Professional Documents
Culture Documents
THƯƠNG VỢ
Có thể thấy tình cảm vợ chồng, tình nghĩa phu thê luôn là một đề tài rất hay được nhà thơ văn
lấy làm nguồn cảm hứng. Tình cảm ấy được thể hiện trong nhiều tác phẩm với những phong vị riêng mà
trong đó nổi bật nhất không thể không nhắc đến Tú Xương với bài thơ “Thương vợ”. Bài thơ thấp
thoáng nụ cười hóm hỉnh, trào phúng nhưng cũng rất đỗi sâu sắc trữ tình thể hiện tình nghĩa vợ chồng
sâu nặng đồng thời phản ánh cuộc đời đầy chua xót của chính nhà thơ:
Tác giả sử dụng “quanh năm”- cụm từ chỉ khoảng thời gian trường kì lặp đi lặp lại để nhấn mạnh
nỗi vất vả triền miên của bà Tú từ ngày này qua tháng nọ bất kể nắng gắt hay mưa rào. Công việc buôn
bán của bà Tú gợi sự tất bật, bươn chải, vất vả ngược xuôi. Ấy vậy mà công việc ấy lại diễn ra vô cùng
nguy hiểm nơi “mom sông”. Địa thế mom sông đầy rẫy những trắc trở, nguy hiểm khôn lường bởi đó chỉ
là doi đất nhô ra từ lòng sông, là nơi những người làng chài hay tụ tập buôn bán. Không gian chênh
vênh, đầu sóng ngọn gió ấy khiến cho hình ảnh của bà Tú càng trở nên nhỏ bé. Tuy khó khăn đến thế,
gian lao đến vậy nhưng bà Tú vẫn luôn mạnh mẽ vượt qua, luôn cố gắng để gia đình được ấm no:
Từ “đủ” ở đây là đủ ăn, đủ mặc, đủ sinh hoạt phí cho ông Tú. Bà không chỉ phải nuôi những đứa con
nheo nhóc mà còn phải nuôi cả ông chồng. Nhịp thơ 4/3 cùng với cấu trúc “năm-một” và liên từ “với” đã
khắc hoạ hình ảnh chiếc đòn gánh mà ở giữa là đôi vai gầy guộc của người vợ với hai bên trĩu nặng năm
với một chồng. Cách đếm này cho thấy tác giả đã nhận thức được bản thân là gánh nặng của vợ và tự hạ
thấp mình ngang hàng thành con. Tiếng cười tự trào bật ra đầy chua xót, cay đắng. Tóm lại, thương vợ là
thương nỗi nhọc nhằn, khó nhọc của bà Tú, thương cho sự nuôi nấng tần tảo của bà Tú và ẩn sau hai câu
thơ là sự tự thương mình của Tú Xương.
Câu thơ tiếp theo giúp ta hiểu để đảm đang, gánh vác gia đình bà Tú đã phải trải qua những vất
vả, khổ cực:
Trước hết, nghệ thuật đảo ngữ kết hợp với từ láy tượng hình “lặn lội” đã gợi hình dung về bước chân bì
bõm, bước thấp bước cao của bà Tú trong dáng vẻ vất vả, tất tả. Bên cạnh đó, Tú Xương sử dụng cụm từ
“thân cò” chứ không phải “con cò” như trong ca dao xưa vừa thể hiện cá tính riêng, sự độc đáo mang
tính thời đại trong phong cách thơ mà còn để đồng nhất thân phận của bà Tú nói riêng và người phụ nữ
nói chung với hình ảnh con cò mảnh mai, gầy guộc:
Hình ảnh ấy được đặt trong không gian “khi quãng vắng”, qua đó tác giả đã làm nổi bật không gian, thời
gian heo hút, đầy lo âu, nguy hiểm để nhấn mạnh sự cô đơn, lầm lũi của người vợ từ đó gợi nỗi đau về
thân phận.
Nếu như câu thơ thứ ba là nỗi đau đơn chiếc thì câu thơ thứ tư là sự vật lộn đầy cam go của bà
Tú giữa nơi buôn bán đông đảo:
Một lần nữa, nghệ thuật đảo ngữ lại được sử dụng trong câu thơ với từ láy tượng thanh “eo sèo” gợi sự
ồn ào, tấp nập nơi chợ búa. Mặt khác, hình ảnh “buổi đò đông” cũng góp phần mạnh mẽ trong việc xây
dựng hình tượng bà Tú cần mẫn, tất bật nơi xô bồ, đông đúc đã từng được ca dao xưa nhắc đến:
Đến với những câu thơ tiếp theo, Tú Xương như nhập vai vào chủ thể trữ tình
nhằm mượn lời tâm sự của vợ để ngầm ca ngợi những công lao âm thầm vì chồng vì
con mà bà Tú đang gồng gánh trên vai:
Quả thật, những câu thơ trong bài “Thương vợ” chạm tới trái tim người đọc bởi ngôn từ giản dị,
mộc mạc nhưng vẫn nồng nàn cảm xúc – những cảm xúc chân thành, sâu lắng nhất. Giọng thơ trữ tình
pha lẫn trào phúng, không cần vay mượn chữ Hán, Tú Xương đã khẳng định được khả năng biểu đạt tài
tình của chữ Nôm. Đồng thời bằng cách vận dụng nghệ thuật đảo ngữ, đối xen lẫn các từ láy đã khắc hoạ
những sự vất vả, khó khăn và phẩm chất cao quý của bà Tú – một người vợ, người mẹ tần tảo, lam lũ và
giàu đức hi sinh, đó cũng chính là biểu tượng cho người phụ nữ Việt Nam thời bấy giờ.
Bài thơ “Thương vợ”của Trần Tế Xương thể hiện được ân tình sâu nặng và tình cảm
chân thành của nhà thơ đối với hiền phụ của mình. Trước Tú Xương hiếm có thi nhân nào mà
có những bài thơ viết về vợ hay và lắng đọng, sâu sắc như ông. Bài thơ không chỉ chứng tỏ tài
năng, thi bút của thi sĩ mà cho thấy một tâm hồn cởi mở, đôn hậu của nhà thơ.