Professional Documents
Culture Documents
Văn Hóa C A Ngư I Chăm
Văn Hóa C A Ngư I Chăm
Thông điệp sau quá trình nghiên cứu về tên họ người Chăm
Theo thạc sĩ Đinh Thị Hòa nghiên cứu về “ Họa và tên của cộng đồng người Chăm
Islam ở Nam Bộ” cho biết, người Chăm định cư ở Tây Ninh đã gần 300 năm và
những số làng Chăm mới thành lập sau giải phóng cũng đã hơn 30 năm dưới sự
quản lý của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Thế nhưng việc ghi tên, đăng ký hộ tịch cho người Chăm ở đây vẫn chưa được đi
vào quy củ, chính quyền xã huyện vẫn còn phiên âm và đặt tên cho người người
Chăm tùy tiện mà không tôn trọng tên gốc của họ.
Điều này dẫn đến việc hiểu sai lệch nhiều về tên gốc của người Chăm, thậm chí xúc
phạm đến họ bằng những tên gọi như “Chàm”. Điều này tác động lớn đến tâm lý tự
ti của đồng bào và từ đó đồng bào ngày càng mất niềm tin vào chính quyền.
Vì vậy việc này mong nhà nước nên lưu tâm, nhất là các cán bộ làm khai sinh, hộ
tịch, hộ khẩu ở vùng Chăm nói riêng hay bất cứ vùng dân tộc thiểu số nào nói chung
nên học tiếng dân tộc để có thể ghi tên họ bà con cho đúng, tránh những việc làm
tùy tiện mà gây nên phản cảm.
Bên cạnh tên họ, còn một số địa danh Chăm ngày nay, một phần còn gắn liền với từ
ngữ Chăm như Nha Trang, Phan Rang, Cà Đú, Cà Ná, … còn dễ dàng để chúng ta
nhận biết nhưng có một số địa danh khác đã chuyển thể sang tiếng Việt hoàn toàn
nhu Bôn - Đà Lãng, Bình Định, Hữu Đức, Vĩnh Thuận, Mỹ Nghiệp, Long Hương, v.v.
thì khoảng một trăm năm sau, không ai có thể nhận biết được đó là địa danh, tên
đất, tên vùng, có nguồn gốc từ Chăm.
Đó là những vấn đề tên họ, địa danh liên quan đến người Chăm mà chúng tôi nêu ra
để đẩy người Chăm ý thức được cội nguồn, xác định lại đúng dòng tộc, tên gốc và
quê hương của mình.
Hiểu và làm đúng những vấn đề nêu trên là góp phần để xây dựng một bản sắc, một
tấm căn cước riêng của người Chăm, khỏi bị lẫn lộn với các dân tộc khác trong quá
trình hội nhập vào văn hóa Việt Nam và trên thế giới đại đồng ngay nay.
II. Sự huyền bí và độc đóa của ba công trình kiến trúc
nghệ thuật tháp: Tháp Hoài Lai, Tháp Po Klong Garai
và Tháp Po Rome
Đền tháp cổ Hòa Lai Ninh Thuận - công trình kiêu hãnh hơn 1.000 năm tuổi
Qua nghiên cứu và tìm hiểu thực tế của H. Parmentier đầu thế kỷ XX được PGS.TS
Ngô Văn Doanh ghi trong cuốn “Tháp cổ Champa”: “Nguyên khởi, Hòa Lai là một
khu di tích lớn nằm trên vùng đất cao nhất của một cánh đồng dài và rộng ở phía
Bắc Phan Rang. Cả khu di tích được xây dựng trong khoảng đất hình chữ nhật kéo
dài dài theo hướng Đông - Tây 200 mét và chiều rộng hướng Bắc - Nam 125 mét.
Khác với những cụm tháp cùng thời. Cụm di tích tháp Hòa Lai nổi bật bởi ba dãy
kiến trúc (tháp Nam, tháp Bắc và tháp trung tâm) xếp dọc theo hướng Đông - Tây,
một bể nước hình chữ nhật (dài 50 mét và rộng 10 mét) và một bức tường gạch ở
góc Đông - Bắc.”
Cuối thế kỷ XX, nhằm phục vụ quá trình nghiên cứu, quan chức địa phương đã cho
phá hủy tháp trung tâm. Trước đó, vì những tác động của thời gian và chiến tranh,
bể nước và tường thành cũng đã mất đi. Đến nay, sau hơn 12 thế kỷ tồn tại, cụm di
tích chỉ còn tháp Nam, tháp Bắc và phần nền của tháp trung tâm.
Mặc dù tổng thể công trình chỉ còn tháp Nam và tháp Bắc. Tuy nhiên, những gì còn
lại đều rất hòa hợp với nhau, thể hiện một chất riêng rất đặc biệt. Cụ thể, ngôi Tháp
Bắc cao, hoàn toàn được xây bằng gạch, mặt tường gạch chạm khắc hoa văn mặt
chim, thú huyền thoại, hoa lá… đầy tinh xảo. Ở hướng Đông tháp có một cửa vào, 3
hướng còn lại chỉ là cửa giả như bao đền tháp khác. Càng vào trong, tháp xây dựng
gạch nhỏ dần lên, có các ô hình tam giác để gắn đèn khi cúng tế.
Tháp Nam cao hơn Bắc, cũng được xây bằng gạch, mặt tường gạch chạm khắc hoa
văn nhưng ở dạng đang phác thảo. Toàn bộ thân tháp là một khối lập phương khoẻ
nhô lên từ một phần bệ vuông và đỡ cả một hệ thống các tầng nhỏ hơn.
Đúng thuần theo phong cách nổi bật một thời, lối trang trí hoa văn bên ngoài mặt
tháp Nam và Bắc chỉ giới hạn ở vòm cửa, ở các trụ ốp, ở bộ diềm mái. Lối trang trí
này vừa mang tính chức năng nhấn mạnh cho các thành phần cấu trúc vừa phô bày
vẻ đẹp của các hoa văn. Không những vậy, đền tháp Nam và Bắc còn nổi bật bởi
những vòm cửa tò vò trùm lên trên cửa ra vào, các cửa giả và các ô khám của các
tầng. Đặc biệt là vành của cửa vòm được phủ kín bằng những hoa văn hình cuộn
vọt ra từ miệng của quái vật Kala trên đỉnh là một điểm nhất rất hấp dẫn.
Ngoài ra, lối phong cách hòa lai còn ấn tượng bởi hình ảnh của khoảng tường giữa
hai trụ ốp được phủ bằng các hình chạm khắc hoa lá; bộ diềm mái là nơi hiện diện
những hoa văn tràng hoa chạy dài và hình các thần điểu Garuda đang xoè cánh.
Năm 1986, một phát hiện quý báu của Bảo tàng tỉnh đã khi tìm thấy một linga bằng
đá (sa thạch) ở khu vực Tháp. Việc phát hiện này không chỉ riêng về văn hóa mà
còn là lịch sử. Quan trọng là minh chứng rõ hơn về một quá trình thịnh vượng trong
việc phát triển kiến trúc, nghệ thuật và điêu khắc của vương quốc Panduranga.
Năm 1997, Bộ Văn hóa – Thông tin đã cấp bằng công nhận cụm tháp Hòa Lai là di
tích lịch sử quốc gia.
Hòa Lai & Thuận Lai: Những lý giải gắn liền với phủ Ninh Thuận xưa
Ngoài tên gọi Hòa Lai, gần cuối thế kỷ XIX, ngay vị trí của đền tháp xuất hiện một
tên gọi mới là Ninh Lai. Vậy, đâu mới là địa danh và tên gọi chính xác của đền tháp
này?
Theo đó, vùng đất Ninh Thuận trước năm 1888 gọi là phủ Ninh Thuận, thuộc tỉnh
Bình Thuận. Sự trực thuộc này bắt buộc các dịch trạm (trạm thông tin liên lạc) đều
bắt đầu bằng chữ “Thuận”. Theo địa lý từ Bắc vào Nam lần lượt là Thuận Lai, Thuận
Mai, Thuận Trinh, Thuận Lãng, …
Trong các dịch trạm này, có một dịch nằm giữa ranh giới Khánh Hòa và Bình Thuận
là Hòa Thuận (tên gọi của sự ghép nối của hai chữ cuối của hai tỉnh). Không riêng gì
hai tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận, giữa ranh giới hai tỉnh như Khánh Hòa và Phú
Yên có dịch trạm Phú Hòa; Phú Yên và Bình Định có dịch trạm Bình Phú; Bình
Thuận và Biên Hòa có dịch trạm Thuận Biên, ...
Minh chứng cho điều này, trong cuốn “Hoàng Việt nhất thống dư địa chí của Lê
Quang Định” viết năm 1806 ghi rõ: “Từ dịch trạm Hòa Thuận đi khoảng 4876 tầm (1
tầm= 2,12m, 4,876 khoảng 10 km) là đến dịch trạm Thuận Lai: “đến quán nghỉ trạm
Thuận Lai, trước mặt trạm có quán nghỉ, khách đi đường có thể nghỉ lại” (chí quán
cư Thuận Lai dịch. Trạm tiền hữu quán cư, hành nhân khả trú túc).
Qua khỏi trạm Thuận Lai 1600 tầm (khoảng hơn 3 km) đường đi bằng phẳng, hai
bên là rừng thưa, phía tây đều là ruộng cấy lúa, phía đông có ba tòa tháp cổ, tục gọi
tháp Cao Miên, nay đã đổ nát (kỳ lộ bình thản, lưỡng bàng sơ lâm, lộ tây điền trù, lộ
đông hữu tam cổ tháp, tục danh Cao Miên tháp. Kim dĩ đồi hoại)”.
Còn trong cuốn “Đại Nam nhất thống chí” thì nói, cụ thể trạm Thuận Lai: “Ở thôn
Nhơn Sơn huyện An Phước, phía bắc đến trạm Hòa Quân tỉnh Khánh Hòa 43 dặm
linh, phía nam đến trạm Thuận Mai 20 dặm linh”. Nếu tính từ bắc vào nam thì dịch
trạm Thuận Lai là dịch trạm đầu tiên trên đất Bình Thuận, nếu tính từ nam ra bắc thì
dịch trạm Thuận Lai là dịch trạm thứ 16 và cũng là dịch trạm cuối cùng trên đất Bình
Thuận.
Tháng giêng năm Mậu Tý (1888): “phủ Ninh Thuận, nguyên vẫn lệ thuộc ở tỉnh Bình
Thuận, nên trích ra cho lệ thuộc vào tỉnh Khánh Hòa. Các dịch trạm trên đất Khánh
Hòa đều bắt đầu chữ “Hòa” như: Hòa Mã, Hòa Lãng, Hòa Huỳnh, Hòa Cát, Hòa
Thạnh, Hòa Tân, Hòa Do, Hòa Quân.
Do lệ thuộc vào tỉnh Khánh Hòa, cho nên các dịch trạm Thuận Lai, Thuận Mai,
Thuận Trinh, Thuận Lãng nằm trên phần đất phủ Ninh Thuận được đổi chữ “Thuận”
thành chữ “Hòa” cho giống các dịch trạm trên đất Khánh Hòa và dịch trạm Thuận Lai
được đổi thành Hòa Lai. Như vậy, trước khi tên gọi Hòa Lai xuất hiện, trên gọi trước
đó của địa danh này là Thuận Lai.
Từ tên gọi Hòa Lai đến địa danh mới Ninh Lai
Tiếp tục làm rõ về địa danh Hòa Lai, trong ghi chép của tác phẩm “De Qui Nhon en
Cochinchine”bởi tác giả J. Brien xuất bản năm 1893.
Dẫn lời: “Sau khi phủ Ninh Thuận nhập vào đất Khánh Hòa hơn 5 năm) cho biết là
từ trạm Hòa Quân (Cam Ranh) đến trạm Hòa Lai có chiều dài là 26,620 km và ông
viết về trạm Hòa Lai.”
J. Brien viết:“Le tram de Hòa Lai est très vaste, construit en briques, entouré d’un
mur en pierres avec une cour dallée. C’est le plus beau de tous les relais de trams
de l’Annam. Nghĩa là: Trạm Hòa Lai rất rộng, xây bằng gạch, được bao quanh bằng
một bức tường đá với một cái sân lát gạch. Đó là cái trạm dừng đẹp nhất trong tất cả
các trạm của xứ An Nam.”
Tiếp lời: “A trois kilomètres de Hòa Lai, on trouve à gauche, sur le bord de la route,
les ruines de trois tours chams, encore bien conservées et rappelant celles du Binh
Đinh et de Nha Trang” (Cách Hòa Lai 3 ki lô mét, người ta tìm thấy ở phía trái, bên
lề đường, phế tích 3 tháp Chàm, hãy còn giữ gìn kỹ, nhắc nhớ tới những cái[tháp] ở
Bình Định và Nha Trang).
Đó là những ghi chép thực tế của J. Brien. Trước khi vua Gia Long lên ngôi vào năm
1902, tháng 3 năm Tân Sửu (1901), chúa Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau này) đã
có một thông chiếu: “Bắt đầu đặt đạo Ninh Thuận (trích phủ Ninh Thuận và huyện
An Phước tỉnh Khánh Hòa lập thành một đạo, lỵ sở đặt ở xứ Phan Rang) lấy Tri phủ
Nguyễn Văn Thụy thăng làm Quản Đạo”.
Việc đưa ra thông chiếu này là do Ninh Thuận không còn trong phần đất Khánh Hòa
nữa và được nâng lên thành đạo Ninh Thuận. Đến tháng 9 năm Tân Sửu (1901) các
dịch trạm như Hòa Lai, Hòa Mai, Hòa Trinh ở đạo Ninh Thuận được đổi thành Ninh
Lai, Ninh Mai, Ninh Trinh để có phân biệt”.
Như vậy địa danh Hòa Lai bắt đầu xuất hiện vào năm 1888 và tồn tại đến tháng 9
năm Tân Sửu (1901) thì được đổi thành Ninh Lai. Vào thập kỷ cuối của thế kỷ XIX
các nhà khảo cổ đã lấy địa danh dịch trạm Hòa Lai đặt tên cho cụm di tích Ba Tháp
gần đó (cách dịch trạm Hòa Lai khoảng 3km) nên mới có tên tháp Hòa Lai.
Qua những ghi chép này có thể nói, địa danh Hòa Lai và tên gọi của tháp Hòa hiện
nay hoàn toàn có nguồn gốc mang yếu tố ngôn ngữ Việt chứ không hề có chút yếu
tố Chăm nào cả.
Cũng có thể nói thêm, đã có một sự trùng hợp về tên gọi giữa địa danh và lối phong
cách kiến trúc “Hòa Lai” của Champa khi cụm đền tháp Hòa Lai được xây dựng vào
khoảng thế kỷ IX - thời kinh phong cách Hòa Lai của Champa thịnh hành nhất.
Bài viết đã được đăng tải trên website chuyên thông tin du lịch Ninh Thuận
www.reviewninhthuan.com
Đôi nét tổng thể về khu đền tháp Po Klong Garai Ninh Thuận
Khu đền tháp Po Klong Garai còn được gọi với tên gọi khác là Bửu Sơn. Là một
quần thể kiến trúc gồm nhiều công trình lớn nhỏ khác nhau. Tuy nhiên, hiện nay, tại
đây chỉ còn lại ba công trình kiến trúc bằng gạch tháp chính (Kalan po) - nơi thờ
tượng bán thân vua Po Klong Garai cao 20,5m; tháp cổng (Kalan pabah mbang) cao
khoảng 8,56m & tháp Lửa (Sang cuh yang apuer) cao 9,31m. Phía sau tháp Chính
là một miếu thờ nhỏ được người Chăm xây dựng trước năm 1975 để thờ vua Po
Klong Garai, là Bia Kol.
Nằm giữa không gian tháp Chính và tháp Cổng là vết tích của một nền gạch hình
chữ Nhật. Theo nhận định của các nhà nghiên cứu thì đây chính là nhà để đồ (dạng
tháp Dài hoặc nhà Dài) được xây theo kiểu nhà Dài ở Mỹ Sơn với mục đích để cho
các vị chức sắc thành tẩy trước khi thực hiện các nghi thức, nghi lễ quan trọng.
Ngoài ba tháp còn tồn tại thì còn một tháp Canh ở hướng Đông Nam, dấu tích đế
tháp ở hướng Bắc và hướng Tây Nam.
Có thể thấy, những vết tích về các nền móng cũ có thể từng là những hạng mục
được xây dựng trọn vẹn như tháp chính, tháp lửa, tháp cổng, nhưng theo thời gian,
vì tác động gì đó đã bị đổ vỡ.
Điều này cũng tương tự như bao đền tháp khác, tiêu biểu như đền tháp Dương
Long, đền tháp Hưng Thạnh (tháp Đôi) ở Bình Định, hay tháp Hòa Lai ở Ninh Thuận
và tháp Po Sah Inư ở Bình Thuận.
Cũng cần nói thêm, trong một công trình đền tháp của người Chăm khi xây dựng,
thông thường sẽ có một đền tháp chính đóng vai trò chủ đạo và xung quanh là nhiều
hạng mục khác. Và tất nhiên, khu đền tháp Po Klong Garai cũng không ngoại lệ, đặc
biệt là xây theo phong cách hậu Bình Định (Phong cách Muộn) - lối phong cách điển
hình của Champa từ sau thế kỷ XIII.
Khu đền tháp Po Klong Garai & lối kiến trúc, nghệ thuật độc đáo
Là công trình được xây dựng trong thời kỳ không chịu ảnh hưởng của chiến tranh
nên khu đền tháp Po Klong Garai được tô điểm những gì đẹp nhất của phong cách
hậu Bình Định-thời kỳ Muộn (hay còn gọi là phong cách Muộn).
Theo đó, toàn thể khu đền tháp được xây dựng trên quy mô lớn với diện tích khoảng
10 hecta bao phủ cả không gian núi Trầu (đồi Trầu, tiếng Chăm gọi là Cek Halan).
Trong đó, ngôi tháp Chính (Kalanpo) cao 20.5m là hạng mục được xây dựng với
nhiều tầng, mô phỏng theo ngọn núi Peru - một ngọn núi thiêng của Ấn giáo bên Ấn
Độ. Tầng trên là sự lập lại tầng dưới thu nhỏ, cho đến đỉnh là một trụ đá nhọn, biểu
tượng là một Linga.
Điểm nhấn của ngôi tháp chính này chính là ở các góc tháp lên dần đều là các ụ
vuông nhỏ, gắn tượng thú bằng đá như tượng vua Po Klong Garai, tượng thần Siva
và các vị hộ pháp, các loài muông thú và các hình ngọn lửa bằng gạch nung.
Cửa chính ra vào tháp Chính quay về hướng Đông, hướng theo quan niệm của
người Chăm là hướng sống, sinh tồn. Hai bên cửa là 2 trụ đá lớn khắc chữ Chăm
cổ. Bên trên cửa có phù điêu thần Siva có 6 tay đang uyển chuyển với những điệu
múa thần bí. Ba cửa còn lại theo ba hướng Nam, Bắc, Tây là cửa giả có trụ ốp gạch
lồi, lõm vào trong. Trên mỗi cửa giả có một tượng thần tư thế thiền.
Từ ngoài đi vào là sự hiện hữu của tượng bò thần Nandin được tạc bằng đá nằm
bên tay trái, đầu hướng vào trong tháp. Tương truyền, đây là vật cưỡi của thần Siva
và vua Po Klong Garai. Chính giữa tháp là tượng thờ bán thân vua Po Klong Garai.
Bên dưới tượng bán thân vua Po Klong Garai là một Yoni cạnh dài 1m47, cạnh
ngang 0m94, trên Yoni là một Linga tròn, phía trên trụ là Linga.
Từ tháp Chính nhìn thẳng về hướng Đông là khoảng sân rộng hình chữ nhật
(khoảng không gian theo nhận định của các nhà nghiên cứu là nhà Dài dùng làm nơi
để đồ trong quá trình làm lễ của các chức sắc) và hạng mục tháp Cổng.
Quan sát tổng thể thỉ hạng mục tháp Cổng này có hình dạng và cấu trúc như ngôi
tháp Chính. Tuy nhiên, vì chức năng dùng để làm nơi ra vào (cửa Đông và cửa Tây
thông nhau) nên được trang trí đơn giản và không có nhiều hoa văn, phù điêu. Phía
trước tháp Cổng là một khoảng sân rộng lớn với con đường lên xuống bằng gạch
được xây theo một trục duy nhất. Đó là hướng Đông. Thế nhưng, theo thời gian, con
đường này đã xuống cấp trầm trọng nên không còn được sử dụng.
Để thay thế cho điều này, năm 2000 ban quản lý đã xây dựng một hạng mục tháp
mới nằm về phía Nam ngôi tháp Chính với cấu trúc hình lá Nhĩ phình ra to tướng,
đứng trên hai cột không chịu lực cân xứng.
Xét về mặt khoa học, phong thủy thì công trình này không hòa hợp với ba đền tháp
nguyên thủy. Tuy nhiên, xét về mặt bảo vệ di tích thì nó đóng vai trò tương đối quan
trọng để phục vụ cho khách du lịch.
Đến tham quan đền tháp Po Klong Garai, nhiều du khách thường hiếu kỳ về một
hạng mục nằm bên phải ngôi tháp Chính có mái giống mái giống như mà nhà prông
ở Tây Nguyên hay mái nhà hình thuyền như mặt trên trống đồng. Hạng mục này
chính là tháp Lửa, hay còn gọi là tháp Hỏa (theo quan niệm của người Chăm chính
là thứ xua đuổi tà ma, sưởi ấm đồng thời là hiện hữu sức mạnh vô biên của thần
Siva). Chức năng của tháp này là để các tu sĩ Bàlamôn, các thầy cúng bày các vật
tế lễ và giữ ngọn lửa tế nên người Chăm gọi là Tháp Lửa.
Về cấu trúc thì tháp có 3 cửa thông nhau 3 hướng Đông, Bắc và Nam, riêng phía
Nam là cửa sổ. Cũng như tháp Cổng, tháp Lửa được xây dựng khá đơn giản, các
mặt tháp đa phần không có nhiều phù điêu và hoa văn.
Hiện hữu trong không gian của khu đền tháp Po Klong Garai còn có một điện thờ
nhỏ, là nơi thờ hoàng hậu Bia Kol, chánh thất của vua Po Klong Garai. Đặc biệt, kế
bên điện thờ chính là hình ảnh cây mẹ với thân hình uống công đầy uyển chuyển.
Tương truyền, đây chính là nơi mà vua Po Klong Garai thời niên thiếu (đi buôn trầu)
thường lên để nghỉ ngơi.
Trải qua hơn 800 năm hình thành và tồn tại với thời gian. Đến nay, khu đền tháp Po
Klong Garai (Bửu Sơn) đa phần còn nguyên vẹn với nét kiến trúc nghệ thuật độc
đáo thuần theo phong cách hậu Bình Định - thời kỳ Muộn, để lại một giá trị to lớn về
mặt văn hóa và lịch sử dân tộc.
Đặc biệt, cách thức xây dựng đền tháp Po Klong Garai nói chung và tất cả công
trình kiến trúc nghệ thuật Chăm trên dải đất miền Trung đến nay vẫn là điều bí ẩn
chưa lời giải. Qua đó mới thấy được sự tài tình của người Chăm xưa và hiểu rõ lý do
vì sao khi nói, “Người Chăm là bậc thầy trong việc xây dựng những công trình kiến
trúc nghệ thuật bằng gạch mà không ai có thể sánh lại.”.
Đôi nét về vua Po Rome - vị vua độc lập cuối cùng của vương quốc Champa
Po Rome (Po Rômê, hay Po Ramé) tên thật là Ja Ka Thaut, sinh ở làng Tường Loan
(Palei Pa – Aut), nay là xóm đạo Thiên Chúa Hòa Thuận của huyện Bắc Bình, tỉnh
Bình Thuận. Tương truyền, khi nhỏ Ja Ka Thaut là một cậu bé thông minh, được dân
trong vùng quý mến đặt cho biệt danh là Chei – sit, ý chỉ người có tài.
Càng lớn, Ja Ka Thaut càng bộc lộ tố chất của một người giỏi thao lược và rất biết
cách thu phục lòng người.
Khi ấy, người đang trị vị vương quốc Panduranga là vua Po Mưh Taha - một người
chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Hồi giáo Islam đã du nhập vào Champa từ sau thế kỷ X
theo con đường giao thương trên biển. Cũng trong thời kỳ này, Hồi giáo Islam (Hồi
giáo chính thống) phát triển mạnh mẽ ở Panduranga (Ninh Thuận & Bình Thuận
ngày nay).
Vua Po Mưh Taha có một cô con gái, nổi tiếng xinh đẹp là công chúa Po Bia Thơn
Chơn (sau này chánh thật, hoàng hậu Po Bia Thơn Chơn, vợ của vua Po Rome) đã
đến tuổi lấy chồng nhưng chưa ai có thể làm nàng vừa ý.
Một lần nàng cùng cha ra thành vị hành, cơ duyên đã để Ja Ka Thaut gặp Po bia
Thơn Chơn. Tức khắc, hình ảnh về một chàng trai có tướng mạo khôi ngô, khỏe
mạnh lại được nghe dân chúng đồn thổi về tài năng thao lược, bắn cung hay, giỏi võ
nghệ đã làm tim nàng rung động.
Biêt ái nữ của mình đã tìm được người vừa ý, vua Po Mưh Taha lệnh cho quân lý
truyền Ja Ka Thaut vào cung để thử tài năng. Đúng như lời đồn đại, Ja Ka Thaut quả
là một người có tài, rất vừa ý vua Po Mưh Taha, có thể gành vác giang sơn, đem lại
bình yên, ấm no cho dân chúng.
Chỉ không lâu sau, một đám cưới linh đình giữa cô công ch1 xinh đẹp và chàng
thành niên tài ba đã diễn ra. Vài năm sau, do tuổi già sức yếu nên vua Po Mưh Taha
đã truyền ngôi lại cho Ja Ka Thaut vào năm 1627. Ja Ka Thaut chính thức lên ngôi
trị vị Champa-Panduranga, lấy hiệu là Po Rome.
Vương quốc Panduranga & những thay đổi thời vua Po Rome trị vì
Vừa lên nắm quyền cai trị, vua Po Rome đã có những chính sách thay đổi để phát
triển đất nước. Ngài bắt đầu cũng cố và mở rộng ngoại giao với các nước lân bang
như Chân Lạp, Đại Việt, Cao Miên, … và liên kết chặt chẽ với các nước có liên hệ
mật thiết với Champa từ trước là Indonesia, Malaysia … Sự thay đổi này đã cho một
kết quả bất ngờ khi từ một vương quốc dần thu hẹp lãnh thổ do chiến tranh liên miên
với Đại Việt, Chân Lạp, Xiêm La, ... nay trở thành mối lo ngại.
Cũng trong thời gian này, do Hoàng hậu Po Bia Thơn Chơn hiếm muộn nên vua Po
Rome đã cưới người vợ thứ hai là thứ hậu Bia Than Can – người gốc Êđê.
Tại phía Bắc Panduranga, tình hình giữa hai tập đoàn chúa Trịnh đàng ngoài và
chúa Nguyễn đàng trong có nhiều chuyển biến phức tạp. Hai bên vẫn thường xuyên
giao chiến nhưng không thể phân thắng bại. Đặc biệt, sau đời chúa Tiên Nguyễn
Hoàng, đến đời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã chính thức xưng vương.
Khác với những đời Chúa trước, chúa Sãi luôn suy tính về việc mở rộng bờ cõi về
phương Nam. Thế nhưng, Champa dưới thời vua Po Rome rất hưng thịnh, lại thêm
thường xuyên đụng độ với tập đoàn chúa Trịnh ở đàng ngoài. Vì vậy, chúa Sãi đã
đưa ra một quyết sách là gả các ái nữ của mình cho vua Champa để thắt chặt tình
hữu nghị.
Tại Panduranga, những cải cách của vua Po Rome tuy đạt nhiều kết quả to lớn
nhưng ông cũng thừa biết, mọi thứ mà tập đoàn chúa Nguyễn đàng trong thực hiện
chủ đích là đang chuẩn bị lực lượng và tập trung vào việc phát triển kinh tế. Thế
nhưng, việc Champa kẹt giữa Đại Việt và Chân Lạp, thêm vào đó mối nguy của
Xiêm La luôn đặt Champa vào tình thế bất an bất cứ lúc nào.
Tuy nhiên, mọi việc bỗng trở nên khác khi trong một lần, công nữ Ngọc Khoa (con
gái thứ 3 của Chúa Sãi Nguyễn Phúc Vương) cùng phái đoàn vào Champa buôn
bán. Với sắc đẹp tuyệt trần, ngay từ lần đầu gặp, vua Po Rome đã bị cuốn hút. Nhận
thấy được điều này, Sãi Vương đã nghĩ đến việc thắt chặt tình hữu nghị hai nước
bằng việc gả Ngọc Khoa cho vua Po Rome.
Thế là không chần chừng, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên đã gửi lời đề nghị này cho
vua Po Rome. Và khi mới chỉ nhận được tin từ sứ giả, hoàng tộc và nhiều tướng lĩnh
Champa không đồng tình. Ai cũng khuyên vua Po Rome không nên thực hiện. Tuy
nhiên, trước tình thế phức hiện tại, thêm phần bị sắc đẹp Ngọc Khoa chiếm lĩnh suy
nghĩ nên vua Po Rome đã đồng ý.
Năm 1631, cuộc hôn nhân mang tính lịch sử giữa Champa và tập đoàn chúa
Nguyễn đàng trong chính thức diễn ra. Công nữ Ngọc Khoa được gả về Champa
cho vua Po Rome và chính thức trở thành thứ hậu thứ hai gọi Bia Ut (thứ hậu Yuôn).
Cuộc hôn nhân lịch sử & trận chiến của vua Po Rome với Đại Việt
Hôn ước giữa vua Po Rome và công nữ Ngọc Khoa không phải là hôn ước đầu tiên
của hai nước. Mà trước đó, năm 1936 Đại Việt và Chiêm Thành (Champa nay) đã
diễn ra một cuộc hôn ước lịch sử của vua Jaya Simhavarman III (Chế Mân) và công
chúa Huyền Trân (Ái nữ của vua Trần Nhân Tông).
Hôn ước này được vua Trần Nhân Tông mở lời trong chuyến dạo chơi ở Champa
kéo khoảng thời gian 9 tháng đầu năm 1301(nguyên nhân xuất phát từ sau khi
Chiêm Thành và Đại Việt cùng liên kết chống quân Mông - Nguyên xâm lược lần II,
từ tháng 12/1287 - 04/1288).
Đáp lại hôn ước của Đại Việt, vua Jaya Simhavarman III đã cắt châu Ô và châu Lý
làm sính lễ. Về sau, hai châu này được đổi tên là Thuận Châu và Hóa Châu (nay là
vùng đất từ tỉnh Thừa Thiên - Huế đến bờ sông Thạch Hãn của tỉnh Quảng Trị).
Đến thời chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên, để ổn định tình hình đất nước nhằm thực
hiện các ý đồ mở rộng lãnh thổ, trong vòng 10 năm, Sãi Vương đã quyết định gả hai
nàng công nữ cho hai vua của Champa và Chân Lập.
Cụ thể, cuộc hôn ước đầu tiên của công nữ Ngọc Vạn và vua Chân Lạp Chey
Chetta II diễn ra vào năm 1620. Và cuộc hôn nhân thứ hai vào năm 1631 giữa công
nữ Ngọc Khoa và vua Po Rome. Cả hai cuộc hôn nhân này đều mong muốn mối
giao bang ngày càng tốt đẹp. Tuy nhiên, đến thời chúa Nguyễn Phúc Tần (ở ngôi từ
năm 1648 - 1687), từ mối giao bang hòa hữu qua cuộc hôn nhân với Champa đã trở
thành cuộc chiến tàn khốc.
Với ý chí khôi phục và đòi lại những vùng lãnh thổ của Champa đã mất vào tay Đại
Việt, vua Po Rome đã phát động một cuộc chiến trên quy mô lớn vào năm 1651.
Cuộc chiến kéo dài trong khoảng hai năm với nhiều tổn thất nhất định từ hai bên.
Năm 1652, Nguyễn Phúc Tần sai cai cơ Hùng Lộc mang 3.000 quân tấn công
Champa từ Nha Trang đến Sông Phan Rang, vua Po Rome đem quân chống đỡ
nhưng thất bại. Ngài bị bắt và giải về Huế. Trên đường đi, để giữ hồn khí của một
đất minh quân, vua Po Rome đã tự kết liễu bản thân mình.
Cảm phục và ghi ơn đến vị vua anh minh, tài ba của đất nước. Nhân dân Champa
đã xây dựng một đền tháp mang tên ngài. Là nơi thờ cúng linh hồn, hóa thân vị vua
có nhiều công lao trong cuộc đời trị vị đất nước của mình.
Sau khi Po Rome tử trận, người em trai cùng mẹ khác cha là Po Nroup (1652-1653)
lên thay, nhưng quyền tự chủ đã không còn nằm trong tay của Champa. Sau chuỗi
sự kiện khi vua Po Rome lên nắm quyền cai trị Champa, ông đã giữ vững được nền
độc lập tự chủ đối với Đại Việt và các nước lân bang trong khoảng thời gian dài.
Chính vua Po Rome là người đã dung hợp giữa 2 tôn giáo Bà La Môn và Hồi Giáo
thành tập tục Chăm Avar Ahier thắt chặt tình đoàn kết như hiện nay.
Năm 1653, chúa Nguyễn cho triệu hồi vua Po Nroupra Huế, cùng đi có vài quan cận
thần mang theo nhiều vàng bạc châu báu hộ thân. Đến Huế vua Po Nroup bị chúa
Nguyễn giam lỏng 6 tháng và hoàn toàn bị kiểm soát. Để thoát khỏi sự giam lỏng,
vua Po Nroup và đã nhờ một vị cận thần thân tín của chúa Nguyễn tâu xin và được
tha trở về. Lời cầu xin được chấp nhận, vua Po Nroup trở lại quê hương và sống
trong lòng dân tộc Chăm. Sự kiện này được truyền tụng về Po Nroup bị bắt và tha
về trong dòng tộc đời đời nhắc nhở nhau mãi mãi./.
Tại sao nói đền tháp Po Rome là bản sao không hoàn hảo của đền tháp Po
Klong Garai?
Là công trình hoàn toạc được xây dựng theo phong cách hậu Bình Định - thời ký
Muộn, kết cấu và hình hài như khu đền tháp Po Klong Garai. Tuy nhiên, do xây
dựng trong giai đoạn Champa-Panduranga đã không còn quyền tự chủ, lại thêm nền
kiến trúc lúc này đã đi xuống nên tổng thể cụm đền tháp Po Rome có phần đơn điệu
và tối giản đi rất nhiều.
Cụ thể, cụm đền tháp Po Rome là một công trình kiến trúc bằng gạch gồm hai ngôi
tháp (tháp chính & tháp phụ) và một cái miếu nhỏ. Trong đó, tháp Chính là nơi thờ
phượng vua Po Rome và hoàng hậu Po Bia Sancan, được xây dựng theo cấu trúc
của ngôi tháp Chính trong khu đền tháp Po Klong Garai. Tháp còn lại là tháp phụ
thờ hoàng hậu Pra Sucih, đặc biệt gần tháp phụ còn là khu mộ táng của vua Po
Rome.
Điểm nhấn của cả công trình này chủ yếu tập trung hết vào ngôi tháp chính. Chi tiết,
ngôi tháp cao khoảng 8m, cạnh đáy rộng gần 8m. Tháp có mặt chính quay về
hướng Đông, trên cửa chính có các tầng hình vòng cung, dưới các hình vòng cung
là hình tượng thánh Siva và hình ngọn lửa. Cửa chính ra vào quay mặt về hướng
Đông, ở các cửa giả có hình các vị thần bằng đá trong tư thế ngồi, khuôn mặt các vị
thần mang đậm nét bản địa.
Về phần mái của ngôi tháp thì có ba tầng, mỗi tầng có 4 tháp góc, trên đỉnh mỗi tháp
góc có trang trí búp sen bằng đá và hình ngọn lửa trang trí ở 4 góc. Đặc biệt trong
mỗi hốc giả là hình ảnh một vị thần đang ngồi chắp tay trong tư thế cầu nguyện. Bên
trong là tượng bò thần Nandin nằm bên tay trái.
Từ những điều này, trong quá trình nghiên cứu và đánh giá của giới nghiên cứu:
“Tháp Po Rome là công trình kiến trúc lớn, nhưng nếu so với các tháp cổ hơn hiện
còn thì tháp Po Rome quả là thô và nghèo nàn. Điều này thể hiện rất rõ qua hình
dáng và kích thước của tháp. Nội thất bên trong là bài trí đơn giản của tượng thờ
vua Po Rome cao 1,2m được tạc từ Linga 8 tay đặt trên một bệ gỗ. Gần với tượng
vua Po Rome là tượng bán nữ thần hoàng hậu Po Bia Sancan cao khoảng 0,75m.”
Bằng những đánh giá này, có thể kết luận rằng, tháp Po Rome là công trình kiến
trúc có quy mô nhỏ nhất trong số các đền tháp ở Ninh Thuận. Là ngôi tháp có tuổi
đời trẻ nhất trong tất cả đền tháp Chăm ở Việt Nam, đồng thời là công trình còn
nguyên vẹn nhất.
Bài viết đã được đăng tải trên website chuyên về thông tin du lịch Ninh
Thuận www.reviewninhthuan.com
III. Các lễ hội lớn, tiêu biểu nhất của người Chăm Ninh
Thuận
Đôi nét về lễ hội Ramưvan của đồng bào Chăm Ninh Thuận
Ramưwan (hay Ramânvan, Ramadan) là lễ hội có nguồn gốc từ lễ tháng chay
“Ramadan” của người Hồi giáo được tổ chức vào tháng 9 Hồi lịch hàng năm. Đây
không chỉ là tháng chay niệm của người Chăm Awal (tức người Chăm Bàni) và
người Chăm Islam ở Ninh Thuận nói riêng mà là của cả cộng đồng Hồi giáo trên thế
giới nói chung. Tuy nhiên, người Chăm Bàni và Islam ở Ninh Thuận đã tiếp thu rồi
bản địa Hồi giáo và biến tháng chay tịnh “Ramadan” thành một lễ hội đặc sắc của
cộng đồng mình với những nét riêng biệt.
Theo đó hàng năm vào cuối tháng 8 đầu tháng 9 Hồi lịch, tất cả các làng Chăm
Bàni và Islam náo nức chuẩn bị cho mùa lễ hội Ramưvan. Các chức sắc chuẩn bị
kinh kệ, trang phục và các công cụ làm lễ. Phụ nữ mua sắm nguyên liệu chuẩn bị để
làm bánh trái, lễ vật và may sắm trang phục mới cho trẻ em.
Trước khi lễ hội Ramưwan diễn ra, người Chăm Ninh Thuận sẽ thực hiện nghi lễ
cúng tổ tiên tại các gia đình. Sau đó, mới bắt đầu tháng chay tịnh Ramưwan trong
các thánh đường. Đây được xem là thời gian quan trọng nhất của người Chăm Bàni
cũng như người Chăm Hồi giáo Islam.
Các tu sĩ phải tu ở thánh đường, không được về nhà và phải nhịn ăn ba ngày đầu.
Sau đó chỉ được ăn các lễ vật dâng cúng. Khi ăn, chỉ được dùng tay và ăn nửa bên
phải. Tu sĩ phải tắm rửa sạch sẽ, ít nhất mỗi ngày một lần. Riêng với cộng đồng
người Chăm Bàni (tức Chăm Awal) thì không phải nhịn ăn vào ban ngày như luật
Hồi giáo quy định. Còn cộng đồng người Chăm Hồi giáo Islam thì vẫn tuân thủ.
Đặc biệt, nếu tháng chay tịnh Ramadan là tháng mà người Hồi giáo trên thế giới là
tháng yên tĩnh, chỉ tập trung cầu nguyện trong thánh đường và không tổ chức các
hoạt động vui chơi, hội hè gì. Nhưng với người Chăm Bàni cũng như người Chăm
Islam thì tháng Ramadan là lúc diễn ra các hoạt động văn hóa thể thao, tạo nên
không khí tưng bừng, nhộn nhịp. Đây chính điều thể hiện cho sự tiếp thu và biến đổi
phù hợp với bản sắc văn hóa cộng đồng mình.
Những nghi thức trong lễ hội Ramưwan của người Chăm Ninh Thuận
Lễ hội hay tết Ramưwan của người Chăm Hồi giáo Bàni và Chăm Islam ở tỉnh Ninh
Thuận gồm hai phần: Cúng tổ tiên (Pambang Muk Kei) ở các gia đình và tháng chay
tịnh Ramưwan trong thánh đường. Cụ thể, …
Lễ tảo mộ
Người Hồi giáo không chính thống (tức là cộng đồng Chăm Bàni) thờ đa thần, vạn
vật hữu linh, trong đó có những vị nhân thần, những vị thần theo tín ngưỡng dân
gian, những vị thần Hồi giáo là ngày Nâbi Mohamad (ngôn sứ cuối cùng của thiên
chúa). Vì thế họ không được coi là Hồi giáo chính thống Islam mà hồi giáo Bàni.
Lễ tảo mộ được thực hiện ở nghĩa địa. Theo đó, người Chăm Hồi giáo Bàni khi chết
đi được chôn trong nghĩa địa gọi là Kabur rak (Ghur). Kabur là những ngôi mộ, mỗi
dòng tộc được địa phương phân cho một khoảng đất trong nghĩa địa để chôn cất
người thân khi qua đời.
Vào những ngày lễ trọng tâm trong một năm như Ramưwan, các thành viên trong
dòng tộc trở lại thăm viếng, chăm sóc phần mộ của thân nhân và cung kính mời gọi
vong linh về nhà an hưởng lễ vật mà thân nhân sẽ dâng cúng.
Trong ngày tảo mộ, dân chúng đổ về nghĩa trang trong những trang phục đẹp nhất,
những người đàn ông vai vác cuốc, tay xách ấm nước, còn những phụ nữ, những bà
mẹ đội những quả trầu (Nduen Ginyaong hay còn gọi là Nduen Sula) bằng mây tre
đan, một tay nách thêm chiếc chiếu cói con để các vị Acar ngồi làm lễ. Trong nghĩa
trang, người dọn cỏ, người vun đắp những phần mộ, tiếng gọi nhau tạo nên khung
cảnh rất riêng của một năm nơi thân nhân đang yên nghỉ.
Việc thực hành nghi lễ tảo mộ ở nghĩa trang cũng khá độc đáo. Trước khi làm lễ các
vị Acar làm thủ tục quấn khăn áo đâu vào đó. Sau đó thực hiện nghi thức tẩy uế cho
những phần mộ bằng động tác dội nước thánh (Aia gar) lên phiến đá mộ và đọc
những bài kinh thánh tẩy, một lần nữa họ lại bôi lên phiến đá hỗn hợp nước với bột
vỏ cây cam rừng (Luk aia kalik phun kruec),
Những Acar chủ lễ và những trợ tế của dòng tộc ngồi thành dây dọc theo những
ngôi mộ, tụng những bài kinh dài được rút ra từ bộ kinh Kuru-ưn (Koran) bằng thứ
tiếng Ả Rập trầm buồn trong khói hương trầm thơm nghi ngút.
Lễ vật của lễ tảo mộ là những miếng trầu têm Dam – Dara, loại trầu được têm bằng
một nửa chiếc lá, bôi một chút vôi, hình chữ nhật khoảng 2cm vuông đã được những
bà mẹ chuẩn bị lúc gà gáy nửa đêm. Chấm dứt bài kinh, những Acar gửi chúng lại
dưới những phiến đá cho những vong linh “ăn theo đường” về sum họp với người
trầm mặc, vắng lặng vốn có của nó.
Thông thường ở những làng thuộc khu vực nghĩa trang cổ Darak Anaih ở các làng
như An Nhơn, Phước Nhơn, Lương Trì. Thí cúng tạm được tổ chức quy mô, đồ ăn,
thức uống được bày cúng ê hề, không khác gì một cái tiệc lớn. Còn ở những khu
vực nghĩa trang khác thuộc huyện Ninh Phước, tiêu biểu là nghĩa trang cổ Dil của
làng Sơn Hải thì lễ cúng tạm chỉ dọn 2 dĩa gỏi, bánh tráng nướng và một ít rượu.
Người dâng cúng thông thường là người đàn ông lớn tuổi trong tộc họ, ở lần cúng
này người ta sử dụng tiếng Chăm nói năng trong sinh hoạt hàng ngày để mời những
vong hồn, thân nhân về hưởng lễ.
Kết thúc lễ
Thánh lễ kết thúc, các vị Acar ngồi thành vòng tròn giữa thánh đường từng người
một đến bắt tay chủ lễ, mỗi lần bắt tay như vậy họ đưa bàn tay phải lên chạm mũi,
ngỏ ý chúc mừng chủ lễ đã hoàn tất công việc mà Po Auluah đã giao phó.
5.1. Luật tục Chăm trong hôn nhân và gia đình: Những ràng buộc
và cấm kỵ
Người Chăm quan niệm, đời người có ba lần sinh và ba lần mất. Chào đời, dựng vợ
gả chồng và rời xa trần thế. Mỗi lần sinh và mỗi lần mất như thế, theo tín ngưỡng,
tập tục của đồng bào đều có những lễ thức, lễ nghi để trình bày với ông bà, tổ tiên
và thần thánh chứng giám.
Ví dụ, khi chuẩn bị chào đời (lần sinh và lần mất đầu tiên), gia đình sẽ tổ chức các lễ
như cúng bà mụ (tiếng Chăm gọi là Mâlieng muk buai), lễ Akhan prauk (cúng đầy
tháng Palau Yang), … Lúc dựng vợ gả chồng, tùy theo tín ngưỡng của đạo
Bàlamôn, Bàni, Hồi giáo Islam mà đồng bào sẽ có những lễ khác nhau. Đến lúc chết
cũng vậy, cũng tùy theo tín ngưỡng mà đồng bào tổ chức khác nhau.
Quan niệm là một chuyện, nhưng để ràng buộc cá nhân mỗi người trong cộng đồng
dân tộc, đồng bào còn hoàn thiện hệ thống những Luật tục, quy định nhằm hướng
con người đi theo chuẩn mực xã, hội đạo đức.
Hệ thống Luật tục quy định những chuẩn mực xã hội đạo đức của đồng bào Chăm
Ninh Thuận có rất nhiều. Nhưng quan trọng và cụ thể vẫn là những Luật tục về giao
tiếp, ứng xử, đối xử trong gia đình, dòng tộc, cộng động và xã hội. Tiêu biểu có thể
kể đến một vài Luật tục như tang ma, cưới hỏi, hôn nhân, gia đình, phân chia tài
sản, chức sắc tôn giáo, quyền bình đẳng, luật thi hành chung trong cộng đồng, trật
tự, làng xóm … rất nhiều.
Nổi bật trong hệ thống Luật tục này thì Luật tục quy định hôn nhân và gia đình chiếm
vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa, xã hội và cộng đồng. Bởi lẽ, vì người Chăm
theo chế độ mẫu hệ nên nữ giới sẽ đi cưới nam giới, gái là nội tộc và bên trai là
ngoại tộc.
Vài nét tổng quan về Luật tục hôn nhân đồng bào Chăm Ninh Thuận
Theo quy định thì Luật tục Chăm chỉ thừa nhận chế độ hôn nhân một vợ, một chồng,
tuy nhiên, nếu hai người muốn kết hôn thì phải có sự đồng ý của cha mẹ và hai bên
họ tộc.
Để được công nhận là vợ chồng, trước hết nhà gái phải làm các lễ như lễ dạm hỏi
(luak panuec), lễ hỏi (ahar puec), lễ kết (ahar klaaoh panuec), và lễ cưới (ndam ndih
anâk mâtwn hay nadam khah). Trong các lễ phải thực hiện này thì lễ cưới (lễ kết)
đóng vai trò quyết định. Để thực hiện lễ kết, đại diện họ đàng trai và họ đàng gái sẽ
cùng bàn bạc, thảo luận để thống nhất định ngày giờ tổ chức đám cưới.
Lễ cưới là khâu cuối cùng, phải có sự tham gia đầy đủ của hai bên gia đình, tộc họ
và làng xóm. Luật tục Chăm quy định sau lễ cưới chú rể phải ở nhà cô dâu ba ngày
ba đêm theo phong tục thì lễ cưới đó mới có giá trị và được coi là bằng cớ hôn nhân.
Trong ba ngày đêm ba đêm đó, chú rể tuyệt đối không được về nhà mình cho dù
nhà có gần đó. Trong trường hợp hai bên đã thống nhất ngày cưới trong lễ kết mà
một bên không thực hiện và không có lý do chính đáng thì Luật tục Chăm quy định
phạt vạ.
Cụ thể, bên vi phạm phải bồi thường danh dự bằng váy, áo và cặp vòng tay bằng
đồng, kèm theo lễ vật trầu rượu để cúng tạ tổ tiên và thiết đãi họ hàng của người bị
bãi hôn. Việc phạt vạ theo tập tục này chỉ là một thứ nhằm bắt đền phía bên hủy
hôn. Nhưng sau câu chuyện phạt vạ thì lại khác. Người Chăm coi danh dự rất lớn.
Người Chăm có câu nói: “Thà mất đôi trâu, đừng để mất danh dự”. Trong hôn ước
cũng vậy, việc thất ước bãi hôn là vi phạm thuần phong mỹ tục để lại hậu quả là
người con gái bị lỡ duyên sau này không ai lấy.
Đó là quy định trong sự cố hủy hôn. Còn khi hai bên đã thống nhất trong lễ kết, song
chưa tới ngày mà trong họ của một trong hai bên có tang, hoặc trong họ tộc của một
trong hai bên vừa tổ chức các lễ nghi lớn như lễ nhập kut, lễ múa lớn thì phải tạm
đình chỉ hôn. Thời gian đình chỉ ít nhất là một năm.
Luật tục quy định là vậy. Nhưng để đôi trẻ mau đến được bên nhau, hai bên dòng
tộc sẽ tổ chức cho cưới lén, tức là không tổ chức cưới chính thức mà chỉ cúng tổ tiên
trong nhà. Điều này Luật tục cho phép và được cộng đồng công nhận.
Đến khi nào mãn hạng kiêng cữ thì nhà gái đem lễ vật (trầu rượu bánh trái) đến nhà
trai cúng tạ lỗi với tổ tiên và thiết đãi họ hàng nhà đàng trai. Hôn nhân lúc này mới
thật sự gọi là chính thức.
Cấm kết hôn giữa người chồng và người con riêng của vợ do lấy chồng trước
mà có, và ngược lại
Cấm kết hôn giữa người chồng và người con riêng của vợ do lấy chồng trước mà có,
và ngược lại vợ không được lấy con riêng của chồng do lấy vợ trước mà có. Nếu xảy
ra điều này, Luật tục Chăm sẽ quy vào tội loạn luân. Để tránh xảy ra điều này, Luật
tục Chăm thường nói rằng: “Con vật, cây cỏ còn biết gốc rễ, ngọn nguồn, huống chi
là con người có tri giác, có óc suy nghĩ mà không biết mình từ đâu sinh ra”.
Để nhấn mạnh thêm vấn đề, Luật tục còn phân tích chi tiết hơn, người nào phạm tội
loạn luân sẽ làm đất trời nổi giận, con người không ăn đời ở kiếp với nhau được.
Không những thế, người cố tình phạm tội loạn luân còn làm cho đạo đức xã hội đảo
lộn, suy đồi, xóm làng rối ren, thần linh nổi giận, gieo tai ương cho cả cộng đồng như
mất mùa, đói kém và dịch bệnh.
Qua những điều này, Luật tục muốn nhắn nhủ rằng, đây không chỉ là trách nhiệm
của mỗi cá nhân và còn cả cộng đồng. Nếu mỗi cá nhân trong cộng đồng không
tuân theo, một khi đã phạm tội loạn luân thì người vi phạm sẽ bị xử tội chết theo
hình thức bỏ giỏ thả trôi sông.
Minh chứng cho điều này, nội dung trong Luật tục Chăm viết chi tiết:“Cây có cội,
nước có nguồn, con vật còn biết nhận nhau. Con người có tổ có tông có dòng có họ.
Anh em một nhà xin đừng lấy nhau. Trời đất nổi giận, biển động sấm rền cây trên
núi rung rinh. Anh không biết em, cha mẹ không biết con cái. Đất trời chuyển đổi,
loài người diệt vong”.
5.2. Luật tục Chăm trong hôn nhân và gia đình: Hủy hôn, tảo hôn
và các hình thức phạt vạ
Tiếp tục phần II với những quy định trong Luật tục Chăm về hôn nhân và gia đình.
Phần II sẽ đề cập về hình thức phạt trong Luật tục hôn nhân và gia đình.
Cấm kết hôn với người khác dân tộc mình, khác tôn giáo hay người cùng dân
tộc song khác tôn giáo
Trong gia huấn của cộng đồng Chăm và Bàni có viết: “Chăm Bàlamôn, Chăm Bàni
khác tôn giáo. Do đó không được phép kết hôn với nhau. Kết hôn với nhau bị xóm
làng cười chê. Phạt đòn roi cho đến chết, chỉ vì em thương người Bàni”. Vốn như
vậy là vì theo quan niệm của người Chăm, người khác dân tộc, khác tôn giáo là
người không cùng tục thờ thần, không cùng tiếng nói với mình và nếu hết hôn như
thế là không bảo đảm tính thuần khiết của nòi giống.
Họ bị xem là người ngoại lai, người uế tạp và bị tước đi mọi quyền lợi, nghĩa vụ. Con
cái của họ khi chết đi sẽ không được chính thức hóa thân: ở đạo Bàlamôn sẽ không
được nhập Kut, ở đạo Bàni sẽ không được nhập Ghur.
Họ không được tham gia vào các nghi lễ tôn giáo như đám tang, lễ nhập Kut, nhập
Ghur của cha hoặc mẹ khi chết, mà theo phong tục Chăm tham dự các nghi lễ trên
là nghĩa vụ thiêng liêng của người con có hiếu và phải hoàn thành cho chu đáo, đó
là dịp người con trả ơn công lao sinh thành và dưỡng dục cho cha mẹ. Đây cũng là
lý do vì sao mà khi kết hôn như thế, họ bị coi là người con bất hiếu, bị cha mẹ từ
chối, bị làng hay cộng đồng tôn giáo của mình loại bỏ.
Mặt khác, mọi người Chăm đều thuộc vào một tôn giáo và họ muốn bảo vệ tôn giáo
mình. Họ sợ mất người của tôn giáo mình nên không muốn có quan hệ hôn nhân với
người có tôn giáo khác. Đặc biệt, vì theo chế độ mẫu hệ, con trai cư trú bên vợ, con
cái tính theo dòng họ mẹ, nên không muốn cho con trai đi cưới vợ bên tôn giáo
khác.
Ngày nay, tuy hôn nhân giữa hai người cùng dân tộc, song khác tôn giáo trong cộng
đồng dân tộc Chăm không bị nghiêm cấm khắt khe nữa. Trong cộng đồng đã có một
số trường hợp họ lấy nhau, song ảnh hưởng của các quy định trên vẫn còn đè nặng
trong đời sống tinh thần của mỗi cá nhân và cộng đồng.
Dẫu là vậy, nhưng so với nhiều dân tộc anh em ở vùng Tây Nguyên, trường hợp anh
chết, Luật tục Chăm không ép buộc em phải lấy vợ của anh mình, hay anh chết thì
phải lấy vợ của em mình, cũng như khi chồng của chị hoặc em chết, thì em hoặc chị
không buộc phải lấy chồng của chị hoặc em mình.
Luật tục Chăm và những hình thức phạt và trong hôn nhân, gia đình
Như đã đề cập ở phần trên, Luật tục của dân tộc Chăm quy định rất rõ là sẽ không
chấp nhận hôn nhân trong trường hợp không có sự chứng kiến, đồng ý của cha mẹ
và tộc họ hai bên. Nếu vi phạm, không chỉ người con trai bị tộc họ xử phạt, mà nhà
gái cũng bị tộc họ nhà trai phạt vạ bằng lễ trầu, rượu.
Tuy nhiên, trong trường hợp “cưới lén”, tuy không có sự chứng kiến của cha mẹ nhà
trai, song Luật tục Chăm vẫn cho phép khi người con trai hoặc người con gái đã lớn
tuổi (lớn hơn 30 tuổi), hoặc hai người đã góa vợ, góa chồng. Khi có con, họ phải
đem lễ vật “trầu rượu” để thú tội với tổ tiên tộc họ nhà trai.
Trường hợp cưới người con gái không có chồng mà mang thai, Luật tục Chăm quy
định tộc họ phải phạt vạ bằng roi để tìm ra cha của đứa bé trong bụng. Nếu người
mang thai khai ra cha đứa bé, mà người con trai đó chưa có vợ, thì Luật tục Chăm
buộc người đó phải kết hôn với người mang thai. Còn khi người con trai đó đã có vợ,
theo Luật tục Chăm, sẽ bị phạt vạ bằng lễ trầu rượu, váy, áo, vòng tay cho bên nhà
gái.
Còn trong trường hợp, người mang thai không khai ra cha đứa bé trong bụng thì
người đó bị kết tội là loạn luân. Nhưng không phải chịu chế tài bỏ giỏ thả trôi sông
như các hành vi loạn luận khác, mà cả cha mẹ đứa con sinh ra sau này sẽ bị loại ra
khỏi cộng đồng, khi chết không được gia nhập vào nghĩa địa của dòng họ.
Luật tục Chăm cũng quy định hôn nhân một vợ, một chồng và không chấp nhận tình
trạng đa thê. Tuy nhiên, người Chăm quan niệm mục đích lấy vợ là để sinh con nối
dòng, về sau có con thờ phụng. Vì thế, Luật tục Chăm quy định nếu hai vợ chồng
chung sống với nhau đã lâu mà không có con thì sẽ có hai trường hợp xảy ra.
Trường hợp thứ nhất, nếu được vợ cả đồng ý thì người chồng có quyền đi lấy vợ lẽ
để có con nối dõi và thờ phụng, song quyền của vợ lẽ không được xem như ngang
bằng vợ cả, mà vợ lẽ chỉ chung sống với chồng, với mục đích sinh con cho chồng.
Vì thế người chồng không được làm ăn, sinh sống bên nhà người vợ lẽ.
Luật tục Chăm cũng quy định nếu chồng đi lấy vợ lẽ mà không có sự đồng ý của vợ
cả thì người vợ cả có quyền đưa chồng về giao cho cha mẹ người chồng. Điều này
có nghĩa là ly hôn.
Trường hợp thứ hai, hai vợ chồng có thể xin con nuôi và Luật tục Chăm quy định
con nuôi có quyền và nghĩa vụ như con đẻ, trừ trường hợp đã thừa kế nêu trên. Tuy
nhiên, đứa trẻ nhận làm con nuôi phải là những người con trong dòng họ, trước hết
là dòng họ mẹ nhằm bảo vệ quyền cho đứa trẻ về sau.
Quy định về ly hôn sau quá trình kết hôn trong Luật tục Chăm
Không những là các quy định khắt khe trong kết hôn mà sau khi kết hôn, chính xác
là ly hôn, Luật tục Chăm còn quy định cụ thể điều kiện ly hôn, thủ tục ly hôn và hậu
quả khi ly hôn.
Quy định về điều kiện ly hôn và thủ tục ly hôn
Luật tục Chăm quy định cho phép chồng ly hôn trong các trường hợp sau đây:
Vợ ngoại tình (với điều kiện người chồng phải bắt được quả tang người vợ ngoại
tình)
- Vợ chửi chồng và cha mẹ tổ tiên nhà chồng.
- Vợ bỏ nhà, bỏ chồng trong thời gian ba tháng không có lý do chính đáng.
- Vợ không chăm sóc gia đình, con cái, chửi bới cha mẹ, xóm làng.
Ngược lại, vợ được phép ly hôn chồng trong các trường hợp sau:
- Chồng chửi bới vợ, cha mẹ tổ tiên bên vợ thậm tệ.
- Chồng uống rượu bỏ bê nhà cửa, không làm ăn nuôi vợ con hay theo người
con gái khác (vợ bé) khi không được vợ cả đồng ý.
Để lý hôn, Luật tục Chăm quy định người chủ động xin ly hôn phải tới nhà cha mẹ
tinh thần (vợ chồng làm inâ - amâ (chủ hôn) trong lễ cưới) và trưởng tộc họ trình bày
lý do xin ly hôn. Nhận được lễ xin ly hôn, cha mẹ tinh thần phải hòa giải, nếu hòa
giải không được thì làm lễ ly hôn. Lễ ly hôn tổ chức bên nhà gái có sự chứng kiến
của hai họ bao gồm trưởng tộc, cha mẹ, cha mẹ tinh thần, hai người xin ly hôn và
một số bà con thân thuộc.
Bắt đầu buổi lễ, người chủ động xin ly hôn giải trình lễ trầu rượu lên hội đồng xét xử
và trình bày lý do ly hôn. Quyết định ly hôn phải được cha mẹ tinh thần thực hiện
bằng một lễ cúng trình báo tổ tiên tộc họ bên vợ, xin loại trừ người chồng ra khỏi gia
đình vợ.
Sau đó làm lễ “chẻ đũa”, chẽ cây đũa làm hai (với người Chăm Bàlamôn), và lễ “xé
lá trầu”, xé lá trầu làm hai (với người Chăm Bàni), đưa cho hai người, mỗi người một
nửa trước sự chứng kiến của hai họ, và từ đây, ly hôn có hiệu lực.
Qua lễ ly hôn, người chồng có quyền đi lấy vợ khác ngay, còn người vợ phải ba
tháng sau mới được đi lấy chồng khác. Trong trường hợp người vợ không đi lấy
chồng khác thì người chồng có thể trở lại với vợ cũ, khi đó họ phải làm lễ cúng tạ tội
với dòng họ, …
5.3. Lục tục Chăm trong hôn nhân và gia đình: Hôn nhân và trách
nhiệm của gia đình
Kết thúc phần I và phần II với bao điều hấp dẫn. Phần III trong Luật tục quy định
trong hôn nhân, gia đình của người Chăm Ninh Thuận sẽ đề cập vấn đề Hôn nhân
và trách nhiệm của gia đình.
Luật tục Chăm quy định trách nhiệm của gia đình khi kết hôn
Về gia đình, Luật tục Chăm quy định trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình
với nhau. Cụ thể là, cha mẹ sinh ra con cái thì phải có trách nhiệm nuôi dạy con cho
tới tuổi trưởng thành, mọi việc sai trái của con chưa tới tuổi trưởng thành đối với làng
xóm cộng đồng thì cha mẹ phải chịu trách nhiệm.
Con cái có nghĩa vụ chăm sóc phụng dưỡng cha mẹ lúc còn sống và lo đầy đủ các
lễ nghi cho cha mẹ khi cha mẹ chết, nhập Kut hoặc Ghur và đó là nghĩa vụ thiêng
liêng. Chỉ khi hoàn thành nghĩa vụ trên thì cái mới được coi là đã trả được công lao
sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, nhất là đối với con gái út.
Trong trường hợp con cái mà đặc biệt là con gái út không chăm sóc phụng dưỡng
cha mẹ lúc về già thì không được quyền thừa kế tài sản, không được quyền tham
gia các lễ nghi đám tang, cúng cho cha mẹ. Họ bị xem là người con bất hiếu và bị
cộng đồng lên án.
Luật tục Chăm còn quy định người con khi đã phạm tội muốn hòa nhập lại với gia
đình, cộng đồng thì phải làm lễ thú tội bằng trầu, rượu với cha mẹ trước sự chứng
kiến của tộc họ. Đối với người Chăm, người con hỗn láo với cha mẹ, ông bà, anh chị
em là người vô đạo đức.
Khi đó, gia đình tộc họ và cả làng xã phải có trách nhiệm giáo dục con người đó.
Nếu người đó phạm tội thì sẽ bị xử phạt tùy theo tội. Nếu hỏi cải thì người con đó
cũng phải sắm lễ vật trầu rượu thú tội với ông bà, cha mẹ, anh chị em trước sự
chứng kiến của tộc họ.
Luật tục Chăm quy định trách nhiệm con rể, nhà cha mẹ vợ sau khi kết hôn
Về vấn đề con nuôi, người Chăm quan niệm lấy vợ, lấy chồng là để sinh con nối dõi,
có người thờ phụng lúc tuổi già. Nếu hai vợ chồng không có con mà không muốn ly
hôn, họ được quyền nhận nuôi con. Người con nuôi đó trước hết được chọn một
trong số những đứa trẻ trong dòng họ bên vợ. Nếu không có mới chọn một đứa trẻ
ngoài họ. Sỡ dĩ Luật tục Chăm quy định cụ thể như vậy vì việc chọn nuôi có liên
quan đến việc thừa kế tài sản như đã trình bày ở phần trên.
Vì theo chế độ mẫu hệ, Luật tục Chăm quy định khá chi tiết vì quan hệ giữa người
con rể với gia đình vợ. Cụ thể là, người chồng tuy đã làm lễ nhập vào gia đình họ vợ
trong lễ cưới, được coi là thành viên của gia đình vợ, song trong quan niệm của dân
tộc Chăm thì anh ta chỉ là người ngoài (urang parat), người ở thuê (urang daok
apak) hay người mượn (urang samando).
Khi xử lý mọi việc trong gia đình hầu hết không thuộc quyền của người con rể (dù
anh ta là chồng, là cha trong gia đình riêng của mình) mà thuộc về người anh trai cả
vợ, cha vợ hay cao hơn là trưởng tộc. Tuy nhiên, vì người chồng là người trụ cột
trong việc truyền nòi giống và xây dựng của cải vật chất cho gia đình, nên Luật tục
Chăm quy định gia đình tộc họ bên vợ phải tôn trọng chàng rể: “Cha mẹ vợ phải tôn
trọng chàng rể, thoảng hương khói trầm bởi có lửa, để gia đình hòa thuận thì cha mẹ
phải nhường nhịn chàng rể: nhịn điều hay, giữ điều lành, giữ gìn giàn bầu để bí leo
lâu”, ý là cha mẹ vợ phải nhịn chàng rể để con mình khỏi phải ở giá. Luật tục Chăm
quy định vì lý do nào đó mà cha mẹ vợ ỷ lại, chửi bới hay đánh đập chàng rể vô cớ,
thì chàng rể có quyền bỏ đi lấy vợ khác mà không bị cộng đồng lên án, không bị luật
tục phạt vạ (“Đánh chàng rể thì con mình ở giá”).
Luật tục Chăm quy định trong trường hợp gia đình phía chồng không có con gái giữ
nhà thì người chồng có thể yêu cầu cha mẹ vợ cho vợ sang nhà mình để phụng
dưỡng cha mẹ già, đồng thời nhà vợ luôn trong tư thế sẵn sàng phục dịch nhà
chồng khi nhà chồng có việc (“Lấy chồng đến con chó nhà chồng cũng phải biết”).
Trong quan hệ với gia đình vợ, Luật tục Chăm quy định người chồng, vì phận làm
con rể, phải lễ độ kính trọng cha mẹ vợ, cho dù bị cha mẹ vợ mắng chửi thì chàng rể
vẫn phải nhường nhịn (“Phận làm rể trong nhà, đừng chửi chó mắng mèo trước mặt
cha mẹ vợ”).
Nếu chàng rể hỗn láo với cha mẹ vợ, vi phạm luật tục, hoặc xét thấy chú rể không
như ý thì cha mẹ vợ có quyền đuổi chú rể ra khỏi nhà. Tuy nhiên, theo Luật tục
Chăm thì trong trường hợp này, cha mẹ vợ phải chọn con của người vợ. Trường hợp
người vợ đồng ý theo cha mẹ, thì gia đình, họ tộc thì có thể đem trả người chồng về
nhà.
Song luật tục Chăm có quy định nếu người chồng không đồng ý, không muốn về thì
có quyền nằm lì không chịu về. Khi đó nhà gái không được trả nữa mà vẫn phải cho
người chồng ở lại. Người chồng phải làm lễ trầu rượu xin lỗi cha mẹ vợ. Trường hợp
người vợ không đồng ý, thì người vợ theo ra ở riêng tách hẳn khỏi gia đình cha mẹ.
Trong trường hợp này, Luật tục Chăm quy định cha mẹ không được ngăn cấm mà
phải trích một phần của cải của gia đình cho hai vợ chồng, và đồng thời, chàng rể
cũng phải làm lễ trầu rượu xin lỗi cha mẹ vợ.
Trong đời sống gia đình, tộc họ cũng có khi có xích mích, bất đồng giữa các thành
viên. Nếu mâu thuẫn quá trầm trọng không giải quyết được thì hai bên sẽ tự nguyện
tuyên thệ với thần linh cắt đứt quan hệ với nhau. Song như thế, theo quan niệm của
dân tộc Chăm thì tổ tiên sẽ nổi giận trừng phạt cả gia đình và tộc họ.
Người Chăm thường nói:”Răng với lưỡi làm sao không va chạm. Chân lỡ đạp cứt nỡ
nào chặt bỏ”. Vì thế, để tránh tổ tiên nổi giận trừng phạt gia đình tộc họ, thì gia đình
phải sum họp, và họ phải làm lễ cúng cơm hứa trước linh hồn tổ tiên không bao giờ
tái phạm nữa. Khi đó, hương hồn tổ tiên mới về dự, phù hộ độ trì cho con cháu, mỗi
khi cá nhân, gia đình, tộc họ tổ chức các nghi lễ trong gia đình.
Tóm lại, Luật tục Chăm trong điều chỉnh quan hệ hôn nhân - gia đình đã gắn truyền
thống xã hội với cơ chế tâm linh tạo cho các thành viên trong cộng động có sự gắn
bó mật thiết và ràng buộc lẫn nhau. Hệ thống luật tục đó đã chứa đựng các chuẩn
mực, đạo đức, luân lý nhằm bảo vệ lợi ích cá nhân, nề nếp gia đình, trật tự xã hội
nên nó đã trở thành phương thức hữu hiệu để quản lý và điều hòa xã hội.
Bài viết được tổng hợp từ sách “Văn hóa phi vật thể người Chăm Ninh Thuận”
của tác giả Phan Văn Dốp – Phan Quốc Anh – Nguyễn Thị Thu, Nxb Nông
Nghiệp.
Bài viết đã được đăng tải trên website chuyên thông tin du lịch Ninh Thuận
www.khamphaninhthuan.com
Những lục tuần và tầm ảnh hưởng của chế độ mẫu hệ trong đời sống
Theo nội dung trong quyển “Văn hóa phi vật thể người Chăm Ninh Thuận” của ba
tác giả Phan Văn Dốp, Phan Quốc Anh, Nguyễn Thị Thu đồng chủ biên: “Luật tục
được hiểu là những hệ thống quy phạm xã hội được thể hiện bằng cách các câu thơ
có vần, có điệu, bao gồm các quy tắc xử sự chung trong cộng đồng người Chăm,
chứa đựng những tiêu chí về đạo đức, luân lý, cách ứng xử, phong tục, tập quán, lễ
nghi, tín ngưỡng tôn giáo được nhiều thế hệ người Chăm xây dựng và lưu truyền từ
xa xưa cho đến ngày nay.
Những điều này nhằm mục đích điều chỉnh các quan hệ xã hội trong cộng động,
được mọi thành viên trong công động người Chăm tự giác thực hiện”.
Luật tục về các quy định trong tài sản và thừa hưởng tài sản trong gia đình
Luật tục Chăm cũng quy định toàn bộ tài sản phục vụ việc cúng tế trong gia đình
như quần áo cúng tế, nồi đồng, mâm đồng, ống nhổ, chén bát,… do con gái út thừa
hưởng toàn bộ và có trách nhiệm quản lý để thờ cúng cha mẹ, tổ tiên.
Đối với các loại tài sản khác trong gia đình như nhà cửa, ruộng đất, trâu bò, tiền bạc,
…khi cha mẹ còn sống thì trích cho con gái lớn một phần tài sản khi họ lập gia đình
ra ở riêng, trích một phần cho con trai làm của hồi môn khi cưới vợ.
Khi cha mẹ chết thì phần lớn tài sản do con con gái út thừa kế. Một phần nhỏ chia
có các chị gái nhưng luật tục không quy định cụ thể là chia bao nhiêu mà do người
em gái út quyết định. Các anh em trai không được quyền hưởng tài sản thừa kế của
cha mẹ dù họ có công đóng góp vào khối tài sản chung của gia đình khi cha mẹ còn
sống
Trong trường hợp con nuôi, nếu con nuôi là con của chị, em ruột của vợ thì người
con nuôi sẽ được hưởng toàn bộ tài sản thừa kế. Nếu là con của một người trong
dòng họ vợ thì nó sẽ được hưởng ⅔ khối tài sản, ⅓ khối tài sản sẽ được trả lại cho
dòng họ của người vợ và nếu là con của một người ngoài thì nó chỉ hưởng một nửa
khối tài sản, phần tài sản sẽ thuộc về dòng họ vợ.
Theo chế độ mẫu hệ, vai trò người phụ nữ được đề cao. Toàn bộ tài sản trong gia
đình do người vợ quản lý. Toàn bộ các vấn đề kinh tế trong gia đình cũng do người
vợ quyết định.
Khi các anh em trai và chị gái còn sống với gia đình cưa ra ở riêng thì tài sản làm ra
nhập chung với tài sản gia đình do người mẹ quản lý mà không được quyền lập tài
sản riêng. Do đó, nếu các anh em trai và chị gái không còn ở với cha mẹ mà chết thì
đương nhiên theo Luật tục Chăm thì sẽ không có tài sản riêng và không phát sinh
vấn đề thừa kế. Trong trường hợp này đương nhiên cha mẹ phải là người lo việc
cúng tế cho con cái.
Trong gia đình, khi người chết trước, toàn bộ tài sản do chồng làm ra khi còn sống
do vợ quản lý và tất nhiên khi chồng chết vợ phải lo tang ma cho chồng. Sau khi
người vợ chết thì toàn bộ tài sản giao cho con gái út quản lý và có trách nhiệm lo
tang ma, cúng tế cho cha mẹ, ông bà tổ tiên. Khi người vợ chết trước, toàn bộ tài
sản trong gia đình sẽ do người chồng quản lý và lo tang ma cho vợ.
Khi mãn tang vợ (1 năm), con gái út đã trưởng thành thì người chồng phải giao toàn
bộ tài sản cho con gái út quản lý nếu người chồng đi lấy vợ khác. nếu không lấy vợ
khác, người chồng vẫn tiếp tục quản lý tài sản. Và, khi người chồng vẫn ở vậy, chết
thì con gái út hưởng toàn bộ tài sản thừa kế.
Trong trường hợp vợ chồng không có con, vợ chết trước thì chồng sẽ lo tang ma cho
vợ. Khi mãn tang, chồng phải giao toàn bộ tài sản cho tộc họ bên vợ. Người chồng
chỉ được trích một phần nhỏ mang theo về nhà mẹ để làm kế sinh nhai và chi phí
cho tuổi già.
Ghur (nghĩa trang) của người Chăm Bàni trong tập tục làm tang ma
Ghur hay ghurrak, là nghĩa trang tộc mẹ của người Chăm Bàni, là nơi yên nghỉ của
những người sau khi qua đời, đồng thờ là nơi diễn ra nhiều nghi thức, nghi lễ trong
các lễ hội lớn nhỏ mà Ramưwan là một điển hình.
Khác với Kut (nghĩa trang dòng họ mẹ của người Chăm Bàlamôn), một làng Chăm
Bàni chỉ có một Ghur duy nhất. Trong ghur, mỗi dòng tộc sẽ có khoảng một khuôn
viên để chôn cất người trong dòng họ mình. Thường thì Ghur được đặt cạnh làng,
chỉ cách làng vài trăm thước. Được biết, ngày trước Ghur của đồng bào Chăm Bàni
đa phần tập trung gần với các bờ biển [trải dài từ Cà Ná (xã Cà Nà – huyện Thuận
Nam) đến Mỹ Hiệp (xã Thanh Hải – huyện Ninh Hải) bây giờ]. Tuy nhiên, do biến
thiên lịch sử, nhiều làng Chăm Bàni dời đi xa khỏi vùng biển, cho nên có nhiều ghur
không còn an táng nữa nhưng không phải vì thế mà ghur bị bỏ hoang hẳn.
Điều này khác với kut của người Chăm Bàlamôn, vì theo chế độ mẫu hệ nên người
em gái út sẽ hưởng hết gia tài và nhận trọng trách chăm sóc mồ mả, ông bà tổ tiên.
Cho nên, người con gái út cuối cùng thuộc dòng tộc dù như thế nào cũng phải quan
tâm. Chỉ trừ khi là gia đình không có con gái út, hoặc vì điều kiện nào đó không thể
qua tâm.
Ở Ninh Thuận, hiện còn hai ghur cổ hiện còn được thờ phụng là ghur Darak Naih ở
thôn Khánh Nhơn – xã Nhơn Hải – huyện Ninh Hải và ghur Ram ở gần thôn Sơn Hải
– xã Phước Diêm – huyện Thuận Nam. Hai ghur này có mặt từ ba thế kỹ trước. Còn
ở Bình Thuận, có ghur Karang là nghĩa trang cổ nhất, tọa lạc tại trung tâm thị trấn
Liên Hương hướng đông bắc và cách bờ biển khoảng 500 mét.
Những kiêng kỵ trong tang ma và trong cuộc sống của người Chăm Bàni Ninh
Thuận
Cũng như người Chăm theo Bàlamôn và người Chăm theo Hồi giáo Islam, người
Chăm Bàni khi làm tang lễ cho người chết có những quy định bắt buộc phải tuân thủ
những điều kiêng kỵ.
Như trên đã đề cập, khi làm lễ tang cho người chết, đồng bào tuyệt đối không dùng
của cải, không dùng hàng mã (mặc dù để đốt). Vì theo quan niệm của đồng bào tin
rằng, trong sinh hoạt ở cõi âm cũng hệt như cõi dương, nên những thứ đó gửi xuống
chỉ bằng thừa.
Không gọi tên người đã khuất, mà dùng từ ám chỉ cốt cho người nghe hiểu. nếu gọi
tức nghĩa là kêu hồn người chết về. Người chết ở ngoài làng phải chôn cất ngoài
làng, sau đó mới được tiến hành làm đám ở gia đình. Người Kinh sống chung làng
với người Chăm, nếu gia đình có thân nhân chết ngoài làng, Ban phong tục có thể
cho đưa thi thể vào nhà để thực hiện đúng với nghi thức của tộc người Kinh, nhưng
sau đó tang gia chịu khoản phí cần thiết để thầy Po Adhia làm lễ tẩy uế.
Cũng như người Việt, vong linh người do bị cọp vồ thường rất linh thiêng. Vì vậy
phải làm lễ, cúng tế đầy đủ.
Trong sinh hoạt hàng ngày, rót nước uống hay rượu bia thì phải rót theo chiều
thuận, rót ngược lại chỉ dành cho người chết. Trải chiếu cũng vậy, phải theo hướng
Đông – Tây chứ không theo hướng Bắc – Nam, vì hướng Bắc – Nam là hướng nằm
của người chết.
Quá trình diễn ra tang lớn trong vòng 4 ngày, từ thứ Tư đến thứ Bảy hoặc từ Chủ
nhật đến thứ Tư. Cụ thể, …
- Ngày 1: Thực hiện nghi thức lễ cho ăn (Harei pahwak). Buồi tối thực hiện lễ
trừ tà (Nau glai – đi rừng)
- Ngày 2: Nghỉ.
- Ngày 3: Thực hiện lễ xẻ cây (Tk kayuw).
- Ngày 4: Thực hiện lễ thiêu (Harei cuh).
Sau khi thực hiện đầy đủ các lễ trong 4 ngày, người chết sẽ được thân nhân trong
nhà làm giỗ (gọi là Patrip). Việc làm giỗ này giống hệt hoàn toàn với tập tục giỗ của
người Việt theo tín nguỡng văn hóa thờ ông bà tổ tiên, chỉ khác về cách thức tổ
chức và thời gian làm. Cụ thể, Trình tự các giỗ của đồng bào gồm:
- Giỗ 3 ngày (Tadhi bak kluw), người Việt gọi là mở cửa mã.
- Giỗ đầy tháng (Patrip bak bilan).
- Giỗ đầy năm (Patrip bak thun), người Việt gọi giỗ 3 tháng 10 ngày.
- Giỗ ba năm (Patrip kluw thun), người Việt gọi là mãn tan.
- Giỗ mừng (Patrip on).
- Giỗ tiễn (Patrip palau).
Sau khi kết thúc các giỗ này, thân nhân sẽ chờ đến một dịp thích hợp nào đó để làm
Tamư kut – tức là nhập kút. Khác với đám tang lớn, đám tang nhỏ (Đam cuh xit) chỉ
tổ chức với tu sĩ cấp 2 baseh. Quá trình diễn ra cũng như đám tang lớn.
Quy trình tổ chức lễ nhập Kut của đồng bào Chăm Bàlamôn
Nếu Bimong, Kalan được dựng lên để thờ thần, hay các vị vua – thần, thì kut chính
là nơi thờ tự tổ tiên Chăm, từ cấp baseh cho đến tầng lớp trí thức hay dân thường.
Kut là nơi thờ tự dòng họ tổ tiếng với tất cả thành phần trong dòng tộc từ tu sĩ cấp
baseh cho đến tầng lớp trí thức hay dân thường. Khác với đồng bào Chăm theo tín
ngưỡng Hồi giáo Islam và Bàni giáo, nghĩa trang gọi là Ghur, thì với đồng bào Chăm
theo tín ngưỡng Bàlamôn.
Người Chăm thờ phụng theo dòng họ mẹ. Dòng họ lập kut và cúng tế cho đến người
nữ cuối cùng mất đi, khi đó kut trở thành kut hoang (kut bhaw). Thông thường, Kut
Chăm được đặt cạnh làng hoặc một nơi đất trống thuận tiện về đường đi. Trong kut
gồm dãy bia bao gồm năm, bảy hay chín bia kut.
Vì là nơi quan trọng của đồng bào khi về đất mẹ, nên việc xây kut được đồng bào
cực kỳ coi trọng, nhất là về vật liệu xây dựng và hướng phong thủy. Ví dụ, đá dùng
để xây kut patuw kut phải có nhiều loại, khi xây phải xây theo các kiểu dưới đây:
- 3 tảng: trong đó tảng cao nhất là Po Inư Nưgar đặt ở giữa, tảng hướng đông
dành cho nam, tay dành cho nữ.
- 5 tảng: Bố trí như 3 tảng trên nhưng thêm 2 tảng hướng tây, dành cho nam
và nữ chết xấu.
- 6 tảng: thêm một hướng đông dành cho người trong họ là chức sắc Bàlamôn.
- 7 tảng: thêm tảng cho người làm tướng.
- 9 tảng: trong đó có một tảng dành cho người dưng (tức người không phải
trong gia đình).
Có một điều đặc biệt là lễ nhập kut của đồng bào Chăm theo Bàlamôn là 15 đến 20
năm mới làm một lần. Nói chính xác hơn là khi trong họ đã hội tụ đủ Klaung – một
hộp đựng 9 miếng xương và khi có điều kiện kinh tế mới làm. Tháng nhập kut cũng
phải tuân thủ, phải là tháng Ba, Sáu, Tám, Mười và Mười một Chăm lịch.
Klaung được lấy từ nơi cất giấu (thường ở cạnh rừng) về, thờ trong nhà từ thứ Bảy
đến thứ Hai. Sáng thứ Hai, klaung được mang đến tập trung tại nhà “từ đường” và
mời thầy về tẩy uế, phân loại.
Sáng thứ Ba, tất cả được tập trung về nhà trưởng tộc rồi hướng về đất kut. Klaung
được đặt lên mâm lễ có lễ vật, thầy Cà làm lễ từng mâm một. Buổi tói Po Adhia làm
lễ đưa tất cả klaung vào dưới bia kut, có Muk Pajuw và Ong Kadhar hát phục vụ lễ.
Thời điểm chuyển klaung từ đêm hôm trước sang ngày hôm sau, chủ lễ Cả sư
Bàlamôn và các phụ lễ làm thao tác rất kín đáo nơi trung tâm là có hàng bua kut.
Hàng bia này trước đó được giở hết lên để lộ hố sâu. Đại diện chức sắc cho hết
miếng xương từ các klaung vào hố ấy. Sau đó họ phủ bên trên một lớp cát trắng, rồi
đắp bia kut lại như cũ.
Sau lễ nhập kut, họ hàng thường ở lại suốt đêm hôm đó vừa múa hát vừa nói
chuyện đến sáng hôm sau. Po Adhia làm lễ tẩy uế các bia kut. con cháu nằm lạy
đưa tiễn người quá cố lần cuối cùng. Sau lễ nhập kut khoảng một năm, người trong
họ phải chịu nhiều kiêng cữ, khi thầy paseh làm lễ Pơh babnơng kut, tất cả linh hồn
được hóa kiếp, mọi sinh hoạt trở lại bình thường.
Những quy định trong tập tục làm tang ma của đồng bào Chăm Bàlamôn Ninh
Thuận
Cũng như đồng bào Chăm theo tín ngưỡng Bàni và Hồi giáo Islam, trong quá trình
tổ chức tang ma của đồng bào Chăm Bàlamôn có những quy định bắt buộc phải
tuân thủ. Cụ thể, …
Quy định về đẳng cấp
Một trong những điều có thể xem là sự quy buộc văn hóa trong tín ngưỡng tôn giáo
của đồng bào Chăm theo Bàlamôn (Ahiér) từ xa xưa cho đến nay là vẫn còn những
sự phân biệt về đẳng cấp với sự thể hiện rõ nét nhất trong tang ma. Điều này có thể
thấy rất rõ trong một tang ma của bất kỳ gia đình hay dòng tộc nào trong cộng đồng
Chăm Bàlamôn. Sự đẳng cấp trong xã hội đối với một người khi mất được thể hiện
qua cách thức và quy trình làm lễ tang khác nhau như lễ chôn, lễ hỏa táng “hai
thầy”, lễ hỏa táng “bốn thầy”.
Như đã trình bày ở phần 1, lễ chôn thường được tổ chức nhỏ, theo đẳng cấp dòng
tộc ( với người dưới 15 tuổi thì chỉ được làm lễ chôn và có thầy tham gia, quy mô tổ
chức nhỏ). Riêng người chết trên 16 tuổi thì sẽ được xem xét theo đẳng cấp của
dòng tộc để được làm lễ tang đầy đủ, nhưng lễ tang “hai thầy” hoặc “bốn thầy”.
Đó là người nằm trong độ tuổi 15 hay 16 tuổi. Còn với những người đã qua 16 tuổi,
khi chết sẽ được hỏa táng (đám thiêu), và cũng tùy theo đẳng cấp, cấp bậc trong
đạo mà đồng bào sẽ làm một cái lễ đúng với quy định.
Quy định theo lứa tuổi
Như phần quy định theo đẳng cấp trong tập tục lễ tang của đồng bào phần nào đã
nói rõ về quy định theo lứa tuổi. Cụ thể hơn, người chết nếu từ 16 tuổi trở lên được
làm lễ tang đầy đủ, nhưng lễ tang “hai thầy” hoặc “bốn thầy”’. Riêng tu sĩ (Basaih) thì
tùy thuộc vào dòng họ đẳng cấp cao hay thấp mà trong lễ có sự tham gia của nhiều
thầy và tu sĩ cấp bậc trong hệ thống chức sắc tôn giáo Bàlamôn.
Người chết từ 15 tuổi trở xuống dù ở dòng họ nào cũng chỉ được làm lễ chôn, chỉ
làm đám nhỏ, chỉ có một thầy làm lễ (ndam sa Basaih), hay còn gọi là ndam Jap
bra.
Quy định theo loại chết
Ngoài những quy định về nghi thức tang ma theo đẳng cấp, theo lứa tuổi, thì đồng
bào người Chăm Bàlamôn con quy định bởi các loại chết. Người chết chết trong
trường hợp nào, khi chết bao nhiêu tuổi, có vợ, có chồng hay có con chưa cũng
được quy định chặt chẽ.
Qua những điều này có thể thấy, trong tín ngưỡng tập tục tang ma của đồng bào
được quy định, tổ chức và thực hiện một cách chi tiết, rõ ràng. Đây là nét đặc sắc
trong văn hóa đồng bào qua hàng trăm năm lịch sử của dân tộc.
Những nghi thức trong đám tang của đồng bào Chăm Bàlamôn (Laik aia ba jalan)
Theo tập tục của đồng bào, một đám tang sẽ được diễn ra với các nghi thức gồm
các lễ sau:
- Lễ cho nước (Laik aia)
- Lễ tắm rửa (Pamânei)
- Lễ mặc áo, hay còn gọi là lễ đại liệm ( Pambeng anguei)
- Đưa đi chôn (Ba jala) hoặc lễ hỏa táng (Ndam kut)
Trong bốn lễ này, thì Đưa đi chôn (Ba jala) hoặc lễ hỏa táng (Ndam kut) lễ lễ được
làm cuối cùng và kỹ lưỡng nhất. Trong đó, thì lễ đưa đi chôn là được dành riêng cho
người chết không lành, chết “không trọn vẹn” (mâtai bhaw). Để làm lễ này, người
Chăm sẽ có những nghi thức riêng.
Nghi thức rửa tội, khâm liệm và tang ma nhìn chung cũng giống như lễ hỏa táng,
nhưng lại có những điểm khác biệt. Cơ bản là hình thức và nội dung đơn giản. Lễ
này chỉ có một thầy Basaih làm chủ lễ.
Lễ chôn gửi hay lễ chôn tạm. Người Chăm Bàlamôn thuộc “dòng thiêu” nhưng do
chết không “trọn vẹn”, thì không được làm lễ hỏa táng ngay mà phải “chôn gửi” một
thời gian (thời gian “chôn gửi” và đào lên do Po Adhia định, tùy thuộc vào tuổi, ngày
sinh, ngày tử của người chết, khi nào ông Po Adhia chọn ngày làm lễ hỏa táng mới
được làm.
Cũng có trường hợp gia đình người chết do nghèo quá chưa có tiền làm lễ hỏa táng
cũng phải đem đi chôn gửi, khi nào có điều kiện thì mới làm lễ hỏa táng. Nghi thức
chôn gửi đơn giản vì đây chưa được coi là nghi lễ tang ma. Sau khi làm lễ rửa tội, lễ
trừ ma quỷ do chết không “trọn vẹn”, ông thầy làm lễ khâm liệm và đem thi hài đi
chôn tạm. Khi chôn tạm, ông thầy Cả sư xem tên tuổi người chết và định ngày đào
hài cốt lên làm lễ hỏa táng.
Lễ hỏa táng (Ndam cuh)
Mặc dù trong tang lễ của người Chăm Bàlamôn có những quy định chặt chẽ về loại
chết, lứa tuổi, đảng cấp, … nhưng nhìn chung, các nghi lễ dù lớn hay nhỏ, dù lễ tang
do “hai thầy” hay lễ tang do “bốn thầy” Basaih làm lễ đều có những điểm giống
nhau.
Việc là lễ hỏa táng phải có nhà lễ. Nhà lễ này được làm theo những quy định bắt
buộc của lễ “bốn thầy”, ngoài hai mái làm như nhà lễ đám chôn, còn có một mái
phía trước gọi là “traom” giống như nhà tục của đồng bào Chăm. Nhà lễ bao giờ
cũng có 9 cột chính.
Trong lễ hỏa táng, các chủ lễ thực hiện các tiểu lễ sau:
- Lễ cúng khấn mời thần linh (Mâlieng yang).
- Lễ tẩy uế (Ricaow taleh, Rayiap).
- Lễ khấn gò mối (Po yang Katuec).
- Lễ ăn cơm phong tục (Pathen pabah).
Trong lễ hỏa táng có sử dụng các lễ vật (gọi là panoja) rất phong phú và đa dạng,
tuy nhiên phải phải tuân thủ theo một quy định chặt chẽ, nhất quán. Số lượng, chất
liệu các lễ vật thờ và dâng cúng phụ thuộc vào từng lễ thức và thần linh cầu cúng.
Trong lễ hỏa táng và trong đám tang nói chung, lễ vật dâng cúng chủ yếu là trầu
cau, rượu, nước, lửa đốt trầm, muối, nến làm bằng sáp ong
- Lễ mặn gồm có thịt gà, trứng gà, cá. canh dọc môn, trái chuối hột non và giá
đậu sống.
- Lễ ngọt (chay) có bánh trái, chuối, chè. Điểm đáng lưu ý là trong những ngày
lễ và 30 ngày sau, chức sắc và những người trong tộc họ kiêng không được
ăn thịt những động vật đẻ con, chỉ được ăn những động vật đẻ trứng và phải
kiêng ăn rau quế và các loại cà trái.
Có một điều thấy rất rõ trong các lễ thức của người đồng bào Chăm là xuất hiện
nhiều lần trầu, cau, rượu và trứng. Trầu và cau là lễ vật phổ biến của các sư dân
nông nghiệp Đông Nam Á. Cách têm trầu, cau khác nhau tùy theo ý nghĩa của từng
lễ thức.
Sau khi chuẩn bị các lễ vật, việc diễn ra các lễ sẽ được thực theo một trình diễn ra
trong bốn ngày:
- Ngày thứ nhất (Ngày làm lễ Harei pahnuak “lễ cho ăn”).
- Ngày thứ hai (Ngày nghỉ – chỉ có ban nhạc hát tang ca).
- Ngày thứ ba (Thực hiện lễ chém cây “Tak Kuyuw”, lễ này có thể liên tưởng
như lễ phát mộc của người Việt).
- Ngày thứ tư (Hỏa táng “Ndam cuh”, người Chăm còn gọi là “Pagé édak”,
nghĩa là hỏa táng vào buổi sáng).
Theo quy định, lễ được bắt đầu vào lúc 6 giờ sáng. Sau gần hai giờ hát thánh ca,
người ta khiêng hài cốt ra bãi hỏa táng. Khoảng 10 giờ, chiêng trống nổi lên, con
cháu, người thân đến nằm lạy trước Cakung khóc lóc thảm thiết (chỉ những người ở
cai dưới người chết mới lạy).
Khi hài cốt đã đưa vào đòn khiêng, ông thầy để cây gỗ có dán hoa văn đè lên hài
cốt. Người nhà xếp tất cả quần áo, đồ đạc dành cho người chết lên đó. Đi được nửa
đường, mọi người phải dừng lại làm thủ tục quay đầu cho người chết rồi mới khiêng
người chết lên giàn hỏa thiêu.
Trong lúc lửa đang cháy nghi ngút, người ta dùng cây rựa cán dài lấy đầu người
chết ra. Hai người mang đầu ra một cái lán nhỏ ở góc bãi để đục. Người ta dùng rựa
để chặt lấy 9 mảnh xương trán mài thành hình tròn, đường kính khoảng 1cm cho
vào hộp klaong để sau này làm lễ nhập kut.
Lễ nhập Kut (Ba talang tamâ Kut)
Kut là nghĩa địa của dòng tộc theo họ mẹ của người Chăm Bàlamôn. Kut rất linh
thiêng và quan trọng trong đời sống tâm linh của người Chăm.
Người Chăm tin rằng Kut là nơi ông bà tổ tiên hóa thần, có một quyền năng siêu
hình, có thể che chở, ban phúc lộc, giải trừ nghiệp chướng cho con cháu trong dòng
tộc và vì vậy con cháu phải có trách nhiệm làm lễ nhập kut và thờ phụng tổ tiên thật
chu đáo, đúng phép tắc lễ nghi. Vì vậy, dù khó khăn đến mấy, gia đình và họ tộc
cũng phải góp công vào để lo cho bằng được một kut.
Lễ dựng Kut – lập Kut mới (Padeng Kut)
Địa điểm dựng Kut phải được ông Cả Sư xem xét và quyết định. Lễ vật trong lễ
dựng Kut này gồm trứng gà, rượu, trầu cau. Dòng tộc làm lễ cúng tổ tiên, chủ lễ phải
là bà bóng của dòng họ (Muk Rija).
Lễ nhập Kut (Ba talang tamâ Kut)
Lễ nhập Kut là lễ nhập xương trán của người chết vào nghĩa địa, thường được tổ
chức vào các tháng 3, 6, 8, 10 và 11 Chăm lịch. Sau khi trong tộc họ đã hội đủ
khoảng từ 15 đến 20 hộp, có khi cả trăm hộp xương (klaong) của người trong tộc họ
đã quá cố thì trưởng họ mời các gia đình họp lại bàn về thời gian cũng như điều kiện
vật chất để làm lễ nhập Kut cho cả tộc họ.
Trong lễ nhập Kut có rất nhiều tiểu lễ. Theo quan niệm của người Chăm, trong nghi
lễ tang ma, chỉ đến khi làm lễ nhập Kut kết thúc, linh hồn người chết mới nhập xong
về với tổ tiên nên mới có màn múa mừng, cũng có nghĩa là nghi lễ tang ma đến đây
mới kết thúc.
Những đêm nhập Kut, mọi người thường đánh trống, kéo đàn, hát và nhảy múa vui
vẻ thâu đêm. Những người phụ nữ dọn cơm cho tất cả mọi người ăn cộng cảm.
Lễ mở cửa Kut
Đúng một năm sau, tộc họ lại mời Basaih đến làm lễ mở cửa Kut (peh babeng Kut).
Linh hồn người chết coi như đã về với tổ tiên, coi như đã hóa thần và về xứ sở ông
bà (nao nâgar muk kei).
Bài viết đã được đăng tải trên website chuyên thông tin du lịch Ninh Thuận
www.khamphaninhthuan.com
Đôi nét về hệ thống chức sắc Bàlamôn giáo của người Chăm Ninh Thuận
Tu sĩ, chức sắc hay tăng lữ Bàlamôn giáo người Chăm ở Ninh Thuận được gọi
chung là Basaih, khác với Bàni giáo gọi là Acar. Basaih còn được hiểu là theo nghĩa
là nhà thông thái, là người có kiến thức uyên thâm và là chỗ dựa tinh thần cho mọi
tầng lớp trong xã hội Chăm theo Bàlamôn.
Trong cuộc sống, Basaih là những người đảm nhận các nhiệm vụ thiêng liêng trong
sinh hoạt tôn giáo, am tường về lịch pháp và phong tục tập quán của cộng đồng
Bàlamôn. Việc tuyển chọn chức sắc mới trong hệ thống Bàlamôn giáo tương đối
khắc khe. Trước hết phải theo nguyên tắc dòng dõi, vì chỉ những người thuộc dòng
dõi chức sắc mới vào làm chức sắc Basaih.
Kế đến điều kiện phải là người có thể chất tốt như không tàn tật, không dị hình và có
khả năng học tập giáo lý, học chữ Chăm cổ truyền thống. Mặc khác, người này phải
có vợ trước khi gia nhập vào hệ thống Basaih (giống với Bàni giáo).
Tuy nhiên, có một điều lưu ý ở đây, là mặc dù xã hội Chăm theo mẫu hệ nhưng việc
chọn làm người tu sĩ không theo dòng mẹ mà theo dòng cha.Khi đã hội đầy đủ các
điều kiện trên, các thầy Basaih trong hội đồng Hội đồng chức sắc Bàlamôn (HĐCS -
BLM) sẽ chấp thuận cho làm “Lễ rửa tội” thanh tẩy cơ thể, sau đó chọn ngày giờ tốt
để làm lễ Ndung Akaok, chính thức trở thành tu sĩ Basaih cấp thấp nhất để học việc.
Cấp bậc trong hệ thống chức sắc tôn giáo Bàlamôn Ninh Thuận
Khi chính thức thực hiện “Lễ rửa tội” và được hội đồng chức sắc Bàlamôn giáo công
nhận, tân tu sĩ Basaih sẽ chuyên tâm vào việc học, từ cấp thấp nhất đến cấp cao
nhất. Vị tu sĩ sẽ chuyển qua những giai đoạn với các tên gọi cụ thể của từng cấp bậc
là: Basaih Ndung akaok, Basaih Liah, Basaih Puah, Po Bac (hay Tapah - Phó cả sư)
và Po Adhia (Cả Sư - cấp bậc cao nhất trong hệ thống chức sắc tôn giáo Chăm
Bàlamôn).
● Cấp Basaih Ndung Akaok
Thông qua lễ “Ndung akaok”, vị tân Basaih bắt đầu được học đạo, học chữ và được
hướng dẫn thực hành trong nghi lễ đám tang với vai trò là “thợ mộc” (tiếng Chăm gọi
là Ong rigei) trong nghi thức của “lễ phạt mộc” (gọi là tak kuyau).
Sau lễ phạt mộc, tu sĩ sẽ tiếp tục làm lễ “Ndung akaok” tại nhà (thường lễ này sẽ
được tổ chức vào tháng 11), lễ này tùy vào điều kiện tài chính của gia đình mà quy
mô sẽ được tổ chức lớn, nhỏ khác nhau.
Quy trình tổ chức lễ “Ndung akaok” tại nhà sẽ được thực hiện vào ba buổi sáng
ngày thứ hai cách nhau một tuần. Chủ lễ thực hiện lễ là vị Po Adhia (Cả Sư), phụ lễ
của Po bac (Phó Cả Sư) và các Basaih thuộc các cấp bậc như Basaih Ndung
akaok, Basaih Liah, Basaih Puah.
Mục đích và ý nghĩa của lễ “Ndung akaok”này mang tính “chuyển đổi”, tức nghĩa là
lễ nhập môn, để vị tân Basaih bắt đầu việc tu học trên con đường đạo của tôn giáo
Bàlamôn. Để thực hiện nghi lễ nhập môn này, trong ba ngày thứ hai của ba tuần,
thầy Cả Sư, Phó Cả Sư và các vị tu sĩ khác sẽ trình tự thực hiện ba nghi lễ chính
sau đây:
- Nghi lễ Cakak aw (lễ may trang phục)
Lễ Cakak aw cho phép may trang phục tu sĩ cho người nhận lễ. Lễ vật của nghi lễ
này là một cặp gà. Sau khi chủ lễ Po Adhia thực hiện xong nghi thức thì một vị
Basaih đã được chỉ định cùng với các vị Basaih khác phụ giúp bắt đầu cắt và may
“áo” cho người nhận lễ.
Nghi lễ cắt may áo chức sắc gọi là “Aw tikuek”. Tuy nhiên, lễ “Aw tikuek” phải hoàn
thành trong một buổi sáng vào ngày thứ hai đầu tuần thứ nhất của tháng đã được
chọn (như tháng 11 chẳng hạn). Loại vải để cắt may trang phục chức sắc là một loại
vải màu trắng truyền thống được dệt ở làng Mỹ Nghiệp.
- Nghi lễ Ndung akaok (lễ nhập môn)
Sau lễ may đồng phục, tiếp đến sẽ là lễ Ndung akaok, hay còn gọi là lễ nhập môn. Ý
nghĩa của lễ này đánh dấu sự kiện khởi đầu việc tu học của vị Basaih mới. Thời gian
tổ chức lễ là vào buổi sáng thứ hai của tuần thứ hai, nghĩa là cách lễ “Cakak aw” 7
ngày. Lễ vật là một con dê, một con gà và bánh trái.
Trong nghi lễ này, vị Basaih mới chính thức mặc trang phục tu sĩ và từ sau nghi lễ
này, ông ta phải tập trung cho việc tu học trong thời gian 7 ngày tiếp theo.
- Nghi lễ Taleh par
Sau nghi lễ nhập môn, tân Basaih làm lễ tháo mở khăn “khan puah” - cái khăn bằng
vải trắng có dây cột hai đầu, không có tua đỏ. Để thực hiện nghi lễ này, thầy Cả Sư
sẽ là người hướng dẫn tân Basaih để tân Basaih dùng khăn quấn đầu trong vòng 7
ngày.
Qua khoảng thời gian 7 ngày thực hiện, tân Basaih sẽ tháo bỏ khăn cũ (khăn không
có tua đỏ) và chính thức bịt đầu bằng khăn “khan mâtham taibri”(khăn có tua hai đầu
của hệ thống chức sắc Basaih). Lễ vật trong nghi lễ này là một cặp gà và một số
bánh trái. Thời gian cũng trong một buổi sáng thứ hai, tuần lễ thứ ba.
Trong hệ thống các nghi lễ mà thầy Basaih thực hiện, quan trọng nhất là hệ thống
các lễ liên quan đến lễ tang (lễ tang cho người chết chôn, cho người chết thiêu, cho
các chức sắc Basaih, …). Trong đó, Basaih Ndung akaok chỉ đảm nhận một nhiệm
vụ là người thợ mộc, phạt cây làm nhà táng trong nghi lễ phạt mộc (tak kuyau).
● Cấp Basaih Liah
Sau quá trình học việc ở cấp Basaih Ndung Akaok và thực hiện thành thạo các nghi
lễ trong đám tang. Vị tu sĩ sẽ được hội đồng chức sắc tổ chức lễ tôn chức lên cấp
Basaih Liah (sau khi đã làm lễ tôn chức “Patruh kanal liah”).
Basaih Liah là người am hiểu và thực hiện được mọi nghi lễ trong đám tang do các
cấp cao hơn chỉ dạy và qua kinh nghiệm thực tế phụ lễ. Basaih Liah cũng là phụ tá
đắc lực cho Pa Bac trong nghi lễ trên đền/tháp cũng như trong các lễ tẩy uế đất đai
(balih anâh).
Nói đúng hơn, khi các nghi lễ trên đền, tháp thực hiện, Basaih Liah là người luôn kề
cận để hỗ trợ cho Pa Bac. Qua đó, Basaih Liah sẽ học hỏi và đúc kết thêm nhiều
kinh nghiệm cho bản thân để nhanh chóng đạt đến trình độ cao hơn, mà mục đích
để nhanh được tôn chức lên cấp Basaih Puah.
● Cấp Basaih Puah
Trên Basaih Liah là Basaih Puah (gọi là Basaih Puah, sau khi đã làm lễ tôn chức
“Patruh kanal puah”). Thông thường, để được tôn chức lên cấp Basaih Puah chủ
yếu phụ thuộc vào năng lực của bản thân và sự thừa nhận của Po Adhia, Po Bac,
chứ không quy định mấy năm. Tại một số làng Chăm Bàlamôn hiện nay có nhiều tu
sĩ trẻ tuổi nhưng đã được tôn chức lên cấp Basaih Puah, do sự phấn đấu và nỗ lực
không ngừng.
Không khác gì mấy với cấp Basaih Liah, cấp Basaih Pual đảm nhận những công
việc trong tang lễ, nghi lễ, nghi thức hỗ trợ cúng trên đền tháp,... Tuy nhiên, một khía
cạnh hay phạm vi nào đó. Cấp Basaih Pual sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn do thường
xuyên theo hỗ trợ Po Adhia (Cả Sư - cấp bậc cao nhất trong hệ thống Bàlamôn
giáo) trong nhiều nghi lễ lớn của cộng đồng.
● Cấp Po Bac (Phó Cả Sư)
Sau quá trình tu tập ở cấp Basaih Pual, tu sĩ khi đủ điều kiện sẽ thăng lên cấp Po
Bac (To Tapah, gọi là Po Bac, sau khi đã làm lễ tôn chức “Patruh Kanal tapak”). Po
Bac là đẳng cấp cao sau Po Adhia, là người có uy tín, có năng lực thực hiện được
tất cả các nghi lễ một cách thành thạo và am hiểu phong tục tập quán. Tôn chức Po
Bac không phụ thuộc vào thời gian mà là vào năng lực tu tập, học tập của mình.
Cũng có nhiều trường hợp, cả đời không được tôn Po Bac và chỉ dừng lại ở cấp
Basaih Puah.
Trong nhiệm vụ, Po Bac là người được quyền thực hiện các nghi lễ trong đám tang,
lễ tẩy uế đất đai và nghi lễ trên đền/tháp và một trong số trường có thể thay thế cho
Po Adhia làm chủ lễ. Lễ tôn chức các cấp Liah (Patruh kanal liah), Puah (Patruh
kanal Pual), Po Bac (Patruh kanal tapak) tương đối giống nhau về nghi thức và được
gọi chung là Ndam tadik. Những lễ tấu chức này đều do Po Adhia trong khu vực đó
làm chủ lễ với sự phụ tá của Po Bac và các Basaih khác. Về thời gian được quy định
cụ thể 6 ngày và một đêm chủ nhật, bắt đầu từ ngày thứ sáu và kết thúc ngày thứ tư
trong thượng tuần trăng tháng 11 Chăm lịch.
Các lễ tôn chức này tương tự nhau và bao gồm nhiều nghi thức khác nhau tạm gọi
là các “tiêu lễ”. Về lễ vật trong các lễ tôn chức này nói chung bao gồm 3 con heo
đen, 4 con dê, trên dưới 30 con gà, các loại bánh trái trong lễ tục như bánh cấp (pei
nung binah), bánh bột gạo hấp (hakul), hạt nổ (kamang), chuối (patei), …
Bước chuẩn bị trước một tuần khi lễ tôn chức, có 3 tiêu lễ:
- Nghi thức đón xe chở cây (raok kuyau) để làm nhà lễ (sang mail).
- Nghi lễ rước y trang (raok kaya binrik) được tiến hành tại đền Po Klong Garai
ở thôn Phước Đồng, xã Phước Hậu, huyện Ninh Phước. Đây là nơi lưu giữ y
trang của thần Po Klong Garai. Y trang sẽ được rước về tư gia để Basaih cấp
Basaih Puah mặc hành lễ tôn chức lên cấp Po Băc.
- Sau nghi lễ rước y trang là nghi lễ rước mão (raok pabah kap) của thần Yang
tại tư gia của Po Adhia để basaih được tôn chức Po Bac đội khi hành lễ.
Sau 3 tiểu lễ, lễ tôn chức chính thức với 5 tiêu lễ sẽ lần lượt diễn ra:
- Nghi thức kaok song mal (dựng nhà lễ) vào ngày thứ sáu.
- Nghi lễ pabok sang mal (vào nhà lễ) vào ngày thứ bảy.
- Nghi lễ bac balih (thánh tẩy) trong nhà lễ vào buổi tối ngày chủ nhật.
- Nghi lễ tadik (múa đưa) vào ngày thứ hai, sau đó nghỉ ngày thứ ba.
- Nghi lễ “duah yawa” (gọi hồn) đối với tân phó cả sư (Po Bac), mặc dù tên lễ là
“cầu hồn” song ý nghĩa là nghi thức với mục đích là cầu chúc sức khỏe và mọi
điều tốt lành, may mắn đến với Phó Cả Sư. Nghi lễ này diễn ra vào ngày thứ
tư và cũng là ngày lễ kết thúc lễ tôn chức.
● Po Adhia (Cả Sư - cấp bậc cao nhất trong hệ thống Bàlamôn giáo)
Po Adhia là người có uy tín, có đạo đức tác phong, am hiểu phong tục tập quán, là
người thực hiện các nghi lễ một cách thuần thục. Po Adhia là “Cả Sư” lãnh đạo, điều
hành tối cao phong tục tập quán trong tôn giáo chăm Bàlamôn (Chăm Ahiér), là
hàng giáo phẩm cao nhất của tăng lực Basaih, là người có quyết định cho ngày
tháng để cúng bái theo phong tục của người Chăm.
Để đạt được vị trí cao cả này, Po Adhia phải trải qua một quá trình dài học tập, hành
lễ qua những cấp từ thấp đến cao, sự rèn luyện về phẩm chất đạo đức và có uy tín
lớn trong cộng đồng Ahiér và cả trong cộng đồng Awal trong tỉnh.
Lễ tôn chức Po Adhia gọi là lễ “Noja tagok Po Adhia” (lễ tôn chức Cả Sư). Mỗi khu
vực đền/tháp do một Po Adhia chủ trì, theo phong tục nếu Po Adhia khu vực đó qua
đời thì sẽ tôn chức Po Adhia mới.
Chủ lễ của lễ này là Po Adhia phụ trách của khu vực đền/tháp khác (ví dụ tôn chức
Po Adhia phụ trách khu vực đền/tháp Po Klong Garai thì chủ lễ là Po Adhia khu vực
đền Yang Po Ina Nagar hoặc Po Adhia khu vực tháp Po Rome do hội đồng chức
sắc quyết định), với sự phụ tá và tham dự lễ của toàn thể chức sắc Basaih trong tỉnh
và có thể ngoài tỉnh (tỉnh Bình Thuận).
Thời gian tổ chức lễ là hai ngày một đêm, buổi chiều và buổi tối ngày chủ nhật và
sáng ngày thứ hai. Lễ vật gồm có một con heo, một con dê và ba con gà, cùng có
chè xôi, trứng gà, trầu, rượu, cá khô nướng, với các loại bánh trái như chuối, dừa,
hạt nổ.
Những quy định trong hệ thống tôn giáo Bàlamôn Ninh Thuận
Trong cộng đồng Ahiér có một hệ thống lễ nghi rất đa dạng và phức tạp. Trên đại
thể, tất cả các lễ nghi của người Chăm (cả Ahiér và Awal) đều diễn ra trong những
khoảng thời gian nhất định và được quy định về nghi lễ, lễ vật, người chủ lễ và các
trợ tế. Và, trong cộng đồng Ahiér, chỉ có các Po Adhia và các Po Bac (Tapah) là có
quyền cho ngày cúng lễ.
Về kiêng cử, chức sắc Basaih kiêng ăn thịt bò, thịt nai, cá trê, cá nhám, lươn, ếch,
trái sung, trái bí đao, rau răm, không ăn lòng và gan của các loài động vật bị chết,
không ăn thịt các động vật mà không được cắt cổ. Nếu ăn cơm buổi chiều khi mặt
trời đã lặn (mặc dù trời vẫn còn sáng) phải thắp đèn, trong khi ăn nếu đèn bị tắt thì
phải dừng bữa, mặc dù chưa no ….
Vấn đề đi đại tiện, tiểu tiện cũng được quy định nghiêm ngặt. Khi đại tiện phải cởi áo
trùm đầu và đọc câu thần chú, còn trường hợp đi tiểu tiện thì phải đi với tư thế ngồi
và phải lấy vạt áo phủ lên đầu.
Về trang phục trong sinh hoạt đời thường cũng như trong thực hiện các nghi lễ của
chức sắc Basaih bao gồm một cái áo “tikuek” (áo trong phong tục), một “sợi dây búi
tóc” (tulang lanung), một cái khăn bịt đầu có tua đỏ hai đầu (khan mâtham taibri),
một sợi dây thắt lưng (talei kiak), một cái chăn (khan mbaih), một cái quần đùi
(tarapha chaok) …
Để phân biệt mỗi cấp bậc thì có những quy định cụ thể riêng ở một vài chi tiết trong
trang phục của các cấp Basaih. Trong đó, yếu tố phân biệt dễ nhìn thấy là sự khác
biệt của “khăn bịt đầu có tua đỏ hai đầu” (gọi là khan mâtham taibri) và chăn mặc.
Đối với cấp Po Adhia (Cả Sư) và Po Bac (Phó Cả Sư) thì quy định khăn bịt đầu có 9
đường viền (một đầu 5 đường và một đầu 4 đường), cấp Liah và Puah đều quy định
như nhau là 7 xộc (một đầu 4 xộc và một đầu 3 xộc), còn Basaih Ndung akaok thì
khăn có 5 xộc (một đầu 3 xộc và một đầu 2 xộc).
Về chăn mặt (gọi là khan mbaih) thì đối với cấp Cả Sư và Phó Cả Sư mới được mặc
chăn có kết thổ cẩm ở mí dưới (khan bar jih), còn cấp dưới từ Basaih Puah, Liah,
Ndung akaok thì chỉ mặc chăn vải trắng có đan reng hai mí theo chiều dọc (khan
mrang).
Các cấp bậc trong hệ thống tôn giáo Bàni ở Ninh Thuận
Tầng lớp tu sĩ Bàni giáo ở Ninh Thuận được gọi chung là Acar (khác với người
Chăm Bàlamôn, các chức sắc gọi là Basaih) từ hàng giáo phẩm thấp nhất đến cao
nhất, được tổ chức một cách chặt chẽ trong phạm vi từng thôn (từng thánh đường)
với năm cấp bậc ứng với từng nhiệm vụ riêng biệt gồm: cấp Acar, cấp Mâdin, cấp
Katip, cấp Iman và cấp Po Gru (Cả Sư).
Các cấp này mỗi khi được thụ lễ, tấn phong đều được tổ chức long trọng theo nghi
thức tôn giáo. Điều kiện để được tôn chức là phải có vợ trong ngày tấn phong, tuy
nhiên người vợ phải nhất định trước hoặc sau thời kỳ kinh nguyệt, quan trọng hơn là
không phải thời gian mang thai.
● Cấp Acar
Như đã nói trên, Acar là từ để chỉ chung cho toàn bộ hệ thống chức sắc đạo Bàni,
vừa là chức sắc có cấp bậc thấp nhất trong hàng tu sĩ Bàni. Thông thường lễ cấp
sắc Acar được tiến hành trong tháng chay trịnh Ramưwan (cuối tháng 8 đầu tháng 9
Chăm lịch).
Khi thọ cấp bậc này, vị tu sĩ phải trải qua các điều kiện khắt khe ban đầu với những
điều kiện, quy định bắt buộc trong hệ thống chức sắc tôn giáo Bàni. Sau đó sẽ bắt
đầu tu học các giáo điều, giáo lệ, cách tổ chức và thực hiện các nghi lễ, nghi thức cơ
bản trong dòng họ và thánh đường đối với cấp Acar ... tùy theo khả năng và thời
gian tu tập của bản thân mà tu sĩ cấp Acar sẽ được tấn phong và thọ cấp bậc tiếp
theo là Ong Mâdin.
● Cấp Ong Mâdin
Sau quá trình thọ cấp Acar. Vị tu sĩ sẽ được hội đồng chức sắc tôn giáo Bàni nhìn
nhận, đánh giá và khi đã đạt đầy đủ điều kiện thì tu sĩ cấp Acar sẽ bước tiếp tục thọ
cấp Mâdin (Ong Mâdin).
Cũng như cấp Acar, cấp Ong Mâdin có nhiệm vụ thực hiện một số nghi lễ tại thánh
đường và tư gia. Tuy nhiên, tại cấp này vị tu sĩ sẽ được chọn vào Ban lãnh đạo
thánh đường để thực hiện nhiều công việc khác.
● Cấp Katip
Qua cấp Mâdin sẽ đến cấp Katip (Ong Katip). Không khác gì mấy với cấp Ong
Mâdin, Ong Katip có nhiệm vụ thực hiện một số nghi lễ tại thánh đường và tư gia,
tuy nhiên lượng nghi lễ sẽ thực hiện nhiều hơn Ong Mâdin. Đặc biệt, khi từ Ong
Mâdin lên Ong Katip, vào trưa thứ sáu thánh lễ của Hồi giáo tại thánh đường, Ong
Katip sẽ là người thực hiện công việc giảng giáo lý .
● Cấp Imam
Imam là người điều khiển các buổi lễ vào trưa thứ sáu của Hồi giáo. Trong đạo giáo
Bàni, Imam là tu sĩ đã trải qua hơn 15 năm hành đạo và được xem là đã thuộc hết
kinh thánh Koran và có khả năng thực hiện được tất cả nghi lễ trong đạo.
Trong số các Imam, những người có khả năng, có đạo đức và khá giả về mặt kinh tế
được chọn để làm lễ ra mắt 40 vị thánh của Hồi giáo và được gọi là “Imam pak pluh”
(Imam 40).
Nghi thức lựa chọn thụ chức Imam pak pluh rất khắt khe và phải được tập thể hay
hội đồng chức sắc, nhất là các Po Gru trong khu vực chấp nhận và mỗi năm chỉ có
một hoặc hai ngày có thể tổ chức lễ thụ chức theo quy định của đạo giáo Chăm
Bàni.
● Cấp Po Gru (Sư Cả)
Po Gru (hay còn gọi là Sư Cả), là chức vị cao nhất và duy nhất trong một thôn hay
một thánh đường của Hồi giáo Bàni. Po Gru là người quyết định hầu hết các vấn đề
về đạo và đời trong thôn của người Chăm Bàni.
Để thọ được cấp Po Gru, vị tu sĩ khi còn Imam phải thuộc lầu đầy đủ các nghi thức,
nghi lễ, có thể điều hành, thực hiện được tất cả công việc từ nhỏ đến lớn trong thành
đường và cộng đồng. Và khi được thọ cấp, được tấn phong cấp Po Gu thì phải được
sự đồng thuận, chấp nhận của hội đồng chức sắc trong cộng đồng, có sự tham gia,
chứng kiến của tất cả các chức sắc của các cấp và cộng đồng, tín đồ Bàni giáo một
thánh đường hay làng đó.
Khi hoàn thành lễ thụ phong, Po Gru chính là người duy nhất chọn ngày tháng để
tiến hành tổ chức các lễ cúng tại tư gia, điều hành tất cả các nghi lễ trong đạo với sự
phối hợp và hỗ trợ chặt chẽ của các thầy lễ.
Không những vậy, Po Gru còn là người thực hiện các nghi lễ đặc biệt của cộng đồng
như lễ cầu đảo, lập làng, lập thánh đường và một số lễ quan trọng khác ở trong làng
và khu vực của người Chăm Bàni.
Với sự xuất hiện một tầng lớp tu sĩ được hệ thống theo một nguyên tắc, luật lệ thế
này đã phần nào nói lên đặc điểm mang tính đặc thù của Hồi giáo người Chăm Bàni
ở Ninh Thuận, qua đó phản ánh ảnh hưởng của Bàlamôn giáo đối với Hồi giáo trong
quá trình phát triển trong cộng đồng người Chăm.
Những quy định trong hệ thống tôn giáo Bàni Ninh Thuận
Không chỉ là điều kiện khắt khe để được trở thành một vị tu sĩ đứng trong hàng ngũ
chức sắc của tôn giáo mà khi chính thức trở thành tu sĩ (Acar) phải tuân thủ tuyệt đối
những quy định bắt buộc của tôn giáo.
Tiêu biểu là khi đã đứng trong hàng ngũ chức sắc, vị tu sĩ dù ở cấp bậc nào thì trong
những ngày diễn ra lễ Ramưwan phải kiêng ăn, kiêng uống trong 3 ngày đầy. Đặc
biệt là không được hút thuốc vào ban ngày, nhất là vào giữa khoảng thời gian mặt
trời mọc và lặn.
Sau khi mặt trời đã lặn thì được phép ăn uống bình thường. Những ngày tiếp theo 3
ngày đầu thì không phải kiêng ăn uống vào ban ngày nhưng phải kiêng ăn thịt cho
đến hết tháng Ramưwan. Ngoài ra, Acar kiêng ăn thịt heo, thịt chó, thịt dông, thịt các
động vật bị chết, chỉ ăn một số thịt động vật chính ông Acar tự tay cắt cổ.
Về trang phục, khi mới nhập môn trong một tháng đầu, Acar chỉ mặc Aw Luak (áo
chui đầu), trong nghi lễ nhập môn có nghi lễ xuống tóc do Imam thự hiện gọi là lễ
Ngap Pabah patrun mbuk limâ Acar (lễ cạo tóc vào Acar), sau đó trở đi thì mặc Aw
taok (áo truyền thống có nút cài 3 cái) như các cấp khác trong hệ thống Acar. Ở cấp
này, trang phục chỉ có khác là đầu bịt khăn không có tua màu đỏ, không đeo
Kadung (túi đeo trên cổ hệ thống Acar).
Xong cùng với những điều này, người tu sĩ Bàni trong sinh hoạt hàng ngày phải
chuyên tâm tu tập, học hành liên tục nhằm hướng đến cấp bậc cao nhất. Tuyệt đối,
không được mắt phải bất kỳ sai lầm nào về điều lệ của tôn giáo đối với tu sĩ, nhất là
trộm cắp, lừa dối, ngoại tình, … những thứ mà đi ngược lại với đạo đức của đạo và
của văn hóa cộng đồng.
Edit và tổng hợp: Đào Thanh Quốc Kafin