Professional Documents
Culture Documents
trong
điều kiện giới hạn nguồn lực nhất định.
Giá trị tài sản được xác định bởi thị trường (cung-cầu)
Kinh tế học tân cổ điển đưa ra 3 giả định chính về con người:
Con người có sự ưa thích hợp lý giữa các lựa chọn
Con người tối đa hóa mức hữu dụng, doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận
Con người đưa ra những quyết định độc lập dựa trên tất cả thông tin liên quan.
Sự ưa thích hợp lý
Dấu “>”: lựa chọn này hoàn toàn được ưa thích hơn lựa chọn kia. Ví dụ: x > y biểu thị x luôn luôn là
lựa chọn được ưa thích hơn y
Dấu “~”: không có sự khác biệt giữa các lựa chọn. Ví dụ: x ~ y biểu thị cá nhân đánh giá hai lựa chọn
x, y là như nhau.
Dấu “≥”: biểu hiện sự ưa thích nhưng yếu hơn. Ví dụ: x ≥ y biểu thị cá nhân có thể thích x hơn hoặc
cho rằng 2 lựa chọn là như nhau
Nghịch lý Allais Là những mâu thuẫn đối với lý thuyết hữu dụng kỳ vọng.
Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại giả định các nhà đầu tư đều ngại rủi ro, sở thích của họ được xác
định bởi giá trị trung bình kỳ vọng và phương sai của tỷ suất sinh lời.
Các nhà đầu tư thông minh đều quan tâm đến nguyên tắc đa dạng hóa
Đường biên hiệu quả (efficient frontier) là tập hợp các danh mục đầu tư có tỷ suất sinh lời mong đợi
cao nhất tại một mức rủi ro nhất định
Nếu các nhà đầu tư có kỳ vọng giống nhau, các nhà đầu tư sẽ có cùng đường biên hiệu quả.
Đường thị trường vốn (CML) cho các nhà đầu tư biết họ có thể kiếm được tỷ suất sinh lời cao hơn bao
nhiêu khi chấp nhận thêm rủi ro.
Mô hình định giá tài sản vốn (CAPM) chỉ ra chỉ có rủi ro liên quan đến biến động thị trường là được
định giá.
Dựa theo yếu tố chủ yếu là thông tin, Fama định nghĩa 3 dạng thị trường hiệu quả:
Dạng yếu (weak form): phản ánh thông tin trong quá khứ
Dạng vừa (semi-strong form): phản ánh tất cả thông tin đại chúng (public information)
Dạng mạnh (strong form): phản ánh cả những thông tin không công bố công khai (inside
information)
Có một giả định không hợp lý là chi phí mua và tạo ra thông tin là bằng 0.
Do đó, nói cách khác lợi ích biên khi sử dụng thong tin không vượt qua chi phí biên của việc thu thập
thông tin. Không nhà đầu tư nào tạo ra tỷ suất sinh lợi thặng dư (excess return).
Một thị trường hiệu quả hàm ý giá của một tài sản bằng với giá trị nội tại kỳ vọng của nó.
Trong tài chính, thông tin là không thể dự báo được. Do đó, giá cổ phiếu nên tuân theo bước đi ngẫu
nhiên (random walk). Tỷ suất sinh lời thặng dư của chứng khoán so với tỷ suất sinh lời được điều chỉnh
rủi ro là không thể dự đoán.
Những quan điểm sai lầm về thị trường hiệu quả:
EMH không cho rằng tất cả chứng khoán có tỷ suất sinh lời mong đợi như nhau
EMH cho rằng cơ hội tạo ra tỷ suất sinh lời thặng dư là không thể đoán trước nhưng không cho
rằng các mức giá là ngẫu nhiên.
Vấn đề giả thuyết không thể kiểm chứng: nếu một kiểm định bác bỏ EMH, thì đó là do EMH không tồn
tại hay do chúng ta không đo lường chính xác tỷ suất sinh lời vượt trội.
Khía cạnh 2: việc đánh giá các triển vọng của con người phụ thuộc vào được (lời) và mất (lỗ) so
với một điểm tham chiếu. Điểm tham chiếu thướng là trạng thái hiện tại.
Ví dụ: Giả sử bạn phải lựa chọn trong 2 quyết định sau
Quyết định 1: Giả sử hiện tại bạn có thêm $300. P5($100) và P2(0,5; $200)
Quyết định 2: Giả sử hiện tại bạn có thêm $500. P7(-$100) và P8(0,5; -$200)
Khía cạnh 3: con người ngại mất mát (thua lỗ) vì mất mát lớn hơn được.
Ví dụ: Với x là bao nhiêu thì bạn sẽ không thấy có sự khác biệt giữa P9(0) và P10(0,5;
x;-$25)
Hàm giá trị
Hàm giá trị (value function) được dùng để thay thế cho hàm hữu dụng trong lý thuyết triểnvọng.
Hàm giá trị được định nghĩa bằng việc được và mất so với một điểm tham chiếu.
Hàm giá trị sử dụng tỷ trọng quyết định (decision weight) thay cho xác suất.
V(pr, z1, z2) = V(P) = π(pr)*v(z1) + π(1-pr)*v(z2)
Trong đó:
π(pr): trọng số quyết định ứng với xác suất pr
V(P): giá trị của triển vọng
z: thay đổi của mức tài sản
Hàm trọng số: Là một hàm số thể hiện tỷ trọng của quyết định dựa trên xác suất của mức tài sản thay
đổi
Xung đột nhận thức (cognitive dissonance) tạo tình huống trong đó mọi người thường
giảm thiểu hoặc né tránh những mâu thuẫn trong tâm lý nhằm gia tăng hình ảnh tích cực
của bản thân.
Ví dụ: sau khi bỏ phiếu bầu một người làm lãnh đạo, chúng ta thường tin rằng
ứng viên mà chúng ta bỏ phiếu là sự lựa chọn tốt nhất.
Dường như có một sự thống nhất vô thức giữa hành động và quan điểm.
Sự sai lệch càng gia tăng khi một người cố nhớ lại những nhận thức hoặc quan điểm trong quá
khứ.
Thực tế, trí nhớ (memory) sẽ được tái tạo lại.
Trí nhớ không chỉ được tái tạo lại mà còn biến đổi rất mạnh mẽ.
Ví dụ: bạn thường mang những ký ức rất tốt hoặc rất xấu vào tâm trí.
Các sự kiện được nhớ lại nhiều hơn khi chúng đem lại cảm xúc dâng trào.
Vì các ký ưc đẹp làm chúng ta hạnh phúc nên đôi khi chúng ta “viết lại quá khứ - rewriting
history”.
Điều đó đôi khi làm chúng ta nghĩ rằng chúng ta có khả năng kiểm soát một số tình huống tốt
hơn năng lực thực tế. Đây được gọi là lệch lạc nhận thức muôn (hindsight bias)
Nhận thức và trí nhớ bị ảnh hưởng bởi bối cảnh hay cách trình bày.
Ảo giác nhận thức từ ví dụ trên đến từ “hiệu ứng tương phản” (contrast effect)
Tầm quan trọng của bối cảnh cũng thể hiện trong hiệu ứng ban đầu (primary effect) và hiệu
ứng tức thì (recency effect)
Khi có sự tách biệt đáng kể về thời gian, hiệu ứng tức thì thường chi phối.
Nhưng nếu một trong 2 sự kiện có liên quan liên tiếp với nhau, trong đó sự kiện sau là sự tiếp
nối của sự kiện đầu thì sự kiện đầu tiên có sự tác động mạnh hơn. => hiệu ứng ban đầu
Hiệu ứng danh tiếng/ hào quang (halo effect) thể hiện sự ảnh hưởng đến nhận thức và trí nhớ
dựa vào sự chỉn chu, cuốn hút, danh tiếng của sự kiện/hoặc cá nhân.
Ví dụ: một thầy giáo và một học sinh cùng phát biểu về một vấn đề. Về mặt trực giác, đa
số đều coi trọng phát biểu của người thầy giáo hơn.
Con người thường ưa thích các tình huống có thể dễ dàng xử lý thông tin.
Dễ dàng xử lý thông tin (ease of processing) là hiểu một cách nhanh chóng.
Thông tin dễ hiểu thường được cho là chắc chắn đúng.
Ví dụ: một kiến thức dễ và một kiến thức khó hơn
Sự khó khăn trong việc đánh giá thông tin tăng lên bởi sự thừa thải thông tin có thể sử dụng.
=> quá tải thông tin (information overload) ảnh hưởng đến việc ra quyết định của cá nhân.
Ví dụ: trong siêu thị có 2 bàn ăn thử, một bàn chỉ để một loại sản phẩm, một bàn để nhiều loại
sản phẩm. Tuy bàn nhiều loại sản phẩm thu hút nhiều người hơn nhưng bàn chỉ để một loại sản
phẩm lại bán nhiều sản phẩm hơn
Tự nghiệm (heuristic) là quy tắc đưa ra quyết định sử dụng một tập hợp con trong tất cả
thông tin.
Tự nghiệm có nhiều loại và quy mô nhưng chung quy chia thành 2 dạng:
Tự nghiệm dạng 1 (Type 1): phản thân (reflexive), tự trị (autonomic), không
nhận thức (noncognitive) và tiết kiệm chi phí. Dạng này thích hợp khi cần nhanh
chóng đưa ra quyết định hoặc khi số tiền đặt cược là nhỏ
Tự nghiệm dạng 2 (Type 2) bản chất là nhận thức. Dạng này thích hợp khi số
tiền đặt cược lớn.
Nhiều người nghĩ rằng xác suất họ sẽ trúng xố số và hạnh phúc là lớn hơn so với xác suất chỉ
trúng xổ số. Sai lầm này chứng minh cho ảo tưởng liên kết (conjunction fallacy)
Trong tự nghiệm tình huống điển hình (representative heuristic),” xác suất được đánh giá bởi
mức độ A đại diện cho B, nghĩa là mức độ tương đồng cùa A so với B. Nếu A có tính đại diện
cao cho B, xác suất A bắt nguồn từ B được đánh giá ở mức cao. Ngược lại nếu A không giống
B thì xác suất A bắt nguồn từ B được đánh giá thấp.
Một biến thể khác của tình huống điển hình là phớt lờ xác suất cơ sở (base rate neglect).
Ví dụ: Dick là một người trong nhóm thí nghiệm có 70% là kỹ sư và 30% là luật sư.
Dick có bản tóm tắt sau: “Dick là người đàn ông 30 tuổi. Anh ta kết hôn nhưng chưa có con.
Anh là người có năng lực cao và có nhiều động lực. Anh ta hứa hẹn sẽ khá thành đạt trong công
việc”. Vậy Dick là kỹ sư hay luật sư?
Quy tắc Bayes: cho phép tính xác suất một cach tối ưu dựa trên sự xuất hiện của thông tin mới.
Khi đó, xác suất của biến cố B, phụ thuộc vào biến cố A bằng với xác suất xảy ra biến cố A,
phụ thuộc vào biến cố B nhân với tỷ lệ giữa xác suất đơn của biến cố B và biến cố A.
Pr (B/A) = pr (A/B) * [pr(B)/pr(A)
Ví dụ: dựa vào quá khứ, bạn có xác suất như sau:
Pr (ngày mưa) = 40% và pr(ngày nắng) = 60%
Bạn biết thêm xác suất sau:
Pr(dự đoán trời mưa/mưa) = 90%
Pr(dự đoán trời mưa/khô) = 2,5%
Pr(dự đoán trời mưa) = 37,5%
Pr(mưa/dự báo trời mưa) = pr(dự báo trời mưa/mưa) * [pr(mưa)/pr(dự báo trời mưa)] =
0.9*(0.4/0.375) = 0.96
Ước lượng quá cao khả năng dự báo: nhiều người có xu hướng tin rằng có nhiều khả năng dự
báo hơn so với mức thông thường.
Ví dụ: Sinh viên A có điểm GPA phổ thông là 2,2; sinh viên B có điểm GPA phổ thông là 3,8.
Sinh viên nào có điểm GPA đại học cao hơn và giá trị GPA trung bình là bao nhiêu?
Biết GPA trung bình ở bậc phố thông là 3,44 (độ lệch chuẩn 0,36) và GPA bậc đại học
là 3,08 (độ lệch chuẩn 0,4)
Nếu chúng ta tin vào thông tin của mẫu ảnh hưởng đến phân phối tổng thể, chúng ta sẽ dễ có
khuynh hướng ước lượng quá cao hoặc quá thấp.
Nếu chúng ta tin mẫu không có thông tin, chúng ta càng di chuyển về gần giá trị trung bình
(regression to mean)
Lý do là dữ liệu mẫu được sử dụng với tỷ trọng cao hơn so với tổng thể hoặc phân phối.
Theo tự nghiệm sẵn có (availability heuristic), những sự kiện dễ dàng gợi lại trong trí óc thì
được cho là dễ xuất hiện.
Một vấn đề xảy ra gần đây sẽ ảnh hưởng đến sự sẵn có và gây ra lệch lạc tức thì (recency bias).
Sự nổi trội cũng tác động đến sự sẵn có, dẫn đến lệch lạc nổi trội (salience bias).
Ví dụ: một sự kiện tai nạn máy bay xuất hiện nhiều trên phương tiện đại chúng thể hiện
sự nổi trội và làm chúng ta nghĩ nhiều về mức độ thảm khốc và đánh giá cao xác suất tái diễn sự
kiện, dẫn đến e ngại đi máy bay.
Liên quan chặt chẽ với sự tự quy kết là sự nhận thức muộn (hindsight bias), khuynh
hướng đưa người ta đến những suy nghĩ “đã biết từ lâu rồi”
Khuynh hướng này đặc biệt phổ biến khi một sự kiện trọng đại có các kết quả khác nhau
được xác định rõ; khi những sự kiện này hàm chứa những ý nghĩa về mặt cảm xúc hay
đạo đức; hoặc khi những sự kiện này phụ thuộc vào một quá trình tưởng tượng, trước
khi có kết quả.
Đi liền với lệch lạc nhận thức muộn là lệch lạc tự xác nhận (confirmation bias), là xu
hướng tìm kiếm những bằng chứng phù hợp với niềm tin ban đầu và lờ đi những dữ liệu
cho thấy điều ngược lại.
Quá tự tin, đặc biệt là quá lạc quan không phải là một sai lầm hoàn toàn.
Khi chúng ta xác định mục tiêu dài hạn và cam kết thực hiện những hành động hướng
tới mục tiêu đó, sự lạc quan cao có thể làm gia tăng thành quả.
Mặc dù thành quả được gia tăng, nhưng thường nó không được như dự báo. Lúc này,
những cơ chế biện hộ sẽ xuất hiện để xoa dịu sự thất vọng
Nền tảng của cảm xúc
Đa số đều cho rằng quyết định của con người được tạo ra bởi cảm xúc.
Đặc biệt, cảm xúc thường được sử dụng như là một trong những lý do giải thích sự chuyển động
đi lên hoặc đi xuống của thị trường.
Nhìn chung, các nhà tâm lý học đồng ý rằng những trạng thái được xem là cảm xúc như: hạnh
phúc (happiness), buồn bã (sadness), giận dữ (anger), thích thú (interest), khinh thường
(contempt), chán ghét (disgust), kiêu hãnh (pride), sợ hãi (fear), ngạc nhiên (surprise) và hối hận
(regret).
Jon Elster lập luận rằng có 6 đặc trưng có thể nhận thấy của cảm xúc:
Tiền lệ về nhận thức (cognitive antecedents): trong nhiều trường hợp, niềm tin gây ra
những phản ứng cảm xúc.
Đối tượng chủ ý (intentional objects)
Sự kích thích sinh học (physiological arousal)
Những biểu hiện sinh học (physiological expressions)
Hóa trị (valence)
Xu hướng hành động (action tendencies)
Giải thích:
Mức độ quá tự tin của NĐT (ai) càng cao thì phản ứng của mức cầu khi giá thay đổi càng lớn.
Khi ai tiến gần đến 1 (giá thị trường ko có tác động, càng gần với
Khi ai tiến dần về 0, cầu thay đổi rất ít khi giá thay đổi
ai càng cao thì đường cầu ít dốc hơn; khi ai tiến về 0 thì đường cầu dốc đứng (p – trục y; q –
trục x)
Ví dụ về vai trò của sự quá tự tin đối với hoạt động giao dịch và sự biến động thị trường
(p.221):
q1 = 100 (nhà đầu tư 1)
p = 20 – 0.1*q2 (nhà đầu tư 2)
p = 15 – 0.05*q3 (nhà đầu tư 3)
Kịch bản 1:
NĐT 2 tin rằng cổ phiếu có giá trị cao hơn đường cầu dịch chuyển song song lên trên $5:
Kịch bản 3:
NĐT 2 vừa có sự quá tự tin hơn trước và vừa tăng giá trị ước tính lên $5 (kết hợp kịch bản 1
& 2)
p = 20 – 0.05* q2 (NĐT 2 – kịch bản 3)
Giá cân bằng mới = $12.5
Nhận xét:
Sự đánh giá lại giá trị theo hướng giảm xuống cũng có tác động tương tự (chiều ngược lại)
Sự biến động gia tăng cùng với sự quá tự tin
Việc đánh giá lại giá trị như nhau sẽ dẫn đến 1 sự gia tăng lớn hơn trong giá CP, khi 1 trong số
các NĐT quá tự tin hơn
Sự quá tự tin sẽ làm tăng hoạt động giao dịch & tăng khối lượng giao dịch trên thị trường
Odean (1998): khối lượng gd kỳ vọng tăng khi sự quá tự tin tăng; độ biến động giá CP tăng
cùng tâm lý quá tự tin; sự quá tự tin ảnh hướng xấu đến giá trị
Bằng chứng của sự quá tự tin
Nhân khẩu học & tính động của tâm lý quá tự tin
Barber & Odean (2001):
Trung bình nam giới giao dịch nhiều hơn 45% so với nữ giới
Sự sụt giảm trong TSLN ròng của nam giới cao hơn nữ giới 0.94%
Đặc biệt, nam giới độc thân giao dịch nhiều hơn 67% & sự sụt giảm trong tsln ròng
nhiều hơn 1.44% so với nữ giới
Atkinson, Baird & Frye (2001); Deaves & Luo (2008): Có ít khác biệt giữa giới tính, hđ
gd và sự quá tự tin trong hoạt động của các nhà quản trị danh mục đầu tư nam & nữ,
sinh viên kinh doanh nam & nữ
Các chuyên gia có rút kinh nghiệm từ những sai lầm và cải thiện sự hiểu biết theo thời gian?
Nếu con người nhớ về sự thành công và thất bại rõ ràng và công bằng, thì họ sẽ hướng đến 1 cái
nhìn chính xác theo thời gian.
Các lệch lạc:
Lệch lạc tự quy kết
Lệch lạc nhận thức muộn
Lệch lạc tự xác nhận
Gervais & Odean (2001): Thành công quá khứ, thông qua lệch lạc tự quy kết, làm tăng sự quá
tự tin >< sai lầm của quá khứ đc giảm bớt mức độ nghiêm trọng NĐT nhiều kinh nghiệm và
NĐT mới ra nhập thị trường?
Kết luận về sự quá tự tin ở các chuyên gia không thống nhất:
Locke & Mann (2005): Không phải sự quá tự tin mà tính kỷ luật quyết định thành tựu của các
nhà giao dịch trên thị trường giao sau
Deaves, Luders & Schroder (2007): kinh nghiệm thị trường làm cho sự quá tự tin trở nên tồi tệ
hơn (lệch lạc tự quy kết)
NĐT đa dạng hóa danh mục thấp (underdiversified) nhanh chóng định 1 tỷ trọng quá cao/ thấp
cho các CK khi họ thấy 1 tín hiệu tích cực/ tiêu cực
NĐT nhỏ lẻ thiếu thời gian để phân tích nhiều loại CP
Niềm tin vào những CP tốt cản trở NĐT đa dạng hóa DMĐT với CP mà họ không nghiên cứu
Đa dạng hóa thấp & chấp nhận rủi ro quá mức
Kelly (1995):
- xem xét dmđt của hơn 3000 NĐT cá nhân Mỹ:
- Hầu hết không nắm giữ CP nào
- Trong 600 hộ gia đình nắm giữ CP, trung vị của số lượng CK trong dmđt là 1.
- Chỉ 5% trong 600 hộ gđ nắm giữ từ 10 loại CP trở lên (mức độ đa dạng hóa hợp lý)
Hiệu ứng ngược vị thế Xu hướng bán các CK lời và nắm giữ các CK thua lỗ gọi là hiệu ứng ngược vị thế
(disposotion effect).
Odean (1998):
Dữ liệu: lịch sử giao dịch của 10,000 tài khoản gd CK với gần 100,000 giao dịch giai đoạn 1987-1993.
Tính toán tần suất bán CK lời/ lỗ so với các cơ hội bán các CK lời/lỗ.
Tỷ lệ LN thực hiện PCR= LN đã thực hiện/ (LN đã thực hiện + LN chưa thực hiện)
Tỷ lệ lỗ thực hiện PRL = Khoản lỗ đã thực hiện/ (Khoản lỗ đã thực hiện + khoản lỗ chưa thực hiện)
Lý thuyết triển vọng
Shefrin & Statman (1985):
Giải thích hiệu ứng ngược vị thế từ hai phạm trù: lý thuyết triển vọng (+ tính toán bất hợp lý) và sự e
ngại hối tiếc (+ tự kiểm soát)
Nhấn mạnh lý thuyết triển vọng
Hiệu ứng thu nhập ngoài kỳ vọng
Hành vi phụ thuộc chiều hướng: Quyết định của 1 người sẽ bị ảnh hưởng bởi những gì diễn ra trước đó.
Thaler & Johnson (1990): hành vi cá nhân bị ảnh hưởng bởi khoản lời và lỗ trước đó:
Sau 1 khoản lời, NĐT dễ dàng chấp nhận rủi ro - Hiệu ứng thu nhập ngoài kỳ vọng
Sau 1 khoản lỗ:
Muốn hòa vốn người bị lỗ muốn tiếp tục chấp nhận rủi ro để cố gắng hòa vốn Hiệu ứng hòa vốn
Tăng sự e ngại đối với rủi ro hiệu ứng vết rắn cắn
Định kiến về trạng thái hiện tại là sự chống lại sự thay đổi.
FnuoisContentsr
Lí thuyết hữu dụng kì vọng (Expected utility theory) được đưa ra bởi John Von Neumann và Oskar
Morgenstern nhằm nỗ lực mô tả những hành vi hợp lí khi con người phải đối mặt với sự không
chắc chắn.
1 Duy lý 2 Vì mình 3 Có đầy đủ thời gian và thông tin để đưa ra các quyết định
Duy lý không bị giới hạn (luôn hành động một cách duy lý) Trí óc của mỗi người là vô biên (luôn kiểm soát
được mình) Ích kỷ vô biên (luôn vì lợi ích cá nhân)
Một người ngại rủi ro có một hàm hữu dụng kỳ vọng lõm (concave):
• Những người tìm kiếm rủi ro có một hàm hữu dụng lồi convex
• Những người bàng quan với rủi ro chỉ quan tâm đến giá trị kỳ vọng, không quan tâm đến rủi ro:
▫ U (E(P)) = U(P)
Việc mua vé số là tìm kiếm rủi ro còn mua bảo hiểm là e ngại rủi ro nên mới mua
6. Định nghĩa của nghịch lý Allais : mô tả một thực tế đã được chứng minh bằng thực nghiệm
rằng các quyết định của cá nhân có thể không phù hợp với lí thuyết hữu dụng kì vọng.
Chương 3: Lý thuyết triển vọng và tính toán bất hợp lý.
1. Lý thuyết triển vọng là gì: Lí thuyết triển vọng giả định rằng tổn thất và lợi nhuận được đánh giá
khác nhau, và do đó, các cá nhân đưa ra quyết định dựa trên những gì họ nhận thức được về lợi ích thay
vi tổn thất.
2. 3 khía cạnh của con người
5. Hiệu ứng ngược vị thế Disposition effect: Cụ thể, nghiên cứu cho thấy các nhà đầu tư có xu hướng
nhận ra lợi nhuận nhanh hơn thua lỗ. Các nhà đầu tư có xu hướng giữ chặt những kẻ thua cuộc (cổ phiếu
thua lỗ) nhưng lại bán đi kẻ thắng cuộc (cổ phiếu lời).
Hiểu theo cách đơn giản, hiệu ứng ngược vị thế là xu hướng bán cổ phiếu lời và nắm giữ cổ phiếu thua
lỗ, - Trái với MĐ ban đầu
Chương 4: Tự nghiệm, lệch lạc, sự tự tin quá mức và nền tảng của cảm xúc.
4. Tự nghiệm
1. 3 giả định chính về con người trong nền kinh tế học tân cổ điển:
▫ Con người tối đa hóa mức hữu dụng, doanh nghiệp tối đa hóa lợi nhuận..
▫ Con người đưa ra những quyết định độc lập dựa trên tất cả thông tin liên quan. (Không dựa vào quá khứ)
▫ U(P1) = 0.4xln50000+0.6xln1000000=12.61
▫ U(P2) = 0.5xln1000000+0.5xln1000000=12.66
U(P2)=U(W)=>12.66=ln(w)=> w=e^12.66=314896.722
• Một người ngại rủi ro có một hàm hữu dụng kỳ vọng lõm (concave):
• Những người tìm kiếm rủi ro có một hàm hữu dụng lồi convex
• Những người bàng quan với rủi ro chỉ quan tâm đến giá trị kỳ vọng, không quan tâm đến rủi ro:
▫ U (E(P)) = U(P)
Việc mua vé số là tìm kiếm rủi ro còn mua bảo hiểm là e ngại rủi ro nên mới mua
• Lý thuyết triển vọng (prospect theory) cho rằng lý thuyết hữu dụng kỳ vọng không thể giải thích đầy đủ
việc ra quyết định trong điều kiện rủi ro.
• Khía cạnh 1: con người đôi khi thể hiện sự e ngại rủi ro và đôi khi lại thể hiện sự tìm kiếm rủi ro, tùy thuộc
vào bản chất của triển vọng
• Khía cạnh 2: việc đánh giá các triển vọng của con người phụ thuộc vào được (lời) và mất (lỗ) so với một
điểm tham chiếu. Điểm tham chiếu thường là trạng thái hiện tại.
• Khía cạnh 3: con người ngại mất mát (thua lỗ) vì mất mát lớn hơn được.
• Hàm giá trị (value function) được dùng để thay thế cho hàm hữu dụng trong lý thuyết triển vọng.c
• Hàm giá trị được định nghĩa bằng việc được và mất so với một điểm tham chiếu.
• Hàm giá trị lõm trong miền lời và lồi trong miền lỗ
• Hàm giá trị dốc hơn trong miền lỗ so với miền lời
• Hàm giá trị sử dụng tỷ trọng quyết định (decision weight) thay cho xác suất.
Trong đó:
• Theo Richard Thaler, tính toán bất hợp lý là một tập hợp các hoạt động nhận thức của cá nhân và hộ gia
đình để tổ chức, đánh giá và theo dõi các hoạt động tài chính
• Các thành phần chủ yếu của tính toán bất hợp lý là sự phân định tài khoản, đóng tài khoản và đánh giá tài
khoản.
• Các nhà kinh tế cho rằng các khoản tiền có thể thay thế được
• Tuy nhiên, do con người hình thành các “tài khoản” trong óc do đó dẫn đến những hành vi sai lệch hoặc khác
lạ mà các khoản tiền không thể hoàn toàn thay thế cho nhau được.
Kế toán nhận thức ( Mental Accounting)cho rằng các cá nhân phân loại tiền thành các nhóm khác nhau và do
đó dễ đưa ra quyết định phi lý trong hành vi chi tiêu và đầu tư của họ. (tạo tài khoản trong đầu)
• Cá nhân có khuynh hướng tránh việc bán tài sản đầu tư (đóng tài khoản) khi tài khoản bị lỗ. Đây là hiệu ứng
ngược vị thế (disposition effect). Khoái gồng lỗ và thích chốt lời non
+ Tuy nhiên những tài khoản liên quan đến tiết kiệm hay đầu tư rất khó để định giá và lựa chọn thời điểm đóng.
- Một nhà đầu tư trì hoãn bán cổ phiếu lỗ. Đây là mẫu hình tích hợp các quyết định hiện tại và thành quả trong quá
khứ của cổ phiếu. (dựa vào thông tin quá khứ để ra quyết định)
- Tách biệt là chia tách quyết định hiện tại và quá khứ. Phương pháp này sẽ ngăn chặn ảnh hưởng của hiệu quả
ngược vị thế. (không sử dụng kinh nghiệm mà sử dụng thông tin hiện tại)
Chương 4: Tự nghiệm, lệch lạc, sự tự tin quá mức và nền tảng của cảm xúc
- Tính chất của nhận thức: mình luôn hiểu theo cách mình mong muốn
- Tính chất 1: được tái tạo (viết lại trong quá khứ) rewriting history. Điều đó đôi khi làm chúng ta nghĩ rằng chúng
ta có khả năng kiểm soát một số tình huống tốt hơn năng lực thực tế. Đây được gọi là lệch lạc nhận thức muộn
(hindsight bias). Trí nhớ có thể được tái hình thành dựa theo mong muốn
- Tính chất 2: thay đổi mạnh mẽ do cảm xúc mang lại. Cảm xúc càng mạnh trí nhớ càng lâu, cảm xúc càng yếu trí
nhớ càng dễ phai mờ
3.1 Hiệu ứng tương phản Contrast effect: Khi mình thay đổi cách trình bày thì nhận thức thay đổi
3.2 Hiệu ứng đóng khung Framing effect: Khi mình thay đổi bối cảnh thì nhận thức thay đổi
- Hiệu ứng ban đầu primary effect: nếu một trong 2 sự kiện có liên quan liên tiếp với nhau, trong đó sự kiện sau
là sự tiếp nối của sự kiện đầu thì sự kiện đầu tiên có sự tác động mạnh hơn.
- Hiệu ứng tức thì recency effect : khi có sự tách biệt về thời gian giữa các sự việc tương tự, chúng ta bị ảnh
hưởng bởi lần gần mình nhất
- Hiệu ứng danh tiếng (halo effect) thể hiện sự ảnh hưởng đến nhận thức và trí nhớ dựa vào sự chỉn chu, cuốn hút,
danh tiếng của sự kiện/hoặc cá nhân.
- Mình có xu hướng bị ảnh hưởng người có danh tiếng hơn so với người bình thường. Ví dụ: Giáo sư cho lời
khuyên thì có trọng lượng hơn so với sinh viên
4. Tự nghiệm
Tự nghiệm (heuristic) là quy tắc đưa ra quyết định sử dụng một tập hợp con trong tất cả thông tin. (là quá trình
đưa ra đánh giá dựa vào các shortcut trong đầu)
- Tự nghiệm đến từ sự quen thuộc: đưa ra quyết định dựa vào sự quen thuộc (môi trường, con người, vùng văn
hóa) vì chúng ta thường lảng tránh sự sáng tạo (sợ sai). (lảng tránh hay lảng tránh?...)
- Tự nghiệm đa dạng hóa: gặp 1 chuyện không biết đúng sai thì chọn hết (thích sự đa dạng và mới mẻ khi không
biết tương lai ntn) vd buffet. Con người ba phải :))
- Ảo tưởng liên kết Conjunction fallacy liên kết 2 sự vật với nhau => đánh giá sai xác suất
Nhiều người nghĩ rằng xác suất họ sẽ trúng xổ số và hạnh phúc là lớn hơn so với xác suất chỉ trúng xổ số.
Ví dụ 2: Nhiều lần thấy mây và mưa đi kèm => Nhìn thấy mây nhận định sẽ mưa => sai sót.
vd3: Công ty tốt là công ty có chất lượng quản lý tốt, có thương hiệu uy tin, lợi nhuận dương, tăng trưởng liên
tục và ổn định, có đội ngũ nhân viên giỏi, sử dụng tài sản hiệu quả, có sự đổi mới...
Cổ phiếu tốt là cổ phiếu có mức tăng trưởng lợi nhuận cao qua các năm, tính thanh khoản và độ an toàn cao...
Cần phải phân biệt công ty tốt không có nghĩa là cổ phiếu của những công ty đó tốt. Vì tất cả thông tin về cổ
phiếu đã được phản ảnh trong giá. Một khi thị trường đã điều chính, công ty tốt ( hoặc công ty xấu )là những
khoản đầu tư như nhau. Tức là tỷ suất sinh lợi sẽ tương ứng với rủi ro, một công ty tốt không có nghĩa là có tỷ
suất sinh lợi cao nhưng độ an toàn cũng cao
- Base rate neglect: Một biến thể khác của tình huống điển hình là phớt lờ xác suất cơ sở (chỉ chú ý vào key
information mà quên đi xác suất đã được cho)
Ví dụ: Dick là một người trong nhóm thí nghiệm có 70% là kỹ sư và 30% là luật sư. Dick có bản tóm tắt sau:
“Dick là người đàn ông 30 tuổi. Anh ta kết hôn nhưng chưa có con. Anh là người có năng lực cao và có nhiều
động lực. Anh ta hứa hẹn sẽ khá thành đạt trong công việc”. Vậy Dick là kỹ sư hay luật sư?
Vd đang chơi đá banh, thấy 1 người có phong độ cao và 1 người có phong độ thấp thì mình tự quên đi xác suất
trong quá khứ mà chuyền cho người có phong độ cao. Bỏ qua các dữ liệu lịch sử và chỉ quan tâm đến hiện tại
Ảo tưởng của những con bạc (tiếng Anh: Gambler's Fallacy) xảy ra khi một cá nhân lầm tưởng rằng một sự kiện
ngẫu nhiên nào đó ít có khả năng hoặc nhiều khả năng được đưa ra một sự kiện trước đó hay một chuỗi các sự
kiện.
Khi chúng ta chơi bài, chúng ta có ảo tưởng cơ hội như một quá trình tự hiệu chỉnh. Quan điểm sai lầm này được
gọi là ảo tưởng con bạc (gambler’s fallacy). Sai lầm ở đây là việc áp dụng quy luật số lớn cho một mẫu nhỏ.
Ví dụ chơi bài, khi thắng liên tục nhiều ván, con người tự điều chỉnh xác suất thua cao hơn và đặt ít tiền đi
Ví dụ: trong 72 gia đình, xác suất gia đình có số lượng nam và nữ nào sau đây lớn hơn:
6.2 Những gì sẵn có trong đầu (tự nghiệm sẵn có) availability là những gì xảy ra gần nhất, những sự kiện dễ dàng
gợi lại trong trí óc thì được cho là dễ xuất hiện
- Lệch lạc tức thì recency bias Một vấn đề xảy ra gần đây sẽ ảnh hưởng đến sự sẵn có và gây ra lệch lạc tức thì
Sự nổi trội cũng tác động đến sự sẵn có, dẫn đến lệch lạc nổi trội (salience bias). Những kí ức có cảm xúc quá
mạnh
Ví dụ: một sự kiện tai nạn máy bay xuất hiện nhiều trên phương tiện đại chúng thể hiện sự nổi trội và làm chúng
ta nghĩ nhiều về mức độ thảm khốc và đánh giá cao xác suất tái diễn sự kiện, dẫn đến e ngại đi máy bay.
- Trong một số trường hợp, nhiều người thực hiện việc ước lượng bắt đầu từ một giá trị ban đầu và điều chỉnh nó
để tạo nên ước lượng cuối cùng. Thông thường, sự //điều chỉnh này là không đầy đủ, giá trị ban đầu thường xuất
hiện tự nhiên từ cách trình bày vấn đề.
Ví dụ: Ai là người châu Âu thứ 2 đặt chân lên Tây Ấn biết Columbus là người đầu tiên đặt chân lên Tây Ấn vào
năm 1492?
Giá nhà mảnh đất hàng xóm 1 tỷ => Định giá mảnh đất nhà mình 1 tỷ?
Cổ phiếu cùng ngành có P/E = 20 => cổ phiếu của mình có p/e = 20?
- Neo quyết định và tình huống điển hình (phớt lờ xác suất cơ sở) có thể có mâu thuẫn.
- Mâu thuẫn trên có thể dung hòa dựa trên quan điểm con người là “ngắm lệch – coarsely calibrated”.
- Tự tin quá mức (overconfidence) là khuynh hướng con người đề cao kiến thức, khả năng và tính chính xác
trong thông tin của mình, hoặc lạc quan quá mức về tương lai và khả năng kiểm soát tình thế.
1. Hiệu ứng tốt hơn trung bình (better than average effect):
đánh giá khả năng của con người tốt hơn trung bình.
Lý do là do những định nghĩa chính xác về sự xuất sắc hay năng lực lại không rõ ràng.
Cả cơ chế nhận thức và cơ chế động viên dường như ẩn sau hiệu ứng tốt hơn trung bình.
Ví dụ: Điểm Hóa trung bình lớp 7 điểm => Nghĩ rằng mình đc 7.5-8
Là khi con người nghĩ rằng họ có khả năng kiểm soát tình huống hơn thực tế có thể
Ví dụ: khi bạn chơi một ván bài poker, bạn thường đặt cược lớn hơn nếu đối thủ của mình là “khờ khạo” thay vì
lanh lợi
Hiện diện khi con người đánh giá xác suất các kết quả thuận lợi/bất lợi quá cao/quá thấp so với kinh nghiệm
quá khứ hoặc những phân tích suy luận.
Ví dụ: mặc dù tỷ lệ ly hôn ngày càng tăng, các cặp vợ chồng mới cưới vẫn kỳ vọng vào sự bền vững của cuộc
hôn nhân.
4. Sai lầm trong việc lập kế hoạch (planning fallacy): là việc người ta thường nghĩ họ có thể hoàn thành vượt
mức so với thực tế, và tất cả các chi phí phát sinh đều đã được tính đến.
Có 3 khuynh hướng lệch lạc trong hành vi con người đóng góp vào việc duy trì sự quá tự tin: khuynh hướng tự
quy kết (self-attribution bias), khuynh hướng nhận thức muộn (hindsight bias), khuynh hướng tự xác nhận
(confirmation bias).
- Lý thuyết về sự quy kết (attribution theory) nghiên cứu cách con người đưa ra các quy kết nhân quả, cách con
người tìm ra những nguyên nhân của các hành động và các kết quả.
Ví dụ: khi thấy một người có hành vi khiếm nhã, chúng ta tin rằng người đó là người xấu thay vì tìm kiếm các
yếu tố bên ngoài giải thích cho hành vi đó
Ví dụ: Nhìn thấy người có hình xăm => Người xấu. Vì trong quá khứ thấy nhiều người xấu có hình xăm
Lệch lạc tự quy kết (self-attribution bias) là khuynh hướng người ta quy kết những thành công hoặc kết quả
tốt đẹp cho khả năng của họ, trong khi đổ lỗi những thất bại cho các điều kiện ngoài tầm kiểm soát, điều này
có thể dẫn đến việc gia tăng sự quá tự tin.
Ví dụ: Thắng chứng khoán do mình phân tích, thua chứng khoán do lái
- Liên quan chặt chẽ với sự tự quy kết là sự nhận thức muộn (hindsight bias), khuynh hướng đưa người ta đến
những suy nghĩ “đã biết từ lâu rồi”
Khuynh hướng này đặc biệt phổ biến khi một sự kiện trọng đại có các kết quả khác nhau được xác định rõ; khi
những sự kiện này hàm chứa những ý nghĩa về mặt cảm xúc hay đạo đức; hoặc khi những sự kiện này phụ thuộc
vào một quá trình tưởng tượng, trước khi có kết quả.
- Lệch lạc tự xác nhận (confirmation bias), là xu hướng tìm kiếm những bằng chứng phù hợp với niềm tin
ban đầu và lờ đi những dữ liệu cho thấy điều ngược lại. Nghĩa là khi bạn tin vào một điều gì đó, bạn sẽ chỉ đi
tìm bằng chứng để củng cố thêm niềm tin của mình mà không bận tâm đến những bằng chứng khác
“Status quo bias” = định kiến nguyên trạng -> nghĩa là xu hướng muốn giữ nguyên trạng (mọi thứ như cũ, lựa chọn
điều quen thuộc hơn là điều xa lạ (dù có thể có lợi hơn))
Nguyên nhân làm lệch lạc: (chủ quan- do mình) nhận thức
1. Mình muốn hiểu theo kiểu mình muốn hiểu, nên hành vi cũng lệch lạc theo. Ví dụ: người học tài
chính và không học tài chính khi nghe một tin tức về chứng khoán thì hai người sẽ có những suy nghĩ
khác nhau, tùy theo cách họ hiểu, phụ thuộc vào trình độ, kiến thức và hiểu biết của họ.
2. Xung đột nhận thức, khi đưa ra nhận thức thì chúng ta sẽ ủng hộ lựa chọn cho để không gây xung đột.
Ví dụ: Khi có hai lựa chọn, mình đưa ra lựa chọn 1 thì mình sẽ đưa ra lý do để ủng hộ nó. Khi lựa chọn
hai cái áo, ta chọn cái áo 1 và đưa ra lý do là nó đúng size, nhằm khẳng định, ủng hộ cái lựa chọn của
bản thân mình.
Trí nhớ có nguyên nhân: (nguyên tắc là không phủ nhận kết quả)
1. Trí nhớ bị tái tạo theo thời gian và cảm xúc. Chúng ta bị sự kiện, những thông tin mang lại cho ta
cảm xúc mạnh lấn át những cái gây cảm xúc yếu.
2. Mình lựa chọn việc viết lại kí ức đau buồn để an ủi bản thân, việc viết lại không hẳn thay đổi hoàn
toàn. Vẫn giữ nguyên kết quả, chỉ là mình thay đổi cái nguyên nhân hoặc quá trình dẫn đến cái kết quả
đó thôi.
Hiệu ứng: nguyên nhân khách quan : cách trình bày và bối cảnh
• Hiệu ứng tương phản: liên quan đến cách trình bày. Ví dụ: một câu nói trình bày nguyên nhân trước,
kết quả sau khác với kết quả trước, nguyên nhân sau => làm thay đổi nhận thức của người nghe về cùng
một vấn đề.
• Hiệu thức liên quan đến bối cảnh thời gian: thời gian chi phối làm nhận thức và trí nhớ bị lệch.
• Hiệu ứng ban đầu: 2 sự kiện tương tự nhau, xảy ra gần nhau, thì mình nhớ sự kiện đầu tiên,
hiệu ứng đầu này có tác dụng mạnh hơn. Ví dụ: ngày 1 môn tài chính hành vi báo rớt, ngày 2
môn khác rớt,... => thì nỗi đau dành cho ngày đầu tiên lớn hơn.
• Tách biệt khác biệt về thời gian.
• Hiệu ứng tức thì: 2 sự kiện xảy ra cách nhau một thời gian đủ dài, thì sự kiện sau có tác động
mạnh hơn.
Hiệu ứng danh tiếng: thể hiện sự ảnh hưởng đến nhận thức và trí nhớ dựa vào sự chỉnh chu, danh tiếng của sự
kiện/ hoặc cá nhân. Ví dụ: thầy giáo và một học sinh đứng dậy phát biểu về cùng một chủ đề, số đông sẽ tin
thầy giáo đó hơn.
Trong siêu thị, nước, đồ tươi sống, chỗ bán mì, gia vị không đổi chỗ.