Professional Documents
Culture Documents
Thực vật với sự đa dạng về màu sắc là nguồn chất màu chính sử dụng trong
thực phẩm. Flavonoid, carotenoid và chất diệp lục là những hợp chất đóng góp
chính vào màu tự nhiên của hầu hết các loại thực vật
Chất màu Nguồn Lượng dùng
(mg/kg thể trọng)
Anthocyanin Vỏ nho, elderberries Không hạn chế
Betalain Củ cải đỏ, quả xương Không hạn chế
rồng đỏ, vỏ quả xương
rồng
Caramen Đường Không hạn chế
Carotenoid
- Annato Hạt điều 0,065
- Canthaxanthin Nấm rơm, cá 0 – 0,03
- β- apocarotenal Cam, rau xanh 0–5
b. Chalcone
- Là chất màu tan trong nước, được chiết xuất từ cánh hoa của cây
Carthamas tinctorius (cây rum). Hiện nay chalcone rất ít được sử dụng
trong ngành CNTP bởi vì có quá ít thông tin về độ bền của sắc tố này.
Chalcone là chất màu kém nhạy với sự thay đổi của pH, ánh sáng, sự
phân hủy của vi khuẩn. Người ta thấy rằng nó bị thay đổi khi bị ảnh
hưởng bởi nhiệt hoặc kim loại.
2. Carotenoid
- Là một loại chất màu có thể tìm thấy không chỉ ở thực vật mà còn ở trong
các loại vi khuẩn, nấm, tảo và động vật. Có hơn 500 loại carotenoid đã
được phân lập và định danh. Cấu tạo chung là 1 chuỗi hydrocarbon C40
gồm 8 đơn vị isoprenoid. Sự đa dạng của sắc tố carotenoid tăng lên nhờ
vào sự gắn kết của các nhóm thế ở 2 đầu của chuỗi hydrocarbon
Hình: Cấu tạo của một số carotenoid
- Đồng phân liên kết đôi trong chuỗi hydrocarbon làm thay đổi phổ hấp thụ
của phân tử và tạo ra những hợp chất carotenoid có màu sắc khác nhau.
Trong phân tử carotenoid có mặt nhiều liên kết đôi nên rất dễ bị oxy hóa,
đặc biệt là trong điều kiện có ánh sáng, enzym, kim loại và hydroperoxide
lipid. Carotenoid là các sắc tố tương đối bền trong 1 khoảng pH rộng và
hòa tan được trong chất béo.
- Beta carotene là loại carotenoid phổ biến nhất trong tự nhiên, đặc biệt là
trong nguyên liệu thực vật, tan được trong dầu và tạo màu vàng cho thực
phẩm chúng được ứng dụng trong các sản phẩm như sữa, bánh cake, súp,
mứt bánh kẹo.
a. Annatto
- Là 1 carotenoid màu vàng cam có nguồn gốc từ vỏ của hạt giống thuộc
nhóm cây bụi Bi ca orellana.
- Annatto khá bền với sự thay đổi của pH, nhiệt độ và không khí. Tuy
nhiên, nó lại không bền khi tiếp xúc với ánh sáng có cường độ mạnh.
Màu annatto kết tủa trong điều kiện acid và cũng bị mất màu khi tiếp xúc
với natri dioxide. Annatto là hỗn hợp của 2 chất bixin và norbixin.
+ Bixin là mono-methyl ester của dicarboxyliccarotenoid, chiếm tỉ lệ lớn,
tan trong dầu và được chiết tách từ hạt annatto với dầu ăn. Tạo màu cam
cho các sản phẩm thực phẩm chứ chất béo: sữa, pho mát, kem, bơ thực
vật,...
+ Thủy phân bixin trong môi trường kiềm tạo các norbixin tự do.
Norbixin tan trong nước, được chiết xuất từ hạt annatto bằng cách sử
dụng dung môi là dung dịch kiềm. Norbixin được sử dụng trong các sản
phẩm: cá hun khói, pho mát, bánh nướng, các sản phẩm từ thịt,...
b. Saffron
- Là chất phụ gia đầu tiên được con người sử dụng, đây là loại sắc tố tan
trong nước, được chiết xuất từ nhụy hoa Crocus sativus
c. Lycopene
- Hợp chất này có màu đỏ thẫm, tìm thấy trong dưa hấu và bưởi chum đỏ.
Tuy nhiên, cà chua là nguồn chính cung cấp sắc tố này. Lycopene là hợp
chất tan trong nước và trong 1 số dung dịch không phân cực. Ứng dụng:
đồ uống, bánh kẹo, kẹo cứng, bánh mỳ...
Hình: Betanin, thành phần chính của betacyanin, được chiết xuất từ rễ cây
củ cải đỏ
- Betanin và vulgaxanthine đều bền nhất ở khoảng pH từ 4 -6. Cả 2 đều
khá nhạy với không khí và không bền với nhiệt. Cả 2 hợp chất trên đều
chỉ có thể sử dụng trong các loại thực phẩm có hạn sử dụng ngắn hoặc
các loại thực phẩm không trải qua quá trình xử lý nhiệt kéo dài.
e. Turmeric
- Màu nghệ (turmeric) có màu vàng sáng được chiết xuất từ rễ cây nghệ.
Dịch chiết xuất từ nghệ gồm 3 hợp chất màu: curcumin,
demethoxycurcumin, bisdemethoxycurcumin, trong đó sắc tố chính là
curcumin, là hợp chất tan trong nước. Curcumin có màu vàng da cam.
- Nhược điểm: khi sử dụng trong thực phẩm cũng tương tự như màu vàng
của nghệ tây, đó là các hợp chất mùi vị có trong dịch chiết xuất.
Curcumin không bền trong điều kiện có mặt sánh sáng và trong môi
trường kiềm.