho cả tăng trƣởng kinh tế lẫn ngƣời nghèo.
Thỏa thuận chung Washington kêu gọi tự do hóa thƣơng mại và mở cửa kinh
tế nhiều hơn. Điều này dẫn tới việc thu hẹp rào chắn thƣơng mại, khuyến khích đầu tƣ
trực tiếp nƣớc ngoài và thả nổi tỷ giá hối đoái. Những ngƣời chống đối toàn cầu hóa
thấy những biện pháp nhƣ vậy là có hại cho ngƣời nghèo vì họ không thể tự bảo vệ
khỏi những biến động khó lƣờng của thị trƣờng vốn quốc tế hay sự tấn công của hàng
hóa xuất khẩu rẻ tiền. Một lần nữa trong một số hoàn cảnh thì những quan điểm nhƣ
vậy cũng rất có lý. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á của thập niên 1990 đã gây hại
cho cả ngƣời giàu lẫn ngƣời nghèo ở nhiều nền kinh tế. Những mùa màng rẻ tiền, kết
quả (một phần) của chính sách tài trợ nông sản của Liên minh Châu Âu và Hoa Kỳ đã
gây thiệt hại cho nông dân ở một số nền kinh tế. Ngƣời trồng bông vải ở Tây Phi là
một ví dụ thƣờng đƣợc trích dẫn.
Nhƣng mở cửa kinh tế nhiều hơn cũng có mang một bộ mặt khác. Nếu các
quốc gia xuất khẩu hàng hóa mà có lợi thế cạnh tranh tƣơng đối thì những quốc gia
thu nhập thấp sẽ có khả năng tập trung vào hàng hóa dựa trên lao động không cần kỹ
năng. Điều này làm tăng công ăn việc làm cho công nhân và theo thời gian thì tăng
tiền lƣơng cho họ. Vì cái nghèo thƣờng phổ biến trong số công nhân ít có kỹ năng
nhất nên thƣơng mại làm tăng nhu cầu lao động và giảm nghèo. Mở cửa nhiều hơn, kể
cả trao đổi công nghệ và tích lũy vốn có đƣợc từ đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài, có thể
cải thiện năng suất và nâng tỷ lệ tổng tăng trƣởng kinh tế. Ngoài ra, thƣơng mại có thể
giảm giá cả mà ngƣời nghèo phải chi ra để mua hàng hóa và dịch vụ, nhƣ vậy càng cải
thiện lợi ích của họ.
Thƣơng mại nói theo sách giáo khoa thì rất thuyết phục và thành công giảm
nghèo trên khắp Châu Á thƣờng xem thƣơng mại là động lực của tăng trƣởng, đặc biệt
là xuất khẩu các sản phẩm chế tạo cần nhiều sức lao động. Nhƣng mở cửa kinh tế
không chỉ có gia tăng xuất khẩu mà thôi, và dù nói cho hết tác động của toàn cầu hóa
đối với cái nghèo cũng không hề đƣa tới một kết luận đơn giản. Cải cách thƣơng mại
có thể giúp một số ngƣời nghèo nhƣng cũng có thể làm hại ngƣời khác. Ở Mexico,
hiệp ƣớc NAFTA mang lại nhiều tự do thƣơng mại hơn, và điều này đã gây thiệt hại
cho những nông dân trƣớc đây đƣợc thuế quan bảo hộ mặt hàng ngô trong khi đồng
thời giúp những ngƣời tìm đƣợc công ăn việc làm trong lĩnh vực xuất khẩu đang phát
đạt. Vì những cá nhân nói trên không cần phải từ bỏ nông thôn để đi vào nhà máy nên
D. Perkins et al. 31 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

cải cách thƣơng mại làm nghèo thêm một số ngƣời và giảm nghèo đƣợc cho một số
khác. (Xem Chƣơng 19 để thấy rõ hơn tác động của thƣơng mại đối với tăng trƣởng,
phát triển, và tình trạng nghèo nàn.27) Cải cách thƣơng mại minh họa một nguyên lý
quan trọng: Các thế lực thị trƣờng tạo ra vận hội mới mang lại lợi ích cho một số
ngƣời đồng thời gây thiệt hại cho một số khác. Giúp cho ngƣời nghèo tận dụng những
cơ hội mới này là một thách thức đang đối mặt tất cả mọi nền kinh tế.
Cải thiện cơ hội cho người nghèo
Cải thiện hoạt động của thị trƣờng chỉ giúp đƣợc ngƣời nghèo khi họ tận dụng đƣợc
những cơ hội này. Đây cũng là lý do vì sao các dịch vụ giáo dục và y tế căn bản
thƣờng là những thành phần chính của chiến lƣợc giảm nghèo. Giáo dục thƣờng giúp
ngƣời ta đạt năng suất cao hơn. Nó cho phép ngƣời ta xử lý thông tin mới và tận dụng
cơ hội mới, dù đó là các loại giống mới làm tăng năng suất cây trồng; nghề nghiệp
mới đòi hỏi biết đọc biết viết; hay thuốc men mới làm tăng khả năng sống còn cho trẻ
em hay cải thiện sức khỏe của ngƣời lớn. Giáo dục không phải là thuốc chữa bách
bệnh. Trong một môi trƣờng kinh tế xấu thì ngay cả giáo dục cũng mang lại lợi ích rất
thấp (Xem Chƣơng 8). Nhƣng không có giáo dục thì nhiều ngƣời nghèo có thể bị
vƣớng chặt vào trong vòng nghèo khó từ thế hệ này sang thế hệ khác. Những lập luận
nhƣ trên cũng đƣợc dùng để nói đến tầm quan trọng của y tế căn bản (Xem Chƣơng
9). Những tác động hao mòn của một loạt bệnh tật kể cả sốt rét, HIV/AIDS, cùng
nhiều bệnh khác nữa ngăn cản những ngƣời nhiễm bệnh tham gia lao động và nắm bắt
cơ hội mới. Dù cho thị trƣờng có vận hành tốt đến mấy đi nữa nhƣng nếu ngƣời ta quá
đau yếu không tận dụng đƣợc cơ hội mới thì nghèo vẫn hoàn nghèo.
Đầu tƣ vào vốn con ngƣời là một phần của một chƣơng trình cải thiện cơ hội
cho ngƣời nghèo. Ngoài ra cũng cần xem xét những cải cách khác. Phần lớn ngƣời
nghèo sống ở khu vực nông thôn và hoặc là trực tiếp hoặc là gián tiếp lệ thuộc vào
nông nghiệp làm nguồn thu nhập. Những nghiên cứu ở Ấn Độ nhận thấy tăng trƣởng
trong nền kinh tế nông nghiệp làm giảm nghèo ở cả nông thôn lẫn thành thị; trong lúc
tăng trƣởng ở thành thị chủ yếu chỉ giảm nghèo ở thành thị mà thôi28. Chính phủ ở các
quốc gia thu nhập thấp và trung bình không phải khi nào cũng hỗ trợ cho kinh tế nông
thôn. Cần phải chú ý nhiều hơn nữa đến cơ sở hạ tầng ở nông thôn, kể cả đƣờng sá và
viễn thông tốt hơn, để nông dân nghèo có thể đƣa sản phẩm ra thị trƣờng dễ dàng hơn
và nắm bắt đƣợc thông tin về giá cả. Đóng giếng để lấy nƣớc sạch, cải thiện thủy lợi,
làm dịch vụ nối dài cho nông nghiệp, nghiên cứu và phát triển các loại giống cây
trồng mới, và mở mang hệ thống tín dụng… tất cả đều là những can thiệp mà có thể
đóng góp cho hoạt động kinh tế nông thôn tốt hơn và làm giảm đi cái nghèo ở nông
thôn. (Xem Chƣơng 16 bàn về phát triển nông thôn).
Chi tiêu nhiều hơn cho ngƣời nghèo, dù là vào lĩnh vực giáo dục hay y tế, hay
cơ sở hạ tầng họ cần đến, hay ở kinh tế nông thôn nơi mà phần lớn ngƣời nghèo đang
sinh sống, đều có nghĩa là chi tiêu ít hơn cho các nhóm ngƣời khác trong xã hội. Cải
cách việc phân bổ chi tiêu chính phủ có thể vừa ủng hộ ngƣời nghèo vừa ủng hộ tăng
trƣởng. Nhƣng chắc chắn là sẽ có những chống đối khi những nhóm lợi ích trong
nƣớc hành động để duy trì chi tiêu chính phủ mà họ luôn mong đợi đƣợc hƣởng.
Thậm chí những đề nghị nhƣ tái phân phối tài sản cho ngƣời nghèo, chủ yếu là ruộng
đất, cũng gây ra nhiều tranh cãi.
Các quốc gia Đông Á, gồm Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc có tăng trƣởng
kinh tế và giảm nghèo thành công cũng là nhờ những chính sách tái phân phối đất đai
trƣớc đó. Đây là những can thiệp tƣơng đối triệt để trong đó chính phủ truất hữu đất

27
Xem thêm Ann Harrison, b.tập, Toàn cầu hóa và nghèo đói (Chicago: University of Chicago Press,
sắp phát hành).
28
Martin Ravallion và Gauray Datt, “Tại sao tăng trƣởng kinh tế hỗ trợ ngƣời nghèo nhiều hơn ở một
số bang so với các bang khác ở Ấn Độ?” Journal of Development Economics 68 (2002).
D. Perkins et al. 32 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

đai và đền bù rất ít hoặc không đền bù gì cả cho chủ sở hữu. Cải cách ruộng đất ở
Đông Á xảy ra trong thời kỳ xáo trộn chính trị cùng cực, dù đó là cách mạng xã hội ở
Trung Quốc hay kết thúc chiếm đóng ngoại bang ở Triều Tiên. Cho dù đã có những
thành công tối hậu ở những nền kinh tế này và tái phân phối ruộng đất đã đóng một
vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế diễn ra sau đó, nhƣng cải cách
ruộng đất ngày nay ít đƣợc ai ủng hộ. Cả chính quyền quốc gia lẫn các định chế đa
phƣơng nhƣ Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân hàng Thế giới thƣờng xem cải cách ruộng
đất là vấn đề chính trị rất khó khăn. Cải cách ruộng đất cũng đã diễn ra rất tàn khốc ở
nhiều quốc gia. Cải cách ruộng đất ở Zambabwe chỉ là một phần hoạt động hủy diệt
của chính quyền Robert Mugabe biến đất nƣớc Zimbabwe từ một nhà xuất khẩu lƣơng
thực ròng thành một quốc gia lệ thuộc vào viện trợ lƣơng thực. Kinh nghiệm của
Zimbabwe là một ví dụ cực đoan; nó cho thấy rằng chỉ tái phân phối tài sản thôi thì
không hứa hẹn giảm nghèo gì nhiều. Phải cần đến một tập hợp những chính sách bổ
sung rộng hơn nhiều mới cho phép ngƣời nghèo tận dụng đƣợc phần tài sản đƣợc tăng
thêm. Nhƣng thậm chí khi đã có những chính sách nhƣ vậy, xét về mặt chính trị thì rất
khó để cho tái phân phối ruộng đất đóng một vai trò lớn trong chiến lƣợc ủng hộ
ngƣời nghèo.
Chuyển giao thu nhập và mạng lưới an sinh xã hội
Mọi quốc gia đều có những cá nhân lọt ra ngoài tầm với của thị trƣờng. Họ bao gồm
những ngƣời quá già, quá nhỏ, hoặc quá bệnh không thể lao động đƣợc và cũng
không có mạng lƣới gia đình chăm sóc. Đây cũng là những hoàn cảnh mà những cơn
sốc hệ thống dù là do thiên tai hay khủng hoảng kinh tế đều đòi hỏi hành động của
chính phủ vì thị trƣờng không thể giải quyết đƣợc những vấn nạn này.
Những tình huống nghèo dai dẳng thì cần phải chuyển giao thu nhập. Hình
thức thì có thể cấp vốn tiền mặt, nhƣng ở các nền kinh tế đang phát triển thì thƣờng
gồm có những chƣơng trình định giá lƣơng thực hay phân phối lƣơng thực. Thách
thức đối mặt với các chƣơng trình này là phải làm thế nào để có hiệu quả chi phí đồng
thời phải đến tay của nhóm dân số mục tiêu và không rò rỉ sang các nhóm thu nhập
cao hơn. Tài trợ giá lƣơng thực giúp ngƣời nghèo nhƣng cũng tài trợ luôn những
khoản mua sắm của những kẻ không nghèo. Kết quả chung có thể là một gánh nặng
tài chính cho ngân sách. Những chƣơng trình tem phiếu lƣơng thực đã đƣợc áp dụng
trong một số quốc gia và có thể nhắm đến những ngƣời thiếu thốn nhất với kết quả tốt
hơn. Nhƣng những chƣơng trình nhƣ vậy thƣờng thi hành rất tốn kém và có thể thiếu
hỗ trợ chính trị rộng rãi.
Mạng lưới an sinh xã hội cũng tƣơng tự nhƣ chuyển giao thu nhập nhƣng
thừa nhận rằng cái nghèo của các hộ gia đình là tạm thời chứ không phải là mạn tính.
Dữ liệu theo dõi cá nhân hoặc hộ gia đình sau một thời kỳ nhận thấy rằng có ít gia
đình nghèo mãi hơn so với những gia đình nghèo tạm thời ở một lúc nào đó. Kết quả
này đúng với những nền kinh tế thu nhập thấp và trung bình cũng nhƣ trong môi
trƣờng thu nhập cao. Bản chất tạm thời của cái nghèo không làm vơi bớt đi những khổ
sở mà các gia đình phải chịu và nó cũng không cho rằng những ngƣời sống bên trên
lằn ranh nghèo một chút là thỏa mãn với nhu cầu vật chất của mình. Tuy nhiên điều
này cũng cho thấy là nên thiết kế những chính sách để giúp các cá nhân và hộ gia đình
không phải theo kiểu dài hạn mà chỉ khi gặp lúc thiếu hụt thu nhập và tiêu thụ. Mô
hình kế hoạch việc làm công là một ví dụ.
Kế hoạch bảo đảm việc làm (EGS) ở bang Maharashtra của Ấn Độ và chƣơng
trình Trabajar ở Argentina đƣợc thiết kế để bảo đảm ngƣời nghèo có đƣợc nguồn thu
nhập và giảm bớt những biến động trong thu nhập của họ. Kế hoạch này bảo đảm việc
làm chỉ nội trong vài tuần theo yêu cầu của cá nhân và cung cấp một việc làm tƣơng
đối gần nhà của ngƣời xin việc. Những việc làm này gồm có các công trình công
cộng, nhƣ xây dựng sửa chữa cầu đƣờng, hệ thống thủy lợi, và ngăn chặn xói mòn
D. Perkins et al. 33 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

đất. Để giải quyết vấn đề đặt mục tiêu, thì tiền lƣơng ở các kế hoạch việc làm công
cộng này phải đƣợc khống chế ở mức thấp so với mặt bằng lƣơng trên thị trƣờng.
Điều này duy trì đƣợc tính hiệu quả chi phí của kế hoạch bằng cách giảm thiểu số
ngƣời không nghèo tìm tới những công việc này. Bằng cách đƣa ra mức lƣơng phổ
biến trên thị trƣờng dành cho lao động phổ thông, chƣơng trình này khuyến khích việc
tự đặt ra mục tiêu, đó là khả năng ngƣời chọn tham gia chính là những cá nhân mà
chƣơng trình nhắm tới để giúp. Để khuyến khích việc tự tìm kiếm mục tiêu thì
Trabajar ở Argentina đƣa ra mức lƣơng tháng là 75% thu nhập trung bình hàng tháng
của ngƣời lao động thuộc nhóm 10% các hộ gia đình dƣới đáy sống bên trong và
chung quanh Buenos Aires. Đánh giá những chƣơng trình việc làm công cộng này cho
thấy chúng đƣợc sử dụng tốt và nhắm đúng đối tƣợng mục tiêu. Chƣơng trình này
cung cấp việc làm bằng 100 triệu ngày công, vừa theo thời vụ vừa quanh năm. Số
ngƣời tham gia ít đi khi vào mùa làm nông bận rộn, điều này cho thấy rằng những gia
đình nghèo sử dụng chƣơng trình này để bù đắp cho những biến động trong thu nhập
hàng tháng của họ. Đại đa số tham gia hai chƣơng trình trên là thuộc những thành
phần thu nhập thấp nhất. Những ngƣời tham gia nhận thấy có gia tăng thu nhập, nâng
nhiều ngƣời lên trên mức nghèo khổ29.
BẤT BÌNH ĐẲNG TOÀN CẦU VÀ “CHẤM DỨT CÁI NGHÈO”
Thảo luận của chúng ta về bất bình đẳng và giảm nghèo tập trung vào phạm vi quốc
gia. Chúng ta đã cẩn thận xem xét các mức độ và xu hƣớng của bất bình đẳng ngay
bên trong quốc gia và những chính sách vì ngƣời nghèo mà chính phủ có thể theo
đuổi. Phần lớn chính sách vạch ra đều ở cấp quốc gia nên sự tập trung này luôn đƣợc
bảo đảm. Tuy nhiên đề tài bất bình đẳng và nghèo nàn cũng mang tầm cỡ toàn cầu
nữa. Khoảng cách giữa ngƣời giàu và ngƣời nghèo giữa các quốc gia với nhau thì
thƣờng lớn hơn là bên trong một quốc gia mà thôi. Có thể làm điều gì đó để thay đổi
hệ quả này không? Giảm nghèo là một mục đích toàn cầu, và có thể có một vai trò
hành động vƣợt quá cấp nhà nƣớc không? Vẫn còn có tranh cãi về câu trả lời cho
những câu hỏi trên.
Một cách đơn giản để mô tả bất bình đẳng toàn cầu là chia thế giới thành hai
thành phần kinh tế thu nhập cao với kinh tế thu nhập thấp và trung bình. Trong năm
2003, các quốc gia thu nhập cao chiếm 15% dân số thế giới và tiêu thụ 56% sản lƣợng
thế giới. Các quốc gia thu nhập thấp và trung bình đại diện cho phần còn lại, 85% dân
số thế giới tiêu thụ 44% sản lƣợng thế giới. Mức độ bất bình đẳng toàn cầu này có
tƣơng quan giống nhƣ tình hình ở Brazil và Nam Phi, hai trong số những quốc gia bất
bình đẳng nhất trên thế giới. Mức độ bất bình đẳng toàn cầu không phải là một hệ quả
gì mới lạ. Tình hình trong năm 1980 cũng giống y nhƣ vậy. các quốc gia thu nhập cao
chiếm 18% dân số thế giới và tiêu thụ 62% sản lƣợng thế giới30. Cách phân chia thế
giới đơn giản này là một hình ảnh về bất bình đẳng toàn cầu tƣơng đối đáng tin cậy,
nhƣng nó lại quên đi những khác biệt quan trọng giữa những quốc gia bên trong mỗi
nhóm quốc gia này. Thêm vào đó, không phải ai ai trong nền kinh tế thu nhập cao
cũng giàu có hay ai ai trong quốc gia thu nhập thấp cũng nghèo cả. Để giải quyết vấn
đề này, ngƣời ta thƣờng áp dụng ba biện pháp để bàn thảo xem thế giới đang trở thành
một nơi bất bình đẳng nhiều hơn hay ít hơn.
Một cách là định nghĩa bất bình đẳng quốc tế bằng cách so sánh thu nhập
bình quân giữa từng quốc gia với nhau. Với một số câu hỏi thì dựa trên cách này là
phù hợp nhất. Ví dụ nhƣ cuộc tranh luận về vấn đề hội tụ, đã thảo luận ở Chƣơng 3,

29
Ngân hàng Thế giới, “Nguyên lý của các chƣơng trình việc làm thành công,” Báo cáo Phát triển Thế
giới 2000/2001: Đánh nghèo đói (Washington, DC: Ngân hàng Thế giới, 2001) Box 8.9.
30
Phần chia của sản lƣợng thế giới nói đến tổng thu nhập quốc dân đo bằng PPP. Nếu GNI đƣợc đo
bằng tỷ giá hối đoái theo thị trƣờng, thì phần chia GNI của các quốc gia thu nhập cao gần tới mức 80%
ở cả hai năm 1980 và 2003.
D. Perkins et al. 34 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

đặt câu hỏi là có hay không có xu hƣớng các mức thu nhập giữa các quốc gia với nhau
sẽ hội tụ sau một thời gian. So sánh thu nhập bình quân là có cơ sở ở đây. Cách này
xem mỗi trong số gần 200 quốc gia là bình đẳng nhƣ nhau, nhƣ Tuvalu có dân số là
11.000 ngƣời hay Trung Quốc với dân số 1,3 tỷ ngƣời. Nhƣng đối với thảo luận về
phúc lợi cho con ngƣời thì nếu xem mỗi quốc gia đều nhƣ nhau mà không xét đến
khía cạnh dân số tức là thiếu cơ sở. Một chỉ số bất bình đẳng quốc tế khác là xét
chung thu nhập bình quân của mỗi quốc gia với dân số của quốc gia đó. Biện pháp bất
bình đẳng quốc tế có tính chung với dân số thì phù hợp hơn đối với một số câu hỏi
nhƣng vẫn còn một vấn đề then chốt chƣa giải quyết đƣợc. Bằng cách nhân mức thu
nhập trung bình với dân số tức là không tính đến mức phân phối thu nhập nội địa, thì
mỗi ngƣời ở Trung Quốc (hay Tuvalu) đều đƣợc cho là có thu nhập giống nhƣ mọi
ngƣời khác. Để tránh vấn đề này, ta cần có một biện pháp bất bình đẳng toàn cầu để
so sánh thu nhập (hoặc tiêu thụ) của mỗi cá nhân bất chấp cá nhân đó sinh sống ở nơi
đâu. Một phƣơng pháp nhƣ vậy mô tả bất bình đẳng giữa những cá nhân chứ không
phải giữa các quốc gia với nhau. Không hề ngạc nhiên khi mức bất bình đẳng và xu
hƣớng của nó biến thiên tùy theo khi áp dụng định nghĩa nào trong hai định nghĩa này.

Có tính chung với dân số


Hệ số Gini

Không tính chung với


dân số

Năm

HÌNH 6-8 Các xu hướng bất bình đẳng quốc tế 1961-2000


Nguồn: Banko Milanovic, Những thế giới phân rã: Đo lường bất bình đẳng quốc tế và toàn cầu
(Princeton, NJ: Princeton University Press, 2005).
Hình 6-8 so sánh hai ƣớc tính bất bình đẳng quốc tế, một có tính chung với
dân số và một thì không, từ năm 1961 đến năm 2000. Dữ liệu dùng cho so sánh này
đã có sẵn, chỉ cần GDP tính trên đầu ngƣời (PPP) và dân số của mỗi nƣớc. Hệ số Gini
đƣợc tính hàng năm cho mỗi dãy số này. Hai xu hƣớng trong bất bình đẳng quốc tế
này thật vô cùng khác biệt. Nhà kinh tế học Branko Milanovic gọi những khác biệt
này là “mẹ đẻ của mọi tranh luận về bất bình đẳng.”31 Xu hƣớng không tính chung
dân số (xem mọi quốc gia đều nhƣ nhau) cho thấy trƣớc nửa đầu thập niên 1960 thì có

31
Banko Milanovic, Những thế giới phân rã: Đo lường bất bình đẳng quốc tế và toàn cầu (Princeton,
NJ: Princeton University Press, 2005). Phần lớn những thảo luận sau này về xu hƣớng của bất bình
đẳng toàn cầu đều rút ra từ nguồn này.
D. Perkins et al. 35 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

rất ít thay đổi, sau đó có tình trạng bất bình đẳng tăng liên tục. Dãy số có tính chung
dân số (những quốc gia lớn hơn có nhiều ảnh hƣởng hơn) cho thấy tình hình ngƣợc
lại, có xu hƣớng giảm đặc biệt kể từ năm 1980 trở về sau. Cũng dễ giải thích khác biệt
này.
Khi áp dụng phƣơng pháp bất bình đẳng quốc tế mà không tính chung dân số,
sự tăng cao phản ánh xu hƣớng tăng trƣởng theo vùng mà chúng ta đã gặp ở Chƣơng
2. Thập niên 1980 là một “thập niên lạc lõng” dành cho Châu Mỹ La-tinh, có khủng
hoảng nợ tiếp theo sau là trì trệ và suy thoái kinh tế. Trong thập niên 1990, kinh
nghiệm quá độ ở Đông Âu và Trung Á cũng đi kèm với suy giảm thu nhập sâu sắc.
Những số phận thăng trầm này tƣơng phản với tăng trƣởng tích cực nơi các nền kinh
tế thu nhập cao và một số khu vực ở Châu Á. Thu nhập thấp triền miên ở Châu Phi
vùng Hạ Sahara dù có làm tăng mức bất bình đẳng toàn cầu, nhƣng bi kịch tăng
trƣởng của Châu Phi đóng vai trò không lớn lắm trong diễn biến làm tăng bất bình
đẳng quốc tế. Đây là do tăng trƣởng thấp đã là đặc tính của khu vực này kể từ đầu
thập niên 1970 trở về sau.
Phƣơng pháp bất bình đẳng quốc tế có tính chung dân số cho thấy một xu
hƣớng hoàn toàn khác. Suốt bốn thập niên số đo đã giảm rồi tăng tốc trong thập niên
1990. Xét đến cách kết cấu của phƣơng pháp này thì điều xảy ra ở những quốc gia
đông dân là động lực thúc đẩy kết quả. Kinh nghiệm của Trung Quốc giải thích phần
lớn xu hƣớng đƣợc quan sát kỹ này, thêm cả Ấn Độ nhƣng với mức độ kém hơn.
Cuộc chuyển đổi kinh tế sau năm 1978 của Trung Quốc đã nhanh chóng đƣa đất nƣớc
từ vị trí thu nhập thấp lên vị trí thu nhập trung bình. Kết quả này đã phần nào thu hẹp
khoảng cách giữa Trung Quốc với các quốc gia thu nhập cao, đặc biệt là nƣớc Mỹ
đông dân, nhƣng lại gia tăng khoảng cách giữa Trung Quốc và các quốc gia thu nhập
thấp còn lại. Tính gộp lại thì bƣớc tiến đến “mức trung bình” trong phân phối thu
nhập thế giới của Trung Quốc đã tạo ra sự sụt giảm đáng kể nơi hệ số Gini có tính
chung với dân số. Tuy nhiên tăng trƣởng tiếp tục nhanh của Trung Quốc có thể một
ngày nào đó sẽ làm tăng bất bình đẳng thế giới nếu tăng trƣởng trong các khu vực thu
nhập thấp không tăng tốc.
Nhƣng chƣa hết. Bất bình đẳng quốc tế có tính luôn dân số, bằng cách gán cho
tất cả công dân cùng một mức thu nhập (hoặc tiêu thụ) tính trên đầu ngƣời, cũng
mang ý giả định “bình đẳng thu nhập hoàn hảo” bên trong mỗi quốc gia. Đo mức bất
bình đẳng giữa ngƣời dân với nhau theo giả định này là chƣa chính xác. Điều chỉnh
vấn đề này đòi hỏi nhiều dữ liệu hơn nữa ngoài dữ liệu về GDP tính trên đầu ngƣời và
quy mô dân số ra. Cần có dữ liệu ở cấp hộ gia đình để gán một mức ƣớc tính thu nhập
chính xác hơn cho mỗi ngƣời trên thế giới. Một số nghiên cứu đã áp dụng các kỹ thuật
để suy ra những thông tin tƣơng tự ở thời kỳ trƣớc đó. Một số nghiên cứu khác tập
trung vào thời kỳ từ giữa thập niên 1980 khi có dữ liệu hộ gia đình cho một tỷ lệ dân
số đông. Có sự chênh lệch khá lớn ở mức bất bình đẳng toàn cầu do những nghiên
cứu khác nhau này dự đoán và không hề có sự nhất trí về các xu hƣớng trong những
thập niên gần đây. Nhƣng điều mà tất cả những nghiên cứu này cho thấy là bất bình
đẳng toàn cầu vẫn còn cao hơn đáng kể so với bất bình đẳng quốc tế có tính chung với
dân số32. Trung Quốc, Ấn Độ, và Hoa Kỳ góp phần đáng kể cho hệ quả này. Tất cả ba
nƣớc đều đã có tăng trƣởng kinh tế kèm theo hệ số Gini tăng trong nƣớc.
Bất bình đẳng toàn cầu vào đầu thế kỷ 21 dao động trong phạm vi từ 0,60 đến
0,80 theo ƣớc tính của hệ số Gini toàn cầu. Đây là một phạm vi rộng, và đã gây ra
nhiều tranh cãi về dữ liệu và phƣơng pháp. Tuy cho dù có những bất đồng về học
thuật, nhƣng có một điều rõ ràng là bất bình đẳng toàn cầu vƣợt quá mức bất bình
đẳng của hầu nhƣ bất kỳ quốc gia nào trên thế giới. Ta không ngạc nhiên khi thế giới

32
Xem các nhận định về những nghiên cứu khác ở Milanovic, sách đã dẫn, 119-27 và ở Báo cáo Phát
triển Thế giới 2006: Công bình và Phát triển (Washington, DC: Ngân hàng Thế giới, 2006) Chƣơng 9.
D. Perkins et al. 36 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

là một nơi vô cùng bất bình đẳng, nhƣng mức độ bất bình đẳng thì quả là quá sức
tƣởng tƣợng.
Có phải phản ứng của ta đối với mức độ bất bình đẳng toàn cầu là “Cần phải
làm gì đó!” không? Nếu nhƣ vậy thì điều quan trọng là ta cần hiểu rõ bản chất của vấn
đề do bất bình đẳng toàn cầu tạo ra mà ta phải giải quyết. Xin hãy xem xét điều sau
đây: Bất bình đẳng toàn cầu sẽ thấp hơn nếu nhƣ tăng trƣởng kinh tế ở các nền kinh tế
thu nhập cao chậm lại (còn mọi lĩnh vực khác đều bình đẳng). Một số ngƣời ủng hộ
làm chậm lại tăng trƣởng kinh tế ở Hoa Kỳ và các nơi khác, nhƣng lý do của họ có thể
chẳng ăn nhập gì đến bất bình đẳng toàn cầu hay lợi ích của ngƣời dân ở các quốc gia
nghèo. Ta có thể khƣớc từ cái chủ nghĩa tiêu thụ triệt để của Hoa Kỳ. Ngƣời Mỹ mua
nhà ngày càng rộng hơn, chất đầy trong đó hằng hà sa số hàng hóa, và lái những chiếc
xe ngày càng to hơn trên những con đƣờng ngày càng ùn tắt. Có quá nhiều điều cần
chỉ trích nơi phong cách sống và chủ nghĩa tiêu thụ của các nền kinh tế thu nhập cao.
Nhƣng tăng trƣởng kinh tế chậm lại ở các quốc gia giàu có cho dù có giảm thấp
xuống bất bình đẳng toàn cầu cũng có thể có tác động ngƣợc lại đối với các quốc gia
thu nhập thấp và trung bình. Nếu các quốc gia giàu tăng trƣởng chậm hơn, thì nhu cầu
hàng hóa của họ từ các quốc gia khác cũng giảm và tác động đến bản thân tốc độ tăng
trƣởng ở nơi khác. Bất bình đẳng toàn cầu do tăng trƣởng chậm lại ở các nền kinh tế
thu nhập cao có thể có hại cho tiến độ giảm nghèo trên toàn cầu. Không có lý do gì để
tin rằng nếu Hoa Kỳ tăng trƣởng chậm lại thì Châu Phi hay một số khu vực nghèo
khác sẽ tăng trƣởng nhanh hơn. Tính hết mọi khả năng thì kết quả ngƣợc lại mới
đúng.
Có nhiều cách để hạ thấp bất bình đẳng toàn cầu ngày nay. Nếu thay vì tăng
trƣởng chậm lại ở các nƣớc giàu thì suốt hơn hai mƣơi năm qua đều gì xảy ra nếu nhƣ
bất bình đẳng thu nhập ở Trung Quốc không tăng? Nên nhớ rằng Trung Quốc đã có
mức tăng trƣởng cao vƣợt bậc suốt hơn hai thập niên và đã có thể nâng 400 triệu
ngƣời dân lên trên lằn ranh nghèo “1 đô-la một ngày”. Phép lạ kinh tế Trung Quốc
cũng góp phần làm giảm bớt bất bình đẳng toàn cầu, nhƣng tác động ấy chắc còn lớn
hơn nữa nếu bất bình đẳng thu nhập bên trong Trung Quốc không tăng. Trung Quốc
có thể nào tăng trƣởng nhanh nhƣ vậy, giảm nghèo ngoạn mục nhƣ vậy, mà vẫn giữ
không cho bất bình đẳng gia tăng không? Quả thật chúng ta không biết đƣợc, bởi vì
chúng ta không thể quan sát cái thực tế ngƣợc lại. Nhƣng có khả năng là bất bình đẳng
bên trong nội bộ Trung Quốc mà thấp hơn thì chắc có thể đã buộc nền kinh tế tăng
trƣởng chậm lại rồi.
Những kêu gọi giảm bất bình đẳng toàn cầu có thể bị đặt sai chỗ nếu nhƣ
không suy tính cẩn thận làm thế nào để đạt đƣợc mức bình đẳng nhiều hơn. Thậm chí
trƣớc khi suy tính làm thế nào để đạt đƣợc bình đẳng toàn cầu nhiều hơn thì vẫn còn
đó câu hỏi: Vì sao phải nhƣ vậy? Chúng ta đã giáp mặt với một số tranh luận nhƣ thế
này rồi ở cấp quốc gia. Một số tranh luận khác cũng có thể áp dụng cho cấp toàn cầu.
Trƣớc hết, trên cơ sở hiệu quả kinh tế, việc tập trung thu nhập thế giới có thể làm
giảm tăng trƣởng năng suất. Thất bại của thị trƣờng sẽ hạn chế ngƣời nghèo vay tiền
để tài trợ cho những dự án giá trị và một số tái phân phối thu nhập có thể làm tăng
suất sinh lợi cho tổng đầu tƣ toàn cầu. Thứ hai, ủng hộ tái phân phối có thể vì lợi ích
cục bộ của một số hộ gia đình có thu nhập cao hơn, cho dù họ sinh sống ở đâu. Ví dụ
nhƣ nguy cơ sức khỏe vƣợt biên giới nhanh hơn trong quá khứ. Sự lan truyền nhanh
chóng của HIV/AIDS xuyên lục địa là một ví dụ. Mối quan ngại bệnh SARS lây lan
toàn cầu và gần đây có bệnh cúm Avian là thêm hai ví dụ nữa. Một cuộc tái phân phối
tài nguyên thế giới có thể làm giảm bớt nguy cơ sức khỏe đang đối mặt với ngƣời giàu
cũng nhƣ ngƣời nghèo. Một lý do vì sao ủng hộ bình đẳng toàn cầu nhiều hơn có thể
là vì lợi ích của các hộ gia đình thu nhập cao là trong thời đại thông tin ngƣời dân trên
khắp thế giới đều nhận thức rõ khoảng cách giữa giàu và nghèo. Nhận thức này cùng
nỗi phẫn uất vì bị “gạt ra bên lề” có thể đóng một vai trò gây bất ổn trong quan hệ
D. Perkins et al. 37 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

quốc tế tác động đến lợi ích của ngƣời giàu cũng nhƣ ngƣời nghèo. Thứ ba, một sự
phân phối công bình hơn có thể là điều đúng đắn để vƣơn tới dựa trên cơ sở đạo đức.
Kể từ Plato đến nay, các triết gia đã viết nhiều về đề tài này. Bất bình đẳng toàn cầu,
đặc biệt ở quy mô của khoảng cách thu nhập tuyệt đối giữa những ngƣời trên đỉnh so
với những ngƣời dƣới đáy, cần đƣợc xem nhƣ là một cơ hội để sửa chữa cái nghèo
tuyệt đối mà là trọng tâm của chƣơng sách này.
Nếu những ngƣời ở các thành phần thu nhập cao cảm thấy áy náy vì tình trạng
bất bình đẳng ở mức cao nhƣ thế này và sẵn sàng tiến tới một thế giới ít nghèo hơn và
bình đẳng nhiều hơn trong thu nhập và cơ hội, thì họ có thể làm gì đây? Nhà kinh tế
học của Đại học Colombia Jeffrey Sachs đƣa ra cả chẩn đoán lẫn định hƣớng. Trong
cuốn sách Chấm dứt cái nghèo ông viết
Bi kịch lớn nhất của thời đại chúng ta là hiện có một phần sáu nhân loại
không đứng trên nấc thang phát triển. Một số lớn những người nghèo cùng
cực bị vướng vào một cái bẫy nghèo khó, không thể tự mình trốn thoát ra khỏi
tình cảnh thiếu thốn vật chất cùng cực này. Họ bị bao vây bởi bệnh tật, cô lập
vật lý, thảm họa khí hậu, suy thoái môi trường, và bởi chính cái sự nghèo
cùng cực. Cho dù hiện có những giải pháp cứu sinh để gia tăng cơ may sống
còn của họ - dưới hình thức kỹ thuật canh tác mới, hay thuốc men thiết yếu,
hay mùng để ngủ nhằm hạn chế mức lây lan của bệnh sốt rét – nhưng những
gia đình này cùng chính phủ của họ vẫn thiếu phương tiện tài chính để nhận
được những đầu tư cấp thiết này. Người nghèo của thế giới biết rõ về cái
thang phát triển: họ bị những hình ảnh sung túc từ bên kia nửa vòng trái đất
làm cho thèm thuồng. Nhưng họ không thể bám chân lên nấc thang ấy, và do
đó không thể khởi sự trèo ra khỏi cảnh nghèo được.
Sachs đề nghị một thỏa ƣớc để đến năm 2025 thì chấm dứt cái nghèo tuyệt
đối. Cũng nhƣ mọi thỏa ƣớc khác ít nhất là phải có hai bên, nƣớc giàu và nƣớc nghèo.
Nƣớc nghèo phải chịu trách nhiệm về nỗ lực giảm nghèo. Những chế độ tham nhũng
và những chế độ theo đuổi chiến tranh chứ không phải phát triển thì chẳng thể làm
thành viên của thỏa ƣớc này. Tuy nhiên Sachs nói rõ rằng giữa những quốc gia thu
nhập thấp và trung bình dù có ký vào thỏa ƣớc thì chỉ hành động của họ không thôi có
thể chƣa đủ để chấm dứt cái nghèo. Những điều kiện trong nhiều khu vực của Châu
Phi quá tồi tệ đến nỗi thiếu thốn hết mọi thứ căn bản (lƣơng thực, nƣớc sạch, thuốc
men, và các cơ sở chăm sóc y tế), để cho nhiều ngƣời nghèo nói theo từ của Sachs là
“nghèo quá khó sống nỗi.33”
Với mức độ nghèo tuyệt đối trên thế giới hiện tại thì các quốc gia giàu có cần
làm nhiều hơn nữa để giảm nghèo. Một số đề nghị của Sachs đã nhận đƣợc ủng hộ
của những nhà kinh tế học phát triển: các nƣớc giàu cần phải mở rộng thị trƣờng cho
hàng xuất khẩu của các quốc gia nghèo vào và các quốc gia giàu cần đầu tƣ vào hàng
hóa công toàn cầu nhƣ khoa học căn bản để chiến đấu với các căn bệnh nhiệt đới và
phát triển những công nghệ mới để cải thiện sản lƣợng nông nghiệp. Các thành phần
khác của thỏa ƣớc toàn cầu do ông đề nghị thì còn gây tranh cãi: các quốc gia giàu
cần đóng vai trò quản lý môi trƣờng tốt hơn nữa để tối thiểu hóa tác động của thay đổi
khí hậu đối với các quốc gia nghèo; cần xóa những món nợ quốc tế tích lũy cho các
quốc gia nghèo vay của những định chế đa phƣơng nhƣ Quỹ Tiền tệ Quốc tế và Ngân
hàng Thế giới; và quốc gia giàu cần tăng mạnh viện trợ nƣớc ngoài cho quốc gia
nghèo. Chúng ta sẽ thăm dò các ý tƣởng này ở các chƣơng sau. Cho dù vẫn còn có bất
đồng về thành phần của thỏa ƣớc chấm dứt tình trạng nghèo nàn này, nhƣng rất khó
bài bác một trong những ý tƣởng trọng tâm của nó: Các quốc gia giàu có một vai trò
cấp thiết trong công cuộc giảm nghèo toàn cầu.
33
Jeffrey Sachs, Chấm dứt cái nghèo: Những khả năng kinh tế dành cho thời đại chúng ta (New York:
Penguin Press, 2005), 19-20.
D. Perkins et al. 38 Biên dịch: Lê Việt Ánh
Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

TÓM TẮT
Số ngƣời nghèo trong một nƣớc phụ thuộc vào mức thu nhập tính trên đầu
ngƣời hoặc mức tiêu thụ và phân phối. Các hệ quả phân phối đƣợc mô tả sử
dụng những mức phân phối theo quy mô, đo lƣờng bất bình đẳng theo những
phần chia dành cho các nhóm ngũ phân (20%) trong dân số xếp từ nghèo nhất
đến giàu nhất; đƣờng cong Lorenz đƣa ra chân dung hình học của tình trạng bất
bình đẳng; và hệ số Gini cung cấp một con số thống kê tóm lƣợc.
Bất bình đẳng thu nhập và tiêu thụ biến thiên rất lớn theo khu vực. Châu Mỹ
La-tinh và Châu Phi vùng Hạ Sahara có mức bất bình đẳng tƣơng đối cao; Đông
Âu và Trung Á, Nam Á, và những nền kinh tế thu nhập cao thƣờng có mức
thấp; bất bình đẳng ở Đông Á nằm ở mức trung bình. Những mô hình khu vực
này hình nhƣ ít liên quan đến mức thu nhập tính trên đầu ngƣời hơn so với
những yếu tố quyết định lịch sử và chính trị căn bản, cũng nhƣ nguồn nhân tố
có sẵn;
Theo các nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, vào năm 2001 có trên 1 tỷ ngƣời,
chiếm 21% dân số của thế giới đang phát triển, sống dƣới lằn ranh nghèo quốc
tế là “1 đô-la một ngày,” đôi khi còn có tên gọi là mức nghèo tuyệt đối hay thậm
chí là bần cùng. Số ngƣời sống trong hoàn cảnh nghèo tuyệt đối giảm đi gần
400 triệu giữa năm 1981 và 2001. Phần lớn sự sụt giảm này xảy ra ở Đông Á,
đặc biệt là ở Trung Quốc.
Vì dân số thế giới tăng đáng kể từ năm 1981 đến năm 2001 nên tình hình giảm
nghèo cũng có thể đƣợc đo theo mức tƣơng đối. Những ƣớc tính về chỉ số đếm
đầu ngƣời cho thấy tình trạng nghèo nàn sụt giảm đáng kể ở Đông Á và Nam Á.
Ở Châu Phi vùng Hạ Sahara, mức bất bình đẳng vẫn giữ ở mức trên 40% và rất
ít thay đổi theo thời kỳ. Phần lớn ngƣời nghèo của thế giới sống ở Đông Á và
Nam Á, mặc dù cả tỷ lệ nghèo (chỉ số đếm đầu ngƣời) lẫn mức độ nghiêm trọng
của tình trạng nghèo (khoảng cách nghèo) thì cao nhất ở Châu Phi vùng Hạ
Sahara.
Nghèo nàn thƣờng tập trung đông hơn ở khu vực nông thôn so với thành thị.
Các nhóm sắc tộc và thiểu số thƣờng bị tỷ lệ nghèo cao hơn. Phụ nữ bị kỳ thị
trên khắp thế giới: ở thị trƣờng lao động họ ăn lƣơng thấp hơn; họ thƣờng bị
tƣớc quyền thừa kế hoặc quyền sở hữu đất, và theo tập quán họ ít đƣợc học
hành hơn nam giới. Tuy nhiên do tài nguyên của hộ gia đình thƣờng đƣợc chia
sẻ với nhau, là kết quả của những quyết định phân phối trong nội bộ gia đình,
nên có ít bằng chứng cho thấy tỷ lệ phụ nữ nghèo thì nhiều hơn nam giới.
Những nghiên cứu thực tế xác nhận rằng tăng trƣởng kinh tế thƣờng “tốt cho
ngƣời nghèo.” Quan sát các quốc gia thì thấy thu nhập của thành phần 20%
dƣới đáy tăng đồng thời với GDP tính trên đầu ngƣời. Đây là một xu hƣớng
trung bình, và trong một số trƣờng hợp mà khá phổ biến hơn ở châu Mỹ La-
tinh, thì thu nhập bình quân của thành phần 20% nghèo nhất lại bị sụt giảm thay
vì tăng lên cho dù GDP tính trên đầu ngƣời có tăng. Điều này ít có khả năng xảy
ra khi tăng trƣởng kinh tế ở tốc độ nhanh và vƣợt mức 5%.
Tăng trưởng thân người nghèo nói đến chiến lƣợc phát triển kết hợp tăng
trƣởng kinh tế nhanh hơn nữa với gia tăng cơ hội cho ngƣời nghèo dự phần vào
nền kinh tế. Nhiều nhà kinh tế học tin rằng các chính sách thân thiện thị trƣờng,
bao gồm duy trì kỷ luật tài chính, giảm lạm phát giá, và mở cửa kinh tế nhiều
hơn, sẽ phục vụ cho lợi ích của ngƣời nghèo. Thế nhƣng chỉ có những can thiệp
này thôi thì vẫn chƣa đủ; một số ngƣời nghèo sẽ thụ hƣởng lợi ích và số khác sẽ
bị thiệt thòi. Các chính phủ cũng phải đầu tƣ vào giáo dục và y tế cho ngƣời
nghèo cũng nhƣ vào cơ sở hạ tầng mà ngƣời nghèo rất cần đến. Cũng cần có

D. Perkins et al. 39 Biên dịch: Lê Việt Ánh


Chƣơng trình Giảng dạy Kinh tế Fulbright Chính sách Phát triển Kinh tế Phát triển
Niên khóa 2008 – 2009 Bài đọc Chƣơng 6: Bất bình đẳng và đói nghèo

những mạng lƣới an sinh xã hội dành cho những ngƣời không đủ khả năng tận
dụng các cơ hội do thị trƣờng mang lại.
Giống nhƣ có thể lƣợng định bất bình đẳng trong nội bộ một quốc gia, chúng ta
cũng có thể ƣớc tính mức bất bình đẳng trên toàn cầu. Thƣớc đo mức bất bình
đẳng toàn cầu toàn diện nhất là so sánh thu nhập (hay mức tiêu thụ) của mỗi cá
nhân bất kể họ đang sinh sống ở đâu. Các ƣớc tính từ cách đo này cho thấy hệ
số Gini của bất bình đẳng toàn cầu là từ 0,60 đến 0,80, có giá trị cao hơn so với
hầu nhƣ bất kỳ quốc gia riêng lẻ nào. Với mức nghèo tuyệt đối trên thế giới và
mức bất bình đẳng thu nhập toàn cầu hiện tại thì điều quan trọng là các quốc gia
giàu cần nghiên cứu những bƣớc đi nhằm giúp các quốc gia nghèo.

D. Perkins et al. 40 Biên dịch: Lê Việt Ánh

You might also like