You are on page 1of 12

HỌC VIỆN PHẬT GIÁO VIỆT NAM TẠI TPHCM

CƠ SỞ 2

MÔN HỌC: VĂN HỌC SANSKRIT

TIỂU LUẬN GIỮA KỲ VII

Đề tài:

PHẬT SỬ DỤNG NGÔN NGỮ NÀO


ĐỂ THUYẾT PHÁP?

Giáo thọ hướng dẫn: TT. TS. Thích Chơn Minh


Người thực hiện: Ni sinh Trung Bình
Thế danh: Nguyễn Hồng Thắm
MSSV: 13215

1
A. DẪN NHẬP.

Khi Đức Phật còn tại thế, tăng đoàn Phật giáo vốn là một chỉnh thể thống nhất,
mọi việc đều do Đức Phật quyết định, tăng chúng đều nghe theo Đức Phật. Pháp của Đức
Phật nói ra là để mọi người hiểu, vì vậy vấn đề lưu giữ hay trùng tuyên lại lời Đức Phật
dạy là một nhiệm vụ rất quan trọng đối với Tăng đoàn, thời kỳ đầu, do chưa có chữ viết
lời dạy được lưu giữ bằng cách khẩu truyền, nên trong quá trình đó, không ít vấn đề sai
sót xảy ra. Đó cũng chính là lý do khiến về sau, các bộ phái, học giả khi nghiên cứu về
Phật giáo có rất nhiều vấn đề tranh luận, trong đó có vấn đề liên quan đến ngôn ngữ Đức
Phật đã sử dụng để thuyết giảng. Cho đến ngày hôm nay vấn đề đó cũng còn là một ẩn số
chưa có câu trả lời. Cũng chính vì lý do đó nên hôm nay con xin chọn đề tài: “Phật sử
dụng ngôn ngữ nào để thuyết pháp” làm đề tài chính cho bài tiểu luận của mình. Dựa
trên các nguồn tài liệu trong kinh có so sánh đối chiếu, phân tích của các tiền bối đi trước
để làm sáng tỏa để tài của con.

2
B. NỘI DUNG.

Sau khi Đức Phật nhập diệt, các cuộc tranh luận liên quan đến các vấn đề tăng
đoàn, giáo lý bắt đầu nổ ra, tiêu biểu là những việc liên quan đến “Thập sự phi pháp”1 và
“Năm việc của Đại Thiên”2, từ đó Phật giáo bắt đầu phân chia cơ bản thành hai là
Thượng tọa bộ và Đại chứng bộ. Về sau, tăng đoàn tiếp tục chia. Các bộ phái Phật giáo
sau đó với những quan điểm khác nhau, đến các vùng miền khác nhau, tạo ra cho mình
những bản kinh luận không chỉ phù hợp với tư tưởng của họ còn phù hợp với quá trình
tiếp biến vào xã hội và đất nước. Vì vậy, khi nghiên cứu về cuộc đời nhất là ngôn ngữ
Đức Phật đã sử dụng, các nhà nghiên cứu không khỏi tránh được những tranh cãi. Để tìm
ra câu trả lời cho câu hỏi Đức Phật đã sử dụng ngôn ngữ gì? Đến nay vẫn là một vấn đề.

Có giả thuyết nói rằng: “Phật giảng dạy các Thánh đế bằng ngôn ngữ thông dụng
của từng địa phương. Với tín đồ Vương Xá, ngài nói tiếng Ma Kiệt Đà; với tín đồ Xá Vệ,
ngài nói tiếng Kiều Tát La; với tín đồ Ba La Nại, ngài nói tiếng Ka Thi; với tín đồ Tỳ Xá
Ly, ngài nói tiếng Bạt Kỳ; với tín đồ Kiều Thưởng Di, ngài nói tiếng Bạt Sa…” 3 Đức Phật
đến xứ nào Ngài sử dụng ngôn ngữ của xứ đó. Đức Phật ở tại vườn Cấp Cô Độc trong
suốt 25 năm, tại đây Ngài đã nói rất nhiều kinh. Kinh Pháp Cú bằng tiếng Magadhi là bản
kinh rất xưa, xưa nhất, ngoài ra còn một số kinh chưa in thành tạng. Đức Phật là “một
nhà ngôn ngữ kiệt xuất.”4

Luật tạng có đề cập đến vấn đề này qua câu chuyện: “Bấy giờ có hai thanh niên
Bà la môn xin xuất gia theo Phật. Họ yêu cầu Ngài cho họ được phép tụng đọc những lời
Ngài dạy theo kiểu đọc tụng kinh điển Vệ-đà mà họ đã quen. Họ cũng yêu càu sử dụng
tiếng Sanskrit và sắp xếp câu văn thế nào cho hoa mỹ như cách hành văn của sanskrit
trong các kinh điển ấy, Phật dạy rằng trong đạo Ngài không cần văn chương hoa mỹ. Chỉ
cần nghĩa lý rõ ràng, lập luận chặt chẽ. Lời văn và giọng nói cần phải đơn giản, thế nào
cho người nghe hiểu được mình muốn nói gì. Muốn thế, cần phải học giáo pháp bằng
1
Tiểu Phẩm Tập 2, V. Chương Các Tiểu Sự, tr.414.
2
Dịch và chú giải về Dị Bộ Tông luân luận, tr.42.
3
Văn học sử Phật giáo, tr. 35-36.
4
Thích Chơn Minh, Bài giảng văn học Sanskrit khóa 13.
3
ngôn ngữ của chính mình.”5 Qua đoạn trích trên, chúng ta thấy Đức Phật không khuyến
khích ngôn ngữ nào là ngôn ngữ bắt buộc của Phật giáo, không những thế khi đọc tụng
cũng không nên ê a, ngân nga kéo dài, nên đọc như thế nào để mọi chúng sanh có thể
hiểu.

Nam Truyền có Buddhaghosa là một trong những vị chú giải kinh điển rất nổi
tiếng, quan điểm của Ngài được ghi lại nhiều ở trong Thanh Tịnh Đạo luận và được rất
nhiều người chấp nhận nhất là ở Tích Lan. Y cứ theo Cullavagga (Tiểu Phẩm) của tạng
luật Pali đề cập đến câu chuyện hai vị Tỳ-kheo vốn xuất thân dòng dõi Bà-la-môn có lời
nói nhã nhặn, âm điệu ngọt ngào tên là Yameḷu và Tekula than phiền với đức Phật rằng:
“Bạch ngài, hiện nay các Tỳ-kheo có tên gọi khác nhau, có dòng dõi khác nhau, có giai
cấp khác nhau, có gia tộc khác nhau đã xuất gia. Các vị ấy làm hỏng lời dạy của đức
Phật bằng tiếng địa phương của chính họ. Bạch ngài, hãy để chúng con hoán chuyển lời
dạy của đức Phật sang dạng có niêm luật” 6, Buddhaghosa cho rằng học theo ngôn ngữ
của mình chính là tiếng Ma Kiệt Đà và sau này tiếng Ma Kiệt Đà chính là nền tảng của
tiếng Pali, gọi là ngôn ngữ Pali.7 Đây cũng là một phần lý do để chứng minh danh từ Pali
có nghĩa là Tam tạng Thánh điển của Phật giáo. Theo Buddhavacana cho rằng ngôn ngữ
Đức Phật nói là tiếng Pali, các nhà ngôn ngữ học chứng minh được rằng Pali chưa bao
giờ là ngôn ngữ nói và thời kỳ Đức Phật chưa có Pali. Đất nước Ấn Độ tồn tại 124 ngôn
ngữ, tuy Pali được ra đời dựa trên nền tảng ngôn ngữ Magdhi, cũng không phải là ngôn
ngữ được Đức Phật khuyến khích sử dụng.

Theo những chứng cớ được các nhà sử học tìm được trên các trụ đá hay bình đựng
xá lợi,… của Asoka, người ta biết được rằng thời kỳ đầu chữ viết được sử dụng là chữ
Brahmi trong ngôn ngữ Prakit không chuẩn hóa và cổ, một số khác bằng chữ Hy Lạp và
Aramaic.8 Tuy chữ viết giống nhau nhưng ngôn ngữ khác nhau có khi Pali, Sanskrit,
Brakit,... do đó chữ viết thời kỳ này đã được phổ biến rộng rãi nên Asoka mới mượn chữ

5
Văn học sử Phật giáo, tr.38.
6
Tiểu Phẩm Tập 2, V. Chương Các Tiểu Sự, tr.71.
7
Văn học sử Phật giáo, tr.41.
8
Đại đế Asoka từ huyền thoại đến sự thật, tr.31.
4
viết khắc lên đá ghi lại những vấn đề quan trọng trong giáo đoàn cũng như những việc
làm của Asoka khi quay về dùng chánh pháp cai trị quốc gia 9. Thời kỳ Asoka cách Đức
Phật hơn 200 năm, nên cũng không thể nói hay khẳng định Đức Phật đã sử dụng ngôn
ngữ gì để thuyết pháp.

Trong kinh tạng Nikaya, Đức Phật dạy các thầy Tỳ-kheo về bảy pháp vô tránh
phân biệt, trong đó pháp thứ bảy là “chớ có chấp trước địa phương ngữ, chớ có đi quá xa
ngôn ngữ thường dùng.10” và điều này cũng là điều Anan muốn các vị tỳ kheo hỏi trong
cuộc trao đổi với Sariputta “Thưa Hiền giả Sariputta, có Tỷ-kheo thiện xảo về ý nghĩa,
thiện xảo về pháp, thiện xảo về văn cú, thiện xảo về địa phương ngữ, thiện xảo về liên hệ
trước sau. Cho đến như vậy, thưa Hiền giả Sàriputta, Tỷ-kheo mau chóng đi đến hiểu biết
đối với các thiện pháp, sự nắm giữ của vị ấy là khéo nắm giữ, nắm giữ nhiều, và không
quên điều đã nắm giữ. 11” Qua đó, càng khẳng định một điều rằng trong tăng đoàn Phật
giáo, cả Đức Phật và các vị đại đệ tử của Ngài chưa bao giờ khẳng định đã sử dụng ngôn
ngữ nào, tùy vào quốc độ, tùy vào sự hiểu biết của mỗi người nên có cách thuyết giảng
khác nhau, chủ yếu là làm thế nào cho mọi người hiểu được điều muốn nói, truyền tải
được chánh pháp.

Khi xã hội ảnh hưởng đến Phật giáo, nhu cầu ngày càng phát triển yêu cầu các
yếu tố tôn giáo cũng phát triển theo. Khi Phật giáo càng phát triển về sau sự phân chia
các bộ phái càng diễn ra mạnh, người ta cần có một loại hình ghi chép lại các nguồn tư
tưởng, chữ viết được ra đời để đáp ứng nhu cầu thực tiễn. Thật ra, nhu cầu ghi chép bằng
chữ viết không chỉ Phật giáo cần, cả xã hội loài người đều cần. Do đó, xã hội Ấn Độ từ
rất xưa đã xuất hiện một loại hình ngôn ngữ là Classical Sanskrit hay còn gọi là Sanskrit
cổ, loại hình Sanskrit này có vị trí vô cùng quan trọng trong văn hóa của người Ấn Độ vì
được dùng biên chép các bộ Veda, loại thư tịch gắn liền với lịch sử và con người Ấn Độ.
Người đời mô tả: “Sanskrit as a language is quite simply beautiful, its structure complex
enough to be interesting, but straight forward enough to be manageable. Knowledge of
9
Thích Chơn Minh, Bài giảng Văn bia và khảo cổ học Phật giáo, khóa 13.
10
Kinh Trung Bộ II, 139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt,tr. 575-576.
11
Tăng Chi Bộ II, Chương V Năm Pháp XVII, tr. 635.
5
Sankrit grants access to an enormous body of literature” 12 vì vậy sự mê hoặc để tìm hiểu
và chinh phục khối kiến thức ngôn ngữ này mang lại còn là một thách thức cho nhân loại.

Panini (520- 460 TCN) là một nhà ngôn ngữ lỗi lạc, tạo ra hệ thống ngôn ngữ mới
gọi là Standard Sanskrit hay còn gọi là Sanskrit tiêu chuẩn. Trong tác phẩm của ông có
đến 8 chương và hơn 3.695 qui chuẩn. Với tính ưu việc rất lớn, được sử dụng rộng rãi,
nhanh chóng ở khắp nơi cõi Ấn Độ, đặc biệt được sử dụng nhiều trong giới văn học, các
tác phẩm ra đời trước kia cũng được sử dụng nhiều. Chính loại hình này đã ảnh hưởng rất
nhiều đến Phật giáo, nhưng vì lý do biên tập kinh điển sẽ trái lời Phật dạy nên tạo ra
những khó khăn đối với các nhà biên tập thời bấy giờ.

Tuy nhiên, sau này xuất hiện Sanskrit hỗn chủng Phật giáo có nguồn gốc hai ngôn
ngữ vùng Trung Ấn Độ kết hợp với địa phương ngữ. Được các học giả Phật giáo chấp
nhận dùng phổ biến bởi vì ngôn ngữ này không trái với lời Phật do Đức Phật dạy nên
dùng địa phương ngữ để truyền bá Phật giáo. Vì thế, Buddhist Hybrid Sanskrit tuy là một
ngôn ngữ cổ đại nhưng giới Phật giáo Bộ phái sử dụng ngôn ngữ này để biên tập kinh
điển trong đó có đến 90- 95% kinh điển Đại Thừa.

Buddhist Hybrid Sanskrit là tên hiện đại để chỉ ngôn ngữ cổ đại ở Ấn Độ. Lúc đầu
người ta thấy phần thơ kệ có ngữ pháp khác với Classical Sanskrit nên người ta gọi đó là
Gatha Sansrit (Sanskrit thơ kệ). Sau này người ta thấy Sanskrit thơ kệ có nguồn gốc của
hai ngôn ngữ Trung Ấn Độ nên người ta gọi là Mixed Sanskrit (Sanskrit lộn xộn). Khảo
cổ học tìm thấy các bia ký có sử dụng ngôn ngữ này để diễn tả các vấn đề ngoài Phật giáo
nên gọi là Popular Sanskrit (ngôn ngữ mà mọi người đều có thể sử dụng được). Người ta
lại xác định ngôn ngữ này tuy có sử dụng trong địa phương nhưng cuối cùng chỉ có giới
Phật tử là sử dụng nhiều nhất nên lại gọi là Buddhist Sanskrit để phân biệt với Sanskrit
được sử dụng trong Bà La Môn giáo là Classical Sanskrit. Tuy nhiên cuộc tranh cãi cuối
cùng lại cho rằng sử dụng tên gọi đó là không hợp lý bởi vì không có ngôn ngữ nào gắn
liền với tôn giáo và có sự trộn lộn của ngôn ngữ vùng Trung Ấn cho nên đặc tên là

12
The Cambridge introduction to Sanskrit, tr.1.
6
Buddhist Hybrid Sanskrit với ý nghĩa là ngôn ngữ Sanskrit có trộn lộn với ngôn ngữ khác
được giới Phật giáo sử dụng nhiều.

Sau này, nhà ngôn ngữ học người Hoa Kỳ là Franklin Edzerton năm 1953 cho ra
đời tác phẩm Buddhist Hybrid Sanskrit Grammar Distionary gồm 2 tập. Tập 1 là phần
văn phạm, tập 2 là phần từ điển. Sau đó ông viết 10 bài báo tranh luận và đưa ra những
chứng cứ có liên quan, tổng hợp 10 bài tranh luận cho ra đời tác phẩm Buddhist Hybrid
Sanskrit Literature. Cho đến khi ông mất, người ta mở một cuộc hội thảo, đưa 10 bài
tranh luận trước kia của ông ra để giải quyết vấn đề và chính thức công nhận Buddhist
Hybrid Sanskrit.13 Sự ra đời của Buddhist Hybird Sanskrit là hợp với nhu cầu phát triển
của đời sống xã hội nhằm ghi chép lại những vấn đề đã xảy ra trước kia truyền lại cho
người đời sau, đệ tử Phật giáo cũng cần làm điều đó để bảo tồn tôn giáo.Ông Sir William
Jone’s tác giả của cuốn từ điển Sanskrit Anh (Sanskrit Veda), ông đã đến Ấn Độ và tìm ra
những thứ giống nhau giữa Greek La- tinh và Sanskrit cũng như một số ngôn ngữ khác.
Ông cho rằng các ngôn ngữ này đồng đại với nhau.

Năm 1870 Ascole từ một nhóm ngôn ngữ chia thành hai nhóm: Centum và Satum.
Nếu Centum chia thành 6 nhóm là Hy Lạp, Ý, Đức ba nhóm này phổ biến ở Tây Bắc
Châu Âu và Keltic, Jokharam, Hittite phổ biến ở vùng Tiểu Á. Riêng Satum chia thành
5 nhóm ngôn ngữ là: Baltu ở Bỉ, Phần Lan; Albanian; Slavic ở Nga, Ba Lan, Hungari;
Armenian ở Tây Nam Á Châu, Đông Bắc Thổ Nhĩ Kỳ; Indo Arinian ở Bắc Ấn, Trung
Đông ( với các nước Afganistan, Iran, Irak,… Thuộc về Ba Tư xưa).

Trong Indo Arinian tác phẩm xưa nhất là Reg-Veda (2000BC-1500BC) khoảng
thế kỷ 15 BC gồm 10.000 bài kệ tụng ca ngợi thần linh. Sau đó nhóm ngôn ngữ này chia
thành hai ngôn ngữ: Avestan persian nhóm ngôn ngữ cổ đại của Trung cận đông và nhóm
Indo Aryan thức là thuộc về nhóm người Bắc Ấn.

Sau đó Indo Aryan chia thành ba giai đoạn: (1) Old Indo Aryan (2000 BC-
500BC) với các tác phẩm: Veda, Upanisad (Áo Nghĩa Thư) thuộc về Classical Sanskrit.

13
Thích Chơn Minh, Bài giảng Văn học Sanskrit, khóa 14.
7
(2) Middle Indo Aryan (500BC-1000AD) ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu trong giai
đoạn này là Brakit, Pali,… (3) Later Indo Aryan (1000AC- đến ngày nay) các ngôn ngữ
Ấn Độ sử dụng là Hindi, Bengali, Punjabi,…

Vì Pali- Sanskrit nằm ở giai đoạn Middle Indo Aryan nên thời kỳ này lại chia
thành 3 giai đoạn nhỏ. (1) Old Middle Indo Aryan (500BC-1AD) với các ngôn ngữ phổ
biến là Pali, một phần Buddhist Hybrid Sanskrit, Brakit và các kinh được biên tập như:
Mahavastu, Bát Thiên Tụng Bát Nhã, Asta saha sriprajna paramita. (2) Middle Middle
Indo Aryan (1AD- 500 AD) phần còn lại của Buddhist Hybryd Sanskrit với các tác phẩm
được biên tập: Kinh Thập Địa, Jataka, Đại Nhân Thánh Sử, Kinh Lăng Già, Kinh Phổ
Diệu, Kinh Thí Dụ,… (3) Later Middle Indo Aryan (500AD- 1000 AD) thời kỳ này chỉ
còn một vài kinh Mật giáo, Trường Hàng, không còn các tạo văn phần lớn các bản văn đã
được đưa về thuần chủng.

“Văn chương Sanskrit của Phật giáo Đại thừa thật sự đã manh nha từ Đại hội kết
tập kinh điển lần 2, hình thành và phát triển trong đại hội lần 4” 14 và “Sanskrit là ngôn
ngữ của khoa học, không những về văn phạm, thi pháp họa, vũ trụ luận, ngữ nghĩa học,
từ nguyên luận, mà cũng không còn nghi ngờ gì về nghệ thuật thần thông, như là thuật
xem tướng và khoa nghiên cứu về quỷ thần được ghi chép trong các văn bản Phật
giáo.”15 Qua hai trích dẫn trên, đã cho thấy giai đoạn hình thành và phát triển của
Sanskrit, song song đó là sự phổ biến cũng như cách sử dụng ngôn ngữ này ở nhiều thế
kỷ trước. Tuy vậy, về sau này Sanskrit dần bị mất đi. Cho đến ngày hôm nay, người ta
thường nói rằng ngôn ngữ Sanskrit là “một ngôn ngữ chết”16 do vì tính phổ thông không
còn nữa, thay vào đó là tiếng Anh, tiếng Hoa,.. Nguyên nhân của việc này có thể hiểu là
do từ khi bắt đầu hay thực tập cũng như sử dụng, ngôn ngữ này chỉ được sử dụng trong
giới quý tộc đặc biệt là “Bà la môn, vua, những người có địa vị cao và ngành giáo
dục”17; số lượng người bản ngữ học tập và sử dụng ngày một giảm; chịu ảnh hưởng của

14
Lịch sử Văn học Sanskrit và Hán tạng Phật giáo, tr.4.
15
A History of Sanskrit Literature, tr.8.
16
Thích Chơn Minh, Bài giảng môn Văn học Sanskrit, khóa 14.
17
A History of Sanskrit Literature, tr.11-12.
8
các nền chính trị, trong đó sự xâm lăng của các đế quốc và sự đồng hóa tôn giáo diễn ra
gây gắt ở Ấn Độ; Sanskrit dần dần không còn phù hợp trong sự phát triển của các quốc
gia nhất là trong các mối quan hệ giao lưu kinh tế, văn hóa;… là những nguyên nhân có
ảnh hưởng rất lớn đưa đến sự suy vong của ngôn ngữ này.

Tuy nhiên, ngày nay, ở các quốc gia tiến bộ, người ta bắt đầu có xu hướng tìm về
các nền ngôn ngữ cổ để tìm hiểu, học hỏi. Tiêu biểu nhất là “Học bổng châu Âu bằng
tiếng Phạn, bắt đầu bởi Heinrich Roth (1620–1668) và Johann Ernst Hanxleden (1681–
1731), được coi là chịu trách nhiệm cho việc khám phá ra ngữ hệ Ấn-Âu của Sir William
Jones. Học bổng này đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của Ngữ văn
phương Tây, hoặc ngôn ngữ học lịch sử.”18 và các quốc gia bắt đầu nghiên cứu Sanskrit
như: Argentina (Fernando Tola & Carmen Dragonetti); Austria, Germany and
Switzerland(L. Soni and J. Soni); Britain ( John Brockington); China ( Saroj Kumar
Chaudhuri); France( Nalini Balbir & Nicolas Dejenne) ; Japan (Shashibal); Nepal
( Radhavallabh Tripathi); Poland(Anna Trynkowska); Russia ( Sergei D. Serebriany);
Thailand (Amarjiva Lochan); the United States ( Sheldon Pollock);…19 và ở các quốc gia
Phật giáo, Sanskrit ngày càng được phổ biến và đưa vào việc giảng dạy qua đó thể hiện
được tầm quan trọng của một nền ngôn ngữ cổ Phật giáo.

Điều đáng nói ở đây là Sanskrit dù được ra đời như thế nào thì cũng đã hoàn thành
sứ mệnh của mình, tạo nên những kỳ công, tinh hoa cho nhân loại. Ở Ấn Độ, Sanskrit đã
“Sanskrit literature offers a wide window onto India: Sanskrit is the language not just of
the sacred writings of Hinduism (and some of Buddhism and Jainism), but also of many
other tests that havr greatly influenced Indian culture and society over the course of more
than two millennia”20, tức là đã đi sâu vào các tôn giáo, phát triển tôn giáo. Rồi sau đó,
“Vận dụng đến mức tinh xảo các ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học để gieo rắc
chánh pháp vào mọi tầng lớp quần chúng Ấn Độ phức tạp đa chủng và sắp đặt trình bày
toàn bộ các giáo pháp Phật thành hệ thống quy mô bằng một phương thức khai triển
18
Phạm Thị Thảo Khanh, Bài giảng Văn học Sanskrit, khóa 13.
19
Phạm Thị Thảo Khanh, Bài giảng Văn học Sanskrit, khóa 13.
20
The Cambridge introduction to Sanskrit, tr.1.
9
càng ngày càng tinh luyện”21 tức là đi sâu vào tư tưởng của con người, khai mở tâm linh
con người bằng tôn giáo. Ngôn ngữ Sanskrit là loại ngôn ngữ bao gồm những ngôn ngữ
cổ xưa nhất, cấu trúc tuyệt vời, hoàn hảo hơn cả Hy Lạp và Latin, ngôn ngữ chặt chẽ đến
nổi không một nhà ngữ âm học nào không tin tưởng ngôn ngữ này là ngôn ngữ tạo ra các
nguồn gốc chung cho các ngôn ngữ sau này. 22 Vì vậy, thông qua Sanskrit, chúng ta sẽ có
cái nhìn chân thật nhất về bức tranh cũng như dòng chảy của Phật giáo, có thể nói rằng ai
hiểu được Sanskrit chính là tiếp cận rất gần đến nguyên thủy Phật giáo với một nền văn
học đồ sộ, một vùng đất tri thức cần con người nổ lực rất nhiều để khám phá.

C.KẾT LUẬN

Tóm lại, do những nhu cầu phát triển, Phật giáo dần dần cũng cần có những thay
đổi cho phù hợp để tồn tại trong đó có chữ viết. Cho đến ngày hôn nay, các câu hỏi về
Phật giáo vẫn luôn cần có câu trả lời, và nững điều bí ẩn về Phật giáo vẫn luôn cần khai
phá, nghiên cứu, trong đó ngôn ngữ Sanskrit cho đến ngày hôm nay vẫn còn là một trong

21
Văn học sử Phật giáo, tr. 33-34.
22
The Sanskrit Language, tr.6.
10
những thách thức lớn của con người. Thấy được tầm quan trọng của loại hình ngôn ngữ
này, ngày nay, ở các nước đã bắt đầu có sự nghiên cứu, tạo điều kiện cho các công trình
khảo cổ về ngôn ngữ này, đó là một tín hiệu đáng mừng. Bởi vì khi chinh phục được loại
hình ngôn ngữ này, con người có thể hiểu thêm được một giai đoạn lịch sử rất quan trọng
không chỉ của xã hội còn có cả các tôn giáo lớn trên thế giới. Sanskrit đã từng tồn tại
cùng lịch sử con người, chúng ta ngày nay phải tìm cách làm loại hình ngôn ngữ này
được hiểu và biết đến một cách rộng rãi đó là một nhiệm vụ to lớn của một thế hệ tương
lai.

THƯ MỤC THAM KHẢO


1. Thích Minh Châu dịch, Kinh Trung Bộ II, 139. Kinh Vô Tránh Phân Biệt, Nxb Tôn Giáo,
Hà Nội, 2017.
2. Thích Minh Châu dịch, Tăng Chi Bộ II, Chương V Năm Pháp XVII. Phẩm Hiềm Hận,
Nxb. Tôn giáo, 2017.
3. Indacanda, Tiểu Phẩm Tập 2, V. Chương Các Tiểu Sự, Nxb Tôn Giáo - Hà Nội, 2014.

11
4. Thích Hạnh Bình, Dịch và chú giải về Dị bộ tông luân luận, Nxb. Phương Đông, 2016.
5. Cao Hữu Đính, Văn học sử Phật giáo, Nxb. Minh Đức, 2017.
6. Thích Kiên Định, Lược sử văn học Sanskrit và Hán tạng Phật giáo, Nxb. Thuận Hóa,
2008.
7. Lê Tự Hỷ, Đại đế Asoka từ huyền thoại đến sự thật, Nxb. Đà Nẵng, 2020.
8. Burrow, T, The Sanskrit Language, Motilal Banarsidass, Delhi, 1995.
9. Keith, A,B, A History of Sanskrit Literature, Motilal Banarsidass, Delhi, 2001.
10. A.M. Ruppel, The Cambridge introduction to Sanskrit, Nxb. Cambridge University,
2016.
11. Thích Chơn Minh, Bài giảng môn Bia ký và khảo cổ học Phật giáo, khóa 13.
12. Thích Chơn Minh, Bài giảng môn Văn học Sanskrit, khóa 14.
13. Phạm Thị Thảo Khanh, Bài giảng môn Văn học Sanskrit, khóa 14.

12

You might also like