You are on page 1of 18

HỌC VIỆN

ĐỀ THI HỌC PHẦN


CHÍNH SÁCH VÀ PHÁT TRIỂN
MÔN THỂ DỤC PHÁT TRIỂN CHUNG
Bộ môn: GDTC – QP
(TD1)
Năm học 2020 - 2021
Hình thức Thi: Vấn đáp

1. Quan điểm về sức khỏe?


Nêu những phương pháp để củng cố và tăng cường sức khỏe?
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đó là một trạng thái hài hoà về
thể chất, tinh thần và xã hội, mà không chỉ nghĩa là không có bệnh hay
thương tật, cho phép mỗi người thích ứng nhanh chóng với các biến đổi
của môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có kết
quả.
Sức khoẻ bao gồm sức khoẻ cá thể (từng người), sức khoẻ gia đình,
sức khoẻ cộng đồng, sức khoẻ xã hội. Sức khoẻ là một trong những yếu
tố cơ bản, đầu tiên để học tập, lao động, đẩy mạnh sản xuất, phát triển
kinh tế, xây dựng đất nước.
Sức khoẻ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: Cá nhân, môi trường, cộng
đồng, xã hội, tình trạng và những vấn đề chung của từng nước và toàn
thế giới môi trường sinh thái, chiến tranh khu vực, mức sống còn thấp,
sự bóc lột ở một số nước chậm phát triển...
Có nhiều phương pháp để củng cố và tăng cường sức khoẻ như:
chế độ dinh dưỡng, liệu pháp tâm lý, các thực phẩm hỗ trợ chức năng,
nhưng không có liệu pháp nào hiệu quả hơn việc tập luyện TDTT.

2. Nguồn gốc của TDTT?


- Tttd ra đời pt theo sự pt của XH loài người
- Lao động sx là nguồn gốc cơ bản của tdtt. Là cơ sở sinh tồn
của tất cả mọi hoạt động, là hoạt động thực tiễn cơ bản nhất.
- Được phát sinh trong những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất
định của xã hội đặc biệt là săn bắt
- Trong thời cổ xưa con người sống thành từng bầy lớn sinh
sống bằng săn bắt là bộ phận kinh tế sản xuất ra vật phẩm tiêu
dùng chủ yếu nhất của thời đó.( vđề : Ăn, ở, mặc...
- Săn bắt => thức ăn, vật phẩm tiêu dùng
- Muốn có thức ăn, sống an toàn => đấu tranh với thiên tai thú
dữ
- Nói cách khác săn bắt là cuộc thi giữa con người và con vật
về sức nhanh và sức mạnh, sức bền
= Đây chính là điều kiện khách quan đề ra đời TDTT
- Trong quá trình lao động con người nhận thấy việc tập luyện
là cần thiết để chuẩn bị cho lao động( lt như ném, leo trèo… -
dần tích lũy dc kinh nghiệm )
= Đây chính là điều kiện chủ quan của sự ra đời của TDTT
- TDTT là chuẩn bị cho lao động đi trước lao động. trong thời
kì này TDTT mang tính thực dụng trực tiếp cùng với sự phát
triển của loài người đặc biệt là sự phát triển KH- KT –làm
giảm nhẹ sức lao động của con người- thay = máy móc
- Vai trò chức năng khác như thể dục chữa bệnh, thể dục nghề
nghiệp, thể dục vệ sinh, TD trong thời gian nhàn rỗi, TD hồi
phục làm cho con người có trạng thái thoải mái để bước vào
lao động đạt hiệu quả cao.
- TDTT trở thành biện pháp quan trọng để chuẩn bị cho lao
động mà lao động là điều kiện tự nhiên để đảm bảo cho cuộc
sống. Xã hội loài người càng phát triển TDTT cũng theo đà
đó cũng phát triển
-
Thể dục thể thao ra đời phát triển theo sự phát triển của xã hội loài
người. Lao động sản xuất là nguồn gốc cơ bản của thể dục thể thao. Nói
cách khác, đó là cơ sở sinh tồn của tất cả mọi hoạt động, là hoạt động
thực tiễn cơ bản nhất. Thể dục thể thao được phát sinh trong những điều
kiện sinh hoạt vật chất nhất định của xã hội đặc biệt là săn bắt.
Trong thời cổ xưa con người sống thành từng bầy lớn sinh sống bằng
săn bắt là bộ phận kinh tế sản xuất ra vật phẩm tiêu dùng chủ yếu nhất
của thời đó. Ngay trong quá trình giải quyết những vấn đề thiết thân:
Ăn, ở, mặc... của mình. Tất cả mọi hoạt động của con người đều phục
vụ săn bắn. Nhờ săn bắt con người kiếm được thức ăn và một số vật
phẩm tiêu dùng. Chính vì vậy muốn có được thức ăn và sống được an
toàn, họ luôn phải đấu tranh với thiên tai và thú dữ, con người phải biết
leo trèo, lội qua suối, bơi qua sông v.v... Nói cách khác săn bắt là cuộc
thi giữa con người và con vật về sức nhanh và sức mạnh, sức bền. Thực
tế đấu tranh khốc liệt để sinh tồn đó
buộc con người phải biết chuẩn bị, dạy và học. Đây chính là điều kiện
khách quan đề ra đời TDTT mặt khác do hoạt động tư duy có rất sớm
những kinh nghiệm hoạt động của con người được lặp lại nhiều lần
trong cuộc sống và dần được tích luỹ lại đã làm cho con người nhận
thức được hiện tượng tập luyện, vì họ hiểu rằng chạy nhiều thì chạy
càng nhanh, càng dẻo dai hiệu quả của cuộc săn bắt càng tốt hơn.
Vì vậy trong quá trình lao động con người nhận thấy việc tập luyện là
cần thiết để chuẩn bị cho lao động, để lao động được khoẻ dẻo dai bền
bỉ cho nên người ta tập động tác tương tự như ném, leo trèo dần già quá
trình lao động và tập luyện con người đã tích luỹ được thêm nhiều hiểu
biết để truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây chính là điều kiện chủ
quan của sự ra đời của TDTT. Vậy chức năng vốn có của TDTT là
chuẩn bị cho lao động đi trước lao động trong thời kì này TDTT mang
tính thực dụng trực tiếp cùng với sự phát triển của loài người đặc biệt là
sự phát triển KH- KT ngày càng phát triển nó giảm nhẹ sức lao động
của con người, thay vào đó là những máy móc hiện đại tinh vi chủ động,
con người chỉ cần điều khiển thì vai trò của TDTT lại mang tính thực
dụng gián tiếp nó chuẩn bị thể lực cho con người ngoài ra nó còn nhiều
vai trò chức năng khác như thể dục chữa bệnh, thể dục nghề nghiệp, thể
dục vệ sinh, TD trong thời gian nhàn rỗi, TD hồi phục làm cho con
người có trạng thái thoải mái để bước vào lao động đạt hiệu quả cao.
Như vậy TDTT xuất hiện cùng với sự hình thành của xã hội loài người
TDTT trở thành biện pháp quan trọng để chuẩn bị cho lao động mà lao
động là điều kiện tự nhiên để đảm bảo cho cuộc sống. Xã hội loài người
càng phát triển TDTT cũng theo đà đó mà phát triển cho nên TDTT là
một hiện tượng xã hội nó thuộc phạm trù vĩnh cửu với ý nghĩa xuất hiện
cùng với sự xuất
hiện của XH loài ngươì sẽ tiến triển theo quá trình tiến triển của XH sẽ tồn tại mãi
mãi như những điều kiện tất yếu của nền sản xuất.

3. Đặc tính của TDTT?


- Đk sống thô sơ khắc nghiệt , thiếu thốn vật chất – tinh thần đã hạn chế hđ
tdtt
- Tuy nhiên cũng có mặt thuận lợi vì mọi tv trong xh dc hưởng thụ bình
đẳng như nhau.
- Về sau sự phân chia giai cấp làm mất đi sự bình đẳng – những cuộc xung
đột xảy ra đã góp phần thúc đẩy pt tdtt để phục vụ cho hđ quân sự
- Những tư liệu lịch sử để lại đã cho thấy mức độ phát triển khá cao của
TDTT trong thời cổ đại với hệ thống tổ chức huấn luyện thể lực – quân sự
chặt chẽ và quy mô trong các Nhà nước Spactơ, Aten; sự ra đời và phát
triển của các Olimpic; các tác phẩm nghệ thuật thể hiện ước vọng phát
triển thể chất cân đối cho con người. Tuy nhiên, trong xã hội có bóc lột,
chỉ có một số ít những người thuộc giai cấp thống trị là được hưởng thụ
những giá trị đó, còn đại bộ phận dân chúng thì chỉ được hưởng phần nào
việc giáo dục thể chất; họ không có được sự tự do, bình đẳng thật sự.
=> Đấy là đặc điểm cơ bản thể hiện xuyên suốt trong các xã hội còn có bóc
lột bất công sau này.
- Trong xã hội tư bản hiện đại, nhà cầm quyền cũng đã ít nhiều quan tâm đến hoạt
động TDTT cho những người lao động . Điều này chủ yếu nhằm phục vụ cho yêu
cầu gia tăng về cường độ và chất lượng sản xuất, đồng thời tuyên truyền, lôi kéo
đông đảo quần chúng, đặc biệt là thanh thiếu niên đi theo lý tưởng và lối sống của
họ. Mục đích là củng cố chế độ chính trị hiện có và thu được lợi nhuận càng
nhiều. Bên cạnh đó cũng không thể coi nhẹ áp lực mạnh mẽ của các cuộc đấu
tranh của những người lao động đòi cải thiện điều kiện sống, trong đó có TDTT.

- Tính dân tộc luôn được thể hiện rất rõ trong lối sống, nếp nghĩ, tập tục, truyền
thống và văn hoá nói chung (trong đó có TDTT) của từng dân tộc. Nó được hình
thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước, trong đấu tranh với tự
nhiên và xã hội của từng dân tộc qua từng điều kiện cụ thể. Tính dân tộc của
TDTT Việt Nam như tính nhân văn, tinh thần thượng võ, liên kết cộng đồng
… thể hiện rõ qua kho tàng dân tộc về mặt này, từ triết lý rèn luyện thân thể
cho đến các trò chơi vận động dân gian, các môn võ cổ truyền
Điều kiện sống thô sơ, khắc nghiệt, thiếu thốn cả về vật chất và tinh thần của con
người cổ xưa khi xã hội chưa phân chia giai cấp đã hạn chế rất nhiều hoạt động
TDTT. Tuy nhiên điều kiện lịch sử ấy cũng có mặt thuận lợi vì mọi thành viên
trong xã hội đều được hưởng thụ bình đẳng như nhau. Về sau, sự phân chia giai
cấp đã làm mất đi sự bình đẳng đó, nhưng những cuộc xung đột chiến tranh liên
miên giữa các bộ lạc, lãnh chúa và các quốc gia cũng góp phần thúc đẩy phát triển
của TDTT để phục vụ tốt hơn cho hoạt động quân sự. Những tư liệu lịch sử để lại
đã cho thấy mức độ phát triển khá cao của TDTT trong thời cổ đại với hệ thống tổ
chức huấn luyện thể lực – quân sự chặt chẽ và quy mô trong các Nhà nước
Spactơ, Aten; sự ra đời và phát triển của các Olimpic; các tác phẩm nghệ thuật thể
hiện ước vọng phát triển thể chất cân đối cho con người. Tuy nhiên, trong xã hội
có bóc lột, chỉ có một số ít những người thuộc giai cấp thống trị là được hưởng
thụ những giá trị đó, còn đại bộ phận dân chúng thì chỉ được hưởng phần nào việc
giáo dục thể chất; họ không có được sự tự do, bình đẳng thật sự. Đấy là đặc điểm
cơ bản thể hiện xuyên suốt trong các xã hội còn có bóc lột bất công sau này.

Sự hạn chế về phát triển TDTT trong xã hội có phân chia giai cấp không đơn giản
chỉ phụ thuộc vào lợi ích chủ quan của giai cấp thống trị mà nó còn phụ thuộc vào
những mối quan hệ kinh tế khách quan gắn với lợi ích thiết thân mà họ cần củng
cố. Những nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã phân tích một cách sâu sắc
mâu thuẫn cơ bản trong xã hội có phân chia giai cấp là trong lúc sự phát triển của
lực lượng sản xuất đòi hỏi phải có sự phát triển cân đối của lực lượng lao động thì
quan hệ sản xuất lại cản trở sự phát triển này. Muốn loại bỏ mâu thuẫn đó để tạo
điều kiện cho TDTT phát triên cơ bản, triệt để và toàn diện thì cần phải gắn liền
với quá trình phát triển và hoàn thiện xã hội, nhằm từng bước xây dựng nên một
xã hội tự do, bình đẳng, bác ái.

Trong xã hội tư bản hiện đại, nhà cầm quyền cũng đã ít nhiều quan tâm đến hoạt
động TDTT cho những người lao động. Điều này chủ yếu nhằm phục vụ cho yêu
cầu gia tăng về cường độ và chất lượng sản xuất, đồng thời tuyên truyền, lôi kéo
đông đảo quần chúng, đặc biệt là thanh thiếu niên đi theo lý tưởng và lối sống của
họ. Mục đích cao nhất vẫn chỉ là củng cố chế độ chính trị hiện có và thu được lợi
nhuận càng nhiều. Bên cạnh đó cũng không thể coi nhẹ áp lực mạnh mẽ của các
cuộc đấu tranh của những người lao động đòi cải thiện điều kiện sống, trong đó có
TDTT.

Tính dân tộc luôn được thể hiện rất rõ trong lối sống, nếp nghĩ, tập tục, truyền
thống và văn hoá nói chung (trong đó có TDTT) của từng dân tộc. Nó được hình
thành và phát triển trong quá trình dựng nước và giữ nước, trong đấu tranh với tự
nhiên và xã hội của từng dân tộc qua từng điều kiện cụ thể. Tính dân tộc của
TDTT Việt Nam như tính nhân văn, tinh thần thượng võ, liên kết cộng đồng
… thể hiện rõ qua kho tàng dân tộc về mặt này, từ triết lý rèn luyện thân thể
cho đến các trò chơi vận động dân gian, các môn võ cổ truyền.

4. Nêu khái niệm TDTT?


Từ những phân tích và đặc tính trên có thể xác định được khái niệm TDTT:
TDTT là bộ phận của nền văn hoá xã hội, một loại hình hoạt động mà phương
tiện cơ bản là các bài tập thể lực (thể hiện cụ thể qua các cách thức rèn luyện
thân thể) nhằm tăng cường thể chất, nâng cao thành tích thể thao, góp phần làm
phong phú đời sống sinh hoạt văn hoá và giáo dục, cùng tạo nên những con
người phát triển cân đối hợp lý.

Xuất phát từ khái niệm trên cho thấy một trong những vai trò của TDTT là tăng
cường thể chất cho con người, góp phần phát triển cơ thể cân đối, hài hoà.

5. Nêu khái niệm Thể chất?


Thể chất chỉ chất lượng cơ thể con người.

Thể chất là những đặc trưng tương đối ổn đinh về hình thái và chức năng của cơ thể,
được hình thành và phát triển so bẩm sinh di truyền và ảnh hưởng, tác động của
điều kiện sống.

6. Nêu khái niệm Phát triển thể chất?


Phát triển thể chất là một quá trình hình thành, biến đổi tuần tự theo quy luật
trong cuộc đời từng người về hình thái, chức năng, tố chất thể lực và năng
lực thể chất trong suốt cuộc đời mỗi cá nhân. (Chúng được hình thành trên
và trong cái nền của cơ thể.) Ví dụ: Trẻ em, bào thai, sơ sinh, mẫu giáo, nhi
đồng và trưởng thành.

Thể chất bao gồm thể hình, công năng và năng lực thích ứng của cơ thể.

Thể hình gồm hình thái, cấu trúc của cơ thể, mức độ phát triển, những chỉ số về
hình thái và tỷ lệ giữa chúng cùng các tư thế. Công năng bao gồm các tố chất
thể lực (sức mạnh, sức nhanh, sức bền..) và những năng lực vận động cơ bản
của con người (đi, chạy, nhảy, ném…). Năng lực thích ứng là khả năng thích
ứng chủ yếu về chức năng của cơ thể con người với hoàn cảnh bên ngoài, bao
gồm cả sức đề kháng với bệnh tật.

Sự phát triển thể chất phụ thuộc vào nhiều yếu tố (bên trong và bên ngoài) và
theo những quy luật nhất định về tính di truyền và khả biến, sự phát triển theo
lứa tuổi và giới tính, sự thống nhất hữu cơ giữa cơ thể và môi trường (vệ sinh,
diều kiện sống, dinh dưỡng), giữa hình thức cấu tạo và chức năng cơ thể.

Mỗi cá nhân hay xã hội không thể tuỳ ý thay bỏ hoặc làm ngược lại những quy
luật khách quan này. Chúng ta chỉ có thể đạt tới hiệu quả nếu hiểu rõ và vận
dụng, tác động thích hợp tới quá trình phát triển thể chất theo những phương
hướng, mục tiêu cụ thể, nhằm đáp ứng nhu cầu và lợi ích của từng cá nhân và xã
hội. Xét từ nghĩa ấy, TDTT là nhân tố xã hội chuyên môn nhằm tác động một
cách có chủ đích và hợp lý tới quá trình phát triển thể chất của con người; chủ
yếu về các tố chất vận động (các tố chất thể lực) và những kỹ năng vận động
quan trọng trong đời sống.

7. Khát quát về Thể thao?


Thể thao: Thể thao là một bộ phận của TDTT xã hội thực hiện chức năng
mở rộng giới hạn khả năng thể chất và tinh thần của con người. Trong xã hội
thể thao gồm hai bộ phận thể thao cho mọi người (thể thao quần chúng) và
thể thao thành tích cao (thể thao đỉnh cao)
Thể thao thành tích cao, có mục đích trực tiếp là thành tích tuyệt đối. Hoạt
động thể thao thành tích cao chiếm một giai đoạn lớn trong cuộc đời vận
động viên. Đối với họ hoạt động thể thao chiếm ưu thế trong chế độ sống.
Cuốc sống của vận động viên cấp cao phải được tổ chức đặc biệt phù hợp với
hệ thống tập luyện và thi đấu. Đối với vận động viên thể thao thành tích cao -
thể thao là nghề nghiệp.
Thể thao cho mọi người khác với thể thao thành tích cao ở mức độ thành
tích cần vươn tới. Thể thao thành tích cao lấy kỷ lục nhân loại, kỷ lục châu
lục, khu vực làm đích phấn đấu. Trong khí đó mục đích TDTT quần chúng
được xác định phù hợp với khả năng cá nhân. Vấn đề cơ bản của thể thao
quần chúng là sức khoẻ, là trình độ chuẩn bị thể lực chung. Có nhiều hình
thức, nhiều môn tập luyện thể thao quần chúng như: bóng chuyền hơi, bơi,
chạy, đi bộ, cầu lông, bóng bàn…

8. Khái quát về Thể Dục?


Thể dục: Là một hệ thống các bài tập đa dạng, được chọn lọc và thực hiện
với những phương pháp khoa học, nhằm phát triển cơ thể toàn diện, hoàn
thiện khả năng vận động. Căn cứ vào những nhiệm vụ đặt ra cho người tập,
những đặc điểm về lứa tuổi, giới tính và cá nhân người tập, Liên đoàn Thể
dục Thế giới (FIG), phân chia thể dục thành:

- Thể dục phát triển chung: có nhiệm vụ phát triển và củng cố sức khoẻ
người tập, giáo dục những kỹ năng vận động cơ bản phát triển sức nhanh,
sức mạnh, tính khéo léo… Thể dục phát triển chung bao gồm:
+ Thể dục cơ bản bao gồm các bài tập: đi bộ, chạy, nhảy, các bài tập phát
triển chung cho tay, chân, thân mình, đầu, các bài tập đơn giản trên dụng cụ
thể dục (thang dóng, ghế thể dục, cầu thăng bằng)

+Thể dục vệ sinh:

Thể dục vệ sinh cá nhân được tập luyện thường xuyên hàng ngày vào các
buổi sáng, buổi trưa và buổi tối. Trong mỗi bài tập có các động tác đơn giản,
ảnh hưởng toàn diện đến cơ thể, củng cố và hoàn thiện khả năng chức năng
của các hệ hô hấp, tuần hoàn, bộ máy vận động…

Thể dục vệ sinh tập thể: về nội dung không có gì khác biệt với thể dục vệ
sinh cá nhân, song được tiến hành dưới hình thức nhóm đông người, có
hướng dẫn viên.

+ Thể dục thể hình: Thể dục thể hình bảo đảm sự phát triển cân đối với nhóm cơ
của toàn thân, sửa chữa những thiếu sót về tư thế, đồng thời phát triển sức mạnh,
độ dẻo, tính khéo léo và các tố chất cần thiết khác của con người.

+ Thể dục thi đấu bao gồm: Thể dục dụng cụ, thể dục nghệ thuật, thể dục nhào lộn,
các bài tập trên lưới bật.

+ Thể dục thực dụng:

Thể dục thực dụng bổ trợ cho các môn thể thao

Thể dục thực dụng quân sự

Thể dục trong lao động

Thể dục ngành nghề

Thể dục chữa bệnh.

9. Vai trò của TDTT đối với sự phát triển hài hòa, cân đối thể chất con
người?
Từ những phân tích và lý lẽ nêu trên, cho thấy vai trò của TDTT đối với sự phát
triển cân đối hài hoà cơ thể con người qua các khía cạnh sau:
a) Thúc đẩy phát triển thể hình cân đối.

- Sự phát triển của cơ thể về thể hình chủ yếu dựa vào sự phát triển (lớn
mạnh) của từng tế bào và các chất gian bào.
- Còn sự phát dục lại chỉ sự biến đổi về chức năng và hình thái của các hệ
thống cơ quan trong cơ thể
 Chúng đều chịu sự chi phối của các yếu tố di truyền, dinh dưỡng, sự
lớn mạnh tự nhiên (khi đang ở giai đoạn phát triển) và điều kiện sống.
 . Tập luyện TDTT có thể đẩy mạnh, nâng cao hơn quá trình này và duy
trì được lâu hơn và làm chậm quá trình suy giảm khi tuổi cao.
- Cơ sở của sự hoàn thiện về thể hình và thư thế thân thể thông qua việc
luyện tập TDTT thường xuyên đó chính là sự tiêu hao năng lượng trong
quá trình vận động. ( Nl cung cấp cho hđ đó là ATP – tuy nhiên lượng
ATP dự trữ trong một bó cơ không nhiều, để hoạt động trong thời gian
dài- luôn phải được hồi phục đầy đủ = cách phân giải các chất dinh dưỡng
khác như đường, đạm, mỡ. Mức độ sử dụng và phân giải tuỳ thuộc vào
cường độ tập luyện và thời gian tập luyện)
- Vd bên dưới
- Đặc biệt trong thời đại ngày nay, với cuộc sống hiện đại đã mang lại
không ít tiện ích nhưng kèm theo đó là căn bệnh mà phần lớn chúng ta
phải mắc phải đó là “đói vận động”. để chữa tận gốc và triệt để k có bài
thuốc nào = đc tdtt

Sự phát triển của cơ thể về thể hình chủ yếu dựa vào sự phát triển (lớn mạnh)
của từng tế bào và các chất gian bào. Còn sự phát dục lại chỉ sự biến đổi về chức
năng và hình thái của các hệ thống cơ quan trong cơ thể. Hai cơ sở lý luận nêu trên
có chỗ giống nhau và khác nhau, tuy chúng đều chịu sự chi phối của các yếu tố di
truyền, dinh dưỡng, sự lớn mạnh tự nhiên (khi đang ở giai đoạn phát triển) và điều
kiện sống. Tập luyện TDTT có thể đẩy mạnh, nâng cao hơn quá trình này và duy trì
được lâu hơn và làm chậm quá trình suy giảm khi tuổi cao.

Sự hoàn thiện về thể hình và tư thế thân thể làm cho ngoại hình thêm đẹp phần
nào cũng phản ánh mức hoàn thiện về chức năng..

Cơ sở của sự hoàn thiện về thể hình và thư thế thân thể thông qua việc luyện tập
TDTT thường xuyên đó chính là sự tiêu hao năng lượng trong quá trình vận động.
Năng lượng cung cấp cho cơ hoạt động đó chính là ATP- là hợp chất giàu năng
lượng. Tuy nhiên lượng ATP dự trữ trong một bó cơ không nhiều, để hoạt động
trong thời gian dài, ATP luôn phải được hồi phục đầy đủ. Năng lượng dùng để hồi
phục ATP được tạo ra bằng cách phân giải các chất dinh dưỡng khác như đường,
đạm, mỡ. Mức độ sử dụng và phân giải đường, đạm, mỡ tuỳ thuộc vào cường độ tập
luyện và thời gian tập luyện. VD: Trong các hoạt động TDTT với cường độ tối đa và
dưới tối đa trong thời gian từ vài giây đến vài phút thì cơ thể sẽ sử dụng năng lượng
từ glucoza dự trữ trong cơ sau đó đến việc tổng hợp năng lượng từ glucoza được huy
động, sau đó nếu hoạt động với cường độ thấp hơn và trong thời gian kéo dài hơn thì
cơ chất để cung cấp năng lượng cho cơ hoạt động đó là đường và đạm, nhưng nếu
kéo dài hoạt động hơn nữa (đặc biệt trong các môn thể thao hoặc các bài tập rèn
luyện sức bền với hoạt động cơ nhẹ và kéo dài) thì phần lớn năng lượng được cung
cấp bằng cách ôxy hoá mỡ. Qua ví dụ trên cho thấy nếu tập luyện TDTT thường
xuyên với cường độ thích hợp sẽ làm tiêu hao năng lương dư thừa, giúp cho cơ thể
cân đối giữa cân nặng và chiều cao, giữa các vòng, các chỉ số nhân trắc của cơ thể:
vòng bụng nhỏ hơn, vòng đùi săn chắc….; hoặc cũng có thể khắc phục phần nào tư
thế xấu…

Mặt khác trong hoạt động vận động sẽ làm tăng Adrenalin (một loại hoóc môn
của lớp tuỷ thượng thận) sẽ có tác dụng tăng cường phân giải mỡ giúp tiêu hao năng
lượng dư thừa, tăng cường phân giải glucogen ở gan và cơ để tạo glucoza cho hoạt
động cơ bắp.
Đặc biệt trong thời đại ngày nay, với cuộc sống hiện đại đã mang lại không ít
tiện ích cho con người nhưng kèm theo đó là căn bệnh mà phần lớn chúng ta phải
mắc phải đó là “đói vận động”. Để “chữa” tận gốc và triệt để căn bệnh này không có
liều thuốc nào hiệu quả hơn đó là bài tập TDTT

b) Phát triển toàn diện các năng lực thể chất

Phát triển năng lực thể chất bao giờ cũng gắn chặt chẽ với chức năng của cơ thể.
Khi ta tập chạy bền thì cũng đồng thời nâng cao được khả năng hoạt động lâu dài của
các hệ thống tim- mạch, hô hấp, cơ bắp. Do đó, phát triển toàn diện các năng lực thể
chất cũng là một nhân tố quan trọng thúc đẩy sự cải tiến về hình thái chức năng và
ngược lại. Như vậy hoạt động TDTT có ảnh hưởng (tốt) nếu đúng phương pháp,
cường độ, quy trình tập luyện đến các cơ quan chức năng trong cơ thể như: hệ tuần
hoàn, hệ cơ xương, hệ hô hấp…

10. TDTT có ảnh hưởng rất lớn đến 3 hệ: hệ tuần hoàn, hô hấp và tiêu hóa?
Hãy trình bày ảnh hưởng của TDTT đến 1 trong 3 hệ trên?
Ảnh hưởng của luyện tập TDTT đối với hệ tuần hoàn:
Hệ tuần hoàn bao gồm có quả tim, mạch máu và chất máu. Tim có 4
ngăn, mạch máu bao gồm có 2 vòng tuần hoàn (lớn và nhỏ) và các mao
mạch. Chất máu gồm có hồng cầu và bạch cầu...
- Khi tdtt – con người bđ quá trình tiêu hoa nl . đòi hỏi
+ Tim làm việc nhiều hơn để cung cấp oxi và các chất dd cho cơ bắp
+ Tim cũng sẽ đào thải CO2 và các chất cặn bạ ra ngoài bằng con đường
mồ hôi, nước tiểu
 Thông qua các hoạt động TDTT thường xuyên, liên tục thì hệ tim mạch
cũng sẽ được tập luyện. Sau một thời gian thì chức năng của hệ tim mạch
tăng lên rõ rệt: cơ tim dầy lên từ 0,5 – 1cm, to hơn, chắc và khỏe (người
bình thường 270gr, VĐV 400 - 500 gr), tần số mạch và huyết áp giảm..
- Luyện tập TDTT làm cho lớp màng trong của thành mạch, sợi đàn hồi và
cơ trơn cũng dày lên. Tính đàn hồi của mạch máu tốt hơn, cải thiện các
chức năng của Tim mạch. Cho nên người tập TDTT thường xuyên khi về
già ít bị chứng căng mạch máu, là nguyên nhân sinh ra bệnh cao huyết áp.
Đối với người tập luyện TDTT thì hồng cầu và bạch cầu đều tăng, tỷ lệ
sắc tố cũng được tăng cường do vậy da dẻ của người tập luyện thường
hồng hào hơn so với người ít rèn luyện.

Khi bắt đầu hoạt động TDTT thì cũng là lúc cơ thể con người bắt đầu quá
trình tiêu hao năng lượng. Lúc này cơ thể đòi hỏi Tim (hệ tuần hoàn) làm
việc nhiều hơn để cung cấp oxy và các chất dinh dưỡng để giúp cơ bắp
nâng cao hiệu suất làm việc (nâng cao thành tích thể thao), đồng thời Tim
cũng sẽ đào thải CO2 và các chất cặn bạ ra ngoài bằng con đường mồ hôi,
nước tiểu… Thông qua các hoạt động TDTT thường xuyên, liên tục
(hằng ngày, hang tháng) thì hệ tim mạch cũng sẽ được tập luyện. Sau một
thời gian thì chức năng của hệ tim mạch tăng lên rõ rệt: cơ tim dầy lên từ
0,5 – 1cm, to hơn, chắc và khỏe (người bình thường 270gr, VĐV 400 -
500 gr), tần số mạch và huyết áp giảm. VD: yên tĩnh ở người bình thường
là 60 – 80 nhịp/phút, VĐV 50 - 60 nhịp/phút, khi vận động, người bth 80
– 120 nhịp/phút, ở VĐV có thể lên tối 180 nhịp/ phút.
Luyện tập TDTT làm cho lớp màng trong của thành mạch, sợi đàn hồi và
cơ trơn cũng dày lên. Tính đàn hồi của mạch máu tốt hơn, cải thiện các
chức năng của Tim mạch. Cho nên người tập TDTT thường xuyên khi về
già ít bị chứng căng mạch máu, là nguyên nhân sinh ra bệnh cao huyết áp.
Đối với người tập luyện TDTT thì hồng cầu và bạch cầu đều tăng, tỷ lệ
sắc tố cũng được tăng cường do vậy da dẻ của người tập luyện thường
hồng hào hơn so với người ít rèn luyện.

Ảnh hưởng của luyện tập TDTT đối với hệ hô hấp:


Chức năng của hệ thống hô hấp mạnh hay yếu phụ thuộc bởi năng lực CO2
của cơ thể, khi tập luyện thể dục thể thao cơ thể đòi hỏi nhiều hơn về O2,
chính vì vậy mà tần số hô hấp tăng lên. Để đáp ứng nhu cầu trên, các cơ
quan của hệ thống hô hấp bắt buộc phải cải thiện năng lực làm việc của bản
thân. Do vậy, tiến hành tập luyện thể dục thể thao trong thời gian dài có thể
nâng cao năng lực hấp thụ O2, từ đó nâng cao được chức năng của các cơ
quan trong hệ thống hô hấp, cải thiện cơ năng hệ thống hô hấp.

Quá trình hoạt động sống của con người là một quá trình tiêu hao năng
lượng, năng lượng đó được lấy từ nguồn dự trữ các chất trong cơ thể. Những
vật chất dự trữ này khi được đem ra để biến đổi thành năng lượng đòi hỏi
phải có một quá trình O2 hoá, do vậy, cơ thể bắt buộc phải không ngừng sử
dụng O2 từ môi trường bên ngoài và thở ra CO2. Quá trình trao đổi này gọi
là quá trình hô hấp.

Hệ thống hô hấp bao gồm phổi, khí quản, mũi… trong đó phổi là nơi trao
đổi khí, còn lại đều là đường hô hấp. Cơ thể khi trong trạng thái yên tĩnh mỗi
phút đòi hỏi 0,25- 0,3 ml khí, như vậy chỉ cần 1/20 số phế nang trong phổi
hoạt động là có thể đáp ứng. Nếu cứ như vậy trong thời gian dài thì những
phế nang không được sử dụng sẽ bị thoái hoá đi, từ đó chức năng của hệ
thống hô hấp sẽ giảm đi mạnh mẽ và rất dễ mắc bệnh.

Sau tập luyện thể dục, thể thao, chức năng hô hấp được cải thiện ra sao?
– Cơ hô hấp được phát triển dần, có lực, có sức bền, có thể chịu đựng với
lượng vận động lớn.
– Dung tích sống tăng lên, tăng cường hấp thụ O2 và thải CO2. Dung tích
sống là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá trình độ sức khoẻ và sự sinh
trưởng phát dục của thiếu niên nhi đồng. Thường xuyên tập luyện thể dục
thể thao đặc biệt là làm các động tác gập duỗi ngực có thể làm cho sức
mạnh của cơ hô hấp được tăng cường, lồng ngực to lên điều này có lợi
cho sự sinh trưởng phát dục của tổ chức phổi, cũng như sự khuyếch
trương của phổi từ đó làm cho dung tích sống tăng lên.
– Tăng cường độ sâu hô hấp. Ở người bình thường hô hấp nông và nhanh,
khi yên tĩnh tần số yên tĩnh khoảng 12 -18 lần/ phút, ở người thường
xuyên tập luyện thể dục thể thao hô hấp sâu và chậm lúc yên tĩnh tần số
hô hấp khoảng 8 -12 lần/ phút. Như vậy có nghĩa là các cơ hô hấp có
nhiều thời gian để nghỉ ngơi. Sự khác biệt này còn biểu hiện rõ nét hơn
trong khi vận động.
Ngoài ra, do kết quả của tập luyện thể dục thể thao lâu dài đã cải thiện
được chức năng của hệ thống hô hấp và các hệ thống khác (hệ thống thần
kinh, hệ thống tuần hoàn…) nâng cao năng lực nhả CO2 và hấp thụ O2
khi trao đổi khí, làm cho vận động viên khi hoạt động kịch liệt vẫn có thể
phát huy chức năng của hệ hô hấp (ở người bình thường khó có thể đạt
được).
Ảnh hưởng của luyện tập TDTT đến hệ tiêu hoá:
Dạ dày và ruột là những cơ quan chủ yếu của hệ thống tiêu hoá trong cơ thể.
Năng lực tiêu hoá của dạ dày và ruột tốt sẽ có những ảnh hưởng tốt đối với
sức khoẻ con người. Thường xuyên tập luyện thể dục thể thao sẽ nâng cao
được công năng tiêu hoá của dạ dày và ruột, tăng cường sự khoẻ mạnh cho
gan, đồng thời còn có tác dụng trị liệu và phòng ngừa một số bệnh về hệ
thống tiêu hóa.

Thường xuyên tập luyện, do nhu cầu hoạt động của cơ bắp nên dạ dày và ruột phải
tăng cường chức năng tiêu hoá, lúc này dịch và men tiêu hoá tăng lên nhiều, sự co
bóp ở đường dẫn truyền tiêu hoá càng được tăng lên mạnh mẽ, tuần hoàn máu ở dạ
dày và ở ruột cũng được cải thiện.

Do phát sinh các thay đổi nêu trên mà việc tiêu hoá thức ăn và hấp thụ các
chất dinh dưỡng được diễn ra thuận lợi, mặt khác do khi vận động phải hô
hấp sâu, cơ hoành cách hoạt động với biên độ lớn nên đã di chuyển nhiều
xuống phía dưới, cơ bụng cũng hoạt động mạnh, điều này đã có tác dụng
mát xa cho dạ dày và ruột.

Do tập luyện thể dục thể thao có tác dụng nâng cao năng lực tiêu hoá của dạ
dày và ruột như vậy nên đã có không ít người sử dụng tập luyện thể dục thể
thao như một phương pháp trị liệu đối với một số bệnh dạ dày và họ đã thu
được hiệu quả nhất định.

Gan là một tạng lớn trong cơ thể con người, nó đóng vai trò hết sức quan
trọng đối với hệ tiêu hoá, thường xuyên tập luyện thể dục thể thao chức năng
của gan được tăng cường điều này rất có lợi cho việc tiêu hoá thức ăn.

Lượng đường đơn trong gan của vận động viên và người thường và tốc độ
đẩy đường đơn ra ngoài của gan ở vận động viên cũng nhanh hơn người
thường. Đường đơn ở gan là hết sức quan trọng đối với sự khoẻ mạnh của
gan, nó có thể bảo vệ cho gan, vì nguyên nhân này mà các bác sĩ thường yêu
cầu những bệnh nhân gan ăn nhiều hoa quả có đường.

Chức năng gan ở vận động viên là rất tốt, khả năng đề kháng với bệnh gan
cũng rất cao. Ở người thường xuyên tập luyện thể dục thể thao thì việc sử
dụng đường đơn trong gan cũng kinh tế hơn ở người thường.

Từ những yếu tố trên, có thể thấy tập luyện thể dục thể thao có thể làm tăng
thêm sức khoẻ cho gan, mà gan có khoẻ thì mới có thể nâng cao được năng
lực lao động và vận động.

b) Nâng cao năng lực thể chất của cơ thể

- Tập luyện lâu dài, có hệ thống trong các điều kiện đa dạng, thay đổi về thời
tiết, khí hâu, địa thế.. sẽ có lợi cho nâng cao năng lực thích ứng trước các điều
kiện tự nhiên khác nhau

- tăng cường khí huyết lưu thông và khả năng tạo máu, đẩy nhanh quá trình trao
đổi chất. nâng cao sức đề kháng đối với vi khuẩn gây bệnh, bệnh tật. góp phần
phòng trị được các bệnh :huyết áp, tâm thần

- Thân thể và tinh thần trí tuệ không tách rời nhau. Thể chất cường tráng, tinh
lực sung mãn, sức sống dồi dào có ảnh hưởng to lớn đến trạng thái tinh thần của
con người và ngược lại

Tập luyện lâu dài, có hệ thống trong các điều kiện đa dạng, thay đổi về
thời tiết, khí hâu, địa thế.. sẽ có lợi cho nâng cao năng lực thích ứng trước
các điều kiện tự nhiên khác nhau. Mặt khác cũng tăng cường khí huyết
lưu thông và khả năng tạo máu, đẩy nhanh quá trình trao đổi chất, do đó
nâng cao sức đề kháng đối với vi khuẩn gây bệnh, bệnh tật và kịp thời
góp phần phòng trị được cả những căn bệnh của nền văn minh đem lại
như: huyết áp, tâm thần..
Thân thể và tinh thần trí tuệ không tách rời nhau. Thể chất cường tráng,
tinh lực sung mãn, sức sống dồi dào có ảnh hưởng to lớn đến trạng thái
tinh thần của con người và ngược lại. Kinh nghiệm y học cổ kim, đông
tây đã nói nhiều tới ảnh hưởng của những vết thương tinh thần đến các cơ
quan trong cơ thể. Đồng thời nhiều đời nay người ta đã biết dùng nhiều
hình thức tập luyện TDTT đa dạng để điều hoà trạng thái tâm lý, phòng
trị một số bệnh tật. Do đó, khi nói về tác dụng của TDTT, về sức khoẻ,
Bác Hồ luôn gắn “khí huyết lưu thông” với “tinh thần thoải mái”.

You might also like