Professional Documents
Culture Documents
Trong văn học trung đại Việt Nam hình tượng người phụ nữ đi vào các tác
phẩm không nhiều, nổi bật nhất có Truyện Kiều của Nguyễn Du, là tác phẩm
kinh điển, không chỉ phản ánh số phận của người phụ nữ mà phản ánh chung
cả số phận của những con người thấp cổ bé họng dưới chế độ phong kiến hà
khắc. Ngoài ra, không thể không nhắc đến Hồ Xuân Hương với chùm thơ Tự
Tình nổi tiếng, nhà thơ chuyên viết về phụ nữ. Nhiều người xót thương thay
phận phụ nữ, nhưng được mấy ai xót thương thay cho người phụ nữ của mình.
Vậy mà Tú Xương lại có hẳn một đề tài về bà Tú, trong thơ Tú Xương,có một
mảng lớn viết về người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc
nhất:
Dẫu biết phận người đàn bà thuở thời phong kiến vốn đã bất hạnh, tư tưởng
trọng nam khinh nữ, cùng với những quy tắc hà khắc viết trong các cuốn kinh
văn như Nữ Giới đã khiến người phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi. Cũng chỉ có
Tú Xương mới không quản chi những lời thế tục sân si, vén tay áo đặt bút một
nét hoạ vợ một tấc lòng. Bà Tú Xương có thể đã phải chịu nhiều nghiệt ngã của
cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ xưa không có
được. Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ ông Tú Xương với tất cả niềm thương
yêu ,trân trọng của chồng. Tình thương vợ sâu nặng của Tú Xương thể hiện qua
sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp của người vợ.
Câu thơ mở đầu nói hoàn cảnh làm ăn buôn bán của bà Tú .Hoàn cảnh vất
vả,lam lũ được gợi lên qua cách nói thời gian ,cách nêu địa điểm, như một bối
cảnh làm hiện lên hình ảnh bà Tú tần tảo ,tất bật ngược xuôi:
Trong câu tiếp theo “Eo sèo mặt nước buổi đò đông" chúng ta có thể thấy
được “eo sèo” là âm thanh của những tiếng kì kèo, kêu ca, cãi vã để tranh hàng
giành khách đã gợi ra cảnh buôn bán bon chen, xô bồ, đầy những khó nhọc vất
vả khi bà Tú phải dậy sớm đi chợ để có thể kiếm được những đồng lãi nho nhỏ,
tích góp để nuôi chồng nuôi con. Bên cạnh đó, “buổi đò đông” gợi ra cảnh con
đò đông người hoặc cũng có thể hiểu theo nét nghĩa đó là trên sông có rất
nhiều đò. Mọi thứ đông đúc chen chúc và xô lấn. Bà Tú không chỉ dấn thân ở
những chỗ đồng không mông quạnh mà còn phải chen chân trên những
chuyến đò đông, phải chịu những tiếng eo sèo, những lời qua tiếng lại, cò kè
mặc cả, có lườm quít chê bai... Đò đông gợi ra sự hiểm nguy, xô đấy, chen
chúc. Vậy mà cô gái nhà dòng vì lấy ông Tú mà buộc phải nhắm mắt đưa chân,
quên đi lời mẹ dặn” Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ qua”. Bà Tú xông vào giữa
cuộc đời trần tục để kiếm miếng cơm manh áo nuôi gia đình. Như vậy qua hai
câu thực chúng ta thấy được hai câu thơ đối nhau rất chính với nghệ thuật đảo
ngữ “lặn lội”, “eo sèo” đặt lên trên đầu và những từ láy có sức gợi để làm nổi
bật hơn những vất vả nhọc nhằng của bà Tú và hơn hết làm sáng lên đức hi
sinh thầm lặng
Hai câu trên chính xác là câu chửi của ông Tú, ông chửi hai đối tượng chính.
Một là, ông chửi trực tiếp lễ giáo phong kiến “Cha mẹ thói đời ăn ở bạc”.
Những tập tục hà, khắc bất công đã khiến cho người phụ nữ vất vả, gian nan
mà chẳng được ai biết đến. Chính thói đời ấy đã tạo ra những người đàn ông
ăn ở bạc "hờ hứng” khiến cho người phụ nữ có chồng mà không hề được chia
sẽ đỡ đần, phải một mình gánh vác công việc. Chửi đời là vậy song ông cũng tự
trách bản thân. Ông tự rủa, tự mỉa mai tự nói mác rằng bản thân chẳng đỗ đạt
lại trở thành một anh học trò dài lưng tốn vải vô tích sự với vợ con. Và đằng
sau tiếng chửi ấy, ông cũng cho thấy sự chua xót khi nhận ra mình là quan tại
gia ăn lương vợ. Bà Tú lấy phải một ông chồng hờ hững, bạc bẽo, chẳng giúp gì
cho gia đình cho vợ chẳng làm được trụ cột lại còn để vợ phải nuôi, thật là có
chồng mà như không. Đồng thời sau đó là cả một tình yêu, lòng thương vợ
chân thành và sâu nặng của nhà thơ. Hơn một lần trong đời ông từng nói đến
đời bạc với thái độ mỉa mai, căm phẫn, uất ức: “Giương mắt trông chi buổi bạc
tình- Nhân tình bạc thế lại bôi vôi”. Chua chát, đắng cay thay con người từng
lăm le bia đá bảng vàng cho vang mặt vợ bị cái thời đại tây tàu nhố nhăn, bị
chính cái thói đời ăn ở bạc ấy đẩy vào tình trạng dở dang, lỗi thời, thất thế, trở
thành một kẻ vô tích sự, vô dụng, có cũng như không. Tú xương ý thức sâu sắc
về sự tồn tại của kiếp đời thừa của bản thân mình, cho nên càng thương vợ
bao nhiêu ông lại càng đau xót cho cảnh ngộ, thân phận của mình bấy nhiêu.
Tình cảnh bi hài này đâu chỉ của riêng Tú Xương mà cũng là của chung một lớp
người những nhà nho thất thế, lỗi thời, lỡ vận trong thời đại của ông. Và
dường như Tú Xương là một con người của hai thế kỷ. Ông là chiếc gạch nối
tuyệt vời giữa thơ ca cổ điển và thơ ca hiện đại. Người một nơi hồn một nơi,
than thân với bóng.
“Thương vợ” là một bài thơ hay có sự kết hợp tài tình giữa ngôn ngữ dân gian
với ngôn ngữ bác học một cách tinh xảo, phong phú khắc họa được chân dung
bà Tú và bộc lộ được tâm trạng, ân tình của Tú xương dành cho vợ của mình.
Cùng với đó là cách ngắt nhịp truyền thống trong thơ Đường luật là 4/3 và
2/2/3 càng làm cho bài thơ trở nên mềm mại, uyển chuyển. Bài thơ tưởng
chừng chỉ có lời ông Tú tự trách, tự phán xét mình nhưng lại nổi bật lên hình
ảnh bà Tú- hiện thân của cuộc đời vất vả lận đận, hội tụ của bao đức tính tốt
đẹp: đảm đang, tháo vát, hi sinh vì chồng con. Tuy chỉ là một cái miệng ăn
trong gia đình, nhưng con mắt và trái tim ông thấy rõ mọi đắng cay cực nhọc
của vợ, thấu hiểu nỗi cô đơn, âm thầm chịu đựng của vợ. Khiến người đọc
cũng phải xót thay cho phận cái hồng nhan phải bôn ba nuôi gia đình. Chất trữ
tình và trào phúng quyện hòa trong nhau đưa người đọc đến những cung bậc
tình cảm rất sâu sắc bình dị, đáng trân trọng, ẩn chứa trong lòng nhà thơ vốn
căm ghét thế thái nhân tình đổi thay.
Với chất thơ bình dị mà trữ tình pha chút trào phúng, Tú Xương đã không
những khắc họa nên một bức chân dung tuyệt đẹp về người vợ tảo tần, chịu
thương chịu khó của mình mà còn thể hiện vẻ đẹp trong nhân cách của bản
thân. Nhưng đằng sau những dòng thơ tự trào ấy là một trái tim nóng rẫy tình
yêu, như có nước mắt rơi đầu ngọn bút.Một nhà nho dám sòng phẳng với bản
thân ,với cuộc đời, dám tự nhân khuyết điểm.Một con ng như thế ….