You are on page 1of 7

Kiến trúc sư

93 ngôn ngữ
 Bài viết
 Thảo luận
 Đọc
 Sửa đổi
 Sửa mã nguồn
 Xem lịch sử

Công cụ















Bách khoa toàn thư mở Wikipedia

Kiến trúc sư
Tranh vẽ một kiến trúc sư, 1893.

Nghề nghiệp

Tên Kiến trúc sư

Loại nghề nghiệp Ngành nghề chuyên nghiệp

Ngành nghề hoạt Kiến trúc


động Xây dựng dân dụng
Dựng hình
Quản lý dự án
Quy hoạch đô thị
Thiết kế nội thất
Nghệ thuật thị giác

Mô tả

Năng lực Kỹ thuật, kiến thức kỹ thuật, thiết kế


xây dựng, lập kế hoạch và kỹ năng
quản lý

Yêu cầu học vấn Chuyên môn về Thẩm mĩ và Kỹ thuật

Kiến trúc sư (chữ Hán: 建筑师; bính âm: Jiànzhúshī; phiên âm: kiến trúc sư; tạm


dịch: người thầy có chuyên môn kỹ thuật và thẩm mỹ về kiến tạo cấu trúc) là người
thông qua việc phân tích nhu cầu sử dụng để lập ý tưởng thiết kế về không gian, hình
thức, giải pháp cũng như cấu trúc công trình nhằm tạo ra sự liên kết giữa con người với
các công trình xây dựng đó.
Tại một số quốc gia phương Đông, Kiến trúc sư được xem như một ngành nghề đặc
thù phức tạp vì có yêu cầu cao về nhận thức trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp. Đôi
lúc, Kiến trúc sư bị nhầm lẫn với Kỹ sư Kiến trúc.

Nguồn gốc[sửa | sửa mã nguồn]

Đường hầm của Eupalinos tại Samos - một hòn


đảo của Hy Lạp ở phía đông biển Aegea.
Đề cập đầu tiên được biết đến của từ kiến trúc là ἀρχιτέκτων (bính
âm: Architécctōn, phiên âm: arkhitecton)[1] xuất hiện vào thế kỷ thứ 5 trước công
nguyên, do nhà sử học người Hy Lạp - Herodotos mô tả đường hầm Eupalinos: “Kiến
trúc sư thiết kế công trình này là Megarian Eupalinos, con trai của Naustrophos”. Từ
này bao gồm ἀρχι (phiên âm: archi, dịch nghĩa: người chỉ huy trưởng trước tiên)
và τέκτων (phiên âm: tekton, dịch nghĩa: người thợ làm nghề mộc và xây dựng).[2]
Qua nhiều thời kỳ, từ Kiến trúc sư[3] được chính thức hình thành do sự kết hợp
của Architectus trong tiếng Latin và Architécctōn (phiên âm: arkhitecton) trong tiếng Hy
Lạp tạo ra Architéktōn (phiên âm: arkhitekton) nghĩa là người thợ kỹ thuật chính.[4]
Định nghĩa về từ Kiến trúc sư [5] còn được định nghĩa trong ghi chép thứ 259 trong
Politique de Platon (Chính cương của Platon)[6], tạm dịch:
Kiến trúc sư (ἀρχιτέκτω) là người thợ chỉ huy trưởng và không trực tiếp làm các công
việc chân tay như thợ mộc hay thợ xây (εργατικός, phiên âm: ergaticos) mà sẽ chỉ đạo
cho những người này xây dựng công trình.
Tuy vậy, Hy Lạp không hẳn là nơi đầu tiên được biết đến về sự xuất hiện của Kiến trúc
sư. Kiến trúc sư được ghi nhận lâu đời nhất trong lịch sử là Imhotep - tác giả công trình
kiến trúc Khu phức hợp Saqqara (thuộc tỉnh Giza ngày nay) và đồng thời là cố vấn
của pharaon Djoser vào khoảng năm 2630 đến 2611 trước Công nguyên.
Học giả Ai Cập Imhotep được xem là kỹ sư, kiến trúc sư
đầu tiên trong lịch sử nhân loại.
Trong tiếng Hán, từ kiến trúc (chữ Hán: 建筑, bính âm: Jiànzhú) được xem là sự hợp
thành từ kiến tạo (chữ Hán: 助攻 hay 建, bính âm: Zhùgōng hay Jiàn, tạm dịch: sự sáng
tạo ra cái mới) và cấu trúc (chữ Hán: 结构 hay 筑, bính âm: Jiégòu hay Zhù, tạm
dịch: sự bố trí sắp xếp hợp lý). Vì thế, Kiến trúc sư (chữ Hán: 建筑师, bính
âm: Jiànzhúshī) có thể hiểu là người có chuyên môn kỹ thuật và thẩm mỹ cao, đủ để
kiến tạo không gian công trình với cấu trúc mới lạ và đẹp mắt. Sau, định nghĩa tiếng
Hán về từ Kiến trúc sư du nhập sang Việt Nam rồi thông dụng trong đại chúng.

Filippo Brunelleschi được tôn kính là một trong


những kiến trúc sư tài năng và sáng tạo nhất trong lịch sử nhân loại.
Trong suốt thời cổ đại và trung đại lịch sử, việc thiết kế xây dựng công trình kiến trúc
được thực hiện phần lớn bởi các nghệ nhân chế tác gỗ và đá, rồi theo quá trình, họ trở
thành những bậc thầy về thẩm mỹ cũng như kỹ thuật xây dựng [7]. Cho đến thời hiện đại,
không có sự phân biệt rõ ràng giữa Kiến trúc sư và Kỹ sư kiến trúc[8]. Tại vùng châu Âu,
chức danh Kiến trúc sư và Kỹ sư Kiến trúc chủ yếu là các biến ngữ dùng để chỉ cùng
một người và được sử dụng thay thế cho nhau. Ở các quốc gia châu Á, Kiến trúc
sư và Kỹ sư Kiến trúc được đào tạo cùng ngành nhưng khác phân ngành hoặc chuyên
ngành nghiệp vụ. Chương trình đào tạo Kiến trúc sư chú trọng mạnh mẽ về phát triển
tư duy thẩm mỹ và phân tích hành vi người dùng, trong khi Kỹ sư Kiến trúc tập trung
phát triển khả năng phân tích công năng kiến trúc, bố trí và diễn họa công trình[9].

Neuwieder Kabinett và Cộng sự Kiến trúc trong


phòng làm việc, năm 1779.
Có ý kiến cho rằng, những điểm chung trong sự phát triển độc lập của toán học, mỹ
thuật và công nghệ kỹ thuật là cốt lõi để phát triển kiến trúc chuyên nghiệp, khác biệt
với những người thợ thủ công chế tác chân tay. Cụ thể, giấy không được thông dụng
để vẽ tại các nước châu Âu cho đến cuối thế kỷ 15 nhưng ngày càng trở nên phổ biến
ở đầu thế kỷ 16. Bút chì được sử dụng nhiều hơn để vẽ vào khoảng năm 1600. Sự ra
đời của các bản mô phỏng không gian cùng phương thức phối cảnh tuyến tính và
những đổi mới như sử dụng phép chiếu để mô phỏng ba chiều theo hai chiều đã giúp
các kiến trúc sư thời bấy giờ kiện toàn nhiều yếu tố của công trình kiến trúc, bao gồm:
tính chính xác, thẩm mĩ không gian, sự bố trí kết cấu chịu lực,... Tuy nhiên, cho đến thế
kỷ 18, nhu cầu về thưởng thức thẩm mỹ không được chú trọng nhiều vì các nguyên do
như chiến tranh, bão hòa xây dựng,... phần lớn các tòa nhà được xây dựng bởi những
thợ thầu thủ công qua thiết kế có sẵn, ngoại trừ những dự án lớn hoặc công trình của
người có sức ảnh hưởng[10].

Vai trò và Nhiệm vụ[sửa | sửa mã nguồn]


Trong nghề kiến trúc sư, yêu cầu kiến thức về kỹ thuật, môi trường, quản lý, xây
dựng và sự hiểu biết về kinh doanh cũng quan trọng không kém tư duy thiết kế. Tuy
nhiên, thiết kế đóng vai trò cốt lõi để kết nối các thực thể còn lại. Một kiến trúc sư làm
việc theo yêu cầu của khách hàng về các yếu tố công năng, thẩm mỹ,... Đôi lúc, họ đảm
nhận phần công việc xin cấp phép xây dựng liên quan đến báo cáo khả thi của dự án,
đánh giá tác động môi trường, phân tích công trình qua kiến thức cấu trúc và không
gian,... Trong suốt dự án, từ lên kế hoạch cho đến khi hoàn thành, kiến trúc sư thường
điều phối một nhóm thiết kế, bao gồm các Kỹ sư Kiến trúc, Kỹ sư Kết cấu, Kỹ sư Cơ
khí và Vận hành máy móc, Kỹ sư Điện - Điện tử và các chuyên gia khác được thuê bởi
khách hàng hoặc chính kiến trúc sư, nhằm tăng tính hoàn thiện của dự án. Thông
thường, những Kỹ sư phối hợp với Kiến trúc sư càng chặt chẽ thì công trình xây dựng
càng hoàn thiện.
Vai trò và Nhiệm vụ của Kiến trúc sư[sửa | sửa mã nguồn]
Tổng quan[sửa | sửa mã nguồn]
Kiến trúc sư, sau khi được khách hàng thuê hoặc mời, có trách nhiệm tạo ra một (hoặc
nhiều) ý tưởng thiết kế, nhằm đáp ứng các yêu cầu của khách hàng, đồng thời thiết lập
định hướng một cơ sở vật chất phù hợp nhu cầu sử dụng. Thông thường, các Kiến trúc
sư gặp trực tiếp khách hàng để xác định rõ ràng các yêu cầu đối với công trình (hoặc
dự án) sẽ lập phương án thiết kế[11], từ đó đưa ra bản tóm tắt đầy đủ ngay từ giai đoạn
lên ý tưởng, nhằm giảm thiểu rủi ro ở giai đoạn thi công xây dựng.
Phần lớn, các đề xuất thiết kế được mong đợi là sự thỏa mãn nhu cầu thưởng thức
thẩm mỹ và bố trí công năng. Tùy thuộc vào địa điểm lãnh thổ, thời gian xây dựng, tài
chính, văn hóa vùng miền cũng như điều kiện thi công sẵn có mà phương án thiết kế
hoàn thiện ở mức độ chính xác và bản chất kiến trúc cũng sẽ khác nhau.
Một phần quan trọng của thiết kế là kiến trúc sư thường tham khảo ý kiến của các kỹ
sư, nhà khảo sát và các chuyên gia khác trong suốt quá trình thiết kế, đảm bảo rằng
các yếu tố như kết cấu và điều hòa không khí, ánh sáng, âm thanh được phối hợp chặt
chẽ trong cùng một tổng thể. Việc kiểm soát và lập kế hoạch chi phí xây dựng cũng là
một phần của các cuộc tham vấn này.
Tại các vùng lãnh thổ[sửa | sửa mã nguồn]
Nhiệm vụ của Kiến trúc sư là chuyển đổi nhu cầu sử dụng của người dùng vào các giải
pháp mặt bằng, không gian, kĩ thuật của công trình; đồng thời tư vấn để cải tạo và đề
xuất thiết lập nên công năng mới cho công trình xây dựng nhưng vẫn đảm bảo tính dễ
dàng thi công kết cấu. Các Kiến trúc sư cũng dự đoán sự phát triển của một công
trình (hay dự án xây dựng) bằng cách thiết kế quy hoạch của vùng, của khu dân
cư, khu công nghiệp và cảnh quan đô thị.
Bên cạnh đó, kiến trúc sư phải là người có tư duy tổ chức thẩm mỹ nghệ thuật, đồng
thời biết nắm bắt các thông tin cần thiết nhằm đem lại vẻ đẹp hoàn hảo cho tác phẩm
kiến trúc. Kiến trúc sư cung cấp các giải pháp về kiến trúc (công năng, thẩm mỹ cũng
như giải pháp kỹ thuật) cho các đối tượng khách hàng có nhu cầu xây dựng ở các lĩnh
vực khác nhau.
Ở các quốc gia phương Tây, hầu hết các công trình dân dụng được cơ quan pháp
quyền quy định thiết kế theo kiểu mẫu, nhằm nâng cao tính đồng bộ theo vùng miền. Vì
vậy, các Kiến trúc sư ở đây chủ yếu tập trung vào cải tạo công trình (hoặc dự án) xây
dựng[12].
Các Kiến trúc sư ở Châu Á và Châu Mỹ phần lớn hành nghề ở lĩnh vực quy hoạch môi
trường, cảnh quan đô thị và nội thất dân dụng.
Ở Việt Nam, các Kỹ sư Kiến trúc và Cử nhân Thiết kế phải cần thời gian thực tập ít
nhất 03 năm trong lĩnh vực cụ thể, hoặc tu nghiệp chương trình đào tạo mở rộng để trở
thành Kiến trúc sư. Đôi lúc, Kiến trúc sư bị nhầm lẫn với các Kỹ sư Kiến trúc vì sự
tương đồng về tính chất công việc. Tuy nhiên, Kiến trúc sư phần lớn sử dụng thời gian
để phân tích, nghiên cứu và đưa ra phương án phù hợp thông qua thiết kế, quy hoạch,
triển khai xây dựng cảnh quan - nội thất,... dựa trên các cơ sở về tiêu chuẩn, quy chuẩn
nhằm đảm bảo tính thẩm mỹ cho công trình. Trong khi các Kỹ sư Kiến trúc phần lớn
làm công tác triển khai hệ thống công năng, phong thủy, hệ thống sinh hoạt và tính phù
hợp chung của công trình trong tập hợp đô thị, công nghiệp, công cộng.
Tại mọi thời điểm công việc, kiến trúc sư báo cáo cho khách hàng những biến đổi cần
thiết trong phương án thiết kế.
Phương tiện công việc[sửa | sửa mã nguồn]
Trước đây, các kiến trúc sư đã sử dụng các bản vẽ  để minh họa và đưa ra các đề xuất
thiết kế. Trong khi các bản phác thảo khái niệm vẫn được sử dụng rộng rãi bởi các kiến
trúc sư,  công nghệ máy tính hiện đã trở thành tiêu chuẩn của ngành.  Tuy nhiên, thiết
kế có thể bao gồm việc sử dụng ảnh, ảnh ghép, bản in, tranh ghép, công nghệ quét 3D
và các phương tiện khác trong sản xuất thiết kế. Càng ngày, phần mềm máy tính càng
định hình cách làm việc của các kiến trúc sư. Công nghệ BIM cho phép tạo ra một tòa
nhà ảo phục vụ như một cơ sở dữ liệu thông tin để chia sẻ thông tin thiết kế và tòa nhà
trong suốt vòng đời của thiết kế, xây dựng và bảo trì tòa nhà.  Thực tế ảoCác bài thuyết
trình (VR) đang trở nên phổ biến hơn để hình dung các thiết kế cấu trúc và không gian
nội thất theo quan điểm.
Việc phối hợp các khía cạnh khác nhau liên quan đến mức độ giao tiếp chuyên biệt
cao, bao gồm công nghệ máy tính tiên tiến như BIM ( xây dựng mô hình thông tin ),
CAD và các công nghệ dựa trên đám mây.

You might also like