You are on page 1of 44

Câu 1: Điều kiện khách quan và chủ quan qui định sứ mệnh lịch sử toàn thế

giới của giai cấp công nhân. Liên hệ với thực tiễn đẩy mạnh CNH-HĐH ở
nước ta hiện nay.

Để hiểu rõ sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, trước hết cần làm rõ khái niệm
giai cấp công nhân
Giai cấp công nhân là tập đoàn xã hội hình thành và phát triển cùng với sự phát
triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có
tỉnh chất xã hội hóa ngày càng cao, là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp
tham gia vào sản xuất, tái sản xuất ra vật chất và cải tạo các mối quan hệ xã hội, là
lực lượng chủ yếu của tiến trình lịch sử quá độ từ CNTB lên CNXH
Sứ mệnh lịch sử toàn thế giới là sự nghiệp xác lập một hình thái kinh tế xã hội trên
phạm vi toàn thế giới.

Trong lịch sử, sự nghiệp này được trao cho một giai cấp tiến bộ đương thời, đại
diện cho một phương thức sản xuất mới của nhân loại. Chẳng hạn giai cấp chủ nô
với việc xác lập hình thía kinh tế xã hội chiếm hữu nô lệ; giai cấp phong kiến với
việc xác lập hình thía xã hội phong kiến; giai cấp tư sản với việc xác lập hình thái
kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa và hiện nay là giai cấp công nhân với việc xác lập
hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Sứ mệnh lịch sử thường xuất hiện ở
điểm giao thời – quá độ giữa một hình thái cũ đang suy tàn và một hình thái mới
đang xuất hiện 

Điều kiện cơ bản để một giai cấp đảm nhận sứ mệnh lịch sử trước tiên giai cấp đó
phải là một giai cấp đại diện cho tiến bộ xã hội mà cụ thể là đại diện cho phương
thức sản xuất tiến bộ với nâng suất lao động cao hơn , cách tổ chức lao động xã hội
phù hợp  và tiến bộ hơn. Ban rthaan giai cấp đố cuãng có được một hệ tư tưởng
riêng phản ánh nhận thức về quy luật lịch sử và có được hạt nhân chính trị của giai
cấp mình ( chính đảng) 

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là những nhiệm vụ cần phải thực hiện
trong quá trình xây dựng hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa, gồm các nội
dung cơ bản là kinh tế, chính trị-xã hội, văn hóa, tư tưởng. 

Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công
nhân:

1
Thứ nhất, do sự quy định của địa vị kinh tế - xã hội của giai cấp công nhân. Giai
cấp công nhân gắn kiền với phương thức sản xuất công nghiệp ngày càng hiện đại,
mang tính xã hội hóa cao. Phương thức sản xuất quy định phương thức tư tưởng,
giai cấp công nhân vì vậy có dduwwocj những đặc điểm của một giai cấp cách
mạng : tính tổ chức kỷ luật, tác phong công nghiệp, tinh thần triệt để cách mạng ,
tính đoàn kết quốc tế , tính dân tộc… những phẩm chất này khách quan xác định
giai cấp công nhân là giai cấp tiên tiến nhất, cách mạng nhất và có năng lực lãnh
đạo các giai cấp khác trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Thứ hai : những tiền đề vất chất của chủ nghĩa tư bản và sự vận động của mâu
thuẫn cơ bản của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Xã hội hóa sản xuất là
tiền đề quan trọng nhất đã thúc đẩy sự vận động của mâu thuẫn cơ bản trong lòng
phương thức sản xuất TBCN. Mâu thuẫn cơ bản đó là xung đột giữa tính chất xã
hội hóa của lực lượng sản xuất với tính chất tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản
xuất. Quy luật chung là quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
LLSX. Công hữu những tư liệu SX chủ yếu là yêu cầu khách quan và đã được quá
trình SX hiện đại vạch ra. Xã hội hiện đại với xu thế xã hội háo, dân chủ hóa mạnh
mẽ hiện nay cũng đang làm chín muồi những tiền đề khách quan cho sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân.

Thứ ba: mẫu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản tất
yếu dẫn đến sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân

Chế độ bóc lột giá trị thặng dư đã khiến cho lợi ích cơ bản của hai giai cấp này đối
lập nhau : một bên là giai cấp bị bóc lột sức lao động, một bên là đi bóc lột sức lao
động . Mâu thuẫn đó là không thể điều hòa và là động lực chính cho cuộc đấu tranh
giai cấp hiện đại 

Giải quyết mâu thuẫn về lợi ích cơ bản giữa hai giai cấp này theo hướng xóa bỏ
chế độ bóc lột giá trị thặng dư là yếu tố khách quan. Muốn thực hiện được điều đó
phải xóa bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nhưng muốn xóa bỏ nó thì phải
xóa bỏ chế độ chính trị là cái đang bảo vệ quan hệ sản xuất ấy. Lật đổ chế độ tư
sản, nhà nước của giai cấp tư sản, xác lập nhà nước giai cấp công nhân là tất yếu
trong quá trình cách mạng kinh tế.

Hiện nay, yêu cầu phát triển nhanh, nhân bản và bền vững của thế giới hiện đại
cũng khách quan coi sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân như một giải pháp
mới cho phát triển.

2
Thông qua việc phân tích tính chất khách quan của sứ mệnh lịch sử cúa giai cấp
công nhân chúng ta thấy được tất yếu kinh tế - chính trị xã hội của cách mạng
XHCN và ý nghĩa nhân đạo lớn lao của sứ mệnh này. Nó là một sự nghiệp của giải
phóng và phát triển được nảy sinh từ chính những nhân tố hiện thực của xã hội
hiện đại chứ không phải là mong muốn chủ quan như sự xuyên tạc của các kẻ thù
tư tưởng 

Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện thành công sứ mệnh lịch
sử toàn thế giới . 

Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là tất yếu khách quan, tức là không phụ
thuộc vào ý muốn của bất kỳ ai. Nhưng cũng như các quy luật xã hội khác, nó
không “ tự động” diễn ra như các qui luật tự nhiên mà nó cần có những yếu tố chủ
quan . Những nhân tố chủ quan đó là :

Thứ nhất : là sự phát triển của giai cấp công nhân, là kết quả của quá trình phát
triển tự thân , tự giác , chủ động. Với tư cách là chủ thế thực hiện sứ mệnh lịch sử,
sự phát triển giai cấp công nhân là yếu tố chủ quan quy định chất lượng và quy mô,
tốc độ của quá trình này. Sự phát triển giai cấp công nhân được thể hiện ở sự phát
triển về lượng và phát triển về chất.

Phát triển về lượng của giai cấp công nhân thể hiện sự tăng trưởng về số lượng
cũng như tỷ lệ lao động công nghiệp trong nền kinh tế.

Sự phát triển về chất của giai cấp công nhân được thể hiện ở năng lực làm chủ
công nghệ hiện đại và ý thức giác ngộ giai cấp, giác ngộ dân tộc.

Thứ hai : là có  Đảng cộng sản , nhân tố chủ quan cơ bản để thực hiện thắng lợi sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân 

Giai cấp công nhân coi Đảng cộng sản là hạt nhân chính trị của mình và sự ra đời
của Đảng là mốc đánh dấu sự trưởng thành của giai cấp. Chủ nghĩa Mac- Lenin
khẳng định việc giai cấp công nhân có tổ chức được chính đảng trưởng thành về
chính trị, tư tưởng và tổ chức là dấu hiệu đã trở thành giai cấp tự giác và đủ năng
lực để thực hiện sứ mệnh lịch sử. 

Đảng coi giai cấp công nhân là cơ sở xã hội hàng đầu của mình. Quan hệ giữa
Đảng cộng sản và giai cấp công nhân là quan hệ “máu thịt”. Tính chất tiền phong

3
thực tiến và lý luận, tính tổ chức khoa học và chặc chẽ xác định Đảng là người lãnh
đạo, là hạt nhân của giai cấp công nhân. 
Đảng cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân . không có lý luận thì
phong trào công nhân không đi được xa. 

Đảng cộng sản là bộ tham mưu của giai cấp công nhân. Bằng hiểu biết lý luận và
kinh nghiệm thực tiễn, Đảng cộng sản định ra cương lĩnh , đường lối, chiến lược,
chính sách đấu tranh. Đảng cũng là người tổ chức, động viên các sức mạnh, nguồn
lực chính trị xã hội trong phong ttraof công nhân.

Đảng cộng sản là đội tiên phong đấu tranh cho lợi ích của giai cấp công nhân và
của dân tộc. Đây là sự nghiệp cách mạng vĩ đại của những người lao động bị áp
bức, bóc lột đứng lên giải phóng bản thân và thoát khỏi áp bức giai cấp. Để làm
tròn nhiệm vụ trên Đảng của giai cấp công nhân cần phải: nắm vững và trung thành
với chủ nghĩa Mac lenin; giữ vững và không ngững tăng cường tính chất giai cấp
công nhân; giữ vững quyền lãnh đạo của Đảng , xây dựng Đảng mạnh về chính trị ,
tư tưởng và tổ chức 

Thứ ba: là phải có sự thống nhất của phong trào công nhân (phong trào công nhân
trong từng nước với phong trào công nhân quốc tế),  từng bước xây dựng ý thức
đoàn kết quốc tế. 

Liên hệ với thực tiễn đẩy mạnh CNH-HĐH ở nước ta hiện nay:
Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội  to lớn, đang phát triển, bao
gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại
hình sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công nghiệp hoặc sản xuất kinh doanh và
dịch vụ có tính công nghiệp.

Giai cấp công nhân ta có sứ mệnh lịch sử to lớn : là giai cấp lãnh đạo cách mạng
thông qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam, là giai cấp đại diện cho
phương thức sản xuất tiên tiến, là lực lượng tiên phong trong sự nghiệp xây dựng
CNXH, là lực lượng đí đầu trong sự nghiệp CNH-HĐH đất nước, là lực lượng
nòng cốt trong liên ming công – nông – trí.

Thực hiện thành công sứ mệnh đó là đảm bảo cho thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
Đẩy mạnh CNH-HĐH là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta hiện nay.

4
Thực trạng thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công  nhân Việt Nam hiện nay :

Cùng với sự nghiệp đổi mới và quá trình đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước giai cấp
công nhân nước ta đã có bước chuyển biến quan trọng tăng nhanh về số lượng , đa
dạng về cơ cấu , chất lượng được nâng lên đã hình thành ngày càng đông đảo công
nhân trí thức, đang tiếp tục phát huy vai trò là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông
qua đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam.

Tuy vậy, sự phát triển của giai cấp công nhân chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu
cầu về số lượng, cơ cấu, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật nghề nghiệp của sự
nghiệp CNH-HĐH và hội nhập kinh tế quốc tế. Địa vị chính trị của giai cấp công
nhân còn chưa thể hiện đầy đủ. 

Đối với vai trò lãnh đạo đất nước đi lên CNXH đang có mâu thuẫn trong yêu cầu
tiền phong đi đầu với những bất cấp về trình độ văn hóa , tay nghề và giác ngộ
chính trị của một bộ phận lớn của công nhân nước ta.

Đối với vai trò đi đầu trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH-HĐH găn với phát triển
kinh tế tri thức và hội nhập kinh tế quốc tế của giai cấp công nhân nước ta cũng
còn nhiều bất cập, hạn chế. Năng lực làm chủ khoa học công nghệ của công nhân ,
năng lục lãnh đạo tổ chức, quản lý  và kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN chưa hoàn thiện …

Đối vơi vai trò hạt nhân của khối kiên minh công- nông – trí thức và đại đoàn kết
toàn dân tộc, giai cấp công nhân nước ta cũng còn nhiều bất cập trước hai lực cản
lớn là mặt trái cơ chế thị trường và năng lực tố chức quản lý cúa bản thân.

Trước thực trạng nêu trên Đảng ta đã đưa ra quan điểm và giải pháp xây dựng giai
cấp công nhân Việt nam hiện nay 

Quan điểm : 
Kiên định quan điểm giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng cộng sản Việt Nam.
Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn kết hữu cơ với xây dựng và phát
huy sức mạnh của liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và ddoooij
ngũ tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn chặc chẽ với chiến
lược phát triển kinh tế xã hội, CNH-HĐH đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế.

5
Đào tạo bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức
hóa giai cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược.

Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị,
của toàn xã hội và nổ lực vương lên của bản thân công nhân, sự tham gia đống góp
tích cực của người sử dụng lao động, trong đó sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của
nhà nước có vai trò quyết định, công đoàn có vai trò quan trọng trực tiếp trong
chăm lo xây dựng giai cấp công nhân.

Phương hướng và giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt nam
Phương hướng :
- Hình thành và triển khai thực hiện chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn
mạnh gắn với chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, CNH-HĐH, hội nhập quốc tế.

- Giải quyết có hiệu quả những vấn đề bức xúc , cấp bách của giai cấp công nhân,
tạo được chuyển biến thật sự mạnh mẽ và rệt trong nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của công nhân.

- Có bước tiến về đào tạo, nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn kỹ năng nghề
nghiệp đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước, nhất là ngành công nghiệp mới. Tăng
nhanh tỷ lệ lao động qua đào tạo, chú trọng tạo nghề cho công nhân từ nông dân và
nữ công nhân.

- Nâng cao hơn về giác ngộ giai cấp, bản lĩnh chính trị, hiểu biết pháp luật, tác
phong công nghiệp và kỷ luật lao động, xây dựng loios sống lành mạnh trong công
nhân, nhất là công nhân trẻ.

- Tăng tỷ lệ đảng viên và cán bộ lãnh đạo, quản lý xuất thân từ công nhân. 
- Đẩy mạnh phát triển đoàn viên và tổ chức công đoàn , đoàn thanh niên cộng sản
Hồ chí minh

Giải pháp thực hiện :


- Tiếp tục nghiên cứu tổng kết thuecj tiến , phát triển lý luận về giai cấp công nhân
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, đẩy mạnh CNH-HĐH đất
nước và hội nhập kinh tế quốc tế.

- Đẩy mạnh nâng cao chất lượng đào tạo nghề , từng bước trí thức hóa giai cấp
công nhân

6
- Quan tâm bồi dưỡng nâng cao trình độ chính trị, ý thức giai cấp , tinh thân dân
tộc cho giai cấp công nhân

- Bổ sung, sửa đổi xây dựng và thực hiện nghiêm hệ thống chính sách, pháp luật đẻ
đảm bảo quyền, lợi ích hợp phá, chính đáng của công nhân, chăm lo đời sống vật
chất, tinh thần cho công nhân.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của tổ chức công đoàn và các
tỏ chức chính trị – xã hội khác trong xây dựng giai cấp công nhân.

2. Vì sao công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng?


Tất cả những người không có tư liệu sản xuất, phải bán sức lao động mà sống, là
công nhân. Bất kỳ họ lao động trong công nghệ hay là trong nông nghiệp, bất kỳ
họ làm nghề gì, cũng đều thuộc về giai cấp công nhân.
Chủ chốt của giai cấp ấy, là những công nhân ở các xí nghiệp như: nhà máy, hầm
mỏ, xe lửa, vân vân… Những công nhân thủ công nghệ, những người làm thuê ở
các cửa hàng, những cố nông, vân vân…, cũng thuộc về giai cấp công nhân.
Nhưng chỉ công nhân công nghệ là hoàn toàn đại biểu cho cái đặc tính của giai cấp
công nhân.
Đặc tính cách mạng của giai cấp công nhân là: kiên quyết, triệt để, tập thể, có tổ
chức, có kỷ luật. Lại vì là giai cấp tiền tiến nhất trong sức sản xuất, gánh trách
nhiệm đánh đổ chế độ tư bản và đế quốc, để xây dựng một xã hội mới, giai cấp
công nhân có thể thấm nhuần một tư tưởng cách mạng nhất, tức là chủ nghĩa Mác
– Lênin. Đồng thời, tinh thần đấu tranh của họ ảnh hưởng và giáo dục các tầng lớp
khác. Vì vậy, về mặt chính trị, tư tưởng, tổ chức và hành động, giai cấp công nhân
đều giữ vai trò lãnh đạo.
Có người nói: Giai cấp công nhân Việt Nam số người còn ít, không lãnh đạo được
cách mạng.
Nói vậy không đúng. Lãnh đạo được hay là không, là do đặc tính cách mạng, chứ
không phải do số người nhiều ít của giai cấp. Giai cấp công nhân có chủ nghĩa Mác
– Lênin. Trên nền tảng đấu tranh, họ xây dựng nên Đảng theo chủ nghĩa Mác –
Lênin là Đảng Lao động Việt Nam. Đảng đề ra chủ trương, đường lối, khẩu hiệu
cách mạng, lôi cuốn giai cấp nông dân và tiểu tư sản vào đấu tranh, bồi dưỡng họ
thành những phần tử tiên tiến. Lại có những phần tử trí thức tham gia cách mạng
và vô sản hoá. Thành thử đội ngũ chính trị của giai cấp công nhân ngày càng phát
triển. Mai sau, công nghệ của ta ngày càng phát triển, thì số công nhân ngày càng
tǎng thêm.

7
Tuy hiện nay ở nước ta giai cấp công nhân còn nhỏ, song ở thế giới thì giai cấp
công nhân rất to lớn. Cho nên quyền lãnh đạo cách mạng chỉ do giai cấp công nhân
nắm.

Câu 3: Phân tích nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân? Liên hệ
với sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân ở Việt Nam?

Nội dung sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân:

Trong mỗi một thời đại lịch sử nhất địng sẽ có một giai cấp đứng ở vị trí trung tâm
thực hiện sứ mệnh lịch sử mà thời đại đó giao phó

Giai cấp công nhân là lực lượng sản xuất cơ bản tiên tiến đại diện cho phương thức
sản xuất hiện đại, cho xu hướng phát triển của lịch sử loài người, vì vậy về mặt
khách quan giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo công nhân lao động
tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng để xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ chế độ
người bóc lột người, giải phóng giai cấp công nhân, giải phóng nhân dân lao động,
giải phóng toàn xã hội khỏi mọi áp bức, bóc lột, bất công, nghèo nàn, lạc hậu, xây
dựng thành công xã hội mới: xã hội chủ nghĩa và Cộng sản chủ nghĩa.

Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác-Lênin, sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân
được thực hiện qua 2 bước:

Bước 1: Giai cấp công nhân lãnh đạo nhân dân lao động lật đổ chính quyền của
giai cấp thống trị, thiết lập chính quyền của giai cấp công nhân, nhân dân lao động.
Giai cấp công nhân trở thành “ giai cấp thống trị”.

Bước 2: Giai cấp công nhân sử dụng chính quyền cách mạng từng bước biến tư
bản của các nhà tư bản thành sở hữu của nhà nước. Giai cấp công nhân lãnh đạo
nhân dân lao động tiến hành cải tạo xã hội cũ trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa, tư tưởng và xây dựng thành công xã hội mới trên tất cả các mặt.

Muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân nhất thiết phải
tập hợp đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân lao động trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa tư bản và phải tổ chức ra được chính đạo của mình( Đảng cộng
sản).

8
Liên hệ với sứ mệnh lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam

Hiện nay giai cấp công nhân vẫn còn thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp mình
bởi vì:

Mặc dù hiện nay GCCN đang đứng trước những thử tháhc hết sức nặng nề nhưng
xét toàn cảnh sự phát triển XH thì GCCN vẫn đang chuẩn bị những tiền đề khách
quan cho việc thực hiện sứ mệnh của mình.

Hiện nay, đời sống của một bộ phận không nhỏ CN đã được cải thiện, thậm chí có
mức sống “ trung lưu hóa”, song, điều đó không có nghĩa là GCCN ở những nước
đó không bị bóc lột hoặc không đáng kể.

Dù cố tìm mọi cách thích nghi và mọi biện pháp xoa dịu nhưng giai cấp tư sản
không thể nào khắc phục được mâu thuẫn cơ bản của CNTB-> Thực tế cuộc đấu
tranh của GCCN ở các nước TBCN vẫn đang diễn ra với những nội dung đa dạng
và hình thức phong phú.

Câu hỏi 4. Quy luật hình thành, phát triển của Đảng Cộng sản và vai trò của
nó trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân?
1) Quy luật hình thành, phát triển Đảng Cộng sản. Đảng Cộng sản là đội tiên
phong, là tổ chức chính trị cao nhất của giai cấp công nhân. Đảng Cộng sản bao
gồm những người tiên tiến nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; đấu
tranh triệt để và trung thành vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc. Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim
chỉ nam cho hành động.
1. a) Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác với phong trào
công nhân.
+) có áp bức giai cấp thì có đấu tranh giai cấp. Ngay từ khi mới ra đời giai cấp
công nhân đã tiến hành những cuộc đấu tranh chống áp bức, bóc lột của giai cấp tư
sản. Những cuộc đấu tranh ban đầu diễn ra lẻ tẻ và mang tính tự phát vì mục đích
kinh tế, do thiếu một lý luận cách mạng và một tổ chức tiên phong lãnh đạo nên
đều thất bại. Chính sự phát triển của phong trào công nhân đặt ra đòi hỏi phải có lý
luận tiên tiến dẫn đường để tổ chức, giáo dục, giác ngộ giai cấp công nhân về sứ
mệnh lịch sử của mình, để vạch cho giai cấp công nhân đường lối và phương pháp
cách mạng khoa học. Chủ nghĩa Mác ra đời đã đáp ứng được đòi hỏi của phong
trào công nhân.

9
+) Chủ nghĩa Mác ra đời đã nhanh chóng thâm nhập vào phong trào công nhân, trở
thành hệ tư tưởng, vũ khí lý luận của giai cấp công nhân. Mặt khác, thông qua
phong trào công nhân chủ nghĩa Mác được kiểm nghiệm, bổ sung, phát triển và
ngày càng hoàn thiện. c) khi chủ nghĩa Mác ra đời chỉ có một bộ phận ưu tú nhất
của giai cấp công nhân tiếp thu được nó. Bộ phận này đã tích cực truyền bá chủ
nghĩa Mác vào phong trào công nhân, giáo dục, giác ngộ và tổ chức công nhân đấu
tranh, Đảng Cộng sản ra đời từ quá trình hoạt động cụ thể ấy.
1. b) Đảng Cộng sản là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân; nhưng trong mỗi nước, sự kết hợp ấy là sản phẩm của lịch sử, được
thực hiện bằng những con đường đặc biệt, tuỳ theo điều kiện cụ thể. Ở nhiều nước
thuộc địa, nửa thuộc địa, Đảng Cộng sản ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác với phong trào công nhân và phong trào yêu nước.
2) Vai trò của Đảng Cộng sản trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân.
1. a) Đảng Cộng sản là nhân tố bảo đảm cho giai cấp công nhân hoàn thành thắng lợi
sứ mệnh lịch sử của mình.
2. b) Đảng Cộng sản là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Nhờ có lý luận tiên phong của chủ nghĩa Mác-Lênin, Đảng đã vận dụng vào điều
kiện cụ thể để đề ra đường lối chiến lược, sách lược, một cương lĩnh cách mạng
đúng đắn cho cả quá trình cách mạng cũng như cho từng giai đoạn cách mạng.
3. c) Đảng Cộng sản đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp công nhân, nhân
dân lao động và của cả dân tộc, vì vậy, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai
cấp công nhân mới tập trung được sức mạnh trong nước và quốc tế trong cuộc đấu
tranh thực hiện sứ mệnh lịch sử.
4. d) Đảng Cộng sản là bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. Đây là nơi tổ
chức, lôi cuốn, giáo dục, động viên giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân
lao động thực hiện cương lĩnh cách mạng đã đề ra.
Như vậy, chỉ có dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động mới có được sự thống nhất về tư tưởng, tổ chức và hành động; mới
chuyển từ đấu tranh tự phát sang đấu tranh tự giác, đảm bảo cho cách mạng xã hội
chủ nghĩa thắng lợi.
 Câu hỏi 5. Nội dung của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa?

Cách mạng xã hội chủ nghĩa là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội

10
1) Nội dung chính trị của cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm đưa giai cấp công
nhân và nhân dân lao động từ địa vị nô lệ, bị áp bức, bóc lột lên địa vị làm chủ xã
hội. Muốn vậy:
1. a) Giai cấp công nhân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản tiến hành cuộc cách
mạng lật đổ sự thống trị của giai cấp bóc lột, giành chính quyền, thiết lập nhà nước
của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
2. b) Nâng cao trình độ dân trí, tạo điều kiện để nhân dân lao động tham gia vào việc
quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
3. c) Từng bước xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
2) Nội dung kinh tế của cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa
về thực chất có tính kinh tế. Giành chính quyền về tay giai cấp công nhân và nhân
dân lao động mới chỉ là bước đầu. Nhiệm vụ trọng tâm có ý nghĩa quyết định cho
sự thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa là phát triển kinh tế.
1. a) Trước hết, làm thay đổi vị trí, vai trò của người lao động đối với tư liệu sản xuất
bằng cách xoá bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thiết lập chế độ
công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu.
2. b) Phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động, cải thiện đời sống
nhân dân, khuyến khích khả năng sáng tạo của người lao động.
3. c) Thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, đảm bảo công bằng xã hội theo
tiêu chí năng suất lao động, hiệu quả lao động là thước đo đánh giá sự đóng góp
của mỗi người cho xã hội.
3) Nội dung văn hoá-tư tưởng của cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm xây dựng
nền văn hoá mới, hệ tư tưởng mới và con người mới xã hội chủ nghĩa
1. a) Giáo dục, truyền bá hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trong các tầng lớp nhân
dân, đối với toàn xã hội, từng bước xây dựng thế giới quan và nhân sinh quan mới
cho người lao động.
2. b) Xây dựng nền văn hóa mới trên cơ sở kế thừa một cách có chọn lọc và nâng cao
các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu các giá trị văn hoá tiên tiến
của thời đại, giải phóng người lao động về mặt tinh thần.
3. c) Xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa giàu lòng yêu nước, có bản lĩnh chính
trị, nhân văn, nhân đạo, có hiểu biết, có khả năng giải quyết một cách đúng đắn
mối quan hệ cá nhân, gia đình và xã hội.
Như vậy, cách mạng xã hội chủ nghĩa diễn ra toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội. Các nội dung của cách mạng có quan hệ gắn kết với nhau, tác
động qua lại lẫn nhau, tạo tiền đề cho nhau, thúc đẩy nhau cùng phát triển.

11
Câu hỏi 6. Tính tất yếu và cơ sở khách quan của liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân?
1) Tính tất yếu của liên minh công nông
Qua thực tiễn cách mạng châu Âu, đặc biệt cách mạng Pháp, C.Mác rút ra kết luận,
cuộc đấu tranh giành chính quyền của giai cấp công nhân sẽ không giành được
thắng lợi nếu nó không được sự ủng hộ của giai cấp nông dân. Công xã Pari (1871)
là cuộc cách mạng vô sản, thiết lập nên nhà nước chuyên chính vô sản đầu tiên,
nhưng nhà nước đó chỉ tồn tại trong 72 ngày. Khi phân tích nguyên nhân thất bại
của công xã, C. Mác và Ph.Ăngghen chỉ rõ, do giai cấp công nhân không liên minh
được với giai cấp nông dân nên không tạo ra được cơ sở chính trị-xã hội rộng lớn
và vững chắc để bảo vệ chính quyền của giai cấp công nhân. V.I.Lênin làm rõ hơn
ý nghĩa chiến lược của vấn đề khi cho rằng, nhân tố cho sự thắng lợi không chỉ ở
chỗ giai cấp công nhân đã có tổ chức và chiếm đa số trong dân cư, mà còn ở chỗ
giai cấp công nhân có được sự ủng hộ của nông dân hay không. Ông đặc biệt nhấn
mạnh tính tất yếu của liên minh công nông trong giai đoạn cải tạo và xây dựng chủ
nghĩa xã hội.
Như vậy, xây dựng khối liên minh công nông là tất yếu trong quá trình cách mạng
xã hội chủ nghĩa, cả trong giai đoạn giành, giữ và sử dụng chính quyền để xây
dựng xã hội mới xã hội chủ nghĩa.
2) Cơ sở khách quan của liên minh công nông
1. a) Liên minh công nông là nhu cầu nội tại của cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo nên
động lực cách mạng, đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, là điều kiện
quyết định thắng lợi trong cuộc đấu tranh giành chính quyền và công cuộc cải tạo
và xây dựng xã hội mới;
2. b) Liên minh công nông xuất phát từ mối liên hệ tự nhiên gắn bó và sự thống nhất
lợi ích cơ bản của giai cấp công nhân và giai cấp nông dân. Cả hai giai cấp đều là
những người lao động bị áp bức vì vậy có cùng mục tiêu, nguyện vọng muốn giải
phóng khỏi áp bức, bóc lột, bất cộng;
3. c) Liên minh công nông là do sự gắn bó thống nhất giữa sản xuất công nghiệp với
sản xuất nông nghiệp- hai ngành sản xuất chính trong xã hội. Nếu không có sự liên
minh chặt chẽ giữa công nhân và nông dân thì hai ngành kinh tế này không thể
phát triển được.

Câu hỏi 7. Nội dung và nguyên tắc cơ bản của liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân?

12
1) Nội dung của liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân:
1. a) Nội dung chính trị của liên minh:
+) Trong giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, liên minh công nông nhằm lật đổ
chính quyền của giai cấp thống trị cũ, giành lấy chính quyền về tay giai cấp công
nhân và nhân dân lao động.
+) Trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội, liên minh công nông là cơ sở chính
trị-xã hội vững chắc của chính quyền nhà nước, giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ những thành quả
của cách mạng, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa.
+) Để thực hiện liên minh chính trị cần xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân
chủ xã hội chủ nghĩa.
1. b) Nội dung kinh tế của liên minh là nội dung cơ bản nhất, quyết định nhất, là cơ
sở cho liên minh trên các lĩnh vực khác
+) Liên minh công nông trên lĩnh vực kinh tế là kết hợp và giải quyết đúng đắn nhu
cầu, lợi ích kinh tế của hai giai cấp và lợi ích của xã hội.
+) Liên minh kinh tế thể hiện thông qua sự hợp tác, trao đổi về mặt kinh tế giữa
kinh tế công nghiệp và kinh tế nông nghiệp; qua vai trò của nhà nước với hệ thống
chính sách đối với nông nghiệp, công nghiệp, đối với công nhân, nông dân.
+) Thông qua liên minh công nông về mặt kinh tế để từng bước đưa nông dân đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa bằng cách đưa họ vào con đường hợp tác xã với
những bước đi phù hợp.
1. c) Nội dung văn hoá-xã hội của liên minh
+) Liên minh công nông nhằm xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc
dân tộc trên lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đáp ứng
nhu cầu tinh thần ngày càng cao của công nông.
+) Liên minh công nông còn nhằm xoá bỏ bất công, bất bình đẳng xã hội, xây dựng
các chuẩn mực xã hội trên lập trường của giai cấp công nhân, tạo môi trường thuận
lợi cho công, nông và các tầng lớp nhân dân lao động hoạt động đạt hiệu quả cao.
2) Những nguyên tắc cơ bản của liên minh công nông
+) Đảm bảo vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân trong khối liên minh. Đây là
vấn đề có tính nguyên tắc để có thể từng bước thực hiện mục tiêu, lợi ích của liên
minh trên lập trường của giai cấp công nhân.

13
+) Đảm bảo nguyên tắc tự nguyện để khối liên minh bền vững, lâu dài.
+) Kết hợp và giải quyết đúng đắn lợi ích của cả hai giai cấp, vì xét cho cùng quan
hệ giữa công nhân và nông dân là quan hệ giữa hai chủ thể lợi ích, mà trong đó hệ
thống lợi ích kinh tế là cơ sở quyết định nhất và nhạy cảm nhất. Họ liên kết với
nhau trước hết là nhằm thoả mãn các nhu cầu kinh tế, mưu cầu sự sống, thoát khỏi
nghèo nàn.
Câu hỏi 8. Các giai đoạn phát triển của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa?
1) Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen. Hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa ra đời sau thắng lợi của cách mạng xã hội chủ nghĩa, trải qua hai giai đoạn
cơ bản phát triển từ thấp đến cao
+) Giai đoạn thấp của xã hội cộng sản là giai đoạn mới được “thoát thai”, “lọt
lòng” từ chủ nghĩa tư bản, còn mang “dấu vết” của xã hội tư bản. Đây là thời kỳ
quá độ về chính trị, là thời kỳ cải biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong giai đoạn này, chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa
mới đạt tới giới hạn đảm bảo cho xã hội thực hiện nguyên tắc phân phối làm theo
năng lực, hưởng theo lao động.
+) Giai đoạn cao của xã hội cộng sản là giai đoạn chủ nghĩa cộng sản đã được xây
dựng hoàn toàn. Ở giai đoạn này con người không còn lệ thuộc phiến diện và cứng
nhắc vào phân công lao động xã hội; lao động trong giai đoạn này không chỉ là
phương tiện kiếm sống mà nó trở thành nhu cầu của con người. Trình độ phát triển
của xã hội cho phép thực hiện nguyên tắc phân phối theo nhu cầu.
2) Quan điểm của V.I.Lênin. V.I.Lênin đã phát triển và cụ thể hoá quan điểm phân
kỳ hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa của C.Mác và Ph.Ăngghen. Ông gọi
giai đoạn thấp là xã hội xã hội chủ nghĩa (hay chủ nghĩa xã hội), giai đoạn cao là
xã hội cộng sản chủ nghĩa (hay chủ nghĩa cộng sản). Đặc biệt, ông phát triển lý
luận về thời kỳ quá độ lâu dài từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Theo đó,
hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chia làm ba giai đoạn cơ bản
+) Những cơn đau đẻ kéo dài (thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội). V.I.Lênin một
mặt thừa nhận quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về thời kỳ quá độ theo nghĩa
rộng- từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản- quá độ trực tiếp từ những
nước tư bản chủ nghĩa phát triển cao lên xã hội cộng sản. Mặt khác từ thực tiễn
lịch sử, V.I.Lênin còn nói đến hình thức quá độ đặc biệt, gián tiếp của các nước tư
bản phát triển ở mức trung bình và quá độ bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ

14
nghĩa của nhiều nước vốn là nước nông nghiệp lạc hậu, các nước tiền tư bản lên
chủ nghĩa xã hội (quá độ đặc biệt của đặc biệt);
+) Xã hội xã hội chủ nghĩa- giai đoạn đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản;
+ Xã hội cộng sản chủ nghĩa- giai đoạn cao của hình thái kinh tế-xã hôi cộng sản.
 Câu hỏi 9. Tính tất yếu, đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội?

1) Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
1. a) Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản là hai chế độ xã hội khác nhau về bản
chất. Chủ nghĩa tư bản được xây dựng trên cơ sở chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa về
tư liệu sản xuất, đây là cơ sở của chế độ áp bức, bóc lột, bất công. Chủ nghĩa xã hội
được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, tạo ra cơ sở
vật chất cho việc xoá bỏ chế độ người bóc lột người, xây dựng xã hội công bằng,
bình đẳng. Muốn có một xã hội như vậy cần phải có một thời gian nhất định.
2. b) Chủ nghĩa xã hội có cơ sở vật chất kỹ thuật là nền sản xuất công nghiệp hiện
đại. Với những nước đã qua chế độ tư bản chủ nghĩa, sự phát triển của chủ nghĩa tư
bản đã tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật nhất định cho chủ nghĩa xã hội nhưng muốn
cơ sở ấy phục vụ cho chủ nghĩa xã hội cần có thời gian tổ chức, săp xếp lại. Với
những nước bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội càng
cần có một thời gian lâu dài để thực hiện nhiệm vụ tiến hành công nghiệp hoá xã
hội chủ nghĩa.
3. c) Các quan hệ xã hội chủ nghĩa cũng không tự nảy sinh trong lòng chủ nghĩa tư
bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ nghĩa. Vì vậy,
cũng cần có thời gian để xây dựng và phát triển những quan hệ đó.
4. d) Xây dựng chủ nghĩa xã hội là công việc mới mẻ, khó khãn và phức tạp, phải cần
có thời gian để giai cấp công nhân từng býớc làm quen với những công việc đó.
2) Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ mà trong đó
còn tồn tại đan xen giữa những yếu tố của xã hội mới với những tàn dư của xã hội
cũ. Chúng đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
1. a) Trên lĩnh vực kinh tế, tất yếu tồn tại nền kinh tế nhiều thành phần vận động theo
định hướng xã hội chủ nghĩa;
2. b) Trên lĩnh vực chính trị, tương ứng với nền kinh tế nhiều thành phần là một cơ
cấu xã hội-giai cấp đa dạng, phức tạp. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa
đấu tranh với nhau;

15
3. c) Trên lĩnh vực xã hội còn có sự khác biệt khá cơ bản giữa thành thị và nông thôn,
giữa đồng bằng và miền núi, giữa lao động trí óc và lao động chân tay;
4. d) Trên lĩnh vực văn hoá-tư tưởng, bên cạnh nền văn hóa mới, hệ tư tưởng mới,
còn tồn tại những tàn dư của nền văn hóa cũ lạc hậu, thậm chí phản động.
3) Thực chất của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ đấu tranh giữa giai
cấp công nhân liên minh với các tầng lớp lao động khác đã giành được chính
quyền nhà nước đang thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước lên chủ nghĩa xã hội, với
một bên là các giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ, nhưng chưa bị tiêu diệt hoàn toàn.
Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện mới, với những hình thức và nội
dung mới.
 
Câu hỏi 10. Đặc trưng, chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước xã hội chủ nghĩa?
Nhà nước xã hội chủ nghĩa là tổ chức mà thông qua đó, Đảng Cộng sản thực hiện
vai trò lãnh đạo của mình đối với xã hội; là tổ chức chính trị thuộc kiến trúc thượng
tầng được xây dựng lên từ cơ sở vật chất, kinh tế xã hội chủ nghĩa; là nhà nước
kiểu mới thay thế nhà nước tư sản; là hình thức chuyên chính vô sản trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1) Đặc trưng của nhà nước xã hội chủ nghĩa. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-
Lênin, bất kỳ nhà nước nào cũng có các đặc trưng cơ bản là quản lý dân cư trên
một vùng lãnh thổ nhất định; có hệ thống các cơ quan quyền lực chuyên nghiệp
mang tính cưỡng chế đối với mọi thành viên trong xã hội; có hệ thống thuế để nuôi
bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, do bản chất của Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa
mang bản chất của giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc, nên Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn có những đặc trưng riêng của nó
1. a) Nhà nước xã hội chủ nghĩa không phải là công cụ để đàn áp một giai cấp nào đó,
mà là công cụ thực hiện lợi ích cho những người lao động; nhưng vai trò lãnh đạo
của giai cấp công nhân thông qua chính đảng của nó đối với nhà nước vẫn được
duy trì.
2. b) Nhà nước xã hội chủ nghĩa có đặc trưng về nguyên tắc khác hẳn với Nhà nước
tư sản. Cũng là công cụ của chuyên chính giai cấp, nhưng vì lợi ích của những
người lao động, tức tuyệt đại đa số nhân dân; và chuyên chính, trấn áp đối với
thiểu số những kẻ bóc lột, đi ngược lại với lợi ích của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
3. c) Trong khi nhấn mạnh sự cần thiết của bạo lực trấn áp, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác-Lênin vẫn coi mặt tổ chức xây dựng là đặc trưng cơ bản của Nhà nước
xã hội chủ nghĩa.

16
4. d) Nhà nước xã hội chủ nghĩa nằm trong nền dân chủ xã hội chủ nghĩa; là phương
thức thể hiện và thực hiện dân chủ. Theo V.I.Lênin, con đường vận động và phát
triển của nó là ngày càng hoàn thiện các hình thức đại diện nhân dân, mở rộng dân
chủ, nhằm lôi cuốn ngày càng đông đảo nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản
lý xã hội.
đ) Nhà nước xã hội chủ nghĩa là một kiểu nhà nước đặc biệt, “nhà nước không còn
nguyên nghĩa”, nhà nước “nửa nhà nước”. Sau khi cơ sở kinh tế-xã hội cho sự tồn
tại của nhà nước mất đi, thì nhà nước cũng không còn, nhà nước “tự tiêu vong”.
Đây cũng là đặc trưng nổi bật của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2) Chức năng, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ nghĩa
1. a) Chức năng tổ chức, xây dựng được C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lênin coi là có
tính sáng tạo của Nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm cải biến trật tự chủ nghĩa tư bản
và hình thành trật tự chủ nghĩa xã hội và đây là chức năng căn bản nhất trong hai
chức năng của Nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. b) Chức năng trấn áp nhằm chống lại sự phản kháng của kẻ thù giai cấp đang
chống phá công cuộc tổ chức, xây dựng xã hội mới của giai cấp công nhân và nhân
dân lao động.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có những nhiệm vụ chính là quản lý đất nước trên tất cả
các lĩnh vực. V.I.Lênin đặc biệt chú ý đến nhiệm vụ quản lý, mà cơ bản nhất là
quản lý kinh tế, coi đó là vũ khí duy nhất để giai cấp vô sản có thể chiến thắng giai
cấp tư sản.
 
Câu hỏi 11. Tính tất yếu của việc xây dựng Nhà nước xã hội chủ nghĩa?
Tổng kết kinh nghiệm lịch sử của các cuộc cách mạng xã hội, chủ nghĩa Mác-
Lênin chỉ rõ vấn đề nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng xã hội.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa cũng là vấn đề cơ bản của cách mạng xã hội chủ nghĩa,
là một trong những thiết chế quan trọng bậc nhất của quá trình thực hiện sứ mệnh
lịch sử của giai cấp công nhân.
1) Tính tất yếu của nhà nước xã hội chủ nghĩa còn bắt nguồn từ mối quan hệ biện
chứng giữa thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội và chuyên
chính vô sản (tức nhà nước xã hội chủ nghĩa). Bản chất của thời kỳ quá độ ấy là
quá độ về chính trị, vì vậy, chuyên chính vô sản là bản chất của thời kỳ quá độ. Do
đó, thời kỳ quá độ tất yếu như thế nào thì chuyên chính vô sản tất yếu như thế.

17
2) Tính tất yếu phải có Nhà nước xã hội chủ nghĩa còn được luận giải bằng thực
tiễn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
1. a) Trong thời kỳ này, các giai cấp bóc lột tuy đã bị xóa bỏ về phương diện chính
trị, nhưng chưa bị xoá bỏ hoàn toàn về mặt giai cấp. Chúng vẫn còn có những âm
mưu hoạt động chống sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều này đòi hỏi giai
cấp công nhân và nhân dân lao động cần phải nắm vững công cụ chuyên chính là
Nhà nước xã hội chủ nghĩa để trấn áp mọi sự phản kháng của các thế lực đi ngược
lại lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
2. b) Trong thời kỳ quá độ cũng còn các giai cấp, tầng lớp trung gian khác. Do địa vị
kinh tế-xã hội của mình, các giai cấp, tầng lớp này không thể tự mình đi lên chủ
nghĩa xã hội. Nhà nước xã hội chủ nghĩa đóng vai trò là thiết chế cần thiết đảm bảo
sự lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với toàn xã hội, đảm bảo cho lực lượng xã
hội to lớn này thành lực lượng có tổ chức.
3. c) Để mở rộng dân chủ, chống lại mọi hành vi ngược lại những chuẩn mực dân
chủ, vi phạm những giá trị dân chủ của nhân dân, cũng đòi hỏi phải có một thiết
chế nhà nước phù hợp.
 
Câu hỏi 12. Dân chủ là gì? Những đặc trưng cơ bản của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa?
1) Dân chủ là gì?
1. a) Dân chủ là sản phẩm tiến hóa của lịch sử xã hội loài người; là nhu cầu khách
quan của con người. Với tư cách là quyền lực của nhân dân, dân chủ là sự phản
ánh những giá trị nhân văn; là kết quả của cuộc đấu tranh lâu dài của nhân dân lao
động chống lại áp bức, bất công và bóc lột.
2. b) Dân chủ với tư cách là một phạm trù chính trị, gắn với một kiểu nhà nước và
một giai cấp cầm quyền thì sẽ không có dân chủ phi giai cấp, dân chủ chung
chung. Trái lại, mỗi chế độ dân chủ gắn với nhà nước đều mang bản chất giai cấp
thống trị xã hội.
3. c) Dân chủ còn là sản phẩm của quá trình vươn lên của con người trong quá trình
làm chủ tự nhiên, xã hội và bản thân. Dân chủ phản ánh trạng thái, mức độ giải
phóng con người trong tiến trình phát triển của xã hội, thể hiện thực chất mối quan
hệ giữa người với người được duy trì theo quan niệm về nguyên tắc bình đẳng. Xét
ở góc độ này, dân chủ phản ánh những giá trị nhân văn, nhân đạo trong quá trình
giải phóng con người và tiến bộ xã hội.
2) Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa

18
1. a) Với tư cách là một chế độ được sáng tạo bởi quần chúng nhân dân lao động dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo mọi quyền lực
thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Vì vậy, dân chủ xã hội chủ
nghĩa vừa mang bản chất giai cấp công nhân, vừa có tính nhân dân rộng rãi và tính
dân tộc sâu sắc.
2. b) Nền dân chủ xã hội chủ nghĩa có cơ sở kinh tế là chế độ công hữu về những tư
liệu sản xuất chủ yếu của toàn xã hội. Đây là đặc trưng kinh tế của nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa. Đặc trưng này được hình thành và bộc lộ ngày càng đầy đủ cùng với
quá trình hình thành và hoàn thiện nền kinh tế xã hội chủ nghĩa.
3. c) Trên cơ sở sự kết hợp hài hoà lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích của toàn
xã hội (do nhà nước của giai cấp công nhân đại diện), nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
có sức động viên, thu hút mọi tiềm năng sáng tạo, tính tích cực xã hội của nhân dân
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới
4. d) Dân chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ rộng rãi nhất trong lịch sử nhưng vẫn
là nền dân chủ mang tính giai cấp của giai cấp công nhân- dân chủ đi đôi với kỷ
cương, kỷ luật, với trách nhiệm của công dân trước pháp luật.
 
Câu hỏi 13. Tính tất yếu của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa?
1) Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, mục tiêu và động lực của quá
trình phát triển xã hội, của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là dân chủ.
2) Việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa nhằm mở rộng dân chủ, tạo điều
kiện để liên tục phát triển nhân cách, phát triển ý thức xã hội, nâng cao tính tích
cực chính trị-xã hội của quần chúng, làm bộc lộ và huy động các năng lực tổ chức,
trí tuệ của nhân dân.
3) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quy luật của sự hình thành và tự hoàn
thiện của hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
4) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa là quá trình tất yếu diễn ra nhằm xây
dựng, phát triển, hoàn thiện dân chủ, đáp ứng nhu cầu của nhân dân. Trước hết nó
trở thành điều kiện, tiền đề thực hiện quyền lực, quyền làm chủ của nhân dân, là
điều kiện cần thiết và tất yếu để mỗi công dân được sống trong bầu không khí thực
sự dân chủ.
5) Xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cũng chính là quá trình vận động và
thực hành dân chủ, biến dân chủ từ khả năng thành hiện thực trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, là quá trình đưa các giá trị, chuẩn mực, nguyên tắc của dân

19
chủ vào thực tiễn xây dựng cuộc sống mới, chống các biểu hiện của dân chủ cực
đoan, vô chính phủ, ngăn ngừa mọi hành vi coi thường kỷ cương, pháp luật.
 
Câu hỏi 14. Những đặc trưng của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa?
1) Chủ nghĩa Mác-Lênin với tư cách là hệ tư tưởng của giai cấp công nhân, là nền
tảng tư tưởng và giữ vai trò chủ đạo quyết định phương hướng phát triển nội dung
của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Vai trò chủ đạo của chủ nghĩa Mác-Lênin đối
với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là điều kiện quyết định đưa nhân dân lao động
thực sự trở thành chủ thể tự giác và hưởng thụ văn hoá của xã hội mới. Đặc trưng
này phản ánh bản chất giai cấp công nhân và tính đảng của nền văn hoá xã hội chủ
nghĩa.
2) Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, hoạt động sáng tạo và hưởng thụ văn
hoá không còn là đặc quyền, đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Công cuộc cải
biến cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội
từng bước tạo ra tiền đề vật chất và tinh thần để đông đảo nhân dân tham gia xây
dựng nền văn hoá mới và hưởng thụ những giá trị của nền văn hoá đó.
3) Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông
qua tổ chức Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn
đề có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định trước tiên đối với việc xây dựng nền
văn hoá xã hội chủ nghĩa. Nền văn hoá xã hội chủ nghĩa không hình thành và phát
triển một cách tự phát, trái lại, nó phải được hình thành và xây dựng một cách tự
giác, có sự quản lý của Nhà nước và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Mọi sự coi
nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và vai trò quản lý của Nhà
nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền văn hoá xã hội chủ nghĩa sẽ
dẫn đến làm mất phương hướng chính trị của nền văn hoá- nền tảng tinh thần của
xã hội.
Câu hỏi 15. Trình bày tính tất yếu và những nội dung cơ bản trong xây dựng
nền văn hóa xã hội chủ nghĩa?
1) Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
1. a) Xuất phát từ tính triệt để, toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải
thay đổi phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất tinh thần
phù hợp với phương thức sản xuất mới của xã hội xã hội chủ nghĩa.

20
2. b) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý,
ý thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân lao
động thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng, ý thức của xã hội cũ lạc hậu. Mặt khác, xây
dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa còn là một yêu cầu cần thiết trong việc đưa
quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng, sáng tạo và
hưởng thụ văn hoá tinh thần.
3. c) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình nâng cao trình
độ văn hoá cho quần chúng nhân dân lao động, khắc phục tình trạng thiếu hụt văn
hóa. Đây là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến thắng nghèo
nàn, lạc hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hoá của quần chúng.
4. d) Xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa là tất yếu xuất phát từ yêu cầu khách
quan: văn hoá vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa
xã hội.
2) Những nội dung cơ bản của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa
1. a) Nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới. Đây là
điều kiện không thể thiếu để xây dựng nền dân chủ xã hôi chủ nghĩa, để quần
chúng có nhận thức đúng và tham gia trực tiếp vào quản lý nhà nước.
2. b) Xây dựng con người mới phát triển toàn diện. Con người là sản phẩm của lịch
sử nhưng đồng thời con người cũng chính là chủ thể quá trình phát triển của lịch
sử. Vì vậy, việc đào tạo con người mới với tư cách là chủ thể sáng tạo có ý thức
của xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa, là một yêu cầu tất yếu.
3. c) Xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa. Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được
xây dựng, hình thành trên những điều kiện cơ bản của nó, đó là: chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất, trong đó sở hữu toàn dân giữ vai trò chủ đạo; nguyên tắc phân
phối theo lao động; quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; chủ nghĩa Mác-Lênin
giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội v.v
4. d) Xây dựng gia đình văn hóa xã hội chủ nghĩa. Gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa
được từng bước xây dựng cùng với tiến trình phát triển của cuộc cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Xuất phát từ mối quan hệ biện chứng giữa gia đình và xã hội (gia đình
được xem là tế bào của xã hội), có thể nói, thực chất của việc xây dựng gia đình
văn hoá là nhằm góp phần xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
 
Câu hỏi 16. Dân tộc là gì? Nội dung Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-
Lênin?
1) Dân tộc là gì? Dân tộc là một khái niệm đa nghĩa, đa cấp độ, được xác định tuỳ
từng tình huống cụ thể. Hiện nay có thể hiểu khái niệm dân tộc theo hai nghĩa, dân

21
tộc là dân tộc-quốc gia với tư cách là một cộng đồng chính trị-xã hội rộng lớn và
dân tộc được hiểu là cộng đồng dân tộc-tộc người.
1. a) Dân tộc-quốc gia là một cộng đồng người ổn định, hình thành trong lịch sử, có
chung một ngôn ngữ, một lãnh thổ, cùng chung một vận mệnh lịch sử, có những
lợi ích chung (về kinh tế, chính trị), có chung nền văn hoá (thể hiện trong phong
tục tập quán, tín ngưỡng, tâm lý, lối sống v.v)
2. b) Dân tộc-tộc người là một cộng đồng người ổn định hoặc tương đối ổn định, có
chung một ngôn ngữ, một nền văn hoá, có ý thức tự giác tộc người. Với ba tiêu chí
này đã tạo ra sự ổn định trong mỗi dân tộc trong quá trình phát triển. Rõ ràng là cả
những khi có sự thay đổi về lãnh thổ hay thay đổi về phương thức sinh hoạt kinh
tế, cộng đồng dân tộc vẫn tồn tại trên thực tế.
2) Nội dung Cương lĩnh dân tộc của chủ nghĩa Mác-Lênin
Cơ sở xây dựng Cương lĩnh là những tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen về vấn
đề dân tộc; là sự tổng kết kinh nghiệm đấu tranh của phong trào cách mạng thế giới
và cách mạng Nga; phân tích sâu sắc hai xu hướng khách quan của phong trào dân
tộc. Nội dung Cương lĩnh gồm
1. a) Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng có nghĩa là các dân tộc lớn hay nhỏ (kể cả bộ
tộc và chủng tộc) không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp, đều có nghĩa vụ
và quyền lợi ngang nhau trong các sinh hoạt kinh tế, chính trị, văn hoá-xã hội;
không một dân tộc nào được giữ đặc quyền đặc lợi và có quyền đi áp bức bóc lột
dân tộc khác, thể hiện trong luật pháp mỗi nước và luật pháp quốc tế.
V.I.Lênin triển khai nội dung bình đẳng ở hai cấp độ là bình đẳng giữa các quốc
gia dân tộc và bình đẳng giữa các dân tộc-tộc người trong một quốc gia đa dân tộc.
+) Trong một quốc gia có nhiều dân tộc, quyền bình đẳng giữa các dân tộc phải
được pháp luật bảo vệ và được thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó việc phấn đấu khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế, văn
hoá do lịch sử để lại có ý nghĩa cơ bản;
+) Trên phạm vi giữa các quốc gia dân tộc, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các
dân tộc trong giai đoạn hiện nay gắn liền với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân
biệt chủng tộc, chủ nghĩa dân tộc lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi; gắn liền với cuộc
đấu tranh xây dựng trật tự kinh tế thế giới mới; chống sự áp bức bóc lột của các
nước tư bản phát triển đối với các nước chậm phát triển về kinh tế.
Thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân tộc là cơ sở để thực hiện quyền dân tộc tự
quyết và xây dựng mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc.

22
1. b) Các dân tộc được quyền tự quyết trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
nhưng thực chất là tự quyết về chính trị. Quyền dân tộc tự quyết là quyền làm chủ
của mỗi dân tộc đối với vận mệnh của dân tộc mình, quyền tự lựa chọn chế độ
chính trị-xã hội và con đường phát triển của dân tộc mình. Quyền tự quyết bao
gồm quyền tự do độc lập về chính trị tách ra thành một quốc gia dân tộc độc lập vì
lợi ích của các dân tộc và cũng bao gồm quyền tự nguyện liên hiệp với các dân tộc
khác trên cơ sở bình đẳng.
V.I.Lênin khẳng định một trong những nguyên tắc của vấn đề dân tộc tự quyết là
phải có quan điểm lịch sử-cụ thể khi nghiên cứu và giải quyết vấn đề dân tộc. Khi
xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc tự quyết của dân tộc cần đứng trên lập trường
của giai cấp công nhân. Chỉ ủng hộ sự phân lập mang lại lợi ích cho giai cấp công
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc, ủng hộ cuộc đấu tranh giải phóng trong
phạm vi ấy. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn của các thế lực
đế quốc và phản động lợi dụng chiêu bài “dân tộc tự quyết” để can thiệp sâu vào
công việc nội bộ của các nước.
1. c) Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc phản ánh bản chất quốc tế của phong trào
công nhân, phản ánh sự thống nhất giữa sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp. Nó đảm bảo cho phong trào dân tộc có đủ sức mạnh để giành thắng
lợi.
Liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc quy định mục tiêu hướng tới, quy định
đường lối, phương pháp xem xét, cách giải quyết quyền dân tộc tự quyết, quyền
bình đẳng dân tộc. Đồng thời nó là yếu tố sức mạnh đảm bảo cho giai cấp công
nhân và các dân tộc chiến thắng kẻ thù của mình. Đoàn kết, liên hiệp công nhân
các dân tộc là cơ sở vững chắc để đoàn kết, tập hợp các tầng lớp nhân dân lao động
rộng rãi thuộc các dân tộc trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, vì độc
lập dân tộc và tiến bộ xã hội.
 
Câu hỏi 17. Phân tích bản chất, nguồn gốc của tôn giáo?
1) Phân tích bản chất của tôn giáo. Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, Ph.Ăngghen
đã làm rõ bản chất của tôn giáo trên cơ sở xem tôn giáo là một trong những hình
thái ý thức xã hội, Ông viết, tất cả mọi tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư
ảo- vào trong đầu óc của con người- của những lực lượng ở bên ngoài chi phối
cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng ở trần
thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.
1. a) Tôn giáo là sản phẩm của con ngựời, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên
và lịch sử xã hội xác định. Xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã hội

23
tiêu cực. Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá phù hợp với
đạo đức, đạo lý của xã hội. Chủ nghĩa Mác-Lênin và những người cộng sản, chế độ
xã hội chủ nghĩa luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của
nhân dân.
2. b) Tôn giáo được tạo thành bởi ba yêú tố cơ bản là ý thức tôn giáo (gồm tâm lý tôn
giáo và hệ tư tưởng tôn giáo), hệ thống nghi lễ tôn giáo (trong đó hoạt động thờ
cúng là yếu tố cơ bản), tổ chức tôn giáo (thường có hệ thống từ trung ương đến cơ
sở). Vì vậy, tôn giáo là một lực lượng xã hội trần thế, có tác động không nhỏ đến
đời sống xã hội.
2) Nguồn gốc của tôn giáo:
1. a) Nguồn gốc kinh tế-xã hội. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, tôn giáo ra đời
do trình độ lực lượng sản xuất thấp, kém đã làm cho con người không nắm được
thực tiễn những lực lượng tự nhiên, mà cảm thấy yếu đuối và bất lực trước tự nhiên
rộng lớn và bí ẩn, vì thế, họ đã gán cho tự nhiên những sức mạnh, quyền lực to lớn,
thần thánh hóa những sức mạnh đó. Đó là hình thức tồn tại đầu tiên của tôn giáo.
Khi xã hội xuất hiện những giai cấp đối kháng, bên cạnh cảm giác yếu đuối trước
sức mạnh tự phát của tự nhiên, con người lại cảm thấy bất lực trước những sức
mạnh tự phát của xã hội hoặc của một thế lực nào đó của xã hội. Không giải thích
được nguồn gốc của sự phân hoá giai cấp và áp bức bóc lột, của những ngẫu nhiên,
may rủi, con người lại hướng niềm tin vào “thế giới bên kia” dưới hình thức các
tôn giáo.
1. b) Nguồn gốc nhận thức. Ở những giai đoạn lịch sử nhất định, nhận thức của con
người về tự nhiên, xã hội và bản thân mình là có giới hạn. Luôn có khoảng cách
giữa cái biết và cái chưa biết; bởi vậy, trước mắt con người, thế giới vừa luôn là cái
hiểu được, vừa luôn là cái bí ẩn. Do không giải thích được cái bí ẩn ấy nên con
người dễ xuyên tạc nó, điều gì khoa học chưa giải thích được, điều đó dễ bị tôn
giáo thay thế.
Sự xuất hiện và tồn tại của tôn giáo còn gắn liền với đặc điểm nhận thức của con
người. Con người ngày càng nhận thức đầy đủ hơn, sâu sắc hơn thế giới khách
quan, khái quát hoá thành các khái niệm, phạm trù, quy luật. Nhưng càng khái quát
hoá, trừu tượng hóa đến mức hư ảo thì sự vật, hiện tượng được con người nhận
thức càng có khả năng xa rời hiện thực và dễ phản ánh sai lạc hiện thực.
1. c) Nguồn gốc tâm lý là ảnh hưởng của yếu tố tâm lý đến sự ra đời của tôn giáo.
Đặc biệt là những trạng thái tâm lý tiêu cực.
Trong cuộc sống, những trạng thái tâm lý mang tính tiêu cực như sự bất hạnh, đau
khổ, nỗi kinh hoàng, s” hãi v.v dễ dẫn con người đến với tôn giáo để mong được sự

24
an ủi, che chở, giúp đỡ làm giảm nỗi khổ đau của con người trong cuộc sống hiện
thực.
Không chỉ vậy, những trạng thái tâm lý tích cực như sự hân hoan, vui sướng, mãn
nguyện v.v đôi khi cũng có thể là một nguyên nhân dẫn con người đến với tôn
giáo. Ngoài ra, các yếu tố như thói quen, truyền thống, phong tục, tập quán cũng là
những nguyên nhân tâm lý dẫn đến sự hình thành, duy trì và phát triển niềm tin tôn
giáo.
 
Câu hỏi 18. Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội? Những
nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo?
1) Nguyên nhân tồn tại của tôn giáo trong chủ nghĩa xã hội
1. a) Nguyên nhân nhận thức. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nhiều hiện
tượng tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa thể lý giải được. Do đó
trước những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa
thể nhận thức và chế ngự được đã khiến một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che
chở và lý giải từ sức mạnh của đấng siêu nhiên.
2. b) Nguyên nhân kinh tế. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, với sự tồn tại
của nền kinh tế nhiều thành phần với những lợi ích khác nhau của các giai cấp,
tầng lớp xã hội, với những sự bất bình đẳng nhất định về kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội đã mang đến cho con người những yếu tố ngẫu nhiên, may rủi, làm cho con
người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong vào những lực lượng
siêu nhiên.
3. c) Nguyên nhân tâm lý. Tôn giáo là một trong những hình thái ý thức xã hội bảo
thủ nhất, đã in sâu vào đời sống tinh thần, ảnh hưởng khá sâu đậm đến nếp nghĩ,
lối sống của một bộ phận nhân dân qua nhiều thế hệ. Vì vậy, dù có thể có những
biến đổi lớn lao về kinh tế, chính trị, xã hội thì tôn giáo cũng không thay đổi ngay
theo tiến độ của những biến đổi kinh tế-xã hội mà nó phản ánh.
4. d) Nguyên nhân chính trị-xã hội. Tôn giáo có những điểm còn phù hợp với chủ
nghĩa xã hội, với đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Giá trị đạo
đức, văn hoá của tôn giáo đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận nhân dân. Chính
vì vậy, trong một chừng mực nhất định, tôn giáo vẫn có sức thu hút mạnh mẽ đối
với một bộ phận quần chúng.
đ) Nguyên nhân văn hoá. Trong thực tế, sinh hoạt tôn giáo đã đáp ứng được phần
nào nhu cầu văn hoá tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức độ nhất
định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của cá nhân trong

25
cộng đồng. Vì vậy, sinh hoạt tôn giáo đã lôi cuốn một bộ phận nhân dân xuất phát
từ nhu cầu văn hoá tinh thần, tình cảm của họ.
Từ những nguyên nhân trên đã dẫn đến sự tồn tại của tôn giáo trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Song cũng cần nhận thức được rằng tôn giáo cũng có
những biến đổi cùng với sự biến đổi của những điều kiện kinh tế-xã hội của quá
trình cải tạo và xây dựng xã hội mới.
2) Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin trong việc giải quyết vấn đề
tôn giáo
1. a) Khắc phục dần ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống xã hội gắn liền
với công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới.
2. b) Tôn trọng, đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.
Mọi công dân theo tôn giáo hoặc không theo tôn giáo đều bình đẳng trước pháp
luật, đều có nghĩa vụ và quyền lợi như nhau.
3. c) Thực hiện đoàn kết giữa những người theo với những người không theo một tôn
giáo nào, đoàn kết các tôn giáo hợp pháp, chân chính, đoàn kết toàn dân tộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ vì lý do tín ngưỡng, tôn
giáo.
4. d) Cần phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong việc giải quyết vấn đề tôn
giáo.Đây là việc cần thiết, bởi bản thân tôn giáo nào cũng gồm hai mặt này và phân
biệt để tránh hai khuynh hướng hữu khuynh hoặc tả khuynh trong giải quyết vấn đề
tôn giáo.
đ) Phải có quan điểm lịch sử-cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.Ở những thời kỳ
lịch sử khác nhau, vai trò, tác động của từng tôn giáo đối với đời sống xã hội
không giống nhau. Vì vậy, cần có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá
và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
 
Câu hỏi 19. Sự ra đời hệ thống xã hội chủ nghĩa và những thành tựu của nó?
1) Sự ra đời và phát triển của hệ thống xã hội chủ nghĩa
1. a) Trong chiến tranh thế giới thứ II, Đảng Cộng sản ở nhiều nước châu Âu và châu
Á đã lãnh đạo quần chúng nhân dân phối hợp với Hồng quân Liênxô thành mặt
trận chống phátxít. Đảng Cộng sản ở nhiều nước đã đứng lên lãnh đạo quần chúng
nhân dân vũ trang giành chính quyền thành lập nhà nước dân chủ nhân dân.

26
2. b) Trong thời gian 5 năm (từ năm 1944 đến năm 1949) ở châu Âu và châu Á đã có
13 nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo bằng ba phương thức đã giành được chính
quyền và sau đó đi lên chủ nghĩa xã hội.
+) Phương thức chủ yếu dựa vào lực lượng vũ trang của nhân dân nước mình, xây
dựng các căn cứ địa cách mạng, khi thời cơ đến đã lãnh đạo nhân dân đứng lên
giành chính quyền như Cộng hoà nhân dân liên bang Nam Tư (1944), nước Việt
Nam Dân chủ cộng hoà (1945), Cộng hoà nhân dân Anbani (1946) và Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa (1949).
+) Phương thức chủ yếu dựa vào Hồng quân Liênxô giải phóng đồng thời phối hợp
vũ trang của nhân dân nước mình như Cộng hoà nhân dân BaLan (1945), Bungari
(1946), Rummani (1948), Hunggari và Tiệp Khắc (1946) nhưng sau đó phải đấu
tranh trong nội bộ chính phủ để trục xuất các phần tử tư sản, trở thành nước cộng
hoà dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo (Hunggari 1947; Tiệp Khắc
1948) và Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên (1948).
+) Phương thức hoàn toàn do Hồng quân Liênxô giải phóng và Liênxô giúp đỡ để
lên con đường chủ nghĩa xã hội như Cộng hoà dân chủ Đức (10/1949).
Vậy là sau chiến tranh thế giới thứ II, chủ nghĩa xã hội từ một nước đã mở rộng ra
13 nước ở châu Âu và châu Á; với thắng lợi của cách mạng dân chủ ở Cu Ba năm
1959, nước cộng hoà Cu Ba chuyển sang chủ nghĩa xã hội. Như vậy chủ nghĩa xã
hội đã không chỉ ở châu Âu, châu Á mà còn mở rộng đến châu Mỹ Latinh. Chủ
nghĩa xã hội trở thành hệ thống tồn tại song song với hệ thống tư bản chủ nghĩa.
2) Những thành tựu của chủ nghĩa xã hội hiện thực
Trải qua hơn 74 năm tồn tại và phát triển, chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Liênxô và
Đông Âu đã đem lại những thành tựu to lớn
1. a) Về chính trị.Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và các cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa ở các nước từ sau chiến tranh thế giới thứ II đã làm
thay đổi căn bản trong quá trình phát triển của thế giới, mở ra một thời đại mới-
thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
2. b) Vềkinhtế. Từ những điểm xuất phát phổ biến là nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu,
trình độ phát triển thấp, chỉ sau 20 năm Liênxô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông
Âu đã trở thành những nước công nghiệp hoá, có tốc độ phát triển cao. Sự lớn
mạnh về kinh tế tạo điều kiện để phát triển công nghiệp quốc phòng, đảm bảo cho
Liênxô có điều kiện bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa và góp phần quyết
định vào việc chiến thắng chủ nghĩa phát xít trong chiến tranh thế giới thứ hai.

27
3. c) Về văn hoá-xã hội. Xoá bỏ được giai cấp bóc lột, khắc phục được những bất
công xã hội, giải phóng hàng trăm triệu người ra khỏi tình cảnh nô lệ, phụ thuộc.
Giải quyết căn bản nạn thất nghiệp và mù chữ, thất học. Chăm sóc y tế và bảo
hiểm, tr” cấp xã hội được thực hiện. Phát triển mạnh mẽ giáo dục phổ cập và nâng
cao trình độ học vấn cho nhân dân. Đạt nhiều thành tựu và vươn tới đỉnh cao trong
khoa học, văn học, nghệ thuật.
Với sức mạnh tổng hợp của mình, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã có ảnh hưởng to
lớn đến đời sống chính trị thế giới. Chủ nghĩa xã hội trở thành chỗ dựa của phong
trào giải phóng dân tộc, phong trào bảo vệ hoà bình thế giới. Cũng chính sự lớn
mạnh của chủ nghĩa xã hội, sự phát triển của phong trào giải phóng dân tộc và cuộc
đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động những thập niên 50, 60 và
70 của thế kỷ XX buộc các nước tư bản chủ nghĩa muốn tồn tại phải có những điều
chỉnh nhất định.
Câu hỏi 20. Nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ của mô hình chủ
nghĩa xã hội Xôviết?
1) Nguyên nhân sâu xa là những sai lầm thuộc về mô hình phát triển của chủ nghĩa
xã hội Xôviết. Nếu như mô hình tổ chức xã hội dựa trên kế hoạch hoá tập trung đã
phát huy được sức mạnh cho cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại thì trong điều kiện hoà
bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội, mô hình này tỏ ra không phù hợp. Cơ chế kế
hoạch hoá tập trung làm mất đi tính chủ động sáng tạo của người lao động, chậm
trễ trong việc tiếp thu những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ.
Trong những điều kiện lịch sử mới, mô hình chủ nghĩa xã hội Xôviết tỏ ra không
còn phù hợp, là nguyên nhân sâu xa làm cho xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng
hoảng dẫn tới sụp đổ ở Liênxô và Đông Âu.
2) Nguyên nhân chủ yếu và trực tiếp dẫn đến sự sụp đổ
Chung quy lại, vấn đề nảy sinh từ nội bộ Đảng cầm quyền và sai lầm, sự phản bội
của những người lãnh đạo cao nhất. Trong cải tổ, Đảng Cộng sản Liênxô đã mắc
sai lầm nghiêm trọng về đường lối chính trị, tư tưởng và tổ chức.
1. a) Đảng không coi trọng kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với thực tiễn nước mình và
đặc điểm thời đại; không coi trọng việc kế thừa, bổ sung và phát triển lý luận
mácxít. Hoặc giáo điều, dập khuôn máy móc, không căn cứ vào tình hình mới để
phát triển sáng tạo. Đánh giá không công bằng với lịch sử, từ chỗ phê phán sai lầm
của cá nhân đi đến phủ nhận toàn bộ lịch sử của Đảng và Nhà nước, phủ định chế
độ xã hội chủ nghĩa, phủ định chủ nghĩa Mác-Lênin để cuối cùng đi theo con
đường chủ nghĩa dân chủ xã hội.

28
2. b) Chế độ tập trung trong Đảng bị phá hoại, không những làm cho Đảng mất khả
năng của bộ chỉ huy chiến đấu mà ngay mâu thuẫn trong đảng cũng không giải
quyết nổi. Tính quan liêu, giáo điều bảo thủ rất nặng nề ở bộ phận lãnh đạo cấp cao
của Đảng và Nhà nước tác động to lớn đến đời sống xã hội. Sự phân liệt Đảng
Cộng sản thành các phe nhóm chính trị khác nhau, nhiều tổ chức, đảng phái chính
trị ra đời đấu tranh giành quyền lực chính trị. Khuynh hướng dân tộc ly khai nảy
sinh, những cuộc xung đột đẫm máu xảy ra tạo môi trường cho các lực lượng phản
động trỗi dậy, xã hội mất phương hướng, gây thảm hoạ cho nhân dân.
3. c) Lực lượng phản bội trong nước tìm chỗ dựa từ các chính phủ tư sản bên ngoài,
các thế lực chống chủ nghĩa xã hội cũng xem đây là cõ hội tốt để thực hiện ý đồ
“diễn biến hoà bình”. Chúng ra sức cổ vũ lôi kéo những phần tử cơ hội, phản bội
giữ địa vị cao ở các cơ quan Đảng, Nhà nước để đưa đất nước theo xu hướng tư
bản. Khi bộ phận lãnh đạo tối cao đã liên kết với lực lượng đế quốc bên ngoài thì
chủ nghĩa xã hội theo mô hình Xôviết dễ dàng sụp đổ.
Tuy nhiên, sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội không thể là tất yếu vì thực tế ở những
nước xã hội chủ nghĩa khác qua cải cách đổi mới đã đưa đất nước từng bước thoát
khỏi khó khăn, khủng hoảng như Trung Quốc, Việt Nam, Cu Ba. Vấn đề là ở chỗ
cải cách, cải tổ. đổi mới như thế nào, cần phải giữ vững nguyên tắc nào mà thôi.
CHỦ ĐỀ 2: THỜI KÌ QUÁ ĐỘ
Tại sao nói thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là tất yếu. Phân tích đặc điểm,
thực chất và nội dung của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH.

1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH: 

- Sự thay thế xã hội CNTB bằng xã hội XHCN là một tất yếu khách quan trong tiến
trình lịch sử xã hội loài người theo quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất
và trình độ của lực lượng sản xuất.

- Sự thay thế của các chế độ xã hội trước đây chỉ là thay thế xã hội bóc lột này
bằng xã hội bóc lột khác cao hơn còn về bản chất vẫn là chế độ chiếm hữu tư nhân
về tư liệu sản xuất.

- Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng toàn diện, sâu sắc và triệt để nhất trong
lịch sử vì mục tiêu trực tiếp là xóa bỏ chế độ tư hữu, thủ tiêu chế độ người bóc lột
người để thiết lập chế độ mới do nhân dân lao động làm chủ.

- Cách mạng XHCN nổ ra thành công là bắt đầu vào thời kỳ quá độ, thời kỳ quá độ
này có nhiệm vụ cơ bản là xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật chon CNXH, xây dựng

29
đời sống văn hóa tinh thần cho XHCN.

“ Thời kỳ quá độ lên CNXH là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Thời
kỳ này được bắt đầu sau khi giai cấp công nhân thiết lập được chính quyền nhà
nước và trực tiếp bắt tay vào sự nghiệp cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới và
được kết thúc sau khi xây dựng xong về cơ bản những cơ sở về kinh tế, văn hóa –
tư tưởng để CNXH bắt đầu quá trình tự phát triển”

* Hai loại hình quá độ lên CNXH:

- Quá độ trực tiếp

- Quá độ gián tiếp

2. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH

a. Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH là sự tồn tại những
yếu tố của XH cũ bên cạnh MQH vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống KT – XH

- Trên lĩnh vực kinh tế:

+ Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
trong một hệ thống KT quốc dân thống nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất yếu
trong quá trình xây dựng CNXH không thể dùng ý chí để xóa bỏ ngay kết cấu
nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở trình độ chưa
trải qua sự phát triển của PTSX TBCN.

+ Các thành phần kinh tế này tồn tại trong MQH vừa thống nhất vừa mâu thuẫn và
đấu tranh với nhau. Mâu thuẫn giữa các thành phần kinh tế đó chỉ có thể được giải
quyết trong tiến trình xây dựng CNXH.

+Nền KT đa dạng, đan xen hỗn hợp tương ứng với nó lừ những hình thức phân
phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao động tất yếu ngày càng giữ
vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.

- Trên lĩnh vực chính trị:

30
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH đa dang, phức tạp nên kết cấu
giai cấp xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng và phức tạp. Thời kỳ này bao gồm:
GCCN, GCND, tầng lớp TT, những người SX nhỏ, tầng lớp TS. Các GC, tầng lớp
này vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau. Trong một GC, tầng lớp cũng có nhiều bộ
phận có trình độ, có ý thức khác nhau.

- Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa;

+ Trong thời kỳ quá độ lên CNXH còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn hóa
khác nhau. Bên cạnh tư tưởng XHCN còn tồn tại TT TS, TTS, tâm lý tiểu nông...

+ Trên lĩnh vực văn hóa cũng tồn tại các yếu tố văn hóa cũ và mới, chúng thường
xuyên đấu tranh với nhau.

b. Thực chất của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH 

- Là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh GC giữa GCTS đã bị đánh bại không còn là GC
thống trị và những thế lực chống phá CNXH với GCCN và quần chúng nhân dân
lao động

- Cuộc đấu tranh GC diễn ra trong điều kiện mơi là GCCN đã nắm được chính
quyền nhà nước, quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống XH.

- Cuộc đấu tranh GC với những nội dung vè hình thức mới diễn ra trong lĩnh vực
chính trị, kinh tế, tư tưởng – văn hóa, bằng tuyên truyền vận động là chủ yếu, bằng
hành chính và luật pháp.

3. Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH 

* Trong lĩnh vực kinh tế

- Thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các LLSX hiện có của XH.

- Cải tạo QHSX cũ, xây dựng QHSX mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối
của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt hơn đời sống nhân dân lao động.

- Việc bố trí, sắp xếp lại LLSX của XH nhất định không thể nóng vội chủ quan mà
phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc biệt là quy luật
QHSX phải phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.

31
- Đối với những nước chưa trải qua quá trình CNH TBCN, tất yếu phải tiến hành
CNH XHCN nhằm tạo ra được CSVC – KT cho CNXh => CNH, HĐH nền KT
theo định hướng XHCN là nhiệm vụ trong tâm của thời kỳ quá độ, tuy nhiên nội
dung cụ thể và hình thức, bước đi ở từng nước có thể khác nhau.

* Trong lĩnh vực chính trị

- Tiến hành cuộc đấu tranh chống các thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp xây
dựng CNXH

- Xây dựng và củng cố nhà nước và nền dân chủ XHCN ngày càng vững mạnh bảo
đảm quyền làm chủ thực sự của nhân dân lao động.

- Xây dựng các tổ chức chính trị xã hội hoạt động ngày càng hiệu quả.

- Xây dựng Đảng cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh.

* Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa

- Thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến những tư tưởng cách mạng và khoa học
của GCCN trong toàn xã hội.

- Khắc phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây
dựng CNXH

- Xây dựng nền văn hóa mới XHCN

- Tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa thế giới

* Trong lĩnh vực xã hội

- Khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại

- Từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp
dân cư, thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội...

=> KL: thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu, đó là thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng

32
với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội đặc thù, CNXH chỉ có thể có
được khi hoàn thành các nội dung đó.
Câu: Vì sao quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản là một tất yếu lịch sử với
nước ta
Thời kỳ quá độ lên CNXH là tất yếu đối với mọi nước đi lên CNXH. Bộ phận quan
trọng trong học thuyết của V.I.Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội là lý luận về
thời kỳ quá độ lên CNXH.Theo V.I.Lênin, sự cần thiết khách quan phải có thời kỳ
quá độ lên CNXH là do đặc điểm ra đời, phát triển của phương thức sản xuất cộng
sản chủ nghĩa và cách mạng vô sản quy định 
Quan hệ sản xuất phong kiến và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đều dựa trên cơ
sở chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Do vậy, quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có
thể ra đời từ trong lòng xã hội phong kiến. Sự phát triển của phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa đến một trình độ nhất định, sẽ làm sâu sắc thêm mâu thuẫn của xã
hội phong kiến, cáh mạng tư sản sẽ nổ ra. Nhiệm vụ của cách mạng tư sản chủ yếu
chỉ là giải quyết về mặt chính quyền Nhà nước, làm cho kiến trúc thượng tầng
thích ứng với cơ sở hạ tầng của nó.

Cuộc cách mạng vô sản khác với các cuộc cách mạng khác ở chỗ :các cuộc cách
mạng trước đó giành được chính quyền là kết thúc cuộc cách mạng vì nó dựa trên
chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Còn cuộc cảch mạng vô sản giành
được chính quyền mới chỉ là bước đầu, còn vấn đề chủ yếu cơ bản hơn đó là giai
cấp vô sản phải xây dựng một xã hội mới, cả về lực lượng sản xuất lẫn quan hệ sản
xuất, cả về cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng, cả về tồn tại xã hội và ý thức xã
hội.Hơn nữa, sự phát triển của phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa là một
thời kỳ lâu dài, không một lúc có thể hoàn thiện được. Để phát triển của lực lượng
sản xuất, tằg năng xuất lao động, xây dựng chế độ công hữu xã hội chủ nghĩa về tư
liệu sản xuất, xây dựng kiểu xã hội mới, cần phải có thời gian tương đối lâu dài.
Nói cách khác, tất yếu phải có thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội…

* Lý luận của V.I.Lênin về con đường quá độ lên CNXH ở những nước chủ nghĩa
tư bản chưa phát triển.

C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đã nêu lên khả năng những nước
còn đang ở trong giai đoạn phát triển tiền tư bản chủ nghĩa có thể chuyển thẳng lên
hình thái chế độ cộng sản chủ nghĩa và khả năng phát triển rút ngắn của các nước
này bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Còn về nội dung thời kỳ quá độ đó như thế
nào và nó có nhiệm vụ cụ thể gì thì hai ông chưa đề cập tới. Đây chính là điểm
phát triển của V.I.Lênin về cách mạng Xã hội chủ nghĩa và về thời kỳ quá độ ở

33
nhữnh nước tiền đề kinh tế cho cuộc cách mạng ấy chưa chín muồi, cho dù ở nước
đó chủ nghĩa tư bản phát triển ở mức trung bình ( như nước Nga năm 1917 ) .
Lý luận của V.I.Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH ở các nước chưa có CNTB
phát triển bao gồm một số luận điểm cơ bản sau đây:

* Một là, luận điểm về việc giành lấy chính quyền làm điều kiện tiên quyết để xây
dựng tiền đề kinh tế cho CNXH.
Để phản đối cuộc Cách mạng Tháng Mười năm 1917, những người theo Quốc tế II
cho rằng, nước Nga chưa nên làm cách mạng XHCN vì lực lượng sản xuất của
nước Nga chưa phát triển đầy đủ. V.I.Lênin chỉ ra rằng, luận điểm này là trái với
phép biện chứng cách mạng của chủ nghĩa Mác vì chủ nghĩa Mác cho rằng, tính
quy luật chung của sự phát triển trong lịch sử toàn thế giới không loại trừ, trái lại,
còn bao hàm một số hình thức phát triển đặc thù ở một số quốc gia riêng biệt. Như
vậy, những người theo Quốc tế II không thấy được thời kỳ cách mạng mới gắn với
những mâu thuẫn gay gắt của CNTB thế giới; không hiểu được tình thế cách mạng
có thể xuất hiện ở nơi này hay nơi khác khiến cho các dân tộc có thể bước vào
cuộc chiến tranh để thoát khỏi CNTB và giành lấy sự tiến bộ xã hội.từ đó
V.I.Lênin nêu luận điểm: ở một nước kém phát triển có thể và cần phải tạo ra
nhưng điều kiện tiên quyết để thực hiện CNXH, bắt đầu bằng một cuộc cách mạng
thiết lập chính quyền công nông, thông qua chính quyền ấy mà tiến lên và đuổi kịp
dân tộc khác.

*Hai là,luận điểm về thời kỳ quá độ với một loạt những bước quá độ. Luận điểm
này của V.I.Lênin được rút ra sau những sai lầm dẫn tới khủng hoảng kinh tế,
chính trị ở nước Nga Xô Viết sau nội chiến. Phân tích nguyên nhân khủng hoảng ở
Nga, V.I.Lênin chỉ ra rằng, đối với một nước mà CNTB chưa phát triển cao như
nước Nga, không thể thực hiện quá độ trực tiếp lên CNXH được mà phải trải qua “
một loạt những bước quá độ ”.
V.I.Lênin viết: “ nếu phân tích tình hình chính trị hiện nay, chúng ta có thể nói
rằng chúng ta đang ở vào một thời điểm quá độ trong thời kỳ quá độ. Toàn bộ nền
chuyên chính vô sản là một thời kỳ quá độ nhưng hiện nay có thể nói rằng, chúng
ta có cả một loạt thời kỳ quá độ mới ”.
Luận điểm “một loạt những bước quá độ ” xây dựng CNXH ở một nước mà trình
độ phát triển kinh tế chưa chín muồi của V.I.Lênin bao gồm những nội dung chủ
yếu sau đây:

Không thể quá độ trực tiếp lên CNXH mà phải qua con đường gián tiếp chứ không
thể “ quá vội vàng, thẳng tuột, không được chuẩn bị”.
Những bước quá độ ấy theo V.I.Lênin là chủ nghĩa tư bản nhà nước và chủ nghĩa
xã hội. V.I.Lênin nói: “ Để chuẩn bị …việc chuyển sang chủ nghĩa cộng sản, thì

34
cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư bbản nhà nước và
chủ nghĩa xã hội ”.
Bước quá độ từ chủ nghĩa tư bảm nhà nước được thể hiện trong “ chính sách kinh
tế ” mới mà việc trao hàng háo được coi là “ đòn xeo chủ yếu ” cho nên cần có sự
nhượng bộ tạm thời và cục bộ đối với CNTB nhằm phát triển mạnh mẽ lực lượng
sản xuất, từng bước xã hội hoá sản xuất trong thực tế.

Câu: Phân tích tính tất yếu, đặc điểm và nội dung cơ bản của thời kì…

-     Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được lý giải từ các căn cứ sau
đây:
Một là, bất kỳ quá trình chuyển biến từ một xã hội này lên một xã hội khác đều
nhất định phải trải qua một hời kỳ gọi là thời kỳ quá độ. Đó là thời kỹ còn có sự
đan xen lẫn nhau giữa các yếu tố mới và cũ trong cuộc đấu tranh với nhau. Có thể
nói đây là thời kỳ của cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa cái cũ và cái mới mà nói
chung theo tính tất yếu phát triển lịch sử thì cái mới thường chiến thắng cái cũ, cái
lạc hậu. Từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội không là ngoại lệ lịch sử. Hơn
nữa, từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là một bước nhảy lớn và căn bản về
chất so với các quá trình thay thế từ xã hội cũ lên xã hội mới đã từng diễn ra trong
lịch sử thì thời kỳ quá độ lại càng là một tất yếu, thậm chí có thể kéo dài. Nhất là
đối với những nước còn ở trình độ tiền tư bản thực hiện thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội thì “những cơn đau đẻ” này còn có thể rất dài với nhiều bước quanh
co.
Hai là, sự ra đời của một xã hội mới bao giờ cũng có những sự kế thừa nhất định từ
những nhân tố do xã hội cũ tạo ra. Sự ra đời của chủ nghĩa xã hội là sự kế thừa đối
với chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là trên phương diện kế thừa cơ sở vật chất kỹ thuật
đã được tạo ra bởi sự phát triển của nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội mặc dù cũng là nền sản xuất đại công
nghiệp nhưng đó là nền sản xuất đại công nghiệp xã hội chủ nghĩa chứ không phải
là nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa. Do đó nó cũng cần phải có thời kỳ quá độ
của bước cải tạo, kế thừa và tái cấu trúc nền công nghiệp tư bản chủ nghĩa.
Đối với những nước chưa từng trải qua quá trình công nghiệp hóa tiến lên chủ
nghĩa xã hội, thời kỳ quá độ cho việc xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội càng có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành công
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa. Đó là một nhiệm vụ vô cùng to lớn và đầy khó khăn,
không thể “đốt cháy giai đoạn” được.

35
Ba là, các quan hệ xã hội của chủ nghĩa xã hội không tự phát nảy sinh trong lòng
chủ nghĩa tư bản, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo xã hội chủ
nghĩa. Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo
ra những điều kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội mới xã hội chủ
nghĩa, đo vậy cũng cần phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển
những quan hệ đó.
Bốn là, công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội là một công việc mới mẻ, khó khăn
và phức tạp. Với tư cách là người chủ của xã hội mới, giai cấp công nhân và nhân
dân lao động không thể ngay lập tức có thể đảm đương được công việc ấy, nó cần
phải có thời gian nhất dịnh.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã
hội khác nhau có thể diễn ra khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với những
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển ở trình độ cao khi tiến lên chủ nghĩa xã
hội thì thời kỳ quá độ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn
phát triển chĩ nghĩa tư bản ở trình độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình
độ phát triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì thời kỳ quá độ thường kéo dài
với rất nhiều khó khăn, phức tạp.
-     Những đặc điểm cơ bản của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
xã hội
Đặc điểm nổi bật của thời kỳ quá dộ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là sự
tồn tại những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh những nhân tố mới của chủ nghĩa xã
hội trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội.
+ Trên lĩnh vực kinh tế:
Thời kỳ quá độ là thời kỳ tất yếu còn tồn tại một nền kinh tế nhiều thành phần
trong một hệ thống kinh tế quốc dân thông nhất. Đây là bước quá độ trung gian tất
yếu trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, không thể dùng ý chí để xóa bỏ
ngay kết cấu nhiều thành phần của nền kinh tế, nhất là đối với những nước còn ở
trình độ chưa trải qua sự phát triển của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Nền kinh tế nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được xác
lập trên cơ sở khách quan của sự tồn tại nhiều loại hình sở hữu về tư liệu sản xuất
với những hình thức tổ chức kinh tế đa dạng, đan xen hỗn hợp và tương ứng với nó
là những hình thức phân phối khác nhau, trong đó hình thức phân phối theo lao
động tất yếu ngày càng giữ vai trò là hình thức phân phối chủ đạo.

36
+ Trên lĩnh vực chính trị:
Do kết cấu kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đa dạng, phức tạp, nên
kết cấu giai cấp của xã hội trong thời kỳ này cũng đa dạng phức tạp. Nói chung,
thời kỳ này thường bao gồm: giai cấp công nhân, nông dân, tầng lớp trí thức,
những người sản xuất nhỏ, tầng lớp tư sản và một số tầng lớp xã hội khác tuỳ theo
từng điều kiện cụ thể của mỗi nước. Các giai cấp, tầng lớp này vừa hợp tác, vừa
đấu tranh với nhau.
+ Trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội còn tồn tại nhiều yếu tố tư tưởng và văn
hoá khác nhau. Bên cạnh tư tưởng xã hội chủ nghĩa còn tồn tại tư tưởng tư sản, tiểu
tư sản, tâm lý tiểu nông, V.V.. Theo V.I. Lênin, tính tự phát tiểu tư sản là “kẻ thù
giấu mặt hết sức nguy hiểm, nguy hiểm hơn so với nhiều bọn phản cách mạng
công khai”. Trên lĩnh vực văn hoá cũng tồn tại các yếu tố văn hoá cũ và mới,
chúng thường xuyên đấu tranh với nhau.
Thực chất của thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ
diễn ra cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp tư sản đã bị đánh bại không còn là giai
cấp thống trị và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội với giai cấp công nhân
và quần chúng nhân dân lao động. Cuộc đấu tranh giai cấp diễn ra trong điều kiện
mới là giai cấp công nhân đã nắm được chính quyền nhà nước, quản lý tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội. Cuộc đấu tranh giai cấp với những nội dung, hình thức
mới, diễn ra trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa, bằng tuyên truyền
vận động là chủ yếu, bằng hành chính và luật pháp.
-     Nội dung kinh tế, chính trị và văn hóa, xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội
+ Trong lĩnh vực kinh tế:
Nội dung cơ bản trên lĩnh vực kinh tế của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
thực hiện việc sáp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo
quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới theo hướng tạo ra sự phát
triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao
động.
Việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng sản xuất của xã hội nhất địnk không thể theo
ý muốn nóng vội chủ quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy
luật kinh tế, đặc biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất.

37
Đối với những nước chưa trải qua quá trình công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa, tất
yếu phải tiến hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa nhằm tạo ra được cơ sở vật
chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước này, nhiệm vụ trọng tâm
của thời kỳ quá độ phải là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa diễn ra ở các nước khác
nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được tiến hành với những nội
dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Đó cũng là quán triệt quan điểm lịch
sử - cụ thể trong việc xác định những nội dung, hình thức và bước đi trong tiến
trình công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
+ Trong lĩnh vực chính trị:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
tiến hành cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch, chống phá sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội; tiến hành xây dựng, củng cố nhà nước và nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa ngày càng vững mạnh, bảo đảm quvền làm chủ trong hoạt động
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động: xây dựng các tổ chức
chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động;
xây dựng Đảng Cộng sản ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang tầm với các
nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.
+ Trong lĩnh vực tư tưởng - văn hoá:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực tư tưởng - văn hóa của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là: thực hiện tuyên truyền phổ biến những tư tưởng khoa học và cách
mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc phục những tư tưởng và tâm
lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội; xây dựng
nền văn hoá mới xã hội chủ nghĩa, tiếp thu giá trị tinh hoa của các nền văn hóa trên
thế giới.
+ Trong lĩnh vực xã hội:
Nội dung cơ bản trong lĩnh vực xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
phải thực hiện việc khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để lại; từng bước
khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng lớp dân cư trong
xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng mối quan hệ tốt đẹp
giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng tự do của người này là điều kiện, tiền
đề cho sự tự do của người khác.

38
Tóm lại, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỹ lịch sử tất yếu trên con
đường phát triển của hình chái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ
lịch sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội
đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa chỉ có thể có được trên cơ sở hoàn thành
các nội dung đó.
Vấn đề 12: Chủ nghĩa Marx – Lenin trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
19/06/2015 Đề thi chủ nghĩa Mác - Lênin Leave a comment
Vấn đề 12: Tôn giáo và những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx – Lenin
trong việc giải quyết vấn đề tôn giáo
a. Khái niệm tôn giáo
– Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch sử nhân loại và tồn
tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người trong lịch sử hàng ngàn năm qua.

Nói chung, bất cứ tôn giáo nào, với hình thái phát triển đầy đủ của nó, cũng đều
bao gồm:
+ Ý thức tôn giáo, thể hiện ở quan niệm về các đấng thiêng liêng cùng những tín
ngưỡng tương ứng.
+ Hệ thống tổ chức tôn giáo cùng với những hoạt động mang tính chất nghi thức
tín ngưỡng của nó.
– Chủ nghĩa Marx – Lenin coi tín ngưỡng, tôn giáo là một hình thái ý thức xã hội
phản ánh một cách hoang đường, hư ảo hiện thực khách quan. Qua hình thức phản
ánh của tôn giáo, những sức mạnh tự phát trong tự nhiên và xã hội đều trở thành
thần bí.

Trong tác phẩm Chống Đuyrinh, F.Engels đã viết: “Tất cả mọi tôn giáo chẳng qua
chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con người – của những lực lượng
ở bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó
những lực lượng ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế.”

– Phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo và mê tín dị đoan:


+ Giữa tín ngưỡng và tôn giáo có sự khác nhau, song lại có quan hệ chặt chẽ mà
ranh giới để phân biệt chúng chỉ là tương đối. Tín ngưỡng là một khái niệm rộng
hơn tôn giáo. Ở đây chúng ta chỉ đề cập một dạng tín ngưỡng – đó là tín ngưỡng
tôn giáo (gọi tắt là tôn giáo).
  Tín ngưỡng là niềm tin và sự ngưỡng mộ của con người vào một hiện tượng,
một lực lượng siêu nhiên, tôn sùng vào một điều gì đó pha chút thần bí, hư ảo, vô

39
hình tác động mạnh đến tâm linh con người, trong đó bao hàm cả niềm tin tôn
giáo.
 Tôn giáo thường được hiểu là một hiện tượng xã hội bao gồm có ý thức tôn giáo
lấy niềm tin tôn giáo làm cơ sở, hành vi và các tổ chức hoạt động tín ngưỡng tôn
giáo – nghĩa là, tôn giáo thường có giáo lý, giáo luật, lễ nghi và các tổ chức giáo
hội.
+ Mê tín dị đoan là một hiện tượng xã hội tiêu cực đã xuất hiện từ lâu và vẫn tồn
tại ở thời đại chúng ta. Trên thực tế, mê tín dị đoan thường xen vào các hình thức
sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo. Việc xác định hiện tượng mê tín dị đoan chủ yếu
dựa vào biểu hiện và hậu quả tiêu cực của nó. Mê tín dị đoan là niềm tin cuồng
vọng của con người vào các lực lượng siêu nhiên đến mức độ mê muội với những
hành vi cực đoan, thái quá, phi nhân tính, phản văn hóa của một số người gọi
chung là cuồng tín. Hiện tượng mê tín dị đoan thường gắn chặt và lợi dụng các
hình thức sinh hoạt tín ngưỡng, tôn giáo để hành nghề.

Vì vậy, cùng với việc tôn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của
nhân dân thì chúng ta phải loại bỏ dần mê tín dị đoan nhằm làm lành mạnh hoá đời
sống tinh thần xã hội.

– Tôn giáo là sản phẩm của con người, gắn với những điều kiện lịch sử tự nhiên và
lịch sử xã hội xác định. Do đó, xét về mặt bản chất, tôn giáo là một hiện tượng xã
hội phản ánh sự bất lực, bế tắc của con người trước tự nhiên và xã hội.
Theo K.Marx: “Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện
thực, vừa là sự phản kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở
dài của chúng sinh bị áp bức, là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống
như nó là tinh thần của những trật tự không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện
của nhân dân”.
– Tuy nhiên, tôn giáo cũng chứa đựng một số giá trị văn hoá, phù hợp với đạo đức,
đạo lý của xã hội.
+ Về phương diện thế giới quan, thế giới quan duy vật mácxít và thế giới quan tôn
giáo là đối lập nhau. Tuy vậy, trong thực tiễn, những người cộng sản có lập trường
mácxít không bao giờ có thái độ xem thường hoặc trấn áp những nhu cầu tín
ngưỡng, tôn giáo hợp pháp của nhân dân. Ngược lại, chủ nghĩa Marx – Lenin và
những ngườ cộng sản, chế độ XHCN luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của nhân dân.
Sự khác nhau giữa CNXH hiện thực và “thiên đường” mà các tôn giáo thường
hướng tới là ở chỗ trong quan niệm tôn giáo, “thiên đường” không phải là hiện
thực xã hội mà là ở “thế giới bên kia”, trên “thượng giới” (tức là cái hư ảo). Còn

40
những người cộng sản chủ trương và hướng con người vào xã hội văn minh, hạnh
phúc ngay ở thế giới hiện thực, do mọi người xây dựng và vì mọi người. V.I. Lenin
đã chỉ rõ: “Đối với chúng ta, sự thống nhất của cuộc đấu tranh thực sự cách mạng
đó của giai cấp bị áp bức để sáng tạo nên một cảnh cực lạc trên trái đất, là quan
trọng hơn sự thống nhất ý kiến của những người vô sản về cảnh cực lạc trên thiên
đường”.

Trong lịch sử xã hội loài người, tôn giáo xuất hiện từ rất sớm. Nó hoàn thiện và
biến đổi của những điều kiện kinh tế – xã hội, văn hóa, chính trị. Tôn giáo ra đời
bởi nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng cơ bản là từ các nguồn gốc kinh tế – xã hội,
nhận thúc và tâm lý.

b. Vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH


Trong tiến trình xây dựng CNXH và trong xã hội XHCN, tôn giáo vẫn còn tồn tại.
Có nhiều nguyên nhân cho sự tồn tại của tín ngưỡng, tôn giáo:

– Nguyên nhân nhận thức.


Trong tiến trình xây dựng CNXH và trong xã hội XHCN vẫn còn nhiều hiện tượng
tự nhiên, xã hội và của con người mà khoa học chưa lý giải được, trong khi đó
trình độ dân trí lại vẫn chưa thực sự được nâng cao. Do đó, trước những sức mạnh
tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người vẫn chưa thể nhận thức và chế
ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm sự an ủi, che chở và lý giải
chúng từ sức mạnh của thần linh.
– Nguyên nhân kinh tế.
Trong tiến trình xây dựng CNXH nền kinh tế vẫn còn tồn tại nhiều thành phần kinh
tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp xã hội. Trong đời sống
hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội vẫn còn diễn ra, sự
cách biệt khá lớn về đời sống vật chất và tinh thần giữa các nhóm dân cư còn tồn
tại phổ biến. Do đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên vẫn tác động mạnh mẽ đến
con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động với tư tưởng nhờ cậy, cầu mong
vào những lực lượng siêu nhiên.
– Nguyên nhân tâm lý.
Tín ngưỡng, tôn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở thành niềm
tin, lối sống, phong tục, tập quán, tình cảm của một bộ phận đông đảo quần chúng
nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây dựng CNXH và
trong xã hội XHCN đã có những biến đổi mạnh mẽ về kinh tế, chính trị – xã hội,
thì tôn giáo vẫn không thể biến đổi ngay cùng với tiến độ của những biến đổi kinh
tế – xã hội mà nó phản ánh. Điều đó cho thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã
hội và ý thức xã hội thì ý thức xã hội thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi

41
của tồn tại xã hội, trong đó, ý thức tôn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền
vững nhất trong đời sống tinh thần của mỗi con nguời, của xã hội.
– Nguyên nhân chính trị – xã hội
Xét về mặt giá trị, có những nguyên tắc của tôn giáo là phù hợp với CNXH, với
chủ trương đường lối, chính sách của nhà nước XHCN. Đoa là những giá trị đạo
đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng thiện…, đáp ứng được nhu cầu của
một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì thế, trong một chừng mực nhất định,
tôn giáo có sức hút mạnh mẽ đối với một bộ phận quần chúng nhân dân.
– Nguyên nhân văn hóa.
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã đáp ứng
được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong một mức
độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối sống của mỗi
cá nhân trong cộng đồng. Về phương diện sinh hoạt văn hóa, tôn giáo thường được
thực hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với những lời răn theo
chuẩn mực đạo đức phù hợp với quan niệm của mỗi loại tôn giáo. Những sinh hoạt
văn hóa có tính chất tín ngưỡng, tôn giáo ấy đã lôi cuốn một bộ phận quần chúng
nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hóa tinh thần, tình cảm của họ.
  Trên đây là những nguyên nhân cơ bản khiến tôn giáo vẫn còn tồn tại trong tiến
trình xây dựng CNXH và trong xã hội XHCN. Tuy nhiên, cùng với tiến trình đó,
tôn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự thay đổi của những điều kiện kinh
tế-xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.
Quần chúng nhân dân có đạo đã thực sự trở thành chủ thể của xã hội, đời sống vật
chất, tinh thần ngày càng được nâng cao. Trên cơ sơ đó, họ dần dần giải thoát khỏi
tình trạng mê tín, dị đoan, xây dựng đời sống tinh thần lành mạnh.
Các tổ chức tôn giáo không còn là công cụ của bất cứ thế lực nào muốn mưu toan
lợi dụng để áp bức, bóc lột quần chúng nhân dân như trong các xã hội trước đây.
Nhà nước XHCN hướng các tổ chức giáo hội vào quỹ đạo chuyên lo việc đạo cho
tín đồ, tham gia tích cực vào các công tác xã hội từ thiện; tình trạng xung đột tôn
giáo không còn nữa.
Đông đảo quần chúng nhân dân có tôn giáo ngày càng có điều kiện tham gia đóng
góp vào công cuộc xây dựng đất nước, tinh thần yêu nước XHCN được khơi dậy,
tạo nên sức mạnh cùng toàn dân tộc xây dựng thành công CNXH.
c. Các nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Marx – Lenin trong việc giải quyết
vấn đề tôn giáo
* Tín ngưỡng, tôn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Do đó, những vấn
đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ thể
và chuẩn xác có tính nguyên tắc với những phương thức linh hoạt theo quan điểm
của chủ nghĩa Marx – Lenin.

42
* Giải quyết vấn đề tôn giáo trong tiến trình xây dựng CNXH cần dựa trên những
nguyên tắc sau đây:
– Thứ nhất. khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo trong đời sống
xã hội phải gắn liền với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Đó là yêu
cầu khách quan của sự nghiệp xây dựng CNXH.
– Thứ hai, khi tín ngưỡng, tôn giáo còn là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân
dân thì nhà nước XHCN phải tôn trọng và bao đảm quyền tự do tín ngưỡng và
không tín ngưỡng của mọi công dân. Công dân có tôn giáo hay không có tôn giáo
đều bình đẳng trước pháp luật, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau. Cần phát
huy những giá trị tích cực của tôn giáo, nghiêm cấm mọi hành vi vi phạm quyền tự
do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của công dân.

– Thứ ba, thực hiện đoàn kết những người có tôn giáo với những người không có
tôn giáo, đoàn kết các tôn giáo, đoàn kết những người theo tôn giáo với những
người không theo tôn giáo, đoàn kết toàn dân tộc xây dựn và bảo vệ đất nước.
Nghiêm cấm mọi hành vi chia rẽ cộng đồng vì lý do tín ngưỡng, tôn giáo.

– Thứ tư, phân biệt rõ hai mặt chính trị và tư tưởng trong vấn đề tôn giáo. Mặt tư
tưởng thể hiện sự tín ngưỡng trong tôn giáo. Trong quá trình xây dựng CNXH,
khắc phục mặt này là việc làm thường xuyên, lâu dài. mặt chính trị là sự lợi dụng
tôn giáo của những phần tử phản động nhằm chống lại sự nghiệp cách mạng, sự
nghiệp xây dựng CNXH. Đấu tranh loại bỏ mặt chính trị phản động trong lĩnh vực
tôn giáo là nhiệm vụ thường xuyên, vừa phải khẩn trương, kiên quyết, vừa phải
thận trọng và phải có sách lược phù hợp với thực tế.

– Thứ năm, phải có quan điểm lịch sử – cụ thể khi giải quyết vấn đề tôn giáo.

Trong mỗi thời kỳ lịch sử khác nhau, vai trò và sự tác động của từng tôn giáo đối
với đời sống xã hội cũng khác nhau. Quan điểm, thái độ của các giáo hội, giáo sĩ,
giáo dân về các lĩnh vực, các vấn đề của xã hội có sự khác biệt. Do đó, cần phải có
quan điểm lịch sử – cụ thể khi xem xét, đánh giá và giải quyết những vấn đề liên
quan đến tôn giáo. “người Macxit phải biết chú ý đến toàn bộ tình hình cụ thể”– đó
là điều mà Lênin đã từng nhắc nhở khi giải quyết vấn đề tôn giáo. Nhà nước
XHCN cần phải có quan điểm và phương thức ứng xử phù hợp với từng trường
hợp cụ thể khi giải quyết các vấn đề tôn giáo.

Bạn có thể xem lại toàn bộ câu hỏi và đáp án chi tiết của môn Chủ nghĩa Mac –
Lênin tại: Ngân hàng đề thi môn chủ nghĩa Mac – Lenin

43
 

44

You might also like