You are on page 1of 25

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI

KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

TÊN ĐỀ TÀI:
TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH TRONG
HIẾN PHÁP 2013. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM.

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN

Học phần: Luật Hiến pháp Việt Nam


Mã phách:...…………………………..

Hà Nội - 2021
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................ 1

LỜI CÁM ƠN .................................................................................................. 1

PHẦN MỞ ĐẦU .............................................................................................. 2

PHẦN NỘI DUNG .......................................................................................... 3

1.1. Khái niệm về quốc phòng, an ninh quốc gia: ...................................... 3

1.2. Cơ sở lý luận về quốc phòng, an ninh quốc gia:.................................. 4

II. CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH QUÓC GIA THEO


HIẾN PHÁP 2013......................................................................................... 4

2.1. Chính sách quốc phòng theo Hiến pháp 2013: .................................... 5

2.2. Chính sách an ninh quốc gia theo Hiến pháp 2013: ............................ 6

III. TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÔNG DÂN


TRONG BẢO VỆ TỔ QUỐC ..................................................................... 7

3.1. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, công dân: ..................................... 7

3.2. Trách nhiệm của bản thân trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc: .............. 9

3.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ Tổ quốc: ..................................................... 10

IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM ............................................. 11

4.1. Thành tựu của nước ta. ...................................................................... 11

4.2. Hạn chế và khuyết điểm: ................................................................... 16

PHẦN KẾT LUẬN ........................................................................................ 18

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 23


LỜI CAM ĐOAN
Tôi thực hiện đề tài "Tìm hiểu chính sách quốc phòng và an ninh trong Hiến pháp
2013. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam". Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu của tôi trong thời gian qua. Tôi xin tự chịu trách nhiệm về thông tin tôi sử dụng
trong bài của mình.
Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2021

LỜI CÁM ƠN
Lời đầu tiên cho phép tôi được gửi lời cám ơn chân thành đến Giảng viên môn
Luật Hiến pháp Việt Nam đã trực tiếp giảng dạy, truyền đạt những kiến thức bổ ích
cho tôi trong suốt thời gian qua, đó sẽ là nền tảng cơ bản, là hành trang vô cùng quý
giá.

Trong quá trình làm đề tài, do kinh nghiệm và thời gian còn hạn chế nên không
tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự đóng góp của thầy cô để đề
tài được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cám ơn!

Hà Nội, ngày 10 tháng 8 năm 2021

1
PHẦN MỞ ĐẦU
Để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam, giữ vững an ninh quốc gia, Nhà nước ta chủ
trương: "… củng cố và tăng cường nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân
mà nòng cốt là lực lượng vũ trang nhân dân; phát huy sức mạnh tổng hợp của đất
nước để bảo vệ vững chắc Tổ quốc, góp phần bảo vệ hòa bình ở khu vực và trên thế
giới. Cơ quan, tổ chức, công dân phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng và an
ninh" (Điều 64 Hiến pháp năm 2013). Như vậy củng cố và tăng cường nền quốc
phòng toàn dân và an ninh nhân dân là phương châm để bảo vệ Tổ quốc và an ninh
quốc gia. Phương châm này bắt nguồn từ bản chất giai cấp của Nhà nước ta - Nhà
nước của dân, do dân và vì dân, cũng như từ thực tế của hàng nghìn năm dựng nước
và giữ nước của dân tộc ta. Với tư tưởng chỉ đạo: lấy dân làm gốc trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc và an ninh quốc gia. Vì vậy, nhà nước phải phát huy được sức mạnh
tổng hợp của toàn dân, của cả hệ thống chính trị, từng bước tăng cường tiềm lực
quốc phòng và an ninh của đất nước, xây dựng vững chắc nền quốc phòng toàn dân,
thế trận quốc phòng toàn dân gắn kết với nền an ninh nhân dân và thế trận an ninh
nhân dân. Đó là lí do tìm hiểu đề tài "Tìm hiểu về chính sách quốc phòng và an ninh
trong Luật Hiến pháp 2013". Nội dung chính của bài bao gồm:

I. Khái quát chung về chính sách quốc phòng và an ninh.


II. Chính sách quốc phòng và an ninh quốc gia theo Hiến pháp 2013.
III. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, công dân trong bảo vệ Tổ quốc.
IV. Liên hệ thực tiễn ở Việt Nam.

2
PHẦN NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT CHUNG
1.1. Khái niệm về quốc phòng, an ninh quốc gia:

Quốc phòng là hoạt động tổ chức và thực hiện các biện pháp phòng vệ của
một quốc gia, nhằm bảo vệ, ngăn chặn mọi nguy cơ xâm lược từ bên ngoài vào. Cơ
quan tối cao của nhà nước chuyên đặc trách các vấn đề quốc phòng là Bộ Quốc
phòng và Bộ trưởng Bộ Quốc phòng là chức vụ nắm giữ vai trò cao nhất.

An ninh quốc gia là sự ổn định, phát triển bền vững của chế độ xã hội chủ
nghĩa và Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, sự bất khả xâm phạm độc
lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.

3
1.2. Cơ sở lý luận về quốc phòng, an ninh quốc gia:

Lý luận về quốc phòng, quân sự là bộ phận rất quan trọng trong đường lối
cách mạng, được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm. Sinh thời, Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng lý luận và việc học tập lý luận của cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ và nhân dân. Người rất tâm đắc với câu nói nổi tiếng của V.I. Lê-nin:
“Không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”. Vì vậy, người
luôn đòi hỏi đội ngũ cán bộ, đảng viên phải nghiên cứu, học tập lý luận; không
được coi thường lý luận, phải biết vận dụng lý luận vào thực tiễn. Quán triệt sâu sắc
và thực hiện nghiêm túc quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về vai trò tiên phong
của lý luận cách mạng, Đảng ta, trực tiếp là Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng
luôn quan tâm, chăm lo công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu, phát triển lý luận
quốc phòng, quân sự nhằm cung cấp cơ sở khoa học để hoạch định chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo thế và lực mới để xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ hội nhập quốc tế.

Trong di sản lý luận vĩ đại của Lênin có học thuyết về xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa chứa đựng giá trị lịch sử và thực tiễn to lớn. Người đưa ra
luận điểm nổi tiếng về giữ vững an ninh chính trị sau khi nhân dân giành được
chính quyền. Người khẳng định: Một cuộc cách mạng chỉ có giá trị khi nào nó biết
tự bảo vệ; xây dựng Tổ quốc gắn với bảo vệ Tổ quốc là một quy luật khách quan;
kết hợp vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản với vai trò tổ chức, quản lý của Nhà
nước cách mạng là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp giữ vững an ninh
chính trị, an ninh quốc gia…

II. CHÍNH SÁCH QUỐC PHÒNG VÀ AN NINH QUÓC GIA THEO


HIẾN PHÁP 2013

4
2.1. Chính sách quốc phòng theo Hiến pháp 2013:

Là một trong những bộ phận hợp thành của lực lượng vũ trang nhân dân,
quân đội nhân dân trước hết phải tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, nhân dân, với
đảng.

Nhiệm vụ đầu tiên của quân đội là sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Quân đội phải là lực lượng
nòng cốt để bảo vệ đất nước khỏi sự xâm lược từ bên ngoài.
Ngoài nhiệm vụ chủ yếu là sẵn sàng chiến đấu bảo vệ độc lập, chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, quân đội nhân dân còn có nhiệm vụ bảo vệ an ninh
quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, đảng, nhà nước và chế độ. Là
công cụ của chuyên chính giai cấp, quân đội không chỉ trấn áp đối với kẻ thù bên
ngoài mà còn phải trấn áp đối với bọn phản cách mạng bên trong. Kinh nghiệm lịch
sử đã chỉ ra rằng: giữa thù trong và giặc ngoài luôn luôn cấu kết chặt chẽ với nhau
để chống phá cách mạng. Vì vậy, nền độc lập của dân tộc có được bảo đảm hay
không cũng phụ thuộc rất nhiều vào hoạt động trấn áp bọn phản cách mạng, trong
điều kiện hiện nay, khi các nước đế quốc đang âm mưu “diễn biến hoà bình” thì
nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia, đập tan mọi âm mưu bạo loạn lật đổ chính

5
quyền là một trong những nhiệm vụ của các lực lượng vũ trang nhân dân, trong đó
có quân đội.

Quân đội nhân dân còn có nhiệm vụ cùng toàn dân xây dựng đất nước và
thực hiện nghĩa vụ quốc tế. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc là hai
nhiệm vụ chiến lược có quan hệ mật thiết với nhau. Để thực hiện được những nhiệm
vụ trên, Nhà nước ta chủ trương xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy,
tinh nhuệ, từng bước hiện đại (Điều 66 Hiến pháp năm 2013). Trong những năm
qua, Nhà nước ta đã thực hiện một cuộc điều chỉnh chiến lược lớn, bố trí lại lực
lượng trên phạm vi cả nước, tạo ra thế trận phòng thủ họp lý, tăng cường khả năng
phòng thủ ở khu vực trọng điểm, từng bước xây dựng các khu vực phòng thủ tỉnh,
thành phố. Nhà nước ta đã chấn chỉnh một bước cơ bản về tổ chức, biên chế lực
lượng vũ trang đồng thời chú ý xây dựng lực lượng dự bị động viên và nâng cao
chất lượng dân quân tự vệ. Các xí nghiệp quốc phòng và các tổ chức làm kinh tế của
quân đội bước đầu chuyển sang thực hiện được kế hoạch hàng năm, góp phần bảo
đảm cho quốc phòng và tham gia xây dựng đất nước. Những kết quả trên lĩnh vực
quân sự và quốc phòng đã tác động tích cực đến việc thực hiện cả hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, tạo điều kiện thuận lợi mới cho công cuộc
xây dựng kinh tế. Để thực hiện được những nhiệm vụ trên, Nhà nước ta chủ trương
phải "… xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, có lực lượng thường trực hợp lý, lực lượng dự bị động viên hùng hậu, lực
lượng dân quân tự vệ vững mạnh và rộng khắp, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm
vụ quốc phòng".

2.2. Chính sách an ninh quốc gia theo Hiến pháp 2013:

Phương hướng phát triển lực lượng công an nhân dân được quy định tại Điều
67 Hiến pháp 2013 là: "Nhà nước xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính
quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ
an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội
phạm".

6
Công an nhân dân Việt Nam là một lực lượng vũ trang trọng yếu của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm nòng
cốt, xung kích trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã
hội của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công an nhân dân có chức
năng tham mưu cho Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam về bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự, an toàn xã hội.

Ngay từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, để bảo vệ những thành quả
của cách mạng, trấn áp những phần tử phản động, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự
an toàn xã hội, Chủ tịch Chính phủ đã ra Sắc lệnh số 23 ngày 21/02/1946 về việc
thành lập Việt Nam công an vụ thuộc Bộ Nội vụ. Mọi thành quả của cách mạng
Việt Nam đều có công lao đóng góp của lực lượng công an nhân dân. Hiện nay tình
hình an ninh, trật tự xã hội còn phức tạp. Các thế lực thù địch ở trong nước và ngoài
nước cấu kết với nhau, ra sức khai thác cuộc khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội và
những sơ hở của Nhà nước ta để chống phá. An ninh nội bộ, an ninh kinh tế, tư
tưởng văn hoá, an ninh biên giới còn nhiều vấn đề phải quan tâm. Trật tự, an toàn
xã hội, nhất là ở thành phố, thị xã còn nhiều phức tạp, tình hình thất thoát lớn tài
sản, tham nhũng, buôn lậu, đạo đức suy đồi… đang là những vấn đề nóng bỏng.
Tình hình trên đòi hỏi nhà nước phải có những chính sách, biện pháp quản lí nhà
nước, quản lí xã hội một cách có hiệu quả hơn. Riêng đối với công an nhân dân là
“lực lượng nòng cốt” trong việc bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội càng
phải được củng cố và xây dựng nhằm đảm nhiệm trọng trách được giao. Vì vậy,
Nhà nước ta chủ trương “xây dựng công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại” (Điều 67 Hiến pháp năm 2013). Chủ trương đó là hoàn
toàn phù hợp với thực tế của xã hội Việt Nam.

III. TRÁCH NHIỆM CỦA CƠ QUAN, TỔ CHỨC, CÔNG DÂN


TRONG BẢO VỆ TỔ QUỐC
3.1. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, công dân:

7
Trong việc bảo vệ Tổ quốc, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, cơ
quan, tổ chức, công dân có nhiệm vụ “phải thực hiện đầy đủ nhiệm vụ quốc phòng
và an ninh” (Điều 64 Hiến pháp năm 2013). Trước hết, các cơ quan, tổ chức phải
động viên tinh thần yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của nhân dân, giáo
dục quốc phòng và an ninh cho toàn dân; phải cổ vũ, động viên thanh niên thực hiện
nghĩa vụ quân sự; xây dựng lực lượng dân quân tự vệ hùng hậu trên cơ sở kết hợp
xây dựng với bảo vệ Tổ quốc; phải thực hiện chính sách hậu phương quân đội một
cách triệt để.

Cụ thể, trong lĩnh vực bảo vệ Tổ quốc và an ninh quốc gia, nhiệm vụ của
Quốc hội được quy định tại khoản 13 Điều 70 Hiến pháp năm 2013: “Quyết định
vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc
biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia”.

Nhiệm vụ của Chủ tịch nước được quy định tại khoản 5 Điều 88 Hiến pháp
năm 2013 là: “Thống lĩnh lực lượng vũ trang nhân dân, giữ chức Chủ tịch Hội đồng
quốc phòng và an ninh; quyết định phong, thăng, giáng, tước quân hàm cấp tướng,
chuẩn đô đốc, phó đô đốc, đô đốc hải quân; bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng
tham mưu trưởng, Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam; căn
cứ vào nghị quyết của Quốc hội hoặc của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, công bố, bãi
bỏ quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh; căn cứ vào nghị quyết của Uỷ ban
thường vụ Quốc hội, ra lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ
tình trạng khẩn cấp; trong trường hợp Uỷ ban thường vụ Quốc hội không thể họp
được, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương”.

Nhiệm vụ của Chính phủ được quy định tại khoản 3 Điều 96 Hiến pháp năm
2013 là: “Thống nhất quản lí về kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế, khoa học,
công nghệ, môi trường, thông tin, truyền thông, đối ngoại, quốc phòng, an ninh
quốc gia, trật tự, an toàn xã hội; thi hành lệnh tổng động viên hoặc động viên cục

8
bộ, lệnh ban bố tình trạng khẩn cấp và các biện pháp cần thiết khác để bảo vệ Tổ
quốc, bảo đảm tính mạng, tài sản của nhân dân”.

Nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được quy định tại Điều 9 Hiến
pháp năm 2013 là: “Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân; đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân;
tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng
cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng,
Nhà nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”.

Trách nhiệm của công dân trong việc bảo vệ Tổ quốc và an ninh quốc gia
được xác định tại các điều 44, 45, 46 Hiến pháp năm 2013. Đã là công dân Việt
Nam thì đều phải có nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc. Trong các loại tội phạm thì
“phản bội Tổ quốc là tội nặng nhất” (Điều 44 Hiến pháp năm 2013). Trong các
nghĩa vụ của công dân thì nghĩa vụ “bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và
quyền cao quý của công dân”. Vì vậy, “công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự
và tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân” (Điều 45 Hiến pháp năm 2013).
Công dân đồng thời còn có nghĩa vụ "tuân theo Hiến pháp và pháp luật; tham gia
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” (Điều 46 Hiến pháp năm 2013).

Như vậy, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với giữ vững an ninh quốc gia là trách
nhiệm của toàn dân. Tất cả các cơ quan, tổ chức và công dân đều có trách nhiệm
bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội; trong đó quân đội và công an là
những lực lượng nòng cốt.

3.2. Trách nhiệm của bản thân trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc:

Trải qua nhiều năm kháng chiến để bảo vệ tổ quốc thì Việt Nam ta càng thấy
rõ Lòng yêu nước chính là vũ khí hàng đầu để dân tộc Việt Nam mới có thể chiến
thắng được mọi ách của giặc ngoại xâm. Từ đó, chúng tôi nghĩ mỗi người cần có
lòng tự tôn dân tộc, có lòng yêu nước.

9
Lòng yêu nước tại thời bình thể hiện qua nhiều khía cạnh khác nhau, có thể
kể đến đó là:

- Tình cảm gắn bó với quê hương, đất nước, điều này thể hiện qua việc bản
thân mỗi chúng ta luôn hướng về cội nguồn, ông bà, cha mẹ, tổ tiên, quê
hương của mình và khi đi xa luôn hướng về quê hương, Tổ quốc.

- Là người con Việt nam thì phải có tình thương yêu đối với đồng bào, giống
nòi, dân tộc, phải cảm thông sâu sắc nỗi đau của đồng bào, dân tộc, mong
muốn đồng bào mình được sống ấm no, hạnh phúc.

- Bản thân mỗi người luôn có lòng tự hào về con người, quê hương, đất nước,
anh hùng hào kiệt, danh nhân văn hoá, về non sông gấm vóc, những sản vật
phong phú.

- Cần cù và sáng tạo trong lao động để xây dựng và phát triển nền văn hoá dân
tộc và xây dựng đất nước ngày càng giàu đẹp.

Trong bất kì thời đại hòa bình hay chiến tranh thì chúng ta luôn phải xây
dựng, ý thức củng cố, vững mạnh hơn nữa về Đoàn kết dân tộc, về kiên cường bất
khuất chống giặc ngoại xâm để bảo vệ chủ quyền, nền độc lập, không chịu làm nô lệ.
Ngày nay khi đất nước đã hòa bình lặp lại, chúng ta được sống trong môi trường tốt
hơn, mọi thứ đầy đủ và sung túc. Càng như vậy chúng ta càng phải thấm nhuần, biết
ơn những người đã hi sinh đi trước để Bảo vệ Tổ quốc mang lại cuộc sống bình yên.
Để cảm ơn những vị cha, anh, chị đã hi sinh thì chúng ta phải sống ý nghĩa và phải
gia sức bảo vệ Tổ quốc.

3.3. Ý nghĩa của việc bảo vệ Tổ quốc:


Theo điều 45 Hiến pháp 2013: “Bảo vệ Tổ quốc là nghĩa vụ thiêng liêng và
quyền cao quý của công dân. Công dân phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia
xây dựng nền quốc phòng toàn dân”. Vậy nên mỗi công dân đều cần phải có nghĩa
vụ bảo vệ Tổ Quốc. Cần nêu cao ý thức bảo vệ Tổ quốc, thể hiện đúng với tinh thần
yêu nước của nhân dân ta từ xưa đến nay - Ta được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất

10
quê hương, trên dải đất hình chữ S này, được sống dưới một bầu tự do, hạnh phúc
và yên bình, được hưởng những quyền lợi mà đất nước mang lại, vậy nên con người
hoàn toàn cũng cần có trách nhiệm đối với Tổ Quốc mình. Một đất nước, một xã hội
chỉ thực sự phát triển khi những hạt nhân trong xã hội ấy biết yêu thương, đoàn kết,
gắn bó với nhau vượt qua bất kỳ khó khăn, thử thách nào. Giống như, khi xưa, thế
hệ ông cha ta đã không tiếc thân mình, đổ mồ hôi và xương máu để bảo vệ Tổ
Quốc, chống lại kẻ thù xâm lược, quyết tâm đem lại cuộc sống hòa bình cho dân tộc
như ngày hôm nay. Dòng máu trong tim ta là dòng máu của Tổ Quốc, luôn phải biết
hướng về cội nguồn, đừng bao giờ chối bỏ hay quay lưng lại với chính Tổ Quốc của
mình, nơi đã cho ta sự sống. “Đừng hỏi Tổ Quốc đã làm gì cho ta mà hãy hỏi ta đã
làm gì cho Tổ Quốc hôm nay”, là một công dân, đặc biệt là một thế hệ trẻ, trách
nhiệm đối với Tổ Quốc là một điều mà mỗi cá nhân đều phải ghi nhớ và thực hiện,
chính nó sẽ là tác động to lớn, thúc đẩy sự tồn tại và phát triển của đất nước sau này.

Bảo vệ Tổ quốc cũng chính là bảo vệ sinh mệnh của bản thân mình - bảo vệ
mầm non tương lai của đất nước. Đất Nước có ổn định về an ninh, có phát triển về
mọi mặt thì mỗi chúng ta cũng được sống hòa bình.

IV. LIÊN HỆ THỰC TIỄN Ở VIỆT NAM


4.1. Thành tựu của nước ta.

Đảng, Nhà nước đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh một cách toàn diện, kiên quyết và đạt được những thành tựu quan
trọng, thể hiện trên một số nội dung chính sau:
- Thành tựu cơ bản, bao trùm:
+ Đó là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ
của Tổ quốc, lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ
xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Thực hiện Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng, quốc phòng, an ninh đã
đạt nhiều thắng lợi quan trọng. Đó là việc bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền của
Tổ quốc, giữ vững ổn định chính trị và môi trường hòa bình để xây dựng đất nước.

11
Tiềm lực chính trị, kinh tế cũng như tiềm lực quốc phòng, an ninh của đất nước
được nâng lên. Nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân được củng cố; thế trận
quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân thêm bền vững, sức mạnh tổng
hợp bảo vệ Tổ quốc được tăng cường. An ninh quốc gia, sự ổn định chính trị, xã hội
được giữ vững.

+ Bộ Quốc phòng, Bộ Công an đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước lãnh đạo,
chỉ đạo thực hiện đường lối đối nội, đối ngoại hài hòa, chủ động triển khai lực
lượng, phương tiện, biện pháp đấu tranh và đấu tranh có hiệu quả đối với các hoạt
động xâm phạm chủ quyền, an ninh quốc gia, giữ vững ổn định chính trị, phục vụ
phát triển kinh tế - xã hội. Đã kịp thời ngăn chặn, vô hiệu hóa nhiều âm mưu, hoạt
động gây rối, gây bạo loạn, phá hoại, khủng bố. Đã chủ động, kiên quyết, kiên trì
đấu tranh bằng các biện pháp phù hợp, bảo vệ được chủ quyền biển, đảo, vùng trời.
Bảo vệ tuyệt đối an toàn các mục tiêu chính trị, kinh tế, quốc phòng và an ninh, các
sự kiện chính trị, văn hóa đất nước, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định để
phát triển đất nước, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

+ Ban hành nhiều chủ trương, chính sách để triển khai nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

+ Thiết thực triển khai thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh do Cương lĩnh
đề ra, tiếp theo là Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX và sau đó là Nghị quyết Trung
ương 8 khóa XI về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, trong đó xác
định toàn diện các vấn đề cơ bản đáp ứng tình hình mới. Các nghị quyết đã mở ra
bước đột phá mới trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh,
bảo vệ Tổ quốc. Cùng với hai nghị quyết rất quan trọng đó, một số chiến lược về
quốc phòng, quân sự, chiến lược an ninh, chiến lược bảo vệ biên giới và nhiều chủ
trương, giải pháp trong các chiến lược tiếp tục được cụ thể hóa và hoàn thiện. Đó là
cơ sở quan trọng để các tỉnh ủy, thành ủy, ban cán sự Đảng, đảng đoàn, đảng ủy
trực thuộc Trung ương xây dựng các chương trình hành động cụ thể để thực hiện
nghị quyết theo chức năng, nhiệm vụ gắn với các hoạt động trên các lĩnh vực chính

12
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Từ đó đã xây dựng và
tổ chức thực hiện các đề án phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện các nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh tại các vùng chiến lược Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ, Nam
Trung Bộ, các thành phố lớn, các địa bàn chiến lược, các vùng kinh tế trọng điểm,
các khu kinh tế cửa khẩu, khu công nghiệp.

- Về xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân.
+ Đảng luôn xác định việc xây dựng lực lượng vũ trang là một trong những nội
dung quan trọng của nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đặt nó trong toàn bộ sự
nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; xây dựng lực lượng Quân
đội nhân dân và Công an nhân dân dựa vào sức mạnh tổng hợp của chế độ; xây
dựng một cách toàn diện và có trọng điểm các yếu tố để tạo thành sức mạnh chiến
đấu tổng lực để bảo vệ Tổ quốc. Thực hiện nhiệm vụ của quốc phòng, an ninh do
Cương lĩnh năm 2011 đề ra là “Xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, tuyệt đối trung thành với Tổ
quốc, với Đảng, Nhà nước và nhân dân, được nhân dân tin yêu”, thành tựu nổi bật
trong những năm qua là: sức mạnh tổng hợp, khả năng chiến đấu của Quân đội nhân
dân và Công an nhân dân được chú trọng xây dựng và từng bước nâng cao, đáp ứng
yêu cầu, nhiệm vụ củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới. Lực lượng vũ trang đã nâng cao tinh thần chiến đấu và khả năng sẵn sàng
chiến đấu; các quân chủng, binh chủng trong Quân đội và các lực lượng trọng yếu
của Công an đã được củng cố, tăng cường; các vũ khí, khí tài được nâng cấp và
trang bị tốt hơn; một số quân chủng, binh chủng của Quân đội và một số lực lượng
tinh nhuệ của Công an đã phát triển theo hướng chính quy, tinh nhuệ và đi thẳng lên
hiện đại. Đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang được
quan tâm và cải thiện đáng kể. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp tục giữ
vững và phát huy phẩm chất cao đẹp của đội quân cách mạng, đoàn kết, nhất trí cao
trong nội bộ, gắn bó máu thịt với nhân dân, có lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội,
tinh thần quốc tế cao cả, khắc phục mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ.

13
+ Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đang thực hiện sắp xếp bộ máy tinh
gọn, hiệu lực, hiệu quả, chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị,
mạnh về bản lĩnh chiến đấu, sáng tạo trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ, chức trách.
Với đội ngũ của lực lượng vũ trang hùng hậu, được trang bị cơ sở vật chất - kỹ thuật
đúng mức, phù hợp với tình hình và nghệ thuật quân sự Việt Nam, các lực lượng vũ
trang có đầy đủ khả năng làm tròn nhiệm vụ được giao phó.

+ Nhìn một cách tổng quát, việc xây dựng lực lượng Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân đã quán triệt phương hướng, mục tiêu, nguyên tắc và định hướng
chính sách về quốc phòng, an ninh mà Cương lĩnh và các nghị quyết của Đảng đã
xác định. Đảng luôn xuất phát từ tình hình thực tế của nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh, phát huy truyền thống độc lập, tự chủ, sáng tạo để xác định các chủ trương,
biện pháp đúng đắn về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Bởi vậy, lực lượng
vũ trang nhân dân Việt Nam đã không ngừng lớn mạnh, đủ sức để hoàn thành mọi
nhiệm vụ.

- Phương thức tiến hành các nhiệm vụ mới về quốc phòng, an ninh.
+ Trong những năm qua đã xuất hiện nhiều vấn đề phức tạp mới đặt ra đối với
nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đòi hỏi phải có những phương thức đấu tranh, tác
chiến phù hợp. Đó là những biểu hiện mới của các thế lực thù địch thực hiện âm
mưu “diễn biến hòa bình”; các hoạt động phá hoại, gây rối, bạo loạn, lật đổ; các mối
đe dọa an ninh phi truyền thống; gia tăng các loại tội phạm mới; những biểu hiện
“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.

Lực lượng quốc phòng, an ninh đã cơ bản nắm bắt, đánh giá đúng tình hình,
dự báo tương đối chính xác về âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch.
Đã vận dụng đúng các quan điểm chỉ đạo của Đảng, hướng dẫn của Chính phủ, xử
lý đúng và hiệu quả từng vấn đề cụ thể; xử lý phù hợp mối quan hệ đối tác, đối
tượng. Phương thức đấu tranh khi thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh đã có
nhiều đổi mới, sáng tạo, linh hoạt. Đã có những chủ trương và giải pháp phòng,
chống các thủ đoạn xâm phạm chủ quyền quốc gia và âm mưu, thủ đoạn của các thế

14
lực thù địch lợi dụng chiêu bài nhân quyền, dân chủ, tôn giáo, kích động chủ nghĩa
yêu nước cực đoan... để chống phá Đảng, Nhà nước. Đã xử trí tương đối hiệu quả,
kịp thời các tình huống quốc phòng, an ninh trên không, trên biển, biên giới, nội địa
để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân
và chế độ xã hội chủ nghĩa; ngăn chặn không để xảy ra bạo loạn lật đổ, bạo loạn vũ
trang, xung đột vũ trang. Đã có những nỗ lực và đạt được hiệu quả trong việc ngăn
chặn những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; chống âm mưu
“phi chính trị hóa” lực lượng vũ trang, đòi đa nguyên, đa đảng. Kết quả của việc
thực hiện các nhiệm vụ nêu trên đã góp phần quan trọng trong thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo đảm trật tự, an ninh xã hội, giữ vững môi trường hòa
bình để phát triển đất nước.

- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với lực lượng vũ
trang.
+ Trong quá trình thực hiện Cương lĩnh năm 1991, cơ chế lãnh đạo của Đảng
đối với Quân đội nhân dân và Công an nhân dân đã được bổ sung, hoàn thiện, bảo
đảm giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng
đối với lực lượng vũ trang, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Đảng
luôn nắm vững quyền lãnh đạo cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đối với sự
nghiệp quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc. Mọi hoạt động, mọi nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào, ở đâu, bất kỳ cấp nào cũng
đều đặt dưới sự lãnh đạo chặt chẽ, tuyệt đối của Đảng. Đảng bộ Quân đội nhân dân
và Công an nhân dân đã thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng,
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức đảng trong các lực lượng vũ
trang được nâng lên. Các tổ chức cơ sở đảng được xây dựng ngày càng trong sạch,
vững mạnh. Các cấp ủy được xây dựng, kiện toàn, có năng lực lãnh đạo toàn diện.
Đã xây dựng được hệ thống tổ chức bộ máy công tác đảng, công tác chính trị có số
lượng hợp lý và chất lượng cao; đã ban hành các nghị quyết mới về Chiến lược
quốc phòng, Chiến lược quân sự, Chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Chiến lược
an ninh quốc gia.

15
+ Quán triệt các chủ trương của Đảng về xây dựng lực lượng vũ trang, Nhà
nước đã sửa đổi, bổ sung các luật về bảo vệ Tổ quốc, xây dựng lực lượng vũ trang
nhân dân, các quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành các luật, pháp lệnh, nghị định
về xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân. Mặc dù còn nhiều khó khăn,
nhưng Nhà nước đã bảo đảm ngân sách cho quốc phòng, an ninh, cho các hoạt động
của lực lượng vũ trang, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh
trong tình hình mới.
Trong những năm qua, cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
đối với lực lượng vũ trang được hoàn thiện và vận dụng hiệu quả trong thực tiễn.
Vai trò lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước từ Trung ương đến các Bộ, ban,
ngành và các địa phương đối với nhiệm vụ quốc phòng, an ninh phát huy hiệu quả
và luôn là nhân tố quyết định mọi thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

4.2. Hạn chế và khuyết điểm:

Trong thực tiễn thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh còn một số hạn chế:
việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc có
lúc, có nơi chưa thật đầy đủ, sâu sắc; cơ chế, chính sách, pháp luật về quốc phòng,
an ninh chưa thật hoàn thiện. Nhân tố chính trị, tinh thần, thế trận lòng dân chưa
được chú trọng đúng mức. Xây dựng khu kinh tế - quốc phòng - an ninh có nơi
chưa đạt hiệu quả cao; kết hợp nhiệm vụ quốc phòng với an ninh, quốc phòng - an
ninh với kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh với đối ngoại chưa thật hài hòa, thiếu
đồng bộ, cơ chế kiểm tra, giám sát, nội dung kết hợp chưa thật cụ thể, kết hợp chưa
rõ ràng, xử lý sai phạm thiếu kiên quyết.

Tiềm lực quốc phòng, an ninh đã được tăng cường một bước nhưng vẫn còn
có mặt hạn chế, việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, trang bị phương tiện, nâng
cao chất lượng vũ khí cho lực lượng vũ trang mặc dù đã được quan tâm đặc biệt
nhưng thực sự còn có mặt hạn chế so với đòi hỏi của yêu cầu, nhiệm vụ quốc phòng,
an ninh trong tình hình mới.

16
Chưa phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và của nhân
dân để thực thi nhiệm vụ. Sự phối hợp giữa các ban, ngành, cơ quan, đơn vị, địa
phương trong công tác bảo đảm an ninh trật tự chưa thường xuyên. Sự phối hợp
giữa xây dựng nền quốc phòng toàn dân với nền an ninh nhân dân, thế trận quốc
phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân chưa thật chặt chẽ, vẫn còn thiếu cơ
chế và giải pháp cụ thể. Công tác nghiên cứu, dự báo và tham mưu chiến lược còn
hạn chế, đánh giá, dự báo tình hình có mặt chưa cụ thể, kịp thời. Chỉ đạo, điều hành
có lúc, có nơi chưa thật tập trung, kiên quyết. Xác định và xử lý đối tượng, đối tác
trong một số trường hợp chưa thật linh hoạt.

17
PHẦN KẾT LUẬN
Căn cứ vào Hiến pháp năm 2013, Nghị quyết số 28-NQ/TW của Hội nghị
Trung ương 8 khóa XI về “Chiến lược Bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới” và để
khắc phục những hạn chế, bất cập sau 10 năm thực hiện Luật Quốc phòng năm
2005, Chính phủ đã giao Bộ Quốc phòng xây dựng Dự án Luật Quốc phòng (sửa
đổi) và đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ năm, ngày 8-6-2018.
Trong đó, có những nội dung quan trọng được sửa đổi, bổ sung, như: Kiên định và
làm rõ nguyên tắc lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với nhiệm vụ quốc
phòng, khẳng định nguyên tắc hoạt động quốc phòng phải đặt dưới sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý tập trung,
thống nhất của Nhà nước; quy định về Hội đồng Quốc phòng và an ninh; bổ sung
yếu tố văn hóa, đối ngoại trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân và tiềm lực khu
vực phòng thủ; kết hợp quốc phòng với kinh tế, văn hóa, xã hội và kinh tế, văn hóa,
xã hội với quốc phòng; thể chế hóa quan điểm của Đảng về hội nhập quốc tế,... Đây
là cơ sở pháp lý quan trọng để tiếp tục xây dựng, sửa đổi các luật chuyên ngành,
nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
về quốc phòng.

Cùng với việc hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, cơ
chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý tập trung, thống nhất đối với sự nghiệp quốc
phòng được thực hiện nghiêm túc; hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh
vực quốc phòng được nâng lên. Việt Nam thực hiện nhất quán chính sách quốc
phòng mang tính chất hòa bình, tự vệ, thể hiện ở chủ trương không sử dụng vũ lực
hoặc đe dọa sử dụng vũ lực trong các quan hệ quốc tế, giải quyết mọi bất đồng và
tranh chấp với các quốc gia khác bằng biện pháp hòa bình. Việc xây dựng sức mạnh
quốc phòng dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả nước, khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn dân với sức
mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân.

18
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực có nhiều diễn biến phức tạp, khó
lường, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày
càng được đẩy mạnh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông tiếp tục có những diễn
biến phức tạp. Ở trong nước, bên cạnh những thuận lợi là cơ bản, chúng ta vẫn còn
phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức. Các thế lực thù địch vẫn tăng cường
các hoạt động chống phá, nhất là trước thềm Đại hội XIII của Đảng. Tình hình nói
trên đã và đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao đối với sự nghiệp củng cố quốc phòng,
bảo vệ Tổ quốc. Trong khi đó, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách về quốc
phòng mặc dù đã được xây dựng tương đối đầy đủ, nhưng chưa hoàn chỉnh, đồng
bộ, có nội dung chưa phù hợp..., cần được tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện, tạo cơ sở
pháp lý cho việc thực hiện sự nghiệp quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình
mới.

Quan điểm của Đảng ta về quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc được thể hiện rõ
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011), Điều lệ Đảng và các văn kiện đại hội Đảng. Trong đó,
nêu bật nguyên tắc: “Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với sự
nghiệp quốc phòng và an ninh”. Đây là nguyên tắc cơ bản, quy định chức năng lãnh
đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng, an ninh, từ việc xây dựng, hoạch định
và tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương chiến lược về quốc phòng, an ninh đến
xây dựng các kế hoạch mang tính chiến lược của quốc gia.

Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý tập
trung, thống nhất đối với sự nghiệp quốc phòng; khẳng định nhất quán chính sách
quốc phòng của Việt Nam, đó là giải quyết mọi bất đồng, tranh chấp bằng biện pháp
hòa bình dựa trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ mỗi quốc gia.

Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia, ổn định chính trị, trật tự, an
toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, của cả hệ

19
thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là
nòng cốt. Đây là quan điểm xuyên suốt trong lãnh đạo, chỉ đạo sự nghiệp cách
mạng của Đảng, nhất là trong bối cảnh, tình hình mới. Đảng ta tiếp tục khẳng định
nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, văn hóa là nền
tảng tinh thần của xã hội và củng cố quốc phòng, an ninh là nhiệm vụ trọng yếu,
thường xuyên. Các nhiệm vụ này phải được đặt trong mối quan hệ biện chứng, tác
động, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau. Trong đó, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an
ninh để tạo môi trường, tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội;
ngược lại, mỗi thành quả của nhiệm vụ xây dựng, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội
sẽ tạo tiền đề vững chắc cho sự nghiệp quốc phòng, an ninh của quốc gia. Vì vậy,
cần tăng cường giáo dục cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc hơn
nữa sự nghiệp quốc phòng, an ninh trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Qua đó, đề cao trách nhiệm của Nhà nước và xã hội trong hoàn thiện hệ thống pháp
luật, cơ chế, chính sách về quốc phòng và tổ chức thực hiện.

Để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực quốc phòng, cần coi
trọng xây dựng cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong sạch, vững mạnh, có năng lực
lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu cao, thực sự là hạt nhân lãnh đạo thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Tăng cường sự đoàn kết, thống
nhất trong Đảng, thực hiện nghiêm cơ chế kiểm tra, giám sát; tiếp tục hoàn thiện
phương thức, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp quốc phòng. Đồng thời,
chú trọng kiện toàn cơ quan, đội ngũ cán bộ làm công tác quốc phòng ở các bộ,
ngành; phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, có cơ chế phù hợp để động
viên, khuyến khích các tổ chức chính trị - xã hội, chức sắc tôn giáo thực hiện đường
lối, quan điểm của Đảng về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.

Hiện nay và trong thời gian tới, đất nước sẽ có nhiều chuyển biến mạnh, nền
kinh tế phát triển nhanh khiến cấu trúc xã hội không ngừng thay đổi và hội nhập sâu
hơn vào khu vực và thế giới; nhiệm vụ quốc phòng đặt ra ngày càng cao, lực lượng
tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân bảo vệ Tổ quốc rất đa dạng. Điều đó

20
đòi hỏi quản lý nhà nước về quốc phòng phải khoa học, đồng bộ và có tính pháp lý
rất cao. Do vậy, phải tiếp tục xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật
về quốc phòng, an ninh ngày càng hoàn chỉnh, thể hiện ở kế hoạch tổng thể và được
xác định trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, của từng ngành, địa
phương trên cơ sở quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước. Đồng thời, phải có sự phân công, phân cấp, xác định rõ ràng, cụ thể thẩm
quyền, trách nhiệm lãnh đạo, quản lý và triển khai thực hiện của từng cấp, ngành,
địa phương; mối quan hệ giữa các cấp, các ngành; cơ chế lãnh đạo, điều hành, chỉ
huy trong các tình huống, trong từng nhiệm vụ.

Trên cơ sở nhận thức về mục tiêu, đặc điểm quản lý nhà nước về quốc phòng,
cần quán triệt và thực hiện tốt quan điểm của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, mà
nội hàm cốt lõi là: Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo
vệ công cuộc đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bảo vệ lợi ích quốc
gia - dân tộc; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và nền văn hóa; giữ
vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng; kết hợp sức
mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc
phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp
chặt chẽ kinh tế, văn hóa, xã hội với quốc phòng, an ninh và quốc phòng, an ninh
với kinh tế, văn hóa, xã hội trong các chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội; kết hợp chặt chẽ giữa quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Việc hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về quốc phòng, bảo vệ
Tổ quốc là một nội dung rất quan trọng đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ thực tiễn đặt ra
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Hơn thế
nữa, đây cũng là thời điểm thích hợp để Nhà nước xây dựng và hoàn thiện hệ thống
văn bản quy phạm pháp luật hoàn chỉnh về quốc phòng; trong đó, quy định các vấn

21
đề về xây dựng nền quốc phòng toàn dân, xây dựng Quân đội nhân dân, dân quân tự
vệ và Công an nhân dân, tạo cơ sở pháp lý đầy đủ, đồng bộ và chặt chẽ về nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
Để đẩy nhanh tiến độ hoàn thành các dự án luật nói trên, các cơ quan của Quân ủy
Trung ương, Bộ Quốc phòng, nhất là các cục chức năng thuộc Bộ Tổng Tham mưu,
Tổng cục Chính trị, Tổng cục Công nghiệp quốc phòng,... chủ động phối hợp với
các cơ quan thuộc các ban, ngành ở Trung ương có liên quan nghiên cứu, cụ thể hóa
chức năng, mối quan hệ, vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ
Quốc phòng trong thực hiện nhiệm vụ quốc phòng trên phạm vi cả nước.

Về cơ chế vận hành của hệ thống chính trị trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, cần quán triệt quan điểm: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm
chủ, lực lượng vũ trang làm nòng cốt”. Trong đó, tiếp tục nghiên cứu việc xác lập
và vận hành cơ chế, phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng, an ninh ở các bộ, ngành và địa phương, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ,
sát với điều kiện, đặc điểm, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của từng cơ quan, đơn
vị, địa phương. Đồng thời, nghiên cứu điều chỉnh, bổ sung, cụ thể hóa các chính
sách, pháp luật trong các tình huống và trạng thái quốc phòng, an ninh, các quy chế,
quy trình, thủ tục trong chỉ đạo, quản lý, điều hành của các cấp, các ngành, các địa
phương trong xử trí các tình huống khẩn cấp về quốc phòng, an ninh, xung đột vũ
trang hoặc chiến tranh; điều chỉnh, bổ sung và ban hành mới các văn bản quy phạm
pháp luật, các chính sách quốc phòng phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh, môi trường
trong thời kỳ mới.

Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, được tổ chức và hoạt động
trên cơ sở Hiến pháp, pháp luật. Vì vậy, cần phải có một hệ thống pháp luật, chính
sách quốc phòng đồng bộ và được tổ chức thực hiện nghiêm túc, hiệu quả đáp ứng
yêu cầu bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc trong mọi tình huống.

22
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp 2013 - Thư viện pháp luật.

2. Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc qua 30
năm thực hiện Cương lĩnh (phần 1) - Hội đồng lý luận Trung ương.

3. Một số vấn đề lý luận, thực tiễn về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc qua 30
năm thực hiện Cương lĩnh (phần 2) - Hội đồng lý luận Trung ương.

4. Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng Luật Giáo dục quốc phòng - an ninh -

Tạp chí Quốc phòng toàn dân.

5. Hoàn thiện lý luận về bảo vệ an ninh quốc gia - Báo Công an Nhân dân điện tử.

6. Nghiên cứu phát triển lý luận quốc phòng, an ninh ở nước ta hiện nay - Biên
phòng Việt Nam.

7. Chính sách quốc phòng và trách nhiệm bảo vệ tổ quốc theo quy định Hiến Pháp -
Luật Minh Khuê.

8. Những nhận thức mới, tư duy mới về an ninh quốc gia - Đảng Cộng Sản Việt
Nam.

9. Những nhận thức mới và tư duy mới về quốc phòng Việt Nam cần quán triệt sâu
sắc và triển khai thực hiện hiệu quả - Quân đội nhân dân Việt Nam.

10. Nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc của công dân trong Hiến pháp mới - Báo Công an
Nhân dân điện tử.

11. Những vấn đề cơ bản của chính sách quốc phòng Việt Nam - Bộ Quốc phòng
Việt Nam.

12. Thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân
sự trong tình hình mới - Nhân dân.

23

You might also like