Professional Documents
Culture Documents
- Trần Tế Xương-
I. MỞ BÀI
Ông nghè ông thám vô mây khói
Đứng lại văn chương một tú tài
(Xuân Diệu)
“Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ văn
Tú Xương là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông hơn 100 năm nay đã hòa tan làm một cùng với đất mẹ
nhưng sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy chưa bao giờ ngừng sống và làm lay chuyển lòng người,
bất chấp mọi thử thách của thời gian. Tú Xương được biết đến trước hết là một nhà thơ trào phúng. Chế Lan
Viên từng viết: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng thơ ông không chỉ châm biếm, mỉa mai, đả
kích dữ dội mà còn rất trữ tình, có sự kết hợp hài hòa giữa các yếu tố hiện thực, trào phúng và trữ tình, trong đó
trữ tình là gốc. Nói như Nguyễn Tuân thì thơ trào phúng chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông là thơ trữ
tình. Tú Xương có cả một mảng thơ viết về vợ. Ông viết về bà Tú với những tình cảm yêu thương, trân trọng
đặc biệt. Trong số các bài thơ viết về vợ của ông, bài thơ “Thương vợ” được đánh giá là bài thơ hay nhất.
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Lặn lội thân cò khi quãng vắng,
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
Một duyên hai nợ âu đành phận,
Năm nắng mười mưa dám quản công
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc,
Có chồng hờ hững cũng như không.
II. THÂN BÀI
1. Khái quát
1.1. Đề tài:
Mặc dù hình ảnh của người phụ nữ luôn là đề tài muôn thuở của văn chương kim cổ Đông Tây. Tuy
nhiên ở Việt Nam thời trung đại, thơ văn viết về người vợ rất ít, viết về người vợ đang sống lại còn hiếm hoi
hơn. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời, những người vợ thường phải đi vào
cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt thi ca. Thế kỉ XIX, chỉ có hai nhà thơ cùng người thành Nam là
Nguyễn Khuyến và Tú Xương có thơ viết về vợ, không ngần ngại nói lên tình cảm thương yêu của mình đối
với vợ ngay khi các bà vẫn còn ở chốn nhân gian. Thương vợ của Tú Xương là bài thơ nổi tiếng hơn cả. Trong
bài thơ là hình ảnh hai con người: một người vợ tần tảo giàu đức hi sinh và một người chồng biết cảm thông
chia sẻ, thương yêu và quý trọng vợ rất mực. Bà Tú có thể đã phải chịu nhiều gánh nặng, sự nghiệt ngã của
cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao phụ nữ không có được là được đi vào thơ với tất cả niềm
thương yêu, trân trọng của chồng.
1.2. Hoàn cảnh ra đời:
Tú Xương là bút danh của Trần Tế Xương. Tú Xương thông minh nức tiếng nhưng lận đận mãi trên con
đường khoa cử: "Tám khoa chửa khỏi phạm trường quy", đi thi tám lần mà chỉ đỗ đến tú tài. Ông chỉ sống 37
năm, nhưng sự nghiệp thơ ca của ông thì bất tử. Tú Xương thuộc lớp nhà Nho cuối mùa, sống giữa buổi giao
thời, trong lúc thời đại phong kiến suy tàn, những giá trị của quá khứ đang dần mất đi nhưng cái mới chưa kịp
hình thành, những nét đẹp truyền thống đang dần rạn vỡ. Bởi vậy thơ ông đầy tiếng u uất, chua chát. Tú Xương
lấy vợ năm ông 16 tuổi, vợ ông là bà Phạm Thị Mẫn. Cuộc đời của Tú Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ
nhưng trước hết ông là một nhà trí thức phong kiến, thuộc loại nhà Nho “dài lưng tốn vải” phải sống nhờ vào
người vợ của mình. Mọi việc trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Cũng vì thế ông có nhiều bài thơ viết
về vợ đầy thương mến, hóm hỉnh: “Tiền bạc phó cho con mụ kiếm”, “Hỏi ra quan ấy ăn lương vợ”. Hoặc:
“Có một cô lái, nuôi một thầy đồ
Quần áo rách rưới , ăn uống xô bồ”
Bài thơ Thương vợ cũng được ra đời trong hoàn cảnh như vậy.
1.3. Nhan đề:
Nhan đề Thương vợ chưa nói hết sự sâu sắc trong tình cảm của Tú Xương đối với vợ cũng như chưa thể
hiện được đầy đủ vẻ đẹp nhân bản của hồn thơ Tú Xương. Ở bài thơ này, tác giả không chỉ thương vợ mà còn
1
biết ơn vợ, không chỉ lên án “thói đời” mà còn tự trách, tự nhận khuyết điểm và càng thấy mình khiếm khuyết
càng thương yêu, quý trọng vợ hơn. Tình thương yêu, quý trọng vợ là cảm xúc có phần mới mẻ so với những
cảm xúc quen thuộc trong văn học trung đại. Cảm xúc mới mẻ đó lại được diễn tả bằng hình ảnh và ngôn ngữ
quen thuộc của văn học dân gian, chứng tỏ hồn thơ Tú Xương dù mới lạ, độc đáo vẫn rất gần gũi với mọi
người, vẫn có gốc rễ sâu xa trong tâm thức dân tộc.
2. Hai câu đề: Công việc và gánh nặng gia đình của bà Tú
Nếu bà vợ của Nguyễn Khuyến là một phụ nữ “hay lam hay làm, thắt lưng bó que, xắn váy quai cồng,
tất tả chân nam đá chân chiêu, vì tớ đỡ đần trong mọi việc” (câu đối của Nguyễn Khuyến) thì bà Tú lại là một
người phụ nữ:
Quanh năm buôn bán ở mom sông,
Nuôi đủ năm con với một chồng.
Hai câu thơ đã giới thiệu về nghề nghiệp cũng như trách nhiệm nặng nề của bà Tú. Ở phía Bắc Nam
Định hồi ấy, bên bờ sông có cảnh trên bến dưới thuyền, người từ các nơi đổ về làm ăn, buôn bán và cảnh làm
ăn buôn bán của bà Tú cũng diễn ra ở đó. Bà Tú buôn bán chẳng có cửa hàng, cửa hiệu, quán xá gì và càng
không phải buôn to bán lớn. Bởi vì, hai chữ “mom sông” đã gợi lên hình ảnh một khoảnh đất nhô ra ở bờ sông,
có thể nước xuống thì còn, nước lên thì mất, có thuyền qua thì thành chợ không thì thôi, cũng có thể chợ họp
một lát vào buổi sáng hoặc buổi chiều. Lèo tèo đôi ba gánh hàng, chỗ dành cho người buôn thúng bán bưng,
lưng vốn ít ỏi, lấy công làm lãi, chắc chắn thu nhập chẳng đáng là bao, lại đầy nguy hiểm và bất trắc. Thế mà
công việc khó nhọc ấy, bà Tú không chỉ chịu đựng một hai buổi mà phải theo đuổi “quanh năm”. Chữ “quanh
năm” gợi một thời gian đằng đẵng, là 12 tháng, từ tháng giêng đến tháng chạp, cũng có nghĩa là hết năm này
đến năm khác. Cái công việc nặng nề ấy chẳng làm cho bà khá hơn để có việc khác nhàn nhạ hơn mà quanh
năm suốt đời mãi chỉ có thế.
Công việc thì nhọc nhằn, thu nhập thì ít ỏi, nhưng bà Tú lại phải lo lắng cho cả một gia đình sáu miệng
ăn. Từ “nuôi” vốn có nghĩa là chăm sóc hoàn toàn, nghĩa là một mình bà Tú phải vất vả làm lụng, buôn bán để
đủ kế sinh nhai, chăm sóc đầy đủ cho cả sáu người. Chính xác hơn thì không phải là sáu mà là “năm con với
một chồng”, “Năm con” là số nhiều, nhưng dù sao cũng dễ lo hơn vì nuôi chúng chỉ cần bát cơm, manh áo.
Còn ông chồng là “một”, nhưng có khi phải tiêu phí bằng hoặc hơn cả năm đứa con kia cộng lại. Dù gì cũng
mang danh ông Tú nên cái ăn cái mặc không thể xoàng xĩnh, bình thường mà mỗi bước ra ngoài phải có áo dài,
khăn xếp, phải có đồng chè đồng rượu... Mỗi khi ông lều chõng đi thi, tiền lưng gạo bị lại đổ lên đầu vợ. Đấy là
chưa nói đến việc, ông Tú quen sống nhờ vợ nên thậm chí còn sinh ra mải vui chơi, hưởng lạc và “hư hỏng”,
lên phố đến cao lâu, đi hát cũng tiền vợ nốt:
“Biết thuốc lá, biết chè tàu
Cao lâu biết vị hồng lâu biết mùi”.
(Hỏi ông trời)
Hay:
“Hôm qua anh đến chơi đây,
Giày “giôn” anh dận, “ô Tây” anh cầm”.
(Đi hát mất ô)
Nhiều người phải nuôi, nhiều thứ phải lo như thế nhưng lúc nào bà cũng lo “đủ”. Từ “đủ” nhấn mạnh
mức độ của việc chăm sóc, nuôi nấng ấy nghĩa là không chỉ đủ về số lượng mà còn đủ về chất lượng. Như thế
mới biết bà Tú thật là đảm đang tháo vát biết chừng nào. Việc ông Tú kể về công việc và gánh nặng của bà Tú
cho thấy ông Tú đã hiểu biết rất rõ và ghi nhận công lao của vợ, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của ông với vợ.
Đúng như ai đó đã nói “Mỗi lần người nghệ sĩ độc đáo xuất hiện là một lần thế giới được tạo lập”. Dù xuất thân
từ cửa Khổng sân Trình nhưng Tú Xương không hề nhìn nhận người phụ nữ theo tiêu chuẩn của xã hội phong
kiến như trọng nam khinh nữ, tam tòng tứ đức. Qua con mắt của Tú Xương, bà Tú chính là trụ cột của gia đình,
là người mà ông biết ơn, trân trọng. Đây là cách nhìn nhận về người vợ mà nhiều người đàn ông thời nay cũng
chưa chắc đã có được.
3. Hai câu thực: Tả thực về công việc làm ăn, buôn bán của bà Tú
Để được cái tiếng thơm nuôi đủ năm con một chồng ấy, bà Tú phải đổi bằng biết bao công sức:
Lặn lội thân cò khi quăng vắng
Eo sèo mặt nước buổi đò đông.
2
Hai câu thơ đã miêu tả một cách chân thực về công việc làm ăn, buôn bán của bà Tú, lặn lội ngược
xuôi, một mình đường xa, quãng vắng, cãi vã giành giật ngay trên sông, trên những chuyến đò đông khách.
Trong đó:
+ Cụm từ “Lặn lội thân cò” đã sử dụng sáng tạo hình ảnh dân gian, trước hết gợi hình ảnh con cò trong
những câu ca dao quen thuộc:
... Con cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non