You are on page 1of 40

Văn hóa trà Việt

CHƯƠNG 1.
TÁC DỤNG CỦA TRÀ ĐẾN VỚI THÂN THỂ, TÌNH CẢM, TRÍ TUỆ
VÀ TÂM LINH CON NGƯỜI

T ôi là một người thích uống cà phê, từ khi học sinh, rồi vào đại học đến khi ra trường đi làm. Khi học
sinh thì uống cà phê pha phin, đến khi đi làm thì mỗi ngày tôi uống ít nhất là hai ly Double Espresso.
Vui buồn gì tôi cũng phải làm ly cà phê đã và tôi xem đó là một thói quen tốt. Vì tôi thích uống, kể cả
bia rượu hay các đồ uống có cồn hay không có cồn nên tôi hay nói đùa với người thân rằng mệnh tôi là “Đại hải
thủy” tức là “nước biển lớn” - có thể dung nạp hóa giải mọi thứ từ nước nhưng có một thứ nước “thần thánh”
mà tôi đặc biệt yêu thích là “bát nước chè tươi”.

Quê tôi là vùng bán sơn địa, núi kề biển, mỗi lần mẹ tôi chở tôi về thăm ông bà nội - nhà của ông bà ở trên một
ngọn đồi trồng chè, thì khi ra về, tôi luôn được bà nội tặng một giỏ các loại trái cây lỉnh kỉnh và chắc chắn
không thể thiếu một bó chè tươi. Mỗi khi bà con cô bác đến nhà tôi chơi, tay luôn cầm theo một bó chè, vì thế
với tôi, chè như là biểu tượng của sự thiện chí, sự quan tâm hay sự trân trọng của những người thân yêu. Quê
mẹ tôi vùng biển, nhiều đất pha cát, trồng khoai rất ngon, thế là mỗi lần ba về nghỉ phép, tôi luôn thấy mẹ dậy
sớm, nấu một nồi khoai và một nồi nước chè tươi đãi ba. Điều đó như là một biểu tượng của tình nghĩa vợ
chồng thật chân tình, mộc mạc và gửi gắm trong đó sự nồng nàn, thắm thiết như Trời và Đất.

Sau này khi sống xa nhà, mỗi lần về quê, điều đầu tiên tôi làm là tìm ngay nồi nước chè hoặc ấm nước chè tươi
thơm mát làm từ những lá chè, búp chè, cuống chè, được vò sạch và hãm trong nước sôi, có thể ủ ấm nếu muốn.
Chè là thứ thức uống hàng ngày ở quê và thật xa xỉ đối với thành phố. Nó mang một cảm giác no, sảng khoái và
run run đến từng tế bào, một sự sung sướng từ trong ra ngoài.

Ở thành phố, trong căng tin nhà trường cũng có thứ tương tự nhưng chẳng bao giờ được thế cả, đó là trà đá và
trà nóng. Trà là búp chè được sấy khô, sao lên và cho vào ấm, đổ nước sôi vào. Uống nóng hay cho đá lạnh vào
tuỳ mùa, đặc hay loãng tuỳ khả năng chịu được độ chát, cũng rất ngon nhưng không thể so bằng bát nước chè
thần thánh ở quê được. Khi tôi là sinh viên thì ba tôi đã là một doanh nhân. Sau khi ra quân, ba tôi được những
đối tác Trung Quốc và Đài Loan mang tặng nhiều loại trà như Ô Long, Phổ Nhĩ, Thiết Quan Âm....nhiều vô kể,
thơm phức, với cách pha cầu kỳ và tôi nghe bảo rằng giá thành rất đắt. Tôi uống thấy ngon nhưng với tôi chỉ
ngon hơn trà căng tin ở trường và không thể bằng bát nước chè ở quê. Có lẽ vì tôi là người sống tình cảm, bát
nước chè là cả bầu trời ký ức về làng quê, về tình làng nghĩa xóm, về văn hóa ban tặng biết ơn mà tôi được
thẩm thấu vào trong huyết quản mình. Sau này khi đã là một doanh nhân, tôi có điều kiện được đi học tập, làm
việc và du ngoạn khắp nơi trên thế giới. Tôi và vợ mình có cơ hội được uống trà chiều ở châu Âu với bánh ngọt
và tâm sự đủ chuyện trên đời, hay dùng tiệc trà ở phủ Tổng Thống sau mỗi lần hội đàm, hay thưởng thức những
chén trà tẩm ướp nhiều phụ gia mang màu huyền bí của Trung Đông, hay cùng các nghệ nhân của Trung Quốc,
Nhật Bản, Đài Loan thưởng thức trà được họ gọi là trà Đạo, Thiền trà, tôi đều cảm thấy rất thú vị. Tôi tin rằng
bạn và rất nhiều người khác, trong hành trình cuộc sống của mình, đâu đó cũng đã có những trải nghiệm như
vậy, thậm chí là ở những hình thái sâu sắc hơn, hấp dẫn và phổ quát hơn những trải nghiệm của tôi.
Kể cả đến lúc đã trải nghiệm cái hay của trà và rất tôn trọng những thứ liên quan đến vị trà từ bánh kẹo đến Sô-
cô-la, hay nước uống đóng chai có nguồn gốc từ trà thì tôi vẫn thích uống...cà phê. Lý giải cho điều này là do
tính chất nghề nghiệp. Là một doanh nhân, làm trong ngành đầu tư, chuyên môn hẹp của tôi là M&A (Mergers
and Acquisitions - Sáp nhập và mua lại), chủ yếu là mua bán và sáp nhập doanh nghiệp. Ngành này cần kiến
thức tổng hợp, tốc độ tư duy nhanh, bộ não luôn ở trạng thái kích hoạt tối đa để có thể xử lý nhiều thông tin đa
chiều cùng một lúc. Từ khi đi học, tôi đã chọn nghiên cứu về ngành này nên tôi xem cà phê như là “trợ lý” tin
cậy và sắc sảo. Thậm chí nhiều lúc tôi còn cần một “ông già thông thái” nữa là điếu Cigar và ly Cognac khi cần
phải suy nghĩ sâu, phân tích kỹ và ra quyết định độc lập. Có những khi tôi dùng cả ba thứ này, một ly Double
Espresso, một ly Cognac và một điếu Cigar để bộ não được kích hoạt tối đa. Các nơ-ron thần kinh giống như
những xúc tua tạo ra siêu liên kết trong não và giúp tôi đưa ra sáng kiến nào đó. Chúng loé lên trong đầu khi
những xúc tua của các tế bào não tương tác với nhau thông qua các trao đổi sinh hóa. Tôi gọi những sự loé sáng
đó là trực giác, giúp tôi thông minh hơn, trí tuệ hơn, khôn ngoan hơn. “Bí quyết” này tôi dùng rất nhiều và rất
thành công. Nó khiến tôi trở thành con người của hành động và rất quyết đoán trong mọi quyết định quan trọng.
Tôi cảm nhận cả thế giới xung quanh mình cũng vận hành theo tốc độ, tần số đó. Tất cả như một bản nhạc giao
hưởng đang đến đoạn cao trào với sự cộng hưởng của nhiều nhạc cụ dưới sự chỉ huy đầy nhiệt huyết và máu lửa
của nhạc trưởng.

Bỗng nhiên! Im bặt...

Đại dịch Covid-19 đến với tốc độ chóng mặt và khiến cả thế giới câm lặng: giãn cách xã hội, các tụ điểm công
cộng bị đóng cửa, hạn chế gặp mặt, hạn chế đi lại, hạn chế tiếp xúc...

Dịch bệnh lây lan và số lượng người tử vong tăng không ngừng đã làm cho mỗi người chúng ta có một ưu tiên
quan tâm hơn, đó là những điều cơ bản, nguyên sơ có tính căn cốt như Thân thể, Tình cảm, Trí tuệ và Tâm linh.

Câu chuyện về trà tưởng chừng như quá cũ lại trở nên mới mẻ và thậm chí phải học lại từ đầu một cách có hệ
thống, sâu rộng và mang tính phổ quát hơn, ở một đẳng cấp mới và vĩ đại hơn trong nhận thức của bản thân tôi.
Những bộ óc thông minh nhất của thế giới không xử lý kịp với tốc độ lây lan của Covid-19, những cỗ máy vĩ
đại không xử lý được số liệu và nguồn gốc của dịch bệnh, những cái đầu thông thái bối rối và hoảng loạn. Hầu
hết tất cả mọi đường bay dừng lại, cấm xuất nhập cảnh, trẻ em không được đến trường, mọi đường phố ngóc
ngách trên thế giới đều vắng hoe, bóng ma chết chóc và bệnh tật phủ kín toàn cầu, một màu xám xịt bao phủ
toàn nhân loại. Niềm tin con người bị khủng hoảng, nước Mỹ “giận dữ” với Tổ chức Y tế Thế giới (World
Health Organization - WHO), rút tài trợ khỏi WHO, chỉ trích thẳng thừng Trung Quốc và sự chia rẽ trên toàn
cầu càng trở nên sâu sắc từ phương diện quốc gia đến phương diện cá nhân.

Những ngày đầu tháng 5 năm 2020, khi đại dịch Covid-19 bắt đầu diễn biến phức tạp hơn ở trong nước, ngồi
bên ly cà phê nguội lạnh, điếu Cigar khô khốc và ly Cognac lạnh băng trong nhà hàng TPP vắng hoe không một
bóng người, nhả những làn khói cô độc, tôi chờ Trường - bạn học cùng đại học của tôi. Mặc dù học chung đại
học nhưng mười lăm năm nay, chúng tôi chưa từng gặp lại nhau. Tôi và cậu ấy liên lạc lại nhờ việc theo dõi
nhau trên Facebook. Là một người tư duy tích cực, tôi tìm thấy cơ hội trong những nguy cơ do Covid-19 gây ra
để làm những điều mà nếu không có Covid-19, với nhịp sống cũ, tôi không thể làm được. Đó là mua những
công ty trước đây tôi không thể mua, ra mắt những thương hiệu trước đây chưa thể ra mắt và gặp gỡ những
người trước đây chưa có điều kiện gặp hay viết những điều trước đây chưa thể viết. Tôi hợp tác với một nhà
máy nước có chất lượng mỏ khoáng rất tốt để ra mắt một thương hiệu nước trùng với tiêu đề cuốn sách tôi đã
viết trước đó ba năm: “Tình thương”. Trường đến để lấy nước mà tôi đăng trên trang cá nhân là tặng cho bạn bè
và người thân trong mùa Covid-19. Mục đích tôi tặng để cho mọi người cùng được dùng nước tốt cho sức khỏe
thì hành động đó còn mang thông điệp chia sẻ “Tình thương” trong mùa đại dịch. Và món quà Trường mang
đến tặng lại tôi là những gói trà nhỏ từ nhà máy của gia đình cậu ấy.

Vì yêu thích trà nên trong nhà hàng TPP của mình, một không gian văn hóa Việt không thể thiếu một bàn trà,
nhưng bình thường tôi không hay ngồi chỗ đó. Trường đã rất ngạc nhiên và sung sướng ngồi vào cái bàn đấy vì
ở đó đã có đầy đủ dụng cụ pha trà rất chuyên nghiệp. Tôi thì rất tò mò và... hồi hộp! Tôi nghĩ chẳng may trà của
Trường không ngon thì không biết ăn nói thế nào với người bạn mười lăm năm mới gặp lại, chẳng lẽ chê, mà
giả vờ khen ngon thì với sự chân thành của tình bạn lâu năm trong suy nghĩ của mình, tôi lại không thể làm
được. Nhưng bằng trực giác, khi Trường đang pha trà, tôi xin một nhúm để đưa vào miệng và bỏ vào một ly
nước nóng trong suốt để quan sát trà thức dậy và vươn mình trong nước nóng như thế nào. Vị Ô Long tuyệt vời
trên đầu lưỡi, hương thơm từ ấm trà đang thức giấc, một chén trà nóng màu hổ phách như một viên thạch anh
hồng thẫm, tuyệt đẹp. Tôi chiêu ngay một ngụm từ chén trà Trường đưa, một cảm giác như chảy tràn vào cuống
lưỡi, thơm cả vòm họng một mùi hương pha khói mang vị ngọt của nắng sớm trên đồi. Wow! Amazing! (Thật
tuyệt vời!). Một niềm vui sướng và tự hào khôn tả, trà Việt, của người Việt! Ngay khoảnh khắc đó, bình minh
của một ngành công nghiệp mới đã xuất hiện trong tôi.

Nếu như cà phê cho tôi sự thông minh, Cigar và Cognac cho tôi sự khôn ngoan thì trải nghiệm về trà lần này
mang đến cho tôi sự thông tuệ và dường như chạm đến cảnh giới của sự giác ngộ. Thật đúng là “Vị Tình thương
- Hương giác ngộ”.

Từ khi làm mua bán doanh nghiệp, tôi chưa hề nghĩ đến việc mua công ty chè hay đầu tư vào vùng nguyên
liệu chè vì tôi nghĩ rằng nhiều ngành khác có thể giúp mình có lợi thế sinh lợi hơn. Nhưng lần này, bằng trực
giác, tôi nghĩ Trời Phật đã thương mình, đưa đến cho tôi một cơ hội tuyệt vời, một trải nghiệm đặc biệt với
một người bạn chân tình trong một hoàn cảnh cũng hết sức đặc biệt để cùng nhau làm nên một điều gì đó cho
quê hương xứ sở chúng ta, mảnh đất hình chữ S dấu yêu, đầy trù phú về sản vật và thấm đẫm tình người.
Trong cuốn sách “Việt Nam, quốc gia của Tình thương”, tôi đã gửi gắm một khát vọng về một xứ sở như là một
cõi Phật, nơi đó sáng ngời ánh sáng của văn hóa Tình thương.

Cuộc gặp định mệnh với ly trà của người bạn cũ đã giúp tôi lóe lên một niềm tin, một ánh sáng cuối đường hầm
cho cuộc hành trình tìm về nguồn cội của cây chè đang sừng sững hàng nghìn năm nay trong bạt ngàn rừng
nguyên sinh vùng Tây Bắc, những đồi chè bát ngát dọc suốt dãy Trường Sơn. Trong đầu tôi là hình ảnh những
nhà máy chè, bảo tàng trà từ thời Pháp thuộc ở tỉnh Lâm Đồng đến bao cơ sở sản xuất, chế biến trên cả nước.
Sống dậy trong tiềm thức tôi là những câu thơ đã học thuộc lòng từ thơ bé.

“Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Nhưng tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau”
(“Bao giờ trở lại” - Hoàng Trung Thông)

Lịch sử, hiện tại và tương lai như gặp nhau trong ly trà. Cả một nền văn hóa, cả bầu trời di sản của núi rừng
hàng trăm triệu năm mang bao nguồn năng lượng, nguồn sống tươi mới đang hiển hiện ở đây.

Trà là di sản. Trà là lịch sử. Trà là văn hóa. Trà là sức mạnh, và trà là... trà, đơn giản là trà thôi!

Một cơ hội mới đã bắt đầu, chúng tôi bắt tay chúc mừng nhau. Sự hứng khởi trong tâm trí khiến hai con người
lâu năm gặp lại quên mất tâm sự mà thay vào đó là trà Việt thế nào? Đầu tư ra sao? Phát triển dòng gì? Nhà
máy ở đâu? Ai làm thương hiệu? Công nghệ của ai? Học hỏi ra sao? Bao giờ ra mắt... liên tục được đưa ra và
thảo luận.

Từ đây, tôi bước vào một cuộc hành trình mới đầy thú vị, cuộc hành trình của văn hóa trà Việt, cuộc hành trình
vượt qua giới hạn của không gian và thời gian để tìm về quá khứ và hướng đến tương lai trên mảnh đất Việt linh
thiêng và trù phú.

TÁC DỤNG CỦA TRÀ ĐỐI VỚI THÂN THỂ CON NGƯỜI:

Trà không chỉ mà một thức uống, khoa học chứng minh trà là một dược liệu. Do trà có chứa một số hợp chất
amin thơm, chúng làm tan chất béo, trợ giúp tiêu hóa thức ăn từ thịt. Giảm huyết áp, chống lão hóa:
Polyphenolic, vitamin C và PP chứa trong trà giúp giảm mỡ, giảm huyết áp, cải thiện chức năng mạch máu.
Trong trà có chứa caffeine, chất này có tác dụng hưng phấn thần kinh, sảng khoái, tỉnh não.

Các nghiên cứu khoa học đã chỉ ra những tác dụng của trà đối với thân thể như sau:

1. Tăng tuổi thọ


Từng có khảo sát đối với những người sống thọ trăm tuổi cho thấy, 40% số người sống không thể thiếu trà và
80% số người có thói quen uống trà.

2. Tỷ lệ ung thư thấp ở những người nghiện trà


Vào tháng 08/1945, vài chục năm sau vụ đánh bom nguyên tử ở Hiroshima Nhật Bản, bộ phận thống kê của
Nhật Bản phát hiện ra tỷ lệ bệnh ung thư thấp ở những nông dân trồng chè và phần lớn người nghiện uống trà.
Năm 1999 chính phủ Nhật Bản đưa ra một kế hoạch hai giai đoạn về “toàn dân uống trà để phòng chống ung
thư”; qua khảo sát tổng cộng 8.522 người, theo dõi trong 10 năm, trong đó có 419 bệnh nhân ung thư, các nhà
nghiên cứu phát hiện thời gian phát triển bệnh ung thư ở phụ nữ có thói quen uống trà muộn hơn khoảng 7 năm
người không uống trà, còn đối với nam giới muộn hơn khoảng 3,2 năm.

3. Chống oxy hóa


Theo kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu Nhật Bản, tác dụng chống lão hóa của polyphenol trong trà
cao gấp 18 lần so với vitamin E. Qua kiểm tra chất chống oxy hóa đã xác minh rằng một tách trà 300ml có
lượng chất chống oxy hóa tương đương với một nửa chai rượu vang đỏ, tương đương 12 chai rượu vang trắng,
tương đương với 12 cốc bia, tương đương với 4 quả táo, tương đương với 5 củ hành tây, tương đương với 7 ly
nước cam tươi.

4. Có hiệu quả ngăn chặn sự lây lan của HIV trong cơ thể
Các nhà khoa học Anh và Mỹ đã công bố báo cáo nghiên cứu trên tạp chí “Miễn dịch học Dị ứng và Lâm sàng”
chỉ ra rằng polyphenol EGCG trong trà có hiệu quả ngăn chặn sự lây lan của virus HIV trong cơ thể người, khi
tiêm chủng mang lại hiệu quả phòng chống nhiễm HIV.

5. Giảm 71% nguy cơ mắc bệnh Parkinson


Các nhà nghiên cứu tại Đại học Quốc gia Singapore đã theo dõi trong 12 năm đối với 63.257 người Trung Quốc
tại Singapore ở độ tuổi từ 45 đến 75. Nghiên cứu phát hiện tỷ lệ phát triển bệnh Parkinson ở những người trung
niên và người già thường xuyên uống trà thấp hơn 71% so với những người không có thói quen uống trà.

6. Axit amin trong trà sẽ làm cho tâm trạng sảng khoái hơn
Bằng cách nào đó, uống trà giúp cho tâm trạng sảng khoái hơn, các axit amin trong trà có thể thúc đẩy bài tiết
Dopamine, và Dopamine là chất chi phối cảm xúc, niềm vui, ham muốn tình dục, và có tính chất gây nghiện.
Tâm trạng phấn chấn sau khi uống trà là nằm ngoài chủ ý và kiểm soát của người uống.

7. Chống bệnh tim


Tờ The Times chia sẻ quan điểm của các nhà khoa học Anh cho biết uống 4 tách trà mỗi ngày sẽ có lợi cho sức
khỏe hơn so với uống 8 ly nước trắng đun sôi. Trà không chỉ bổ sung nước mà còn ngăn ngừa bệnh tim và ung
thư. Uống trà mỗi ngày có thể làm giảm 11% nguy cơ mắc bệnh tim.
8.Trà dùng chung các loại thuốc chống ung thư sẽ cải thiện hiệu quả của thuốc
Chuyên khảo “trà chống ung thư” của một tổ chức sức khỏe uy tín xuất bản hơn 4 ngàn bản đã chứng minh rằng
EGCG - thành phần chính của Polyphenol trà là khắc tinh của hầu hết các bệnh ung thư; đặc biệt là ung thư tử
cung, ung thư da, ung thư phổi, ung thư ruột kết, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư gan, thận, vú. Đồng thời,
nghiên cứu phát hiện ra rằng uống trà cùng với thuốc ngừa ung thư sẽ cải thiện hiệu quả của thuốc.

9. Chống lão hóa


Theo kết quả nghiên cứu của Nhật Bản, tác dụng chống lão hóa của Polyphenol trong trà mạnh gấp 18 lần so
với vitamin E.

10. Giảm tỷ lệ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt


Các tổ chức như Trung tâm Ung thư Quốc gia Nhật Bản, Đại học Case Western Reserve Mỹ, Đại học Curtin Úc
đã công bố nghiên cứu “trà xanh và bệnh ung thư tuyến tiền liệt” cho thấy rằng tỷ lệ bị bệnh của nam giới có
thói quen uống trà xanh thấp hơn 60% người không uống trà xanh.

11. Giảm đáng kể triệu chứng của bệnh tiểu đường


Nghiên cứu tại Đại học Y Dược Toyama Nhật Bản phát hiện: 1.300 bệnh nhân tiểu đường uống trà pha với
nước đun sôi để nguội, qua thời gian 6 tháng cho thấy 82% số bệnh nhân tiểu đường đã giảm được đáng kể các
triệu chứng, khoảng 9% bệnh nhân tiểu đường phục hồi trở lại bình thường lượng đường trong máu.

12. Trong 12 tuần giảm khoảng 3kg mỡ


Không cần đến bất kỳ chế độ ăn kiêng và tập thể dục, chỉ cần uống 8 ~ 10 gram trà mỗi ngày trong vòng 12
tuần, chỉ riêng trà giúp lượng mỡ cơ thể giảm được khoảng 3kg. Trong số tất cả các sản phẩm giảm cân ở Nhật
Bản, châu Âu và Mỹ, chế phẩm từ trà được xếp hàng đầu.

13. Thay đổi thể chất


Hầu như tất cả các bệnh của cơ thể người đều hình thành ở những cơ thể người có tính axit, và hầu như tất cả
các virus đều sinh sôi thuận lợi hơn trong điều kiện thể chất có tính kiềm yếu. Vì vậy các chuyên gia cho rằng
chỉ bằng cách thay đổi tình trạng thể chất là có thể ngăn ngừa được bệnh tật. Trong khi loại thực phẩm tính
kiềm mạnh thường thấy là trà, nho, tảo biển.

14. Chống vi khuẩn


Nhóm nghiên cứu y học ở Đại học Showa Nhật Bản đã cho khoảng 10.000 vi khuẩn đại tràng escherichia coli
O157 vào trong dung dịch polyphenol trà pha loãng với nồng độ 1/20ml nước và trà bình thường, sau khoảng 5
giờ toàn bộ vi khuẩn đã chết hết.

Những lợi ích của trà còn rất nhiều, chỉ riêng những nghiên cứu về mối quan hệ giữa trà và ung thư đã rất gây
ngạc nhiên đối với mọi người.
(Nguồn trithucvn.org)

Uống trà mỗi ngày không những giúp bạn nâng cao sức đề kháng của cơ thể, tăng cường sinh lực mà còn phòng
chống bệnh tật.

NHỮNG LỢI ÍCH KHI UỐNG TRÀ MỖI NGÀY

1. Trà có rất nhiều chất chống oxy hóa


2. Uống trà chống ung thư
3. Uống trà giúp cải thiện trí nhớ
4. Giảm stress
5. Uống trà tốt cho sức khỏe tim mạch
6. Uống trà giúp đốt cháy chất béo
8. Uống trà giúp diệt khuẩn
9. Uống trà kiểm soát mức mỡ Cholesterol
10. Uống trà tốt cho sức khỏe răng miệng
11. Uống trà tốt cho dạ dày, bao tử
12. Uống trà là thần dược tuổi thanh xuân
13. Có hiệu quả ngăn chặn sự lây lan của HIV trong cơ thể
14. Giảm 71% nguy cơ mắc bệnh Parkinson
15. Axit amin trong trà sẽ làm cho tâm trạng sảng khoái hơn
16. Giảm tỷ lệ mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt
17. Giảm đáng kể triệu chứng của bệnh tiểu đường
18. Làn da sẽ khỏe mạnh hơn
19. Giấc ngủ được cải thiện
20. Cải thiện sự tập trung
21. Thúc đẩy chuyển hóa
22. Kích hoạt chất béo “tốt”
23. Trà xanh + tập thể dục = Bộ đôi giảm cân mạnh mẽ
24. Giúp phục hồi sau khi tập luyện
(Nguồn khoahoc.tv)

Chuyên gia nghiên cứu về trà nhiều năm cho hay: “Người Trung Hoa cổ đại là một trong số dân tộc đầu tiên
biết đến cây chè với tư cách là dược liệu. Họ hái lá chè, dùng ở trạng thái tươi, còn thừa, phơi khô dùng dần,
hàng ngày nấu nước uống, thậm chí nấu nước để tắm, cảm thấy khỏe mạnh, da trơn nhẵn, không còn mụn nhọt.
Từ đó, mọi người làm theo và truyền nhau từ đời này sang đời khác, dần dần lá chè trở thành đồ uống”.

TÁC DỤNG CỦA TRÀ ĐẾN TÌNH CẢM, TRÍ TUỆ

“Người có sức khỏe có hy vọng; và người có hy vọng, có tất cả” – Maya Angelou.

Việc uống trà góp phần giúp chúng ta có một thân thể khỏe mạnh, sự sung mãn về thể chất cùng với ước mơ và
hy vọng tạo nên sự sảng khoái trong tinh thần. Yêu trà, rồi dành thời gian để thưởng thức cũng như tận hưởng
những giá trị mà trà mang lại cũng là một hoạt động trị liệu rất tốt cho tinh thần, giúp chúng ta đi gần hơn đến
sự tĩnh lặng để lắng nghe những tiếng thì thầm của nội tâm mà nhịp sống hối hả và cấp tập hàng ngày khiến
chúng ta bỏ qua và quên đi những thông điệp trong trái tim mỗi người.

Bạn hãy tưởng tượng một búp trà tươi trên đồi chè bát ngát xanh trong một sáng sớm mai hòa quyện trong sự
tinh khiết của làn sương và sự mơn man của ánh sáng mặt trời thanh nhẹ và tinh tế ra sao! Và những tiếng nói
nội tâm trong mỗi chúng ta cũng thanh cao và đáng trân quý như vậy!

Uống trà là một hành trình tìm về với trạng thái nguyên bản, nơi tràn đầy năng lượng từ thiên nhiên mà mỗi con
người chúng ta cần được đón nhận.

Những gì tinh túy nhất của trà nở rộ trong nước ở nhiệt độ cao. Cũng giống như mỗi con người, khi có áp lực và
thử thách thậm chí là nghịch cảnh thì cái khí chất của mình mới tiết ra để thêm thấu hiểu bản thân và thấy sự
khác biệt của mình với thế giới bên ngoài.
Trong nghiên cứu về bộ não thì phần não giữa hay còn gọi là “não thú” - là trung khu cảm xúc, điều tiết hóc
môn và quản lý giấc ngủ. Khi các hoạt chất trong trà thấm qua thành mạch đi vào máu và đến trung khu này thì
rõ ràng “con thú” trong ta sẽ được vuốt ve. Không gian trà yên tĩnh và tinh tế cũng sẽ tác động trực tiếp vào
vùng não này qua các giác quan, lúc đó chúng ta có sự thỏa mãn về cảm xúc và cân bằng về tinh thần. Sự an
yên này là điều kiện tốt để năng lượng đi lên phần vỏ não với các chức năng như sáng tạo, suy luận logic và
những phương thức để con người phát huy được năng lực tư duy và trí tuệ của mình.

Trà cũng là phương tiện tuyệt vời để chúng ta dành cho người khác sự quan tâm, thấu hiểu, chia sẻ và kiến tạo
giải pháp khi cùng họ ngồi thưởng trà. Các hoạt chất trong trà tác động đến hệ thần kinh trung ương cho chúng
ta những cảm nhận giống nhau nên dễ dàng thấu hiểu, chia sẻ hơn khi uống chung một ấm trà.
Vậy từ mặt cảm tính đến lý tính đều cho thấy trà có tác dụng trực tiếp đối với tình cảm và trí tuệ con người ở cả
ba phương diện: tự nhiên, xã hội và nội tại cá thể con người đó. Về phương diện tự nhiên, trí tuệ con người có
được nhờ kết quả hoạt động của nơron thần kinh thông qua các trao đổi sinh hóa giữa các tế bào. Các hoạt chất
trong trà được chứng minh làm thúc đẩy quá trình này diễn ra nhanh hơn, chất lượng hơn và hiệu quả hơn. Về
mặt xã hội, trà tạo ra một không gian tương tác đặc biệt giữa người với người, giữa cá nhân với cộng đồng, giúp
chúng ta kết nối với nhau theo một phương thức đặc biệt và hoàn toàn khác các loại hình giao tiếp khác. Chúng
ta có thể cụng ly và ồn ào khi uống rượu và bia nhưng lại thưởng trà trong sự “hoà - kính - thanh - tịch”.

Uống trà còn mang lại cho mỗi cá nhân sự thỏa mãn các giác quan, chính sự tối ưu các giác quan giúp con
người có sự cảm nhận rõ ràng hơn, chân thực hơn về sự hiện hữu, tập trung hơn để nhận biết thực tại, theo ngôn
ngữ của Thiền học gọi là “Quán niệm”.

Uống trà không chỉ là thưởng thức một thức uống, mà là một sự trải nghiệm thú vị cho những ai muốn tìm về
bản thể, quay vào khám phá thế giới nội tâm và “làm sạch” những tạp niệm mà ta vô tình vướng phải trong đời
sống xã hội hằng ngày.

TRÀ VÀ TÂM LINH

Tâm linh là nguồn năng lượng trong vũ trụ, tồn tại dưới rất nhiều hoàn cảnh, hình tướng và sắc thái khác nhau,
vô cùng nhiệm màu và vi diệu. Chúng ta có rất nhiều phương thức để cảm nhận về sự kỳ diệu của thế giới tâm
linh và cũng có rất nhiều con đường để đến với “cánh cửa đó”.

Trước hết là cảm nhận về nó, không khí và sự hít thở của chúng ta là biểu hiện dễ thấy của tâm linh. Thật là
nhiệm mầu khi chúng ta tự nhiên biết thở, và sự hít thở không khí lại là biểu hiện cho hoạt động sống. Oxy và
các hoạt chất trong không khí lại là nguồn năng lượng quan trọng nhất cho sự sống của chúng ta.

Trên con đường phát triển tâm linh, nhiều người thiền bằng cách chỉ tập trung quan sát và cảm nhận sự vào ra
của hơi thở để từ đó dần đưa tâm thức vào một trạng thái trống rỗng và ngộ ra tính “Không”. Đó được xem là
một thành tựu của tu tập thiền định.

Việc uống trà có mối liên hệ tích cực và mật thiết với thiền định nên có rất nhiều vị thiền sư đã dùng trà để nâng
cao sự tập trung và tỉnh táo trong quá trình đi đến trạng thái giác ngộ. Con đường đó được gọi là Đạo. Chính vì
vậy trong trà có chất thiền, từ thiền ngộ ra Đạo nên để nhấn mạnh vai trò ấy của trà, chúng ta có khái niệm Trà
Đạo. Tổ Bồ Đề Đạt Ma, người mà hành trình giác ngộ, tu tập và hoằng pháp đều gắn với hình ảnh chén trà, và
truyền bá rộng rãi hình ảnh trà và đạo khắp châu Á.

Các nước Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản áp dụng rất tốt tư tưởng này nên tạo ra những phương thức uống trà
cầu kì, bài bản và có tính hệ thống, quy trình với các thiết bị hỗ trợ đặc trưng của họ để rồi hình thành nên trà
đạo Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản…

Nếu theo nghĩa như vậy, người Việt cũng có thể tạo ra một trường phái Trà Đạo Việt dựa trên căn bản về văn
hóa Việt. Tôi tin rằng chúng ta đã có sẵn những yếu tố căn bản rồi, vấn đề là sự hội tụ đủ cơ duyên để trà đạo
Việt được ra đời và thực hiện sứ mệnh cao cả đối với đời sống xã hội và con người.
Phật Hoàng Trần Nhân Tông của chúng ta khi được học trò hỏi:

- Gia phong của Hòa thượng thế nào?


Ngài đáp:
- Áo rách che mây, sáng ăn cháo,
Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà.

Câu chuyện và câu thơ của Phật Hoàng Trần Nhân Tông là một minh chứng cũng như hiện thực sinh động về sự
tác động của trà đến tâm linh con người. Trà là một thành tố quan trọng đối với đời sống tâm linh cũng như con
đường tu tập và hành Đạo.

CHƯƠNG 2.
NGUỒN GỐC CỦA TRÀ

T rà là một loài thảo dược xuất hiện trên trái đất từ rất xa xưa, mọc tự nhiên ở các vùng đồi núi và đặc
biệt ở vùng núi càng cao thì càng có nhiều gốc chè cổ thụ và những nơi càng lạnh thì trà càng ngon. Có
những gốc chè có thể sống được trên dãy núi Himalaya ở độ cao trên 5.000m so với mực nước biển, rất
ngon và quý hiếm. Tuy nhiên các cây chè cổ thụ lại chỉ tìm thấy ở Châu Á, mặc dù ở Kenya, một quốc gia ở
phía Đông Châu Phi cũng có cây chè nhưng không có chè cổ thụ như ở các nước châu Á.

Điều đặc biệt là ở Việt Nam, có những rừng chè cổ thụ trong dãy Hoàng Liên Sơn, trải dài trên 180km ở các
tỉnh Tây Bắc. Trong đó có những nơi được thế giới công nhận là Công viên địa chất Toàn cầu như cao nguyên
đá Đồng Văn - Hà Giang, vì ở đó tìm thấy các di chỉ khảo cổ chứng minh đã tồn tại 500 triệu năm và thổ
nhưỡng đặc biệt trù phú vì trước đây là đáy biển. Vì những biến động địa chất mà trở thành đỉnh núi quanh năm
tuyết phủ. Những gốc chè ở đây rất đặc biệt, vô cùng quý hiếm và vị trà thì đặc biệt thơm ngon, các vi chất
trong đó thì khác với các giống chè ở vùng đồi núi thấp.
Chè được con người biết đến nhiều hơn khi nó trở thành vị thuốc quý từ trong truyền thuyết về Thần Nông, một
vị thần đầu thai xuống làm người, dạy con người làm nông, gốm và tìm ra các dược liệu từ thiên nhiên. Ông
sinh năm 3220 TCN và mất năm 3080 TCN, khi đó các quốc gia như Trung Quốc, Ấn Độ, Việt Nam còn chưa
hình thành biên giới phân biệt như ngày nay và cả châu Á là một dải gồm rất nhiều bộ lạc và Thần Nông được
xem là ông tổ của tộc người Việt lẫn người Hán sau này vì sự khai sáng và chỉ dạy của ông để con người thời đó
có thể tồn tại và sinh sôi cùng với thiên nhiên.

Thần Nông là vị thần của nền văn minh lúa nước với nguồn sống từ hái lượm, ông đã thử rất nhiều cây cỏ để
xác định các cây thuốc. Khi dạy người dân ăn chín uống sôi, trong một lần đi rừng, đun nước uống thì lá một
loại cây rơi vào, nước đang đun đổi màu, mùi hương bốc lên, và uống vào thấy vị rất đặc biệt. Sau đó cơ thể
khoẻ ra, cho người bệnh uống thấy bệnh tiêu tan. Từ đó Thần Nông dạy người thời cổ đại thu lượm chè, phơi
khô và chế biến thành các vị thuốc. Vì thế trà có thể gọi là Thần Dược, một dược liệu được tìm ra từ vị Thần.

Vậy là chè được chế biến thành trà từ 5000 năm trước, từ thời Thần Nông và con người châu Á đã phát triển
cùng với việc uống trà từ Thần Nông.
Trà đi cùng văn minh Châu Á. Khi khoa học kỹ thuật phát triển, trà được chế biến tinh xảo hơn, từ phơi, sấy,
vò....lưu trữ, bảo quản có công nghệ hơn, trong đó có công nghệ lên men tự nhiên (dùng vi sinh trong chính lá
chè) đã tạo nên những dòng chè ngon nổi tiếng thế giới.

Đến thế kỷ 17, khi người Anh xâm lược Ấn Độ thì chè lại được người Châu Âu mang về, thưởng thức theo cách
của Châu Âu và phát triển nó thành một sản phẩm thương mại có giá trị trao đổi lớn, có giá trị sử dụng rộng rãi
hơn.

Việt Nam chúng ta có một ưu thế đặc biệt về chè mà thế giới không thể có được. Đó là chúng ta được thừa
hưởng những gì tốt nhất về trà từ vùng nguyên liệu, phương thức chế biến và cách thưởng thức từ thiên nhiên và
văn minh nhân loại. Trong lịch sử xâm lược của các nước đến dân tộc ta, từ Trung Quốc, Mông Cổ, Pháp, Nhật,
Mỹ thì họ đều dùng những người giỏi nhất, phương thức tinh vi nhất từ ngoại giao, quân sự đến thương mại, và
sản phẩm trà đồng hành cùng hành trình thôn tính của họ cũng như sứ mệnh chiến thắng của chúng ta. Chính vì
vậy, theo một cách tự nhiên, cách chế biến trà, cách bảo quản trà, cách thưởng thức trà, chúng ta được giao lưu
với họ từ rất sớm ở cấp cao nhất là vua chúa, tướng lĩnh, tăng lữ, nhà ngoại giao, nhà văn hóa đến quân lính và
người dân. Chẳng có gì về trà mà thế giới biết mà chúng ta không biết. Ngoài ra, chúng ta có cách uống trà cực
kỳ linh hoạt và kết tinh của văn minh trà thế giới và văn hóa Việt để thành Văn hóa trà Việt.

Trà là thức uống mà bậc chí tôn đến kẻ thảo dân đều dùng và đều tôn kính, từ cách chế biến, bảo quản đến
thưởng thức. Mặc dù chung một nguồn gốc nhưng sự phát triển của trà lại phụ thuộc vào văn hóa của người ứng
xử với cây chè. Có những cây chè cổ thụ hàng nghìn năm bị chặt phá để làm gỗ bởi những tên lâm tặc. Tôi đã
tận mắt chứng kiến những người dân vùng núi vì đói ăn mà chặt cây chè cổ thụ hàng trăm năm để làm... ruộng
bậc thang ở Hà Giang vào những năm 2000 của thế kỷ 21 này.
Tôi cũng thấy những hộp chè Ô Long để mốc meo trong mật thất của thiền sư hay những ấm trà quý được pha
theo cách uống chè chát của người dân lao động, hay căng tin sinh viên thời tôi đi học, mà việc đó lại được thực
hiện ngay tại nhà riêng hay phòng làm việc của những vị quan chức cao cấp, được coi là đức cao vọng trọng.

Nếu chúng ta hiểu nguồn gốc của chè thì chúng ta sẽ có cách ứng xử phù hợp với chè, nếu chúng ta không hiểu
chúng ta sẽ ứng xử rất thô bạo và từ pha chè thành...phá chè.

“Trà làm cho tâm hồn sảng khoái, thanh nhiệt cơ thể, uống một bát vạn nỗi ưu phiền tan biến” (Tuệ Tĩnh)

“Trà là loài cây tốt ở phương Nam, cây như cây Qua lô, lá như lá Chi tử, hoa như hoa bạch Tường vi, quả như
quả cây Banh lư, nhị như nhị hoa Đinh hương, mùi vị rất hàn.” (Lê Quý Đôn)
Từ rừng nguyên sinh, con người đã đưa hạt giống về trồng thành các đồi chè gần đồng bằng hơn và hình thành
các xưởng chế xuất với số lượng lớn đưa ra thị trường. Khi nhu cầu về trà càng lớn thì việc trồng chè trở nên
quy mô hơn, trên diện tích rộng hơn mà trong thơ ca ta thấy:

“Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi


Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt
Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến Phà dào dạt bến nước Bình ca”
(Ta đi tới - Tố Hữu)

Chè tự nhiên qua tư tưởng và lao động của con người trở thành sản phẩm của xã hội, điều đó không chỉ ở nước
ta mà khắp nơi trên thế giới đặc biệt là Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Sri Lanka, Kenya, rồi xuất khẩu thành
phẩm đi khắp thế giới, phục vụ nhu cầu chữa bệnh, dinh dưỡng, thức tỉnh, giải khát, giao lưu văn hóa của thế
giới.

Có một số nơi, trà như một loại tài sản có giá trị lưu trữ cao và sang hơn cả các loại vật liệu quý như vàng, bạc,
kim cương, có những cuộc chiến tranh, xung đột gây ra vì sự tranh giành quyền sở hữu, đầu tư và thương mại
trà.

Vào khoảng thế kỷ thứ 8, một người là Lục Vũ của Trung Quốc đã viết cuốn “Trà Kinh” và Lư Đồng soạn ra
“Trà Ca” nhằm ca ngợi và hướng dẫn cách dùng trà.

Tại sao trà lại có tên là trà, có ý kiến cho rằng cũng do nguồn gốc từ Thần Nông, do ngài luôn đi tìm thảo dược
cứu dân, làm thuốc cho dân nên ngài phải thử rất nhiều loại cây cỏ, có khi là độc dược. Ngài phát hiện ra trà có
tác dụng giải độc, tẩy rửa chất độc nên viết xem như là một chất kiểm tra (tra) nên trà được gọi là trà.

Khi dành một chương trong cuốn sách để nói về nguồn gốc của trà, tôi muốn cùng quý vị bàn đến một khía
cạnh khác, không chỉ là nguồn gốc lịch sử, năm tháng ra đời mà là tại sao lại ra đời, ra đời như thế nào? Sứ
mệnh là gì?

Tại sao trong vô vàn thức uống thì trà lại có một sự yêu thích rộng rãi, ở nhiều giai tầng khác nhau, nhiều bối
cảnh xã hội khác nhau như vậy? Trà đi từ cung điện nguy nga đến quán cóc heo hút làng quê. Trà được sử dụng
cho đấng quân vương, bậc giác ngộ đến tù nhân, người cùng khổ?

Vậy nên khi nói về nguồn gốc của trà tôi không nhấn mạnh đến tính lâu đời về mặt khởi thủy mà tôi muốn nói
đến nguồn gốc tâm linh của trà, điều này sâu xa và dài rộng hơn nguồn gốc của một loài thực vật có tên là trà.
Trên thế giới hiện nay, theo các nghiên cứu về cây thông ở một dãy núi ở California - Mỹ, nhà nghiên cứu
Schulman quyết định đặt tên cho cây thông này là Methuselah, theo tên của người đàn ông có tuổi thọ cao nhất
trong Kinh Thánh. Nhân vật Methuselah chỉ sống đến 969 tuổi, còn cây thông này vào thời điểm phát hiện năm
1957 đã 4789 tuổi.

Tổ chức kỷ lục Guinness thế giới đã công nhận đây là cây có tuổi đời lâu nhất thế giới, vẫn bám bộ rễ nguyên
bản của mình tại nơi nó mọc lên từ hơn 4800 năm trước. Để bảo tồn và gìn giữ loài cây cổ xưa nhất, vị trí của
cây Methuselah vẫn là bí mật và không tiết lộ cho công chúng. Vậy mà trà có tuổi đời trước đó rất lâu của mốc
5000 năm. Nguồn gốc tâm linh của trà chính là tâm hồn của người uống trà. Có người uống trà chỉ để giải khát,
có người uống trà để tỉnh táo thậm chí là tỉnh ngủ, có người uống trà để suy nghĩ, có người uống trà như một
loại tiên dược và có người uống trà như một cách để thiền định, có người uống trà như một thói quen, có người
uống trà như một hoạt động văn hóa. Điểm chung là họ đang tìm về tâm hồn để hướng tới khám phá một bản
thể khác sâu xa hơn, nhiệm màu và vi diệu hơn gọi là linh hồn. Linh hồn là vĩnh cửu và bất diệt, tâm hồn là
thành tựu được xây dựng từ chính cuộc sống và nó sẽ chuyển hóa thành những ý niệm khi chúng ta chết đi.
Uống trà là chăm sóc nguồn gốc của tâm hồn, là cách thức làm tâm hồn trở nên ý vị và phong phú bằng khám
phá chính chiều sâu của nội tại bản thân. Giống như chúng ta đào giếng và tìm được mạch ngầm phun nước ra.
Vậy nên theo tôi, nguồn gốc của trà là khi con người ý thức được việc bảo vệ sức khỏe, dùng trà như một loại
tiên dược cho việc bảo vệ sức khỏe và sự trù phú của tâm hồn. Trà cũng là cách đưa chúng ta đến gần hơn với
cội nguồn của Tâm linh.

Lịch sử của trà cũng tương đồng với lịch sử nước Việt, vậy phải chăng có mối liên hệ giữa nguồn gốc của trà và
nguồn gốc nước Việt?

Đấy là trăn trở, băn khoăn mà tôi luôn đau đáu, và hy vọng rằng trong quá trình viết cuốn sách này tôi sẽ tìm ra.
Mặc dù tại thời điểm khi viết những dòng này lúc 21h43 ngày 13/01/2021 tức ngày mồng 1 tháng 12 năm Canh
Tý thì vẫn chưa tìm ra manh mối nào.
Nhưng rõ ràng nếu tổ tiên người Việt chúng ta là Thần Nông - cháu 3 đời của Thần Nông là vua Đế Minh đi vào
Phương Nam gặp một nàng tiên rồi đẻ ra Lộc Tục. Lộc Tục làm vua Phương Nam - đặt tên hiệu là Kinh Dương
Vương.

Thần Nông phát hiện ra trà thì có thể trà đã tồn tại trước cả khi xuất hiện Thần Nông, nhưng vì trước đó chưa có
ai phát hiện ra nên có thể cho rằng công lao này thuộc về Thần Nông, vị tổ của người Việt.

Nếu như người Châu Âu di cư đến miền đất của tự do, thì người Việt, với một tấm lòng cầu đạo đã tìm đến mà
mở rộng về phương Nam, tìm ra dải đất hình chữ S linh thiêng và tràn đầy năng lượng ở đây. Từ 5000 năm
trước, chưa tồn tại hình thức nhà nước ở cả Đông Nam Á và cả Châu Á, mà chỉ là các bộ lạc đứng đầu là tù
trưởng, vì chưa có hình thành tổ chức nhà nước nên không có biên giới các quốc gia.

Tộc người Việt chúng ta may mắn có Thần Nông, tìm ra trà như một thần dược giúp chúng ta có sức khỏe để
thích nghi với đời sống còn sơ khai, hồng hoang và cũng giúp con người phát triển trí tuệ để đủ sức hóa giải
những thách thức nguy hiểm rình rập từ các loài dã thú, thiên tai. Thậm chí trong quá trình hái lượm chúng ta ăn
phải thảo dược có chất độc mà cơ thể không đủ sức để hóa giải thì trà còn có tác dụng là thuốc giải độc.

Có thể nói rằng nguồn gốc của trà chính là nguồn gốc của người Việt, những con người biết trồng lúa nước, hái
lượm, và cuộc sống dựa vào sự bao bọc của mẹ thiên nhiên.

Sau này các nghiên cứu về ngôn ngữ học chỉ ra mối liên hệ giữa từ “trà” với từ “cha” để muốn nói về vị Thần
Nông, là cha của người Việt đã tìm ra chè rồi chế biến thành trà làm thứ thần dược, cùng với nhiều loài cây cỏ,
nhiều thảo dược tốt nuôi nấng đàn con, tạo nên giống nòi Việt.

CHƯƠNG 3.
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA TRÀ TỪ CÂY CỎ
ĐẾN CẢ NGÀNH CÔNG NGHIỆP
T rên trái đất này, vì Nam Cực và Bắc Cực rất lạnh, quanh năm băng giá nên sự sống con người và thành
tựu của loài người được thể hiện ở văn hóa và văn minh lại được diễn ra ở Phương Đông và Phương
Tây.

Mặt trời mọc từ hướng Đông, nguồn gốc của loài người cũng từ Châu Á. Văn hóa Phương Đông có từ rất sớm
và là cội nguồn văn hóa nhưng với thành tựu về khoa học, công nghệ, chứng minh sự văn minh thông qua sự
phát triển đến mức công nghiệp thì đến tận thế kỷ 18, khái niệm cách mạng công nghiệp do Phương Tây, cụ thể
là nước Anh đưa ra mới phổ biến rộng rãi trong đời sống.

Từ điển Wikipedia cho rằng:

“Cách mạng công nghiệp hay còn gọi là Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất là cuộc cách mạng trong lĩnh
vực sản xuất; là sự thay đổi cơ bản các điều kiện kinh tế xã hội, văn hóa và kỹ thuật, xuất phát từ nước Anh sau
đó lan tỏa ra toàn thế giới. Trong thời kỳ này, nền kinh tế giản đơn, quy mô nhỏ, dựa trên lao động chân tay
được thay thế bằng công nghiệp và chế tạo máy móc quy mô lớn. Tên gọi “Cách mạng công nghiệp” thường
dùng để chỉ giai đoạn thứ nhất của nó diễn ra ở cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19. Giai đoạn hai hay còn gọi là
Cách mạng công nghiệp lần thứ hai tiếp tục ngay sau đó từ nửa sau thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Ảnh hưởng
của nó diễn ra ở Tây Âu và Bắc Mỹ trong suốt thế kỷ 19 và sau đó là toàn thế giới. Mô hình động cơ hơi nước
của James Watt. Sự phát triển máy hơi nước khơi mào cho cuộc cách mạng công nghiệp Anh.

Ý kiến về thời gian diễn ra Cách mạng công nghiệp lần thứ nhất không thống nhất, nhưng nói chung là ở nửa
cuối thế kỷ 18 đến nửa đầu thế kỷ 19. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất bắt đầu với sự phát triển sản
xuất hàng hóa của ngành công nghiệp dệt. Sau đó, với nhu cầu cung cấp máy móc và năng lượng cho công
nghiệp dệt, các kỹ thuật gia công sắt thép được cải thiện và than đá sử dụng với khối lượng lớn. Thương mại
mở rộng tạo điều kiện cho sự ra đời của kênh đào giao thông và đường sắt. Bên cạnh đó, đường giao thông
được nâng cấp lớn cho hoạt động giao thương nhộn nhịp. Động cơ hơi nước sử dụng nhiên liệu than và máy
móc dẫn động bằng cơ khí đã đưa đến gia tăng năng suất lao động đột biến. Sự phát triển các máy công cụ
trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ 19 tạo thuận lợi cho lĩnh vực chế tạo máy, phục vụ những ngành sản xuất
khác.”

Cho đến nay đã có bốn cuộc cách mạng Công nghiệp.

Vậy cây chè, ngành trà cũng nằm trong quy luật này, chịu sự chi phối của quy luật này giống như bao sản
phẩm khác. Mỗi thời đại sẽ có cách bảo tồn, thu hoạch, nuôi trồng, chế biến và sử dụng trà một cách khác
nhau.
Tôi viết những dòng này là đang trong thời đại cách mạng công nghiệp lần thứ tư, có nghĩa là tôi có thể: tiếp
tục viết sách bằng một ngón tay phải, với việc gõ liên tục các suy nghĩ trên một ứng dụng ghi chép của điện
thoại thông minh Iphone, tra cứu các thông tin còn đang khúc mắc, gửi thư điện tử cho bạn bè xin ý kiến, đặt
hàng mua mấy loại trà mình thích, đăng lên mạng xã hội các sản phẩm nhà máy vừa chuyển lên, chia sẻ suy
nghĩ lên mạng Internet và tìm đối tác hợp tác đầu tư, phát triển ngành công nghiệp trà khi mọi thứ thậm
chí....còn trên ý tưởng!

Ngành công nghiệp được hiểu là:


“Công nghiệp, là một bộ phận của nền kinh tế, là lĩnh vực sản xuất hàng hóa vật chất mà sản phẩm được “chế
tạo, chế biến, chế tác, chế phẩm” cho nhu cầu tiêu dùng hoặc phục vụ hoạt động kinh doanh tiếp theo cho
cuộc sống loài người trong sinh hoạt. Đây là hoạt động kinh tế, sản xuất quy mô lớn, được sự hỗ trợ thúc đẩy
mạnh mẽ của các tiến bộ về công nghệ, khoa học và kỹ thuật.”

“Một nghĩa rất phổ thông khác của công nghiệp là “hoạt động kinh tế quy mô lớn, sản phẩm (có thể là phi vật
thể) tạo ra trở thành hàng hóa”. Theo nghĩa này, những hoạt động kinh tế chuyên sâu khi đạt được một quy
mô nhất định sẽ trở thành một ngành công nghiệp, ngành kinh tế như: công nghiệp phần mềm máy tính, công
nghiệp điện ảnh, công nghiệp giải trí, công nghiệp thời trang, công nghiệp báo chí, v.v.”

Từ TEA trong tiếng Anh là từ viết tắt của từ Transporte de Ervas Aromaticas, có nghĩa là Vận chuyển Hương
liệu Thơm) rồi sau được viết tắt là T.E.A - cái tên quen thuộc mà người dân phương Tây vẫn dùng để gọi trà
cho tới bây giờ.

Chúng ta biết rằng chẳng có cây chè nào mọc ở nước Anh, hay Châu Âu, mà đều vận chuyển đến từ Trung
Quốc, Ấn Độ và các nước khác thông qua hoạt động buôn bán. Và khi nước Anh chưa buôn bán trực tiếp với
các quốc gia sản xuất trà thì họ phải mua qua các thương lái Hà Lan, Bồ Đào Nha. Thậm chí công Chúa
Catherine của Bồ Đào Nha khi lấy vua Charles III của Anh Quốc thì của hồi môn quý giá không thể thiếu là
trà. Chữ T.E.A là chữ viết tắt trên những thùng trà được chuyển đến nước Anh cho Hoàng hậu.

Nhưng ý thức về vai trò của trà thì người Anh tỏ ra đặc biệt xuất sắc với câu ngạn ngữ:

“Nước Anh có thể thiếu Nữ hoàng nhưng không thể nào thiếu trà được”

Thế mới thấy bằng sự văn minh, con người sẽ biết trân trọng sản vật thiên nhiên ban tặng và sử dụng nó ở một
vị thế xứng đáng nhất.
Được vận chuyển đến và phải mua với giá rất đắt do qua nhiều khâu trung gian trong hoạt động thương mại
nên người Anh lại càng biết trân quý để làm cho trà trở thành một nét văn hóa ẩm thực đặc sắc của họ. Ngày
nay các thương hiệu trà của Anh còn nổi tiếng và có giá trị thương mại cao hơn rất nhiều của Việt Nam,
Trung Quốc hay Ấn Độ. Ngày nay, không chỉ Anh mà cả Châu Âu đều thích trà, mức độ tiêu thụ trà ngày
càng tăng, theo số liệu ủy ban chè quốc Tế năm 2011-2013 là 229.000 tấn/năm. Châu Âu đã giúp thế giới có
thêm một ngành công nghiệp mới, ngành công nghiệp trà nhờ việc họ mở rộng tiêu thụ, đầu tư chế biến bằng
máy móc hiện đại và kéo theo sự phát triển các vùng nguyên liệu và thậm chí đã gây ra chiến tranh với các
nước có xuất khẩu trà.

Để hiểu về tiềm năng của ngành công nghiệp trà thì chúng ta nên thoát hết ra khỏi những nhận thức cũ, những
quan niệm cũ, những mô thức cũ để thấy ít nhất 5 ngành công nghiệp khác có thể tương tác và cùng nhau đi
lên như:

- Đồ gốm
- Bàn ghế, nội thất
- Hội hoạ
- Bao bì
- Du lịch sinh thái

Trong dân gian có câu, “Y phục xứng kỳ đức” - một hộp trà ngon, trở nên ngon hơn nếu được đựng trong một
hộp gốm đẹp và phù hợp. Đây là ngành công nghiệp tạo ra nét đặc sắc của vùng miền, vì để làm được gốm sứ
đẹp thì phải có vùng nguyên liệu tốt và nghệ nhân lành nghề.

Dân gian có câu: “Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ ẩm, ngũ quần anh”. Năm yếu tố quan trọng của một bữa trà
ngon thì ấm và chén chiếm đến hai. Hai thứ đó chủ yếu làm bằng đồ gốm sứ, vậy nên phát triển ngành trà tất
yếu sẽ phát triển thêm ngành gốm sứ.

Ngành gốm sứ là một ngành mà Việt Nam rất có tiềm năng. Chúng ta có những làng gốm nổi tiếng như gốm
Bát Tràng, gốm Chu Đậu, nhưng để phát triển thành một ngành công nghiệp như Trung Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ
thì chúng ta cần đầu tư không chỉ tiền bạc mà là tư tưởng, văn hóa, triết lý và ngành trà hội đủ những yếu tố đó
để phát triển ngành gốm.
Hiện tại chúng ta đang lãng phí tài nguyên, nguồn nhân lực và năng suất lao động ở tất các các ngành và đều
tìm sự đổ lỗi cho cơ chế và phương thức vận hành nền kinh tế của chính phủ, hay phương thức sở hữu tư liệu
sản xuất. Câu chuyện giống như có một con voi bị xích lâu ngày trong vườn bách thú, bị xích năm này qua năm
khác, nó đã nhiều lần giật ra nhưng nó đau vì bị dây xích giật lại, lâu dần nó từ bỏ ý định thoát ra khỏi gốc cây.
Đến khi dây xích bị rỉ sét theo thời gian rồi đứt gãy nhưng con voi vẫn không dám bứt ra nữa. Nó vẫn cứ luẩn
quẩn buồn bã đến bạc nhược bên gốc cây và sợi dây xích yếu ớt.

Với công nghệ thông tin và truyền thông, với toàn cầu hóa, sở hữu trí tuệ được công nhận, điều kiện kinh doanh
đã khác xưa rất nhiều. Nền tảng để sản xuất thời kinh tế tri thức, với công nghệ 4.0 thì thể chế là phương thức
điều hành mang tính quản lý hành chính và nó không thể quyết định năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm. Cái sợi dây xích ràng buộc chính là tư duy cũ kỹ và lạc hậu của chính chúng ta mà thôi.

Vậy nếu không bị ràng buộc thì chúng ta sẽ phát triển như thế nào?

Có một thứ vũ khí hay nói đúng hơn là một nguồn năng lượng giúp chúng ta vượt qua mọi sự định kiến, mọi sự
kìm kẹp, mọi niềm tin sai trái chính là ánh sáng văn hóa.

Tại sao các nước khi phát triển ngành trà lên một tầm cao thì được gọi là Trà Đạo, hay văn hóa Trà Đạo, như
Trà Đạo Trung Quốc, Trà Đạo Nhật Bản, Trà Đạo Hàn Quốc..., mặc dù rượu còn có trước cả trà nhưng không
có Rượu Đạo hay Coffee Đạo mà chỉ có Trà Đạo?

Có nhiều sự nhầm tưởng đạo là cung cách phục vụ, cung cách thiết kế không gian uống trà, quy trình thưởng
thức. Cái đó chỉ là mặt biểu hiện ra bên ngoài, là lớp vỏ. Nó không phản ánh bản chất. Đạo chính là con đường,
khi thưởng thức trà một cách đúng đắn thì trong đó có chất thiền, sự quán niệm, sự tự nhận thức, sự thấu hiểu
giúp chúng ta ngộ ra con đường, đấy chính là Đạo. Đạo ở đây là tìm thấy một con đường, văn hóa Trà Đạo là
thứ văn hóa giúp con người thưởng thức trà và tìm ra cho mình một con đường.
Khi tôi viết những dòng này thì chính trà giúp tôi tìm thấy con đường phát triển ngành công nghiệp trà cho
nước Việt và kéo theo các ngành công nghiệp khác như công nghiệp bao bì, công nghiệp gốm sứ, công nghiệp
đồ gỗ, nội thất, công nghiệp du lịch, hội hoạ thư pháp, bất động sản sinh thái trà. Con đường đấy, trà không thể
đi một mình mà phải đi cùng các ngành công nghiệp phụ trợ liên quan. Chúng ta có lợi thế đặc biệt về vị trí địa
lý, đới khí hậu, địa chất, thổ nhưỡng để phát triển được vùng nguyên liệu. Bên cạnh đó, toàn cầu hóa, đầu tư và
thương mại quốc tế giúp chúng ta tiếp thu các công nghệ chế biến của thế giới. Tinh hoa của công nghệ chế
biến thế giới đã được chúng ta hấp thụ để đưa những sản phẩm trà đẳng cấp thế giới từ nguyên liệu là cây chè
truyền thống của địa phương.

Con đường Trà Đạo Việt được khởi tạo, soi đường và dẫn dắt bởi chính văn hóa Việt. Chỉ có hướng tới văn hóa
Việt thì chúng ta mới tìm ra được con đường phát triển trà Việt, lúc đó chúng ta có Trà Đạo Việt.

Lâu nay chúng ta phát triển kinh tế với quan niệm phải có nguồn lực sản xuất, tư liệu sản xuất, cụ thể là vốn.
Vậy tại sao bây giờ chúng ta đã có hết những yếu tố đó rồi mà vẫn không phát triển được trà Việt? Vì chúng ta
thiếu ánh sáng văn hóa, nếu không có nó, trà mãi chỉ là một thức uống thiên nhiên, một loại thảo dược và được
bán một cách đơn sơ với giá rẻ mạt cho thương lái nước ngoài, để rồi chúng ta phải mua lại thành phẩm sau chế
biến với giá đắt lên hàng trăm đến hàng nghìn lần rồi chính ta lại làm sứ giả đi truyền thông cho thương hiệu
của họ.

Trà trong nước thì không được chế biến tinh, chỉ là sơ chế với sự đóng gói sơ sài, không có sự đặc sắc, thì nói
gì đến truyền đạt thông điệp hay truyền tải những giá trị cao quý khác.

Giá trị sử dụng và giá trị trao đổi của trà là yếu tố cơ bản giúp trà có thể hình thành nên một ngành công nghiệp,
những giá trị văn hóa giúp chúng ta có thể đưa trà trở thành một sứ giả văn hóa, truyền tải những giá trị mà các
sản phẩm khác không thể làm được. Trà có thể kết hợp với rất nhiều thức uống khác và xâm nhập vào mọi quốc
gia, mọi miền lãnh thổ, mọi nền văn hóa. Chúng ta hơn 6 tỷ dân trên toàn cầu có thể khác nhau về nhiều thứ
nhưng dễ dàng chia sẻ cùng nhau một tách trà và từ đó có thể có sự thấu hiểu, chia sẻ và kiến tạo giải pháp cho
nhau. Tôi gọi đó là văn hóa Tình thương.

CHƯƠNG 4.
VĂN HÓA LÀ GÌ?

V ăn hóa là tổng thể sống động các hoạt động và sáng tạo trong quá khứ và trong hiện tại. Qua các thế
kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên một hệ thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu -
những yếu tố xác định đặc tính riêng của một dân tộc”. Đây là khái niệm do UNESCO đưa ra nhằm
nhấn mạnh đến hoạt động sản xuất và sáng tạo của các quốc gia tạo ra tính đặc trưng của họ.

Tuy nhiên, có hàng trăm khái niệm về văn hóa khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng đã đưa ra một khái niệm về
văn hóa mà được thế giới trích dẫn rất nhiều lần, khái niệm này cũng thể hiện tầm vóc của một nhà tư tưởng
lớn, một vị lãnh tụ và người kiến thiết ra một thời đại mới cho đất nước chúng ta.
Theo Người: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn
ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày
về mặc, ăn, ở và phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa”. Khái niệm
này nhấn mạnh đến yếu tố động lực, nhu cầu, khát vọng của con người để hướng tới thành tựu văn hóa, thoả
mãn nhu cầu con người.

Cả hai khái niệm đều lấy chủ thể là con người và hoạt động của con người trong mối quan hệ với văn hóa, sự
tương tác qua lại giữa văn hóa và con người, con người và văn hóa. Tính bao trùm, tính phổ quát của văn hóa đã
làm cho khái niệm văn hóa được hiểu dưới nhiều khía cạnh, dưới nhiều mặt biểu hiện và làm cho chúng ta khó
có thể nắm bắt, tiếp cận được những ứng dụng của văn hóa, mặc dù đó là việc đầy ý nghĩa, có tính thiết thực
cho chúng ta trong hành trình tạo ra những thành tựu.

Các khái niệm đã có về văn hóa chỉ miêu tả văn hóa ở các khía cạnh khác nhau trong sự cảm nhận của con
người, cũng như chúng ta cảm nhận về mặt trời, những “nhà Mặt trời học” đều sử dụng năng lượng Mặt trời để
sống mà chưa thể nào lý giải Mặt trời sinh ra từ đâu, Mặt trời tồn tại khách quan như sự tồn tại khách quan về
vũ trụ, và mọi nhận thức chỉ dừng lại ở những giả thuyết. Mặt trời có trước con người rất lâu và nó là nền tảng
của sự sống. Nhiều dân tộc đã “kéo” Mặt trời xuống làm thần thánh. Họ thờ Mặt trời và coi Mặt trời là một vị
Thần để thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng của họ. Cũng như có những dân tộc chẳng bao giờ ăn thịt bò. Họ coi và
thờ bò như thần linh vì vai trò to lớn của con vật này trong nông nghiệp và đời sống của họ.

Vậy nếu chúng ta chỉ dừng lại sự hiểu biết về văn hóa ở thành tựu, nhu cầu của loài người thì phải chăng,
“Mặt trời văn hóa” đã bị kéo xuống để phù hợp với nhận thức hạn hẹp và rồi chính chúng ta không thể định
nghĩa nổi thực chất văn hóa là gì, và bỏ qua một sự nhận thức đúng đắn và khách quan về văn hóa.

Nếu như Mặt trời đã vượt qua được vấn đề không gian và thời gian để trở thành một nguồn năng lượng của đời
sống từ cổ chí kim thì tổ tiên của chúng ta cũng có một Mặt trời không khác chúng ta. Mặt trời đã soi sáng cho
tổ tiên, cho cả từng phút giây hiện tại và cả tương lai loài người. Nếu Mặt trời là ánh sáng của vũ trụ thì văn hóa
là ánh sáng của “tiểu vũ trụ” trong mỗi chúng ta, tức là tâm thức con người và nó cũng tồn tại khách quan, vượt
qua tầm nhận thức về không gian và thời gian trong sự phát triển tâm thức, soi sáng cho con người tìm về bản
thể và chiều sâu nội tâm của “tiểu vũ trụ” trong ta.

Khi đi ra thế giới, chúng ta có quyền tự hào về một trong những nét đặc sắc văn hóa Việt Nam chính là “Đạo
Thánh Mẫu”. Hiểu đơn giản thì đó là tín ngưỡng thờ tổ tiên và các bậc tiền bối, những vị thánh trong lòng mỗi
người con dân tộc Việt. Nhưng khi đi sâu hơn, chúng ta lại thấy đó là một nguồn năng lượng linh thiêng có sức
kết nối mạnh mẽ giữa quá khứ, hiện tại và tương lai - thành một dòng chảy để những giá trị tưởng chừng như đã
ngủ quên trong quá khứ lại trở nên sống động và thức dậy cùng đời sống hôm nay. Nguồn năng lượng ấy đã
giúp hình thành nên một đất nước Việt Nam mà cả thế giới luôn ngỡ ngàng về một đời sống tinh thần phong
phú và sống động.

“Đạo Thánh Mẫu” luôn tồn tại khách quan trong đời sống tinh thần của những con người Việt cho dù họ tin hay
không tin. Cũng như Mặt trời vẫn tồn tại khách quan dù quốc gia ấy có phong tục tín ngưỡng thờ “Thần Mặt
trời” hay không!? Dù tin hay không thì mỗi chúng ta đều sống bằng nguồn năng lượng Mặt trời trong từng giây
phút, mặc dù đôi khi nguồn năng lượng ấy có thể làm khô cạn một dòng sông hay cháy rụi một khu rừng, nhưng
không vì thế mà chúng ta xem thường giá trị vĩnh hằng của nó.

Văn hóa cũng như vậy, dù bạn có cảm nhận và thấy được vai trò của văn hóa hay không thì nó vẫn chi phối toàn
bộ đời sống của chúng ta từ cấp độ cá nhân đến cấp độ toàn nhân loại. Từ khi loài người sinh ra đã xuất hiện rất
nhiều con người kiệt xuất, những con người thần thánh, thậm chí là Thiên Phật, và ta thường tặng họ một từ
chung để đánh giá thành tựu của họ là “Danh nhân Văn hóa Thế giới”. Nhưng ngay cả cái danh hiệu thật vĩ đại
đó thì cũng không thể diễn đạt hết được sự kỳ vĩ trong thành tựu khám phá tâm thức của họ và tầm ảnh hưởng
của những thành tựu khám phá ấy đến đời sống của chúng ta.
Tiêu biểu là Chúa hay Phật, những con người cụ thể nhưng những khám phá của họ đã để lại những di sản văn
hóa mà rất ít người trong chúng ta nắm bắt một cách rốt ráo được và chúng ta quy lại một từ là “thế giới tâm
linh”.
Tầng văn hóa mà họ vươn tới là sự cổ vũ to lớn cho loài người trong một cuộc hành trình tìm lại thân phận, họ
là những đồng loại xuất chúng của chúng ta, và những thành tựu của họ làm cho chúng ta nhận ra tầng văn hóa
khác biệt của họ so với chúng ta, cái mà chúng ta đang hướng đến. Cả nhân loại đã đạt được rất nhiều thành tựu
về vật chất và tinh thần trong suốt chiều dài lịch sử nhưng đều nhỏ bé trước tầm văn hóa của những bậc giác
ngộ đó. Thành tựu của họ là độc lập và không bị chi phối bởi các giá trị tinh thần và vật chất của con người.
Thậm chí nhiều người đã mạt sát, truy đuổi và hãm hại họ, những con người mang ánh sáng văn hóa đến cho
loài người. Nguồn năng lượng từ các tầng văn hóa luôn mạnh mẽ, không giới hạn và tác động đến con người
một cách trực tiếp như sức bức xạ của ánh sáng mặt trời hay sự dữ dội của những trận mưa lớn, đôi lúc làm cho
thế giới khô hạn hay ngập lụt. Rất may điều đó không diễn ra thường xuyên. Nguồn năng lượng từ các tầng văn
hóa đều chứa đựng trong đó sự thấu hiểu - chia sẻ và kiến tạo giải pháp để giúp con người thích nghi và hóa giải
những thách thức mà cuộc sống mang lại.

Vậy phải chăng “Văn hóa là một trạng thái năng lượng và nó tồn tại độc lập với vật chất và tinh thần con
người, được hiển thị trong đời sống con người khi họ đạt đến các tầng nhận thức, tầng thành tựu, tầng giác
ngộ. Khi có ánh sáng văn hóa để lao động sáng tạo, con người sẽ đạt được những thành tựu có tính chất di sản,
gọi là di sản văn hóa”?

Trong lịch sử phát triển, loài người đã đạt những thành tựu cách mạng, mang tính đột phá và thành tựu đấy đôi
khi đến từ một khoảnh khắc được gọi là “xuất thần” của một cá nhân khi họ đạt được một trạng thái năng lượng
tinh thần rất cao, như khi Niu-tơn (Newton) ngồi trong vườn nhìn quả táo rơi, Anhxtanh (Einstein) mơ màng
chạy đua cùng các tia sáng hay Acsimet (Archimedes) đang thư giãn trong bồn tắm. Từ những khoảnh khắc đó,
thế giới có định luật vạn vật hấp dẫn, thuyết tương đối hay lực đẩy của nước. Nó là khởi thuỷ để có sự phát triển
của khoa học hiện đại và các kỹ thuật, công nghệ ứng dụng vào đời sống để thay đổi căn bản chất lượng cuộc
sống của chúng ta. Chúng là những thành tựu có tính chất chiến lược, thành tựu của những thành tựu. Nhân loại
tiến bộ đã dựa vào những phát minh đó để tạo ra vô số các ứng dụng trong đời sống và vô số các thành tựu được
gọi chung là “Văn minh nhân loại”.

CHƯƠNG 5.
VĂN HÓA VIỆT LÀ GÌ?
N ước Việt là một quốc gia với 54 dân tộc anh em, được hình thành và phát triển trong một chiều dài
lịch sử hơn 4000 năm. Trong đó mỗi dân tộc đều có nét văn hóa đặc sắc. Nếu nói văn hóa Việt là tổng
hòa, là tính trội của sự cộng hợp các nét văn hóa của các dân tộc anh em thì chỉ phản ánh được về loại
hình và số lượng mà chưa nêu bật được nét điển hình của văn hóa Việt.

Trong quá trình cùng nhau sinh sống, cùng nhau đối mặt với thiên tai, địch họa, 54 dân tộc anh em đã nhận ra
một nét văn hóa điển hình, giúp đất nước đi qua nhiều thử thách nghiệt ngã và trường tồn theo thời gian đó là
hai chữ “Tình thương”

Việt Nam là một quốc gia của Tình thương và văn hóa Việt là nền văn hóa được soi rọi bằng ánh sáng văn hóa
Tình Thương.

Tất cả các thành tựu của nền văn hóa Việt đều thấm đẫm và hiển hiện Tình thương.

Vào hồi 17h15 giờ địa phương (21h15 giờ Việt Nam) ngày 1/12/2016, tại Phiên họp Uỷ ban Liên Chính Phủ về
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO diễn ra tại thành phố Addis Ababa, Cộng hoà dân
chủ liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ của người Việt” tại 21 tỉnh thành đã
chính thức được UNESCO ghi danh tại danh sách di sản văn hóa phi vật thể đại diện cho nhân loại.

Vậy là trong rất nhiều hình thức tín ngưỡng của 54 dân tộc thì đã có một “Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ”
được cả thế giới công nhận, là một loại hình văn hóa điển hình của người Việt.

Điều gì ở “Tín ngưỡng thờ Mẫu Tam phủ” hay dân gian còn gọi là Đạo Thánh Mẫu mà được sự suy tôn, được
sự công nhận của cả thế giới và xem như là một thành tựu của nhân loại như vậy?

Câu hỏi này là một vấn đề mà trong chương sách này chưa thể trả lời rốt ráo hết được vì Đạo Thánh Mẫu có sự
hiện thị và đi vào đời sống, tác động trực tiếp đến từng cá nhân và cộng đồng với rất nhiều phương thức.

Điều dễ nhận thấy là các gia đình Việt Nam có tục thờ gia tiên, thường được đặt ở một chỗ trang trọng nhất với
tấm lòng thành kính của mỗi thành viên trong gia đình.

Bàn thờ gia tiên được hiểu là thờ cúng những người đã khuất trong gia đình, có những gia đình còn làm ban thờ
nhiều bậc, để thờ cao hơn nữa là các vị thần linh, các vị Thánh, thậm chí cao hơn nữa là Thiên, là Phật.

Trong cộng đồng dân cư từ đơn vị thôn bản, làng xã, huyện lỵ, tỉnh thành phố đều có rất nhiều đền thờ, thường
là các di tích lịch sử gắn với tên tuổi của các vị Thánh. Nhưng điểm chung nhất là đều có cung Mẫu, nơi trang
trọng nhất trong ngôi đền. Ở đó có ban thờ Tam Toà Thánh Mẫu, tức là 3 vị Thánh Mẫu gồm Đệ Nhất Thiên
Tiên, Đệ Nhị Thượng Ngàn và Đệ Tam Thoải Phủ.

Dưới đó là Ngũ Vị Tôn Quan, dưới nữa đến Hàng Chầu và các vị Thánh, rồi Cô Bé, Cậu Bé.
Điều đặc sắc nhất, huyền bí nhất, vi diệu nhất là linh hồn các vị đó tồn tại và có thể nhập vào các thanh đồng,
những người có “căn cơ kiếp mạng” thực hiện trách nhiệm là các “Ghế” cho các Ngài về ngự.
Đây là một trạng thái năng lượng tinh thần rất cao cho cả những người được gọi là “Ghế” và cả những người
tham gia - hiểu đơn giản là Thanh Đồng đó như cái máy điện thoại và linh hồn chính là sóng điện thoại, hay
thanh đồng đó là vô tuyến và các linh hồn là sóng vô tuyến. Đây là một hoạt động kết nối giữa các tầng năng
lượng, hay còn gọi là các cõi. Giống như chúng ta gọi điện thoại về nhà cho người thân để thực hiện một thông
điệp nào đó.

Các vị Thánh đó là ai, ngoài những vị trong hội đồng Tam, Tứ Phủ trên bàn thờ thì cũng có thể là chính những
vị Thánh trong gia tiên, mà thành tựu của họ được công nhận trong sử sách, công trạng, và đức độ của họ được
triều đình sắc phong và nhân dân tôn kính là bậc thánh nhân.

Trong nghi thức hầu bóng của Đạo Thánh Mẫu, các hoạt động của đời sống được tái hiện và nghệ thuật hóa
bằng hình thức diễn xướng và hát chầu văn. Thanh Đồng lúc này hóa thân thành các vị Thánh trong hội đồng
Tam, Tứ Phủ diễn lại các hoạt động mang tính chất tinh hoa khi những vị này còn sống trong thể xác con người
và thực hiện sứ mệnh của họ khi là một con người trong đời sống dân gian. Các hoạt động đó rất phong phú như
tế lễ với Thiên Phật và hội đồng thần linh, phi ngựa đánh giặc, chèo đò qua sông, gánh hoa ra chợ bán, luyện
võ, giáng bút làm thơ, sao thuốc chữa bệnh… và rất nhiều các hoạt động khác được diễn xướng với hình thức
sân khấu hóa. Các hoạt động đó được biểu diễn trong âm thanh của các nhạc cụ dân gian như trống, sáo, tiêu,
đàn nhị và rất nhiều nhạc cụ khác.

Tựu chung lại là các hoạt động để tạo ra sự giao thoa giữa cõi thánh thần và cõi người, hay là sự tương tác giữa
các tầng năng lượng khác nhau. Ở đó, con người ta được đưa về một trạng thái năng lượng cao hơn để gửi gắm
những ý niệm của sự biết ơn thành kính của con người Việt với Tổ tiên và môi trường để các vị thánh được tán
thành công đức và lại tiếp tục giúp đời bằng sự hiện thị của họ thông qua “ghế” là Thanh Đồng. Những hoạt
động này thể hiện được sự khát khao thấu hiểu, chia sẻ để cùng nhau hướng tới ánh sáng của giải pháp bằng đạo
pháp của Tình thương từ bậc mẫu nghi thiên hạ.

Điều đặc sắc và vi diệu trong đạo Thánh Mẫu là vị “Thần chủ” của Đạo Thánh Mẫu chính là vị Thánh Mẫu Đệ
Nhất Thiên Tiên, một vị người nhà trời, con của Ngọc Hoàng thượng đế, giáng trần rất nhiều lần rồi lại về trời
và quay lại đầu thai làm người, hóa thân làm người con gái của các dòng họ, cũng lấy chồng, sinh con và tham
gia vào các hoạt động của cõi hồng trần như bao con người chúng ta. Sự giáng thế để rồi về trời, rồi lại giáng
thế để tiếp tục sứ mệnh, sau đó về trời để tiếp tục giáng thế trong hình tướng của con người là Mẫu Đệ Nhất
Thiên Tiên cho thấy mối liên hệ tương tác qua lại giữa cõi trời và cõi người. Trong tâm thức của người Việt,
trời là ý niệm về Thượng đế. Trong đời sống hằng ngày, tất cả những cảm xúc từ khó khăn, ngạc nhiên, vui
sướng, đau khổ… họ đều kêu “Trời ơi!”. “Trời ơi!” là tiếng lòng, là sự nương tựa, chia sẻ, cầu cứu hay biết ơn
khi mọi thứ xảy ra trong cuộc sống vượt ra khỏi sự dự đoán hay tầm nhận thức. Chính vì vậy, khát vọng hướng
tới, được kết nối với một tầng năng lượng cao hơn, hay tư tưởng hướng thượng của con người được thoả mãn
tối đa trong các hoạt động của tín ngưỡng thờ Tam, Tứ phủ. Nơi đó, con người và thánh thần có sự giao lưu,
thấu hiểu, chia sẻ và kiến tạo giải pháp. Trong một cuộc sống đầy tham vọng, đầy sự đua chen, đầy sự tổn
thương đến mất niềm tin, con người dường như được thỏa mãn sự thấu hiểu khi được giao tiếp với Thánh Thần
để chia sẻ những nỗi niềm, những u uất mà không thể chia sẻ được với ai. Họ cảm thấy như có được một sự
cứu rỗi về tinh thần và Tình thương để tiếp bước, dấn thân trong cuộc hành trình thân phận của kiếp làm người.
Đạo Thánh Mẫu là một sức mạnh, một nguồn năng lượng vận hành theo quy luật tự nhiên và xã hội, có vai trò
kết nối dòng chảy lịch sử từ tổ tiên đến con cháu. Nếu dòng họ là một loài cây thì Đạo Thánh Mẫu là nguồn
năng lượng trong thân cây giúp kết nối giữa gốc, thân và cành lá. Và loài cây nào cũng cần sự vận động của
dòng chảy năng lượng đó để tồn tại và phát triển, cũng như dòng họ nào cũng cần sự kết nối giữa con cháu và tổ
tiên cho sự trường tồn của dòng họ.

Văn hóa của Việt Nam là kết tinh của tinh hoa các dòng họ Việt Nam, làm nên một rừng cây tràn đầy hương sắc
và trái ngọt. Trong khu rừng đó, dù là cây cổ thụ hay loài dương xỉ thì đều có chung một khát vọng hướng
thượng, hướng về ánh sáng mặt trời để vươn lên bằng nguồn năng lượng sống trong mỗi loài cây.

Trong hoạt động giao tiếp với các thánh thần trong Đạo Thánh Mẫu thì trà đóng một vai trò đặc biệt không thể
thay thế. Dâng nước, dâng trà, dâng rượu lên các bậc tiên Thánh khi họ về chứng lễ là một nghi thức thiêng
liêng trong Đạo Mẫu. Ở đó con người được bày tỏ sự tôn kính và tấm lòng của mình với bậc bề trên.

Thông qua văn hóa trà, khi thưởng ngoạn trà, con người gần hơn với cảnh tiên, được chiêm ngưỡng và học hỏi
cái khí chất toát ra từ bậc tiên Thánh. Khi đó, sự giao hoà giữa trời, đất và con người (thiên - địa - nhân) làm
cho con người phát tiết ra những tư tưởng thanh tao, khí chất sống cao đẹp, hướng con người đến những điều
cao cả, thuần khiết và an tịnh.

Trong Đạo Mẫu thường có hình ảnh các giá ông Hoàng ngồi uống trà nghe văn, thưởng hoạ, làm thơ. Trong các
câu hát đó phần nào cho ta thấy một bức tranh lớn về cả không gian và thời gian chứa đựng một bầu trời văn
hóa gắn với những nhân vật huyền sử và những câu chuyện huyền thoại.

“Trên điện ngọc rồng bay năm sắc


Dưới Động Đình ghềnh thác nguy nga
Mênh mông một dải sơn hà
Ầm ầm sóng vỗ xa xa bạc đầu
Loài thuỷ tộc từ đâu tìm đến
Vượt vũ môn xuất hiện thần long
Biến lên mặt nước lạ lùng
Ông Hoàng Bơ Thoải chân dung khác thường”
(Văn ông Hoàng Bơ)

Ông Hoàng Bơ là một nhân vật huyền sử nhưng trong những bài hát văn của ông lại nhắc đến những địa danh
gắn với lịch sử tộc người Việt và nước Việt Cổ là Hồ Động Đình. Một địa danh gắn với sự tích ra đời Sùng
Lãm, tức Lạc Long Quân cháu đời thứ 5 của Thần Nông - ông tổ của trà, người tìm ra trà. Lạc Long Quân (2792
TCN- 2525 TCN) là nhà vua của nước Văn Lang được xem là thuỷ tổ của nước Việt và cha của vị vua Hùng
đầu tiên.

Hồ Động Đình là địa điểm Lộc Tục (tức Kinh Dương Vương) lấy con gái của vua Động Đình Hồ là Long Nữ để
sinh ra Sùng Lãm là Lạc Long Quân. Người đổi tên từ nhà nước Xích Quỷ (2879 TCN - 2524 TCN) thành nhà
nước Văn Lang sau khi lên ngôi, thay vua cha Kinh Dương Vương.
Vậy Đạo Thánh Mẫu cho chúng ta biết cái nguồn gốc nước Việt, người Việt cũng như diện tích đất đai rộng lớn
khi tổ tiên ta xây dựng hình thức nhà nước đầu tiên:

“Phía Bắc tới sông Dương Tử (cả vùng hồ Động Đình), phía Nam tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành) phía Đông
là Đông Hải (một phần của Thái Bình Dương), phía Tây là Ba Thục (Tứ Xuyên - Trung Hoa ngày nay)”
(nguồn: Đại Việt Sử Ký Toàn Thư)

So với diện tích đất ngày nay thì chỉ bằng 1/10 diện tích đất của nhà nước Việt Cổ. Nước Việt Cổ nằm từ vĩ
tuyến 29 phía Bắc và vĩ tuyến 11 phía Nam và tồn tại từ thời vua Lạc Long Quân đến thời An Dương Vương
208 TCN mới bị phương Bắc xâm chiếm (tồn tại 2671 năm).

Nước Việt Cổ đã tồn tại vững bền từ khi được Nhà vua Đế Minh (cháu ba đời của Thần Nông) phân chia hai
miền Nam Bắc, biên giới là sông Dương Tử đã phán truyền: “Trước trời đất thề nguyện rằng: Nam, Bắc cương
thổ có khác. Nam không xâm phạm Bắc. Bắc không chiếm Nam. Kẻ nào phạm lời nguyền thì chết dưới đao
thương”.

Văn hóa Việt với điển hình là đạo mẫu cùng truyền thống “uống nước nhớ nguồn” đã cho chúng ta thấy được
nguồn gốc, nòi giống cao quý ngay từ thủa hồng hoang với gần 5000 năm lịch sử. Khi tổ tiên ta là những người
ở bậc tiên giới, tìm ra thiên dược, mang linh khí và tinh hoa của trời đất để nuôi dạy con cháu muôn đời sau.
Văn hóa Việt được sinh ra từ vị thuỷ tổ là người tìm ra trà, đưa thứ thần dược từ cõi tiên giới thành thứ thuốc
chữa bệnh và là thức uống hằng ngày nhưng có giá trị chuyên chở chiều dài lịch sử và trầm tích văn hóa truyền
lại cho con cháu, muôn dân trăm họ.

CHƯƠNG 6.
VĂN HÓA TRÀ VIỆT LÀ GÌ?

L à hoạt động thưởng thức trà của người Việt, nhằm đưa con người đến một trạng thái năng lượng cao
hơn. Ở đó con người được thấu hiểu, chia sẻ để có được giải pháp nhằm thích nghi và hóa giải những
vấn đề trong cuộc sống, là phương thức để tìm về cõi an yên của tâm hồn, tìm về vị Phật của lòng
mình, nơi cảnh giới của Tình thương.

Văn hóa trà Việt chảy dài theo lịch sử nước Việt, như một dòng chảy của sự giác ngộ. Nếu như dân tộc Việt là
nước thì văn hóa trà Việt như một dòng sông, cùng dòng nước lên trầm xuống bổng, vượt thác ghềnh đến vực
sâu, khi lững lờ trôi hiền hoà để hoà mình vào biển lớn.

Văn hóa trà Việt là sự kết tinh của sự giao hoà giữa cha và mẹ, giữa đạo thánh Mẫu và tinh thần giác ngộ trong
trà, giữa tính âm và tính dương.

“Công cha như núi Thái Sơn


Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
(Ca dao)
Văn hóa trà Việt là sự hài hòa Âm- Dương một cách vi diệu, trong Âm có Dương, trong Dương có Âm và
sự biến hóa này nhiệm màu như sự biến hóa của hương trà, vị trà mà tôi gọi là “Vị tình thương -
Hương giác ngộ”

Tình thương và giác ngộ như Nước và Trà, như Mẹ và Cha, như Âm và Dương. Tinh hoa của chất trà
tan vào nước, tạo nên sự giao hòa Âm - Dương để tạo nên những thành tựu văn hóa tuyệt vời của tinh
hoa trà Việt.

Sau khi uống một ly trà ngon, sau một ngày suy ngẫm văn hóa Việt và dòng chảy lịch sử Việt vào đúng 0 giờ
ngày 19-6-2021 tức ngày 10 tháng 5 năm Mậu Tuất. Một mối liên hệ hữu cơ rất vi tế, vi diệu và nhiệm mầu.
Điều mà cách đây 6 tháng, ngày 13/1/2021 tôi chưa thể tìm ra, và nó làm tôi đau đáu suốt 6 tháng nay khi viết
cuốn sách này.

Vạn vật sinh ra đều từ sự vận động của âm dương, của trời và đất, cũng như trời sinh ra cây trà là một tiên dược
và đất sinh ra dòng nước để trà tiết ra được chất trà, một thức uống vừa mang giá trị thể chất đến giá trị tinh
thần.

Trạng thái năng lượng mà trà mang lại cho chúng ta không đơn giản chỉ là thỏa mãn cơn khát cùng những hoạt
chất trong trà mang cho cơ thể, mà trà còn chuyên chở cả linh khí đất trời để mang cho con người sự khỏe mạnh
về thân thể, cân bằng về tình cảm, sáng suốt về trí tuệ và mạnh mẽ về tâm linh.

Uống trà là một cuộc hành trình tìm về bản thể, từ thân thể đến tình cảm, đến trí tuệ, đến tâm linh hay nói đơn
giản là từ “Nước Trà đến Đạo Trà”.

Văn hóa trà Việt có bốn trạng thái, bốn tầng năng lượng khác nhau:

1. Tầng năng lượng của thân thể: tức là ta uống trà ở khắp nơi, từ ly trà đá vỉa hè sau một bát phở sáng để chăm
sóc thân thể, đến cốc trà nóng mùa đông, đến ly trà mạn cùng bè bạn.

2. Tầng năng lượng của tình cảm: ta dùng ly trà để tĩnh tại, để suy ngẫm, để sẻ chia những cảm xúc bên những
người thân yêu.

3. Tầng năng lượng của trí tuệ: ở đó trà là người bạn đồng hành, trà là trợ lý đắc lực, trà là môi trường thanh
tịnh cho những sáng tạo.

4. Tầng năng lượng của tâm linh: trà là đạo, trà là con đường đi đến sự giác ngộ. Trà là môi trường kết nối với
năng lượng vũ trụ, ở đó bản thể của ta hoà với bản thể vũ trụ.

Từ xa xưa đã có những con người biết dùng trà trong các trạng thái năng lượng tinh thần rất cao từ tình cảm đến
tâm linh như vua Trần Nhân Tông, Nguyễn Trãi, Tuệ Tĩnh, Nguyễn Bỉnh Khiêm…và họ đã để lại những vần
thơ, những cuốn sách, những bài thuốc hay những ý niệm thể hiện điều đó.

“Bao giờ nhà dựng đầu non


Pha trà nước suối gói hòn đá ngơi”
(Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác -
Nguyễn Trãi)

“Khát uống trà mai, hương ngọt ngọt.


Giấc nằm hiên nguyệt, gió hiu hiu”
(Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Riêng Thánh Sư Tuệ Tĩnh đã viết một bộ sách được xem là cổ nhất, có nhắc đến trà là bộ “Nam dược thần
hiệu”. Trong 499 vị thuốc Nam được ngài biên kỹ về dược tính thì vị số 188 là Minh Trà.

Ngài viết: “Trà ngon, vị ngọt, đắng tính hơi hàn, nhuận tạng, trừ tiệt khu phong, sáng mắt, nhẹ đầu, hạ đờm, trị
chướng lỵ, tiêu thức ăn”

Mỗi con người khi ở các tầng năng lượng khác nhau, các trạng thái tinh thần khác nhau, các cung bậc văn hóa
khác nhau họ sẽ dùng trà theo những cách khác nhau - một cách rất linh hoạt và uyển chuyển mà không rập
khuôn hay bám chấp vào hình tướng hay cung cách cứng nhắc nào cả.

Trong quá trình giao lưu văn hóa, chúng ta đã du nhập nhiều cung cách bảo quản, pha chế và thưởng thức khác
nhau để làm phong phú hơn cho sự tận hưởng trà, nhưng không vì điều đó mà chúng ta quên đi nét đặc sắc của
văn hóa trà Việt là một hành trình của sự thấu hiểu từ thân thể, tình cảm, đến trí tuệ và tâm linh.

Các thuật pha trà với rất nhiều dụng cụ cầu kỳ với “Nhất thủy, nhì trà, tam bôi, tứ ẩm, ngũ quần anh” là những
đúc kết của con người trong quá trình thưởng thức trà. Trong quá trình biểu diễn nghệ thuật pha trà, con người
lại sáng tạo ra nhiều dụng cụ hơn với các loại ấm làm từ đất tử sa, thiên mộc… với các tên trà rất ấn tượng đều
không ngoài mục đích thoả mãn các yếu tố thân thể, tình cảm, trí tuệ và tâm linh. Chúng ta đôi khi dường như
đã quá tập trung, say sưa và ngạc nhiên trước “Thuật” mà quên mất đâu là “Đạo” để rồi lãng quên những giá trị
to lớn về nguồn gốc của Trà Việt và những giá trị đặc sắc của Văn hóa Việt để làm nên một văn hóa trà Việt
biến thiên theo dòng chảy của lịch sử đẹp như một dòng sông từ rừng già chảy ra biển lớn. Dù có trải qua bao
khúc quanh co, bao thác ghềnh trắc trở thì dòng sông trà Việt vẫn luôn tìm về biển lớn và chuyên chở bao câu
chuyện trầm tích của cả nền văn hóa như dòng sông mang nặng phù sa làm bãi bồi màu mỡ cho khắp vùng
miền.

Thấu hiểu về văn hóa Việt, về văn hóa trà Việt là cách chúng ta tận hưởng những giá trị tích tụ từ tổ tiên, từ các
bậc tiền bối để làm phong phú tâm hồn và khỏe mạnh về thể chất - cho một sự phát triển và trường tồn của
giống nòi Việt.
Văn hóa trà Việt là một hành trình giác ngộ đơn sơ, giản dị như một ly trà đá của bác nông dân đến thưởng trà
với sương sớm và trăng đêm nơi cõi bồng lai như Phật hoàng trên đỉnh Yên Tử linh thiêng huyền diệu. Dù
mang thân phận gì thì mỗi chúng ta đều được ban tặng một cách bình đẳng và phóng khoáng từ thiên nhiên cẩm
tú một loài tiên dược từ thuở khai thiên lập địa và trường tồn, phát triển đến tận hôm nay.

Trà đưa chúng ta đến một cuộc hành trình của sự thấu hiểu, chia sẻ và kiến tạo giải pháp để chúng ta có cơ hội
cùng nhau làm nên một Văn hóa trà Việt nơi xứ sở của Tình thương.
CHƯƠNG 7.
TRÀ TRONG ĐỜI SỐNG DÂN GIAN

M ỗi chúng ta đều có nguồn gốc từ những làng quê, gần 5000 năm nay, đã chứng kiến bao sự đổi thay,
vật đổi sao dời, nhưng niềm vui bên bát nước chè là điều không bao giờ thay đổi. Chè đã đi vào ca
dao, trong điệu hát với bao lời nhắn nhủ mà con người muốn dành cho nhau.

“Chè ngon nước chát xin mời


Nước non, non nước, nghĩa người chớ quên”
(Ca dao)

“Mấy khi khách đến chơi nhà


Đốt than quạt nước pha trà người xơi
Trà này quý lắm người ơi
Mỗi người một chén cho tôi vừa lòng”
(Quan họ Bắc Ninh)

Ở nơi làng quê, trà đi vào lao động sản xuất, trong các nghi lễ, trong các ngày trọng đại và không gì có thể thay
thế trà.

Sách Động Đình Đông Sơn vật sản khảo có viết:

“Nhà trai dùng trà làm sính lễ gọi là Trà lễ, nhà gái nhận trà gọi là Thụ trà. Nếu nhà trai không có trà thì
không bàn chuyện cưới hỏi. Khi cô dâu bước về nhà chồng có thủ tục khấu đầu trước bố mẹ chồng gọi là bái
trà. Lúc cô dâu, chú rể vào phòng hai người quỳ gối đối diện nhau, chú rể dùng ngón tay cái và ngón trỏ của
tay trái, cô dâu dùng ngón trỏ và ngón cái tay phải tạo thành hình ô vuông để chén trà vào giữa. Người thân và
bạn bè đi qua lần lượt thưởng hương thơm của chén trà - đó là tục hợp trà”
(Sách Phụng Trà)

Trong các nghi thức của đạo Thánh Mẫu, trà là một sản vật không thể thiếu để kính dâng các đấng bề trên, các
bậc tiên thánh bên nước và rượu. Đặc biệt có những giá ông Hoàng Bảy, ông Hoàng Mười - các Ngài đều
thưởng trà, giáng bút làm thơ răn dạy và ban tặng cho thanh đồng và bản hội.
Trong dân gian, trà được dùng một cách rất uyển chuyển, linh hoạt theo các tầng văn hóa từ thân thể, tình cảm,
đến trí tuệ, tâm linh. Tùy theo nhu cầu con người, tầng văn hóa mà người đó đạt đến, người ta sẽ dùng trà để
làm thức uống giải khát, để chữa bệnh hay là để diễn đạt, chia sẻ tình cảm, tìm đến sự thông thái nội tâm hay kết
nối với các tầng năng lượng khác.

Dù là nhu cầu gì thì trà luôn đồng hành cùng đời sống người dân Việt một cách rất gần gũi, chân thật, thiết thực
nhưng đầy minh triết, tao nhã và tinh tế.

Trà là một sản phẩm mà có thể dùng để tặng nhau như món quà cao quý nhất, đến mời nhau uống như lời
chào mà ai cũng vui lòng đón nhận. Trong dân gian, trà tồn tại trong rất nhiều hình tướng; có những bánh trà
bạc tỷ, giá trị là cả một gia tài - đến bát nước chè xanh mà ai cũng có thể được uống một cách thoả thích mà
không cần quan tâm đến giá cả.

Cách con người ứng xử với trà và văn hóa trà cũng là cách thể hiện nhận thức và phông văn hóa của người đó,
nhưng dù là ai thì trà luôn được con người ta đón nhận, nâng niu và dành cho một sự tôn trọng đặc biệt.

Từ sơ chế đến tinh chế, trà là niềm cảm hứng cho những sáng tạo trong dân gian khi được chế biến thành những
vị thuốc thậm chí đến cả những món ăn.

Trong thuyết ngũ hành với Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ thì trà là yếu tố mang hành Mộc. Để có một ly trà
ngon đều phải có sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn và hài hoà cả năm yếu tố đó: ấm đun trà thường là kim
loại - hành kim, nước là hành thuỷ, nhiệt độ hay lửa là hành hoả, ấm chén làm bằng gốm nung từ đất là hành
thổ. Một bàn trà đều phải có năm yếu tố đó thì mới làm nên một bàn trà hoàn chỉnh. Tuỳ theo nhu cầu, mức
độ tỉ mỉ, cầu kỳ hay sự tinh tế mà con người tạo ra các loại trà cụ với độ phong phú và đa dạng khác nhau.

Vậy nên, trong dân gian đã có rất nhiều phương thức trồng chè, chế biến trà, pha trà và bảo quản trà rất đa dạng
với các nhu cầu khác nhau.

Trà vừa là một thứ tài sản được người ta cất giữ, giấu kín lại cũng có thể là thứ người ta sẵn sàng mời nhau với
niềm vui và sự trân trọng tuyệt đối khi được đón nhận một cách trân trọng và chân thành.

Trong quá trình giao thương với các nước khác, với các nền văn hóa khác, chúng ta du nhập nhiều phương thức
chế biến, bảo quản và thưởng thức trà nhưng chưa bao giờ trong dân gian mất đi bản sắc văn hóa trà Việt, để
đến hôm nay, Trà Việt vừa cao sang lại vừa gần gũi, vừa minh triết lại vừa giản dị, vừa đắt đỏ lại vừa bình dân.
Dân gian đã kết hợp trà với các phương thức thưởng thức hoa để làm nên các loại trà ướp sen, ướp hoa hồng,
ướp hoa nhài… Cộng với cách dùng các loại nước từ sương đọng trên lá sen đến nước giếng khơi có đá ong
ngầm ở bên dưới...để làm nổi bật hương vị của trà và các tinh hoa khác từ trời đất.

Trà làm cho những đồ vật khác trở nên đáng giá hơn từ bàn uống trà, hộp đựng trà, phòng uống trà, âm nhạc
thưởng trà, tranh ảnh thư pháp …

Trà kết nối con người với thiên nhiên, những cây chè cổ thụ với hoa phong lan mọc trên những thân cây già nua
trong khu rừng già luôn là một hình ảnh đẹp đẽ, hùng vĩ và thanh cao. Mỗi con người khi có cơ hội đắm chìm
trong không gian của trà là một cơ hội tuyệt vời để họ nghĩ về một bản thể tinh khiết, đầy Phật chất. Trà đẫm
mình trong nước nóng ở nhiệt độ cao để tiết ra chất trà tinh túy luôn mang một ý nghĩa lớn lao về sự rèn luyện
và trưởng thành của con người trong đời sống khắc nghiệt và nhiều nghịch cảnh của kiếp người.

Trong đời sống dân gian, trà vừa là người thầy, bậc minh sư lại là người bạn gần gũi và có khi là đầy tớ trung
thành cùng mỗi chúng sinh trên mọi nẻo đường giác ngộ.

CHƯƠNG 8.
TRÀ TRONG ĐỜI SỐNG ĐƯƠNG ĐẠI

K hi xã hội phát triển, trà cũng đồng hành theo sự phát triển đó để rồi tá túc vào các “hình tướng” khác nhau
cho phù hợp với thời cuộc, mà vẫn không mất đi bản thể của trà.

Trà được đóng thành lon, trà được cho thành viên nén, thành túi, trà được đưa vào bánh kẹo, được pha thành
cocktail…

Tuy nhiên, những di sản quý báu về trà vẫn được giữ nguyên và phát triển rất phong phú trong quá trình giao
lưu giữa các nền văn minh và tương tác giữa các đặc trưng văn hóa vùng miền.

Chúng ta đang sống trong thời đại 4.0 khi các loại phát minh, kỹ thuật đều trở thành công nghệ, được ứng dụng
một cách tối ưu trong đời sống. Chỉ cần ngồi một chỗ chúng ta đều có thể có đầy đủ hiểu biết về thông tin cũng
như có thể được đưa tới tất cả các loại trà trên thế giới để thưởng thức.

Các công nghệ chế biến đã có thể trở thành công thức được quy trình hóa để sản xuất hàng loạt giúp con người
được tận hưởng nhiều loại trà phong phú về chất lượng và mẫu mã. Cách thưởng thức cũng vì thế mà trở nên rất
phong phú và sáng tạo, từ trà nóng đến trà lạnh, trà cổ đến trà hiện đại, trà chế biến sâu đến trà sơ chế. Có
những bàn trà làm từ những thân cây gỗ với giá trị rất cao, thiết kế tinh xảo được định giá rất cao, đến những
cách uống trà cầu kỳ, cần nhiều thời gian và công sức nếu muốn thưởng thức. Có những loại trà được lựa chọn
và chế biến phức tạp với công thức gia truyền thậm chí là bí truyền để giữ được những yếu tố hương vị và cảm
nhận đặc biệt mang lại cho người uống.

Có thể nói việc tối ưu các loại công nghệ và phối hợp giữa công nghệ với nhu cầu sử dụng đã làm cho trà càng
đi vào đời sống với rất nhiều hình tướng từ ly trà sữa đến chén trà trong những chiếc chén đất nung quý giá và
tinh sảo đến kinh ngạc.

Bên cạnh đó thì các ngành công nghiệp xung quanh ngành trà đã làm cho trà có một vị thế đặc biệt trong đời
sống đương đại mặc đua chen kim tiền, lợi lộc.

Đặc biệt, trong đời sống đương đại, con người dùng trà để thấu hiểu, chia sẻ và kiến tạo giải pháp một cách rất
mạnh mẽ từ âm thầm đến được quảng bá rộng rãi và có độ thương mại hóa rất cao.
Nếu như thời đại công nghiệp 4.0 cho phép chúng ta tối ưu công nghệ và kết hợp các công nghệ với nhau để
mang lại những sự sáng tạo và cải tiến hiệu quả nhất cho đời sống thì sự kết hợp của các ngành công nghiệp
xung quanh ngành trà cũng cho chúng ta sự thưởng thức trà một cách mà từ trước đến nay chưa bao giờ có.

Nhờ công nghệ thông tin, chúng ta được tiếp cận thông tin minh bạch về lịch sử của các nền văn hóa, được kế
thừa thành tựu của khoa học lịch sử, ngành khảo cổ học và phát huy trí tuệ Đông, Tây, kim, cổ để hiểu bản
chất nguồn gốc của trà là từ đâu và chúng ta đóng vai trò gì trong hành trình văn hóa của trà.

Trong đời sống đương đại, chúng ta có đủ thông tin, nguồn lực và giải pháp để chúng ta không những thưởng
thức các loại trà kinh điển đã trở thành di sản mà còn biết cách tạo ra công nghệ thưởng thức cho riêng mình
bằng sự kết hợp một cách linh hoạt giữa các yếu tố Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ trong việc thưởng thức trà.

Sự tiến bộ của nhân loại suy cho cùng là đưa con người đến những điều kiện sống tốt hơn, êm ái hơn trong cuộc
hành trình đi tìm bản thể. Trà luôn đồng hành cùng loài người trong hành trình đó.

Nếu như ngày xưa người ta mời nhau bát nước chè xanh để thể hiện tình bằng hữu thì ngày nay người ta tặng
nhau những hộp trà được làm từ rất nhiều chất liệu, kiểu dáng để thể hiện lòng biết ơn, sự thành ý trong mỗi
món quà từ trà. Trà không chỉ là thức uống mà còn trở thành sứ giả cho sự thiện chí, thiện tâm mà con người
muốn trao gửi cho nhau.

Chính vì vậy mà ngoài hình thức, nội dung cần có sự quan tâm đầu tư đặc biệt bao gồm trà cổ, trà trên núi tuyết,
trà ướp hương, trà được chế biến sâu, trà tẩm ướp hương liệu để kích thích vị giác…

Ngày nay khi nhịp độ cuộc sống nhanh và sôi động, con người khi thưởng thức trà đều có nhu cầu thưởng thức
bằng cả năm giác quan.

Thị giác:

Không gian uống trà, khung cảnh uống trà và cả người uống trà cũng đều cần sự vừa mắt và hợp thị hiếu. Điều
đó đòi hỏi các nhà sản xuất và những nơi thưởng thức trà phải đạt một tiêu chuẩn nhất định về thẩm mỹ, từ bao
bì của trà, đến các lọ đựng trà - thường là các lọ gốm sứ được nghệ nhân làng nghề làm ra một cách tinh xảo và
chính nó cũng là những tác phẩm nghệ thuật. Bàn ghế dùng để uống trà cũng cần tương thích để tạo nên bản
giao hưởng của văn hóa và nghệ thuật mang bản sắc của Trà Việt. Điều đó giúp phát triển ngành công nghiệp
đồ gỗ, nội thất mà chúng ta rất có thế mạnh.

Với sự thăng hoa cảm xúc, con người hướng tới cái Chân, Thiện, Mỹ nên tranh, tượng, hội hoạ, thư pháp cũng
là yếu tố không thể thiếu trong một không gian văn hóa trà Việt ở đời sống đương đại. Không dừng ở đó, khi
tâm thức con người hướng về bản thể, thì cuộc hành trình với trà không dừng lại ở một không gian chật hẹp nào
mà người ta mơ ước được trở về nơi nguyên bản của trà. Đó là rừng chè cổ thụ giữa non nước hữu tình. Du lịch
sinh thái bất động sản trà cũng nhờ đó mà định hình thành một ngành công nghiệp và có tiềm năng phát triển
mạnh mẽ một cách tất yếu trong tương lai.
Khứu giác:

Một không khí trong lành, thanh tịnh, với mùi hương của cỏ cây thiên nhiên, hay thoang thoảng mùi trầm làm
con người được thư thái, quên đi căng thẳng, mệt mỏi, sầu muộn là yếu tố thứ hai trong lúc thị giác đang được
thoả mãn. Khứu giác của chúng ta gắn liền với hệ hô hấp, mà trong không khí thì có rất nhiều dưỡng chất. Việc
quan sát hơi thở, quán niệm vào từng hơi thở để tìm chánh niệm giúp chúng ta tập trung vào từng sát na, cho
việc thưởng trà được tối ưu, cho ta cảm nhận sự tinh túy của linh khí đất trời trong mỗi ly trà. Trong quá trình
chế biến và sản xuất trà Tình thương, chúng tôi đưa ra được một khái niệm là: “Vị tình thương - hương giác
ngộ”

Vị giác:

Việc kích thích các giác quan trong đó có vị giác cũng là một nghệ thuật, chứa đựng trong đó sự thâm sâu tinh
tế của nghệ thuật thưởng trà. Đầu tiên là hương sau đó đến vị. Vị trà được tạo ra từ những chất có sẵn trong trà
và những chất có được do quá trình chế biến. Quá trình chế biến trà bản chất là làm nổi bật những hương vị mà
con người có thể tiếp nhận, thưởng thức và giảm hoặc triệt tiêu đi những vị mà con người khó thưởng thức như
vị ngái, vị chát, vị nồng của trà với nguyên bản là lá cây rừng.

Quá trình sấy, vò, quấn, nhiệt luyện đã khử đi những vị đó để chúng ta dễ dàng thưởng thức hơn. Nó cũng giống
như quá trình tu tập, con người bỏ đi sự tham lam, sân hận, si mê để quay về bản thể thuần khiết, an lành và
trong trẻo, gần hơn với Phật chất.

Vị trà có được là thành tựu của quá trình tôi luyện trà trong điều kiện khắc nghiệt của thiên nhiên lẫn quá trình
chế biến lên men công phu của người nghệ nhân. Vậy nên vị trà luôn là bí quyết quan trọng làm nên tầm cỡ của
người nghệ nhân trà và năng lực của nhà sản xuất trà.

Việc tạo ra một vị trà chinh phục được những người thưởng trà tinh tế là thành tựu lớn, đáng trân trọng của
những con người chăm chỉ và đầy khát vọng đang ngày đêm cống hiến để phát triển ngành công nghiệp chè.

Xúc giác:

Chúng ta có hàng triệu tế bào thần kinh dưới các đầu ngón tay và dưới da. Trong quá trình thưởng thức trà, thoả
mãn xúc giác cũng là một nhu cầu và nếu thỏa mãn được cái đẹp lại là một lợi ích rất đặc biệt. Những chén trà
làm bằng gốm, được nung trong nhiệt độ lớn, khi cầm trên tay với sự âm ấm của chén trà, khi để trong lòng bàn
tay, mân mê mang lại cảm giác của sự ấm áp, nâng niu chở che. Khi người thưởng trà nâng niu những ly trà
cũng làm cho người pha trà được trân trọng, tôn vinh và làm cho cuộc thưởng trà trở nên thân mật, gần gũi và ý
nghĩa hơn.

Thính giác:

“Trong như tiếng hạc bay qua


Đục như tiếng suối mới sa nửa vời”
(Truyện Kiều - Nguyễn Du)
Thính giác trong trà là một loại thính giác chứa đầy không gian và hình ảnh. Tiếng nước rót trà chính là tiếng
suối nếu chúng ta có đủ sự tĩnh lặng để lắng nghe. Và khi thưởng thức trà, chúng ta còn có thể lắng nghe âm
thanh của cõi tâm thức - ở đó chúng ta nghe được âm thanh của những miền rộng lớn hơn là những âm thanh
cuộc sống.

Đó là tiếng lòng mình khi lắng lại bên ly trà, đó là âm thanh của rừng trà cổ thụ, là âm thanh của đại ngàn nơi
miền đất trà được mọc lên. Các thiền sư dùng trà để mang lại sự thanh tịnh và thuần khiết tuyệt đối để lắng nghe
những âm thanh từ các tầng năng lượng, từ các cõi khác nhau của vũ trụ bao la khi họ tu đến các tầng của tha
tâm thông, thậm chí là lậu tận thông.

Vậy nên, trà là môi trường và phương tiện để phát huy thính giác, giúp chúng ta thưởng thức những âm thanh
của môi trường sống và của cõi tâm thức chúng ta. Trải nghiệm này mang lại sự thông thái nội tâm, để chúng ta
tiếp cận được trí tuệ vũ trụ.

Bản giao hưởng của sự thỏa mãn 5 giác quan, giúp tâm thức con người về gần hơn với cõi thiền, để có thể chạm
đến trực giác - chìa khóa mở ra cánh cửa thông thái của trí tuệ vũ trụ. Đây là cảnh giới tâm linh mà chỉ có trà và
thiền mới giúp con người chủ động đi đến được. Và từ đây con người tìm ra chính bản thể của mình, đó chính là
ý nghĩa của từ trà Đạo - một con đường trí tuệ đến bờ giác ngộ, gọi là Bát Nhã Ba La Mật Đạo (Con đường đi
đến bờ giác ngộ trí tuệ Phật).

Trong đời sống đương đại, con người không chỉ kế thừa những di sản văn hóa từ trà và cách ứng xử với trà của
các bậc tiền nhân mà còn biết cách ứng dụng những văn minh thời đại để gần với chất trà hơn, để hành trình tìm
về bản thể thú vị hơn.

CHƯƠNG 9.
CÁCH CHẾ BIẾN TRÀ

Đ iều vô cùng đáng tiếc là ở Việt Nam, khi mời nhau chén trà có rất nhiều người ngần ngại vì sợ mất
ngủ, có người nhăn mặt không nuốt nổi vì chát và có người thẳng thừng từ chối vì không hấp thu nổi,
đặc biệt là phụ nữ và trẻ em.

Trong khi ở Anh Quốc, Châu Âu, Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc thì từ trẻ em, phụ nữ, người già,
bệnh nhân đều xem trà là cứu cánh và họ có thể uống hàng ngày với niềm yêu thích mà không hề ngần ngại.

Trong hàng nghìn năm Bắc thuộc và cả trăm năm là thuộc địa của Phương Tây, hàng chục năm đô hộ của Mỹ,
điểm chung của các đế quốc là họ đều thực hiện chính sách ngu dân, họ chỉ mua chè nguyên liệu và chế biến
cho chính quốc mà không hề dạy chúng ta cách thưởng thức trà được chế biến để khử đi bớt chất tannin, bớt
cafein và bớt các mùi tanh nồng của trà nguyên liệu.
Từ khi phát minh ra lửa, con người chuyển từ đời sống hồng hoang, man rợ của loài thú sang đời sống của
con người ăn chín uống sôi. Lửa và cách sử dụng nhiệt độ là phương tiện để con người đi từ hoang dã đến văn
minh. Sự khác nhau giữa các nền văn minh đó là cách họ sử dụng công cụ lao động. Chế biến trà là nghệ
thuật của sử dụng nhiệt độ, lên men và khử các tạp chất để cho ra đời một loại trà tinh chế, phù hợp với khả
năng hấp thu và thoả mãn các giác quan của người thưởng thức. Tất cả những điều này đều được quy trình
hóa từ khâu làm héo, diệt men, vò chè, làm tơi, sấy chè, sao lăn tạo hình, làm khô, phân loại, bảo quản và
đóng gói thành phẩm. Có công đoạn thủ công, có công đoạn máy móc, có công đoạn cần bàn tay nghệ nhân,
có công đoạn có những bí quyết gia truyền…nhưng tựu chung lại gọi là trà tinh chế.

Khi tôi ở châu Âu, có những người bạn hỏi tôi rằng, tại sao người Việt thích uống nhiều rượu thế nhưng không
có loại rượu nào của Việt Nam nổi tiếng và xuất khẩu ra thế giới? Tôi đành trả lời rằng: “Bạn thông cảm, nước
tớ toàn phải trải qua chiến tranh vệ quốc, người chiến binh trước khi xung trận còn chẳng đủ rượu mà uống, như
vị tướng Trần Hưng Đạo từng úy lạo các chiến tướng:

“Tướng sĩ một lòng phụ tử


Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào”

Tức là ngày mai ra trận sống mái với quân thù, đêm nay tướng và quân nghĩa như cha con, gian khó đồng lòng
nhưng chẳng đủ rượu mà phải hoà với nước sông nhưng vẫn thắm nồng tình yêu nước.

Trả lời vậy, nhưng tôi hiểu rằng chúng ta đâu có thời gian để lên men, chưng cất rượu, ủ trong hầm, trong lâu
đài, rồi thậm chí thả xuống đáy biển, cất giữ như những quốc gia có hoà bình cả mấy trăm năm như châu Âu tạo
nên những dòng rượu nổi tiếng như những dòng họ. Chúng ta đâu có những cánh đồng nho bất tận để có thể lựa
chọn mùa nho ngon nhất và tổ chức những lễ hội, những đại mùa để lấy nho làm rượu với các công đoạn lên
men cho ra các dòng thức uống khác nhau như Champagne, vang trắng, vang đỏ, Cognac… Rồi chúng ta đâu có
lúa mạch bạt ngàn để chưng cất ra bia, ra whisky trứ danh để vừa thưởng thức, vừa cất giữ làm vật báu gia
truyền cho con cháu đời sau và chứng minh nguồn gốc quý tộc từ trong trứng nước như họ.
Chúng ta ăn củ sắn củ mài, ăn khoai sống, ngô non cầm hơi, lúa gạo ngon phải cống nạp, ruộng lúa chưa chín
thì thiên tai bão lũ tràn về cuốn đi tất cả thành quả, con người lại đau đớn gặt rạ về phơi khô cho trâu bò ăn, con
người lại ăn rau ăn cỏ sống qua ngày.

Cũng có những năm được an yên ngắn ngủi thì địch hoạ lại đến, hậu phương lại dốc lòng cho tiền tuyến, chiến
thắng quân thù, giữ yên bờ cõi là mục tiêu tối thượng.

Vậy nên, các sản phẩm của chúng ta chủ yếu là sơ chế, từ rượu đến chè. Cách mạng công nghiệp đến với chúng
ta chậm hơn châu Âu cả mấy thế kỷ. Chúng ta chưa có những nhà công nghiệp với tư duy phát triển kinh tế
vùng, kinh tế ngành thì nói gì đến công nghiệp hóa và hiện đại hóa. Ở thế kỷ 21, trở thành nước công nghiệp
vẫn còn đang là mục tiêu chiến lược. Các hộ kinh doanh cá thể mới với mô hình manh mún, các thương hiệu
mang đầy cái tôi cá nhân thể hiện một tư duy tiểu thương, nhỏ bé đến tội nghiệp, các vùng nguyên liệu không
được quy hoạch vĩ mô mà xé nhỏ thoả mãn lợi ích trước mắt của các doanh nghiệp ao làng đã ngăn trở chúng ta
tạo ra các ngành công nghiệp mới ngay cả khi chúng ta có hoà bình gần nửa thế kỷ.
Thấu hiểu điều đó, ta vừa cảm thông vừa chia sẻ với lịch sử đau thương để có những giải pháp cho thời đại mới
để làm nên bình minh của những ngành công nghiệp mới. Chúng ta có một thiên nhiên hùng vĩ với những công
viên địa chất Toàn cầu rộng lớn với khí hậu, thổ nhưỡng đặc biệt phù hợp để phát triển một vùng nguyên liệu
mà không nơi nào trên thế giới có được.

Trong kỷ nguyên 4.0 của thế giới phẳng, chúng ta được kế thừa kỹ thuật, công nghệ, bí quyết tinh chế, tinh
luyện của các quốc gia khác để làm nên những loại trà ở đẳng cấp quốc tế mang văn hóa Việt Nam.

Chúng ta có lợi thế của người đi sau - khi thị hiếu thưởng thức đã định hình ra xu thế; nhu cầu thị trường có thể
khảo sát và nắm bắt được; hệ thống phân phối đã tạo thành các kênh thương mại; hiệp định thương mại song
phương, đa phương đã được ký kết; hệ thống thương gia toàn thế giới với đầy đủ các phương tiện đã được thiết
lập; công nghệ thông tin và truyền thông đã mang người tiêu dùng cuối cùng gần nhất có thể với nhà sản xuất,
gần nhất với thiên nhiên.

Các tiêu chuẩn quốc tế về trà hữu cơ “Organic” không dùng hóa chất, phụ gia đã được thấm nhuần trong tư
tưởng của những nhà sản xuất mang đầy Tình thương với người sử dụng.

Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, ngày càng nhiều hơn sự hợp tác bình đẳng, chuyển giao công nghệ của
các nhà sản xuất mang thương hiệu thế giới với những đơn vị cung cấp nguyên liệu của chúng ta. Chúng ta có
cơ hội tham gia vào chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị toàn cầu để trở thành một phần không thể thiếu trong đầu tư
và thương mại quốc tế.
Một nước Việt Nam hội nhập sâu rộng đã sản sinh ra những nhà lãnh đạo có tầm nhìn toàn cầu, những nhà
doanh nghiệp tri thức có khát khao cháy bỏng chứng minh giá trị Việt, tinh thần Việt với thế giới, những người
công nhân nông dân, yêu lao động, làm chủ máy móc, kỹ thuật công nghệ cao.

Các tiêu chuẩn ISO (International Organization for Standardization - tổ chức tiêu chuẩn hóa quốc tế) đã được áp
dụng cho từng đơn vị từ khâu sản xuất, đến phân phối, bán hàng, đã làm cho ngành chè của chúng ta có cơ hội
vươn vai với tinh thần “Thánh Gióng” để mang lại một lợi thế mới, một vận hội mới cho tất cả những ai muốn
tham gia một cuộc trường chinh từ đồi chè xanh mướt đến ly trà thơm ngon ở những nơi sang trọng và xa xỉ bậc
nhất của thế giới.

CHƯƠNG 10.
CÁCH BẢO QUẢN VÀ GÌN GIỮ TRÀ

S
au quá trình chế biến và đóng gói, có một số loại trà vẫn tiếp tục lên men và chịu tác động của nhiệt độ,
ánh sáng, độ ẩm và không khí. Chính cách sử dụng, điều tiết nhiệt độ, ánh sáng, độ ẩm và không khí
khác nhau đã tạo ra các loại trà khác nhau. Ví dụ: Trà đen là trà lên men sâu hơn trà Ô long, trà xanh thì
không lên men, và trà phổ nhĩ chín thì còn quá trình hậu lên men.
Suốt quá trình lên men, các cấu trúc phân tử, hợp chất của trà bị phá vỡ bằng sự tác động của oxy trong không
khí gọi là oxy hóa. Chính sự thay đổi cấu trúc phân tử để tạo ra các hợp chất mới đã làm thay đổi trà về màu
sắc, hương vị. Người ta lấy sự thay đổi thể hiện bằng màu sắc đó để đặt tên cho các loại trà khác nhau, từ trà
trắng (Bạch trà), trà vàng, trà xanh, trà Ô long, trà đen và trà phổ nhĩ (gồm phổ nhĩ chín và phổ nhĩ sống). Sự
lên men khác oxy hóa ở chỗ có thêm sự tác động của vi sinh vật là tảo, nấm và vi khuẩn ký sinh trên trà, đây là
những vi sinh vật lành tính và góp phần tạo ra hương và vị của trà ở các điều kiện nhiệt độ và độ ẩm khác nhau.

Có những loại trà nếu biết cách bảo quản thì để càng lâu càng ngon vì nó tiếp tục lên men, biến đổi các hợp chất
dẫn đến vị thay đổi theo chiều hướng từ đắng chát đến ngọt, điển hình là trà phổ nhĩ chín, càng lâu thì hậu vị
càng bền và pha ra nước càng sánh, thơm ngon hơn, vậy nên cũng đắt giá lên theo thời gian. Men ở đây cũng
bao gồm các chất Enzyme kích thích quá trình oxy hóa làm thay đổi các hợp chất. Nếu các Enzyme này bị phân
huỷ bởi nhiệt độ thì sẽ không kích thích quá trình oxy hóa nữa, người ta gọi đây là công đoạn diệt men trong trà
khi nhà sản xuất muốn hạn chế tối đa sự oxy hóa ở một số loại trà như bạch trà, thanh trà.

Còn muốn đẩy mạnh quá trình oxy hóa này thì ta không diệt men mà phải lên men bằng cách tạo độ ẩm để kích
thích tiết ra men từ việc ủ trong thời gian dài với độ ẩm và nhiệt độ phù hợp để phát triển các nhóm vi sinh vật.
Hiểu về quá trình này giúp chúng ta biết cách bảo quản trà một cách tối ưu tùy theo mong muốn sử dụng trà của
chúng ta.

Bình thường chúng ta có thể bảo quản trà ở nhiệt độ phòng (<30 độ C), tuy nhiên một số loại trà sẽ uống ngon
hơn khi để trong tủ lạnh để giảm thiểu tối đa sự lên men hay oxy hóa.

Trong quá trình thưởng thức trà, hiểu được cách chế biến cũng như sự vận động của các yếu tố vi sinh có trong
trà cùng những đặc tính vật lý, sinh hóa của trà chúng ta sẽ dựa trên các nguyên lý đó mà bảo quản trà để có thể
đạt trạng thái tối ưu khi thưởng thức.

Trong phạm vi cuốn sách “Văn hóa Trà Việt”, tôi còn muốn nói đến việc bảo quản trà dưới góc độ là một ngành
công nghiệp, một sản phẩm có ý nghĩa kinh tế, chính trị và văn hóa cao cho đất nước. Vậy nên phạm vi từ “bảo
quản” mang nghĩa rộng hơn, bao gồm gìn giữ vùng nguyên liệu trà, bảo vệ người nông dân trồng trà và thu
hoạch trà và cách bảo vệ chuỗi cung ứng trà mà chúng ta đang có rất nhiều lợi thế. Thực tế hiện nay, thương lái
nước ngoài sang Việt Nam mua chè nguyên liệu với giá rất rẻ mạt (dưới 20.000VNĐ/cân) và giá chè nguyên
liệu Việt Nam xuất khẩu có khi chỉ bằng ½ giá chè nguyên liệu xuất khẩu của thị trường thế giới.
Tăng tỷ trọng chè tinh chế bằng cách phát triển thương hiệu chè Việt thật đẳng cấp và mạnh mẽ là cách chúng ta
bảo vệ tài nguyên chè một cách trực tiếp, thiết thực và bền vững.

Trong cuốn sách “Việt Nam - quốc gia của Tình thương”- xuất bản năm 2018 - NXB Thanh Niên, tôi đã viết
rằng:“Tôi tin rằng với ánh sáng của văn hóa Tình thương, chúng ta có một sự lựa chọn cao thượng, hiệu quả,
năng suất và bền vững hơn rất nhiều những giải pháp nhân loại đã lựa chọn và đi qua”.
Đối với ngành chè, tính đúng đắn của quan điểm trên trở nên vô cùng sống động và thiết thực từ chính sách phát
triển ngành chè đến chiến lược đầu tư của doanh nghiệp và hành vi của các thành viên tham gia phát triển ngành
công nghiệp chè.
Tôi đã từng rất xót xa khi chứng kiến những cây chè cổ thụ hàng trăm năm ở các tỉnh vùng núi Tây Bắc bị
người dân ở đây đốn hạ để trồng lúa trên ruộng bậc thang. Họ chặt phá trong nỗi tủi nhục vì bị thương lái ép giá
và con cái đang đói ăn không có hạt gạo nào vào bụng mà họ không hề biết rằng những cây chè hàng trăm năm
đấy có một giá trị kinh tế lẫn di sản văn hóa to lớn và không thể trồng lại được trong cả kiếp đời của họ.

Chúng ta đã mất hàng trăm nghìn hecta trà tự nhiên đến hàng trăm hecta trà trồng mới ở các vùng nguyên liệu
do sự thấp kém của năng lực phát triển trà thành thức uống chiếm được thị phần trong nước và xuất khẩu. Trong
khi mỗi ngày chúng ta đều uống trà túi lọc nhập khẩu hay mua các loại trà tinh chế của nước ngoài với giá rất
đắt mà vấn đề chỉ nằm ở hai chữ truyền thông và thói quen người tiêu dùng.

Trong quá khứ từ thời đại người Việt Cổ đến người Việt hiện đại chúng ta ngày nay, diện tích nước Việt đã bị
thu hẹp và nhiều di sản văn hóa đã bị xâm lăng trong đó có di sản trà, từ yếu tố đất đai đến yếu tố nguồn gốc và
con đường phát triển.

Nước Pháp đã từng phát triển những vùng nguyên liệu rất lớn, xây dựng nhà máy quy mô lớn để tinh chế trà
nhưng mục đích là để cho thị trường Pháp và châu Âu, không phải là để phát triển ngành công nghiệp trà cho
Việt Nam. Cụ thể là mặc dù đô hộ nước ta hàng trăm năm nhưng họ không để lại cho chúng ta một thương hiệu
trà, cách thưởng thức, lẫn kênh thương mại nào để chúng ta tiếp tục xuất khẩu trà khi họ rời khỏi Việt Nam. Họ
cho dân lao động cùng khổ của chúng ta uống rượu cồn rất nhiều mà không hề dạy cho chúng ta cái tinh tuý, tao
nhã và thanh cao của trà. (Hồ Chủ Tịch trong bản “Tuyên ngôn độc lập” hay tác phẩm “Bản chế độ thực dân”
cũng đã đề cập vấn đề này).

Vậy nên bảo quản và gìn giữ trà không chỉ là bảo vệ một thức uống quý, một tiên dược của đất trời ban tặng mà
còn là gìn giữ một di sản văn hóa vật thể quý giá của tổ tiên, cha ông truyền lại cho chúng ta.

Sứ mệnh của chúng ta là gìn giữ và phát triển để nó trở nên có giá trị cao, xứng đáng với tiềm năng và tầm
vóc của ngành công nghiệp trà Việt, trong ánh sáng của văn hóa thời đại mới.

CHƯƠNG 11.
CÁCH THƯỞNG THỨC TRÀ

T hưởng thức trà là những thành quả trong một cuộc hành trình tìm về bản thể, nó phản chiếu sự tinh tấn
của chúng ta trong một cuộc hành trình văn hóa, nó chứa đựng sự thoả mãn cả bốn thành tố là Thân thể,
Tình cảm, Trí tuệ và Tâm linh.

Có thể hình ảnh hóa thưởng thức trà kỳ thú như một cuộc leo núi hùng vĩ và tráng lệ. Khi ở chân núi, bạn
thưởng thức những điều thuộc về đời sống và cái bạn cần chuẩn bị nhất là sức khoẻ cho một cuộc hành trình
chinh phục đỉnh cao.

Trà lúc này là thức uống có lợi cho sức khỏe, cách thưởng thức cũng rất đỗi đời thường, hình ảnh cụ thể là bát
nước chè xanh bên bếp lửa hồng.
“Ơi vũ khí ta mang đâu là tên lửa
Chỉ bếp than hồng này ủ kín hơi cơm
Bát nước chè xanh nhẹ gối bước dồn
Thêm sức mạnh trên đường đi đánh Mỹ”
(Nổi lửa lên em - Huy Du)

Trà là thức uống đời thường, đã cơn khát, là nguồn sống hằng ngày bổ sung khóang chất cho thân thể nên cách
thưởng thức cũng đơn giản đến hoang sơ, dân dã nhưng thu trọn các dưỡng chất và vi chất quý giá của trà bổ
sung cho cơ thể chúng ta, cho những cuộc trường chinh của sự chinh phục.

Vậy nên, ở tầng mức có một thân thể khoẻ mạnh thì ta thưởng thức trà như một thức uống của đời sống hằng
ngày mà không quá câu nệ về bất cứ điều gì khác, đơn giản là “uống trà đi”.

Tầng thứ hai của thưởng thức trà là thoả mãn tình cảm, lúc này trà đã là người tri kỷ, đồng hành cùng chúng ta
trên chặng đường leo núi sâu hơn, xa khỏi làng quê ở chân núi, chỉ còn ta và trà đồng hành với nhau trên chặng
đường chinh phục đỉnh núi.

Lúc này ta bắt đầu nhận ra vẻ đẹp của cuộc hành trình, ta nhìn thấy xóm làng xa dần với làn khói trắng trên
những mái nhà tranh nằm giữa cánh đồng ruộng bậc thang đẹp như một bức tranh thuỷ mặc.

Thưởng thức trà lúc này không chỉ là để thỏa mãn cơn khát, bổ sung dưỡng chất, mang lại sức sống dẻo dai và
đề kháng với các loại bệnh tật mà uống trà lúc này để mang lại sự an ủi cho tâm hồn, cho ta lắng lòng mình giữa
thiên nhiên cẩm tú để tận hưởng những sự ban tặng kỳ diệu của vũ trụ cho mỗi chúng ta. Ở tầng này, người
uống trà thích được nghe một tiếng đàn cổ cầm, được ngắm những chiếc ấm cổ hay những chiếc chén được làm
như một tác phẩm nghệ thuật và ngắm cảnh nên thơ trong một bức tranh khi thưởng trà như một liệu trình trị
liệu mang lại sự an yên và vắng lặng của tâm hồn. Trà đưa ta vào chốn thiên thai một cách nhẹ nhàng, tinh tế và
đầy lãng mạn với một thế giới trà đầy trầm tích, văn hóa và di sản.

Giai đoạn này, người ta nâng niu trà như nâng niu tình bạn tri kỷ, người ta thưởng thức trà với tất cả sự trân
trọng, từ tốn và tinh tế nhất có thể. Một chiếc ấm trà đẹp cũng có thể làm người ta say mê để rồi đôi khi ngậm
ngùi tiếc nuối vì chỉ được ngắm thôi bởi chiếc ấm đó được nghệ nhân cao tay làm từ đất quý và các hoạ tiết độc
đáo mà túi tiền của họ thì không đủ. Mặc dù có thể không mua được chiếc ấm đó nhưng điều đó nói lên người
ta thưởng thức trà ở sự chăm chút và luôn muốn dành cho trà sự tôn trọng nhất và định vị trà rất cao quý để họ
nâng niu tôn thờ.

Thưởng trà lúc này không chỉ là hương trà, vị trà mà là với dụng cụ gì; vị trà đấy được chứa trong chiếc chén
như thế nào. Hương trà đấy bay trong khung cảnh đẹp ra sao; trong một căn phòng uống trà thì lúc này một bức
tranh đẹp để ngắm và những bức thư pháp để ngẫm nghĩ khi vị trà đang ngấm dần nơi cuống lưỡi là đích đến
người thưởng trà nào cũng muốn có. Giống như gặp được người tri kỷ khi làm một bữa ăn cùng họ thì ta luôn
muốn làm những món ngon lành và cầu kỳ nhất để tri ân họ và thấy họ vui họ đẹp thì lòng ta rộn ràng, phơi
phới. Cái cảm xúc đó làm người thưởng trà trân trọng đến từng cái hộp đựng trà bằng gốm hay thiếc; bàn uống
trà đời cổ hay tân thời; cái khay trà làm bằng gỗ hương hay gỗ trắc. Những sự chăm chút tỉ mỉ và vô cùng đáng
trân trọng với một tình cảm thiết tha dành cho trà và thế giới của những thứ liên quan đến trà. Người uống trà
lúc này dường như muốn nỗ lực để chứng minh…mình cũng xứng đáng là tri kỷ của trà.

Họ tìm thấy vẻ đẹp của trà qua sự thoả mãn cõi lòng mà chỉ trà mới có thể mang lại cho họ. Những tên trà mỹ
miều cũng xuất phát từ đây: trà Thiết Quan Âm, trà Thiên Tiên, trà Đồng Phương Mỹ Nhân …

Cuộc leo núi lúc này đã bắt đầu cao hơn, sâu hơn sau khi chúng ta đã tận hưởng nhiều vẻ đẹp trong rừng, thác
nước cuồn cuộn đến khe núi róc rách, tiếng chim hót dưới tán rừng xanh mát. Giờ đây là tìm cho mình một con
đường hợp lý nhất giữa đại ngàn với sừng sững rừng cây cổ thụ và vô vàn muông thú cùng nhiều hiểm nguy
rình rập.

Lúc này ta cần một sự thông thái nội tâm và lúc này trà từ người bạn tri kỷ thành người đồng hành thông thái
giúp ta tìm thấy con đường của mình - đó là cảnh giới trí tuệ của trà. Nếu như trí tuệ con người thông thường bị
giới hạn bởi kiến thức của người đó mà ít người có khả năng khai thác tiềm thức, tàng thức thì trí tuệ của trà là
trí tuệ vô hạn với trầm tích và di sản văn hóa mà trà có được trong suốt quá trình tồn tại của mình. Trà cần bộ
não con người làm phương tiện để con người phát huy được trí tuệ từ việc thưởng thức trà ở một cảnh giới cao
hơn. Trà giúp con người quay về bản thể thuần khiết đầy minh triết mà chúng ta có được từ sự tích tụ kinh
nghiệm của nhiều kiếp người trong tiềm thức chúng ta. Trà mang lại sự kết nối hoàn cảnh hôm nay với kho tàng
trí tuệ thông thái mà chúng ta có trong tiềm thức để có một giải pháp tốt nhất cho những vấn đề chúng ta đang
đối mặt. Trà mang cho ta một trạng thái tĩnh tại an yên để sáng tạo ra những “tác phẩm” đẹp đẽ cho cuộc đời.
Trà mang bộ não ta về với trạng thái “Alpha” - một trạng thái mà sóng não có tần số phù hợp cho sự bình an và
sáng tạo. Có thể nói, trà kéo ta từ sự ồn ào hỗn độn của đời sống lẫn sự mâu thuẫn cãi vã nội tâm vào một thế
giới vắng lặng, an yên để ta nhìn ra vấn đề của cuộc đời mình, vấn đề của hoàn cảnh sống để khi quay lại có
cách ứng xử tốt nhất làm cuộc đời ta gần hơn với sự an nhiên, hạnh phúc.

Trà giúp ta tìm thấy sự thông thái nội tâm mà lâu nay ta bị sự vội vã, ồn ào của đời thường cuốn ta đi theo mưu
cầu lợi lộc trước mắt để rồi chúng ta bị lạc lối giữa cõi ta bà đầy tham ái.

Trà giúp ta có cái nhìn chánh kiến, tức là cách nhìn nhận đúng để tìm cho mình con đường, phương thức hành
động đúng đắn nhất cho mỗi giai đoạn, mỗi hoàn cảnh cuộc đời mà ta trải qua. Đây là cảnh giới trí tuệ mà ta có
được khi thưởng trà.

Ở cảnh giới này, người ta thưởng trà trong sự tĩnh tại của tâm hồn, trong sự vắng lặng của nội tâm, cho dù ngồi
uống trà một mình hay đông người thì họ vẫn luôn biết tìm cho mình sự an yên trong tâm hồn là ý nghĩa đích
thực của sự thưởng trà mà họ tìm kiếm.

Lúc này, thưởng trà là một thói quen giống như khi chúng ta cần đọc email là ta phải bật điện thoại lên, nhưng
ta bật trong sự yên tĩnh để nhận được chính xác thông điệp mà ta nhận được, mặc cho bên ngoài ồn ào hay im
ắng.
Thói quen uống trà, thiết lập các điều kiện uống trà cần thiết nhất và xem uống trà là một hoạt động văn hóa là
thành tựu của cảnh giới trí tuệ trà.
Người leo núi lúc này đã qua một giai đoạn nguy hiểm nhất, gian nan nhất nhưng cũng đầy oanh liệt và hùng
tráng. Người đó đã có con đường của mình để lên đỉnh núi mà không bị lạc vào ma đạo nhờ có trà. Trong họ đã
hiện diện sự thông thái của nội tâm, và họ nghĩ về trà với lòng biết ơn như biết ơn người thầy thông thái đã chỉ
cho họ qua những cung đường nguy hiểm của cuộc hành

CHƯƠNG 12.
TRÀ CÓ PHẢI LÀ MỘT SỨ GIẢ VĂN HÓA?

T rên thế giới 6 tỷ người với nhiều tôn giáo, sắc tộc và vùng miền khác nhau nhưng đều có đặc điểm
chung là đều tôn trọng trà và đều dùng trà trong các nghi thức tôn giáo, tín ngưỡng của họ.

Trà là một tiên dược mà vũ trụ gửi đến mang thông điệp văn hóa cho loài người, càng gần gũi với trà và sử
dụng trà thì chúng ta càng dễ dàng ngộ ra chân lý và những thông điệp từ vũ trụ.

Khi chúng ta cảm nhận được giá trị, những thông điệp mà ta ngộ ra được từ trà, chúng ta thường muốn chia sẻ
và chính lúc này ta lại dùng trà để chia sẻ thông điệp đó, lúc này trà lại thành sứ giả văn hóa giữa loài người
với nhau.

Trà giúp chúng ta kết nối với quá khứ; mỗi cách dùng trà của mỗi thời đại cho ta hình dung mường tượng về
lịch sử thời đại đó. Trà giúp chúng ta tận hưởng một cách trọn vẹn giây phút hiện tại, cảm nhận sự hiện hữu
của bây giờ, ở đây, lúc này. Trà giúp con người ngộ ra con đường và kiến tạo tương lai. Có thể nói trà là sứ
giả mang thông điệp từ quá khứ đến hiện tại và đến cả tương lai.

Trong lịch sử, trà đã đóng vai trò là lễ vật khi các quốc gia, các tổ chức hay cá nhân muốn thể hiện lòng tôn
kính, sự hữu hảo trong việc tạo dựng và phát triển các mối quan hệ. Bởi vì trà ngoài giá trị sử dụng thì còn có
giá trị tinh thần và giá trị truyền tải thông điệp mà con người thông qua trà để mang đến cho nhau.

Là sứ giả văn hóa, trà mang đến cho chúng ta những thông điệp, vậy thông điệp đó là gì? Trong kỷ nguyên
mới, với vô vàn vận hội và thách thức, chúng ta đang ở những bước tiến mới về văn minh, khoa học kỹ thuật
và cải tiến công nghệ để có đời sống tiện nghi hơn nhưng đổi lại là những bất an, xung đột thậm chí chiến
tranh ở trong nội tâm mỗi người lẫn hoàn cảnh sống mà chúng ta thiết lập.

Những tổn thương mà loài người phải gánh chịu từ một nhân tố sinh học là virus SARS-CoV-2 đã chứng
minh sự thiếu hụt về Tình thương - thứ mà chúng ta dường như đã có tất cả nhưng chúng ta chưa thực sự có
nó trong tâm thức và hành vi của mỗi người. Lý do là chúng ta còn chưa nhìn thấy một ánh sáng văn hóa mà
trà là sứ giả mang đến thông điệp, thông điệp đó là “Thích nghi và hóa giải”.

Khi uống trà, đầu tiên sẽ có vị chát, và sau đó là vị ngọt. Khi sản xuất trà, cũng phải khử dần vị chát và tạo ra
vị ngọt. Trong cuộc sống, chúng ta thích nghi với nghịch cảnh và biến nó thành cơ hội, từ đó tạo ra thành tựu
ngọt ngào.
Nếu chỉ thấy vị chát, sợ vị chát và cho nó là đắng chát thì chúng ta mất cơ hội tiếp xúc với trà, và sẽ ra sao
nếu cuộc đời ta thiếu trà, nó sẽ nhạt nhẽo và vô vị làm sao!

Khi pha trà, để ra được chất trà, vị trà, hương trà chúng ta buộc phải dùng nhiệt độ cao, cũng như cuộc đời
con người, những áp lực khủng khiếp, những nghịch cảnh kinh hoàng, những khó khăn chồng chất đã giúp
chúng ta phát huy những phẩm chất, những năng lực và khí khái mà trong hoàn cảnh bình thường chúng ta sẽ
không phát tiết ra được. Phải chăng thông điệp từ trà giúp chúng ta tự tin đối mặt với mọi hoàn cảnh để thích
nghi và hóa giải nó bằng trí tuệ và khát khao vươn lên cùng ánh sáng bình minh thời đại?

Trà không chỉ mang thông điệp mà còn giúp chúng ta nhận thức tính đúng đắn của thông điệp và dùng thông
điệp đó để giải quyết những nghịch cảnh mà nhân loại đang đối mặt.

Thích nghi và hóa giải dường như là một quy luật mà mỗi chúng sinh trong cõi ta bà đều có thể áp dụng bất
kể bạn đang ở tầng bậc nào trong hành trình thân phận. Sự thích nghi là cách bạn ý thức đầy đủ về sự tồn tại
và bạn tồn tại được trong sự thích nghi, nhưng bạn không phải tồn tại để thích nghi, hay thích nghi để tồn tại,
mà là thích nghi thì mới có thể hóa giải, để bạn vượt qua nghịch cảnh và đến với bến bờ của giải pháp, của
thành tựu.

Con người đã dùng năm giác quan để nhận thức xã hội và tạo ra các thành tựu gọi là “văn minh thời đại” nhưng
con người vẫn đang tổn thương và đau khổ. Phải chăng trí tuệ chúng ta đang bị thách thức bởi những nghịch
cảnh, những khó khăn, tai họa mà cả nhân loại đang đối mặt? Vậy cần một năng lực cao hơn cả tri thức thông
thường. Con người cần trang bị thêm một năng lực - “năng lực giác ngộ”, cái mà lâu nay chúng ta nghĩ chỉ dành
riêng cho những bậc tu hành nơi đền chùa miếu mạo, mà quên mất rằng mỗi chúng ta cũng là những bậc tu hành
trong chính cuộc sống đầy éo le và nghịch cảnh mà lâu nay chúng ta tìm sự an trú trong đó bằng những tiện
nghi mà ta gọi là đời sống văn minh. Đời sống văn minh với những thứ khổng lồ như hệ thống thương mại thế
giới, giao thương giữa các quốc gia, làn sóng toàn cầu hóa bị chặn đứng bởi một sinh vật rất nhỏ, nhỏ đến mức
phải có kính hiển vi mới có thể nhìn thấy được, yếu đến mức không tự di chuyển được mà phải bám vào vật chủ
để di chuyển và lây lan, nhưng nó có sức mạnh làm tê liệt tất cả các hệ thống hiện đại, tinh vi và khổng lồ nhất
mà nhân loại đã từng phát minh ra. Cả nhân loại bàng hoàng, và lúc này chúng ta đang… học cách thích nghi
với sự tồn tại của nó, để có thời gian và nguồn lực chế ra vắc xin để hóa giải sự huỷ diệt của sinh vật này.

“Thích nghi và hóa giải” vừa là thông điệp, vừa là con đường mà trà là sứ giả mang đến cho nhân loại. Từ xa
xưa con người đã nhận thức ra được, nhưng để sống cùng với nó, vươn lên cùng nó thì chúng ta cần có một sự
rèn luyện để có thể “thấu hiểu, chia sẻ và kiến tạo giải pháp” trong mọi hoàn cảnh, điều này được gọi là Tình
thương, ánh sáng văn hóa của kỷ nguyên mới.

Tình thương là ngọn nguồn của “thích nghi và hóa giải”. “Thích nghi và hóa giải” là cách chúng ta mang ánh
sáng Tình thương vào đời sống để vượt qua nghịch cảnh với sự giác ngộ trí tuệ vô hạn.
Trà là một sứ giả văn hóa giữa con người và các tầng năng lượng cao hơn, hay còn gọi là các cõi. Trà cũng là sứ
giả giữa con người với thiên nhiên khi trà mang bao điều tốt đẹp từ thiên nhiên đến cho con người về cả phương
diện vật chất đến tinh thần.
Khi con người hiểu được trà là sứ giả văn hóa, họ dễ dàng tìm ra tiếng nói chung, dễ dàng tạo ra nhận thức
chung, trà giúp con người trao cho nhau niềm tin, để làm động lực tạo ra giải pháp và thành tựu.

CHƯƠNG 13.
TRÀ TRONG ĐỜI SỐNG TÂM LINH - TRÀ VÀ ĐẠO

T rà đạo là con đường mà trà đi từ thân thể, tình cảm đến trí tuệ và tâm linh của mỗi con người, để tâm thức
chúng ta đến với tầng năng lượng cao hơn.

Trên con đường đó, trà luôn là một người đồng hành, một bậc minh sư, giúp chúng ta tinh tấn trên từng nẻo
đường giác ngộ.

Có rất nhiều thức uống mà con người sáng tạo ra hoặc được ban tặng từ rượu, đến cafe, đến nước suối. Nhưng
chỉ có trà được con người gắn với đạo, gọi là Trà đạo.

Chưa bao giờ chúng ta nghe rượu đạo, cafe đạo hay nước suối đạo cả. Tại sao lại như vậy? Đạo ở đây không
phải là đạo cụ để pha trà hay cách thức thưởng thức chuẩn mực thành các phép tắc, tất cả đó là phương tiện.
Đạo ở đây là con đường, bằng cách uống trà, ứng xử với trà và tôn trọng trà, chúng tìm ra con đường cho cuộc
đời mình, cho hoàn cảnh của mình, cho vấn đề của mình. Trà luôn đồng hành cùng loài người trên con đường
chúng ta tìm về bản thể. Trà là người bạn đường, trà Đạo là con đường chung giữa ta và trà để đến bến bờ giác
ngộ.
Các thiền sư là những người thường xuyên sử dụng trà như là người bạn đồng tu, họ học trà cái khả năng chịu
đựng sự khắc nghiệt của cuộc sống như khi trà được luyện trong nhiệt độ cao khi sao trà và tiết ra chất tinh túy
của trà trong nước đun sôi, để ban tặng con người trong hành trình tu tập, để có một thân thể khỏe mạnh, tình
cảm cân bằng, trí tuệ sáng suốt và tâm linh mạnh mẽ.

Họ học trà ở sự cô đơn, cô độc khi ở trên núi cao, quanh năm tuyết phủ để tìm về sự thanh cao, chốn tịch lặng
của tâm hồn, nơi đó chúng ta được gặp linh hồn của chính mình, đó chính là bản thể cao quý của chúng ta.

Thử thách của cuộc sống, những nghịch cảnh của số phận hay sự nghiệt ngã của cuộc đời là những rào cản mà
ai cũng gặp trên hành trình đó, và để đến được với bản thể cao quý, ta đều phải biết thích nghi và hóa giải hoàn
cảnh. Không ai có thể giúp ta, chỉ có mỗi chúng ta tự giải quyết. Trà luôn đồng hành với chúng ta trong từng
khoảnh khắc đó, để ta có thể thấu hiểu về “Tứ diệu đế” và từ đó có cái nhìn sáng suốt của trí tuệ và nhận được
sự kết nối mạnh mẽ với cõi tâm linh để có thể đi trên con đường đại đạo - con đường “Bát chánh đạo” mà ai
cũng gặp trên hành trình tu tập.

Tâm linh là một nguồn năng lượng rất gần gũi với đời thường nhưng chúng ta vì lo lắng, vội vã mà không nhận
ra, ví dụ là hơi thở. Chúng ta đều thở vào và thở ra mỗi giây, mỗi phút, đến cả cuộc đời nhưng chúng ta ít khi
tĩnh lặng để quan sát hơi thở của mình; nó vào lúc nào, ra lúc nào, khi vào thì vào đến đâu?; khi ra thì ra thế
nào? Khi uống trà, chúng ta dễ dàng hơn trong việc quan sát hơi thở, để nhận ra ta đang nhận được thật nhiều
từ tâm linh vũ trụ. Trong hơi thở không chỉ có oxy cho sự sống mà chứa đựng trong đó ngọn nguồn của sự
thông thái.

Khi chúng ta thở chậm hơn, sâu hơn, chính nhịp thở chậm và sâu đó đưa bộ não và thân thể của chúng ta về một
tần số, phù hợp với tần số của vũ trụ, khi đó chúng ta được tiếp cận với trí tuệ vô hạn, cái mà tâm lý học gọi là
tiềm thức, tàng thức hay siêu thức.

Tôi gọi là sự thông thái nội tâm, vì mỗi chúng ta là một tiểu vũ trụ. Chúng ta đi sâu vào nội tâm để tìm ra bản
thể cũng là cách chúng ta “đi ra ngoài” để nhận được năng lượng của “Tâm linh vũ trụ” hay “Năng lượng vũ
trụ” kết nối với tâm thức của chúng ta.

Trà giúp cho chúng ta tập trung tối đa cho khoảnh khắc đó và đi vào một trạng thái, gọi là thiền.

Thiền là một cõi mà khi bạn bước vào trong đó, bạn sẽ được tặng cuốn sách của nhà thông thái để giải quyết
những vấn đề của cuộc đời mình. Để bước vào trạng thái thiền, bạn cần một sự dẫn dắt và trà làm điều này một
cách tự nhiên như là sứ mệnh của mình vậy.

Dù bạn là ai, người mới bước vào tu tập hay là một vị minh sư thì trên hành trình giác ngộ đó, bạn đều cần đến
trà như trong cuộc sống, dù là bạn đang mang thân phận gì thì bạn đều cần sử dụng hơi thở để tồn tại và tiếp tục
con đường mà số phận đã ban tặng cho bạn.

Trên con đường này, bạn cần có một ánh sáng văn hóa để bạn vượt qua được sự cám dỗ của tham, sân, si hay lá
chắn vô minh của nghiệp chướng. Vậy điều gì giúp bạn tiếp cận ánh sáng văn hóa đó? Câu trả lời là: Văn hóa
Trà.

“Văn hóa Trà Việt – hành trình tìm về bản thể”, cuốn sách mà bạn đang cầm trên tay là một phước báu mà tôi
được ban tặng để viết ra cùng với sự đồng hành của người bạn Trà thông thái. Cuộc hành trình này vẫn đang
tiếp tục với sự thấu hiểu, chia sẻ và kiến tạo giải pháp mà mỗi con người trên hành trình này có thể dành cho
nhau, để chúng ta được cùng nhau tận hưởng sự thênh thang của con đường đại đạo.

Để kết thúc cho cuốn sách này, trong những dòng cuối cho tôi được bày tỏ lòng biết ơn đến Trà, một thức uống
quý giá - một thiên dược, một người thầy thông thái, một sứ giả văn hóa và đặc biệt vô cùng biết ơn quê hương
xứ sở, giang sơn cẩm tú đã ôm ấp và che chở những sinh linh và ban tặng chúng ta rất nhiều điều kỳ diệu, trong
đó có “Văn hóa Trà Việt”.

Tục ngữ Nhật Bản có nói rằng:

“Nếu một con người mà trong bản thân anh ta không có trà, anh ta không có khả năng hiểu về chân lý và cái
đẹp”

Trên con đường tìm về bản thể đẹp đẽ của chúng ta với “Chân, Thiện, Mỹ” như lời dạy của Đức Phật, thông
qua văn hóa Trà, con người sẽ dễ dàng tìm ra các tần số rung động của cảm xúc, của năng lượng ở mức tương
đồng, để cùng nhau “Thấu hiểu, chia sẻ và kiến tạo giải pháp” để chúng ta được tắm mình trong ánh sáng của
kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của văn hóa Tình thương.

You might also like