You are on page 1of 9

Ba Lần Chiến Thắng Quân Xâm Lược Nguyên

Mông (1258-1285-1288)
1258 (Mậu Ngọ) :Quân Nguyên xâm lược Đại Việt lấn thứ nhất

Tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai) huy động khoảng 3 vạn kỵ, bộ binh
cùng nhiều tướng giỏi chia làm hai đạo quân theo đường sông Hồng tiến đánh Đại Việt.
Tướng nhà Nguyên là Ngột Lương Hợp Thai (Uriyangqadai) huy động khoảng 3 vạn kỵ, bộ binh cùng
nhiều tướng giỏi chia làm hai đạo quân theo đường sông Hồng tiến đánh Đại Việt.

Vua Trần Thái Tông đã cử Trần Quốc Tuấn kịp đưa quân lên mạn biên giới án ngữ địch, mặc khác tổ
chức phòng tuyến phòng ngự ở Bình Lệ Nguyên (phía Nam Phú Thọ).

Các cánh quân Mông Cổ gặp nhau ở Bạch Hạc, giao chiến ác liệt với quân Trần ở Bình Lệ Nguyên,
âm mưu bắt sống vua Trần. Trước thế giặc đang mạnh, theo kế hoạch Lê Tần (Lê Phụ Trần), vua Trần
quyết định lui quân về phía nam, bảo toàn lực lượng. Sau đó triều đình chủ trương rời khỏi Thăng
Long thực hiện kế sách “vườn không nhà trống”, lui về Thiên Mạc (Duy Tiên, Hà Nam). Thế giặc
mạnh, các tướng lĩnh và binh sĩ Trần nao núng, riêng Trần Thủ Độ quyết tâm và bình tĩnh tìm kế sách
chống giặc, ông nói với vua Trần: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”.

Quân Mông Cổ tràn vào kinh thành Thăng Long mà không gặp phải sự kháng cự nào. Tuy nhiên, quân
Mông Cổ phải đối diện với một không gian trống không. Càng ở lâu họ càng thiếu thốn về lương thực,
tinh thần quân lính bị dao động. Thừa cơ đó, vua Trần đã ngược sông Hồng tổ chức trận phản công
địch quyết liệt ở Đông Bộ Đầu.
Bị đánh bật ra khỏi kinh thành, quân Mông Cổ tháo chạy ngược theo sông Hồng về phía Vân Nam.
Trên đường rút quân, chúng liên tục bị quân ta truy kích ở nhiều nơi Cổ Sở (Yên Sở, Hoài Đức,Hà
Tây), Quy Hóa, binh lính tiêu hao dần. Quân nhà Trần đã giành được thắng lợi, đánh bại quân Mông
Cổ xâm lược.

1261 :Vua Nguyên phong vua Trần làm “An Nam Quốc Vương”.

Chúa Mông Cổ là Hốt Tất Liệt (Qubilai) lên ngôi Hoàng đế nhà Nguyên, sai sứ giả là Mạnh
Giáp, Lý Văn Tuấn sang giao thiệp.

Chúa Mông Cổ là Hốt Tất Liệt (Qubilai) lên ngôi Hoàng đế nhà Nguyên, sai sứ giả là Mạnh Giáp, Lý
Văn Tuấn sang giao thiệp.

Vua Trần sai Thông thị đại phu là Trần Phụng Công, Chư ký vệ ban là Nguyễn Thám và Viên ngoại
lang là Nguyễn Diễn mang thư sang Nguyên đáp lễ thông hiếu, nhận nộp lễ cống 3 năm một lần. Vua
Nguyên phong vua Trần làm “An Nam quốc vương” và ban cho 3 tấm gấm tây và 6 tấm kim thục.

1285 (Ất Dậu) :Quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ hai.

Cuối tháng 1-1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan, con trai Hốt Tất Liệt cùng với tướng A
Lý Hải Nha (Aris Khaya) cầm đầu ổ ạt tiến vào xâm lược Đại Việt.

Cuối tháng 1-1285, 50 vạn quân Nguyên do Thoát Hoan, con trai Hốt Tất Liệt cùng với tướng A Lý
Hải Nha (Aris Khaya) cầm đầu ổ ạt tiến vào xâm lược Đại Việt. Các trận đánh giữa hai bên diễn ra
quyết liệt ở nhiều nơi. Thấy thế giặc đang mạnh, Trần Hưng Đạo quyết định rút quân về Vạn Kiếp
(Chí Linh, Hải Hưng). Sau một vài trận đánh nhằm tiêu hao sinh lực địch, quân chủ lực nhà Trần rút
khỏi Thăng Long. Kế sách “vườn không nhà trống” lại được nhân dân phát huy. Quân giặc kéo vào
Thăng Long vắng lặng, chúng vội rút về đóng ở phía bắc sông Hồng.

Cùng thời gian này, Toa Đô từ Champa chỉ huy một đạo quân đánh ra Nghệ An thực hiện thế hai gọng
kìm hòng siết chặt quân ta lại để tiêu diệt. Trần Quốc Tuấn và vua Trần đưa quân ra các lộ miền biển
rồi rút vào Thanh Hóa (tháng 4-1285). Không bắt được vua Trần, không tiêu diệt được đội quân chủ
lực của nhà Trần, càng ở lâu quân giặc lâm vào tình trạng vô cùng khó khăn, thiếu lương thực, ốm
đau, bệnh tật. Nắm được thời cơ đó, quân Trần liên tục tổ chức phản công quân giặc và tiêu diệt chúng
ở nhiều nơi Tây Kết (Khoái Châu, Hưng Yên), Hàm Tử (Khoái Châu), Chương Dương (Thường Tín,
Hà Tây), Thăng Long. Đến tháng 6-1285 Thoát Hoan cùng quân giặc tháo chạy thoát thân, Toa Đô bị
chém đầu ở Tây Kết, Ô Mã Nhi chạy trốn thoát thân.

Quân dân nhà Trần một lần nữa đánh bại được quân Mông Cổ xâm lược lần thứ hai.

1287-1288 :Quân Nguyên xâm lược Đại Việt lần thứ ba.

Không chịu khuất phục, nhà Nguyên đã huy động hàng chục vạn quân, hàng trăm chiến thuyền
lớn sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3.
Không chịu khuất phục, nhà Nguyên đã huy động hàng chục vạn quân, hàng trăm chiến thuyền lớn
sang xâm lược Đại Việt lần thứ 3. Lần này, Thoát Hoan lại được giao làm tổng chỉ huy đạo quân này.
Tháng 12-1287, quân Nguyên ồ ạt tràn vào nước ta, đánh Lạng Sơn, rồi tiến xuống phía nam, đóng
quân tại Vạn Kiếp, xây dựng căn cứ vững chắc. Cùng lúc đó, đạo quân thủy do Ô Mã Nhi cầm đầu
theo đường biển tiến vào cửa sông Bạch Đằng, sau đó hội quân với Thoát Hoan ở Vạn Kiếp.

Đối với đoàn thuyền Lương của quân Nguyên, Trần Khánh Dư bố trí trận phục kích từ nhiều phía đổ
ra đánh giữ dội tại Vân Đồn, nhiều thuyền bị đắm, số còn lại bị quân ta chiếm.

Chờ lâu không thấy đoàn thuyền lương đến, Thoát Hoan cho quân tiến vào Thăng Long (tháng 1-
1288). Lại một lần nữa, quân giặc đối diện với không gian hoang vắng, chúng điên cuồn cướp phá,
nhưng đi đến đâu cũng bị nhân dân chống trả quyết liệt. Quân xâm lược Nguyên lại rơi vào tình trạng
đói khác kéo dài.

Được tin chiến thắng ở Vân Đồn, tiêu diệt đoàn quân lương thực của Trương Văn Hổ và những khó
khăn của giặc sau đó là thời cơ để quân Trần tổ chức phản công tiêu diệt quân xâm lược trên phòng
tuyến sông Bạch Đằng. Đội quân của Ô Mã Nhi chỉ huy rút theo sông Bạch Đằng đã bị tiêu diệt hoàn
toàn. Ô Mã Nhi bị quân ta bắt sống.

Cùng thời gian đó, đội quân do Thoát Hoan chỉ huy rút chạy theo hướng Lạng Sơn, bị quân ta phục
kích đánh tan. Thoát Hoan may mắn chạy thoát được về nước.

Quân dân nhà Trần đã đánh bại hoàn toàn đội quân xâm lược hùng hậu của nhà Nguyên lần 3.
Ba lần chiến thắng quân xâm lược Nguyên Mông (1258 - 1285 - 1288)
--------------------------------------------------------------------------------

Trong thế kỷ XIII, dân tộc Việt Nam đã lập nên những chiến công vĩ đại: ba lần chiến thắng giặc Nguyên Mông
xâm lược.

Lần thứ nhất xảy ra vào tháng Giêng nǎm 1258. Bấy giờ, vua chúa Mông Cổ đang tiến hành cuộc chiến tranh
xâm chiếm Trung Quốc. Bên cạnh những đạo quân ồ ạt đánh vào đất Tống, một đạo quân khoảng bốn vạn
người, gồm kỵ binh Mông Cổ và binh lính người Thoán Vân Nam, do tướng Ngột Lương Hợp Thai
(Uryangquadai) chỉ huy, từ Vân Nam đánh xuống Đại Việt. Vua Trần là Thái Tông đã đem quân lên chặn giặc ở
Bình Lệ Nguyên, bên sông Cà Lồ. Nhưng sau đó, quân ta rút lui để bảo toàn lực lượng trước thế mạnh ban đầu
của giặc.

Quân ta rút lui, bỏ Thǎng Long lại phía sau, nhưng Triều đình nhà Trần và quân dân vẫn không nao núng. Vua
tôi nhà Trần đã bàn phương lược đánh giặc trên những con thuyền xuôi sông Hồng. Khi được Thái Tông hỏi ý
kiến, Thái sư Trần Thủ Độ đã trả lời: ''Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo".

Giặc đóng ở Thǎng Long, trong một toà thành trống, đã khốn đốn vì thiếu lương thực. Chúng cố đánh ra xung
quanh để cướp lương thực, nhưng ở đâu cũng gặp sức chống trả mãnh liệt của nhân dân. Vì vậy mà chỉ sau 9
ngày, chúng đã vô cùng hốt hoảng. Đó chính là thời cơ để quân ta phản công. Ngày 29-l-1258, Vua Trần Thái
Tông đã đem binh thuyền ngược sông Hồng tiến về Thǎng Long. Quân địch bị đánh bật khỏi Kinh thành, theo
đường cũ, chạy về Vân Nam. Trên đường tháo chạy, chúng còn bị quân dân các dân tộc thiểu số ở miền núi
tập kích, đánh cho tan tác.

Sau lần thất bại đó, bọn vua chúa Mông Cổ vướng vào cuộc nội chiến (1259 -1264) và cuộc chiến tranh với
Tống (1267-1279) nên chưa thể tiếp tục ngay cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Mãi đến nǎm 1279, nhà
Tống mất, toàn bộ đất Trung Quốc đǎ nằm dưới ách thống trị của nhà Nguyên, vua Nguyên là Hốt Tất Liệt
(Quibilai) mới chuẩn bị xâm lược nước ta bằng quân sự. Sau khi không thể khuất phục được Đại Việt bằng
những sứ bộ ngoại giao, cuối nǎm 1284, đạo quân Nguyên Mông do Thoát Hoan (Toan), con trai Hốt Tất Liệt,
và A Lý Hải Nha (Ariquaya) chỉ huy, đã lên đường, bắt đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt lần thứ hai.

Lần này, ngoài cánh quân lớn của Thoát Hoan đánh vào mặt Lạng Sơn, Vua Nguyên còn sai Nạp Tốc Lạt Đinh
(Nasirud Din) đem một cánh quân từ Vân Nam đánh vào mặt Tuyên Quang, và ra lệnh cho Toa Đô (Sogatu)
đem đạo quân còn đóng ở Bắc Chǎmpa, đánh vào mặt Nam của Đại Việt.

Sau một vài trận đánh chặn giặc ở mặt Lạng Sơn và Tuyên Quang, trong tháng 2/1285, quân ta lại rút lui và lần
nữa bỏ trống Thǎng Long, kéo về mạn Thiên Trường và Trường Yên (Ninh Bình). Và để tránh cái thế bị kẹp
vào giữa các gọng kìm của giặc, đại quân và Triều đình chờ cho cánh quân của ba Đô tiến đến Trường Yên
(Ninh Bình) thì rút vào Thanh Hoá. Trong khi một bộ phận lớn quân chủ lực rút, thì khắp nơi, quân địa phương
và dân binh các lộ, phối hợp với các cánh quân nhỏ của Triều đình để lại đã không ngừng tập kích, tấn công
vào quân địch ở vùng bị chiếm đóng. Kế hoạch ''vườn không nhà trống" được toàn dân thực hiện. Giặc đóng
quân phân tán, thiếu lương thực, có nguy cơ bị tiêu diệt. Mùa hè đến, lại giáng lên đầu chúng những tai hoạ
mới. Sử Nguyên chép: "Bệnh dịch hoành hành... Nước lụt dâng to, ngập ướt doanh trại... ". Thời cơ phản công
của quân ta đã tới. Tháng 5/1285, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn dẫn đại quân tiến ra Bắc. Kế hoạch diệt
địch như sau: Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải và một số tướng lĩnh được giao nhiệm vụ diệt địch trên
phòng tuyến sông Hồng, còn Hưng Đạo Vương, đem quân vòng qua vùng Hải Đông, tiến lên Vạn Kiếp, chặn
đường tháo chạy của địch. Cục diện chiến tranh xảy ra đúng như dự liệu: cuối tháng 5-1285, Trần Quang Khải
cùng với Trần Nhật Duật, Trần Quốc Toản đã đánh tan giặc ở Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương, rồi tiến lên
giải phóng Thǎng Long. Thoát Hoan hoảng hốt, rút khỏi Thǎng Long, chạy về phía Vạn Kiếp. Đến đây, bọn giặc
lọt vào trận địa mai phục của Trần Hưng Đạo, chúng bị thương vong rất nhiều. Đám tàn quân hoảng loạn cố
mở đường máu tháo chạy. Nhưng đến biên giới Lạng Sơn, chúng lại bị quân ta chặn đánh. Thoát Hoan phải
chui vào ống đồng rồi bắt quân lính khiêng chạy về nước. Viên đại tướng Lý Hằng đi đoạn hậu, bị tên độc trúng
đầu gối, về đến Tư Minh thì chết.

Trong khi cánh quân Thoát Hoan chạy về phía Lạng Sơn thì cánh quân Nạp Tốc Lạt Đinh tìm đường tẩu thoát
về Vân Nam, cũng bị quân dân ta tập kích, đánh cho tơi bời. Không biết Thoát Hoan đã bỏ chạy, Toa Đô kéo ra
Bắc, theo sông Hồng định về Thǎng Long, nhưng đến Tây Kết thì bị quân ta chặn đánh. Toa Đô bị chém. Thế
là cuộc chiến tranh xâm lược của Nguyên Mông lần thứ hai hoàn toàn thất bại.
Ngay sau thất bại năm 1258, Hốt Tất Liệt đǎ ra lệnh chuẩn bị một cuộc chiến tranh xâm lược mới. Nhưng phải
đến cuối nǎm 1287, các đạo quân viễn chinh mới có thể lên đường. Một đạo do Thoát Hoan và áo Lỗ Xích
(Agurucxi) chỉ huy tiến vào Lạng Sơn. Một đạo khác, do ái Lỗ (Airuq) cầm đầu, từ Vân Nam đánh vào Tuyên
Quang. Lần này, không còn cánh quân phía Nam, nhưng Vua Nguyên lại phái thêm một cánh thuỷ quân, sai ô
Mã Nhi (Omar) chỉ huy, hộ tống đoàn thuyền tải lương của Trương Vǎn Hổ vào Đại Việt theo đường biển.

Tháng 12/1287, khi đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào vùng biển An Bang (Quảng Ninh), Nhân Huệ
Vương Trần Khánh Dư đem thuỷ quân chặn đánh, nhưng không cản được giặc. ô Mã Nhi cho binh thuyền tiến
thẳng vào cửa sông Bạch Đằng, không chú ý đến đoàn thuyền lương nặng nề chậm chạp ở sau. Mãi đến tháng
1/1288, đoàn thuyền lương của giặc mới tiến đến vùng đảo Vân Đồn. Trần Khánh Dư lại đem quân tập kích.
Trương Vǎn Hổ chống đỡ không nổi, đổ cả lương thực xuống biển, trèo lên một chiếc thuyền nhỏ, trốn về
Quỳnh Châu (Hải Nam). Bấy giờ, Thoát Hoan cũng đã tiến vào Lạng Sơn, hội quân với cánh quân thủy của ô
Mã Nhi ở Vạn Kiếp. Thoát Hoan dừng lại ở đây gần một tháng, xây dựng Vạn Kiếp thành một cǎn cứ vững
chắc, mãi đến cuối tháng 1/1288 mới chia quân tiến về Thǎng Long.

Lần thứ ba, quân dân nhà Trần lại bỏ ngỏ Thǎng Long. Quân Nguyên vào Thǎng Long ngày 2/2/1288. Ngay
sau đó, Thoát Hoan vội sai ô Mã Nhi đem chiến thuyền ra biển đón thuyền lương của Trương Vǎn Hổ. Nhưng
thuyền còn đâu nữa. Không có lương thực, đạo quân Thoát Hoan đóng ở Thǎng Long lâm vào tình thế khốn
quẫn.Thoát Hoan phải ra lệnh rút quân về Vạn Kiếp. Trên đường rút về Vạn Kiếp, giặc bị quân ta chặn đánh ở
cửa Ba Sông, vùng Phả Lại. Kéo về đóng ở Vạn Kiếp, đạo quân xâm lược vẫn bị quân ta tập kích ngày đêm.
Trước nguy cơ bị tiêu diệt, bọn tướng Nguyên đã nói với Thoát Hoan: ''ở Giao Chỉ, không có thành trì để giữ,
không có lương thực đủ ǎn, mà thuyền lương của bọn Trương Vǎn Hổ lại không đến. Vả lại khí trời đã nóng
nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì để chống đỡ lâu được, làm hổ thẹn cho triều đình, nên bảo toàn quân
mà về thì hơn" Trước tình hình đó, Thoát Hoan quyết định rút quân về nước theo hai đường: cánh quân bộ rút
qua vùng Lạng Sơn, còn cánh quân thuỷ sẽ rút ra biển theo sông Bạch Đằng.

Kế hoạch rút lui của giặc không nằm ngoài dự liệu của Trần Hưng Đạo. ông đã bố trí chặn giặc ở vùng biên
giới và chuẩn bị cho một trận quyết chiến lớn trên sông Bạch Đằng. Từ tháng 3, quân sĩ và nhân dân đã đẵn gỗ
lim, gỗ táu ở rừng về đẽo nhọn, đóng xuống lòng sông, làm thành những bãi cọc lớn. Thuỷ quân và bộ binh ta
đã phục sẵn trong các nhánh sông và các khu rừng rậm ven sông Bạch Đằng, chờ ngày tiêu diệt địch.

Sáng ngày 9/4/1288, đoàn thuyền chiến của ô Mã Nhi tiến vào sông Bạch Đằng. Khi đoàn thuyền giặc lọt vào
trận địa mai phục của ta thì từ các nhánh sông, các thuyền nhẹ của ta lao ra, đánh tạt vào sườn giặc, dồn
chúng vào các bãi cọc. Giặc định áp thuyền sát bờ, đổ quân chiếm lấy núi cao để yểm hộ cho đoàn thuyền rút,
nhưng bị bộ binh ta đánh hắt xuống. Một trận kịch chiến ác liệt đã xảy ra. Nước triều xuống gấp, thuyền giặc to
nặng, lao nhanh theo dòng nước, vướng cọc, tan vỡ rất nhiều. Cho đến giờ dậu (5-7 giờ tối), toàn bộ đạo quân
thuỷ của giặc bị tiêu diệt. ô Mã Nhi bị bắt sống. Lần thứ ba trong lịch sử giữ nước của dân tộc, dòng Bạch Đằng
lại ghi thêm một chiến công oanh liệt. Trong khi đó, đạo quân của Thoát Hoan cũng khốn đốn rút chạy ra biên
giới. Sau khi bị phục kích ở cửa ải Nội Bàng, chúng bỏ con đường ra ải Khâu Cấp, vòng theo đường Đan Ba
(Đình Lập), chạy tạt ra biên giới. Nhưng ở đây, chúng cũng bị quân ta chặn đánh, tướng giặc là A Bát Xích
(Abaci) bị trúng tên. Mãi đến ngày 19/4/1288, đám tàn quân của Thoát Hoan mới về đến Tư Minh.

Chiến thắng Bạch Đằng oanh liệt đã chôn vùi vĩnh viễn mộng xâm lược của Hốt Tất Liệt.
Chiến thắng Bạch Đằng nǎm 938
 

Sông Bạch Đằng là một nhánh sông dài hơn 20 km, từ Do Nghi đến Phả Lễ giữa Yên Hưng (Quảng Ninh) và
Thuỷ Nguyên (Hải Phòng), nơi đã ghi dấu chiến công của Ngô Quyền chống giặc Nam Hán; chiến công của Lê
Hoàn chống giặc Tống; chiến công của Trần Hưng Đạo chống giặc Nguyên Mông. Trong đó, trận thắng giặc
Nam Hán vào nǎm 938 do Ngô Quyền chỉ huy là mốc son mở ra nền độc lập tự chủ của dân tộc ta.

Nǎm 931, Dương Đình Nghệ đǎ lãnh đạo nhân dân đánh đuổi được bọn quan quân Nam Hán là bọn Lý Khắc
Chính và Lý Tiến ra khỏi nước ta. ông tự xưng là Tiết độ sứ đóng bản doanh ở thành Đại La.

Nǎm 937 Dương Đình Nghệ bị nha tướng Kiều Công Tiễn giết hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Nền độc lập của
dân tộc ta vừa mới giành được sau đêm trường Bắc thuộc lại bị đe dọa. Kiều Công Tiễn hoảng sợ trước sự
cǎm phẫn của nhân dân, đã cho người sang cầu cứu vua Nam Hán. Nhân cơ hội đó, Nam Hán đã phát động
cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Vua Nam Hán là Lưu Cung đã cử con trai là thái tử Hoằng Thao thống lĩnh
quân thuỷ vượt biển tiến vào nước ta. Bản thân Lưu Cung cũng tự cầm quân đóng ở Hải Môn (Quảng Đông)
để sẵn sàng tiếp ứng.

Cuối nǎm 938, Ngô Quyền (898-944), vị tướng giỏi đồng thời là con rể của Dương Đình Nghệ đã đem binh từ
châu ái (Thanh Hoá) ra diệt Kiều Công Tiễn, trừ mối hoạ bên trong. Sau đó, ông huy động nhân dân cả nước
khẩn trương bước vào cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nam Hán. Nắm vững tình hình cũng như
đường tiến quân của địch, Ngô Quyền bàn với các tướng sĩ rằng: "Hoằng Thao là một đứa trẻ dại, đem quân
từ xa đến, quân lính mỏi mệt, lại nghe được tin Công Tiễn đã bị giết chết, không có người làm nội ứng, đã mất
vía trước rồi. Quân ta sức còn mạnh, địch với quân mỏi mệt, tất phá được! Song chúng có lợi ở thuyền, nếu ta
không phòng bị trước thì chuyện được thua cũng chưa biết được. Nếu ta sai người đem cọc lớn đóng ngầm ở
cửa biển trước, vạt nhọn đầu và bịt sắt, thuyền của chúng nhân khi nước triều lên tiến vào bên trong hàng cọc,
bấy giờ ta sẽ dễ bề chế ngự không kế gì hay hơn kế ấy cả". Các tướng đều phục kế sách ấy là chắc thắng.

Ngay sau đó, Ngô Quyền đã huy động quân dân đẵn gỗ, đẽo cọc vát nhọn, bịt sắt cắm đầy lòng sông Bạch
Đằng ở những chỗ hiểm yếu gần cửa biển tạo thành một trận địa ngầm, hai bên bờ có quân mai phục. Đó là
một thế trận hết sức chủ động và lợi hại, thể hiện một quyết tâm đánh thắng quân giặc của chủ tướng Ngô
Quyền và quân dân ta.

Hoằng Thao thống lĩnh thuỷ binh hùng hổ kéo vào cửa sông Bạch Đằng. Lúc đó nước triều đang lên ngập hết
bãi cọc, Ngô Quyền cho thuyền nhẹ ra khiêu chiến, dụ quân giặc từ vịnh Hạ Long vào sông Bạch Đằng, rồi vờ
thua chạy. Tên tướng trẻ kiêu ngạo Hoằng Thao mắc mưu, thúc quân chèo thuyền hǎm hở đuổi theo, vượt qua
trận địa cọc ngầm của ta. Quân ta cầm cự với giặc. Đợi khi nước thuỷ triều rút xuống, Ngô Quyền hạ lệnh cho
toàn quân đánh quật trở lại. Thuỷ quân giặc hốt hoảng quay đầu chạy. Ra đến gần cửa biển, thuyền địch đâm
phải cọc nhọn, bị vỡ và bị đắm rất nhiều. Quân giặc phần bị giết, phần chết đuối, phần còn lại phải đầu hàng
hoặc bị quân ta bắt sống. Toàn bộ đạo quân thuỷ xâm lược của Nam Hán, kể cả Hoằng Thao đã vĩnh viễn bị
nhấn chìm xuống dòng sông Bạch Đằng lịch sử. Vua Nam Hán đang điều quân sang tiếp viện cho con, nhưng
nửa đường nghe tin Hoằng Thao chết trận, quân lính bị tiêu diệt gần hết, hắn kinh hoàng, khủng khiếp đành
"thương khóc thu nhặt quân còn sót lại mà rút lui" (Đại Việt sử ký toàn thư). Mưu đồ xâm lược của vua tôi nhà
Nam Hán đã bị Bạch Đằng Giang nổi sóng cuốn chìm.

Hai tiếng Bạch Đằng đã đi vào lịch sử. Trong tâm thức nghìn nǎm của người Việt Nam, Bạch Đằng đã trở
thành điểm hội tụ của sức sống dân tộc, đúng như lời ngợi ca của Phạm Sư Mạnh:
Vũ trụ kỳ quan Dương Cốc nhật,
Giang san vương khí Bạch Đằng thâu.

Tạm dịch:
(Kỳ quan của Vũ trụ là Mặt trời lên tại hang Dương Cốc,
Khí thiêng của núi sông đọng lại ở chốn Bạch Đằng).
Ngô Quyền và chiến thắng Bạch Đằng năm 938  

Đầu năm 937, Dương Đình Nghệ bị Kiều Công Tiễn ám hại để đoạt chức Tiết độ sứ. Đến tháng 10 năm 938,
Ngô Quyền từ vùng Châu Ái đem quân ra đánh Kiều Công Tiễn. Kiều Công Tiễn tự thay thế cô, lực yếu đã cho
người chạy sang cầu cứu nhà Nam Hán. Lưu Cung lập tức điều động một lực lượng binh thuyền lớn, giao cho
con là Vạn Vương Hoằng Tháo làm Tĩnh hải quân Tiết độ sứ thống lĩnh đại quân tiến đánh Giao Châu. Ở trong
nước, Kiều Công Tiễn cố gắng tìm mọi cách cố thủ ở thành Đại La chờ quân Nam Hán vào rồi từ trong đánh ra,
phối hợp với quân xâm lược từ ngoài đánh vào, nhanh chóng tiêu diệt toàn bộ lực lượng kháng chiến.

Trước tình hình đó, Ngô Quyền, người làng Đường Lâm sinh trưởng trong một gia đình có truyền
thống yêu nước chống giặc bắc đã trở thành người đoàn kết mọi lực lượng kháng chiến, quy tụ mọi
nguồn sức mạnh của dân tộc để chống lại giặc ngoại xâm.

 Bản đồ trận Bạch Đằng năm 938  

Kế hoạch của Ngô Quyền là tập trung lực lượng tiêu diệt thật nhanh gọn, triệt để đội quân xâm lược Nam Hán
ở ngay địa đầu Tổ quốc bằng một trận quyết chiến chiến lược giành toàn thắng. Ông chọn vùng hạ lưu và cửa
biển Bạch Đằng làm vùng trận địa quyết chiến. Thế trận của Ngô Quyền là thế trận triệt để lợi dụng địa hình
thiên nhiên phức tạp ở vùng cửa biển Bạch Đằng (gồm sông nước, cồn gò, dải chắn, bãi bồi, rừng sú vẹt, đầm
lầy, kênh rạch chằng chịt và các làng xã ven sông), kết hợp với bãi cọc là bãi chướng ngại nhân tạo, làm tăng
lên sức mạnh chiến đấu của quân dân ta và dồn quân địch vào thế bất ngờ, bị động. Ông còn cho phối hợp
chặt chẽ giữa quân thủy với quân bộ, giữa quân đội chủ lực với lực lượng vũ trang của quần chúng và sự tham
gia phục vụ của đông đảo nhân dân yêu nước.

Cuối tháng 12 năm 938, đoàn binh thuyền của quân Nam Hán do Hoằng Tháo chỉ huy từ Quảng Đông vượt
biển sang xâm lược nước ta. Cùng lúc đó, cánh quân do Lưu Cung chỉ huy cũng đóng tại trấn Hải Môn (huyện
Bác Bạch, Quảng Đông, Trung Quốc). Khi những chiếc thuyền đi đầu của quân Nam Hán vừa tiến đến vùng
cửa biển Bạch Đằng, đội quân khiêu chiến của ta với những chiếc thuyền nhẹ bỗng xuất hiện. Quân ta chiến
đấu quyết liệt vừa cố kìm chân chúng chờ cho nước triều lên thật cao, vừa để chúng không hoài nghi, giữ bí
mật trận địa mai phục. Khi binh thuyền đã vào trong vùng cắm cọc, nước triều rút, cọc nhô lên, Ngô Quyền bèn
tiến quân ra đánh. Chủ tướng giặc là Hoằng Tháo bị quân ta bắt sống và giết tại trận.

Cuộc chiến tranh xâm lược đầy tham vọng của nhà Nam Hán đã hoàn toàn thất bại. Chiến thắng Bạch Đằng
năm 938 là cái mốc bản lề của lịch sử Việt Nam. Nó chấm dứt vĩnh viễn nền thống trị hơn 1 .000 năm của
phong kiến phương Bắc, mở ra thời kỳ độc lập thực sự và lâu dài của dân tộc Việt Nam.

You might also like