You are on page 1of 14

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG HỒ CHÍ MINH

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN MÔN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC -


LÊNIN

TÊN CHỦ ĐỀ: TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ GẮN VỚI


CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên : Dương Nguyễn Thanh Hà


Mã số sinh viên : 030236200044
Lớp, hệ đào tạo : MLM307_2021_D14

CHẤM ĐIỂM
Bằng số Bằng chữ

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2021


MỤC LỤC
1. Những vấn đề lý luận........................................................................................1

1.1. Khái niệm......................................................................................................1

1.2. Nội dung.......................................................................................................2

2. Thực trạng.........................................................................................................4

2.1. Những thành tựu...........................................................................................4

2.2. Những hạn chế cần khắc phục......................................................................6

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế..................................................................7

3. Giải pháp............................................................................................................8

4. Kết luận............................................................................................................10

TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC
1

1. Những vấn đề lý luận

1.1. Khái niệm

Tăng trưởng kinh tế được hiểu khá thống nhất là sự tăng sản lượng thực tế
của một nền kinh tế trong một khoảng thời gian. Thước đo phổ biến là mức tăng
tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một năm hoặc mức tăng GDP bình quân đầu
người trong một năm. Một số nước sử dụng các chỉ số khác để xác định mức tăng
trưởng kinh tế như: GNP (tổng sản phẩm quốc gia); GNI (tổng thu nhập quốc gia);
NNP (sản phẩm quốc gia ròng) hoặc NNI (thu nhập quốc gia ròng). (Các chỉ số trên
thường được tính trong một năm và đều có thể sử dụng theo tiêu chí bình quân trên
đầu người).

Khác với khái niệm tăng trưởng kinh tế được thừa nhận khá thống nhất, khái
niệm công bằng xã hội (CBXH) còn nhiều ý kiến tranh luận và được diễn giải bằng
nhiều khái niệm khác nhau. Ngân hàng Thế giới cho rằng CBXH là "công bằng
trong các cơ hội cho mọi người”. Có khái niệm nhấn mạnh CBXH là công bằng
trong các quan hệ “giữa cá nhân/xã hội, và giữa các cá nhân về cống hiến/hưởng
thụ, quyền lợi/nghĩa vụ”. Có khái niệm khác thì cho rằng CBXH: “là các giá trị
định hướng cho quan hệ giữa các thành viên trong cộng đồng về vật chất và tinh
thần”.

Các khái niệm trên đều có giá trị làm rõ nội dung của CBXH. Tuy nhiên, sự
đa dạng của các khái niệm cho thấy CBXH được đánh giá trên cơ sở các yếu tố
định tính từ nhiều góc độ khác nhau.
2

1.2. Nội dung

Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội là hai mặt của một quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, có quan hệ tương hỗ lẫn nhau. Tăng trưởng kinh tế tạo điều
kiện vật chất để thực hiện công bằng xã hội. Không có tăng trưởng kinh tế thì cũng
không có của cải để thực hiện công bằng xã hội về phân phối, tăng thêm thu nhập,
cải thiện phúc lợi và giảm nghèo. Ngược lại, công bằng xã hội tạo động lực thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế. Ví dụ, khi việc tiếp cận các nguồn lực sản xuất của các chủ
thể là công bằng thì tự nó sẽ tạo ra động lực để thu hút và phát huy hiệu quả mọi
nguồn lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Ngược lại, nếu việc tiếp cận các nguồn lực
không công bằng thì sẽ không thể có sự tăng trưởng kinh tế nào hết, và nếu việc
tiếp cận nguồn lực quá bất công thì sẽ dẫn đến phá hoại sản xuất. Nếu phân phối
thu nhập mà công bằng, thì người tiếp nhận phân phối sẽ cảm nhận được thu nhập
mà họ được hưởng là hợp lý với mức đóng góp của mình, nhờ đó tính tích cực sản
xuất tăng lên. Công bằng không chỉ tạo ra điều kiện để ổn định kinh tế, xã hội mà
còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Thực chất việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và công bằng xã hội là quá trình gắn kết kinh tế với xã hội trong phát
triển bền vững. Không phải ngẫu nhiên từ giữa thế kỷ XX lại đây, công bằng xã hội
đã trở thành tâm điểm trong các hệ tư tưởng và chương trình nghị sự của hầu hết
các đảng và tổ chức chính trị trên toàn thế giới và rất ít người dám phản đối trực
tiếp.

Quan điểm của Đảng ta, từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII đến Đại
hội XI mới đây đã được bổ sung và phát triển ngày càng hoàn chỉnh, có thể tóm tắt
như sau:

- Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay từ
đầu và trong suốt quá trình thực hiện các kế hoạch phát triển. Công bằng xã hội
3

phải thể hiện cả ở khâu phân phối tư liệu sản xuất, cả ở khâu phân phối kết quả sản
xuất; tạo điều kiện để mọi người có cơ hội phát triển và phát huy tốt năng lực của
mình.

- Sử dụng nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động
và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; kết hợp phân phối dựa trên mức đóng góp các
nguồn lực, phân phối thông qua phúc lợi xã hội; thực hiện điều tiết hợp lý, bảo hộ
quyền lợi hợp pháp của người lao động.

- Khuyến khích làm giàu hợp pháp, đi đôi với việc tích cực xóa đói, giảm
nghèo, thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển và mức sống giữa các vùng,
các dân tộc, các tầng lớp dân cư.

- Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc; uống nước, nhớ nguồn, đền ơn,
đáp nghĩa, nhân hậu, thủy chung.

- Các chính sách xã hội đều phải giải quyết theo tinh thần xã hội hóa; trong
đó Nhà nước đóng vai trò nòng cốt; động viên toàn dân, các doanh nghiệp, các tổ
chức, cá nhân, cộng đồng quốc tế tham gia giải quyết các vấn đề xã hội.

- Mới đây nhất, Văn kiện Đại hội XI đã khẳng định lại một lần nữa rằng:
“Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát
triển là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện bản chất
tốt đẹp của chế độ xã hội chủ nghĩa. Tập trung giải quyết tốt chính sách lao động,
khắc phục những bất hợp lý về tiền lương, tiền công, trợ cấp xã hội phù hợp với
tình hình kinh tế - xã hội của đất nước.  Tập trung triển khai có hiệu quả chương
trình xóa đói, giảm nghèo, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn;
huy động mọi nguồn lực xã hội cùng Nhà nước chăm lo tốt hơn đời sống vật chất
và tinh thần cho những người và gia đình có công với cách mạng. Nâng cao chất
lượng chăm sóc sức khỏe nhân dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình, bảo
vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em”. Khi tổng kết 20 năm công cuộc đổi
mới, Đảng ta đã nói rõ mối quan hệ gắn bó giữa kinh tế và công bằng xã hội như
4

sau “thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, xem trình độ phát triển
kinh tế là điều kiện vật chất để thực hiện chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách
xã hội là động lực quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế. Tăng trưởng kinh tế đi đôi
với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển”.

2. Thực trạng

2.1. Những thành tựu

Thứ nhất, giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với  văn hóa đã thu
được nhiều kết quả quan trọng. Nhận thức về văn hóa và gắn tăng trưởng kinh tế
với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội của các cấp, ngành và
toàn dân được nâng lên. Vai trò của văn hóa ngày càng thể hiện rõ trong việc xây
dựng con người, có tác động to lớn trong đời sống xã hội. Thực hiện tiến bộ và
công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển, trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tiến bộ và công bằng xã hội được thể hiện ngay từ chủ trương phát
triển kinh tế - xã hội, đầu tư phát triển, hưởng thụ kết quả, coi đầu tư cho văn hóa là
đầu tư cho phát triển

Thứ hai, công tác bảo vệ, chăm sóc sóc khỏe nhân dân được chú trọng.
Trong những năm gần đây, việc chăm sóc sóc khỏe nhân dân có nhiều tiến bộ đã
góp phần hạ thấp đáng kể tỷ lệ tử vong ở trẻ sơ sinh, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở
trẻ em dưới 5 tuổi, cơ bản thanh toán một số dịch bệnh có tính phổ biến trước đây,
đặc biệt khống chế thành công bệnh viêm đường hô hấp cấp (SARS), dịch bệnh
truyền nhiễm cấp tính (virut Zika), v.v.. Tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,3 tuổi vào
năm 2015.Tỷ lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp
tăng.

Thứ ba, trong quá trình đẩy mạnh phát triển kinh tế, Việt Nam đã rất chú
trọng hướng vào con người, nhất là những người nghèo. Tỷ lệ giảm nghèo từ
5

khoảng 60% vào năm 1990 xuống còn 18,1% vào năm 2004, và kết thúc năm 2011,
tỷ lệ nghèo cả nước giảm chỉ còn 14%. Tính bình quân trong giai đoạn từ năm 2010
- 2015, tỷ lệ hộ nghèo giảm khoảng 2%/năm, từ 14,2% cuối năm 2010 xuống dưới
4,5% năm 2015. Năm 2008, Việt Nam đã hoàn thành hầu hết các mục tiêu Phát
triển Thiên niên kỷ đặt ra cho năm 2015. Số hộ nghèo giảm từ 29% năm 2002
xuống còn 9,5% năm 2011; chỉ số HDI tăng từ mức 0,683 năm 2000 lên mức 0,728
năm 2011, xếp thứ 128/187 nước, thuộc nhóm trung bình cao của thế giới. Tổng
sản phẩm trong nước bình quân đầu người của Việt Nam xếp 129 trên tổng số 182
nước. Điều này cho thấy sự phát triển kinh tế của Việt Nam có xu hướng phục vụ
sự phát triển con người, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội khá hơn so với một
số nước đang phát triển có GDP bình quân đầu người cao. 

Thứ tư, cùng với quá trình tăng trưởng của nền kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp và
thiếu việc làm được giữ ở mức thấp và cùng có xu hướng giảm dần. Tỷ lệ thất
nghiệp giảm từ 6,9% của năm 1998 xuống còn 4,3% của năm 2010; thời gian thiếu
việc làm ở nông thôn giảm từ 28,9% xuống còn 5,5%.

Biểu đồ thể hiện số lao động, tỉ lệ thất nghiệp thành thị và thời
gian thiếu việc làm ở nông thôn nước ta giai đọan 1998-2010
60 35

50 30

25
40
20
30
15
20
10

10 5

0 0
1998 2000 2005 2010

Số lao động đang làm việc(triệu người) Tỉ lệ thất nghiệp ở thành thị(%)
Thời gian thiếu việc làm ở nông thôn
6

Thứ năm, trong thời gian qua, Việt Nam đã có những nỗ lực rất mạnh mẽ
trong việc đảm bảo bình đẳng giới thông qua các luật, chiến lược và chính sách về
bình đẳng giới, điển hình là Hiến pháp; Luật Bình đẳng giới; Luật Lao động; Luật
Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân; Luật Hỗ trợ Doanh
nghiệp vừa và nhỏ; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật; Chiến lược quốc
gia về bình đẳng giới giai đoạn 2011-2020; Đề án Phòng ngừa và ứng phó với bạo
lực trên cơ sở giới giai đoạn 2016-2020.

2.2. Những hạn chế cần khắc phục

     Mặc dù đã đạt được những thành tựu nhất định trong việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, nhưng trên thực tế còn
không ít các vấn đề khó khăn, phức tạp, cả khách quan và chủ quan.

Điểm nổi bật là trong hơn hai thập kỷ phát triển vừa qua, có tình trạng
một số người nghèo trở nên nghèo hơn.

Bảng: Thu nhập của các nhóm dân từ 1995-2004, đơn vị (nghìn VND)

1995 1996 1999 2002 2004 04/95,

lần

Nhóm 1 74,3 78,6 97,0 107,7 141,8 1,91

Nhóm 2 124,7 134,9 181,4 178,3 240,7 1,93

Nhóm 3 166,7 184,4 254,0 251,0 347,0 2,08

Nhóm 4 227,6 250,2 346,7 370,5 514,2 2,26

Nhóm 5 519,6 574,7 741,6 872,9 1182,3 2,28

N5/N1, lần 6,99 7,31 7,38 8,10 8,34

Trong khi nhóm giàu nhất (Nhóm 5) tăng thu nhập 2,28 lần trong 10 năm thì
nhóm nghèo nhất (Nhóm) tăng 1,91 lần. Đáng chú ý đây là thu nhập tuyệt đối (tính
7

bằng nghìn đồng) nếu con số này được tính bằng phần trăm GDP thì mức chênh
lệch giữa các nhóm còn lớn hơn nhiều.

Năng lực quản lý ở tất cả các cấp, các ngành đều không theo kịp yêu cầu
phát triển, thể hiện ở các mặt: dự báo chiến lược yếu kém; quy hoạch, kế hoạch
không chính xác, tiền của, sản phẩm làm ra với khối lượng và giá trị lớn, nhưng do
quản lý kém nên thất thoát, mất mát rất lớn; trong hoạt động quản lý, do không nắm
chắc tình hình thực tế nên việc điều hành luôn mắc mớ, trục trặc. Chênh lệch giàu -
nghèo của nước ta cũng ẩn chứa những yếu tố bất cập về phía những người giàu
với những biểu hiện làm giàu bất chính như tham nhũng, buôn lậu, làm ăn phi
pháp. Những khoản thu nhập bất chính có thể có được do buôn lậu, buôn hàng cấm,
gian lận thương mại trốn thuế, do tham nhũng... Những khoản thu nhập bất chính
này làm cho nhóm giàu ngày càng giàu lên nhanh chóng và làm gia tăng khoảng
cách chênh lệch giữa nhóm giàu và nhóm nghèo, làm cho những người nghèo càng
trở nên nghèo hơn.

2.3. Nguyên nhân của những hạn chế

- Điều đáng lo ngại nhất là một số yếu tố tác động đến nhóm nghèo làm cho
nghèo hơn chưa được nhận diện, ngăn ngừa thỏa đáng. Trong những yếu tố ấy, nổi
bật lên là ảnh hưởng của ô nhiễm môi trường và gánh nặng cá nhân trong chi trả
dịch vụ y tế, giáo dục. Tác động của ô nhiễm môi trường từ các ngành công nghiệp
và hóa chất bảo vệ nông nghiệp là nguy cơ lớn nhất đối với sức khỏe người dân nói
chung, và đặc biệt nguy hiểm đối với nông dân sống gần các khu công nghiệp.
Người nghèo ngày càng trở nên khốn khó khi nền kinh tế phát triển không bền vững,
môi trường không được chú trọng.

Ô nhiễm là tác động ngoại ứng tiêu cực làm cho người nghèo càng nghèo
hơn, trong khi đối tượng gây ô nhiễm không bị bắt buộc chi trả cho việc bảo vệ môi
trường. Ô nhiễm là một thủ phạm góp phần tăng tỷ lệ đói nghèo khi tiêu hao khả
năng lao động của nhiều lao động chính trong gia đình hoặc trực tiếp là nguyên
8

nhân làm chết cây trồng, vật nuôi của bà con nông dân. Những vụ việc ô nhiễm gây
tổn thất lớn cho hoạt động kinh doanh, sản xuất của nhân dân và những địa danh có
số người chết, đau ốm vì ô nhiễm môi trường xuất hiện ngày càng nhiều trong cả
nước.

Nhân dân ở một số nơi tiếp tục chịu tác động tiêu cực của những vùng ô
nhiễm nặng, hứng chịu rác thải, nước thải, khí thải công nghiệp độc hại từ những
nhà máy, khu công nghiệp và từ những làng nghề cơ khí tự phát ngay trong các khu
dân cư. Những tổn hại về sức khỏe, bệnh tật và chi phí khám chữa bệnh tăng làm
cho người nghèo trở nên nghèo hơn và những hộ cận nghèo tái nghèo trở lại. Vì
vậy, bảo vệ môi trường và quản lý nguồn gây ô nhiễm là một biện pháp tích cực
bảo đảm công bằng xã hội, giúp cho nhóm chịu tác động chủ yếu (người nghèo) bớt
chịu thiệt và nhóm gây tác động giảm thu lợi một cách bất công. Khi đó nhóm gây
tác động ở mức độ nhất định sẽ phải có phần bồi hoàn để bù đắp lại những thiệt hại
mà nhóm chịu tác động phải gánh chịu do tác nhân ô nhiễm gây ra.

- Giải thích cho những hạn chế trên có thể kể đến nguyên nhân là việc
chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường vừa còn di
chứng giai đoạn cũ vừa có yếu tố độc quyền, lũng đoạn, tự phát của hình thái kinh
tế thị trường giai đoạn sơ khai. Tham nhũng có đất phát triển khi hệ thống pháp luật
chưa hoàn thiện và pháp chế còn thiếu nghiêm minh. Bên cạnh các yếu tố khách
quan, cũng phải kể đến yếu tố chủ quan trong đó có ảnh hưởng của một số quan
điểm quá tả hoặc quá hữu trong mô hình phát triển.

3. Giải pháp

Để thực hiện được quan điểm tăng trưởng phải đi đôi với công bằng xã hội
trong từng bước, nhiệm vụ của bộ máy nhà nước rất nặng nề. Nhà nước phải thực
hiện có hiệu quả các chức năng cơ bản của mình.

Thứ nhất, thực hiện việc kết hợp tăng trưởng kinh tế nhanh với công bằng xã
hội ngay từ đầu khi xây dựng, thực thi chính sách kinh tế - xã hội và trong toàn bộ
9

tiến trình phát triển; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa cả ba mặt là kinh tế, xã hội
và môi trường.

Thứ hai,  hoàn thiện thể chế, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa; chủ động hội nhập quốc tế; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn
với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường để phát triển nhanh và
bền vững.

Thứ ba, xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, vững mạnh. Nội
dung cụ thể của giải pháp này là: nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước
để tạo môi trường, điều kiện thuận lợi để nền kinh tế vận hành thông suốt, hiệu quả
và hội nhập quốc tế; phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự do sáng tạo của người
dân trong phát triển kinh tế.

Thứ tư, hoàn thiện chính sách phân phối. Chính sách phân phối và phân phối
lại phải bảo đảm lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp. Chú trọng
phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực hiện
chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo
mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và thông qua phúc lợi xã hội.

Thứ năm, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, con người Việt Nam phát triển
toàn diện. Nội dung cụ thể của giải pháp này là: xây dựng môi trường văn hóa, đạo
đức lành mạnh; khắc phục những mặt hạn chế của con người Việt Nam; ngăn chặn
sự xuống cấp về văn hóa, đạo đức; xây dựng các cơ chế, chính sách để gắn kết chặt
chẽ xây dựng văn hóa và phát triển con người; phát triển văn hóa với phát triển
kinh tế - xã hội; đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục, đào tạo; phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ; phát huy vai trò của thông tin truyền thông; phát triển,
hoàn thiện, sử dụng hiệu quả các thiết chế văn hóa; thu hẹp khoảng cách chênh lệch
về hạ tầng văn hóa giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, vùng sâu,
vùng xa; giảm sự chênh lệch về mức hưởng thụ văn hóa giữa các giai tầng, các
nhóm xã hội.
10

Thứ sáu, phát triển và quản lý phát triển xã hội bền vững trên nền tảng dân
chủ, khoa học, thượng tôn pháp luật. Cùng với phát triển kinh tế, bảo vệ môi
trường, quản lý phát triển xã hội hợp thành khâu trung tâm của chiến lược phát
triển đất nước, hướng tới mục tiêu dân chủ, công bằng, văn minh. Quản lý phát
triển xã hội phải tập trung vào việc xây dựng mô hình phát triển xã hội hợp lý, đặt
trọng tâm vào việc mở rộng giai tầng xã hội có thu nhập thấp trên cơ sở không
ngừng nâng cao đời sống nhân dân.

4. Kết luận

Ngay từ khi tiến hành công cuộc đổi mới, chuyển đổi kinh tế từ kế hoạch tập
trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Việt Nam đã lựa chọn
mô hình gắn kết giữa tăng trưởng kinh tế gắn với tiến bộ và công bằng xã hội. Điều
này thể hiện ngay trong các văn kiện của Đảng. Quan điểm đó của Đảng được cụ
thể hóa trong các chính sách của Nhà nước.

Việt Nam là một trong số quốc gia có thành tựu về kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, phát triển giáo dục chăm sóc sức khỏe cho người dân. Đó là những bằng
chứng rõ nhất chứng minh tính đúng đắn của mô hình kết hợp tiến bộ và công bằng
xã hội gắn với tăng tưởng kinh tế mà Việt Nam đã lựa chọn.
11

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bùi Đại Dũng, Phạm Thu Phương/Tạp chí khoa học ĐHQGHN

2. Tổng cục Thống kê: Số liệu của Tổng cục Thống kê xuất bản thường niên 1987-
2006

3. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội

4. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB
Chính trị Quốc gia

5. Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành  Trung ương, Ban Chỉ đạo tổng kết lý
luận (2005),Báo cáo Tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 20 năm đổi mới
(1986-2006), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12

PHỤ LỤC

You might also like