Professional Documents
Culture Documents
甲 子 乙 丑 丙 寅 丁 卯 戌 辰 己 巳 庚 午 辛 未 任 未 癸 酉.
甲 戌 乙 亥 丙 子 丁 丑 戌 寅 己 卯 庚 辰 辛巳 任午 辛 癸 .
甲申乙酉丙戌丁亥戌子己丑庚寅辛卯任 辰癸巳
甲午乙未丙申丁酉戌 戌己亥庚子辛丑任寅寅卯
甲辰乙巳丙午丁未 戌申己酉庚戌辛亥任子癸丑
甲寅乙卯丙辰 丁巳戌午己未庚申辛酉任 戌癸亥
Mỗi đơn vị trong Hoa giáp là một ngày.
Giả dụ một ngày nào đó trong một tháng là
ngày Giáp Tý thì nối tiếp theo sau là ngày Ất
Sửu... Cứ nối tiếp như vậy cho tới hết 60 ngày
thì quay lại từ đầu.
Cứ 10 ngày trong 1 tháng thì gọi là 1 tuần.
Một tháng có 3 tuần: thượng tuần; trung
tuần; hạ tuần.
Cũng có khi chỉ dùng thiên Can chi để ghi
ngày. Một số ngày trong tháng lại có tên riêng.
Ngày mồng 1 đầu tháng gọi là sóc; ngày 16 đủ,
ngày 15 tháng thiếu gọi là vọng; ngày cuối cùng
của 1 tháng gọi là hối. Hai ngày sóc và hối
thường vừa ghi sóc, hối, vừa ghi kèm theo can
chi, nhờ đó có thể tính ra được những ngày khác
chỉ ghi can chi là ngày thứ mấy trong tháng.
Mỗi ngày chia làm 12 giờ (thì thìn), cũng ghi bằng thập nhị
chi. Như vậy mỗi giờ (thì thìn) bằng 2 tiếng đồng hồ, đối chiếu
với giờ hiện dùng là như sau:
• Tý: từ 11 giờ đêm đến 01 giờ sáng
• Sửu: từ 01 giờ sáng đến 03 giờ sáng
• Dần: từ 03 giờ sáng đến 05 giờ sáng
• Mão: từ 05 giờ sáng đến 07 giờ sáng
• Thìn: từ 07 giờ đêm đến 09 giờ sáng
• Tỵ: từ 09 giờ sáng đến 11 giờ trưa
• Ngọ: từ 11 giờ trưa đến 01 giờ chiều
• Mùi: từ 01 giờ chiều đến 03 giờ chiều
• Thân: từ 03 giờ chiều đến 05 giờ chiều
• Dậu: từ 05 giờ chiều đến 07 giờ tối
• Tuất: từ 07 giờ tối đến 09 giờ tối
• Hợi: từ 09 giờ tối đến 11 giờ đêm
Mỗi giờ lại chia làm đôi, gọi tiểu thì, phân
biệt bằng sơ và chính. Thí dụ, Tí sơ là 11 giờ đêm; tí
chính là 12 giờ đêm... tổng cộng 24 tiểu thì, tương
ứng với 24 tiếng đồng hồ trong 1 ngày.
Về 12 tháng trong 1 năm, thông thường được
gọi theo số thứ tự Nhất nguyệt (hoặc Chính nguyệt);
nhị nguyệt... Thập nhị nguyệt: tháng chạp (lạp
nguyệt).
Tuy vậy, trong văn thơ, tháng thường được gọi
theo mùa. Một năm chia 4 mùa: Xuân, Hạ, Thu,
Đông. Một mùa chia làm ba giai đoạn: Mạnh (đầu);
Trung (giữa); Quý (cuối). Mỗi đoạn tương ứng với 1
tháng trong mùa; ghép với tên 4 mùa thì đủ để ghi
12 tháng trong năm.
Niên; Tuế và Nhị thập tứ tiết khí.
Niên và Tuế đều được dùng để nói về năm.
Niên thông thường có nghĩa là từ tháng Giêng
cho đến hết tháng Chạp, còn tuế thì dùng để nói
về khoảng thời gian từ một tiết (tiết khí) nào đó
năm này cho tới tiết đó ở năm sau.
Một năm được chia làm 24 tiết khí, tương
ứng với sự xoay vần của thời tiết, khí hậu, mựa
nắng:
Xuân Tháng giêng Lập xuân (đầu xuân)
Vũ thuỷ (ẩm ướt)
Tháng hai Kinh trập (sâu nở)
Xuân phân (giữa xuân)
Tháng ba Thanh minh
Cốc vũ (mưa rào)
Hạ Tháng tư Lập hạ (sang hè)
Tiểu mãn (duối vàng)
Tháng năm Mang chủng (tua rua)
Hạ chí (giữa hè)
Tháng sáu Tiểu thử (nắng oi)
Đại thử (nồng nực)
Thu Tháng bảy Lập thu (đầu thu)
Xử thử (mưa ngâu)
Tháng tám Bạch lộ (nắng nhạt)
Thu phân (giữa thu)
Tháng chín Sương giáng (sương sa)
Đông Tháng mười Lập đông (sang đông)
Tiểu tuyết (hanh heo)
Tháng mười một Đại tuyết (khô úa)
Đông chí (giữa đông)
Tháng mười hai Tiểu hàn (chớm rét)
Đại hàn (giá rét).
Tuế thường mở đầu bằng tiết đông chí (từ tiết
đông chí năm nay sang tiết đông chí năm sau). Vì
vậy, trong thơ văn sách vở thuở xưa, các tác giả
cũng thường dùng nhị thập tứ tiết khí để ghi thời
gian.
Thí dụ, kết thúc bài tựa sách Đại Việt sử kí
toàn thư, Ngô Sĩ Liên viết: “Tiết Đông chí, năm Kỉ
hợi, niên hiệu Hồng Đức thứ 10”. Nhờ cách ghi có
cả tiết khí, can chi, niên hiệu như thế này, người đời
sau dễ xác định rõ niên đại, (ngày, tháng, năm) cụ
thể của văn bản trong mối tương quan với dương
lịch, dựa theo các tài liệu lịch sử (như niên biểu) và
các sách công cụ đối chiếu âm lịch và dương lịch.
Quan chế, chức tước
Quan chế chức tước vốn là một vấn đề rất
phức tạp, có lịch sử lâu đời, mỗi đời đầu có thay
đổi, thêm bớt. Khó có thể trình bày cho hết, cho
đầy đủ được. Dưới đây chỉ là những nét chính
nhằm vẽ ra một sơ đồ rất giản lược về hệ thống
tên gọi các chức tước (chủ yếu ở cấp Trung
ương) thường thấy trong văn bản cổ.
Do thiếu tư liệu thành văn cho nên không thể
biết tường tận được về bộ máy quản lý đất nước của
ta thờ xa xưa, trước TK X.
Những danh xưng như vua, lạc hầu, lạc
tướng... thời Hùng Vương chắc là được chuyển dịch
về sau này.
Chúng ta biết một cách đại khái là dưới hoàng
đế (tức Lý Nam Đế) là triều đình gồm hai ban văn,
võ. Tinh Thiều là tướng văn, đứng đầu Ban Văn
Phạm Tu là tướng võ, đứng đầu Ban Võ. Triệu Túc
được cử làm thái phó; Lý Phục Man giữ chức
Tướng quân.
Sau chiến thắng Bạch Đằng (năm 938), qua các
triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, nước ta bắt đầu
bước vào giai đoạn xây dựng nhà nước phong
kiến trung ương tập quyền. Đinh Bộ Lĩnh tự
xưng hoàng đế (970), có các quan văn võ giúp
việc. Chức thập đạo tướng quân do Lê Hoàn
nắm là chức vụ quan trọng, có uy quyền nhất lúc
đó, chỉ kém có nhà vua.
Lê Hoàn lên ngôi (980) xưng hoàng đế, tức
Lê Đại Hành hoàng đế nhà Tiền Lê.
Giúp việc hoàng đế có thái sư đóng vai trò
cố vấn tối cao; chức đại tổng quản tương đương
như tể tướng các đời sau.
Dưới đại tổng quản là thái uý, coi việc binh
bị; sĩ sư coi việc trị an, hình ngục; điện tiền chỉ
huy sứ, chỉ huy các lực lượng vũ trang nồng cốt
của triều đình. Chức vụ này thâu tóm nhiều
quyền lực nhất.
Lý Công Uẩn, khi chưa lên ngôi vua (Lý
Thái Tổ), đã từng giữ chức này dưới thới Tiền
Lê.
Thời Đinh, Lê, ngoài văn quan, võ quan, lại
còn có tăng quan đạo sĩ với các chức tăng thống,
đại sư, tăng lục...
Ngô Chân Lưu được phong làm đại sư, giữ
chức tăng thống, đứng đầu các nhà sư; Trương
Ma được phong làm tăng lục đạo sĩ....
Ngoài tu hành, các vị đó còn tham gia việc
triều chính.
Lý Công Uẩn lên ngôi, lập ra nhà Lý, dời đô
ra Thăng Long. Hệ thống quan chức ở trung ương
và địa phương sắp xếp lại, mở rộng thêm cho hoàn
bị.
Nhìn tổng quát, triều đình nhà Lý được tổ
chức như sau: Trên hết là hoàng đế, nắm mọi quyền
hành. Tiếp đó là các cận thần cố vấn: Tam công
(Thái sư, Thái phó, Thái bảo) với các chức phó là
Tam thiếu (Thiếu sư, Thiếu phó, thiếu bảo).
Các chức vị này có khi có thực quyền như
chức Thái sư bình chương quân quốc trọng sự do Lí
Đạo Thành nắm giữ, có khi chỉ là danh hiệu được
ban phong, không có chức trách cụ thể.
Phụ trách công việc binh bị có Thái uý, Thiếu
uý; chức trách của thái uý rất lớn, kiêm quản cả
chính trị lẫn quân sự, như tể tướng; thiếu uý là
chức chỉ huy cầm binh, vốn được coi là cột trụ
của lực lượng vũ trang của nhà vua.
Triều đình còn có hai ban văn võ. Bên văn
có các chức: tả hữu tham tri chính sự, hành
khiển, thượng thư giúp nhà vua xử lý các công
việc chính sự quan trọng; đình uý, trông coi việc
tư pháp; tả hữu gián nghị đại phu có nhiệm vụ
giám sát, phê bình; Hàn lâm học sĩ, trông coi
việc soạn thảo giấy tờ, từ chương v.v... Bên võ có
các chức: Đô thống, Nguyên soái, Tổng quản,
Khu mật sứ, Thượng tướng, Đại tướng, Tướng
quân, Chỉ huy sứ .v.v.
Quan chế dưới thời Trần được mở rộng thêm trên
cơ sở quan chế đời Lý.
Ngoài tam thái, tam thiếu, còn đặt thêm tam tư: tư
đồ, coi việc chính trị, ngoại giao, lễ nghi, học hành..., tư
mã, coi việc binh bị, đánh dẹp, án kiện; tư không, coi việc
sản xuất, xây dựng, giao thông, thương mại v.v... ; tả hữu
tướng quốc, đại hành khiển, tham tri chính sự, điều hành
công việc của bách quan. Về quan võ, có đặt thêm các
chức tiết độ sứ, đô thống chế, và một chức có danh vị khá
cao, đó là Phiêu kị thượng tướng, dành riêng cho các
hoàng tử...Có lập thêm một số viện với các chức quan
chức trách như thẩm hình viện, tam ti viện, coi việc hình
ngục; Quốc sử viện, thái sử viện, lo việc biên soạn sử
sách; Quốc tử giám, Quốc học viện lo coi việc học hành
đào tạo nhân tài v.v.
Thời Lê, quyền hành tập trung vào tay nhà vua;
dưới nhà vua là tả hữu tướng quốc (tể tướng, sau
Lế Thánh Tổng bãi bỏ chức náy), Kiểm hiệu bình
chương quân quốc trọng sự, tam thái, tam thiếu,
tam tư (sau cũng bị Lê Thánh Tông bãi bỏ), rồi
đến các ban văn võ.
Tam cương?
Ngũ thường?
A. Tam cương: tam là ba, cương (cang) là giềng mối.
Tam cương là ba mối quan hệ: quân thần (vua tôi), phụ tử
(cha con), phu thê (chồng vợ). Trong xã hội phong kiến,
những mối quan hệ này được các vua chúa lập ra trên
những nguyên tắc “chết người”
1/ Quân thần: ("Quân xử thần tử, thần bất tử bất trung"
nghĩa là: dù vua có bảo cấp dưới chết đi nữa thì cấp dưới
cũng phải tuân lệnh, nếu cấp dưới không tuân lệnh thì cấp
dưới không trung với vua)Trong quan hệ vua tôi, vua
thưởng phạt luôn luôn công minh, tôi trung thành một dạ
2/ Phụ tử: ("phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu nghĩa là:
cha khiến con chết, con không chết thì con không có
hiếu)").
3/ Phu thê: ("phu xướng phụ tùy" nghĩa là: chồng nói, vợ
phải nghe theo
B. Ngũ thường: ngũ là năm, thường là hằng có. Ngũ thường là năm điều phải
hằng có trong khi ở đời, gồm: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín
1. Nhân: (tính người) Lòng yêu thương đối với muôn loài vạn vật
2. Nghĩa: Cư xử với mọi người công bằng theo lẽ phải
3. Lễ: Sự tôn trọng, hòa nhã trong khi cư xử với mọi người
4. Trí: Sự thông biết lý lẽ, phân biệt thiện ác, đúng sai.
5. Tín: Giữ đúng lời, đáng tin cậy
C. Tam tòng: tam là ba; tòng là theo. Tam tòng là ba điều người phụ nữ phải
theo, gồm: "tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”
1. Tại gia tòng phụ: người phụ nữ khi còn ở nhà phải theo cha
2. Xuất giá tòng phu: lúc lấy chồng phải theo chồng
3. Phu tử tòng tử: nếu chồng qua đời phải theo con
D. Tứ đức: tứ là bốn; đức là tính tốt. Tứ đức là bốn tính nết tốt người phụ nữ
phải có, là: công - dung - ngôn - hạnh
1. Công: làm giỏi, khéo léo trong việc làm
2. Dung: (phải trao chuốc sắc đẹp) hòa nhã trong sắc diện
3. Ngôn: dịu dàng, mềm mại trong lời nói.
4. Hạnh: nhu mì trong tính nết