You are on page 1of 27

TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUỐC TẾ-

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BÀI TIỂU LUẬN

ĐỀ TÀI:
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa. Phân tích các đặc điểm của kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện
nay

Giáo viên hướng dẫn: Lê Văn Đại

Lớp: Kinh tế Chính trị Mác-Lênin

Nhóm thực hiện: 4

–&—

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Sau năm 1975, khi dân tộc Việt Nam giành được độc lập, toàn thể nhân dân ta, từ công nhân
đến nông dân cùng tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng và nhà nước ta đã chủ trương
giữ vững quan điểm cũng như con đường mà chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, cùng quyết
tâm đưa đất nước ta trở thành một nước giàu mạnh về kinh tế, ổn định về chính trị, một xã
hội công bằng, văn minh. Để đạt được mục tiêu đề ra, Đảng ta đã chủ trương ưu tiên phát
triển kinh tế. Kết quả đạt được là sau năm 1986, nền kinh tế của nước ta đã chuyển sang một
hướng đi mới, phát triển kinh tế hàng hóa theo nhiều thành phần, hoạt động dựa trên cơ chế
thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chính là nền kinh
tế thị trường. Chuyển sang nền kinh tế thị trường là chuyển sang một nền kinh tế năng động
và linh hoạt hơn, thúc đẩy sự phân phối, sử dụng các nguồn lực sẵn có để thúc đẩy hoạt động
kinh tế. Kèm theo đó, nền kinh tế hàng hóa có những đặc điểm và vai trò to lớn trong việc
thúc đẩy nền kinh tế của nước ta hiện nay. Nhờ đó mà Đảng và nhà nước ta đã dần khôi phục
được kinh tế nước nhà sau chiến tranh đồng thời phát triển đất nước lấy kinh tế làm mũi
nhọn.
2. Mục đích nghiên cứu:
Nền kinh tế thị trường thực sự đã có ảnh hưởng tích cực, to lớn đến nền kinh tế nước nhà,
nhưng câu hỏi đặt ra là ngược lại, nhà nước đóng vai trò như thế nào trong việc xây dựng nền
kinh tế thị trường. Chính vì lý do đó mà nhóm chúng em quyết định chọn và nghiên cứu đề
tài “Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phân tích
các đặc điểm của kinh tế hàng hóa ở nước ta hiện nay.” để giải đáp cho những câu hỏi được
đặt ra xoay quanh những vấn đề liên quan đến kinh tế thị trường và kinh tế hàng hóa. Mặt
khác, sự chuyển đổi mô hình kinh tế cũng như những yếu tố liên quan đến là những vấn đề
còn khá mới mẻ trong lịch sử kinh tế nước ta. Vậy nên việc nghiên cứu những vấn đề cơ bản
liên quan đến là thực sự cần thiết. Nó không chỉ giúp chúng tôi củng cố kiến thức về nền kinh
tế thị trường mà còn hiểu thêm về sự vận hành của kinh tế nước nhà. Đây là một đề tài lớn
mang tính khái quát cao nên phạm vi nghiên cứu của đề tài này khá rộng, do đó nhóm chúng
em chỉ tập trung nghiên cứu và làm rõ một số vấn đề cơ bản về hai hướng phát triển kinh tế
của nước ta hiện nay.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và các đặc
điểm của nền kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay
4. Phạm vi nghiên cứu:
Tình hình Việt Nam hiện nay
5. Phương pháp nghiên cứu:
Nghiên cứu lý thuyết
6. Cấu trúc đề tài:
Đề tài gồm: Mở đầu, thân chương, kết luận và tài liệu tham khảo

ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN


PHẦN MỞ ĐẦU
KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN
LỜI MỞ ĐẦU 2

2
ĐỀ CƯƠNG TIỂU LUẬN 3
PHẦN MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1. SƠ LƯỢC VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 5
CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 7
1. Nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội 7
1.1 Định nghĩa 7
1.2 Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt
Nam 7
1.3 Ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam theo hướng
XHCN: 8
1.3.1. Ưu điểm 8
1.3.2. Nhược điểm 8
2. Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa 9
2.1. Khái niệm về Nhà nước, Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa: 9
2.2 Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước XHCN: 9
2.2.1. Chức năng của nhà nước XHCN: 9
2.2.2. Nhiệm vụ của nhà nước XHCN: 11
3. Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội: 11
3.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị trường. 12
3.2. Các nguồn lực do Nhà nước quản lý được phân bổ theo chiến lược, quy
hoạch, kế hoạch phù hợp cơ chế thị trường. 13
3.3. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế,
tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch. 13
3.4. Nhà nước sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, cơ chế, chính
sách để định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội
trong từng bước, từng chính sách phát triển. 14
TIỂU KẾT: 15
CHƯƠNG 3. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ HÀNG HÓA Ở NƯỚC TA HIỆN
NAY 15
1. Kinh tế hàng hóa là gì? 15
2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa 15
2.1. Có sự phân công lao động xã hội: 15
2.2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế: 16
3. Đặc trưng và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa 16
3.1. Đặc trưng: 16
3.2. Tính ưu việt: 16
4. Các nhân tố của kinh tế hàng hóa 16
4.1. Khái niệm hàng hóa: 16
4.2. Thuộc tính của hàng hóa bao gồm giá trị và giá trị sử dụng: 17
4.3. Lợi nhuận: 17
5. Các quy luật cơ bản của kinh tế hàng hoá: 17

3
5.1. Quy luật giá trị: 17
5.2. Quy luật cạnh tranh: 18
5.3. Quy luật cung cầu: 18
6. Đặc điểm sản xuất hàng hóa tại Việt Nam: 19
6.1. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế hàng
hoá kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang một nền kinh tế hàng hoá
phát triển từ thấp đến cao. 19
6.2. Nền kinh tế hàng hoá nước ta dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành
phần. 19
6.3. Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa nước ta với các nước
khác trên thế giới. 20
6.4. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ
đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước. 20
7. Thực trạng sản xuất hàng hóa của Việt Nam: 21
7.1. Ưu điểm: 21
7.2. Nhược điểm: 21
7.3. Biện pháp: 22
8. Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi mới đến nay: 22
9. Phương hướng phát triển hàng hoá của Việt Nam: 23
9.1. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần sở hữu trên nền tảng công hữu. 23
9.2. Tập trung đào tạo lực lượng lao động có trình độ cao. 23
9.3. Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm. 23
9.4. Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển. 23
9.5. Kiểm soát lạm phát và giá cả. 23
9.6. Giải quyết vấn đề tiền lương. 23
TIỂU KẾT: 23
KẾT LUẬN 24
Tài liệu tham khảo: 25

CHƯƠNG 1. SƠ LƯỢC VỀ NHÀ NƯỚC VÀ NỀN KINH TẾ THỊ


TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Khái quát về Nhà nước và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

4
Xuyên suốt bề dày lịch sử thế giới, xã hội loài người đã trải qua muôn vàn sự kiện và xuất
hiện nhiều hình thái khác nhau. Đi cùng với sự phát triển là sự đa dạng hóa và phức tạp hóa
của xã hội đòi hỏi chúng ta phải tìm hiểu và giải thích. Thời kỳ đầu, chúng ta chỉ có thể giải
thích bằng những lý thuyết rời rạc, không chặt chẽ và đôi khi còn có xu hướng mâu thuẫn với
nhau. Tuy nhiên, về sau, với số lượng kiến thức tăng lên không ngừng theo năm tháng, loài
người đã có khả năng nhận thức rõ ràng hơn và cũng đưa ra được lời giải thích hợp lí, mang
tính học thuật hơn cho các hiện tượng xã hội, trong đó có các vấn đề về kinh tế. Hiện nay, có
rất nhiều cách nhìn và ý kiến khác nhau dành cho kinh tế xã hội, nhưng nhìn chung tất cả đều
xoay quanh Nhà nước và thị trường. Mỗi quốc gia đều có cho mình một nhà nước và mỗi nhà
nước đều mang trên mình một vai trò kinh tế riêng (tùy thuộc vào tính chất xã hội của từng
quốc gia). Song song với đó là các nền kinh tế thị trường với những đặc trưng riêng phù hợp
với điều kiện của từng quốc gia. Vì thế mà việc xác định rõ vai trò cũng như mức độ can
thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế quốc gia là vô cùng cần thiết đối với các học thuyết kinh
tế.

Bên cạnh những lợi ích về mặt học thuật, việc tìm hiểu sâu mối quan hệ giữa Nhà nước và
nền kinh tế thị trường còn góp phần vào thực tiễn. Việt Nam ta đang bước vào thời kỳ quan
trọng, thời kỳ phát triển nhanh và mạnh. Có thể nhận thấy điều đó qua mùa dịch vừa rồi, khi
mà các quốc gia châu Á đều phải đối mặt với nhiều khó khăn về kinh tế thì Việt Nam ta lại
giữ vững được tốc độ phát triển và đang dần trở thành một trong những quốc gia tiên tiến
nhất châu Á. Đó là nhờ vào sự điều tiết và quản lý của Nhà nước cùng với phương hướng
đúng đắn, hợp lý, Thông qua sự hiểu biết về tầm quan trọng của Nhà nước và về những đặc
điểm của kinh tế quốc gia, những người dẫn đầu đã thành công dẫn dắt Việt Nam vươn lên
gần hơn với thế giới.

2. Hoàn cảnh ra đời


Nền kinh tế thế giới được chia ra là ba thời kỳ nổi bật, thời kỳ trước chủ nghĩa tư bản độc
quyền, thời kỳ chủ nghĩa tư bản độc quyền và thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Trước chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước, việc điều tiết nền kinh tế của quốc gia chỉ gói gọn trong thuế và
pháp luật. Khi thời kì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước diễn ra, bên cạnh sử dụng thuế và
luật pháp để quản lý nền kinh tế, nhà nước còn tổ chức quản lý các xí nghiệp thuộc kinh tế
nhà nước. Vào thời điểm nhà nước xã hội chủ nghĩa - Nhà nước của dân, do dân và vì dân,
mới xuất hiện vai trò kinh tế đặc biệt và mới mẻ trong lịch sử phát triển nhà nước xét theo
khía cạnh kinh tế. Ngay từ thời kỳ đầu, Nhà nước đã mang trên mình vai trò kinh tế. Kinh tế
càng phát triển và xã hội càng trở nên phức tạp thì vai trò kinh tế ấy ngày càng được hoàn
thiện hơn.

Nhà nước được lựa chọn để làm người dẫn dắt nền kinh tế của quốc gia là vì xã hội bấy giờ
nhận thấy được nhiều tiềm năng và đặc điểm thích hợp làm đầu tàu của Nhà nước. Trong đó
có 3 đặc điểm nổi bật. Thứ nhất, Nhà nước ngay từ khi xuất hiện đã đóng vai trò như một
người đại diện cho nhân dân quản lý đất nước cả về mặt hành chính lẫn kinh tế. Thứ hai, Nhà
nước còn đại diện toàn dân trong việc sở hữu tư liệu sản xuất, quản lý các xí nghiệp thuộc
khu vực kinh tế. Thứ ba, vai trò quản lý của nhà nước sẽ góp phần vào việc khắc phục những

5
khuyết tật, phát huy mặt tích cực của kinh tế hàng hoá. Nhờ vào 3 điểm trên mà vai trò kinh
tế của Nhà nước đã ra đời và giúp kinh tế phát triển đồng đều, lành mạnh.

3. Chức năng kinh tế của Nhà nước


Nhà nước thực hiện vai trò kinh tế của mình thông qua hai chức năng cơ bản.

Chức năng thứ nhất của Nhà nước là chức năng quản lý về kinh tế. Nhà nước quản lý nền
kinh tế của đất nước thông qua các công cụ như ngân sách, tín dụng, ngân hàng, dự trữ quốc
gia, khu vực kinh tế nhà nước, luật pháp kinh tế, các chính sách kinh tế, đòn bẩy kích thích,
kế hoạch… Nhờ vào những công cụ hữu dụng ấy mà Nhà nước có đủ khả năng tác động lên
xã hội, tạo một môi trường kinh tế cân bằng, lành mạnh. Bên cạnh đó, Nhà nước không
những hỗ trợ phát triển từng xí nghiệp mà còn trên phạm vi rộng lớn hơn, phạm vi toàn xã
hội.

Chức năng thứ hai của Nhà nước là chức năng làm chủ sở hữu tài sản công. Như đã đề cập
trước đó, Nhà nước là đại diện cho toàn dân trong việc sở hữu tư liệu sản xuất đồng nghĩa với
việc sở hữu cả những tài sản chung. Vì thế mà Nhà nước hoàn toàn có đủ tư cách để quản lý
các xí nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Tuy nhiên, Nhà nước không thật sự làm chủ
các xí nghiệp. Nói cách khác, Nhà nước chỉ là người sở hữu đại biểu, còn người sở hữu thực
lại là các giám đốc xí nghiệp. Sự phân biệt rõ ràng giữa người sở hữu đại biểu và người sở
hữu thực giúp cho các xí nghiệp nhà nước và các tài sản chung đều có chủ. Không những thế,
sự phân biệt trên còn giúp phát huy tình thần tự chủ của các xí nghiệp.

4. Mối quan hệ giữa Nhà nước và nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa
Mối quan hệ giữa Nhà nước và nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa là mối quan lợi ích,
cộng sinh lẫn nhau. Cả hai đều có ảnh hưởng nhất định đến lợi ích của chung, của xã hội và
lợi ích của riêng, các chủ thể trên thị trường như các xí nghiệp, các tiểu buôn,... Nhờ có sự
quản lý của Nhà nước mà thị trường được đảm bảo tính công bằng, là môi trường kinh doanh
lành mạnh đáp ứng được nhu cầu phát triển của các chủ thể. Thị trường phát triển đồng nghĩa
với việc Nhà nước phát triển. Điều cần khẳng định là, sự tương tác giữa nhà nước và thị
trường đều hướng đến gia tăng lợi ích, tạo ra sự tăng trưởng nói chung của các chủ thể trên
thị trường. Đây chính là mặt thống nhất trong mối quan hệ giữa nhà nước và thị trường, thúc
đẩy nhà nước và thị trường gắn bó, tương tác với nhau.

Nhằm đảm bảo sự phát triển ổn định, vai trò của Nhà nước và kinh tế thị trường phải được
phân chia hợp lý, hài hòa. Nếu việc phân chia không diễn ra công bằng, một trong hai lấn át
vế còn lại, chiếm đoạt nhiều tài nguyên, hậu quả sẽ là Nhà nước quản lý kém hiệu quả, thị
trường không phân bố đủ nhân lực, tham nhũng xuất hiện khắp mọi nơi, kinh tế mất đi sự ổn
định vốn có. Vì vậy mà sự hài hòa giữa Nhà nước và thị trường là một điều tất yếu.

CHƯƠNG 2. VAI TRÒ CỦA NHÀ NƯỚC TRONG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA

6
1. Nền kinh tế thị trường định hướng chủ nghĩa xã hội

1.1 Định nghĩa


Khái niệm “Kinh tế thị trường” đã tồn tại từ rất lâu về trước, từ khi xã hội loài người xuất
hiện việc mua bán trao đổi hàng hóa. “Kinh tế thị trường” là nền kinh tế mà ở đó tồn tại nhiều
thành phần kinh tế, nhiều loại hình sở hữu cùng tham gia, cùng vận động và phát triển trong
một cơ chế cạnh tranh bình đẳng và ổn định. Kinh tế thị trường sẽ hoạt động bằng cách sử
dụng các lực lượng cung và cầu.

Hiện nay, nền kinh tế thị tư bản chủ nghĩa đang ở đỉnh cao và phổ biến ở các nước tư bản
phát triển. Tuy nhiên, nếu ta đưa chúng vào xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay, kinh tế tư
bản sẽ kìm kẹp một số nước nhỏ đang phát triển. Vì thế mà nền kinh tế thị trường tư bản chủ
nghĩa không phải là một hướng đi đúng đắn đối với kinh tế Việt Nam. Thế là kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tên gọi mà Đảng Cộng sản Việt Nam đặt ra cho mô
hình kinh tế hiện tại của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Cụm từ "định hướng xã
hội chủ nghĩa" mang ý nghĩa Việt Nam chưa đạt đến chủ nghĩa xã hội mà đang trong giai
đoạn xây dựng nền tảng cho một hệ thống xã hội chủ nghĩa trong tương lai.

1.2 Đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhằm phân biệt các nền kinh tế thị trường với nhau, chúng ta dựa vào các đặc trưng cơ bản
của chúng. Mỗi một nền kinh tế sẽ mang trong mình những đặc điểm tượng trưng đặc biệt.
Đối với Việt Nam, nền kinh tế thị trường của ta gồm có 5 đặc trưng như sau:
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế hỗn
hợp, vừa vận hành theo cơ chế thị trường, vừa có sự điều tiết của nhà nước.
Thứ hai, đặc trưng không kém quan trọng là nền kinh tế đa dạng các hình thức sở hữu và đa
dạng các thành phần kinh tế, trong đó khu vực kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Thứ ba, việc phân phối được thực hiện chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng
thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an
sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Thứ tư, nền kinh tế thị trường nước ta còn là nền kinh tế thị trường do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lý, điều tiết vì mục tiêu
"dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Thứ năm, cũng là đặc trưng cuối cùng, nước ta sở hữu nền kinh tế thị trường hiện đại và hội
nhập quốc tế.

1.3 Ưu điểm và nhược điểm của nền kinh tế thị trường Việt Nam theo hướng XHCN:

7
1.3.1. Ưu điểm
Bên cạnh những đặc trưng, chúng ta cũng không thể nào bỏ qua những ưu điểm thuận lợi cho
quá trình phát triển nền kinh tế của Tổ quốc. Nền kinh tế thị trường Việt Nam định hướng xã
hội chủ nghĩa sở hữu cho mình 6 ưu điểm.
Thứ nhất, mục đích của nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế,
nâng cao đời sống xã hội bằng những sự thay đổi về cơ sở vật chất, xóa đói, giảm nghèo.
Thứ hai, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực hiện chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất chủ yếu, khác biệt căn bản với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa lấy tư
hữu về tư liệu sản xuất.
Thứ ba, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta thực hiện đa hình thức sở hữu
(toàn dân, tập thể, tư nhân, hỗn hợp), từ đó hình thành nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài…
Thứ tư, kinh tế thị trường ở nước ta có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đóng vai trò như một chiếc cầu nối giữa tầng lớp giàu vào nghèo,
giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền.
Thứ năm, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực hiện nhiều hình thức
phân phối, trong đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời
có sự kết hợp các hình thức phân phối khác (theo vốn, theo phúc lợi xã hội, theo tài năng
đóng góp...).
Thứ sáu, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta phát triển theo hướng
đa phương hóa, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế đối ngoại, gắn thị trường trong nước với
thị trường khu vực và thế giới, thực hiện những cam kết và thông lệ quốc tế, đồng thời giữ
vững độc lập chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc trong quan hệ đối ngoại.

1.3.2. Nhược điểm


Tuy rằng, mục tiêu của Nhà nước Việt Nam là tạo nên một môi trường kinh tế cạnh tranh
công bằng, lành mạnh nhưng Chính phủ Việt Nam chưa thật sự làm được như thế. Thành
phần kinh tế tư nhân chưa có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn vốn, đất đai, thông tin cũng như
thị trường khác. Trong khi đó, thành phần kinh tế nhà nước lại đang được ưu ái quá mức, sở
hữu nhiều nguồn lực nhưng không biết tận dụng triệt để. Đáng buồn hơn nữa, những người
đứng đầu dường như không phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào khi đưa ra những dự luật thiếu
tính thực tiễn, không phù hợp với tình hình của quốc gia. Một nhược điểm khác chính là hệ
thống pháp luật của Việt Nam còn nhiều lỗ hổng và thiếu hoàn thiện. Nhiều bộ Luật liên tiếp
được đưa ra nhưng không bao lâu đã phải chỉnh sửa cho thấy sự thiếu kỹ càng trong khâu
chuẩn bị và cũng có không ít Luật được ban hành nhưng lại không thể áp dụng vào thực tiễn.

2. Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa

2.1. Khái niệm về Nhà nước, Nhà nước Xã hội Chủ nghĩa:
Trong lịch sử loài người, sau giai đoạn cách mạng tháng Mười Nga năm 1917. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa trải qua nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Vậy sự hình thành và phát triển
của nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ như thế nào theo quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin?

8
Sự phát triển của thời đại cùng với sự của các chế độ giai cấp đã dẫn đến sự hình thành của
nhà nước. Khái niệm “nhà nước” đã tồn tại qua hàng chục thế kỷ trước và ta hiểu “ nhà nước”
là một tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị, một bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế
và thực hiện các chức năng quản lý đặc biệt nhằm duy trì trật tự xã hội với mục đích bảo về
địa vị của giai cấp thống trị trong xã hội. Qua quá trình đấu tranh giai cấp đã dẫn đến sự hình
thành “nhà nước XHCN”. “Nhà nước xã hội chủ nghĩa” là một kiểu nhà nước mà ở đó sự
thống trị chính trị thuộc về giai cấp công nhân, do cách mạng xã hội chủ nghĩa sản sinh ra và
có sứ mệnh xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, đưa nhân dân lao động lên địa vị làm chủ
trên tất cả các mặt cả đời sống xã hội trong một xã hội phát triển cao - xã hội xã hội chủ
nghĩa.

Sự hình thành của nhà nước XHCN bắt nguồn từ khát vọng về một xã hội công bằng, dân
chủ, bình đẳng và bác ái đã xuất hiện từ lâu trong lịch sử. Xuất phát từ nguyện vọng của nhân
dân lao động muốn thoát khỏi sự áp bức, bất công, chuyên chế. Ước mơ xây dựng một xã hội
công bằng, dân chủ,những giá trị của con người được tôn trọng và bảo vệ, có điều kiện phát
triển năng lực,nhà nước xã hội chủ nghĩa ra đời là kết quả của cuộc cách mạng do giai cấp
công nhân và nhân dân lao động tiến hành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Vì thế vào
năm 1917 nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên ra đời đánh dấu cột mốc quan trọng cho sự tiếp
nối theo con đường XHCN. Công cuộc cải cách, đổi mới của Trung Quốc, Việt Nam thành
công, giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa đã là một thực tiễn sinh động để khẳng định:

“Việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở mỗi nước đều có hai vấn đề: Một là, nhận thức đúng
đắn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa xã hội khoa học; Hai là, vận dụng sáng tạo
những nguyên lý đó vào tình hình cụ thể của nước mình.”

2.2 Chức năng và nhiệm vụ của nhà nước XHCN:

2.2.1. Chức năng của nhà nước XHCN:


Tùy theo góc độ tiếp cận, nhà nước xã hội chủ nghĩa sẽ có những chức năng chính dựa theo:
phạm vi tác động quyền lực nhà nước đó là chức năng đối ngoại và chức năng đối nội, phạm
vi lĩnh vực tác động của nhà nước theo kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... tính chất quyền
lực của nhà nước, chức năng của nhà nước được chia thành chức năng giai cấp và chức năng
xã hội.Phân tích sâu hơn về những chức năng trên sẽ cho ta hiểu rõ hơn về bản chất thật sự,
cách thức vận hành của một nhà nước xã hội chủ nghĩa.

Thứ nhất, chức năng đối nội của nhà nước XHCN trong công cuộc quản lý và xây dựng đất
nước theo con đường XHCN sẽ bao gồm:

Chức năng bảo đảm ổn định chính trị, an ninh, an toàn xã hội, bảo vệ các quyền và lợi ích cơ
bản của công dân,là chức năng đặc biệt quan trọng của nhà nước XHCN. Nội dung của chức
năng này như sau: Thông qua bộ máy cưỡng chế trong khuôn khổ pháp luật, nhà nước XHCN
sử dụng nhằm ổn định về mặt chính trị, kiên quyết loại trừ mọi hành vi biểu hiện cản trở sự
nghiệp đổi mới và làm sai lệch đường lối đổi mới đúng đắn của Đảng và nhà nước;trấn áp các

9
phần tử phản động có những hành vi chống đối chế độ, xâm phạm quyền tự do dân chủ và lợi
ích hợp pháp của công dân,….

Chức năng bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của công dân là chức năng có ý nghĩa quan trọng
của nhà nước XHCN. Bởi việc bảo vệ trật tự xã hội gắn liền với bảo vệ quyền và lợi ích của
công dân. Nhà nước XHCN đã ghi nhận quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong pháp
luật cũng như thực hiện các cơ chế được quy định trong pháp luật một cách hữu hiệu nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của công dân; tạo mọi điều kiện để công dân phát huy các
quyền tự do của mình và xử lý nghiêm minh mọi hành vi vi phạm quyền và lợi ích của công
dân. Trong chức năng tổ chức và quản lý kinh tế Nhà nước XHCN đóng vai trò là tổ chức
quyền lực chính trị, đại diện cho ý chí và lợi ích của nhân dân lao động; là người chủ đại diện
cho sở hữu toàn dân đối với các tư liệu sản xuất chủ yếu; có quyền quản lý, kiểm soát việc sử
dụng tài sản của quốc gia. Chính vì vậy, chức năng tổ chức và quản lý kinh tế là chức năng
cần thiết với nhà nước XHCN. Để thực hiện chức năng này, nhà nước XHCN phải nhận thức
đúng đắn quy luật khách quan của nền sản xuất xã hội và nền kinh tế thị trường và phân tích
thực trạng kinh tế – xã hội của đất nước và quốc tế. Từ đó, nhà nước XHCN xây dựng một
chiến lược đúng đắn và một cơ chế quản lý hợp lý với đội ngũ cán bộ công chức có năng lực
quản lý và kinh doanh. Tóm lại, chức năng tổ chức quản lý kinh tế của nhà nước gồm những
nội dung sau: Thứ nhất, xây dựng chiến lược, chương trình phát triển kinh tế làm định hướng
cho nền kinh tế quốc dân phát triển theo định hướng. Thứ hai, xây dựng và thực hiện các
chính sách tài chính, tiền tệ phù hợp và chính sách đầu tư hợp lý vào các chương trình, mục
tiêu, vùng, lãnh thổ,…. Thứ ba, áp dụng các biện pháp khuyến khích, bảo vệ sản xuất trong
nước, chống độc quyền,kinh doanh trái phép, tham nhũng, bảo vệ người tiêu dùng,…Thứ tư,
kết hợp với các biện pháp xử lý hành chính nghiêm minh mọi hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động kinh doanh nhằm quản lý kinh tế tốt hơn.

Chức năng quản lý văn hóa – xã hội phản ánh thuộc tính xã hội của nhà nước XHCN. Chuyển
sang nền kinh tế thị trường, các vấn đề như văn hóa, giáo dục, sức khỏe, việc làm,… cần phải
được giải quyết trong mối quan hệ với sự tăng trưởng kinh tế . Nội dung cơ bản của chức
năng này là:
Đầu tiên là chăm lo sự nghiệp giáo dục và đào tạo, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của
quốc gia. Sau đó, đảm bảo cho sự phát triển khoa học và công nghệ với vai trò then chốt
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bên cạnh đó tạo nhiều việc làm cho người lao
động, khuyến khích mở rộng sản xuất để thu hút nguồn lao động, khuyến khích đào tạo nghề,
….Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng và hệ thống quản lý chăm sóc sức khỏe cho công dân kết
hợp với xây dựng chính sách về lương, thuế hợp lý nhằm đảm bảo đời sống của người dân.
Thực hiện các biện pháp kiên quyết nhằm giải quyết tệ nạn xã hội.

Thứ hai, các chức năng đối ngoại đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc gìn giữ độc lập
chủ quyền cũng như là con đường giao lưu văn hóa, kinh tế với các nước trên thế giới.
Chức năng bảo vệ tổ quốc, củng cố quốc phòng để bảo vệ độc lập dân tộc là nhiệm vụ hàng
đầu của các nước XHCN. Bởi thông qua chức năng này nhằm mục đích bảo vệ chủ quyền
quốc gia, bảo đảm hòa bình ổn định đất nước. Nền quốc phòng của các nước XHCN mang
tính chất tự vệ. Tính chất đó thể hiện trong việc xây dựng các lực lượng vũ trang với đầy đủ

10
sức mạnh cần thiết và khả năng tác chiến cao sẵn sàng chống lại mọi âm mưu phá hoại, thế
lực phản động từ các thế lực đế quốc.
Bên cạnh đó chú trọng chức năng củng cố, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác với các
nước mục đích của chức năng này là nhằm mở rộng quan hệ hữu nghị, hợp tác quốc tế để góp
phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ. Nội dung của chức năng này gồm:
(1) Củng cố và tăng cường tính đoàn kết, hợp tác, tương trợ lẫn nhau giữa các nước trên
thế giới.
(2) Mở rộng mối quan hệ và hợp tác với các tổ chức quốc tế.
(3) Ủng hộ và góp phần tích cực vào phong trào đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa
bình, độc lập và dân tộc.

2.2.2. Nhiệm vụ của nhà nước XHCN:


Mọi nhà nước đều có chức năng giai cấp và chức năng xã hội. Giữa hai chức năng này luôn
có mối quan hệ biện chứng. Với Nhà nước xã hội chủ nghĩa, chức năng xã hội là thuộc tính
cơ bản nhất và quan trọng nhất. Thực hiện tốt chức năng xã hội là cơ sở, là điều kiện để Nhà
nước xã hội chủ nghĩa bảo đảm và giữ vững địa vị thống trị xã hội về phương diện chính trị,
đảm bảo quyền dân chủ cho nhân dân, xây dựng cơ sở để quyền làm chủ đó được thực hiện
trên thực tế. Những nhiệm vụ cơ bản thể hiện chức năng xã hội đó của Nhà nước hiện nay là:
thứ nhất, quản lý kinh tế, xây dựng và phát triển kinh tế, nhất là xây dựng cơ sở vật chất- kỹ
thuật CNXH gắn liền với cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thứ hai, quản lý
văn hóa- xã hội, xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, chăm lo cho sự
nghiệp giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khỏe của nhân dân, để hình thành con người mới
XHCN.

3. Vai trò của nhà nước đối với nền kinh tế thị trường định hướng chủ
nghĩa xã hội:
Nền kinh tế của Việt Nam tăng trưởng ngày một phức tạp nên sự can thiệp của Nhà nước
càng cần thiết để dẫn dắt thị trường phát triển theo hướng tích cực, khắc phục những hạn chế
của nền kinh tế thị trường, để phát triển một cách tốt nhất. Các nền kinh tế thị trường cũng
cần sự can thiệp và hỗ trợ của Nhà nước để không phát triển tự phát.

Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ sản xuất tiến bộ
phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều hình thức sở hữu, nhiều
thành phần kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một
động lực quan trọng của nền kinh tế; các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp
tác và cạnh tranh theo pháp luật; thị trường đóng vai trò chủ yếu trong huy động và phân bổ
có hiệu quả các nguồn lực phát triển, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các
nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù hợp với cơ chế
thị trường.

Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công

11
cụ, chính sách để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất kinh doanh và bảo vệ
môi trường; thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước, từng chính sách phát triển.
Phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.

Nhà nước thể hiện vai trò quản lý ở những điểm sau:

3.1. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý nền kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là
công cụ và phương tiện cơ bản để xây dựng được một chế độ xã hội “dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh” trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đậy là một kiểu quan hệ giữa người với người trong sản xuất và kinh doanh nên dấu
ấn của quan hệ xã hội và của thể chế chính trị của nền kinh tế đó vẫn được nó mang đậm. Sự
phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay đang bị chi phối và phục vụ cho định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Đường lối, quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng Cộng sản cầm quyền là nhân tố cốt lõi
đảm bảo định hướng chính trị kinh tế. Song, để những nhân tố này được hiện thực hóa thành
cơ chế vận hành của nền kinh tế, chúng phải trở thành một hệ thống pháp luật, chương trình,
kế hoạch phát triển kinh tế- xã hội và được triển khai bằng Nhà nước. Sau đó, chúng phải
được thông qua và dưới quản lý của Nhà nước do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Dựa
vào đó cho thấy Nhà nước có tác động trực tiếp nhất tới việc định hướng sự vận động của
kinh tế thị trường.
Pháp luật, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của nhà nước thể hiện cả tính
khách quan và chủ quan. Khách quan ở chỗ chúng chỉ đúng khi lấy quy luật thị trường làm cơ
sở, chúng phản ảnh đúng với yêu cầu phát triển của thị trường. Chúng mang tính chủ quan là
do chúng là sự thể chế hóa, cụ thể hóa mục tiêu chính trị của Đảng, ý chí của Đảng, Nhà nước
và Nhân dân ta.
Trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, định hướng chủ
quan được thể hiện ở chỗ song song với việc đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp thì một vấn
đề của tính nguyên tắc đồng hành cùng cùng đó là ưu tiên bảo vệ lợi ích hợp pháp, chính
đáng của người lao động. Ba lĩnh vực kinh tế cơ bản để sự ưu tiên đó được đảm bảo là “sở
hữu, quản lý, phân phối".
Bên cạnh đó, nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế sau khi nước ta trở thành thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO) đòi hỏi chúng ta tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính
Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực
để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, thực hành dân chủ, giữ
vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế.

3.2. Các nguồn lực do Nhà nước quản lý được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phù hợp cơ chế thị trường.
Với chủ trương phát triển đồng bộ và vững chắc thị trường tài chính, Nhà nước đã sử dụng
nhiều biện pháp tăng cường quản lý thị trường vốn, đảm bảo thị trường này vận hành thống
suốt, công khai và hiệu quả; nâng cao tính thanh khoản và tạo được những thay đổi căn bản
về thể chế, cấu trúc thị trường để tạo dựng nền tảng tài chính vững mạnh, đảm đương được

12
vai trò phân bổ nguồn lực xã hội hiệu quả, đồng thời đảm bảo ổn định tài chính để phát triển
bền vững.

Các chính sách, pháp luật của Nhà nước không những phải phản ánh đúng những nhu cầu
chung của xã hội, của chủ thể kinh tế mà còn phải tôn trọng tính đa dạng về nhu cầu, lợi ích
cụ thể của các chủ thể đó. Nhà nước có thể thông qua hệ thống luật pháp và thông qua sự lựa
chọn của mình để tác động đến sản xuất.

Đồng thời, thông qua thuế và các khoản chuyển nhượng để tác động đến khâu phân phối, từ
đó tác động đến việc phân bổ các nguồn lực của nền kinh tế. Kinh nghiệm của Việt Nam
trong những năm qua cho thấy để phân bổ nguồn vốn hiệu quả thì khâu đột phá là giải quyết
mối quan hệ Nhà nước và thị trường. Cho dù sự phân bổ các nguồn lực thuộc về Nhà nước thì
cũng phải tôn trọng các nguyên tắc của thị trường.

3.3. Nhà nước đóng vai trò định hướng, xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo môi
trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch.
Vai trò kinh tế của nhà nước là hướng tới mục tiêu chung, làm cho dân giàu, nước mạnh, tăng
trưởng ổn định và công bằng xã hội. Nhà nước góp phần đắc lực vào việc tạo môi trường cho
thị trường phát triển, như tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế cho sản xuất, lưu thông hàng hoá; tạo
lập sự phân công lao động theo ngành, nghề, vùng kinh tế qua việc Nhà nước dựa vào lợi thế
từng vùng, ngành và nhu cầu chung của xã hội mà tiến hành quy hoạch phát triển kinh tế.

Nhà nước cũng tạo điều kiện cho các chủ thể kinh tế được chủ động lựa chọn phương án sản
xuất, đối tác, thời điểm giao dịch và cách thức sản xuất mà các chủ thể cho là hiệu quả nhất
dựa trên điều kiện cụ thể của bản thân. Việc này khả thi vì Nhà nước là chủ thể trực tiếp sở
hữu, quản lý và khai thác những cơ quan truyền thông mạnh nhất của quốc gia, do đó có thể
cung cấp thông tin liên quan đến thị trường đến với các chủ thể kinh tế.

Sự định hướng nền kinh tế của nhà nước được thực hiện thông qua việc Nhà nước xây dựng
quy hoạch, chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội trong ngắn hạn, trung hạn và dài
hạn. Nhà nước tạo lập khung pháp lý cho hoạt động sản xuất, kinh doanh diễn ra một cách
hiệu quả như: hệ thống luật pháp đồng bộ, phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế; hệ
thống các văn bản hướng dẫn, các định chế, các chính sách phát triển kinh tế… để các chủ thể
kinh tế giảm thiểu rủi ro, tranh chấp.

Hệ thống pháp lý để chống lại gian lận đã được Nhà nước xây dựng bao gồm: hệ thống có
liên quan tới những quyền sở hữu, những điều luật về phá sản và khả năng thanh toán, hệ
thống tài chính với ngân hàng trung ương và các ngân hàng thương mại để giữ cho việc cung
cấp tiền mặt được thực hiện một cách nghiêm ngặt.

Đồng thời, Nhà nước sử dụng công cụ chiến lược, kế hoạch, luật pháp và chính sách làm căn
cứ cho hoạt động kiểm tra, kiểm soát, đánh giá đối với nền kinh tế để điều tiết các hành vi
ứng xử của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

13
Dựa trên việc nhận thức đúng đắn những yêu cầu của các quy luật trong nền kinh tế thị
trường, Nhà nước cụ thể hoá những yêu cầu đó thành luật, chính sách, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, xác định đúng bước đi để thực hiện hoá chúng. Đây là nhân tố có tác động
trực tiếp thúc đẩy nền kinh tế thị trường vận động phù hợp với quy luật nội tại của nó.

3.4. Nhà nước sử dụng các nguồn lực của Nhà nước và công cụ, cơ chế, chính sách để
định hướng, điều tiết nền kinh tế, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội trong từng bước,
từng chính sách phát triển.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, bên cạnh sự phát triển
tất yếu của xã hội là sự xuất hiện của phân hoá giàu nghèo ngày càng tăng. Để hạn chế sự
phân hoá này, Nhà nước cần phải có những biện pháp phân phối lại của cải xã hội và gia tăng
phúc lợi xã hội.

Để bảo đảm phúc lợi gày một gia tăng, Nhà nước cần tạo lập khung pháp lý để hoạt động sản
xuất, kinh doanh diễn ra một cách hiệu quả. Nhà nước thực hiện phân phối thu nhập quốc dân
một cách công bằng, thực hiện tăng trưởng kinh tế gắn với cải thiện đời sống nhân dân, với
tiến bộ và công bằng xã hội. Điều này thể hiện rõ rệt nhất tính định hướng xã hội của nền
kinh tế thị trường ở nước ta.

Về vấn đề thu nhập, Nhà nước có hai biện pháp:


(1) Điều tiết tăng thu nhập thực hiện thông qua trợ cấp, ưu đãi đối với người có công với
cách mạng; chính sách đối với người già, trẻ mồ côi không nơi nương tựa, người tàn
tật
(2) Điều tiết giảm thu nhập được thực hiện thông qua công cụ thuế: như thuế thu nhập cá
nhân; thuế thu nhập doanh nghiệp; mặt hàng xa xỉ, cao cấp việc tăng thuế sẽ góp phần
phân phối lại một bộ phận thu nhập trong xã hội.

Về vấn đề an sinh xã hội, Nhà nước có vai trò quyết định trong việc nâng cao phúc lợi công
cộng, xoá đói, giảm nghèo. Các vấn đề như việc làm, sức khoẻ, bảo hiểm y tế, lương hưu, trợ
cấp khó khăn… luôn là những vấn đề rất cần đến sự quan tâm của Nhà nước.

TIỂU KẾT:
Không thể nhanh chóng hình thành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà
nước đóng góp một vai trò to lớn trong việc bảo đảm sự ổn định vĩ mô cho sự phát triển và
tăng trưởng của nền kinh tế. Tính đúng đắn, hợp lý và kịp thời của việc hoạch định và năng
lực tổ chức thực hiện các chính sách vĩ mô do Nhà nước đảm nhiệm là điều kiện tiên quyết
hình thành sự cân đối, hài hòa các quan hệ nhu cầu, lợi ích giữa người và người, tạo ra sự
đồng thuận xã hội vì mục tiêu phát triển đất nước. Việc tăng cường quản lý vĩ mô sẽ nâng cao
hiệu quả tác động của Nhà nước tới sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế.

14
CHƯƠNG 3. CÁC ĐẶC ĐIỂM CỦA KINH TẾ HÀNG HÓA Ở NƯỚC TA
HIỆN NAY

1. Kinh tế hàng hóa là gì?


Kinh tế hàng hoá là mô hình kinh tế được thực hiện bên ngoài thị trường thông qua hàng hoá
và dịch vụ. Đây là nền kinh tế có sự phân công lao động giữa người mua và người bán, vận
động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.

Ví dụ: A sản xuất được nhiều gạo và B sản xuất được nhiều rau, A đổi gạo cho B để lấy rau
và ngược lại. Sản phẩm gạo và rau ở đây chính là hàng hóa được trao đổi. Nền kinh tế hình
thành trên sự trao đổi này chính là kinh tế hàng hóa. Đây là hình thức trái ngược với hình
thức tự cung tự cấp, tự sản xuất và tự tiêu dùng của chúng ta.

Nền kinh tế hàng hóa là sự phát triển cao hơn một bậc so với nền kinh tế tự cung tự cấp. Nền
kinh tế tự cung tự cấp không có sự trao đổi hàng hóa, ai làm bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Sản
xuất hàng hoá tồn tại và tiếp tục phát triển ở nhiều xã hội là sản phẩm của lịch sử phát triển
sản xuất của loài người. Do đó, nền kinh tế hàng hóa có nhiều ưu điểm và là một loại hình
hoạt động kinh tế tiên tiến hơn nhiều. So với sản xuất tự cung tự cấp, nền kinh tế hàng hóa
sản xuất theo chiều sâu, hợp tác chặt chẽ hơn. Để trao đổi và mua bán được, ta cần sản xuất
hàng hóa, điều này làm thúc đẩy sự phát triển của xã hội. Từ đó mà sản xuất hàng hóa đem lại
giá trị, lợi nhuận.

2. Điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hóa

2.1. Có sự phân công lao động xã hội:


Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động xã hội ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất
khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hoá lao động và theo đó là chuyên môn hoá sản xuất thành
những ngành nghề khác nhau. Do có sự phân công lao động xã hội, mỗi người chỉ sản xuất
một thứ hoặc vài thứ sản phẩm. Song, nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều thứ khác nhau, để
thoả mãn nhu cầu đòi hỏi cần có sự trao đổi sản phẩm giữa họ với nhau.

2.2. Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế:


Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế của những người sản xuất là điều kiện đủ để hình thành
nên nền kinh tế hàng hoá. Trong lịch sử, tính tách biệt này do các quan hệ sở hữu khác nhau
về tư liệu sản xuất mà khởi thuỷ là chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất quy định. Sau đó, trong
điều kiện sản xuất lớn cùng với sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, thì sự tách
biệt kinh tế giữa những người sản xuất, giữa các doanh nghiệp thuộc cùng một chế độ sở hữu
mang tính tự chủ kinh doanh quy định. Chính do quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản
xuất, về sản phẩm lao động và những hình thức tách biệt khác về mặt kinh tế và lợi ích đã
làm cho lao động của người sản xuất mang tính chất là lao động tư nhân, làm cho sản xuất và
tái sản xuất của họ tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, khi muốn tiêu dùng
sản phẩm của nhau họ phải thông qua mua - bán sản phẩm, tức là phải trao đổi dưới hình thái
hàng hoá.

15
3. Đặc trưng và tính ưu việt của kinh tế hàng hóa

3.1. Đặc trưng:


Gồm ba đặc trưng cơ bản như sau: Đầu tiên, sản xuất hàng hóa là để trao đổi và mua bán.
Thứ hai, lao động của sản xuất hàng hóa mang tính chất của tư nhân và xã hội. Thứ ba, mục
đích của sản xuất hàng hóa là lợi nhuận và giá trị, không phải giá trị sử dụng.

3.2. Tính ưu việt:


Sản xuất hàng hóa vẫn tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội, là sản phẩm của lịch sử phát triển
sản xuất của loài người. Bởi vậy nó có nhiều ưu thế, và là một cách hoạt động kinh tế tiến bộ
hơn so với sản xuất tự cấp tự túc. Thứ nhất, nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển và nâng
cao năng suất lao động trong xã hội. Thứ hai, nó đẩy mạnh quá trình xã hội hóa sản xuất,
phân công chuyên môn hóa sản xuất sâu sắc hơn và hợp tác chặt chẽ hơn, hình thành quan hệ
kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của con người để hình thành thị trường trong nước và cả
quốc tế. Và cuối cùng, nó làm tăng quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, là cơ sở thúc đẩy
dân chủ hóa, bình đẳng và tiến bộ của xã hội.

4. Các nhân tố của kinh tế hàng hóa

4.1. Khái niệm hàng hóa:


Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có giá trị có thể thỏa mãn nhu cầu nào đó của con người
thông qua trao đổi hay buôn bán và được lưu thông trên thị trường, có sẵn trên thị trường.
Theo định nghĩa trong kinh tế chính trị Marx-Lenin, hàng hóa là sản phẩm của lao động
thông qua trao đổi, mua bán. Hàng hóa có thể là hữu hình như sắt thép, quyển sách hay ở
dạng vô hình như sức lao động. Karl Marx định nghĩa hàng hóa trước hết là đồ vật mang
hình dạng có khả năng thỏa mãn nhu cầu của con người nhờ vào các tính chất của nó. Để đồ
vật trở thành hàng hóa cần phải có : Tính tiện ích, giá trị kinh tế và độ khan hiếm.

4.2. Thuộc tính của hàng hóa bao gồm giá trị và giá trị sử dụng:
Giá trị sử dụng của hàng hóa là công dụng của vật phẩm thỏa mãn nhu cầu nào đó của con
người. Ví dụ, công dụng của một căn nhà là để ở hay công dụng của một cây thước là đo một
thứ gì đó về kích thước, độ dài. Một hàng hóa có thể có một công dụng hay nhiều công dụng
nhưng nó chỉ có thể có một giá trị sử dụng duy nhất.
Giá trị của hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa.
Ví dụ như để có gạo chúng ta mua, trước đó là một quá trình gieo trồng giống lúa, nuôi nấng
chăm sóc. Trong sản phẩm là gạo đó có sự lao động kết tinh trong đó. Và bao gồm cả sự chi
phí về thời gian, sức lực và trí tuệ của con người khi sản xuất chúng.

4.3. Lợi nhuận:


Trong thực tế sản xuất kinh doanh, giữa giá trị hàng hóa và chi phí sản xuất có một khoảng
chênh lệch. Cho nên sau khi bán hàng hóa, nhà tư bản không những bù đắp đủ số chi phí đã
ứng ra mà còn thu được số chênh lệch bằng giá trị thặng dư. Số chênh lệch này C.Mác gọi là
lợi nhuận. Trong nền kinh tế hàng hóa, lợi nhuận chính là động cơ mạnh mẽ nhất. Các nhà

16
đầu tư kinh doanh, các tổ chức kinh doanh luôn coi lợi nhuận là động lực cũng như là mục
tiêu của sự phát triển.

5. Các quy luật cơ bản của kinh tế hàng hoá:

5.1. Quy luật giá trị:


Quy luật giá trị là một quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Theo quy luật này, sản xuất và trao đổi hàng hoá được thực hiện theo hao phí lao động xã hội
cần thiết. Những người sản xuất và trao đổi hàng hóa tuân theo mệnh lệnh của giá cả thị
trường. Sự hoạt động của quy luật giá trị được thể hiện thông qua sự vận động của giá cả thị
trường. Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị hàng hoá và trở thành cơ chế tác động
của quy luật giá trị. Cơ chế này phát sinh đã tác động lên thị trường thông qua cạnh tranh,
cung - cầu, sức mua của đồng tiền. Điều này đã lý giải vì sao khi trình bày quy luật kinh tế
chi phối hoạt động của sản xuất và lưu thông hàng hoá người ta chỉ trình bày quy luật giá trị-
một quy luật bao quát cả bản chất và các nhân tố cấu thành cơ chế tác động của nó.

Tác động của quy luật giá trị trong nền kinh tế hàng hoá:
Thứ nhất: Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hoá. Khi cung nhỏ hơn cầu, lượng sản phẩm
không đủ để thoả mãn nhu cầu xã hội, giá cả cao hơn giá trị, hàng hoá bán chạy với lãi cao,
người sản xuất mở rộng quy mô sản xuất, những người trước đây sản xuất hàng hoá khác nay
chuyển sang sản xuất hàng hoá này. Như vậy tư liệu sản xuất và sức lao động được chuyển
vào ngành này nhiều hơn các ngành khác. Khi cung lớn hơn cầu, sản phẩm làm ra quá nhiều
so với nhu cầu xã hội, giá cả thấp hơn giá trị, hàng hoá bán không chạy dẫn đến lỗ vốn. Với
tình hình đó, người sản xuất ở ngành này buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất hoặc chuyển
sang ngành khác, làm cho tư liệu sản xuất và sức lao động giảm đi ở ngành này và tăng ở
ngành khác mà họ thấy có lợi hơn.

Thứ hai: Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất nhằm tăng năng suất lao động. Các
hàng hóa được sản xuất ra trong những điều kiện khác nhau nên có giá trị cá biệt khác nhau,
nhưng trên thị trường thì các hàng hóa đều phải được trao đổi theo giá trị xã hội. Người sản
xuất có giá trị cá biệt nhỏ hơn giá trị xã hội ở thế có lợi sẽ thu được lợi nhuận siêu ngạch;
người sản xuất có giá trị cá biệt lớn hơn giá trị xã hội thì bất lợi. Muốn đứng vững trong cạnh
tranh và khỏi bị phá sản, họ phải tìm cách làm cho giá trị cá biệt của hàng hoá của mình nhỏ
hơn, hoặc bằng giá trị xã hội. Do đó, họ tìm cách cải tiến quản lý, cải tiến kỹ thuật, tăng năng
suất lao động. Lúc đầu, việc cải tiến đó còn lẻ tẻ, nhưng do cạnh tranh với nhau, nên cuối
cùng việc cải tiến mang tính xã hội. Rõ ràng, quy luật giá trị thông qua tác động này đã thúc
đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
Thứ ba: Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá giàu - nghèo giữa những người sản xuất
hàng hoá. Trong quá trình cạnh tranh chạy theo tư lợi cá nhân, những người sản xuất hàng
hoá khác nhau về điều kiện sản xuất, tính năng động, khả năng nắm bắt nhu cầu thị trường,
khả năng đổi mới kỹ thuật, công nghệ, hợp lý hoá sản xuất; do đó dẫn đến giá trị cá biệt của
hàng hoá khác nhau, phù hợp với nhu cầu xã hội và thị trường khác biệt. Trong điều kiện đó
không tránh khỏi tình trạng một số người giàu lên nên mua sắm thêm tư liệu sản xuất, mở
rộng sản xuất - kinh doanh, còn một số người khác bị thua lỗ, phải thu hẹp sản xuất, thậm chí

17
bị phá sản, trở thành người nghèo. Tình trạng đầu cơ tích trữ, khủng hoảng kinh tế, lừa đảo
làm tăng thêm tác động phân hoá này. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải có sự điều tiết để hạn chế sự phân hoá giàu -
nghèo.

5.2. Quy luật cạnh tranh:


Cạnh tranh là động lực, là một trong những nguyên tắc cơ bản, tồn tại khách quan và không
thể thiếu được của sản xuất hàng hoá. Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh về kinh tế giữa
các chủ thể tham gia sản xuất - kinh doanh với nhau nhằm giành những điều kiện thuận lợi
trong sản xuất - kinh doanh, tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ để thu được nhiều lợi ích nhất cho
mình. Mục tiêu của cạnh tranh là giành lợi ích, lợi nhuận lớn nhất, bảo đảm sự tồn tại và phát
triển của chủ thể tham gia cạnh tranh. Cạnh tranh bao gồm việc cạnh tranh chiếm các nguồn
nguyên liệu, giành các nguồn lực sản xuất; cạnh tranh về khoa học và công nghệ; cạnh tranh
để chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, giành nơi đầu tư, các hợp đồng, các đơn đặt hàng; cạnh
tranh bằng giá cả và phi giá cả, bằng chất lượng hàng hoá, dịch vụ, bằng những dịch vụ lắp
đặt, bảo hành, sửa chữa, bằng phương thức thanh toán, bằng các thủ đoạn kinh tế và phi kinh
tế... Cạnh tranh có nhiều loại: cạnh tranh giữa người mua và người bán, cạnh tranh giữa
người bán với nhau hoặc giữa người mua với nhau; cạnh tranh trong nội bộ ngành, cạnh tranh
giữa các ngành, cạnh tranh trong giới hạn quốc gia và quốc tế.

5.3. Quy luật cung cầu:


Cầu là khối lượng hàng hoá và dịch vụ mà người tiêu dùng mua trong một thời kỳ tương ứng
với giá cả, thu nhập và các biến số kinh tế xác định. Người tiêu dùng ở đây bao gồm dân cư,
các doanh nghiệp nhà nước và cả người nước ngoài. Tiêu dùng bao gồm cả tiêu dùng sản
xuất và tiêu dùng cá nhân. Lượng cầu phụ thuộc vào các nhân tố chủ yếu như: thu nhập, sức
mua của tiền tệ, giá cả hàng hoá, lãi suất, thị hiếu của người tiêu dùng... Trong các nhân tố
đó, giá cả hàng hoá là nhân tố tác động trực tiếp và tỉ lệ nghịch với lượng cầu. Giá cả hàng
hoá cao thì cầu về hàng hóa đó thấp, ngược lại giá cả hàng hóa thấp lượng cầu sẽ cao.

Cung là khối lượng hàng hóa dịch vụ mà các chủ thể kinh tế đem bán ra trên thị trường trong
một thời kỳ nhất định, tương ứng với mức giá cả, khả năng sản xuất, chi phí sản xuất xác
định. Lượng cung phụ thuộc vào khả năng sản xuất, vào số lượng và chất lượng các nguồn
lực, các yếu tố sản xuất được sử dụng, năng suất lao động và chi phí sản xuất. Giá cả của
hàng hoá và dịch vụ trên thị trường là yếu tố trực tiếp ảnh hưởng tới lượng cung về hàng hoá
và dịch vụ đó. Cung tỷ lệ thuận với giá. Giá cả cao thì cung lớn và ngược lại, giá cả thấp thì
cung giảm.

Quan hệ giữa cung và cầu là quan hệ giữa những người bán và những người mua, giữa những
người sản xuất và những người tiêu dùng; là những quan hệ có vai trò quan trọng trong kinh
tế hàng hoá. Không phải chỉ có giá cả ảnh hưởng tới cung và cầu, mà quan hệ cung- cầu ảnh
hưởng tới việc xác định giá cả trên thị trường. Khi cung lớn hơn cầu, người bán phải giảm
giá, giá cả có thể thấp hơn giá trị hàng hoá. Khi cung nhỏ hơn cầu, người bán có thể tăng giá,
giá cả có thể cao hơn giá trị. Khi cung bằng cầu, người bán sẽ bán hàng hoá theo đúng giá trị,
giá cả bằng giá trị.

18
6. Đặc điểm sản xuất hàng hóa tại Việt Nam:
Nước ta từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu cùng với lực lượng sản xuất chưa phát triển đã
trở thành một chủ nghĩa xã hội. Vì nền kinh tế nước ta đã bỏ qua giai đoạn tư bản chủ nghĩa
nên nền sản xuất hàng hoá của ta không giống với nền sản xuất hàng hoá của các nước khác
trên thế giới với những đặc trưng tiêu biểu:

6.1. Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế hàng hoá
kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang một nền kinh tế hàng hoá phát triển
từ thấp đến cao.
Nước ta xuất phát từ một nền kinh tế tiêu điều và suy tàn: Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội
kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh
tranh gần như không có và đội ngũ nhà doanh nghiệp tầm cỡ thiếu trầm trọng. Bên cạnh đó,
nguồn thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của tầng lớp nông dân thấp kém
khiến dung lượng hàng hoá trên thị trường có sự thay đổi rất chậm chạp dẫn đến khả năng
cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường nước ta thấp đáng kể. Từ đó, nước ta buộc phải có
một chiến lược phát triển để vượt qua thực trạng của nền kinh tế lúc bấy giờ, đồng thời đưa ra
hướng đi đúng đắn để thúc đẩy nền kinh tế hàng hoá phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng
và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta.

6.2. Nền kinh tế hàng hoá nước ta dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần.
Từ thực trạng nền kinh tế hàng hoá kém phát triển do nhiều nhân tố. Song, nhân tố gây hậu
quả nặng nề và trầm trọng nhất là sự nhận thức không đúng đắn dẫn đến việc nôn nóng xoá
bỏ nhanh các thành phần kinh tế, thực chất là xóa bỏ điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế
hàng hoá, làm mất khả năng cạnh tranh và tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hoá. Nền
kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền kinh
tế vượt khỏi thực trạng thấp kém. Việc hiện nay Đảng ta đan xen giữa thành phần kinh tế cũ
và thành phần kinh tế mới là một điều tất yếu, tạo điều kiện để phát triển và nâng cao tính
hiệu quả nền kinh tế hiện nay. Gần đây, cơ cấu ngành theo hướng kinh tế dịch vụ đang dần
chiếm ưu thế cao trong nền kinh tế hàng hoá, đã và đang thu hút một số lượng lớn lao động.
Từ đó, cơ cấu công - nông nghiệp và dịch vụ sớm hình thành theo định hướng chuyển dịch
kinh tế mà Đại hội Đảng VIII đã đề ra: “Nhiệm vụ đề ra cho chặng đường đầu của thời kỳ
quá độ là chuẩn bị những tiền đề cho công nghiệp hoá đã cơ bản hoàn thành cho phép chuyển
sang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.” Điều đó không chỉ đảm bảo
cho mọi người, mọi doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh theo
pháp luật và được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp mà còn làm
cho các chủ thể kinh tế được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác cạnh tranh và bình đẳng
trước pháp luật.

6.3. Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu kinh tế “mở” giữa nước ta với các nước khác trên
thế giới.
Trước kia với cơ cấu kinh tế “khép kín”, với tình trạng “bế quan toả cảng”, luẩn quẩn sau luỹ
tre làng, nền kinh tế nước ta lâm vào bế tắc, suy tàn và kém phát triển và cũng có thể nói là
lạc hậu nhất thế giới. Vì vậy, sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa đã gắn kết
giữa nền kinh tế thị trường dân tộc ta và nền kinh tế thị trường thế giới. Do sự phân bố rải rác

19
và phát triển không đồng đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa các
nước dẫn đến nhu cầu khách quan để đạt được hiệu quả cao và phát triển nhanh của nền kinh
tế là mở cửa và trao đổi hàng hóa giữa các nước.

6.4. Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa với vai trò chủ đạo
của kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Kinh tế nhà nước chính là "công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh
tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các
khuyết tật của cơ chế thị trường". Chính vì thế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tiếp cận những công nghệ mới hiện đại,
tiên tiến phục vụ cho hoạt động sản xuất.

Bên cạnh những mặt tích cực, điều làm thay đổi bộ mặt nhà nước chính là những điểm khuyết
nhất định về mặt xã hội như: phá sản, khủng hoảng, áp bức bất công,phân hoá giàu nghèo …
dẫn đến xã hội phát sinh nhiều điều tiêu cực, tệ nạn xã hội kéo dài triền miên gắn liền với
hiện trạng kinh tế sa sút. Việc kinh tế hóa mọi thứ dưới sự quản lý của Nhà nước đã dẫn đến
những bất công cho các cửa hàng, công ty tư nhân. Chính vì điều đó, mà một số nhà sản xuất
đã lạm dụng và sản xuất ra những sản phẩm kém chất lượng mặc sức khỏe của người tiêu
dùng. Ở Việt Nam, hiện trạng về các “làng ung thư” xuất hiện ngày càng nhiều. Điển hình
như vụ việc, Phòng Cảnh sát phòng chống tội phạm về môi trường (PC49) kiểm tra cơ sở chế
biến mỡ tại Đồng Tử 3, phường Phù Liễn, quận Kiến An do ông Nguyễn Văn Trọng làm chủ
đã phát hiện hàng nghìn lít dầu mỡ bẩn chứa trong 20 phi loại 200 lít, cùng hàng trăm
kilogam các loại tóp mỡ, mỡ nguyên liệu bốc mùi hôi thối. Khu vực nhà xưởng cùng các loại
máy móc dụng cụ cũng nhầy nhụa, hôi thối… Những lô hàng như thế đã được sản xuất mỗi
ngày. Chính vì vậy cần phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước để ngăn chặn “những đường
dây” buôn bán những sản phẩm kém chất lượng như vậy. Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu dài
của cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu, bao cấp nên những công cụ để Nhà nước điều
hành vĩ mô nền kinh tế hàng hoá như : hệ thống ngân hàng, tín dụng … vẫn còn thấp kém.
Trình độ hiểu biết của nhà nước về cơ chế thị trường còn nhiều hạn chế, thiếu tính khoa học,
thực tế còn lúng túng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện đó xu hướng vận động
khách quan của nước ta trước mắt và lâu dài là phấn đấu nâng cao năng lực và tăng cường
các công cụ và do đó nâng cao trình độ quản lý vĩ mô của nhà nước. Từ định hướng đó Đảng
đã kiên định chiến lược phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mà nhà nước là
của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết định nhất đảm bảo tính
định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau hơn mười năm đổi mới ta đã đạt được một số thành tựu
đáng kể bằng cách tạo ra các công cụ về pháp luật kế hoạch, thiết chế về tài chính, tiền tệ và
những phương tiện vật chất khác. Nhà nước tạo điều kiện khuyến khích, phát huy những mặt
tích cực của kinh tế hàng hoá, ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và các khuyết tật của cơ chế thị
trường.

20
7. Thực trạng sản xuất hàng hóa của Việt Nam:

7.1. Ưu điểm:
Thứ nhất, nguồn lao động của nước ta đa dạng, phong phú. Năm 2010 có trên 60% người
Việt Nam trong độ tuổi lao động (15-64 tuổi). Giai đoạn 2011-2020, lực lượng lao động Việt
Nam tăng trưởng 1% mỗi năm, đạt mức 47,82 triệu người năm 2011, 50,4 triệu người năm
2015 và 53,15 triệu người năm 2020. Với mức tăng trưởng nguồn lao động hiện nay thì mỗi
năm Việt Nam có khoảng trên 1 triệu người lao động. Thứ hai, nước ta có lực lượng lao động
cần cù, chăm chỉ, thông minh, sáng tạo, kinh nghiệm làm việc phong phú gắn chặt với truyền
thống dân tộc và tích lũy qua nhiều thế hệ. Thứ ba là do giá nhân công thấp, tạo điều kiện
thuận lợi cho giá thành sản phẩm của doanh nghiệp Việt Nam rẻ hơn so với các quốc gia
khác. Cuối cùng là nhờ vào nguyên vật liệu dồi dào, đặc biệt là nguyên liệu phục vụ cho
ngành chế biến thực phẩm, vật liệu công nghiệp... Như vậy, nếu biết tận dụng sẽ giảm đáng
kể chi phí mua nguyên liệu. Giảm chi phí sản xuất sẽ góp phần giảm giá bán của hàng hoá và
qua đó khiến cho hàng hoá có được sức cạnh tranh về giá.

7.2. Nhược điểm:


Nước ta có nguồn nhân lực rất dồi dào, song chất lượng còn thấp, phần lớn là lao động phổ
thông và tác phong công nghiệp còn lạc hậu. Năm 2010, có khoảng 19,5 triệu lao động Việt
Nam đang làm tại những ngành nghề không yêu cầu trình độ chuyên môn hoặc chuyên môn
thấp. Phần lớn các doanh nghiệp đang phải tổ chức dạy nghề cho công nhân. Công nhân
không lành nghề dẫn đến chất lượng sản phẩm kém, năng suất lao động không cao và lượng
sản phẩm trong cùng một đơn vị thời gian không nhiều. Bên cạnh đó, tốc độ chuyển giao
công nghệ và trang thiết bị tương đối chậm chạp, không đồng bộ và theo một chiến lược phát
triển rõ ràng. Phần lớn các doanh nghiệp của nước ta đang dùng công nghệ tụt hậu so với
nhiều nước trên thế giới. 80-90% công nghệ nước ta đang áp dụng là công nghệ ngoại nhập,
76% máy móc và dây chuyền công nghệ nhập khẩu từ thập niên 50-60, 50% là đồ tân trang.
Từ đó dẫn đến sự lạc hậu về công nghệ và kỹ thuật sẽ làm giảm chất lượng sản phẩm, sự
không ổn định này gây nhiều hạn chế trong cạnh tranh về giá cho hàng hóa nước ta. Hơn nữa,
phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu nguyên vật liệu cho sản xuất. Ngay cả
các sản phẩm là thế mạnh của nước ta vẫn thì vẫn phải nhập nguyên liệu như Dệt may, da
giày, thực phẩm... bên cạnh đó, sự phụ thuộc vào tính chất bấp bênh của nguồn nguyên liệu
cũng gây ra sự không ổn định về giá cho nhiều sản phẩm

7.3. Biện pháp:


Từ những hạn chế trên cần phải có một số giải pháp cụ thể nâng cao năng lực cạnh tranh của
hàng hoá Việt Nam trên cả thị trường trong và ngoài nước, nhất là trong thời kỳ hội nhập như
hiện nay. Nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua giá của sản phẩm có nghĩa là doanh nghiệp
sẽ tìm biện pháp để nâng cao chất lượng sản phẩm, trong khi đó giá thành lại hạ. Muốn đạt
được kết quả trên, bản thân doanh nghiệp cần có những biện pháp như:
(1) Tăng mức độ phức tạp của lao động để tạo ra nhiều sản phẩm chất lượng tốt nhằm
phục vụ nhu cầu người tiêu dùng.

21
(2) Tăng năng suất lao động để sản phẩm làm ra theo một đơn vị thời gian được nhiều
hơn, giá bán hàng hoá khi đó cũng sẽ giảm xuống.
(3) Đa dạng hóa, hiện đại hóa kết hợp ứng dụng khoa học - công nghệ vào quá trình sản
xuất.
(4) Tiến hành tổ chức lại quản lý, thực hiện đầu tư đổi mới đi đôi với quá trình tiếp thu
công nghệ mới và đồng bộ.
(5) Tận dụng tối đa và có hiệu quả các điều kiện tự nhiên và nguồn lợi từ các yếu tố về tư
liệu sản xuất để nâng cao năng suất doanh nghiệp.
(6) Mở rộng phạm vi sản xuất và tối đa hoá hiệu suất của tư liệu sản xuất.

8. Những thành tựu kinh tế mà nước ta đạt được từ những năm đổi mới
đến nay:
Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng cơ bản và quan trọng cho đường lối phát
triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Từ nền
kinh tế bao cấp trì trệ bị bao vây cấm vận, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, nền kinh tế nước ta đã có nhiều bước tiến mạnh mẽ, tạo tiền đề cho giai đoạn
phát triển mới của đất nước:
Một là, đưa đất nước thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế- xã hội, nền kinh tế tăng trưởng
nhanh, cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường, đời sống nhân dân được cải thiện.
Hai là, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
gắn liền với sản xuất với thị trường.
Ba là, chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được thực hiện có hiệu quả, từ đó
phát huy ngày càng tốt tiềm năng của các thành phần kinh tế.
Bốn là, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
dần dần được hình thành.

9. Phương hướng phát triển hàng hoá của Việt Nam:

9.1. Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần sở hữu trên nền tảng công hữu.
Vì là một quốc gia đi theo con đường xã hội chủ nghĩa nên việc coi trọng công hữu là một
điều tất yếu. Nền tảng công hữu sẽ giúp chúng ta vừa phát triển được nền kinh tế thị trường
vừa phát triển được chính trị theo hướng xã hội chủ nghĩa.

9.2. Tập trung đào tạo lực lượng lao động có trình độ cao.
Tỷ lệ lao động thất nghiệp ở Việt Nam chiếm tỷ lệ phần trăm cao nên vì thế không đủ số
lượng để đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế. Vì vậy, nước ta cần mở rộng đào tạo lực
lượng lao động có trình độ cao chuyên môn sâu, thu hẹp hệ thống đào tạo đạo học cao đẳng
kém chất lượng

9.3. Phát triển các vùng kinh tế trọng điểm.


Việc xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm giúp ta tận dụng lợi thế từng vùng để phát triển
hợp lý. Hiện nay nước ta đã có tới 24 vùng kinh tế trọng điểm với các cách phát triển kinh tế
khác nhau. Đây là cách nhanh chóng sẽ giúp đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế của nước ta.

22
9.4. Hoàn thiện công tác quy hoạch, kế hoạch và đầu tư phát triển.
Công tác quy hoạch, kế hoạch, đầu tư phát triển là những công tác đóng vai trò quan trọng
điều tiết nền kinh tế. Hoàn thiện những công tác này sẽ giúp nền kinh tế có một chỗ dựa vững
chắc để đẩy nhanh phát triển nền kinh tế hàng hóa hơn.

9.5. Kiểm soát lạm phát và giá cả.


Giá cả ngày càng leo thang với con số không hợp lý do sự ảnh hưởng từ sự lạm phát của một
số nhà sản xuất. Nhà nước cần kiểm soát tình hình này. Đồng thời, áp giá những sản phẩm
với giá cả hợp lý để bảo vệ quyền lợi cho người dân, tránh tình trạng rớt giá xuống quá thấp.

9.6. Giải quyết vấn đề tiền lương.


Vấn đề về tiền lương vẫn là một trong những vấn đề hàng đầu của nền kinh tế nước nhà. Giải
quyết vấn đề tiền lương hợp lý sẽ giúp tăng sức lao động và kích cầu khiến nền kinh tế hàng
hóa phát triển. Đồng thời, có thể tạo điều kiện tiếp cận những nền sản xuất khác mà nước ta
còn chậm phát triển như là vũ trụ, thiên văn…

TIỂU KẾT:
Nhờ có quá trình phân tích và nghiên cứu về thực trạng cùng với xu hướng vận động nội tại,
trong sự hình thành và phát triển nền sản xuất hàng hóa của nước ta thì ta mới nhận thấy được
mối quan hệ mật thiết giữa các đặc điểm của nền sản xuất hàng hóa. Chính từ những đặc
điểm trên mà nước Việt Nam ta đã dần chuyển từ một đất nước thấp kém phát triển lên thành
một đất nước sử dụng lao động phổ thông cũng như công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại để tạo ra năng suất lao động xã hội. Đời sống vật chất càng ngày càng đầy
đủ cũng như đời sống tinh thần được cải thiện và ngày càng phong phú.

KẾT LUẬN
Sau gần hai thập kỷ cải cách kinh tế, Việt Nam đã có những bước tiến lớn về cơ cấu và định
hướng. Những thành tựu mà chúng ta đạt được là rất đáng ghi nhận, nhưng cũng cần phải
thấy rằng chúng ta cần cố gắng, có nhiều đột phá để sánh ngang với các nước khác. Như
Trung Quốc, họ đã cùng nhau xây dựng “nền kinh tế thị trường mang màu sắc Trung Quốc”.
Vậy thì khi nào một “nền kinh tế thị trường mang màu sắc Việt Nam” sẽ xuất hiện ở Việt
Nam? Đây là một câu hỏi lớn được đặt ra cho cả một đất nước nước, của các thế hệ hôm nay
và mai sau.

Là sinh viên của trường Đại học Quốc tế, chúng em ý thức được trách nhiệm của mình đối
với sự phát triển kinh tế của đất nước, trong phạm vi hiểu biết của mình, chúng em xin được
đúc kết những bài học kinh nghiệm qua những nghiên cứu trên:

Quá trình kích thích nền kinh tế phát triển vận hành theo cơ chế thị trường đòi hỏi phải có sự
phát triển đồng thời của tất cả các thành phần của nền kinh tế. Bảo đảm thành phần kinh tế
quốc dân giữ vai trò chủ đạo, phát triển không chệch hướng xã hội chủ nghĩa.

23
Nhà nước không ngừng nâng cao hiệu quả hoạt động, bảo đảm thị trường trong nước ổn định,
thu hút và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư nước ngoài. Những kẻ lợi dụng chức vụ, tham ô tài
sản nhà nước sẽ bị nghiêm trị. Chúng ta cần đào tạo đội ngũ các nhà quản lý doanh nghiệp có
trình độ cao, kỹ năng quản lý tốt, có đạo đức và tư cách tốt. Việc nghiên cứu chủ đề này sẽ
giúp chúng ta mở mang tầm hiểu biết, có thêm nhiều kiến thức về nền kinh tế nước nhà. Đặc
biệt đối với chúng em, những sinh viên theo học tại Đại học Quốc tế và là một công dân Việt
Nam, điều đó có ý nghĩa rất lớn.

Chúng em xin kết thúc đề tài nghiên cứu tại đây, một lần nữa xin cảm ơn thầy đã giảng dạy
bộ môn Kinh tế chính trị và đã giúp chúng em hoàn thành đề tài này thông qua những tiết học
bổ ích trên giảng đường.

Tài liệu tham khảo:


1. PGS. TS. Vũ Văn Hà (2021), Quan hệ nhà nước và thị trường trong nền kinh tế: một
số vấn đề lý luận và thực tiễn
2. Tiểu luận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
(2013)
3. Tiểu luận: Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường
4. Tiểu luận: Phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội
5. ThS. Đoàn Thị Vân Thúy - Phó trưởng phòng Nghiên cứu khoa học - Thông tin - Tư
liệu (2017), Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay
6. Phạm Ngọc Quang (2009), Vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
7. TS. Nguyễn Phước Tài - Ths. Thái Ngọc Như Quỳnh (2022), Vai trò của Nhà nước
trong hình thành và điều tiết kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam
8. DNSE Team (2022)
9. Luật sư Nguyễn Văn Dương (2022), Kinh tế thị trường định hướng XHCN
10. Nguyễn Phú Trọng (2007), Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan
niệm và giải pháp phát triển

24
11. PGS. Ths Vũ Thanh Sơn (2021), Thực hiện quan hệ phân phối trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
12. Nguyễn Nam (2022), Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa
13. PGS. TS. Vũ Văn Hà (2021), Quan hệ nhà nước và thị trường trong nền kinh tế: một
số vấn đề lý luận và thực tiễn
14. Trần Anh Tuấn, Khái quát chung về hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay
15. PGS.TS Vũ Văn Phúc (2020), Kinh tế nhiều thành phần trong nền kinh tế quá độ lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta
16. Đại tá, TS. Nguyễn Hữu Hoạt (2022), Tính ưu việt của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
17. Toploigiai, Khái niệm, bản chất, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Phương hướng cải cách nhà nước ở nước ta hiện nay?
18. Luật sư Tô Thị Phương Dung (2022), Kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa là gì ? Tìm
hiểu về kiểu nhà nước xã hội chủ nghĩa
19. Wikipedia, Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
20. Trường Đại học Thương Mại (2021-2022), Bài thảo luận chủ nghĩa xã hội khoa học
đề tài nhà nước xã hội chủ nghĩa
21. Tạp chí triết học (2018), Chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa và một số nhiệm
vụ cơ bản thể hiện chức năng xã hội của nhà nước ta
22. Cao Thị Thanh Thảo (2022), Kinh tế hàng hoá là gì? Mối quan hệ với kinh tế thị
trường
23. Lytuong.net Nền kinh tế nhiều thành phần là gì? Tính tất yếu khách quan của sự tồn
tại nền kinh tế nhiều thành phần; các lợi ích trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt
Nam; Các thành phần kinh tế ở nước ta hiện nay.
24. Tư liệu văn kiện Đảng cộng sản Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng
25. Luathoangphi Kinh tế nhà nước là gì ?
26. TS. Hoàng Thị Kim Oanh Khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước
27. 123docz.net Phân tích điều kiện ra đời và những ưu nhược điểm của sản xuất hàng
hoá
28. Th.s Nguyễn Văn Hậu Lý luận kinh tế hàng hoá của các Mác và liên hệ thực tế ở Việt
Nam
29. Văn Thịnh Chế biến dầu bẩn ( Ví dụ về nhược điểm nền kinh tế thị trường)
30. Studocu Phân tích những đặc điểm cơ bản của nền áp sản xuất hàng hoá và liên hệ ở
Việt Nam hiện nay
31. Dịch vụ viết luận văn Tiểu luận phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội

25
Nhóm 4
Nhóm trưởng: Hoàng Cẩm Diễm Nhi
Nhóm phó: Lê Tâm Anh
BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC
Công việc Nhiệm vụ Người thực hiện

Lời mở đầu Hoàng Cẩm Diễm Nhi

Cơ sở lý luận Ngô Thụy Lan Thanh

Vai trò của Nhà nước đối Huỳnh Thị Ngọc Giàu
với nền kinh tế thị trường Ngô Thụy Lan Thanh
XHCN Hà Thoại Yến

26
Soạn nội dung Lê Tâm Anh
Phân tích đặc điểm Kinh tế Trần Thị Ngọc Nga
Hàng hóa Ông Trúc Nghi
Đỗ Nguyễn Mỹ Uyên

Lời kết Hoàng Cẩm Diễm Nhi

Thiết kế bìa Ông Trúc Nghi

Kiểm tra và lọc ý Hoàng Cẩm Diễm Nhi


Trần Thị Ngọc Nga
Huỳnh Thị Ngọc Giàu

Powerpoint Lê Tâm Anh


Trần Thị Ngọc Nga

Thuyết trình và phản biện Cả nhóm

27

You might also like