You are on page 1of 137

PHÁP LUẬT THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1. TÊN HỌC PHẦN: PHÁP LUẬT THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN


2. SỐ ĐƠN VỊ HỌC TRÌNH: 02 tín chỉ
3. TRÌNH ĐỘ: Chương trình đào tạo cử nhân luật.
4. PHẦN BỔ THỜI GIAN: Phần lý thuyết trên lớp 25 tiết.
Thảo luận, bài tập: 05 tiết.

5. ĐIỀU KIỆN:
Sinh viên đã học xong các môn học các môn học trong khối kiến thức đại cương như: Lý
luận chung về nhà nước và pháp luật, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Hành chính, Luật Doanh
nghiệp, Luật Thương mại.

6. TÓM TẮT NỘI DUNG MÔN HỌC:


Luật Chứng khoán là học phần tự chọn, cung cấp cho sinh viên những vấn đề lý luận
chung về thị trường chứng khoán như: khái niệm, đặc điểm, bản chất, vai trò của chứng khoán,
thị trường chứng khoán, sở giao dịch chứng khoán, công ty chứng khoán, quỹ đầu tư... Trang
bị cho sinh viên những kiến thức pháp lý cơ bản về thị trường chứng khoán, hoạt động chào
bán chứng khoán, địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia trên thị trường, các công cụ lưu thông
trên thị trường và hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán.

7. NHIỆM VỤ CỦA SINH VIÊN:


- Dự giờ giảng lý thuyết: 25 tiết.
- Thảo luận: 05 tiết
- Tự nghiên cứu giáo trình, tài liệu tham khảo và giải quyết các tình huống.
8. TIÊU CHUẨN ĐÁNH GIÁ SINH VIÊN:
Kiểm tra và Thi hết học phần.
9. MỤC TIÊU MÔN HỌC:
- Giới thiệu khái quát về chứng khoán, thị trường chứng khoán hiện nay ở Việt Nam.
- Giới thiệu những kiến thức pháp lý liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
- Cung cấp cho sinh viên kiến thức pháp luật cơ bản nhất để vận dụng trong thực tiễn giải
quyết các tình huống pháp lý liên quan đến thị trường chứng khoán.
10. VĂN BẢN PHÁP LUẬT
- Luật Chứng khoán 2019
- Nghị định 155/2020/NĐ-CP hướng dẫn Luật Chứng khoán
- Nghị định 153/2020/NĐ-CP quy định về chào bán, giao dịch trái phiếu doanh nghiệp riêng
lẻ tại thị trường trong nước và chào bán trái phiếu doanh nghiệp ra thị trường quốc tế
- Nghị định 156/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng
khoán và thị trường chứng khoán
- Nghị định 158/2020/NĐ-CP về chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh
- Thông tư 117/2020/TT-BTC quy định về phương pháp tính khoản thu trái pháp luật, số lợi
bất hợp pháp có được do thực hiện hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán

1
- Thông tư 118/2020/TT-BTC hướng dẫn nội dung về chào bán, phát hành chứng khoán, chào
mua công khai, mua lại cổ phiếu, đăng ký công ty đại chúng và hủy tư cách công ty đại
chúng
- Thông tư 119/2020/TT-BTC quy định về hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán
giao dịch chứng khoán
- Thông tư 120/2020/TT-BTC quy định về giao dịch cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch và
chứng chỉ quỹ, trái phiếu doanh nghiệp, chứng quyền có bảo đảm niêm yết trên hệ thống
giao dịch chứng khoán
- Thông tư 121/2020/TT-BTC quy định về hoạt động của công ty chứng khoán
- Thông tư 95/2020/TT-BTC hướng dẫn về giám sát giao dịch chứng khoán trên thị trường
chứng khoán
- Thông tư 96/2020/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán
- Thông tư 97/2020/TT-BTC về hướng dẫn hoạt động của văn phòng đại diện, chi nhánh công
ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam
- Thông tư 98/2020/TT-BTC hướng dẫn về hoạt động và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
- Thông tư 99/2020/TT-BTC hướng dẫn về hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán
- Văn bản hợp nhất 47/VBHN-BTC năm 2019 hợp nhất Thông tư hướng dẫn công tác giám
sát tuân thủ của Ủy ban chứng khoán Nhà nước đối với hoạt động trong lĩnh vực chứng
khoán của Sở giao dịch chứng khoán, Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam

2
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHỨNG KHOÁN, THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1. Những vấn đề chung về chứng khoán

1.1 Khái niệm chứng khoán

Chứng khoán và thị trường chứng khoán đã xuất hiện trên thế giới từ giữa thế kỷ XV.
Ở Việt Nam, công trái đã được phát hành trong thời kỳ Pháp thuộc. Chính phủ Việt Nam không
chỉ phát hành công trái mà còn cả trái phiếu nhằm huy động vốn với mục đích sử dụng khác
nhau. Đặc biệt từ khi có Luật Công ty (năm 1990) thì ở Việt Nam các loại chứng khoán đã xuất
hiện phong phú hơn.

Thị trường chứng khoán là một loại thị trường vốn trung và dài hạn và là bộ phận của
thị trường tài chính, nơi trao đổi mua bán các loại cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ và các
loại chứng khoán phái sinh, đây là kênh huy động vốn quan trọng đối với các doanh nghiệp
trong nền kinh tế thông qua hoạt động phát hành chứng khoán. Đối tượng giao dịch trên thị
trường chứng khoán có những đặc thù nhất định so với các loại giấy tờ có giá khác, chứng
khoán cho phép người sở hữu được thực hiện những quyền nhất định như quyền được dự họp
Đại hội đồng cổ đông, quyền tham gia biểu quyết... Trong những trường hợp cần thiết, nhà đầu
tư có thể đổi hàng hóa và/hoặc tiền ra chứng khoán nếu họ cho rằng chứng khoán sẽ có giá trị
hơn hàng hóa và tiền.

Theo quy định pháp luật của một số quốc gia trên thế giới và các công trình nghiên cứu
cho thấy: Chứng khoán là giấy tờ có giá ghi rõ quyền tài sản thể hiện quyền chủ nợ và quyền
sở hữu; trên cơ sở xác nhận đó có thể thực hiện việc chuyển nhượng hoặc thực hiện các quyền
khác đối với chứng khoán. Trên phương diện tài chính, chứng khoán là tài sản đặc biệt, cho
phép người sở hữu chứng khoán các quyền tài sản. Người sở hữu chứng khoán có quyền tự do
sở hữu và chuyển nhượng chứng khoán (trừ loại chứng khoán hạn chế chuyển nhượng)1.

Theo quy định của Luật Chứng khoán năm 2019 thì Chứng khoán là tài sản, bao gồm
các loại sau đây: cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm,
quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu ký; chứng khoán phái sinh và các loại chứng khoán khác do
Chính phủ quy định.

So với tiền mặt, chứng khoán có một số lợi ích thiết thực như:

- Có thể chuyển nhượng thông qua hoạt động mua bán chứng khoán trên thị trường
chứng khoán

- Chứng khoán vừa là giấy tờ có giá trị, vừa là chứng cứ để bảo vệ các quyền và lợi
ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán;

1
Ví dụ: Cổ phiếu hạn chế là loại cố phiếu được nắm giữ bởi các cổ đông trong nội bộ công ty (Insider holdings)-
những thành viên có quyền quản lý công ty và quyền mua bán chuyển nhượng loại cổ phiếu này bị hạn chế. Loại
cổ phiếu này chỉ được phép giao dịch dưới sự cho phép và theo quy định của Luật Chứng khoán ở mỗi nước (ví
dụ Đạo luật Chứng khoán - SEC ở Mỹ năm 1933).

3
Việc phát hành chứng khoán làm gia tăng tinh thần trách nhiệm đối với doanh nghiệp
và củng cố đoàn kết trong doanh nghiệp vì người sở hữu cổ phiếu chính là chủ sở hữu công ty.

Từ những phân tích trên, chúng ta có thể hiểu: "Chứng khoán là giấy tờ có giá, xác nhận
các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của tổ
chức phát hành”.

1.2 Đặc điểm của chứng khoán

- Chứng khoán xác nhận quyền sở hữu tài sản nhất định và nó có thể được chuyển nhượng
từ chủ thể này sang chủ thể khác.

- Khi sử dụng hoặc chuyển nhượng chứng khoán cũng đồng nghĩa với việc cho phép sử
dụng hoặc chuyển nhượng các quyền được ghi nhận trong chứng khoán.

- Mệnh giá của chứng khoán (đối với phần lớn các loại chứng khoán) chỉ là giá trị danh
nghĩa, còn giá trị thực tế của nó phụ thuộc vào tình hình hoạt động kinh doanh, uy tín
của tổ chức phát hành, tình hình cung cầu chứng khoán và sự phát triển của nền kinh tế.

- Chứng khoán có khả năng sinh lời. Đây là cơ sở thu hút các nhà đầu tư, là đặc trưng rất
quan trọng của chứng khoán.

- Chứng khoán có tính thanh khoản. Đặc tính này nhằm đảm bảo tính ổn định của các loại
chứng khoán, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, tránh nguy cơ biến động lớn trên thị trường.

- Chứng khoán có tính rủi ro. Giá trị các loại chứng khoán chịu tác động của nhiều yếu tố
như lạm phát, tỷ giá, lãi suất, tình hình tài chính và hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp và chính sự thay đổi của pháp luật cũng là nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng
đến sự biến đổi giá trị của các loại chứng khoán.

Các đặc điểm trên có mối quan hệ biện chứng với nhau. Tính rủi ro của chứng khoán
làm hạn chế sự tham gia của các nhà đầu tư, song tính thanh khoản và khả năng mang lại lợi
nhuận cao là sức hút hấp dẫn với họ.

1.3 Phân loại chứng khoán

Theo tiêu chí chủ thể phát hành: chứng khoán của nhà nước; chứng khoán của doanh
nghiệp

Theo tiêu chí trách nhiệm trả nợ của người phát hành đối với người sở hữu chứng
khoán: chứng khoán vốn; chứng khoán nợ

Theo tiêu chí niêm yết chứng khoán trên thị trường: chứng khoán được niêm yết; chứng
khoán không được niêm yết

Theo tiêu chí lãi suất: chứng khoán có lãi suất cố định; chứng khoán có lãi suất thay
đổi.

Hiện nay, theo pháp luật Việt Nam, chứng khoán bao gồm: cổ phiếu, trái phiếu, chứng
chỉ quỹ; chứng quyền, chứng quyền có bảo đảm, quyền mua cổ phần, chứng chỉ lưu ký; chứng
khoán phái sinh và các loại chứng khoán khác do Chính phủ quy định.

4
Cổ phiếu là loại chứng khoán xuất hiện sớm trong lịch sử phát triển thị trường chứng
khoán, ra đời cùng với sự xuất hiện của công ty cổ phần. Cổ phiếu là công cụ rất quan trọng
nhằm huy động vốn cho công ty cổ phần, do công ty cổ phần phát hành xác nhận quyền và lợi
ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Cổ phiếu
có thể được phát hành dưới dạng chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử. Cổ phiếu có
một số đặc trưng sau:

- Cổ phiếu là giấy chứng nhận sự góp vốn vào công ty cổ phần.

- Cổ phiếu không có kỳ hạn, nó tồn tại cùng với sự tồn tại của công ty phát hành.

- Người mua cổ phiếu được quyền chuyển nhượng cổ phiếu (trừ một số trường hợp nhất
định).

- Người mua cổ phiếu được quyền chia tài sản còn lại của công ty khi công ty bị phá sản.

- Người mua cổ phiếu (sở hữu cổ phiếu) được quyền tham gia quản lý, biểu quyết các vấn
đề của công ty trong những trường hợp nhất định theo quy định của pháp luật và Điều
lệ công ty.

Căn cứ vào mức độ rủi ro và tính chất của các quyền, lợi ích hợp pháp mà cổ phiếu
mang lại cho cổ đông, cổ phiếu có thể được chia làm 2 loại: cổ phiếu thường, cổ phiếu ưu đãi.
Các loại cổ phiếu ưu đãi bao gồm: cổ phiếu ưu đãi biểu quyết, cổ phiếu ưu đãi cổ tức, cổ phiếu
ưu đãi hoàn lại và cổ phiếu ưu đãi khác do điều lệ công ty quy định. Sự đa dạng về các hình
thức cổ phiếu tạo nên sự linh hoạt trong việc lựa chọn đối tượng kinh doanh cho các nhà đầu
tư, phù hợp với khả năng và điều kiện của họ và hạn chế tối đa rủi ro có thể xảy ra trên thị
trường chứng khoán.

Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu
đối với một phần nợ của tổ chức phát hành. Chủ sở hữu trái phiếu cho vay bằng cách mua trái
phiếu, có quyền giữ lại hoặc bán đi bất cứ lúc nào mà không phải chờ tới khi đáo hạn. So với
các hình thức vay nợ khác, vay nợ dưới hình thức phát hành trái phiếu cho phép chủ sở hữu trái
phiếu có khả năng trao đổi, chuyển nhượng trái phiếu. Còn trong trường hợp khi ngân hàng cho
vay một khoản tiền thì ngân hàng phải ghi vào trong sổ sách và lưu giữ cho tới khi khoản nợ đó
được thanh toán. Trái phiếu có các đặc trưng sau:

- Trái phiếu thông thường chứa đựng 3 yếu tố chính: Mệnh giá; Lãi suất cố định; Thời
hạn.

- Trái phiếu thể hiện mối quan hệ chủ nợ giữa nhà đầu tư và chủ thể phát hành.

- Lãi suất của trái phiếu thường ổn định.

Nếu dựa vào chủ thể phát hành thì trái phiếu được phân loại thành: trái phiếu Chính phủ
và trái phiếu Chính quyền địa phương; trái phiếu doanh nghiệp.

Hiện nay ở Việt Nam trái phiếu Chính phủ được phát hành nhằm mục đích vừa huy
động vốn cho Ngân sách Nhà nước, vừa tạo hàng hóa cho thị trường chứng khoán. Song do
mức lãi suất thấp nên chưa thu hút nhà đầu tư. Trong khi đó, trái phiếu doanh nghiệp có tính

5
thanh khoản cao hơn và nhà đầu tư có thể thu hồi vốn và gốc khi đến hạn nếu doanh nghiệp
không lâm vào tình trạng phá sản.

Trái phiếu doanh nghiệp thường chứa đựng yếu tố rủi ro cao; tuy nhiên, lãi suất lại lớn
hơn trái phiếu Chính phủ. Trái phiếu doanh nghiệp có 2 loại là trái phiếu phổ thông và trái phiếu
chuyển đổi. Trong đó, trái phiếu chuyển đổi cho phép người sở hữu có quyền chuyển đổi thành
cổ phiếu thường theo những tiêu chuẩn, điều kiện nhất định.

Như vậy, trái phiếu không chỉ là công cụ huy động vốn thích hợp bổ sung vốn cho Ngân
sách Nhà nước mà còn giải quyết nhu cầu vốn cho các doanh nghiệp. Sự tồn tại của trái phiếu
tạo sự đa dạng cho hàng hóa giao dịch trên thị trường chứng khoán.

Chứng chỉ quỹ do công ty quản lý quỹ phát hành, là loại chứng khoán xác nhận quyền
sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đầu tư chứng khoán. Quỹ đầu tư chứng
khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư với mục đích thu lợi nhuận từ việc đầu tư
vào chứng khoán hoặc vào các tài sản khác, kể cả bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có
quyền kiểm soát hằng ngày đối với việc ra quyết định đầu tư của quỹ. Người sở hữu chứng chỉ
quỹ đầu tư được hưởng cổ tức phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của quỹ.

Các loại chứng khoán khác. Bên cạnh các loại chứng khoán nêu trên, theo quy định
của Luật Chứng khoán 2019, còn có các chứng từ tài chính có nguồn gốc từ chứng khoán.

Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu
hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng quyền được quyền mua một số cổ phiếu
phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong khoảng thời gian xác định.

Chứng quyền có bảo đảm là loại chứng khoán có tài sản bảo đảm do công ty chứng khoán
phát hành, cho phép người sở hữu được quyền mua (chứng quyền mua) hoặc được quyền bán
(chứng quyền bán) chứng khoán cơ sở với tổ chức phát hành chứng quyền có bảo đảm đó theo mức
giá đã được xác định trước, tại một thời điểm hoặc trước một thời điểm đã được ấn định hoặc nhận
khoản tiền chênh lệch giữa giá thực hiện và giá chứng khoán cơ sở tại thời điểm thực hiện.

Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành nhằm mang lại
cho cổ đông hiện hữu quyền được mua cổ phần mới theo điều kiện đã được xác định.

Chứng chỉ lưu ký là loại chứng khoán được phát hành trên cơ sở chứng khoán của tổ
chức được thành lập và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam.

Chứng khoán phái sinh là công cụ tài chính dưới dạng hợp đồng, bao gồm hợp đồng
quyền chọn, hợp đồng tương lai, hợp đồng kỳ hạn, trong đó xác nhận quyền, nghĩa vụ của các
bên đối với việc thanh toán tiền, chuyển giao số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã
được xác định trong khoảng thời gian hoặc vào ngày đã xác định trong tương lai.

Hợp đồng quyền chọn là loại chứng khoán phái sinh, xác nhận quyền của người mua và
nghĩa vụ của người bán để thực hiện một trong các giao dịch sau đây: mua hoặc bán số lượng
tài sản cơ sở nhất định theo mức giá thực hiện đã được xác định tại thời điểm trước hoặc vào
ngày đã xác định trong tương lai; thanh toán khoản chênh lệch giữa giá trị tài sản cơ sở đã được
xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng và giá trị tài sản cơ sở tại thời điểm trước hoặc vào
ngày đã xác định trong tương lai.
6
Hợp đồng tương lai là loại chứng khoán phái sinh niêm yết, xác nhận cam kết giữa các
bên để thực hiện một trong các giao dịch sau đây: mua hoặc bán số lượng tài sản cơ sở nhất
định theo mức giá đã được xác định vào ngày đã xác định trong tương lai; thanh toán khoản
chênh lệch giữa giá trị tài sản cơ sở đã được xác định tại thời điểm giao kết hợp đồng và giá trị
tài sản cơ sở vào ngày đã xác định trong tương lai.

Hợp đồng kỳ hạn là loại chứng khoán phái sinh giao dịch thỏa thuận, xác nhận cam kết
giữa các bên về việc mua hoặc bán số lượng tài sản cơ sở nhất định theo mức giá đã được xác
định vào ngày đã xác định trong tương lai.

Chính sự đa dạng của các loại chứng khoán đã tạo ra sự vận hành linh hoạt của thị
trường chứng khoán, nhằm đảm bảo phát huy các thế mạnh của thị trường chứng khoán và hạn
chế các rủi ro; tạo tâm lý tin tưởng cho các nhà đầu tư đối với thị trường và kích thích thị trường
chứng khoán vận hành một cách nhịp nhàng, tạo kênh huy động vốn hữu hiệu cho các chủ thể
cần vốn.

2. Tổng quan về thị trường chứng khoán

2.1 Khái niệm, đặc điểm thị trường chứng khoán

2.1.1. Khái niệm thị trường chứng khoán

Theo quy định pháp luật Việt Nam hiện hành thì không có khái niệm thị trường chứng
khoán, chỉ có khái niệm thị trường giao dịch chứng khoán. Thị trường giao dịch chứng khoán
là địa điểm hoặc hình thức trao đổi thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng
khoán2.

Thị trường hàng hoá nói chung được định nghĩa là nơi người bán và người mua gặp gỡ,
trao đổi, mua bán hàng hóa và giá cả hình thành theo quy luật cung cầu. Vậy chúng ta có thể
hiểu: Thị trường chứng khoán là một loại thị trường vốn trung và dài hạn, nơi diễn ra các hoạt
động phát hành, trao đổi, mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán nhằm mục đích lợi nhuận.

2.1.2 Đặc điểm của thị trường chứng khoán

Thứ nhất, đối tượng giao dịch trên thị trường là chứng khoán. Hàng hóa này rất khó xác
định giá trị và giá cả phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như quy luật cung cầu về chứng
khoán, tình hình kinh doanh của tổ chức phát hành. Đối tượng giao dịch có thể là cổ phiếu, trái
phiếu và các công cụ có nguồn gốc chứng khoán; trong đó, cổ phiếu và trái phiếu là các chứng
khoán tồn tại lâu đời nhất. Ngày nay, ngoài cổ phiếu và trái phiếu là loại chứng khoán chủ yếu,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường xuất hiện nhiều công cụ phái sinh từ chứng
khoán như: chứng quyền, hợp đồng tương lai, hợp đồng quyền chọn... Các loại chứng khoán có
thể mua và bán không hạn chế về số lần giao dịch.

Thứ hai, các giao dịch chứng khoán diễn ra trên thị trường chứng khoán phải có sự tham
gia của các trung gian tài chính làm môi giới (đối với thị trường chứng khoán tập trung). Các
công ty chứng khoán (CTCK) là thành viên của thị trường chứng khoán tập trung, hoạt động

2
Khoản 27 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019

7
dựa trên giấy phép do Ủy ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) cấp. Sự tham gia bắt buộc
của các chủ thể này phần nào hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư khi tham gia thị trường.

Thứ ba, thị trường chứng khoán là một thiết chế phức tạp, hết sức nhạy cảm, tiềm ẩn rủi
ro lớn, với những quy luật chi phối khắc nghiệt, sâu sắc và ảnh hưởng toàn diện đối với tình
hình kinh tế, chính trị, xã hội của mỗi quốc gia. Tuỳ thuộc vào trình độ phát triển của nền kinh
tế, thị trường của mỗi nước mà thị trường chứng khoán có tác động, ảnh hưởng khác nhau đến
thị trường chứng khoán quốc tế.

Thứ tư, thị trường chứng khoán có sự tham gia của đa dạng các loại chủ thể khác nhau.
Vì vậy, trong các nguyên tắc hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán có nguyên
tắc bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó, để thị
trường chứng khoán vận hành có hiệu quả, Nhà nước đã thành lập cơ quan quản lý chuyên
ngành đối với lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán (Ví dụ: ở Việt Nam là
UBCKNN, ở Mỹ là Ủy ban chứng khoán Mỹ, ở Trung Quốc là Ủy ban giám quản chứng khoán).
Nhà nước thường áp dụng các biện pháp thể hiện sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động
trên thị trường này như hoạt động cấp phép, thu hồi giấy phép kinh doanh chứng khoán cho các
CTCK, công ty đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ; hoạt động thanh tra, kiểm tra và xử
lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán...

Thứ năm, pháp luật điều chỉnh các quan hệ phát sinh trên thị trường chứng khoán bao
gồm các quy định pháp luật chuyên ngành trong lĩnh vực chứng khoán như Luật Chứng khoán,
các văn bản hướng dẫn thi hành Luật này và các quy định pháp luật chung như Luật Doanh
nghiệp, Luật Đầu tư, Bộ luật Dân sự... Đặc biệt, điều đáng nói là pháp luật về chứng khoán và
thị trường chứng khoán trong giai đoạn hiện nay chủ yếu bao gồm các quy phạm mang tính trao
quyền, tạo điều kiện để đảm bảo quyền tự do kinh doanh của người dân trong khuôn khổ pháp
luật, thể hiện xu hướng tự do hóa tài chính trong bối cảnh nền kinh tế hội nhập toàn cầu.

Thứ sáu, thị trường chứng khoán là nơi thể hiện rõ nét nhất các quy luật của nền kinh tế
thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu, quy luật giá trị. Giá trị chứng khoán hình
thành dựa trên cung cầu chứng khoán, các chủ thể kinh doanh chứng khoán hoạt động theo quy
luật cạnh tranh. Ngoài ra, pháp luật cũng đặt ra các điều kiện tương đối chặt chẽ để đảm bảo
cho các trung gian tài chính trên thị trường chứng khoán thành lập và hoạt động hiệu quả như
điều kiện về vốn pháp định, cơ sở vật chất, nhân sự, công nghệ, các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong
kinh doanh.

Thị trường chứng khoán hoạt động dựa trên các nguyên tắc nhất định như: Tôn trọng
quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trong hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng
khoán; quyền tự do giao dịch, đầu tư, kinh doanh và cung cấp dịch vụ về chứng khoán của tổ
chức, cá nhân; Công bằng, công khai, minh bạch; Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư; Tự chịu trách nhiệm về rủi ro3.

Trong quá trình phát triển thị trường chứng khoán ở các nước, thị trường chứng khoán
tồn tại dưới hai hình thức: thị trường có tổ chức và thị trường phi tổ chức.

3
Điều 5 Luật Chứng khoán 2019.

8
Hình thái điển hình của thị trường chứng khoán có tổ chức là Sở Giao dịch chứng khoán
(SGDCK). Mọi việc mua, bán, chuyển nhượng, trao đổi chứng khoán phải tiến hành tại sở thông
qua các thành viên của Sở giao dịch theo Quy chế của SGDCK. SGDCK có thể là tổ chức thuộc
sở hữu nhà nước, là doanh nghiệp được thành lập dưới dạng công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn và đều có tư cách pháp nhân.

Thị trường chứng khoán phi tổ chức là một thị trường không có hình thái tổ chức tồn
tại, nó có thể là bất cứ nơi nào mà tại đó người mua và người bán thực hiện giao dịch chứng
khoán. Thị trường hình thành như thế gọi là thị trường giao dịch qua quầy (Over the counter:
OTC).

2.2 Vai trò và chức năng của thị trường chứng khoán

2.2.1 Vai trò của thị trường chứng khoán

Thứ nhất, thị trường chứng khoán là kênh huy động vốn trung và dài hạn. Thị trường
chứng khoán ra đời là nơi thu hút mạnh mẽ các nguồn vốn nhàn rỗi vào đầu tư sản xuất, kinh
doanh, thu hút vốn đầu tư nước ngoài tạo thành nguồn vốn khổng lồ tài trợ cho nền kinh tế mà
các thị trường khác không làm được hoặc làm nhưng không hiệu quả. Thị trường chứng khoán
tạo cơ hội cho các doanh nghiệp huy động vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, thu nhiều lợi
nhuận. Thông qua các công cụ cổ phiếu, trái phiếu, các loại chứng khoán khác, thị trường chứng
khoán cho phép các doanh nghiệp, các tổ chức tài chính, tín dụng, Chính phủ, chính quyền địa
phương huy động tối đa nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội, đưa vào đầu tư phát triển. Thị trường
chứng khoán một mặt tạo cơ hội cho các doanh nghiệp lựa chọn hình thức huy động vốn không
chỉ phụ thuộc vào hệ thống các ngân hàng thương mại với những điều kiện về bảo đảm tín dụng;
mặt khác, còn giúp cho Chính phủ và các doanh nghiệp huy động được nguồn vốn dài hạn tối
đa, trực tiếp từ công chúng cho mục tiêu phát triển kinh tế và phát triển sản xuất.

Thứ hai, thị trường chứng khoán khuyến khích người dân tiết kiệm để đầu tư vào sản
xuất, kinh doanh và tạo sự luân chuyển vốn nhịp nhàng trong nền kinh tế. Với việc mua bán
chứng khoán một cách dễ dàng trên thị trường chứng khoán, nguồn tiền tạm thời nhàn rỗi trong
dân cư được sử dụng một cách linh hoạt hơn, tạo ra lợi nhuận. Thị trường chứng khoán được
xem là cầu nối vô hình giữa người có vốn và người cần vốn. Thị trường chứng khoán là kênh
điều hòa các nguốn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn, giải quyết linh hoạt nhu cầu về vốn giữa
các chủ thể, giữa các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế. Thị trường chứng khoán tạo điều
kiện cho doanh nghiệp sử dụng vốn hiệu quả, đồng thời là công cụ để Nhà nước thực hiện chính
sách phát triển kinh tế - xã hội. Thị trường chứng khoán kích thích các doanh nghiệp kinh doanh
hiệu quả. Nhà đầu tư có nhu cầu mua chứng khoán của các công ty làm ăn có lãi. Thị trường
chứng khoán buộc các doanh nghiệp phải công khai thông tin về báo cáo tài chính, kết quả hoạt
động kinh doanh, quản trị doanh nghiệp. Qua đó, nhà đầu tư có cơ hội đánh giá khả năng kinh
doanh của các doanh nghiệp để lựa chọn đầu tư. Vì vậy, muốn tồn tại được không có cách nào
khác là doanh nghiệp phải làm sao để sử dụng vốn có hiệu quả nhất. Đối với Nhà nước, thị
trường chứng khoán là một công cụ để Nhà nước thực hiện các chính sách, chương trình phát
triển kinh tế - xã hội của mình. Thông qua thị trường chứng khoán, Nhà nước huy động vốn
trong xã hội để thực hiện đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển kinh tế - xã hội. Đồng
thời, qua thị trường chứng khoán, Nhà nước kiểm soát một phần lượng tiền tệ trong lưu thông

9
và phần nào có tác dụng kiềm chế lạm phát, khuyến khích đầu tư, thực hiện chính sách phát
triển kinh tế xã hội của mình. Những công trình cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội, tư
nhân không làm được hoặc không làm, trong điều kiện bội chi ngân sách thì có thể thực hiện
được bằng cách phát hành trái phiếu có mục đích của Nhà nước (trái phiếu Chính phủ và trái
phiếu chính quyền địa phương).

Thứ ba, thị trường chứng khoán là công cụ đánh giá doanh nghiệp và phản ánh sự tăng
trưởng của nền kinh tế. Thông qua giá chứng khoán của doanh nghiệp trên thị trường chứng
khoán, nhà đầu tư biết được khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Trị giá chứng khoán cao
biểu hiện doanh nghiệp đó kinh doanh hiệu quả và thu hút được nhà đầu tư. Ngược lại, giá
chứng khoán trên thị trường thấp hơn mệnh giá chứng tỏ hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp không tốt, nếu doanh nghiệp không có biện pháp, chính sách kinh doanh tốt thì có thể
bị phá sán. Triển vọng tương lai của các doanh nghiệp cũng được thể hiện một cách trực tiếp
thông qua giá chứng khoán trên thị trường và sự diễn biến quá trình biến động giá chứng khoán
của công ty.

Nhìn chung, thị trường chứng khoán có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền sản
xuất hàng hoá phát triển, điều hoà vốn và tạo kênh huy động vốn hữu hiệu cho Nhà nước và
các doanh nghiệp, khuyến khích sử dụng vốn có hiệu quả và là công cụ để Nhà nước thực hiện
chính sách tài chính, tiền tệ.

2.2.2 Chức năng của thị trường chứng khoán

- Chức năng kinh doanh: việc giao dịch, mua bán chứng khoán trên thị trường chứng
khoán có thể đem lại một khoản lợi nhuận nhất định.

- Chức năng định giá: thị trường chứng khoán bảo đảm quá trình hình thành giá cả và
sự vận động thường xuyên của nó. Thị trường chứng khoán bảo đảm cho các loại chứng khoán
được phép lưu hành có giá cả hình thành theo quy luật cung - cầu giống như các loại hàng hóa
khác.

- Chức năng cung cấp thông tin: thị trường chứng khoán đảm bảo việc công bố thông
tin liên quan đến hoạt động giao dịch trên thị trường này một cách chính xác, kịp thời. Thông
tin thị trường có thể là giá chào mua, giá chào bán, số lượng lệnh và khối lượng của mỗi lệnh,
các thông tin ảnh hưởng đến giá chứng khoán của các công ty có chứng khoán niêm yết và tác
động đến nhà đầu tư... Mục đích của việc công bố thông tin là để đảm bảo tính công khai và
minh bạch của thị trường. Tất cả các nhà đầu tư nhất thiết đều phải được tiếp cận thông tin một
cách công bằng, nhanh chóng và chính xác.

- Chức năng phân phối lại: Thị trường chứng khoán thực hiện việc phân phối lại nguồn
vốn tài nguyên giữa các ngành và các lĩnh vực hoạt động khác nhau, giữa các tầng lớp dân cư
trong xã hội. Thị trường chứng khoán có vai trò to lớn trong việc thu hút các nguồn vốn tiết
kiệm để đầu tư dài hạn vào những nơi có hiệu quả nhất thông qua các công cụ tài chính là cổ
phiếu, trái phiếu, các chứng khoán phái sinh; là công cụ để Nhà nước thực hiện việc kiểm soát
đầu tư nước ngoài vào thị trường trong nước; là động lực thúc đẩy tiến trình đổi mới cơ cấu
doanh nghiệp thông qua chính sách cổ phần hoá; tạo điều kiện luân chuyển vốn đầu tư từ doanh
nghiệp này sang doanh nghiệp khác và thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn minh bạch hơn.

10
- Chức năng bảo hiểm rủi ro về giá cả và về tài chính: Thị trường chứng khoán là thị
trường được bảo đảm tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư; bởi lẽ, giá cả được
hình thành khách quan theo quy luật cung cầu và chứng khoán được phát hành, giao dịch trên
cơ sở các thỏa thuận được xác lập khi phát hành, giao dịch và niêm yết chứng khoán. Các nguồn
vốn, tài chính của nhà đầu tư vì thế được hình thành, mua bán, chuyển nhượng một cách khách
quan, đảm bảo quyền tự do ý chí của nhà đầu tư trong các giao dịch trên thị trường chứng khoán.

2.3 Phân loại thị trường chứng khoán

Việc phân loại thị trường chứng khoán có ý nghĩa quan trọng trong việc lựa chọn hình
thức thị trường cho phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở từng quốc gia.

Căn cứ vào phương thức tổ chức và giao dịch, thị trường chứng khoán được phân thành
thị trường tập trung và thị trường phi tập trung.

Thị trường chứng khoán tập trung là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng
khoán được thực hiện tại một điểm tập trung gọi là sàn giao dịch của SGDCK. Thị trường này
hoạt động theo quy định của pháp luật, thời gian biểu của việc giao dịch được quy định rõ.
SGDCK là thị trường có tổ chức, nơi chứng khoán được mua bán thông qua các thành viên của
Sở giao dịch dưới tư cách là chủ thể môi giới hoặc chính chủ.

Thị trường phi tập trung: thị trường giao dịch qua quầy, thị trường chứng khoán trao
tay.

Thị trường giao dịch qua quầy - thị trường OTC là thị trường chứng khoán, trong đó
việc giao dịch không diễn ra tại một địa điểm tập trung mà thông qua hệ thống nối mạng giữa
các thành viên và sự can thiệp của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hạn chế. Trên thị trường
OTC có nhiều loại chứng khoán được giao dịch hơn trên SGDCK. Những chứng khoán được
giao dịch trên thị trường OTC có thể bao gồm cổ phiếu, trái phiếu của các công ty cổ phần, trái
phiếu, công trái của chính quyền địa phương và Chính phủ; chứng khoán nước ngoài. Thành
viên của thị trường OTC có thể kinh doanh trên một lĩnh vực nhất định của thị trường phi tập
trung hoặc hoạt động trên tất cả các lĩnh vực như bảo lãnh phát hành, môi giới chứng khoán, tự
doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán. Sự khác biệt cơ bản giữa thị trường giao dịch tập trung và
thị trường OTC là ở các điều kiện để chứng khoán tham gia thị trường. Tại thị trường giao dịch
tập trung, các điều kiện để chứng khoán tham gia thị trường chặt chẽ hơn so với thị trường
OTC.

Thị trường chứng khoán trao tay là thị trường hoạt động mua bán tự do, phân tán không
giống như thị trường giao dịch chứng khoán tập trung và OTC. Thị trường này không thực hiện
giao dịch bằng hệ thống đấu giá của thị trường giao dịch chứng khoán tập trung hoặc hệ thống
máy vi tính (Computer) của OTC mà việc mua bán diễn ra trực tiếp, trao tay giữa những người
mua và người bán chứng khoán. Trên thị trường này, các nhà đầu tư, chủ thể phát hành có thể
trực tiếp mua, bán chứng khoán với nhau và tự thỏa thuận về các điều kiện mua bán. Có thể
nói, thị trường này có tác dụng rất tích cực trong việc huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ các nhà
đầu tư; tuy nhiên, nó cũng tiềm ẩn rủi ro lớn do việc khó xác định được chất lượng cũng như
giá cả của các chứng khoán trên thị trường này.

11
Căn cứ vào tính chất luân chuyển vốn trên thị trường chứng khoán, thị trường chứng
khoán được phân thành: thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp

Thị trường sơ cấp là thị trường diễn ra hoạt động phát hành và mua bán các loại chứng
khoán mới được phát hành và chào bán. Thị trường sơ cấp có một số đặc điểm sau:

- Thị trường sơ cấp là nơi duy nhất mà các chứng khoán đem lại vốn cho tổ chức phát
hành.
- Những người bán trên thị trường sơ cấp thường là Kho bạc Nhà nước, Ngân hàng Nhà
nước, công ty phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành chứng khoán.
- Giá chứng khoán trên thị trường sơ cấp do tổ chức phát hành quyết định.

Trên thị trường sơ cấp, việc phát hành lần đầu các chứng khoán đưa vào lưu thông thực
chất là giai đoạn huy động vốn cho các chủ thể phát hành. Đây là giai đoạn phức tạp nhất, đòi
hỏi phải có những quy định pháp lý chặt chẽ để đảm bảo chất lượng chứng khoán phát hành.
Tại thị trường sơ cấp hình thành quan hệ giữa người phát hành và nhà đầu tư bằng cách trực
tiếp bán hoặc thông qua các đại lý phát hành một lượng chứng khoán nhất định; thị trường sơ
cấp tạo được nguồn vốn trung và dài hạn cho các chủ thể phát hành. Quy mô thị trường chứng
khoán sơ cấp phụ thuộc vào sự tham gia của chủ thể phát hành và số lượng chứng khoán được
phát hành. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các chủ thể có thẩm quyền phát hành bao
gồm: Chính phủ, Chính quyền địa phương, các doanh nghiệp là công ty cổ phần, công ty trách
nhiệm hữu hạn, doanh nghiệp Nhà nước, công ty quản lý quỹ và công ty đầu tư chứng khoán.
Mỗi chủ thể có chế độ phát hành khác nhau, theo những phương thức nhất định. Thị trường sơ
cấp tạo ra nguồn hàng hóa hết sức quan trọng cho thị trường chứng khoán thứ cấp.

Thị trường thứ cấp là nơi giao dịch các chứng khoán đã được phát hành trên thị trường
sơ cấp. Thị trường thứ cấp đảm bảo tính thanh khoản cho chứng khoán đã phát hành. Trên thị
trường thứ cấp các khoản tiền thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về các nhà đầu tư và các
nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về nhà phát hành. Khác với giá chứng khoán
trên thị trường sơ cấp thường do nhà phát hành quyết định và thường thể hiện trên chứng khoán,
giao dịch trên thị trường thứ cấp phản ánh nguyên tắc cạnh tranh tự do và bình đẳng, giá chứng
khoán trên thị trường thứ cấp do cung và cầu chứng khoán quy định.

Thị trường thứ cấp là thị trường hoạt động liên tục, các nhà đầu tư có thể mua và bán
các chứng khoán nhiều lần. Do vậy, thị trường thứ cấp tạo tính thanh khoản cho chứng khoán,
mang lại lợi nhuận cho nhà đầu tư và chủ thể kinh doanh chứng khoán. Vì vậy, việc mua bán
các chứng khoán đã biến khoản đầu tư dài hạn thành khoản đầu tư ngắn hạn và là quá trình
chuyển rủi ro từ chủ thể này sang chủ thể khác.

Thị trường thứ cấp có một số đặc điểm sau:

- Là thị trường cạnh tranh tự do, các nhà đầu tư và các công ty kinh doanh chứng khoán
được tự do tham gia vào thị trường.
- Là thị trường hoạt động liên tục (trong khi thị trường sơ cấp chỉ xuất hiện khi các chứng
khoán được phát hành).

12
- Các nhà đầu tư tham gia trên thị trường thứ cấp bao gồm các nhà đầu tư cá nhân và
doanh nghiệp thông thường (không chuyên nghiệp) và các nhà đầu tư chuyên nghiệp
(các định chế tài chính).
- Các công ty thực hiện nghiệp vụ môi giới và tự doanh chứng khoán là cầu nối giữa
những người đầu tư trên thị trường thứ cấp.

Thị trường thứ cấp là một bộ phận quan trọng của thị trường chứng khoán và gắn bó
chặt chẽ với thị trường sơ cấp, tạo đà cho thị trường sơ cấp phát triển. Nếu không có thị trường
sơ cấp thì sẽ không có chứng khoán để lưu thông trên thị trường thứ cấp; nếu không có thị
trường thứ cấp thì thị trường sơ cấp sẽ khó hoạt động hiệu quả

2.4 Các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

Thị trường chứng khoán là thị trường có sự tham gia của các chủ thể khác nhau, bao
gồm: tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết chứng khoán, nhà đầu tư, các tổ chức kinh doanh
chứng khoán, SGDCK và các chủ thể hỗ trợ cho các hoạt động mua bán, giao dịch chứng khoán,
cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Hiệp hội các nhà đầu tư,
kinh doanh chứng khoán. Giữa các chủ thể tham gia thị trường có mối liên hệ nhất định. Đặc
biệt, cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán - UBCKNN có trách
nhiệm quản lý toàn bộ các hoạt động trên thị trường chứng khoán, vì vậy hoạt động của các chủ
thể trên thị trường chịu sự chi phối bởi ủy ban, từ vấn đề thành lập, cấp giấy phép hoạt động,
các chứng chỉ hành nghề chứng khoán đến việc xử lý các hành vi vi phạm trên thị trường chứng
khoán

Tổ chức phát hành chứng khoán là tổ chức thực hiện chào bán chứng khoán dưới hình
thức chào bán riêng lẻ hoặc chào bán ra công chúng hoặc cả hai hình thức nêu trên4.

Các điều kiện phát hành cổ phiếu và trái phiếu theo pháp luật Việt Nam có nhiều điểm
giống nhau. Sự khác biệt thể hiện ở chỗ đối với phát hành trái phiếu phải có cam kết thực hiện
nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về vấn đề bảo đảm các quyền và lợi ích hợp
pháp của nhà đầu tư và các điều kiện phát hành đã công bố.

Nhà đầu tư chứng khoán: thị trường chứng khoán không thể tồn tại và phát triển nếu
không có sự tham gia của nhà đầu tư chứng khoán. Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân tham gia đầu
tư trên thị trường chứng khoán. Nhà đầu tư chiến lược là nhà đầu tư được Đại hội đồng cổ đông
lựa chọn theo các tiêu chí về năng lực tài chính, trình độ công nghệ và có cam kết hợp tác với
công ty trong thời gian ít nhất 03 năm5. Nhà đầu tư rất đa dạng, có thể là bất kỳ tổ chức, cá nhân
nào nếu có nguyện vọng tham gia thị trường, có nguồn tài chính thỏa mãn các nhu cầu mua bán
chứng khoán và thực hiện các thủ tục mở tài khoản giao dịch, đăng ký mua bán chứng khoán
thì có thể là nhà đầu tư và thu được những khoản lợi nhuận nhất định trên thị trường chứng
khoán. Việc tham gia thị trường thể hiện ở chỗ có thể là hoạt động mua hoặc bán chứng khoán,
chuyển nhượng quyền sở hữu chứng khoán.

4
Khoản 21, Điều 4, Luật Chứng khoán 2019
5
Khoản 16. 17 Điều 4, Luật Chứng khoán 2019

13
Các tổ chức kinh doanh chứng khoán thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự
doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng
khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Thị trường
chứng khoán có sự tham gia của các chủ thể kinh doanh chứng khoán như CTCK, công ty quản
lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán. Công ty đầu tư chứng khoán tham gia thị trường chứng
khoán với tư cách là chủ thể kinh doanh chứng khoán. Bản chất công ty này là quỹ đầu tư chứng
khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần.

Bên cạnh đó, công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp được thành lập theo hình thức công
ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán,
quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Có thể nói, các chủ
thể kinh doanh chứng khoán vì mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận nên nhiều khi hoạt động kinh
doanh của các chủ thể này có thể ảnh hưởng, thậm chí xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp
của nhà đầu tư. Vì vậy, pháp luật có các quy định rất chặt chẽ để bảo vệ quyền lợi của nhà đầu
tư. Đặc biệt, đối với CTCK phải ưu tiên lệnh của khách hàng trước lệnh của công ty, phải quản
lý tách biệt chứng khoán của từng nhà đầu tư, tách biệt tiền và chứng khoán của nhà đầu tư với
tiền và chứng khoán của CTCK. Ngoài ra, công ty phải ký hợp đồng bằng văn bản với khách
hàng khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng; cung cấp đầy đủ, trung thực thông tin cho khách
hàng. Hoạt động này nhằm đảm bảo sự minh bạch trong các giao dịch trên thị trường chứng
khoán và là cơ sở để giải quyết các tranh chấp nếu phát sinh giữa nhà đầu tư và CTCK.

Sở giao dịch chứng khoán (SGDCK): Theo quy định tại Luật Chứng khoán 2006 sửa
đổi, bổ sung 2010, ngoài Sở giao dịch chứng khoán và Trung tâm giao dịch chứng khoán, không
tổ chức, cá nhân nào được phép tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán. Tuy nhiên, theo quy
định tại Luật Chứng khoán năm 2019, không còn đề cập đến Trung tâm giao dịch chứng khoán;
thay vào đó, quy định theo hướng chỉ có Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con
của Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam. Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam là doanh nghiệp
được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, do
Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Hệ thống
giao dịch chứng khoán bao gồm hệ thống giao dịch cho chứng khoán niêm yết và hệ thống giao
dịch cho chứng khoán chưa niêm yết, do Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con
tổ chức, vận hành. Ngoài Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con, không tổ chức,
cá nhân nào được phép tổ chức và vận hành thị trường giao dịch chứng khoán.

Các chủ thể hỗ trợ cho các hoạt động mua bán, giao dịch chứng khoán như Tổng công
ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam, thành viên lưu ký, thành viên bù trừ, quỹ hỗ trợ
thanh toán, quỹ bù trừ.

Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập
và hoạt động theo quy định của Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, do Nhà nước nắm
giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền biểu quyết. Tổng công ty lưu ký và bù
trừ chứng khoán Việt Nam cung cấp dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán;
đăng ký biện pháp bảo đảm đối với chứng khoán đã đăng ký tập trung tại Tổng công ty theo
yêu cầu của khách hàng; cung cấp dịch vụ khác quy định tại Điều lệ Tổng công ty; thực hiện
cấp mã chứng khoán trong nước và mã số định danh chứng khoán quốc tế cho các loại chứng
khoán đăng ký tập trung tại Tổng công ty. Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt
14
Nam thực hiện quản lý chứng khoán riêng biệt cho từng thành viên lưu ký. Theo pháp luật Việt
Nam hiện hành, chứng khoán của công ty đại chúng và chứng khoán của các tổ chức khác niêm
yết, đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch chứng khoán phải được lưu ký tập trung tại Tổng
công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam trước khi thực hiện giao dịch. Thanh toán
chứng khoán được thực hiện trên hệ thống tài khoản lưu ký tại Tổng công ty lưu ký và bù trừ
chứng khoán, thanh toán tiền giao dịch chứng khoán được thực hiện qua ngân hàng thanh toán
và phải tuân thủ nguyên tắc chuyển giao chứng khoán đồng thời với thanh toán tiền.

Thành viên lưu ký, thành viên bù trừ là công ty chứng khoán, ngân hàng thương mại,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp Giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán và được Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán
Việt Nam chấp thuận trở thành thành viên lưu ký hoặc thành viên bù trừ.

Thành viên lưu ký có quyền cung cấp dịch vụ lưu ký và thanh toán giao dịch chứng
khoán cho khách hàng và các quyền khác theo quy định của pháp luật và quy chế của Tổng
công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.

Thành viên bù trừ có các quyền: thực hiện bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán
phái sinh và các chứng khoán khác. Thành viên bù trừ là ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân
hàng nước ngoài chỉ được thực hiện bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán phái sinh cho
chính ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài; yêu cầu nhà đầu tư đóng góp
đầy đủ, kịp thời các khoản ký quỹ giao dịch; sử dụng tài sản ký quỹ của nhà đầu tư để thực hiện
nghĩa vụ ký quỹ với Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam; thực hiện việc đóng
vị thế, thanh lý vị thế bắt buộc đối với các vị thế mở của nhà đầu tư; sử dụng tài sản ký quỹ của
nhà đầu tư để thực hiện các nghĩa vụ thanh toán đối với các vị thế mở của nhà đầu tư trong
trường hợp nhà đầu tư mất khả năng thanh toán và các quyền khác theo quy định của pháp luật
và quy chế của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.

Nhờ có Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán, các thành viên lưu ký, thành viên
bù trừ mà chứng khoán được bảo vệ, các giao dịch mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu
chứng khoán được thực hiện; qua đó, bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư cũng như sự vận hành
hiệu quả của thị trường chứng khoán.

Trong trường hợp thành viên lưu ký tạm thời mất khả năng thanh toán giao dịch chứng
khoán, quỹ hỗ trợ thanh toán được hình thành từ sự đóng góp của các thành viên lưu ký sẽ thanh
toán thay cho thành viên lưu ký.

Trong trường hợp thành viên bù trừ hoặc nhà đầu tư mất khả năng thanh toán, quỹ bù
trừ được hình thành từ sự đóng góp của các thành viên bù trừ sẽ bồi thường thiệt hại và hoàn
tất các giao dịch chứng khoán đứng tên thành viên bù trừ.

Quỹ hỗ trợ thanh toán và Quỹ bù trừ do Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán
Việt Nam quản lý và phải được tách biệt với tài sản của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng
khoán Việt Nam6.

6
Chương V, Luật Chứng khoán 2019

15
Hiệp hội chứng khoán: là một tổ chức xã hội nghề nghiệp của các cá nhân, tổ chức có
cùng chung lợi ích nhất định trong các hoạt động liên quan đến chứng khoán. Hiệp hội thành
lập và hoạt động theo các quy định của pháp luật, có các quyền và nghĩa vụ, được pháp luật
thừa nhận và theo các quy tắc do chính các hội viên đề ra và tự nguyện tuân thủ nhằm mục đích
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên cũng như sự phát triển chung của thị trường
chứng khoán. Ở Việt Nam, Hiệp hội Kinh doanh Chứng khoán Việt Nam bao gồm các thành
viên là các công ty kinh doanh chứng khoán, công ty quản lý quỹ, ngân hàng lưu ký với vai trò
là cầu nối giữa các nhà kinh doanh chứng khoán với các cơ quan quản lý nhà nước và công
chúng đầu tư.

2.5 Các nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán

- Tôn trọng quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản trong hoạt động về chứng khoán và
thị trường chứng khoán; quyền tự do giao dịch, đầu tư, kinh doanh và cung cấp dịch vụ
về chứng khoán của tổ chức, cá nhân.
- Công bằng, công khai, minh bạch.
- Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư.
- Tự chịu trách nhiệm về rủi ro.

Mọi chủ thể tham gia thị trường đều phải tuân thủ những quy định chung, được đối xử
bình đẳng không phụ thuộc vào các yếu tố như địa vị pháp lý, tôn giáo, dân tộc, giàu hay nghèo.
Các nhà đầu tư lớn hay nhỏ, chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp đều có quyền tham gia
mua bán chứng khoán trên thị trường. Ngoài ra, các chủ thể còn có quyền bình đẳng trong việc
tiếp cận và chia sẻ thông tin, trong việc bị áp dụng các chế tài nếu có các hành vi vi phạm pháp
luật. Các nguyên tắc hoạt động cũng là cơ sở để đảm bảo sự tự do cạnh tranh của các chủ thể
tham gia thị trường chứng khoán, là động lực để nâng cao chất lượng dịch vụ và đảm bảo cơ
chế giá chứng khoán theo quy luật cung cầu. Tất cả các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán
đều có quyền bình đẳng với nhau và bình đẳng trước pháp luật và các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, trong các quy định của pháp luật không được phép ưu đãi đối với bất kỳ chủ thể
hay nhóm chủ thể trên thị trường.

Đặc thù của thị trường chứng khoán là hàng hóa giao dịch trên thị trường khó xác định
giá trị nên thị trường chứng khoán phải được xây dựng trên cơ sở hệ thống công bố thông tin
tốt. Nhà đầu tư quyết định mua, bán chứng khoán phụ thuộc vào thông tin trên thị trường. Vì
vậy, tất cả các thông tin liên quan đến hoạt động phát hành, giao dịch trên thị trường chứng
khoán đều phải đảm bảo tính công khai. Theo luật định, các chủ thể tham gia thị trường chứng
khoán có nghĩa vụ phải cung cấp thông tin theo định kỳ hoặc bất thường thông qua các phương
tiện thông tin đại chúng. SGDCK công bố các thông tin về giao dịch chứng khoán trên thị
trường. Các tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết công bố công khai các thông tin về tình hình
hoạt động và tài chính định kỳ hàng năm của công ty, các sự kiện bất thường xảy ra đối với
công ty, việc nắm giữ cổ phiếu của những người quản lý, điều hành công ty, của cổ đông đa số.
Các thông tin càng được công bố công khai, minh bạch, thì càng thu hút được nhà đầu tư tham
gia vào thị trường chứng khoán.

Đối với thị trường chứng khoán tập trung (SGDCK) còn có các nguyên tắc: nguyên tắc
trung gian, nguyên tắc đấu giá. Nguyên tắc trung gian có nghĩa là các giao dịch chứng khoán

16
được thực hiện thông qua tổ chức trung gian là các thành viên của Sở giao dịch. Thông qua các
nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán... các CTCK làm
trung gian mua, bán chứng khoán cho khách hàng, hoặc tư vấn cho khách hàng để thực hiện
mua bán chứng khoán. Nguyên tắc đấu giá yêu cầu các lệnh giao dịch được nhập vào hệ thống
máy chủ của SGDCK và giá chứng khoán được xác định thông qua việc đấu giá giữa các lệnh
mua và lệnh bán.

3. Những vấn đề cơ bản của pháp luật thị trường chứng khoán

Thông qua hệ thống pháp luật, Nhà nước tác động đến tất cả các chủ thể tham gia vào
thị trường chứng khoán, từ cơ quan quản lý Nhà nước đến các tổ chức phát hành, tổ chức kinh
doanh - dịch vụ chứng khoán và nhà đầu tư chứng khoán. Pháp luật điều chỉnh thị trường chứng
khoán nhằm tạo ra những điều kiện thuận lợi để mọi chủ thể tham gia các quan hệ trên thị
trường chứng khoán khai thác tốt nhất những đặc tính ưu việt, những thế mạnh của kinh tế thị
trường và hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực của nó.

3.1 Khái niệm pháp luật thị trường chứng khoán

Pháp luật về thị trường chứng khoán được hiểu là tổng thể những quy phạm pháp luật
điều chỉnh và quy định về địa vị pháp lý của các chủ thể đầu tư, giao dịch, kinh doanh trên thị
trường chứng khoán, về các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình quản lý thị trường chứng
khoán cũng như các quan hệ có liên quan đến hoạt động chào bán, giao dịch, kinh doanh, dịch
vụ chứng khoán trên thị trường chứng khoán.

3.2 Đối tượng điều chỉnh

- QHXH phát sinh trong hoạt động phát hành và niêm yết chứng khoán

- QHXH trong tổ chức và hoạt động của thị trường chứng khoán

- QHXH trong tổ chức và hoạt động của các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán

- QHXH trong hoạt động kinh doanh chứng khoán

- QHXH trong quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán

- QHXH trong việc xử lý vi phạm, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán.

3.3 Phương pháp điều chỉnh

- Phương pháp mệnh lệnh, quyền uy

- Phương pháp bình đẳng, thỏa thuận.

3.4 Nguồn của pháp luật về thị trường chứng khoán

- Các điều ước quốc tế về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

- Văn bản quy phạm pháp luật trong nước

3.5 Quan hệ pháp luật chứng khoán

17
3.5.1 Chủ thể của quan hệ pháp luật chứng khoán

- Cơ quan quản lý nhà nước (Chính phủ, Bộ Tài chính, UBCKNN, Các Bộ, cơ quan
ngang bộ, UBND các cấp).

- Trung tâm GDCK, Sở GDCK

- Chủ thể phát hành chứng khoán

- Chủ thể kinh doanh chứng khoán

- Các nhà đầu tư (tổ chức, cá nhân)

- Các chủ thể khác tham gia vào TTCK

3.5.2 Khách thể của quan hệ pháp luật chứng khoán

- Sự an toàn, ổn định, phát triển của TTCK

- Vốn và lợi nhuận

3.5.3 Nội dung của quan hệ pháp luật chứng khoán

- Là hệ thống các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia các quan hệ về chứng
khoán và thị trường chứng khoán.

- Các quyền và nghĩa vụ cụ thể.

4. Vai trò của pháp luật đối với thị trường chứng khoán

Vai trò của pháp luật đối với thị trường chứng khoán được thể hiện qua các nội dung
sau:

Đối với các nhà đầu tư chứng khoán. Pháp luật quy định những yêu cầu đối với nhà đầu
tư khi tham gia giao dịch chứng khoán; những quy định về tỷ lệ tham gia của nhà đầu tư nước
ngoài khi đầu tư vào chứng khoán hoặc tham gia thành lập công ty chứng khoán liên doanh,
công ty chứng khoán 100% vốn nước ngoài. Vai trò của nhà đầu tư rất quan trọng đối với việc
hình thành và phát triển thị trường chứng khoán, vì vậy pháp luật thường đưa ra nhiều quy định
chặt chẽ nhằm bảo vệ các nhà đầu tư và làm cho các nhà đầu tư an tâm khi đầu tư vào chứng
khoán.

Đối với tổ chức kinh doanh, dịch vụ chứng khoán và hoạt động giao dịch chứng khoán.
Ở các nước có thị trường chứng khoán phát triển, công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế nói chung và thị trường chứng khoán nói riêng. Nhờ các
CTCK, cổ phiếu, trái phiếu, các chứng khoán phái sinh được lưu thông buôn bán trên thị trường
chứng khoán. CTCK tham gia trên thị trường chứng khoán với tư cách là cầu nối giữa nhà đầu
tư và tổ chức phát hành, là nhà tạo lập thị trường hay nhà đầu tư tham gia vào thị trường (khi
mua, bán chứng khoán cho chính mình), và là người cung cấp các dịch vụ cần thiết cho thị
trường chứng khoán. Pháp luật quy định các điều kiện để các tổ chức được xét cấp giấy phép
kinh doanh chứng khoán; các quy định, quy tắc, tiêu chuẩn mà tổ chức kinh doanh chứng khoán
phải tuân thủ khi tiến hành các hoạt động kinh doanh chứng khoán; các trường hợp đình chỉ
hoạt động, thu hồi giấy phép hoạt động của công ty chứng khoán; chế độ thông tin, báo cáo của
18
tổ chức kinh doanh chứng khoán; Nghĩa vụ chịu sự thanh tra, giám sát của các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền và các biện pháp xử lý khi tổ chức kinh doanh chứng khoán vi phạm.
Ngoài ra, pháp luật là công cụ hữu hiệu đảm bảo cho hoạt động giao dịch chứng khoán diễn ra
an toàn, ổn định và hiệu quả. Giao dịch chứng khoán là việc mua bán, chuyển nhượng chứng
khoán trên thị trường giao dịch tập trung. Hoạt động này diễn ra trên thị trường nhằm đảm bảo
tính thanh khoản cho chứng khoán. Pháp luật quy định cụ thể thời gian giao dịch, phương thức
giao dịch, thiết lập hệ thống quản lý, giám sát giao dịch chứng khoán, đảm bảo cho hoạt động
giao dịch chứng khoán được diễn ra công minh, đúng pháp luật.

Đối với tổ chức phát hành chứng khoán và hoạt động chào bán chứng khoán. Pháp luật
quy định các điều kiện cần thiết để tổ chức được phép chào bán chứng khoán ra công chúng;
hình thức, mệnh giá và phương thức phân phối chứng khoán; thời hạn chào bán chứng khoán.
Ngoài ra, pháp luật quy định những trường hợp cụ thể khi tổ chức phát hành vi phạm thì có thể
bị đình chỉ phát hành hoặc bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký phát hành chứng khoán; quy
định việc các tổ chức phát hành phải báo cáo cho cơ quan quản lý Nhà nước về kết quả chào
bán chứng khoán ra công chúng và báo cáo định kỳ về tình hình tài chính và hoạt động kinh
doanh của mình; nghĩa vụ chịu sự thanh tra, giám sát của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
và các biện pháp xử lý khi tổ chức phát hành vi phạm. Tất cả các chứng khoán khi chào bán ra
công chúng và niêm yết trên Sở giao dịch đều phải đáp ứng được các quy định, điều kiện của
pháp luật, nhằm đảm bảo chất lượng, số lượng và thời hạn chào bán chứng khoán.

Đối với Sở giao dịch chứng khoán. SGDCK là nơi diễn ra các hoạt động trao đổi, mua
bán các loại chứng khoán có đủ điều kiện, đáp ứng được các tiêu chuẩn nhất định, được cơ quan
Nhà nước có thẩm quyền hoặc SGDCK cho phép niêm yết. Pháp luật quy định tổ chức và hoạt
động, quyền và nghĩa vụ của SGDCK trong việc: tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán
chứng khoán; quản lý, điều hành hệ thống giao dịch chứng khoán: tổ chức, quản lý, điều hành
và cung cấp các dịch vụ để hỗ trợ hoạt động giao dịch chứng khoán; kiểm tra, giám sát đối với
các hoạt động giao dịch chứng khoán trên Sở giao dịch; xét niêm yết chứng khoán trên Sở giao
dịch; kiểm tra, giám sát các hoạt động công bố thông tin.

Đối với những hạn chế trong chứng khoán và thị trường chứng khoán. Để đảm bảo thị
trường chứng khoán hoạt động một cách công bằng, minh bạch và hiệu quả, pháp luật đưa ra
các quy định nhằm cấm hoặc hạn chế một số hoạt động của các chủ thể khi tham gia thị trường
chứng khoán. Đồng thời, pháp luật cũng quy định những biện pháp xử phạt nghiêm minh đối
với những tổ chức, cá nhân cố tình thực hiện các hành vi đã bị pháp luật cấm và hạn chế.

Đối với việc xây dựng và hoàn thiện địa vị pháp lý của các tổ chức quản lý thị trường
chứng khoán. Để thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, hiệu quả, cần có sự quản lý của
Nhà nước và các tổ chức tự quản. Kinh nghiệm thị trường chứng khoán các nước phát triển đã
cho thấy sự quản lý, tác động của Nhà nước đối với sự hình thành và phát triển của thị trường
chứng khoán có ý nghĩa rất quan trọng, có tính định hướng cho sự vận hành và phát triển của
thị trường chứng khoán trong tương lai. Pháp luật trước hết phải là cơ sở quan trọng để Nhà
nước tiến hành xây dựng và hoàn thiện địa vị pháp lý của cơ quan quản lý nhà nước đối với thị
trường chứng khoán. Pháp luật quy định rõ ràng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của cơ
quan quản lý Nhà nước trong việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán, quy định sự
phối kết hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
19
mình khi tham gia quản lý Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Trên cơ sở các quy định của pháp luật, cơ quan quản lý Nhà nước tiến hành cấp, thu hồi giấy
chứng nhận đăng ký chào bán chứng khoán cho các tổ chức phát hành chứng khoán và giấy
phép kinh doanh cho tổ chức kinh doanh chứng khoán; quản lý, giám sát, thanh tra đối với hoạt
động của các tổ chức và cá nhân tham gia thị trường chứng khoán, xử lý hành chính đối với các
hành vi vi phạm trên thị trường này.

Ngoài ra, pháp luật có vai trò quan trọng đối với SGDCK, Tổng công ty lưu ký và bù
trừ chứng khoán Việt Nam cũng như Hiệp hội ngành chứng khoán trong việc hỗ trợ hoạt động
quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán, từ đó đảm bảo thực hiện các nguyên tắc của
thị trường chứng khoán cũng như bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Pháp luật quy định việc
thành lập, giải thể, chức năng, quyền và nghĩa vụ của Sở cũng như Tổng công ty lưu ký và bù
trừ chứng khoán Việt Nam. Bên cạnh đó, với tư cách là một tổ chức xã hội - nghề nghiệp, pháp
luật quy định rất rõ ràng địa vị pháp lý của Hiệp hội ngành chứng khoán, trên cơ sở đó có thể
hỗ trợ cho nhà đầu tư cũng như các tổ chức kinh doanh, giao dịch chứng khoán thực hiện được
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Như vậy, hệ thống pháp luật về thị trường chứng khoán đóng vai trò rất to lớn đối với
sự vận hành của thị trường chứng khoán. Sự cần thiết của pháp luật đối với sự hình thành và
phát triển của thị trường chứng khoán vừa là yêu cầu đòi hỏi nội tại của thị trường chứng khoán,
vừa xuất phát từ chức năng quản lý xã hội của Nhà nước nhằm mục đích chung là đưa thị trường
chứng khoán từng bước đi vào ổn định, vận hành một cách có hiệu quả, hạn chế các rủi ro, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và tạo động lực phát triển cho nền kinh tế.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân biệt chứng khoán và các loại giấy tờ có giá khác?


2. Vai trò và nguyên tắc đặc thù của thị trường chứng khoán?
3. Phân biệt thị trường chứng khoán sơ cấp và thị trường chứng khoán thứ cấp.
4. So sánh thị trường chứng khoán với các thị trường hàng hóa khác?
5. Phân biệt cổ phiếu và trái phiếu?
6. Phân tích vai trò của pháp luật đối với thị trường chứng khoán.

20
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ NHÀ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN

1. Những vấn đề chung về nhà đầu tư chứng khoán

1.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại nhà đầu tư chứng khoán

1.1.1. Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán

Theo cách hiểu thông thường, đầu tư được hiểu là việc bỏ ra một lượng giá trị để hình
thành tài sản với mong muốn tài sản đó sẽ mang lại giá trị lớn hơn giá trị đã bỏ ra ban đầu. Khái
niệm đầu tư có thể hiểu là đầu tư tài chính (khi nhà đầu tư bỏ tiền vào một công cụ đầu tư nào
đó) hoặc là việc bỏ công sức và thời gian để thu lợi.

Đầu tư chứng khoán có thể hiểu là việc mua - bán chứng khoán. Theo cách tiếp cận này,
đầu tư chứng khoán là hành vi của pháp nhân hoặc cá nhân tiến hành mua bán chứng khoán bao
gồm cổ phiếu, trái phiếu, chứng khoán khác nhằm mục đích sinh lợi.

Hoạt động đầu tư chứng khoán có điểm khác biệt nhất định so với hoạt động kinh doanh
chứng khoán. Hoạt động đầu tư chứng khoán là việc nhà đầu tư bỏ tiền mua chứng khoán với
ý định nắm giữ và mong muốn hưởng lợi từ chính chứng khoán đó mang lại. Hoạt động kinh
doanh chứng khoán có phạm vi rộng hơn, bao gồm nhiều hoạt động như môi giới chứng khoán,
bảo lãnh phát hành chứng khoán... Trong đó bao gồm cả hoạt động mua bán chứng khoán để
kiếm lợi ngắn hạn hoặc mua bán chứng khoán và nắm giữ để hưởng lợi từ sự sinh lời của chứng
khoán (hoạt động tự doanh chứng khoán).

Luật Chứng khoán 2019, định nghĩa " Nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư
trên thị trường chứng khoán".

Khi định nghĩa về nhà đầu tư chứng khoán, quy định pháp luật không theo hướng liệt
kê mà xác định nội hàm nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán dựa vào các đặc điểm như sau:

Thứ nhất, về sự hiện diện, nhà đầu tư chứng khoán gồm cả tổ chức và cá nhân Việt Nam
và nước ngoài tham gia đầu tư trên thị trường chứng khoán, điểm này phù hợp với quy định
pháp luật quốc tế. Pháp luật không đề ra những điều kiện cụ thể đối với nhà đầu tư (ví dụ điều
kiện tài chính, trình độ...) nhằm khuyến khích tất cả chủ thể có khả năng đầu tư đều có thể trở
thành nhà đầu tư chứng khoán. Tuy nhiên, theo bản chất quan hệ dân sự - thương mại, trong
hoạt động đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư phải có những điều kiện: có đủ năng lực hành vi dân
sự; có điều kiện về tài chính để tham gia đầu tư; và không bị pháp luật hoặc cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cấm tiến hành đầu tư chứng khoán.

Thứ hai, khái niệm nhà đầu tư trong Luật Chứng khoán đề cập thêm yếu tố thực hiện
hoạt động đầu tư nhưng không đưa ra bản chất hoạt động đầu tư. Tuy nhiên, theo quan điểm
phổ biến, đầu tư ở đây được hiểu là việc mua, bán chứng khoán theo các phương thức giao dịch
do pháp luật quy định hoặc đầu tư thông qua quỹ đầu tư chứng khoán, hoạt động đầu tư này
phải đem lại cho chủ thể thực hiện lợi ích nhất định.

Thứ ba, về phạm vi thị trường chứng khoán bao gồm cả thị trường sơ cấp và thị trường
thứ cấp, thị trường tập trung và thị trường phi tập trung.

1.1.2 Đặc điểm của nhà đầu tư chứng khoán


21
Đối tượng nhà đầu tư chứng khoán hướng đến là chứng khoán và các giao dịch liên
quan đến chứng khoán. Chứng khoán bản thân là một loại hàng hóa đặc biệt có tính sinh lời,
tính thanh khoản và rủi ro, việc thực hiện các hoạt động thương mại liên quan đến chứng khoán
chịu sự quản lý và giám sát từ phía cơ quan quản lý. Do đó, nhà đầu tư chứng khoán khi thực
hiện các giao dịch liên quan đến chứng khoán cũng chịu sự điều chỉnh chặt chẽ bởi pháp luật.

Hoạt động do nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán thực hiện có tính rủi ro. Đặc điểm
này xuất phát từ đối tượng của giao dịch mà các nhà đầu tư hướng đến đó là chứng khoán với
đặc tính là rủi ro. Xác định tính rủi ro luôn tiềm ẩn đối với nhà đầu tư khi thực hiện hoạt động
đầu tư trên thị trường chứng khoán có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo lập và phát triển thị
trường chứng khoán đứng từ phương diện quản lý.

Có sự phân hóa nhất định về trình độ của nhà đầu tư và cùng với đó là xu hướng tác
động của pháp luật đối với mỗi đối tượng nhà đầu tư. Trên thị trường chứng khoán luôn luôn
có sự tham gia của tổ chức, cá nhân thông thường và các nhà đầu tư chuyên nghiệp là các công
ty chứng khoán, ngân hàng, doanh nghiệp bảo hiểm. Hai nhóm chủ thể này có sự khác biệt nhất
định về chuyên môn, nghiệp vụ cũng như tính chất hoạt động tương đối khác nhau, bởi vậy xu
hướng tác động của pháp luật đối với mỗi loại hình chủ thể có sự khác biệt nhất định.

Chịu sự điều chỉnh của pháp luật chứng khoán và pháp luật liên quan. Đối với nhà đầu
tư chứng khoán, bên cạnh pháp luật dân sự, pháp luật đầu tư quy định tư cách chủ thể, yêu cầu
chung của nhà đầu tư thì pháp luật chứng khoán quy định cụ thể và đặc thù hơn nhằm bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cũng như trách nhiệm pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán.

1.1.3 Phân loại nhà đầu tư

Căn cứ theo sự hiện diện: nhà đầu tư có thể là nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư tổ chức.

Nhà đầu tư cá nhân là những người có vốn nhàn rỗi, thực hiện đầu tư trên tài khoản của
mình để đạt được mục tiêu tài chính của bản thân. Tại Việt Nam, cá nhân đầu tư trên thị trường
chứng khoán gồm công dân Việt Nam và người nước ngoài.

Nhà đầu tư tổ chức có thể bao gồm các định chế tài chính như công ty chứng khoán,
công ty bảo hiểm, ngân hàng còn gọi là nhà đầu tư chuyên nghiệp trên thị trường hoặc các
doanh nghiệp thông thường, quỹ lương hưu, quỹ bảo hiểm xã hội, ... Nguồn vốn của nhà đầu tư
tổ chức tương đối phong phú từ nguồn vốn huy động, vốn tự có, vốn tích lũy từ hoạt động kinh
doanh.

Việc phân loại nhà đầu tư thành nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân có ý nghĩa
trong việc xác định tư cách chủ thể trong mỗi giao dịch về mặt pháp lý, tác động đến chiến lược
kinh doanh, mở rộng thị trường của các tổ chức kinh doanh chứng khoán và việc xây dựng quy
định, điều kiện, tiêu chuẩn đối với nhà đầu tư tổ chức và cá nhân

Căn cứ theo quốc tịch: nhà đầu tư chứng khoán bao gồm nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài.

Nhà đầu tư trong nước bao gồm tổ chức, cá nhân mang quốc tịch hoặc thành lập theo
pháp luật của một quốc gia thực hiện hoạt động đầu tư tại chính quốc gia đó.
22
Nhà đầu tư nước ngoài được hiểu là cá nhân nước ngoài, tổ chức nước ngoài thực hiện
hoạt động đầu tư trên thị trường chứng khoán của một quốc gia. Việc phân loại nhà đầu tư trong
nước và nước ngoài có ý nghĩa nhất định trong quản lý thị trường.

Theo pháp luật Việt Nam, nhà đầu tư nước ngoài hay nhà đầu tư có vốn nước ngoài
được xác định khi thuộc một trong các trường hợp sau:

- Cá nhân có quốc tịch nước ngoài;

- Tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài và thực hiện đầu tư, kinh doanh tại Việt
Nam.

Với đặc thù là thị trường mới nổi, đối với nhà đầu tư nước ngoài trước đây pháp luật
hạn chế về tỷ lệ sở hữu. Tuy nhiên, cùng xu hướng hội nhập của nền kinh tế, giới hạn cho nhà
đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán ngày càng được mở rộng.

Căn cứ theo tính chất hoạt động hay tính chuyên nghiệp của hoạt động đầu tư: nhà đầu
tư chứng khoán có thể được phân chia thành nhà đầu tư chuyên nghiệp và nhà đầu tư không
chuyên nghiệp.

Nhà đầu tư chuyên nghiệp coi hoạt động đầu tư chứng khoán là hoạt động kinh doanh
chính hoặc là một trong những hoạt động kinh doanh chính. Trước đây, nhà đầu tư chuyên
nghiệp thường là những tổ chức có tư cách pháp nhân; tuy nhiên, theo Luật chứng khoán 2019
quy định nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là nhà đầu tư có năng lực tài chính hoặc có
trình độ chuyên môn về chứng khoán bao gồm:

- Ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, công ty tài chính, tổ chức kinh
doanh bảo hiểm, công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công
ty đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức tài chính quốc tế, quỹ tài chính
nhà nước ngoài ngân sách, tổ chức tài chính nhà nước được mua chứng khoán theo quy
định của pháp luật có liên quan;
- Công ty có vốn điều lệ đã góp đạt trên 100 tỷ đồng hoặc tổ chức niêm yết, tổ chức đăng
ký giao dịch;
- Người có chứng chỉ hành nghề chứng khoán;
- Cá nhân nắm giữ danh mục chứng khoán niêm yết, đăng ký giao dịch có giá trị tối thiểu
là 02 tỷ đồng theo xác nhận của công ty chứng khoán tại thời điểm cá nhân đó được xác
định tư cách là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp;
- Cá nhân có thu nhập chịu thuế năm gần nhất tối thiểu là 01 tỷ đồng tính đến thời điểm
cá nhân đó được xác định tư cách là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp theo hồ sơ
khai thuế đã nộp cho cơ quan thuế hoặc chứng từ khấu trừ thuế của tổ chức, cá nhân chi
trả7.

Vai trò nhà đầu tư chuyên nghiệp quan trọng bởi đây là chủ thể dù số lượng nhỏ nhưng
có nguồn vốn lớn, vì vậy có khả năng tác động tích cực hoặc tiêu cực đến thị trường chứng
khoán. Bên cạnh đó, do có chuyên môn, nghiệp vụ về đầu tư chứng khoán nên chủ thể này có
khả năng phân tích và đầu tư tương đối chính xác, trở thành một yếu tố đảm bảo cho thị trường

7
Điều 11 Luật Chứng khoán 2019

23
phát triển đúng hướng. Ngoài ra, nhà đầu tư chuyên nghiệp còn là cầu nối giữa nhà đầu tư không
chuyên nghiệp với thị trường chứng khoán thông qua việc uỷ thác đầu tư.

Nhà đầu tư không chuyên nghiệp, hay còn gọi là nhà đầu tư nhỏ lẻ là những cá nhân, tổ
chức (các tổ chức phi tài chính) trong nền kinh tế. Họ sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của mình để
mua các loại chứng khoán trên thị trường nhằm thu về những lợi ích mong muốn.

Về mặt pháp lý, trong hoạt động đầu tư, về cơ bản nhà đầu tư đều bình đẳng. Tuy nhiên,
nhằm đảm bảo sự công bằng và phát triển lành mạnh của thị trường, pháp luật các nước thường
quy định một số điều kiện nhất định đối với nhà đầu tư chuyên nghiệp như điều kiện về nguồn
vốn, nghĩa vụ công bố thông tin, nghĩa vụ tài chính, quản lý tài khoản tách bạch.

1.2 Vai trò của nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán

Nhà đầu tư góp phần tạo lập và duy trì thị trường. Nhà đầu tư chính là những người
mua, người bán chứng khoán. Sự tham gia của nhà đầu tư giúp thúc đẩy sự phát triển của thị
trường chứng khoán. Đặc biệt, đối với nhà đầu tư chuyên nghiệp, có trình độ chuyên môn cao
sẽ ảnh hưởng đến xu hướng đầu tư, thúc đẩy sự phát triển của các sản phẩm tài chính, có ý
nghĩa rất lớn cho sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán, đặc biệt trong giai đoạn
mới thành lập.

Nhà đầu tư cung cấp vốn cho các doanh nghiệp, nền kinh tế; đồng thời, xu hướng đầu
tư của nhà đầu tư phản ánh một phần hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, thực trạng nền
kinh tế. Trên thị trường chứng khoán sơ cấp, tổ chức phát hành huy động được vốn thông qua
việc chào bán chứng khoán. Nhà đầu tư chuyển nguồn vốn của mình cho doanh nghiệp, Chính
phủ và tổ chức phát hành khác thông qua hoạt động mua chứng khoán. Bên cạnh đó, trong điều
kiện thị trường chứng khoán hoạt động bình thường, công khai và minh bạch, tình hình hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp hay thực trạng nền kinh tế sẽ được biểu hiện qua xu hướng,
lượng vốn của nhà đầu tư trên thị trường vốn bị ảnh hưởng bởi nguồn vốn tích lũy, nguồn thông
tin tiếp nhận và sự phân tích thị thường sẽ tác động đến giá trị của chứng khoán.

Nhà đầu tư tạo tính thanh khoản cho các loại chứng khoán đã phát hành. Nhà đầu tư
chỉ trở thành chủ thể thị trường chứng khoán khi thực hiện giao dịch liên quan đến chứng khoán,
mục đích lớn nhất của nhà đầu tư là hướng tới lợi nhuận, vì thế người sở hữu chứng khoán cần
sự chuyển đổi nhanh chứng khoán thành tiền và ngược lại. Tính thanh khoản ngược lại tác động
đến quyết định của nhà đầu tư, tạo ra sự hấp dẫn đối với nhà đầu tư đồng thời cũng hạn chế rủi
ro làm giảm sút giá trị tiền tệ của chứng khoán.

2. Nội dung pháp luật về nhà đầu tư chứng khoán

2.1 Vị trí pháp lý của nhà đầu tư

Vị trí pháp lý của nhà đầu tư thể hiện qua mối quan hệ của chủ thể này với các chủ thể
khác trên thị trường. Mối quan hệ này cơ bản bao gồm:

- Quan hệ giữa nhà đầu tư với SGDCK. SGDCK đóng vai trò tổ chức và hỗ trợ thị
trường với trách nhiệm đảm bảo cho giao dịch của nhà đầu tư được tiến hành nhanh chóng,
khách quan, đúng quy định.

24
- Quan hệ giữa nhà đầu tư và tổ chức phát hành. Loại chứng khoán mà nhà đầu tư mong
muốn nắm giữ chi phối tính chất và loại quan hệ của nhà đầu tư với chủ thể phát hành.

- Quan hệ giữa nhà đầu tư và tổ chức kinh doanh chứng khoán. Các tổ chức kinh doanh
chứng khoán có vị trí rất quan trọng trên thị trường và đối với nhà đầu tư: tư vấn cung cấp thông
tin; hỗ trợ nhà đầu tư thực hiện giao dịch; quản lý tài khoản giao dịch; cung cấp dịch vụ tư vấn
tài chính. Trong quan hệ với tổ chức kinh doanh chứng khoán, nhà đầu tư là khách hàng, tuy
nhiên, giữa tổ chức kinh doanh chứng khoán với nhà đầu tư luôn tiềm ẩn nguy cơ xung đột lợi
ích. Việc xung đột lợi ích này xuất phát từ bản thân nghiệp vụ mà các tổ chức kinh doanh tiến
hành với dịch vụ mà tổ chức này cung cấp cho nhà đầu tư; bởi vậy, các quy định cần hạn chế
tối đa các hành vi tổ chức kinh doanh chứng khoán có thể xâm phạm đến quyền, lợi ích của nhà
đầu tư từ vị thế của mình.

Bên cạnh quan hệ với các chủ thể khác trên thị trường, nhà đầu tư cũng quan hệ với
nhau một cách trực tiếp hoặc gián tiếp. Nhìn chung, nhà đầu tư được đối xử công bằng. Tuy
nhiên, do tính chất cạnh tranh của thị trường, trong quá trình thực hiện quyền và nghĩa vụ của
mình, nhà đầu tư có thể làm tổn hại đến lợi ích của các nhà đầu tư khác như gian lận trong giao
dịch chứng khoán, thao túng giá chứng khoán. Do đó, bên cạnh sự giám sát, quản lý nhà nước,
các nhà đầu tư phải tự mình điều chỉnh để thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ hợp pháp của
mình, đồng thời không làm tổn hại đến lợi ích của các chủ thể khác và tổn hại đến thị trường.

2.2 Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư chứng khoán

2.2.1 Quyền của nhà đầu tư chứng khoán

- Quyền thực hiện các giao dịch liên quan đến chứng khoán

Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền tự do kinh doanh trong
những ngành nghề mà pháp luật không cấm”. Bộ luật Dân sự 2015 quy định "Quyền tự do kỉnh
doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ". Theo quy định tại khoản 1 Điều
6 Luật Chứng khoán 2019 “Nhà nước có chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để tổ
chức, cá nhân trong nước, nước ngoài tham gia đầu tư và hoạt động trên thị trường chứng
khoán nhằm huy động các nguồn vốn trung hạn và dài hạn cho đầu tư phát triển”.

Pháp luật chứng khoán ghi nhận quyền tham gia giao dịch của nhà đầu tư chứng khoán,
quyền này thể hiện khá đa dạng từ quy định về mua - bán chứng khoán, quy định về trách nhiệm
của CTCK liên quan đến việc bảo vệ quyền tham gia giao dịch. Pháp luật hiện hành không có
giới hạn nào về việc nhà đầu tư tham gia thực hiện giao dịch trên thị trường chứng khoán khi
nhà đầu tư đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi.

- Quyền và lợi ích của nhà đầu tư phát sinh từ việc nắm giữ chứng khoán

Quyền sở hữu và bảo vệ tài sản đầu tư. Khi thực hiện đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư
chuyển giao tài sản của mình (bao gồm chứng khoán và tiền có trên tài khoản) cho chủ thể khác
quản lý thông qua các hợp đồng, thỏa thuận mở tài khoản, ủy thác đầu tư... Với đặc điểm này,
tài sản của nhà đầu tư có thể bị xâm hại bởi nhiều yếu tố như sự cố kỹ thuật, sơ suất của nhân
viên CTCK, thành viên lưu ký, tiền gửi của nhà đầu tư trong tài khoản không sử dụng đúng. Do

25
đó, việc ghi nhận quyền sở hữu và bảo vệ tài sản đầu tư là một trong những quyền quan trọng,
đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư đối với tài sản của mình.

Nội dung về quyền sở hữu và bảo vệ tài sản đầu tư được ghi nhận trong nhiều nội dung
của pháp luật liên quan, không chỉ trong pháp luật chứng khoán. Bộ luật Dân sự thể hiện ở chế
định bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản; Luật Doanh nghiệp quy định về lập và
lưu giữ sổ đăng ký cổ đông như một văn bản chứng minh quyền sở hữu cổ phần của mỗi cổ
đông. Pháp luật chứng khoán cũng ghi nhận quyền tài sản của nhà đầu tư.

Quyền hưởng lợi tức phát sinh từ chứng khoán. Đây là quyền của nhà đầu tư sở hữu
chứng khoán xuất phát từ đặc thù của chứng khoán có tính sinh lợi, và lợi nhuận này được thể
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Nếu người sở hữu chứng khoán có ý định nắm giữ chứng
khoán trong thời gian dài thì mức lợi nhuận được hưởng sẽ là lãi suất (nếu sở hữu trái phiếu),
hoặc cổ tức (nếu sở hữu cổ phiếu) do tổ chức phát hành chi trả.

Ngoài ra, qua việc đầu tư và sở hữu chứng khoán, nhà đầu tư còn có quyền được cầm
cố chứng khoán để vay vốn, và dùng tài sản bảo đảm là các chứng khoán để cầm cố, bảo đảm
trả nợ cho các khoản tín dụng đó; quyền góp vốn bằng chứng khoán để thành lập công ty. Khi
thực hiện quyền này phải tuân thủ các điều kiện về góp vốn, xác định giá trị phần vốn góp theo
quy định của Luật Doanh nghiệp; quyền được ưu tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng
với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ đông trong công ty…

- Quyền tiếp cận thông tin

Trong đầu tư chứng khoán, việc xem xét giá trị của chứng khoán không giống như các
loại hàng hóa thông thường mà phải đánh giá toàn diện các thông tin từ nhà phát hành, thị
trường, xu hướng đầu tư. Do đó, công bố thông tin đối với các chủ thể trên thị trường đặc biệt
nhằm đảm bảo tính công bằng trong hoạt động mua bán chứng khoán, hạn chế rủi ro cho thị
trường và nhà đầu tư.

Quyền tiếp cận thông tin có ý nghĩa quan trọng không chỉ bảo vệ chính nhà đầu tư mà
còn đối với sự phát triển của thị trường chứng khoán: đảm bảo minh bạch hóa, phát triển lành
mạnh, ngăn ngừa giao dịch nội gián hoặc vi phạm khác trên thị trường. Luật Chứng khoán Việt
Nam năm 2019 cũng ghi nhận quyền tiếp cận thông tin tương đối rõ ràng. Khoản 2 Điều 5 Luật
Chứng khoán 2019 xác định "công bằng, công khai, minh bạch" là một trong những nguyên tắc
của thị trường. Trong bảy nhóm hành vi bị cấm, trong đó có ba nhóm liên quan đến quyền thông
tin bao gồm:

- Trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện hành vi gian lận, lừa đảo, làm giả tài liệu, tạo dựng
thông tin sai sự thật hoặc công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin hoặc bỏ sót
thông tin cần thiết gây hiểu nhầm nghiêm trọng làm ảnh hưởng đến hoạt động chào bán,
niêm yết, giao dịch, kinh doanh, đầu tư chứng khoán, cung cấp dịch vụ về chứng khoán.
- Sử dụng thông tin nội bộ để mua, bán chứng khoán cho chính mình hoặc cho người
khác; tiết lộ, cung cấp thông tin nội bộ hoặc tư vấn cho người khác mua, bán chứng
khoán trên cơ sở thông tin nội bộ.
- Sử dụng một hoặc nhiều tài khoản giao dịch của mình hoặc của người khác hoặc thông
đồng để thực hiện việc mua, bán chứng khoán nhằm tạo ra cung, cầu giả tạo; giao dịch

26
chứng khoán bằng hình thức cấu kết, lôi kéo người khác mua, bán để thao túng giá
chứng khoán; kết hợp hoặc sử dụng các phương pháp giao dịch khác hoặc kết hợp tung
tin đồn sai sự thật, cung cấp thông tin sai lệch ra công chúng để thao túng giá chứng
khoán8.

Bên cạnh Luật chứng khoán, chế độ công bố thông tin trên TTCK được quy định chi
tiết tại các văn bản dưới luật do Bộ Tài chính ban hành và thường xuyên được cập nhật, sửa
đổi, bổ sung nhằm đảm bảo phù hợp với các yêu cầu của thị trường. Nhìn chung, việc công bố
thông tin đảm bảo nguyên tắc đầy đủ, chính xác, kịp thời; đối tượng công bố thông tin phải chịu
trách nhiệm về nội dung công bố. Pháp luật quy định nội dung công bố thông tin cho từng chủ
thể, trong đó đặc biệt có yêu cầu cụ thể đối với công ty có tầm ảnh hưởng liên quan đến nhiều
nhà đầu tư. Pháp luật cũng đồng thời quy định việc công bố thông tin định kỳ, công bố thông
tin bất thường và công bố thông tin theo yêu cầu.

- Quyền khác của nhà đầu tư chứng khoán

Nhà đầu tư có quyền yêu cầu cơ quan có thẩm quyền bảo vệ quyền lợi chính đáng của
mình khi xảy ra tranh chấp hoặc khi các chủ thể có hành vi xâm phạm đến quyền và lợi ích
chính đáng của họ. Quyền yêu cầu bồi thường khi các CTCK cũng như các chủ thể phát hành
chứng khoán có những hành vi làm tổn thất đến lợi ích của nhà đầu tư mà xác định được giá trị
tổn thất như những thông tin sai sự thật, việc đính chính lại các thông tin làm ảnh hưởng đến
quyết định của nhà đầu tư, quyền được hưởng lợi tức, quyền ưu tiên mua cổ phần...

2.2.2 Nghĩa vụ của nhà đầu tư chứng khoán

Tuân thủ pháp luật chứng khoán và các quy định trên thị trường chứng khoán. Khi thực
hiện hoạt động đầu tư, chủ thể đầu tư chịu sự điều chỉnh trực tiếp của pháp luật chứng khoán
và các quy định pháp luật có liên quan. Tuân thủ pháp luật chứng khoán, các quy định cụ thể
trên thị trường không chỉ đảm bảo cho giao dịch hợp pháp mà còn đảm bảo lợi ích cho các chủ
thể trên thị trường. Tuân thủ pháp luật biểu hiện thông qua việc đảm bảo tư cách chủ thể trong
các giao dịch, tuân thủ các giới hạn về tỷ lệ đầu tư, đảm bảo nguồn vốn đầu tư hợp pháp.

Thực hiện nghĩa vụ tài chính liên quan đến giao dịch. Thanh toán các giao dịch thực
hiện bao gồm thanh toán tiền mua chứng khoán và thanh toán các khoản phí phát sinh liên quan
đến giao dịch. Thanh toán tiền mua chứng khoán chủ yếu thực hiện thông qua nhà môi giới
chứng khoán, nghĩa vụ được coi là hoàn thành khi chủ thể môi giới chứng khoán đã chuyển
giao đủ tiền vào tài khoản giao dịch chứng khoán của người bán chứng khoán. Bên cạnh đó khi
thực hiện giao dịch, nhà đầu tư có nghĩa vụ thanh toán các nghĩa vụ tài chính phát sinh như phí
môi giới chứng khoán, thuế thu nhập đối với hoạt động đầu tư.

Chấp hành các quy định của tổ chức phát hành. Đây là quy định cần thiết nhằm đảm
bảo hoạt động của tổ chức phát hành. Các quy định của tổ chức phát hành thường được ghi
nhận trong Điều lệ và Quy chế quản lý nội bộ công ty, quyết định của Đại hội đồng cổ đông,
Hội đồng quản trị, hoặc cụ thể đối với nhà đầu tư khi mua chứng chỉ quỹ phải chấp hành quy
định tại Điều lệ quỹ, quyết định của Đại hội nhà đầu tư.

8
Điều 12 Luật Chứng khoán 2019

27
Nghĩa vụ khác của tổ chức phát hành hoặc tổ chức kinh doanh chứng khoán. Trong khi
thực hiện hoạt động đầu tư trên thị trường, nhà đầu tư sẽ phát sinh quan hệ với các chủ thể khác,
nhà đầu tư phải đảm bảo thực hiện các nghĩa vụ liên quan như không được chuyển nhượng cổ
phần trong thời gian chưa được phép khi mua chứng khoán của doanh nghiệp niêm yết; nghĩa
vụ cung cấp các thông tin cá nhân cũng như thông tin khác liên quan đến mở tài khoản và phải
chịu trách nhiệm trước pháp luật về những thông tin đã cung cấp khi thực hiện mở tài khoản
giao dịch tại CTCK.

2.3 Các biện pháp pháp lý nhằm bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán

Việc bảo vệ nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán được quy định cụ thể trong văn bản
pháp luật chuyên ngành về chứng khoán, đồng thời thể hiện trong pháp luật về dân sự, doanh
nghiệp, thương mại, đầu tư, kế toán, kiểm toán, hành chính...

2.3.1 Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư chứng khoán thông qua ban hành quy định, chuẩn mực, các
nguyên tắc của thị trường

Ban hành các quy định, chuẩn mực và nguyên tắc của thị trường là một trong các biện
pháp hành chính quan trọng được áp dụng vừa có ý nghĩa định hướng vừa tạo cơ sở thực hiện
các biện pháp tác động khác. Luật Chứng khoán năm 2019 cùng hàng loạt các nghị định, thông
tư hướng dẫn điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Có thể thấy, pháp luật đã quy định toàn diện về các chủ thể, giao dịch được thiết lập và thực
hiện, hoạt động quản lý của cơ quan có thẩm quyền trên thị trường. Cụ thể, các quy định quản
lý việc chào bán chứng khoán - khâu đầu tiên cũng là cơ sở xác lập tư cách chủ thể tham gia thị
trường chứng khoán của nhà đầu tư; quy định về điều kiện thành lập, hoạt động, cơ chế điều
hành của các chủ thể khác trên thị trường như công ty đại chúng, CTCK, quỹ đầu tư, ngân hàng
giám sát, tổ chức lưu ký và bù trừ chứng khoán; quy định về quản lý thị trường giao dịch chứng
khoán; quản lý niêm yết chứng khoán; quản lý việc đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng
khoán.

2.3.2 Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư thông qua hoạt động thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm

Nhằm đảm bảo việc tuân thủ pháp luật của các chủ thể trên thị trường chứng khoán,
pháp luật chứng khoán quy định rất rõ về thanh tra chứng khoán. Đối tượng thanh tra theo quy
định tương đối toàn diện gồm các chủ thể tham gia trên thị trường, phạm vi gồm hoạt động chào
bán, niêm yết, giao dịch chứng khoán, kinh doanh, đầu tư, dịch vụ về chứng khoán và thị trường
chứng khoán, hoạt động công bố thông tin và hoạt động khác có liên quan. Thanh tra có thể
thực hiện theo chương trình kế hoạch hoặc thanh tra đột xuất khi phát hiện tổ chức, cá nhân
tham gia đầu tư và hoạt động trên thị trường chứng khoán có dấu hiệu vi phạm pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán; theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc
do Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước giao9.

Theo pháp luật chứng khoán tại Việt Nam, hoạt động giám sát được thực hiện bởi nhiều
chủ thể với phạm vi giám sát khác nhau, cụ thể: UBCKNN thực hiện giám sát tương đối toàn
diện gồm hoạt động của SGDCK, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam cùng

9
Xem: Chương IX Luật Chứng khoán năm 2019

28
các tổ chức phụ trợ, giám sát toàn bộ hoạt động của thị trường; SGDCK giám sát duy trì điều
kiện niêm yết, hoạt động giao dịch chứng khoán của các thành viên giao dịch, hoạt động công
bố thông tin của các tổ chức niêm yết, thành viên giao dịch. Tổng công ty lưu ký và bù trừ
chứng khoán giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán. Ngân hàng
giám sát thực hiện hoạt động giám sát việc tuân thủ pháp luật và hoạt động của công ty quản lý
quỹ, quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó, các tổ chức kinh doanh chứng khoán
trên thị trường như CTCK cũng phải thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, quản trị rủi ro và giám
sát, ngăn ngừa những xung đột lợi ích trong nội bộ công ty và trong giao dịch với những người
có liên quan.

2.3.3 Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư chứng khoán thông qua biện pháp xử lý vi phạm

Trong lĩnh vực chứng khoán, vi phạm có thể biểu hiện dưới nhiều dạng, trong đó có
những vi phạm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Do đó, pháp
luật các nước đều có quy định về xử phạt vi phạm trong lĩnh vực chứng khoán bao gồm xử phạt
vi phạm hành chính và truy cứu trách nhiệm hình sự; đây được coi là công cụ hữu hiệu bảo vệ
quyền lợi của nhà đầu tư trên thị trường.

Thứ nhất, các vi phạm hành chính và hình thức xử lý

- Vi phạm quy định về chào bán, phát hành chứng khoán riêng lẻ;
- Vi phạm quy định về chào bán chứng khoán ra công chúng tại Việt Nam;
- Vi phạm quy định về phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế, chào bán chứng khoán
tại nước ngoài và phát hành chứng khoán mới làm cơ sở chào bán chứng chỉ lưu ký
chứng khoán tại nước ngoài hoặc hỗ trợ phát hành chứng chỉ lưu ký chứng khoán tại
nước ngoài trên cơ sở cổ phiếu đã phát hành tại Việt Nam;
- Vi phạm quy định phát hành thêm cổ phiếu;
- Vi phạm quy định về công ty đại chúng;
- Vi phạm quy định về chào mua công khai;
- Vi phạm quy định về niêm yết chứng khoán, đăng ký giao dịch chứng khoán;
- Vi phạm quy định về tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán;
- Vi phạm quy định về kinh doanh chứng khoán và hành nghề chứng khoán; vi phạm quy
định về giao dịch chứng khoán;
- Vi phạm quy định về đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán, ngân hàng
giám sát, ngân hàng lưu ký;
- Vi phạm quy định công bố thông tin và báo cáo; vi phạm quy định về kiểm toán công
ty đại chúng, tổ chức niêm yết, tổ chức thực hiện chào bán chứng khoán ra công chúng,
CTCK, công ty đầu tư chứng khoán, quỹ và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán;
- Vi phạm quy định về phòng, chống rửa tiền và phòng, chống khủng bố trong lĩnh vực
chứng khoán và thị trường chứng khoán;
- Vi phạm quy định về thanh tra, kiểm tra của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Khi một tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính nêu trên có thể bị áp dụng hình
thức xử phạt chính như: cảnh cáo; phạt tiền; đình chỉ giao dịch chứng khoán có thời hạn từ 01
tháng đến 12 tháng; tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại
diện, chứng chỉ hành nghề chứng khoán có thời hạn từ 01 tháng đến 24 tháng. Tuỳ theo tính

29
chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng một hoặc nhiều hình
thức xử phạt bổ sung bao gồm: đình chỉ hoạt động chào mua công khai; hoạt động kinh doanh,
dịch vụ chứng khoán; hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán; hoạt động văn phòng đại
diện; hoạt động lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán; giao dịch chứng khoán hoặc các hoạt
động khác được ghi trong quyết định xử phạt trong thời hạn từ 01 tháng đến 12 tháng; tước
quyền sử dụng giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện, chứng chỉ hành nghề
chứng khoán có thời hạn từ 01 tháng đến 24 tháng trong trường hợp không áp dụng là hình thức
xử phạt chính; tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành
chính trong lĩnh vực chứng khoán....

Ngoài ra, tổ chức, cá nhân vi phạm còn phải thực hiện các biện pháp khắc phục hậu quả
như: buộc chấp hành quy định của pháp luật; buộc huỷ bỏ, cải chính những thông tin sai lệch,
thông tin sai sự thật; buộc phải thu hồi số chứng khoán đã hành, hoàn trả tiền đặt cọc hoặc tiền
mua chứng khoán cho các nhà đầu tư10.

Thứ hai, các vi phạm bị truy cứu trách nhiệm hình sự

Các hành vi phạm tội trong lĩnh vực chứng khoán có thể bị truy cứu trách nhiệm hình
sự như: giả mạo hồ sơ đăng ký chào bán; cố ý thông tin sai lệch hoặc che giấu sự thật; sử dụng
thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán; thao túng giá chứng khoán, tạo ra giá chứng khoán
giả tạo; cố ý cung cấp tài liệu giả, làm giả, làm sai lệch hoặc tiêu hủy tài liệu giao dịch để lừa
đảo, dụ dỗ khách hàng... Việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi này căn cứ vào
quy định của Bộ luật Hình sự. Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đã quy định
trực tiếp một số tội danh liên quan đến lĩnh vực chứng khoán, bên cạnh các tội danh kinh tế như
Điều 209 (tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng
khoán); Điều 210 (tội sử dụng thông tin nội bộ để mua bán chứng khoán); Điều 211 (tội thao
túng thị trường chứng khoán).

2.3.4 Biện pháp khác

- Biện pháp giải quyết tranh chấp.

Các biện pháp được áp dụng trong giải quyết tranh chấp chứng khoán liên quan đến nhà
đầu tư trên thị trường hiện nay được quy định gồm thương lượng, hoà giải hoặc yêu cầu Trọng
tài, Toà án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Thương lượng là biện pháp giải quyết tranh chấp theo đó các bên tranh chấp cùng nhau
bàn bạc, thoả thuận để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn mà không cần có sự tham gia của
bên thứ ba.

Hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp đòi hỏi phải có sự tham gia của một bên
thứ ba, đóng vai trò làm trung gian hoà giải, để giúp các bên phân tích, nhận thức rõ vấn đề
tranh chấp, hỗ trợ, thuyết phục các bên tìm kiếm các giải pháp nhằm giải quyết các bất đồng,
mâu thuẫn.

10
Xem: Nghị định 156/2020/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trường chứng khoán

30
Theo thủ tục trọng tài, thì tranh chấp về đầu tư chứng khoán sẽ được đưa ra trọng tài
giải quyết nếu giữa các bên (nhà đầu tư và chủ thể có liên quan) đã có thoả thuận trọng tài. Hội
đồng trọng tài (do Trung tâm Trọng tài tổ chức hoặc do các bên thành lập) sẽ quyết định tranh
chấp của các bên.

Tranh chấp trong quan hệ đầu tư chứng khoán có thể được Toà án giải quyết theo thủ
tục tố tụng tư pháp khi có một bên khởi kiện ra Toà, yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Toà án với tư cách là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định
giải quyết tranh chấp của các bên. Bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp lý bắt buộc
đối với các bên tranh chấp, các bên phải thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Việc giải
quyết tranh chấp được tiến hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Biện pháp mang tính chất kinh tế, dân sự

Thứ nhất, quy định về bồi thường thiệt hại. Trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường
chứng khoán, chế tài bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 133 Luật Chứng khoán 2019,
theo đó “Chủ thể xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong hoạt động về
chứng khoán và thị trường chứng khoán mà gây thiệt hại thì phải bồi thường, thực hiện các
trách nhiệm dân sự khác theo thỏa thuận, theo quy định của Bộ luật Dân sự và quy định khác
của pháp luật có liên quan”. Việc bồi thường thiệt hại có ý nghĩa lớn đối với nhà đầu tư tham
gia trên thị trường và trong các giao dịch bởi không chỉ bù đắp, khắc phục hậu quả của việc vi
phạm mà còn tác động đến ý thức của các bên trong việc thực hiện đúng và đầy đủ các nghĩa
vụ đã thỏa thuận.

Thứ hai, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư bằng công cụ tài chính. Biện pháp mang tính chất
tài chính nhằm bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư chứng khoán là thông qua các sản phẩm bảo
hiểm trong lĩnh vực chứng khoán. Ngoài ra, để đảm bảo cho một thị trường chứng khoán phát
triển ổn định, công khai, công bằng và minh bạch, cần thiết phải có một tổ chức chuyên thực
hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân tích vai trò của nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường chứng khoán.
2. Quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư chứng khoán?
3. Phân biệt nhà đầu tư chứng khoán với các loại nhà đầu tư khác?
4. Phân biệt nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp và nhà đầu tư chứng khoán không
chuyên nghiệp?
5. Các biện pháp bảo vệ nhà đầu tư chứng khoán theo pháp luật Việt Nam hiện hành?

31
CHƯƠNG 3: PHÁP LUẬT VỀ CÁC CHỦ THỂ KINH DOANH TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG KHOÁN

1. Khái niệm, đặc điểm hoạt động kinh doanh chứng khoán

Theo Khoản 28 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019 thì "Kinh doanh chứng khoán là
việc thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành
chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục
đầu tư chứng khoán và cung cấp dịch vụ về chứng khoán".

Hoạt động kinh doanh chứng khoán là loại hình hoạt động kinh doanh có điều kiện, theo
đó các công ty chứng khoán (CTCK), công ty quản lý quỹ và các chủ thể được phép kinh doanh
chứng khoán thực hiện các nghiệp vụ chứng khoán cho khách hàng hoặc cho chính mình vì
mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh chứng khoán có các đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, đối tượng của hoạt động kinh doanh chứng khoán là chứng khoán. Đây là
hàng hóa đặc biệt, có tính thanh khoản, có tính rủi ro và tính sinh lời.

Thứ hai, chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán phải được cấp giấy phép
kinh doanh chứng khoán. Nghề nghiệp chủ yếu và thường xuyên của các chủ thể này là thực
hiện một hoặc một số hoặc tất cả các nghiệp vụ như môi giới chứng khoán, tự doanh chứng
khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, lưu ký chứng khoán, quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Để thực hiện mỗi nghiệp vụ
trên, pháp luật yêu cầu chủ thể kinh doanh chứng khoán phải thỏa mãn các yêu cầu về vốn, cơ
sở vật chất, về nhân sự...

Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán phải đảm bảo các nguyên tắc công bằng,
công khai, minh bạch và bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư chứng khoán. Do
đặc thù của đối tượng kinh doanh nên hoạt động kinh doanh chứng khoán tiềm ẩn rui ro lớn cho
nhà đầu tư. Nhà đầu tư rất khó xác định giá trị của chứng khoán nếu các thông tin được cung
cấp không chính xác, không đầy đủ và không kịp thời. Vì vậy, luật pháp về chứng khoán yêu
cầu các chủ thể kinh doanh chứng khoán phải đảm bảo sự công bằng, bình đẳng giữa các nhà
đầu tư chứng khoán và bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư phát sinh từ việc sở hữu
chứng khoán cũng như phát sinh từ các giao dịch mua bán, chuyển nhượng quyền sở hữu chứng
khoán.

Thứ tư, hoạt động kinh doanh chứng khoán chịu sự điều chỉnh của pháp luật về chứng
khoán và các quy định pháp luật khác có liên quan. Có thể thấy, đây là loại hình hoạt động
thương mại, vì vậy ngoài các quy định của pháp luật chuyên ngành về chứng khoán thì hoạt
động này còn chịu sự điều chỉnh của các quy định pháp luật về thương mại, về doanh nghiệp,
về đầu tư.

Trong số các chủ thể thực hiện kinh doanh trên thị trường chứng khoán thì CTCK đóng
vai trò quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của thị trường chứng khoán. Hoạt động kinh
doanh chứng khoán của CTCK có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với nhà đầu tư trong việc
mua, bán chứng khoán.

2. Pháp luật về công ty chứng khoán

32
2.1 Khái niệm, đặc điểm công ty chứng khoán

2.1.1 Khái niệm công ty chứng khoán

Công ty chứng khoán là doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo pháp luật chứng
khoán để thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các nghiệp vụ: môi giới chứng khoán, tự doanh
chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán và được cung cấp
các dịch vụ tài chính theo quy định của pháp luật chứng khoán.

Theo Khoản 2 Điều 71 Luật Chứng khoán năm 2019, CTCK được tổ chức dưới hình
thức công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp.

Pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế có nhiều nét tương đồng trong việc quy định
về CTCK: CTCK là một chủ thể kinh doanh, là trung gian tài chính thực hiện các nghiệp vụ
kinh doanh chứng khoán, có thể được thành lập dưới các hình thức pháp lý khác nhau, nhưng
chủ yếu là hình thức công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn. Điều này cũng dễ hiểu
bởi hai loại hình công ty nói trên có nhiều lợi thế trong kinh doanh thương mại như khả năng
huy động vốn trên thị trường, khả năng quản trị rủi ro tốt, có thể giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu
tư và chỉ đòi hỏi trách nhiệm của các thành viên trong giới hạn vốn góp. Ngoài ra, CTCK có
thể thực hiện một loại nghiệp vụ hoặc nhiều hoặc tất cả nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán mà
pháp luật cho phép. Quy định linh hoạt này của pháp luật gắn với quyền tự do kinh doanh của
doanh nghiệp và tạo điều kiện cho CTCK có thể phát huy hết khả năng của mình trong giới hạn
có thể. Tuy nhiên, CTCK theo pháp luật Việt là mô hình công ty chuyên doanh - chỉ chuyên
trong lĩnh vực chứng khoán, không được thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng, bảo hiểm. Các
ngân hàng thương mại muốn hoạt động kinh doanh chứng khoán phải thành lập CTCK trực
thuộc ngân hàng. Điều này sẽ hạn chế rủi ro cho hệ thống ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện
cho TTCK phát triển có tính chuyên môn hóa cao.

2.1.2 Đặc điểm của công ty chứng khoán

- Về hình thức pháp lý: CTCK được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc công ty cổ phần.

- Về hoạt động kinh doanh: hoạt động chủ yếu và thường xuyên của CTCK là kinh
doanh chứng khoán dưới một trong các hình thức: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư
vấn đầu tư chứng khoán và các nghiệp vụ chứng khoán khác được nhà nước cho phép. Điều
này cho thấy tính chuyên nghiệp trong hoạt động của CTCK.

- Về pháp luật điều chỉnh và quản lý Nhà nước đối với thành lập, tổ chức, hoạt động
của CTCK. Cơ quan quản lý nhà nước về TTCK là UBCKNN đóng vai trò là chủ thể giám sát
hoạt động của thị trường thông qua việc duy trì chế độ cấp phép, đăng ký, thực hiện các chương
trình kiểm tra, thanh tra và cưỡng chế thực thi pháp luật về TTCK. Có thể nói, cấp phép, thanh
tra, giám sát và thực thi luật pháp với việc tăng cường kỷ luật thị trường là các chức năng cơ
bản của cơ quan quản lý TTCK. Các tổ chức tự quản được sử dụng hợp lý trong hệ thống quản
lý, được pháp luật công nhận và được cơ quan quản lý phân chia nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể
trong việc quản lý TTCK. Tổ chức tự quản giữ vai trò quản lý người hành nghề trên TTCK,
quản lý thành viên của mình thông qua các quy chế quy định, quy tắc nghề nghiệp và đạo đức

33
kinh doanh. Cơ chế kiểm soát việc tham gia thị trường của CTCK nhằm ngăn ngừa, giảm thiểu
rủi ro xảy ra cho nhà đầu tư và đảm bảo sự an toàn trong kinh doanh chứng khoán.

2.2 Mô hình, chức năng và vai trò của công ty chứng khoán

2.2.1 Mô hình công ty chứng khoán

- Mô hình CTCK chuyên doanh: Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán
sẽ do các công ty độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận. Các
ngân hàng không được tham gia vào hoạt động kinh doanh chứng khoán. Ưu điểm của
mô hình này là hạn chế rủi ro trong hệ thống ngân hàng, đồng thời tạo điều kiện cho thị
trường chứng khoán phát triển.

Mô hình này được áp dụng ở nhiều nước, đặc biệt là Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc. Phần
lớn Luật Chứng khoán của các nước trong Hiệp hội ASEAN đều quy định chỉ cho phép CTCK
độc lập mới được hoạt động kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, ở
các nước áp dụng mô hình này đã có xu hướng giảm dần hạn chế về kinh doanh chứng khoán
đối với các ngân hàng thương mại và từng bước mở rộng quyền của ngân hàng thương mại
tham gia vào thị trường chứng khoán.

- Mô hình CTCK đa năng. Mô hình này chia làm hai loại:

Mô hình đa năng một phần (còn gọi là mô hình bán đa năng): Theo mô hình này, các
ngân hàng muốn kinh doanh chứng khoán phải thành lập công ty con hoạt động độc lập, có tư
cách pháp nhân. Mô hình này cũng được áp dụng ở một số nước có thị trường chứng khoán mới
nổi.

Mô hình đa năng hoàn toàn: Theo mô hình này, các ngân hàng thương mại được phép
kinh doanh chứng khoán, kinh doanh bảo hiếm cùng với kinh doanh tiền tệ. Mô hình này có
nhiều ưu điểm như: ngân hàng có thể kết hợp nhiều lĩnh vực kinh doanh, nhờ đó giảm bớt rủi
ro cho hoạt động kinh doanh bằng việc đa dạng hoá đầu tư, tận dụng được lợi thế của mình như
nguồn vốn, cơ sở vật chất, quan hệ rộng với khách hàng.... Tuy nhiên, mô hình này cũng có
những hạn chế nhất định, như: biến động trên thị trường chứng khoán có thể ảnh hưởng đến
hoạt động của hệ thống ngân hàng và ngược lại, do đó thị trường chứng khoán sẽ khó phát triển.

2.2.2. Chức năng của công ty chứng khoán

- Tạo ra cơ chế huy động vốn. Các CTCK là những chủ thể làm nhiệm vụ cầu nối giữa
bên phát hành chứng khoán và bên có nhu cầu chứng khoán, cầu nối giữa một bên có nhu cầu
về vốn (doanh nghiệp huy động vốn) và bên kia là các nhà đầu tư có nhu cầu đầu tư các khoản
tiền nhàn rỗi của mình để kiếm lợi nhuận. Các CTCK đảm nhiệm chức năng này qua các hoạt
động bảo lãnh phát hành chứng khoán và hoạt động môi giới chứng khoán. CTCK đã giúp tổ
chức phát hành chứng khoán huy động một cách tốt nhất vốn cần cho hoạt động kinh doanh và
đầu tư sản xuất, đồng thời cũng tạo cho bên thừa vốn tìm được đối tác đầu tư đem lại hiệu quả
tốt nhất.

- Cung cấp cơ chế giá cho các khoản đầu tư. Tại thị trường giao dịch tập trung, toàn bộ
các lệnh mua bán của thị trường đều thông qua các CTCK; trên cơ sở đó, giá chứng khoán sẽ
được xác định theo giá trị cung cầu do đó giúp các nhà đầu tư đánh giá và đưa ra những quyết
34
định đầu tư đúng đắn qua hoạt động tư vấn đầu tư và môi giới chứng khoán. Tại TTCK sơ cấp,
khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng khoán, CTCK thực hiện vai trò tạo cơ chế
giá chứng khoán thông qua việc xác định và tư vấn cho tổ chức phát hành mức giá phát hành
hợp lí. với vai trò là tổ chức trung gian và là cầu nối giữa nhà phát hành với nhà đầu tư, CTCK
có thể tìm hiểu và thóa thuận giá giữa các nhà đầu tư tiềm năng với tổ chức phát hành.

- Chức năng chuyển các chứng khoán ra tiền mặt và ngược lại. Các nhà đầu tư muôn
chuyển chứng khoán ra tiền mặt hoặc ngược lại trong một môi trường đầu tư ổn định thì thông
qua các CTCK là phương thức hữu hiệu nhất để giảm thiểu rủi ro và giảm thiếu thiệt hại trong
quá trình đầu tư. CTCK đảm nhận nghiệp vụ này qua cơ chế giao dịch của thị trường. Cho dù
có nhân tố nào bên ngoài có thể ảnh hưởng tới giá của chứng khoán thì giá trị của các khoản
đầu tư nói chung tại thời điểm đó không giảm, do đó người đầu tư không phải chịu thiệt hại
đáng kể đối với giá trị các khoản đầu tư của mình.

2.2.3 Vai trò của công ty chứng khoán

Thứ nhất, làm cầu nối giữa cung - cầu chứng khoán, tạo kênh huy động vốn hiệu quả
cho các doanh nghiệp. CTCK là một định chế tài chính trung gian tham gia vào quá trình luân
chuyển của chứng khoán, từ khâu phát hành trên thị trường sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán
trên thị trường thứ cấp.

Trên thị trường sơ cấp: CTCK là cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ
chức phát hành huy động vốn thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát hành. CTCK với nghiệp vụ
chuyên môn, kinh nghiệm nghề nghiệp và bộ máy tổ chức thích hợp thực hiện vai trò trung gian
môi giới trong mua, bán, phát hành chứng khoán, tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ
khác cho cả nhà đầu tư và tổ chức phát hành. Với các nghiệp vụ này, CTCK thực hiện vai trò
là kênh dẫn vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu.

Trên thị trường thứ cấp: CTCK là cầu nối giữa các nhà đầu tư, là trung gian chuyển các
khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. Trong môi trường đầu tư ổn định, các nhà đầu tư luôn
chọn những chứng khoán có tính thanh khoản cao, vì họ luôn có nhu cầu chuyển đổi số vốn
tạm thời nhàn rỗi thành các khoản đầu tư và ngược lại. CTCK với nghiệp vụ môi giới, tư vấn
đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi này, giúp cho các nhà đầu tư giảm thiểu thiệt hại về giá
trị khoản đầu tư của mình.

Thứ hai, góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường. Theo quy định của luật chứng
khoán các nước, các CTCK có nghiệp vụ tự doanh phải dành ra một tỷ lệ vốn nhất định để mua
chứng khoán vào khi giá giảm và bán chứng khoán dự trữ ra khi giá lên quá cao nhằm góp phần
điều tiết và bình ổn giá trên thị trường. Dĩ nhiên, sự can thiệp của các CTCK chỉ có hạn, phụ
thuộc vào nguồn vốn tự doanh và quỹ dự trữ chứng khoán. Tuy vậy, nó vẫn có ý nghĩa ở mức
độ nào đó, có thể tác động đến tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường, với vai trò này, các
CTCK góp phần tích cực vào sự duy trì và phát triển bền vững của TTCK.

Thứ ba, cung cấp các dịch vụ cho TTCK. CTCK với chức năng và nghiệp vụ của mình
cung cấp các dịch vụ cần thiết góp phần cho TTCK hoạt động ổn định, cụ thể: Thực hiện tư vấn
đầu tư, góp phần giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu tư. TTCK cũng tương tự như tất cả các thị
trường khác, để tiến hành giao dịch, người mua, người bán phải có cơ hội gặp nhau, thẩm định

35
chất lượng hàng hóa và thỏa thuận giá cả. Tuy nhiên, TTCK với những đặc trưng riêng của nó
như người mua, người bán có thể ở rất xa nhau, vì vậy để cung cầu gặp nhau, thẩm định chất
lượng, xác định giá cả thì phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho một giao dịch để
phục vụ cho việc thu thập, phân tích, xử lý thông tin... CTCK với lợi thế chuyên môn hóa, trình
độ kinh nghiệm nghề nghiệp sẽ thực hiện tốt vai trò trung gian mua bán chứng khoán, giúp các
nhà đầu tư giảm được chi phí trong từng giao dịch. Ngoài ra, CTCK còn cung cấp nhiều dịch
vụ khác hỗ trợ giao dịch chứng khoán (ứng trước tiền cho nhà đầu tư khi tiền thanh toán từ giao
dịch bán chưa về tài khoản của nhà đầu tư, hoạt động cho vay cầm cố chứng khoán, hoạt động
bảo quản và quản lý các công cụ tài chính...), thể hiện sự đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và
nâng cao hiệu quả đầu tư cho nhà đầu tư.

Thứ tư, cung cấp cơ chế xác định giá cho các khoản đầu tư. CTCK thông qua Sở giao
dịch và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác định giá nhằm giúp các nhà đầu tư đánh giá
đúng thực tế và chính xác các khoản đầu tư của mình. Khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành chứng khoán, các CTCK thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán thông qua việc xác
định và tư vấn cho các tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý. CTCK tư vấn cho các
doanh nghiệp khi phát hành lần đầu, phát hành tăng vốn, mua cổ phiếu quỹ. Bên cạnh đó, CTCK
còn là tổ chức tham mưu cho tổ chức phát hành trong việc niêm yết chứng khoán trên SGDCK,
trong việc định giá chứng khoán khi phát hành nhằm đảm bảo tính thanh khoản của chứng
khoán.

Trên thị trường thứ cấp: tất cả các lệnh mua bán thông qua các CTCK được tập trung
tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá chứng khoán được xác định theo quy luật cung
cầu. Với các nghiệp vụ đa dạng, CTCK giữ vai trò quan trọng trong việc phát triển của TTCK,
là trung gian không thể thiếu cho hoạt động của TTCK.

2.3 Đặc điểm, nguyên tắc hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán

2.3.1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán

Các nghiệp vụ chứng khoán rất đa dạng và có thể được thực hiện bởi các chủ thể kinh
doanh khác nhau trên TTCK; tuy nhiên, phạm vi hoạt động của mỗi chủ thể được giới hạn bởi
luật định. Hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK có các đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK phải được cơ quan nhà nước
có thẩm quyền cho phép (ở Việt Nam là UBCKNN) và thể hiện trong Giấy phép thành lập và
hoạt động của CTCK.

Thứ hai, hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK bao gồm: hoạt động kinh doanh
chính (môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư) và hoạt động kinh doanh phụ trợ
(hoạt động gắn liền với hoạt động kinh doanh chính và thường không phải xin cấp phép bởi cơ
quan quản lý nhà nước). Hai nhóm hoạt động kinh doanh này có mối liên hệ mật thiết với nhau,
hỗ trợ nhau. Ví dụ, hoạt động ứng trước tiền của CTCK gắn liền với hoạt động môi giới chứng
khoán. Nhờ có hoạt động môi giới mà CTCK được phép thực hiện hoạt động này, ngược lại
hoạt động ứng trước tiền của CTCK tạo sự linh hoạt trong việc thực hiện hoạt động môi giới
chứng khoán, đảm bảo nhu cầu về vốn kịp thời cho nhà đầu tư. CTCK đã được thực hiện giao

36
dịch ký quỹ theo quy định pháp luật được cho khách hàng vay tiền mua chứng khoán dưới hình
thức giao dịch ký quỹ theo hướng dẫn của Bộ Tài chính.

Thứ ba, hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK vì mục tiêu lợi nhuận. CTCK
trong các giao dịch với khách hàng và cả khi thực hiện hoạt động tự doanh luôn hướng tới mục
đích thu được một số tiền nhất định, có thể là các khoản phí giao dịch thu được từ khách hàng
hoặc các khoản chênh lệch từ việc tự doanh (tự mua, tự bán) chứng khoán cho chính công ty.

Thứ tư, hoạt động kinh doanh của CTCK có đối tượng kinh doanh là tiền và chứng
khoán (hàng hóa đặc biệt). Khác với các loại hàng hóa thông thường, chứng khoán có tính sinh
lợi, tính rủi ro và tính thanh khoản. Tính sinh lợi của chứng khoán cho phép nhà đầu tư có thể
nhận được một khoản lợi nhuận nhất định từ việc mua, bán, chuyển nhượng chứng khoán hoặc
nhận cổ tức, lãi suất trái phiếu sau một khoảng thời gian đầu tư nhất định. Tính rủi ro của chứng
khoán tạo nguy cơ khiến nhà đầu tư có thể mất toàn bộ hoặc một phần vốn đầu tư do giá trị của
chứng khoán dao động theo quy luật cung cầu hoặc do những thay đổi trong hoạt động, quản
trị, điều hành của tổ chức phát hành. Tính thanh khoản của chứng khoán tạo khả năng chuyển
đổi từ chứng khoán sang tiền mặt. Mỗi loại chứng khoán có tính thanh khoản khác nhau.

Thứ năm, hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK được thực hiện với các khách
hàng rất khác nhau. Khách hàng ở đây có thể là cá nhân, tổ chức, nhà đầu tư chuyên nghiệp,
không chuyên nghiệp, nhà đầu tư trong nước, nước ngoài. Quan hệ giữa CTCK và khách hàng
là quan hệ song vụ, được khẳng định thông qua các hợp đồng bằng văn bản. Tuy nhiên, xuất
phát từ đặc điểm của CTCK cũng là nhà đầu tư trên TTCK nên vấn đề xung đột lợi ích giữa
CTCK và các nhà đầu tư khác là điều khó tránh khỏi. Vì vậy, pháp luật quy định rất cụ thể về
các nghĩa vụ, trách nhiệm của CTCK khi thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán.
Hoạt động kinh doanh của chủ thể này rất phức tạp, tiềm ẩn rủi ro lớn, có thể gây thiệt hại cho
nhà đầu tư, tác động tới sự phát triển của TTCK. Do đó, hoạt động này phải được thực hiện dựa
trên các nguyên tắc nhất định.

Thứ sáu, hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK phải tuân thủ các nguyên tắc
hoạt động của TTCK như nguyên tắc công bằng, công khai, minh bạch, bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của nhà đầu tư chứng khoán...

2.3.2 Nguyên tắc hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán

- Nguyên tắc công khai, công bằng, minh bạch và vì lợi ích khách hàng

Dù là nhà đầu tư lớn hay nhỏ đều có quyền bình đẳng trong việc mở tài khoản tại các
CTCK do mình lựa chọn để thực hiện các giao dịch mua, bán chứng khoán trên TTCK, quyền
được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời. Khác với thị trường hàng hóa thông thường,
giá của các loại cổ phiếu trên TTCK không phụ thuộc vào giá do người bán đưa ra mà chủ yếu
phụ thuộc vào các thông tin về chứng khoán trên thị trường và nhu cầu của nhà đầu tư. Nhà đầu
tư có thể đưa ra các mức giá mua, bán chứng khoán khác nhau, dựa vào hiệu quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp niêm yết. Vì vậy, nếu thông tin được cung cấp không đầy đủ,
chính xác và kịp thời thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các quyết định của nhà đầu tư, gây ra những
thiệt hại cho nhà đầu tư. Những thông tin mà CTCK cung cấp cho nhà đầu tư phải thỏa mãn
các tiêu chí nhất định như thông tin chính xác (có nghĩa là thông tin công bố phải đúng sự thật,

37
phản ánh đúng các sự kiện trên thực tế diễn ra; mọi hành vi cắt xén thêm bớt, làm sai lệch thông
tin đều không được phép); thông tin phải nhanh chóng, kịp thời, tránh tình trạng thông tin đến
được với nhà đầu tư trở thành thông tin không còn giá trị. Nhà đầu tư có quyền tiếp cận đầy đủ
thông tin để đánh giá được tình hình hoạt động của TTCK, tình hình hoạt động của từng doanh
nghiệp như thông tin về giá chứng khoán, giá trị giao dịch, các chính sách vĩ mô về TTCK, về
nhân sự, tài chính, bộ máy quản trị, điều hành, phương án hoạt động kinh doanh, kế hoạch phát
triển... của doanh nghiệp. Quyền tiếp cận thông tin cân xứng thể hiện sự bình đẳng của mọi nhà
đầu tư trong việc tiếp cận thông tin và không ai có quyền sử dụng lợi thế của mình để tiếp cận
thông tin trước khi công bố rộng rãi ra công chúng.

Ngoài ra, giữa CTCK và nhà đầu tư, các tổ chức phát hành, niêm yết nguy cơ xảy ra
xung đột lợi ích là rất cao. Do vậy, pháp luật các nước thường có quy định để hạn chế sự xung
đột này như: CTCK phải ưu tiên lệnh của khách hàng trước lệnh của mình khi CTCK và khách
hàng cùng đặt lệnh mua một loại chứng khoán tại một thời điểm, giá cả như nhau, số lượng như
nhau; CTCK phải quản lý tách biệt chứng khoán của từng nhà đầu tư, tách biệt tiền và chứng
khoán của nhà đầu tư với tiền và chứng khoán của CTCK.

- Nguyên tắc bảo mật thông tin và bảo vệ tài sản của khách hàng

Nguyên tắc này yêu cầu các CTCK tuân thủ nghiêm ngặt nhằm đảm bảo quyền lợi của
nhà đầu tư chứng khoán. Các thông tin về tài khoản, số dư tài khoản, các giao dịch của khách
hàng trên tài khoản phải được giữ kín. Tuy nhiên, trong trường hợp nhất định, theo quyết định
của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền yêu cầu thanh tra, làm rõ vụ việc về vi phạm pháp luật
của nhà đầu tư hoặc những vi phạm khác có liên quan đến quyền lợi của nhà đầu tư thì bắt buộc
CTCK phải có nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại khoản
5 Điều 24 Thông tư số 121/2020/TT-BTC "CTCK phải bảo mật các thông tin nhận được từ
người sử dụng dịch vụ tư vấn trong quá trình cung ứng dịch vụ tư vấn trừ trường hợp được
khách hàng đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác”.

Vốn đầu tư của khách hàng là tài sản (gồm tiền và chứng khoán) mà nhà đầu tư sử dụng
để đầu tư chứng khoán trên TTCK. Đối với các tài sản khác, quyền sở hữu có thể bị xâm phạm
dưới hình thức vi phạm quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt. Tuy nhiên, đối với tài sản là
chứng khoán, tài sản này có thể bị xâm hại bằng cách làm giảm giá trị của chứng khoán. Thông
qua các hợp đồng ủy thác, hợp đồng mở tài khoản giao dịch... tài sản đầu tư được nhà đầu tư
trao cho CTCK, các tổ chức hỗ trợ cho các giao dịch chứng khoán như SGDCK, Tổng công ty
lưu ký và bù trừ chứng khoán quản lý... Vì vậy, vấn đề kiểm soát tài sản này trên thực tế rất
khó. Tùy từng luật pháp của mỗi quốc gia mà số tiền gửi đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư có
thể được lưu ký cùng với chứng khoán trong cùng một tài khoản giao dịch chứng khoán mở tại
CTCK hoặc lưu ký trong một tài khoản chuyên dùng cho đầu tư chứng khoán (mở tại ngân hàng
thương mại), hoặc có thể được thể hiện kết hợp trong chính tài khoản tiền gửi thông thường.
Chứng khoán có thể được lưu ký một cấp hoặc hai cấp. Khi chứng khoán được lưu ký một cấp
thì chứng khoán được lữu giữ tại thành viên lưu ký. Khi chứng khoán được lưu ký hai cấp thì
chứng khoán được lưu ký tại thành viên lưu ký, sau đó thành viên lưu ký tái lưu ký số chứng
khoán đó tại Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán. Vậy chứng khoán của nhà đầu tư có
thể được mua, bán bởi thành viên lưu ký (nhân viên quản lý tài khoản của khách hàng). Khi
TTCK phát triển, giá chứng khoán tăng, họ sẽ đặt lệnh bán chứng khoán, sau một thời gian khi
38
giá chứng khoán giảm, họ đặt lệnh mua chứng khoán. Thông qua việc mua bán chứng khoán
của nhà đầu tư, nhân viên của CTCK được hưởng số tiền chênh lệch nhất định. Tài sản của nhà
đầu tư nhiều khi còn bị xâm phạm do số dư tiền hoặc chứng khoán trong tài khoản bị phong tỏa
không theo lệnh của nhà đầu tư, do vậy nhà đầu tư không thể đặt lệnh mua, bán chứng khoán.
Vậy bảo vệ tài sản đầu tư là một vấn đề rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của nhà đầu
tư chứng khoán, trên cơ sở đó tạo dựng niềm tin cho nhà đầu tư, đảm bảo sự phát triển TTCK.
Để bảo vệ tài sản đầu tư của khách hàng, pháp luật các nước thường có quy định về nghĩa vụ
của CTCK tham gia bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp để bồi thường thiệt hại cho những sai
sót do nhân viên hành nghề của CTCK gây ra cho nhà đầu tư.

Pháp luật Việt Nam có quy định các nguyên tắc đặc thù trong hoạt động của CTCK như
sau

- CTCK phải ban hành quy trình nghiệp vụ, quy trình kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro
áp dụng cho các nghiệp vụ được cấp phép hoạt động.
- CTCK phải ban hành các quy tắc đạo đức hành nghề phù hợp với nghiệp vụ kinh doanh
của công ty.
- CTCK phải đảm bảo tách biệt về văn phòng làm việc, nhân sự, hệ thống dữ liệu, báo
cáo giữa các bộ phận nghiệp vụ để đảm bảo tránh xung đột lợi ích giữa CTCK với khách
hàng hoặc giữa các khách hàng với nhau. Công ty chứng khoán phải công bố cho khách
hàng biết trước về những xung đột lợi ích có thể phát sinh giữa công ty chứng khoán,
người hành nghề chứng khoán và khách hàng.
- CTCK phải bố trí người hành nghề chứng khoán có chứng chỉ hành nghề chứng khoán
phù hợp với các nghiệp vụ hoạt động. Nhân viên hành nghề chứng khoán thực hiện
nghiệp vụ môi giới chứng khoán/ tư vấn đầu tư chứng khoán không được kiêm nhiệm
thực hiện các công việc tại các bộ phận thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán, bảo
lãnh phát hành chứng khoán, quản lý tài khoản giao dịch ủy thác.
- CTCK không được đưa ra nhận định hoặc bảo đảm với khách hàng về mức thu nhập
hoặc lợi nhuận đạt được trên khoản đầu tư của mình hoặc bảo đảm khách hàng không
bị thua lỗ, trừ trường hợp đầu tư vào chứng khoán có thu nhập cố định.
- CTCK không được thực hiện những hành vi làm cho khách hàng và nhà đầu tư hiểu
nhầm về giá chứng khoán.
- CTCK đưa ra dự báo giá hoặc khuyến nghị giao dịch liên quan đến một loại chứng
khoán cụ thể trên các phương tiện truyền thông phải ghi rõ cơ sở phân tích và nguồn
trích dẫn thông tin11.

Có thể thấy đây là những nguyên tắc đặc thù trong kinh doanh của CTCK, thể hiện sự
khác biệt với các loại hình doanh nghiệp khác trong nền kinh tế.

2.4 Nội dung pháp luật về công ty chứng khoán

2.4.1 Pháp luật về thành lập công ty chứng khoán

2.4.1.1 Điều kiện thành lập công ty chứng khoán

11
Xem: Thông tư số 121/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về hoạt động của công ty chứng khoán

39
Điều kiện về vốn: CTCK phải có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp định. Luật
Chứng khoán Việt Nam không quy định cụ thể vấn đề này, các điều kiện về vốn được thể hiện
trong văn bản hướng dẫn thi hành.

Vốn điều lệ tối thiểu cho các nghiệp vụ kinh doanh của công ty chứng khoán tại Việt
Nam như sau:

- Môi giới chứng khoán: 25 tỷ đồng;


- Tự doanh chứng khoán: 50 tỷ đồng;
- Bảo lãnh phát hành chứng khoán: 165 tỷ đồng;
- Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng.

Vốn tối thiểu cấp cho chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài tại Việt Nam là 10 tỷ
đồng.

Trường hợp tổ chức đề nghị cấp phép cho nhiều nghiệp vụ kinh doanh, vốn điều lệ tối
thiểu là tổng số vốn tương ứng với từng nghiệp vụ đề nghị cấp phép 12.

Vốn góp để thành lập CTCK, công ty quản lý quỹ, chi nhánh CTCK nước ngoài, công
ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam phải bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ tự do chuyển
đổi.

Các tổ chức, cá nhân tham gia góp vốn phải chứng minh nguồn vốn hợp pháp và được
tổ chức kiểm toán độc lập xác nhận.

Tỷ lệ sở hữu của bên nước ngoài trong CTCK, công ty quản lý quỹ có vốn đầu tư1 nước
ngoài tại Việt Nam thực hiện theo quy định của pháp luật.

Điều kiện về cổ đông, thành viên góp vốn bao gồm:

- Cổ đông, thành viên góp vốn là cá nhân không thuộc các trường hợp không được quyền
thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật Doanh nghiệp;
- Cổ đông, thành viên góp vốn là tổ chức phải có tư cách pháp nhân và đang hoạt động
hợp pháp; hoạt động kinh doanh có lãi trong 02 năm liền trước năm đề nghị cấp giấy
phép; báo cáo tài chính năm gần nhất phải được kiểm toán với ý kiến chấp nhận toàn
phần;
- Cổ đông, thành viên góp vốn sở hữu từ 10% trở lên vốn điều lệ của 01 công ty chứng
khoán và người có liên quan của cổ đông, thành viên góp vốn đó (nếu có) không sở hữu
trên 5% vốn điều lệ của 01 công ty chứng khoán khác;
- Cổ đông, thành viên góp vốn là nhà đầu tư nước ngoài phải đáp ứng điều kiện theo quy
định của Luật Chứng khoán.

Điều kiện về cơ cấu cổ đông, thành viên góp vốn bao gồm:

- Có tối thiểu 02 cổ đông sáng lập, thành viên góp vốn là tổ chức. Trường hợp công ty
chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên,

12
Xem: Nghị định số 155/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng
khoán

40
chủ sở hữu phải là doanh nghiệp bảo hiểm hoặc ngân hàng thương mại hoặc tổ chức
nước ngoài theo quy định của Luật Chứng khoán;
- Tổng tỷ lệ vốn góp của các tổ chức tối thiểu là 65% vốn điều lệ, trong đó các tổ chức là
doanh nghiệp bảo hiểm, ngân hàng thương mại sở hữu tối thiểu là 30% vốn điều lệ.

Điều kiện về nhân sự: Có danh sách dự kiến về nhân sự công ty, có tối thiểu 03 nhân
viên có chứng chỉ hành nghề chứng khoán phù hợp cho mỗi nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán
đề nghị cấp phép và tối thiểu 01 nhân viên kiểm soát tuân thủ. Tổng Giám đốc (Giám đốc) công
ty chứng khoán và phải đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

- Không thuộc trường hợp đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chấp hành án phạt
tù hoặc bị cấm hành nghề chứng khoán theo quy định của pháp luật;
- Có tối thiểu 02 năm kinh nghiệm làm việc tại bộ phận nghiệp vụ của các tổ chức trong
lĩnh vực tài chính, chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm hoặc tại bộ phận tài chính, kế
toán, đầu tư trong các doanh nghiệp khác;
- Có chứng chỉ hành nghề phân tích tài chính hoặc chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ;
- Không bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán trong thời hạn 06 tháng gần nhất tính đến thời điểm nộp hồ sơ.

Trường hợp có Phó Tổng giám đốc (Phó Giám đốc) phụ trách nghiệp vụ thì phải đáp
ứng các tiêu chuẩn trên; tuy nhiên, không cần có chứng chỉ hành nghề phân tích tài chính hoặc
chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ, chỉ cần có chứng chỉ hành nghề chứng khoán phù hợp với
nghiệp vụ phụ trách13.

Điều kiện cơ sở vật chất:


- Có trụ sở làm việc bảo đảm cho hoạt động kinh doanh chứng khoán;
- Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật, trang bị, thiết bị văn phòng, hệ thống công nghệ phù hợp
với quy trình nghiệp vụ về hoạt động kinh doanh chứng khoán.

2.4.1.2 Trình tự, thủ tục thành lập CTCK

Theo pháp luật của Việt Nam, các bước thành lập CTCK như sau:

- Lập hồ sơ xin phép thành lập CTCK;

- Thẩm định hồ sơ và các điều kiện hoạt động của CTCK;

- Quyết định cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho CTCK.

Hồ sơ xin phép thành lập CTCK bao gồm:

- Giấy đề nghị cấp Giấy phép thành lập và hoạt động;


- Bản thuyết minh cơ sở vật chất đảm bảo thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh kèm theo
tài liệu chứng minh quyền sử dụng trụ sở;
- Biên bản họp và quyết định của cổ đông sáng lập hoặc thành viên sáng lập về việc thành
lập công ty chứng khoán.

13
Xem: Điều 74 Luật Chứng khoán 2019

41
- Danh sách dự kiến TGĐ và người hành nghề chứng khoán kèm theo bản sao hợp lệ
chứng chỉ hành nghề chứng khoán; Bản thông tin cá nhân của TGĐ;
- Danh sách và tỷ lệ sở hữu của các cổ đông, thành viên tham gia góp vốn;
- Danh sách dự kiến thành viên HĐQT, HĐTV, BKS (nếu có) kèm theo bản sao hợp lệ
giấy chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu còn hiệu lực, phiếu lý lịch tư pháp và bản
thông tin cá nhân;
- Tài liệu chứng minh năng lực góp vốn của cổ đông, thành viên tham gia góp vốn thành
lập công ty chứng khoán:
- Văn bản chấp thuận về việc cho phép góp vốn thành lập của cơ quan quản lý, giám sát
chuyên ngành đối với NHTM, doanh nghiệp bảo hiểm hoặc tài liệu khác chứng minh
được phép góp vốn thành lập CTCK
- Dự thảo Điều lệ công ty đã được các cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập công ty
chứng khoán thông qua;
- Phương án hoạt động kinh doanh trong ba (03) năm đầu phù hợp với nghiệp vụ kinh
doanh đề nghị cấp kèm theo các quy trình nghiệp vụ, quy trình kiểm soát nội bộ, quy
trình quản trị rủi ro.

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) có thẩm quyền cấp, cấp lại, điều chỉnh, thu
hồi Giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh chứng khoán cho công ty chứng khoán.

Chính phủ quy định hồ sơ, thủ tục cấp, cấp lại, điều chỉnh, thu hồi Giấy phép thành lập
và hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán.

Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ đầy đủ và hợp lệ, Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước cấp hoặc từ chối cấp Giấy phép thành lập và hoạt động kinh doanh chứng
khoán, Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động. Trường hợp từ chối, Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.

Công ty chứng khoán phải công bố thông tin hoạt động trên phương tiện công bố thông
tin của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước và 01 tờ báo điện tử hoặc báo in trong 03 số liên tiếp ít
nhất 30 ngày trước ngày dự kiến chính thức hoạt động.

Công ty chứng khoán phải chính thức hoạt động trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày
được cấp phép. Công ty chứng khoán không được tiến hành hoạt động kinh doanh chứng khoán
trước ngày chính thức hoạt động14.

2.4.2. Pháp luật về hoạt động kinh doanh chứng khoán của công ty chứng khoán

Hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK là loại hình hoạt động kinh doanh có
điều kiện, phải được UBCKNN cấp phép.

2.4.2.1 Pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán của công ty chứng khoán

a/ Khái niệm hoạt động môi giới chứng khoán

14
Xem: Mục 1 Chương VI Luật Chứng khoán 2019

42
Theo quy định của Luật Chứng khoán 2019 thì môi giới chứng khoán là việc làm trung
gian thực hiện mua, bán chứng khoán cho khách hàng.

Chúng ta có thể hiểu hoạt động môi giới chứng khoán của CTCK như sau: Hoạt động
môi giới chứng khoán của CTCK là hoạt động kinh doanh chứng khoán, theo đó một CTCK đại
diện cho khách hàng thực hiện giao dịch chứng khoán thông qua cơ chế giao dịch tại SGDCK
hay thị trường OTC và chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả của việc giao
dịch đó.

b/ Đặc điểm của hoạt động môi giới chứng khoán của CTCK

- Chủ thể thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán là CTCK đóng vai trò trung gian,
đại diện cho khách hàng thực hiện các lệnh mua/bán chứng khoán. Đây là đặc điểm
phân biệt với hoạt động tự doanh chứng khoán (chủ thể tự doanh nhân danh mình thực
hiện hành vi mua bán). Trong hoạt động môi giới chứng khoán, chủ thể được thực hiện
hoạt động này là CTCK được cấp giấy phép thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
Trong khi đó chủ thể của hoạt động môi giới thương mại là bất kì thương nhân nào đăng
ký thực hiện nghiệp vụ môi giới hàng hoá dịch vụ.
- Khách thể của hoạt động môi giới chứng khoán là các loại chứng khoán. Đây là một
hàng hoá đặc biệt, còn các loại hàng hoá là khách thể của hoạt động môi giới thương
mại là hàng hóa thông thường, có thể dễ dàng xác định giá trị.
- Hoạt động môi giới chứng khoán là loại hình hoạt động kinh doanh chứng khoán, thể
hiện vai trò trung gian của CTCK trên TTCK. Theo đó, CTCK thực hiện việc mua, bán,
giao dịch chứng khoán thay cho khách hàng và được hưởng phí môi giới. Khách hàng
sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của giao dịch. CTCK không chịu trách
nhiệm về những hậu quả hay thiệt hại khi mua bán chứng khoán, trừ những trường hợp
thiệt hại xảy ra do lỗi của CTCK môi giới (ví dụ, trong quá trình chuyển lệnh đã làm sai
lệnh cho khách hàng).
- CTCK môi giới không có quyền quyết định giá cả khi môi giới chứng khoán cho khách
hàng. Giá chứng khoán mua vào hay bán ra được thực hiện theo lệnh của người mua,
bán được môi giới. Người môi giới có chức năng là đưa ra những thông tin cho khách
hàng về tình hình của thị trường nhưng việc mua hay bán loại chứng khoán nào thì do
nhà đầu tư quyết định.
- Hoạt động môi giới chứng khoán là hoạt động trung gian khá phức tạp không chỉ đại
diện cho khách hàng thực hiện các lệnh mua bán chứng khoán theo yêu cầu của họ, mà
còn là cung cấp một dải dịch vụ khác đi kèm (môi giới dịch vụ đầy đủ). Tuy nhiên, cũng
có khi chỉ đơn thuần là người thực hiện việc mua bán thay cho khách hàng vì mọi hoạt
động mua bán chứng khoán phải qua trung gian. Đối với hoạt động môi giới thương
mại, người môi giới thông thường trong các trường hợp là trung gian giới thiệu các bên
có nhu cầu mua bán gặp nhau. Việc kýkết hợp đồng thường do chính các bên tự thực
hiện.
- Việc hạch toán các giao dịch phải được thể hiện trên các tài khoản thuộc sở hữu của
khách hàng: Để có thể tham gia vào TTCK, các nhà đầu tư phải mở một tài khoản giao
dịch để quyết toán tại một CTCK. Do vậy, việc hạch toán giao dịch phải được thực hiện
trên tài khoản của khách hàng.

43
c/ Vai trò của hoạt động môi giới chứng khoán

- Hoạt động môi giới chứng khoán làm giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu tư chứng
khoán. Trên nhiều thị trường khác, để tiến hành giao dịch, người bán và người mua cần
có sự gặp gỡ, thẩm định chất lượng hàng hoá và thoả thuận giá cả. Trên TTCK, việc
thẩm định chất lượng và giá cả của hàng hoá nhiều khi rất khó khăn, thường chỉ có các
CTCK chuyên nghiệp, hoạt động trên quy mô lớn mới thực hiện được điều này. Thêm
nữa, sự hiện diện của các tổ chức trung gian và chuyên nghiệp như CTCK sẽ làm cầu
nối cho các bên mua và bán, làm giảm đáng kể chi phí tìm kiếm đối tác, chi phí soạn
thảo và giám sát thực thi hợp đồng. Nhờ đó, hoạt động môi giới giúp nâng cao tính thanh
khoản của chứng khoán, thúc đẩy sự phát triển của TTCK.
- Hoạt động môi giới chứng khoán thúc đẩy sự phát triển các sản phẩm và dịch vụ trên
thị trường chứng khoán. CTCK và các nhân viên hành nghề môi giới, khi thực hiện vai
trò làm trung gian giữa người bán (có thể là nhà phát hành hoặc nhà đầu tư) và người
mua (nhà đầu tư) có thể nắm bắt được nhu cầu của khách hàng và phản ánh với người
cung ứng hàng hoá dịch vụ. Xét trong dài hạn tạo sự đa dạng của sản phẩm và dịch vụ,
nhờ đó đa dạng hoá cơ cấu khách hàng, thu hút được ngày càng nhiều nguồn vốn nhàn
rỗi trong xã hội cho đầu tư tăng trưởng. Môi trường đầu tư đa dạng về sản phẩm với phí
dịch vụ thấp và có lợi nhuận thoả đáng sẽ thu hút được nguồn vốn nhàn rỗi cho tăng
trưởng.
- Hoạt động môi giới chứng khoán cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh. Đồng thời,
với sự phát triển của hoạt động môi giới, cộng đồng các doanh nghiệp và nhà đầu tư sẽ
hình thành nên một nền văn hoá đầu tư với những thói quen tìm hiểu và tuân thủ pháp
luật trong kinh doanh. Thêm nữa, nhờ vào sự cạnh tranh, chất lượng và hiệu quả của
dịch vụ sẽ được gia tăng đáng kể. Qua đó góp phần vào việc gia tăng lợi nhuận và thu
hút nhà đầu tư đến mở tài khoản và giao địch tại CTCK.

d/ Nội dung pháp luật điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán

Các quan hệ thuộc sự điều chỉnh của pháp luật về hoạt động môi giới chứng khoán bao
gồm:

- Quan hệ quản lý nhà nước đối với hoạt động môi giới chứng khoán (được thể hiện
trong hoạt động cấp, thu hồi giấy phép, cấp chứng chỉ ngành nghề môi giới chứng khoán cho
CTCK và nhân viên hành nghề môi giới chứng khoán);

- Quan hệ phát sinh trong quá trình thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán của các
chủ thể liên quan (chủ yếu là quan hệ giữa các chủ thể trong hợp đồng mở tài khoản giao dịch
chứng khoán).

- Về thông tin của khách hàng và cung cấp thông tin giao dịch cho khách hàng: Dữ liệu
về tài khoản môi giới của khách hàng mở tài khoản tại công ty chứng khoán phải được quản lý
tập trung và phải lưu giữ dự phòng tại địa điểm khác. Khi thực hiện hoạt động môi giới chứng
khoán, CTCK không được tiết lộ các thông tin về tài khoản cứa khách hàng nếu chưa được
khách hàng đồng ý, trừ trường hợp do pháp luật quy định. Sau khi thực hiện giao dịch mua bán
chứng khoán cho khách hàng, việc lập báo cáo xác nhận hành vi giao dịch và kết quá giao dịch

44
gửi cho khách hàng là một nghĩa vụ bắt buộc đối với các CTCK được pháp luật các nước ghi
nhận.

- Về hoạt động nghiệp vụ: Công ty chứng khoán phải bố trí người hành nghề chứng
khoán làm việc tại các vị trí sau:

 Tư vấn, giải thích hợp đồng và thực hiện các thủ tục mở tài khoản giao dịch chứng khoán
cho khách hàng;
 Tư vấn giao dịch chứng khoán cho khách hàng;
 Nhận lệnh, kiểm soát lệnh giao dịch chứng khoán của khách hàng;
 Trưởng các bộ phận liên quan đến nghiệp vụ môi giới chứng khoán.

- Về vấn đề phòng, chống rửa tiền: Công ty chứng khoán phải tuân thủ các quy định về
phòng, chống rửa tiền theo các quy định pháp luật hiện hành.

- Về hành vi bị cấm khi thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán như:

 Đưa ra ý kiến về việc tăng hay giảm giá chứng khoán mà không có căn cứ để lôi kéo
khách hàng tham gia giao dịch;
 Thỏa thuận hoặc đưa ra lãi suất cụ thể hoặc chia sẻ lợi nhuận hoặc thua lỗ với khách hàng
để lôi kéo khách hàng tham gia giao dịch;
 Trực tiếp hoặc gián tiếp thiết lập các địa điểm cố định bên ngoài các địa điểm giao dịch
đã được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước chấp thuận để ký hợp đồng mở tài khoản giao
dịch với khách hàng, nhận lệnh, thực hiện lệnh giao dịch chứng khoán hoặc thanh toán
giao dịch chứng khoán với khách hàng, trừ trường hợp thực hiện giao dịch chứng khoán
trực tuyến;
 Nhận lệnh, thanh toán giao dịch với người không phải là người đứng tên tài khoản giao
dịch mà không có ủy quyền của người đứng tên tài khoản bằng văn bản;
 Tiết lộ các nội dung đặt lệnh giao dịch của khách hàng hoặc thông tin bí mật khác có được
khi thực hiện giao dịch cho khách hàng mà không phải để công bố thông tin hoặc theo
yêu cầu thanh tra, kiểm tra theo quy định của pháp luật;
 Sử dụng tên hoặc tài khoản của khách hàng để đăng ký, giao dịch chứng khoán;
 Xâm phạm tài sản, quyền và lợi ích khác của khách hàng.

Theo quy định của pháp luật Việt Nam, các CTCK mới được thực hiện hoạt động môi
giới, còn đối với các nhà môi giới tự do (các cá nhân) thì không được phép hành nghề độc lập.
Điều này thể hiện sự đặc thù của pháp luật Việt Nam so với pháp luật của một số nước như
pháp luật của Hoa Kỳ.

 Điều kiện cấp chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán

Người hành nghề chứng khoán là người được UBCKNN cấp chứng chỉ hành nghề chứng
khoán và đang làm việc tại các vị trí nghiệp vụ chuyên môn trong CTCK, công ty quản lý quỹ,
công ty đầu tư chứng khoán.

Chứng chỉ hành nghề chứng khoán là văn bằng xác nhận người có tên trong chứng chỉ
đáp ứng điều kiện chuyên môn để làm việc tại CTCK, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư

45
chứng khoán hoạt động hợp pháp trên lãnh thổ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Chứng chỉ hành nghề chứng khoán bao gồm các loại sau:

- Chứng chỉ hành nghề Môi giới chứng khoán;

- Chứng chỉ hành nghề Phân tích tài chính;

- Chứng chỉ hành nghề Quản lý quỹ.

Chứng chỉ hành nghề chứng khoán chỉ có giá trị sử dụng khi người được cấp chứng chỉ
làm việc tại một CTCK, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán và được công ty đó
thông báo với UBCKNN. Chứng chỉ hành nghề chứng khoán được cấp không thời hạn, trừ
trường hợp bị thu hồi theo quy định của pháp luật chứng khoán.

Chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán được cấp cho cá nhân đáp ứng được các
điều kiện sau:

- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ; không thuộc trường hợp đang bị truy cứu trách
nhiệm hình sự hoặc đang bị cấm hành nghề chứng khoán theo quy định của pháp luật;
- Có trình độ từ đại học trở lên;
- Có trình độ chuyên môn về chứng khoán;
- Đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch cấp chứng chỉ hành nghề chứng khoán phù hợp với
loại chứng chỉ hành nghề chứng khoán đề nghị cấp. Người nước ngoài có chứng chỉ
chuyên môn về chứng khoán hoặc những người đã hành nghề chứng khoán hợp pháp ở
nước ngoài phải đạt yêu cầu trong kỳ thi sát hạch pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán của Việt Nam;
- Có các chứng chỉ chuyên môn về chứng khoán bao gồm: chứng chỉ những vấn đề cơ
bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, chứng chỉ pháp luật về chứng khoán và
thị trường chứng khoán, chứng chỉ phân tích và đầu tư chứng khoán, chứng chỉ môi giới
chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán hoặc chứng chỉ tương đương.

Người hành nghề chứng khoán thực hiện nghiệp vụ tự doanh chứng khoán không được
đồng thời thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng khoán.

 Nguyên tắc hành nghề chứng khoán:


- Người có chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán được thực hiện nghiệp vụ môi
giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán;
- Người có chứng chỉ hành nghề phân tích tài chính được thực hiện nghiệp vụ môi giới
chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành
chứng khoán;
- Người có chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ được thực hiện nghiệp vụ môi giới chứng
khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng
khoán, quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, quản lý quỹ đầu tư chứng khoán;
- Chứng chỉ hành nghề chứng khoán chỉ có giá trị sử dụng khi người được cấp chứng chỉ
làm việc tại một công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, chi
nhánh công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam, công ty đầu
tư chứng khoán và được công ty đó thông báo với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước;

46
- Người có 01 trong 03 loại chứng chỉ hành nghề chứng khoán và có chứng chỉ chuyên
môn chứng khoán phái sinh và thị trường chứng khoán phái sinh được thực hiện nghiệp
vụ tương ứng với chứng chỉ đang nắm giữ liên quan đến chứng khoán phái sinh tại công
ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán;
- Người có chứng chỉ hành nghề chứng khoán chỉ được làm việc tại 01 bộ phận nghiệp
vụ kinh doanh chứng khoán trong một thời điểm.
 Quy trình thực hiện hoạt động môi giới chứng khoán của CTCK
- Bước 1: Nhà đầu tư đến mở tài khoản giao dịch chứng khoán trên cơ sở ký hợp đồng
giữa nhà đầu tư và CTCK.
- Bước 2: CTCK nhận lệnh;
- Bước 3: SGDCK ghép lệnh và thông báo kết quả giao dịch cho CTCK;
- Bước 4: CTCK thông báo kết quả giao dịch cho nhà đầu tư;
- Bước 5: Thanh toán và hoàn tất giao dịch

Thứ nhất: Về việc mở tài khoản giao dịch cho khách hàng. Để thực hiện giao dịch mua,
bán chứng khoán cho khách hàng, CTCK phải làm thủ tục mở tài khoản giao dịch cho từng
khách hàng trên cơ sở Giấy đề nghị mở tài khoản của khách hàng và và hợp đồng ký với khách
hàng. CTCK có nghĩa vụ giải thích nội dung hợp đồng mở tài khoản giao dịch và các thủ tục
có liên quan khi thực hiện giao dịch chứng khoán cho khách hàng, tìm hiểu khả năng tài chính,
khả năng chịu đựng rủi ro và kỳ vọng lợi nhuận thu được của khách hàng.

Hợp đồng môi giới chứng khoán được ký kết thành văn bản giữa CTCK với khách hàng
nhằm thực hiện giao dịch chứng khoán. Hợp đồng này bao gồm những nội dung cơ bản sau:

- Quy định về các bên tham gia ký kết hợp đồng (tên, địa chỉ, chứng minh nhân dân, hộ
chiếu, giấy chứng nhận đăng kýkinh doanh...)
- Quy định về điều khoản thỏa thuận cụ thể (cách thức đặt và nhận lệnh của công ty, tỷ lệ
ký quỹ đặt, mua bán chứng khoán được áp dụng, thỏa thuận về lãi suất trên số dư tiền
gửi giao dịch CK, điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng...)
- Quy định về các điều khoản khác như trách nhiệm do vi phạm hợp đồng, trường hợp
chấm dứt hợp đồng, hiệu lực của hợp đồng, giải quyết tranh chấp phát sinh.

Hợp đồng mở tài khoản giao dịch chứng khoán không được chứa đựng những thoả thuận
sau:

- Thoả thuận nhằm trốn tránh nghĩa vụ pháp lý của CTCK mà không có lý do chính đáng;
- Thoả thuận hạn chế phạm vi bồi thường của CTCK mà không có lý do chính đáng hoặc
chuyển rủi ro từ CTCK sang khách hàng;
- Thoả thuận buộc khách hàng thực hiện nghĩa vụ bồi thường một cách không công bằng;
- Các thoả thuận gây bất lợi một cách không công bằng cho khách hàng.

Nhà đầu tư mở tài khoản tại công ty chứng khoán phải điền đầy đủ các thông tin trên
hợp đồng mở tài khoản.

Thứ hai: Về việc nhận lệnh giao dịch. Về phương thức nhận lệnh: CTCK có thể nhận
lệnh theo các phương thức khác nhau. Có hai phương thức chủ yếu:

- Nhận phiếu lệnh trực tiếp tại quầy giao dịch;


47
- Nhận lệnh từ xa qua điện thoại, fax, internet và các đường truyền khác.

Nếu CTCK nhận bằng phiếu lệnh thì chỉ được nhận lệnh của khách hàng khi phiếu lệnh
được điền chính xác và đầy đủ các thông tin. Phiếu lệnh giao dịch phải được người môi giới
của CTCK ghi nhận số thứ tự và thời gian (ngày, giờ, phút) nhận lệnh tại thời điểm nhận lệnh.
CTCK phải thực hiện một cách nhanh chóng và chính xác lệnh giao dịch của khách hàng. CTCK
phải lưu trữ các phiếu lệnh của khách hàng theo quy định của pháp luật. Đồng thời, mọi lệnh
giao dịch chứng khoán niêm yết tại SGDCK, phải được truyền qua trụ sở chính hoặc chi nhánh
CTCK trước khi nhập lệnh vào hệ thống giao dịch của SGDCK. Trường hợp khách hàng mở
tài khoản lưu ký tại thành viên lưu ký không phải là thành viên giao dịch, thành viên giao dịch
và thành viên lưu ký phải ký hợp đồng thoả thuận trách nhiệm đảm bảo nguyên tắc thành viên
giao dịch chịu trách nhiệm thực hiện lệnh giao dịch, thành viên lưu ký chịu trách nhiệm kiểm
tra tỷ lệ ký quỹ chứng khoán của khách hàng và đảm bảo thanh toán cho khách hàng theo quy
định pháp luật.

Công ty chứng khoán chỉ được thực hiện giao dịch chứng khoán trực tuyến theo quy
định pháp luật. Trường hợp nhận lệnh giao dịch chứng khoán trực tuyến, qua điện thoại, qua
fax và các đường truyền khác, công ty chứng khoán phải tuân thủ:

- Luật Giao dịch điện tử và các văn bản hướng dẫn;


- Xác thực khách hàng và đảm bảo có ghi nhận lại đầy đủ thông tin tại thời điểm nhận
lệnh, lưu giữ bằng chứng chứng minh về việc đặt lệnh của khách hàng để có thể tra cứu
được khi cần thiết;
- Đảm bảo nguyên tắc xác nhận với khách hàng trước khi nhập lệnh vào hệ thống giao
dịch;
- Có biện pháp đảm bảo an toàn, an ninh đường truyền và biện pháp khắ c phu ̣c thích hợp
khi không nhâ ̣p được lê ̣nh của khách hàng vào hê ̣ thố ng giao dich
̣ do lỗi của công ty

Đối với lệnh nhận qua điện thoại, fax, CTCK phải đảm bảo nguyên tắc: xác nhận lại với
khách hàng trước khi nhập lệnh vào hệ thống giao dịch, lưu giữ bằng chứng chứng minh về
việc đặt lệnh của khách hàng; Có biện pháp khắc phục thích hợp khi không nhập được lệnh của
khách hàng vào hệ thống giao dịch do lỗi của công ty.

- Địa điểm nhận lệnh: Phiếu lệnh do khách hàng lập phải được lưu trữ tại địa điểm nhận
lệnh. Theo quy định của pháp luật Việt Nam, CTCK được nhận lệnh qua trụ sở chính, chi nhánh,
phòng giao dịch và đại lý nhận lệnh. Mọi hành vi của CTCK và nhân viên công ty nhận lệnh
giao dịch của khách hàng bên ngoài địa điểm nhận lệnh trên đều bị coi là vi phạm pháp luật.

Về điều kiện nhận lệnh: CTCK chỉ được nhận lệnh khi có đủ tiền và chứng khoán ký
quỹ theo tỉ lệ quy định của pháp luật và có các biện pháp cần thiết đảm bảo khả năng thanh toán
của khách hàng khi lệnh giao dịch được thực hiện. Quy định này nhằm tránh việc mua bán
khống chứng khoán trên TTCK – tức là khi không có chứng khoán vẫn bán chứng khoán và khi
không có tiền vẫn mua chứng khoán, tạo nên hiệu ứng không tốt cho TTCK. CTCK mở tài
khoản chuyên dụng tại ngân hàng thương mại để quản lý tiền gửi giao dịch chứng khoán của
khách hàng. Tài khoản chuyên dụng phải mở riêng biệt và tách bạch với các tài khoản khác của
CTCK.

48
Thứ ba: SGDCK ghép lệnh và thông báo kết quả giao dịch cho CTCK. CTCK phải kiểm
tra trước khi chuyển lệnh đến SGDCK, các hạng mục cần kiểm tra là các thông tin mà khách
hàng điền ở trong phiếu lệnh trước đó. Sau khi lệnh của khách hàng được kiểm tra và đã tuân
thủ những điều kiện nhất định thì CTCK thực hiện lệnh chuyển đến đại diện của CTCK tại
SGDCK. Sau khi có kết quả thì SGDCK xác nhận kết quả giao dịch khớp lệnh tới các thành
viên là CTCK.

Phương thức khớp lệnh: là phương thức giao dịch được hệ thống giao dịch thực hiện
trên cơ sở khớp các lệnh mua và bán chứng khoán của khách hàng theo nguyên tắc xác định giá
như sau:

- Là mức giá thực hiện đạt được khối lượng giao dịch lớn nhất.
- Nếu có nhiều mức giá thỏa mãn điều kiện nêu trên thì mức giá trùng hoặc gần với mức
giá thực hiện của lần khớp lệnh gần nhất sẽ được chọn.

Phương thức thỏa thuận: là phương thức giao dịch trong đó các thành viên tự thỏa thuận
với nhau về các điều kiện giao dịch, nguyên tắc giao dịch. Các giao dịch phải được thực hiện
thông qua CTCK thành viên của SGDCK. UBCKNN quy định cụ thể việc áp dụng các phương
thức giao dịch đối với mỗi loại chứng khoán trong từng thời kì.

Thứ tư: CTCK thông báo kết quả giao dịch cho nhà đầu tư. Sau khi được SGDCK xác
nhận kết quả giao dịch, người đại diện của CTCK tại SGDCK sẽ thông báo cho CTCK của
mình và CTCK có nghĩa vụ thông báo cho người đầu tư. CTCK gửi kết quả xác nhận bằng văn
bản hoặc các hình thức khác theo thỏa thuận với khách hàng trước đó tại hợp đồng mở tài khoản
giao dịch.

Thứ năm: Thanh toán và hoàn tất giao dịch. Nhà đầu tư nhận được chứng khoán nếu là
người mua, hoặc tiền nếu là người bán trên tài khoản của mình tại CTCK sau 2 ngày làm việc
kể từ ngày mua bán nếu quy định về thời gian thực hiện thanh toán bù trừ chứng khoán là T+2.
Theo đó các bên tham gia giao dịch sẽ thực hiện nghĩa vụ của mình: Bên phải trả chứng khoán
thực hiện giao dịch chứng khoán, bên phải trả tiền thực hiện việc chuyển tiền, lần lượt trên cơ
sơ kết quả bù trừ chứng khoán và tiền.

Ở Việt Nam, kể từ khi ban hành Thông tư số 203/2015/TT-BTC hướng dẫn giao dịch
trên TTCK, cho phép nhà đầu tư vừa mua, vừa bán trên cùng một tài khoản và được thực hiện
các giao dịch trong ngày sau khi đã ký hợp đồng giao dịch trong ngày và hợp đồng giao dịch
ký quỹ với CTCK. Ngoài ra, chu kỳ thanh toán từ T+3 được rút ngắn về T+2 áp dụng từ đầu
năm 2016 tạo điều kiện cho nhà đầu tư có cơ hội quay vòng vốn nhanh. Phương thức thanh toán
được quyết định bởi phương thức bù trừ, do thanh toán luôn được thực hiện trên cơ sở kết quả
bù trừ.

Xử lý hành vi vi phạm phát sinh từ hoạt động môi giới chứng khoán

Hình thức xử phạt chính: Phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền;

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân vi phạm còn có thể bị áp dụng
một hoặc nhiều hình thức xử phạt bổ sung bao gồm: Đình chỉ hoạt động; thu hồi giấy phép,
giấy chứng nhận liên quan quan đến hoạt động chứng khoán và TTCK, chứng chỉ hành nghề

49
chứng khoán; tịch thu toàn bộ các khoản thu phát sinh từ việc thực hiện các hành vi vi phạm và
số chứng khoán được sử dụng để vi phạm.

Ngoài các hình thức xử phạt trên, tổ chức, cá nhân vi phạm còn phải thực hiện các biện
pháp như buộc chấp hành quy định của pháp luật; buộc hủy bỏ, cải chính những thông tin sai
lệch, thông tin sai sự thật; buộc phải thu hồi số chứng khoán đã phát hành, hoàn trả tiền đặt cọc
hoặc tiền mua chứng khoán cho nhà đầu tư.

Theo quy định tại Điều 129 Luật Chứng khoán 2019, Thanh tra chứng khoán có quyền
xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền hoặc kiến nghị Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước quyết định việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử lý vi
phạm hành chính.

Ngoài việc bị xử phạt hành chính nêu trên, nếu các công ty gây thiệt hại cho khách hàng,
nhà đầu tư thì phải bồi thường thiệt hại.

Trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, chế tài bồi thường thiệt hại được quy định tại
Điều 133 Luật Chứng khoán, theo đó “Chủ thể xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức,
cá nhân trong hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán mà gây thiệt hại thì phải
bồi thường, thực hiện các trách nhiệm dân sự khác theo thỏa thuận, theo quy định của Bộ luật
Dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Tại các điều 28, 55 và Điều 67 Luật
Chứng khoán cũng đề cập đến nghĩa vụ bồi thường thiệt hại của Tổng công ty lưu ký và bù trừ
chứng khoán, Quỹ bù trừ và của tổ chức phát hành đối với khách hàng. Tuy nhiên, Luật Chứng
khoán không quy định cụ thể về việc xác định thiệt hại hoặc giá trị tổn thất cũng như thủ tục
bồi thường thiệt hại nên vấn đề này sẽ áp dụng các quy định của pháp luật chung như Bộ luật
Dân sự và theo thỏa thuận của các bên nếu không trái luật, không trái đạo đức xã hội.

Để đảm bảo thực thi pháp luật về chứng khoán và TTCK nói chung và bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tư trên TTCK nói riêng, pháp luật quy định việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với các hành vi vi phạm pháp luật nghiêm trọng.

Ngoài việc xác định các chế tài áp dụng nêu trên đối với các hành vi vi phạm trong hoạt
động kinh doanh chứng khoán nói chung, hoạt động môi giới chứng khoán nói riêng, vấn đề
giải quyết tranh chấp phát sinh từ các hoạt động này là điều không đơn giản. Điều 133 Luật
Chứng khoán cũng quy định "Trường hợp quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân trong
hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán bị xâm phạm hoặc có tranh chấp phát
sinh trong hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán tại Việt Nam thì việc bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp hoặc giải quyết tranh chấp được thực hiện thông qua thương lượng,
hòa giải hoặc yêu cầu Trọng tài hoặc Tòa án Việt Nam giải quyết theo quy định của pháp luật".
SGDCK, UBCKNN có thể đứng ra làm trung gian hòa giải các tranh chấp phát sinh.

2.4.2.2 Pháp luật về hoạt động tự doanh chứng khoán của CTCK

a/ Khái niệm, đặc điểm của hoạt động tự doanh chứng khoán

Theo khoản 30 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019, tự doanh chứng khoán là việc CTCK
mua, bán chứng khoán cho chính mình. Nghiệp vụ tự doanh của công ty chứng khoán phải được
thực hiện với danh nghĩa chính mình, không được mượn danh nghĩa của người khác hoặc thực

50
hiện với danh nghĩa cá nhân hoặc cho người khác sử dụng tài khoản tự doanh. Khi thực hiện
nghiệp vụ này, CTCK là một nhà đầu tư trực tiếp trên thị trường, là người sở hữu chứng khoán,
người mua chứng khoán cho mình. Với vai trò là một nhà đầu tư, CTCK mua và bán chứng
khoán để tìm kiếm lợi nhuận qua chênh lệch giá chứng khoán, đồng thời góp phần bình ổn hoặc
tạo sự phát triển bền vững TTCK.

Hoạt động tự doanh của CTCK được thực hiện ở SGDCK và thị trường OTC. Tại
SGDCK hoạt động mua bán này cũng được tiến hành như hoạt động của nhà đầu tư thông
thường. Trên thị trường OTC, hoạt động tự doanh có thể được thực hiện trực tiếp giữa công ty
với các đối tác, hoặc thông qua hệ thống giao dịch tự động, hoặc thông qua hoạt động tạo lập
thị trường. Giao dịch tự doanh được thực hiện theo phương thức giao dịch trực tiếp hay gián
tiếp.

Các trường hợp sau không được coi là tự doanh chứng khoán:

- Mua, bán chứng khoán do sửa lỗi sau giao dịch;


- Mua, bán cổ phiếu của chính mình.

Hoạt động tự doanh chứng khoán có những đặc điểm sau:

Tách biệt quản lý. CTCK phải tách biệt nghiệp vụ tự doanh với nghiệp vụ môi giới để
đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch trong hoạt động của CTCK. Sự tách bạch này được
thể hiện cả về yếu tố con người và các quy trình thực hiện nghiệp vụ của CTCK.

Ưu tiên khách hàng. Pháp luật của hầu hết các nước đều yêu cầu CTCK phải tuân thủ
nguyên tắc ưu tiên cho khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh nếu thỏa mãn các điều
kiện nhất định.

Bình ổn, điều tiết thị trường. Bên cạnh hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán, các
CTCK với khả năng chuyên môn và nguồn vốn lớn của mình có thể thông qua hoạt động tự
doanh góp phần đáng kể trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả các loại chứng khoán trên
thị trường.

b/ Mục đích hoạt động tự doanh chứng khoán của CTCK

- Hoạt động tự doanh để hưởng lợi nhuận.


- Dự trữ chứng khoán để đảm bảo khả năng cung ứng cho thị trường chứng khoán
- Điều tiết thị trường

c/ Nội dung pháp luật về hoạt động tự doanh chứng khoán của CTCK

Quy trình thực hiện hoạt động tự doanh của CTCK

- Bước 1: Xây dựng chiến lược đầu tư vào hoạt động tự doanh
- Bước 2: Khai thác, tìm kiếm cơ hội đầu tư
- Bước 3: Phân tích, đánh giá chất lượng, cơ hội đầu tư
- Bước 4: Thực hiện đầu tư
- Bước 5: Quản lý đầu tư và thu hồi vốn

Giới hạn đầu tư trong hoạt động tự doanh:

51
Công ty chứng khoán không được trực tiếp hoặc ủy thác cho tổ chức, cá nhân khác thực
hiện:

- Đầu tư vào cổ phiếu hoặc phần vốn góp của công ty có sở hữu trên 50% vốn điều lệ của
công ty chứng khoán, trừ trường hợp mua cổ phiếu lô lẻ theo yêu cầu của khách hàng;
- Cùng với người có liên quan đầu tư từ 5% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán
khác;
- Đầu tư quá 20% tổng số cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đang lưu hành của một tổ chức niêm
yết;
- Đầu tư quá 15% tổng số cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đang lưu hành của một tổ chức chưa
niêm yết, quy định này không áp dụng đối với chứng chỉ quỹ thành viên, quỹ hoán đổi
danh mục và quỹ mở;
- Đầu tư hoặc góp vốn quá 10% tổng số vốn góp của một công ty trách nhiệm hữu hạn
hoặc dự án kinh doanh;
- Đầu tư hoặc góp vốn quá 15% vốn chủ sở hữu vào một tổ chức hoặc dự án kinh doanh;
- Đầu tư quá 70% vốn chủ sở hữu vào cổ phiếu, phần vốn góp và dự án kinh doanh, trong
đó không được đầu tư quá 20% vốn chủ sở hữu vào cổ phiếu chưa niêm yết, phần vốn
góp và dự án kinh doanh.

Các quy định hạn chế nêu trên nhằm bảo đảm an toàn tài chính trong hoạt động của
CTCK, bảo đảm sự phát triển bền vững của CTCK và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của các
nhà đầu tư có liên quan đến CTCK.

Nghiệp vụ tự doanh của CTCK có thể chia thành hai lĩnh vực:

Thứ nhất, các CTCK thực hiện việc mua, bán chứng khoán niêm yết cho chính công ty
mình.

Thứ hai, các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh bằng hình thức như mua, bán chứng
khoán không niêm yết trên OTC.

Ngoài ra, một hoạt động tự doanh phổ biến hiện nay của một số CTCK là việc mua
chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó CTCK sẽ gộp lại thành lô chẵn để niêm yết và có thể bán
lại trên SGDCK. Đây là một lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận tương đối lớn cho các
CTCK. Giá mua lô lẻ được xác định bằng thỏa thuận giữa khách hàng bán với CTCK, do đó
các CTCK có điều kiện để đưa ra mức giá phù hợp để thu hút khách hàng, tạo sự chủ động cho
các CTCK trong hoạt động kinh doanh của mình.

Pháp luật các nước đều có quy định về việc xử phạt vi phạm trong lĩnh vực tự doanh
chứng khoán. Pháp luật hiện hành ở Việt Nam có chế tài cụ thể đối với hành vi vi phạm trong
hoạt động tự doanh chứng khoán của CTCK: Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 150.000.000
đồng đối với CTCK (Điểm đ Khoản 3 Điều 26 Nghị định số: 156/2020/NĐ-CP). Hoạt động tự
doanh có tác động rất lớn tới sự phát triển của TTCK, vì vậy việc quy định các hình thức xử
phạt đối với các hành vi trong lĩnh vực này là điều tất yếu, trên cơ sở đó tạo sự minh bạch,
khách quan trong hoạt động của CTCK, góp phần bảo vệ lợi ích của khách hàng.

2.4.2.3 Pháp luật về hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán của CTCK

52
a/ Khái niệm, phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán

Khoản 31 Điều 4 của Luật Chứng khoán năm 2019 quy định: Bảo lãnh phát hành chứng
khoán là việc cam kết với tổ chức phát hành nhận mua một phần hoặc toàn bộ chứng khoán
của tổ chức phát hành để bán lại hoặc mua số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết
hoặc cố gắng tối đa để phân phối số chứng khoán cần phát hành của tổ chức phát hành.

Hiện nay, tùy theo pháp luật của mỗi nước mà có các phương thức bảo lãnh phát hành
khác nhau:

- Bảo lãnh với cam kết chắc chắn: Là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức bảo
lãnh cam kết sẽ mua toàn bộ chứng khoán phát hành, cho dù có phân phối hết hay không.

- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: Là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức bảo lãnh
thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành.

- Bảo lãnh tất cả hoặc không: Là phương thức bảo lãnh mà theo đó, tổ chức phát hành
thỏa thuận với tổ chức bảo lãnh phát hành nếu không bán hết số chứng khoán thì huỷ
bỏ toàn bộ đợt phát hành.

- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: Đây là phương thức bảo lãnh được áp dụng khi
tổ chức phát hành là công ty đại chúng phát hành thêm cổ phiếu thông qua hình thức
phát hành quyền mua trước cho cổ đông hiện hữu.

- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu – tối đa: là phương thức trung gian giữa phương
thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh tất cả hoặc không.

Ngoài ra, bảo lãnh phát hành bao gồm cả việc tư vấn tài chính và phân phối chứng
khoán. Nhìn chung, pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều thừa nhận hoạt động bảo
lãnh phát hành chứng khoán là việc một hoặc một nhóm chủ thể nhất định giúp tổ chức phát
hành thực hiện các thủ tục để phát hành chứng khoán và giúp chứng khoán được giao dịch trên
TTCK.

Bảo lãnh phát hành giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành.
Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán là một hoạt động tiềm ẩn rủi ro lớn, vì vậy pháp
luật các nước thường đưa ra mức vốn pháp định cao nhất đối với loại hình hoạt động kinh doanh
này. Đồng thời, tổng giá trị bảo lãnh phát hành cũng bị khống chế với một tỷ lệ xác định so với
vốn chủ sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành.

Theo pháp luật Việt Nam, CTCK thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công
chúng thực hiện bảo lãnh theo phương thức nhận mua một phần hoặc toàn bộ chứng khoán của
tổ chức phát hành chỉ được phép bảo lãnh phát hành tổng giá trị chứng khoán không được lớn
hơn vốn chủ sở hữu và không được vượt quá 15 lần hiệu số giữa giá trị tài sản ngắn hạn và nợ
ngắn hạn tính theo báo cáo tài chính quý gần nhất.

Công ty chứng khoán nhận bảo lãnh phát hành chứng khoán phải mở tài khoản riêng
biệt ta ̣i ngân hàng thương mại để nhận tiền đặt mua chứng khoán của nhà đầu tư15.

15
Xem: Thông tư số 121/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính quy định về hoạt động của công ty chứng khoán

53
Ngoài ra, theo thông lệ, bảo lãnh phát hành là điều kiện bắt buộc khi chào bán lần đầu
chứng khoán ra công chúng đối với doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng
và doanh nghiệp thành lập mới thuộc lĩnh vực công nghệ cao.

b/ Chủ thể tham gia hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán

Trong hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, tổ chức bảo lãnh phát hành cung ứng
dịch vụ bảo lãnh là chủ thể rất quan trọng, quyết định phần lớn tới sự thành công của đợt phát
hành. Tổ chức bảo lãnh phát hành là tổ chức được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động bảo lãnh
phát hành. Khi tham gia hoạt động bảo lãnh, tổ chức này phải làm hồ sơ xin phép bảo lãnh phát
hành gửi tới UBCKNN và phải được UBCKNN chấp thuận.

Theo Khoản 19 Điều 3 Nghị định 155/2020/NĐ-CP quy định: " Tổ chức bảo lãnh phát
hành là tổ chức thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán cho đợt phát hành chứng khoán của
tổ chức phát hành theo quy định tại khoản 31 Điều 4 Luật Chứng khoán ".

Ngoài ra, khách hàng của CTCK trong hoạt động này là các tổ chức phát hành, thường
là các doanh nghiệp huy động vốn trên thị trường. Vậy hai chủ thể chính tham gia trong quan
hệ bảo lãnh phát hành chứng khoán là tổ chức bảo lãnh và tổ chức phát hành. Bên cạnh đó, tùy
thuộc vào từng phương thức bảo lãnh phát hành mà có sự tham gia của nhà đầu tư chứng khoán
hay các đại lý phát hành chứng khoán. Từ đây cho thấy, bảo lãnh phát hành chứng khoán có sự
khác biệt với bảo lãnh dân sự nói chung, thể hiện rõ nét ở các tiêu chí như chủ thể tham gia
quan hệ bảo lãnh, phạm vi bảo lãnh, phương thức bảo lãnh. Bảo lãnh dân sự luôn có sự tham
gia của 3 bên chủ thể: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh, trong bảo lãnh phát
hành chỉ có sự tham gia trực tiếp của hai chủ thể: bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh. Sự cam
kết bảo lãnh của tổ chức phát hành nhằm đảm bảo cho đợt phát hành được diễn ra hợp pháp,
hiệu quả, các chứng khoán có thể được phân phối ra công chúng, trên cơ sở đó bảo vệ quyền
lợi của nhà đầu tư. Vậy nhà đầu tư là chủ thể nhận bảo lãnh một cách gián tiếp. Thêm vào đó,
hợp đồng bảo lãnh phát hành được xác lập giữa hai chủ thể là tổ chức phát hành và tổ chức bảo
lãnh với những nội dung nhất định và phạm vi bảo lãnh bị giới hạn theo tỷ lệ so với vốn chủ sở
hữu của tổ chức bảo lãnh. Trong khi đó, đối với bảo lãnh dân sự, phạm vi bảo lãnh có thể là
toàn bộ phạm vi thực hiện nghĩa vụ.

Trong trường hợp, đợt phát hành có tổng giá trị cam kết bảo lãnh lớn hơn mức vốn chủ
sở hữu của tổ chức bảo lãnh phát hành cho phép, phải lập tổ hợp bảo lãnh phát hành. Tổ hợp
bảo lãnh phát hành là nhóm các tổ chức bảo lãnh phát hành cùng nhau cam kết bảo lãnh phát
hành cho đợt phát hành của tổ chức phát hành theo hợp đồng đồng bảo lãnh phát hành, trong
đó xác định tổ chức bảo lãnh phát hành chính chịu trách nhiệm chung cho hoạt động bảo lãnh
phát hành và quyền, trách nhiệm của từng tổ chức bảo lãnh phát hành16. Trong trường hợp này,
tổ chức bảo lãnh phát hành chính chịu trách nhiệm ký hợp đồng bảo lãnh với tổ chức phát hành,
hoàn tất hồ sơ pháp lý về việc bảo lãnh phát hành và ký hợp đồng bảo lãnh phát hành với các
tổ chức bảo lãnh phát hành khác. Tổ hợp bảo lãnh phát hành là người đứng ra mua hoặc chào
bán chứng khoán của một tổ chức phát hành nhằm thực hiện việc phân phối chứng khoán được
nhanh chóng và hiệu quả.

16
Khoản 20 Điều 3 Nghị định 155/2020/NĐ-CP

54
- Tổ chức bảo lãnh chính. Trường hợp có tổ hợp bảo lãnh phát hành sẽ có một hay nhiều
tổ chức bảo lãnh chính. Các tổ chức này do tổ chức phát hành lựa chọn và được phép
thay mặt nhà phát hành giải quyết tất cả các vấn đề liên quan đến đợt phát hành. Thẩm
quyền của các tổ chức bảo lãnh được quy định trong hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh
tham gia đợt chào bán.
- Nhóm đại lý phân phối. Nhóm đại lý phân phối bao gồm các CTCK tự doanh giúp cho
việc phân phối chứng khoán. Trong một đợt phát hành chứng khoán ra công chúng dưới
hình thức tổ hợp, đại lý phân phối là các công ty mà tổ chức bảo lãnh chính dành chứng
khoán cho họ để phân phối. Tổ chức bảo lãnh chính phân chia chứng khoán được bán
cho các đại lý phân phối vào tài khoản các nhà bảo lãnh theo tỷ lệ cam kết. Các tổ chức
bảo lãnh mua chứng khoán từ tổ chức phát hành còn các đại lý phân phối mua chứng
khoán từ tổ chức bảo lãnh chính hoặc tổ chức bảo lãnh thành viên và bán lại chứng
khoán đó.

c/ Điều kiện để thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán

Tổ chức thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng là công ty chứng
khoán, tổ chức đáp ứng các điều kiện sau đây:

- Được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp phép thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán theo quy định của Luật này;
- Đáp ứng các chỉ tiêu an toàn tài chính theo quy định của pháp luật;
- Không phải là người có liên quan với tổ chức phát hành.

Tổ chức thực hiện bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng thực hiện bảo lãnh
theo phương thức nhận mua một phần hoặc toàn bộ chứng khoán của tổ chức phát hành chỉ
được phép bảo lãnh phát hành tổng giá trị chứng khoán không được lớn hơn vốn chủ sở hữu và
không quá 15 lần hiệu số giữa giá trị tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn tính theo báo cáo tài chính
quý gần nhất.

Sở dĩ pháp luật quy định các điều kiện khắt khe đối với hoạt động bảo lãnh phát hành
chứng khoán nhằm nâng cao trách nhiệm của CTCK trong việc bảo lãnh và đảm bảo việc huy
động vốn của tổ chức phát hành được hiệu quả. Việc quy định mức bảo lãnh nhằm đảm bảo khả
năng thanh toán và chi trả của CTCK trong hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán, trên cơ
sở đó bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư chứng khoán.

Công ty chứng khoán không đươ ̣c bảo lañ h phát hành theo hình thức cam kết chắc chắn
hoặc là người bảo lãnh chính trong các trường hơp̣ sau đây:

- Công ty chứng khoán, độc lập hoặc cùng công ty con hoặc cùng với người có liên quan
sở hữu từ 10% trở lên vốn điề u lê ̣ của tổ chức phát hành, hoặc có quyền kiểm soát tổ
chức phát hành, hoặc có quyền bổ nhiệm Tổng Giám đốc (Giám đốc) của tổ chức phát
hành;
- Tối thiểu 30% vốn điề u lê ̣ của công ty chứng khoán và tối thiểu 30% vốn điề u lê ̣ của tổ
chức phát hành do cùng một cá nhân hoặc một tổ chức nắm giữ;
- Tổ chức phát hành, độc lập hoặc cùng các công ty con hoặc cùng với người có liên quan
sở hữu từ 20% trở lên vốn điều lệ của công ty chứng khoán, hoặc có quyền kiểm soát

55
công ty chứng khoán, hoặc có quyền bổ nhiệm Tổng Giám đốc (Giám đốc) của công ty
chứng khoán;
- Thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc (Giám đốc) và người có liên quan của
công ty chứng khoán đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc (Giám
đốc) của tổ chức phát hành;
- Thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc (Giám đốc) và người có liên quan của tổ
chức phát hành là thành viên Hội đồng quản trị, Tổng Giám đốc (Giám đốc) của công
ty chứng khoán;
- Công ty chứng khoán và tổ chức phát hành có chung người đại diện theo pháp luật.

Quy định trên nhằm đảm bảo tính minh bạch, công khai của TTCK, hạn chế tối đa tình
trạng câu kết nội bộ xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của nhà đầu tư.

Đối với phương thức bảo lãnh cam kết chắc chắn, mức phí bảo lãnh thường cao nhất do
rủi ro đối với tổ chức phát hành là rất lớn. Phí bảo lãnh phát hành trái phiếu thường thấp hơn
phí bảo lãnh phát hành cổ phiếu.

d/ Quy trình bảo lãnh phát hành chứng khoán

Bước 1: Phân tích, đánh giá khả năng chào bán chứng khoán

Các tổ chức bảo lãnh tìm hiểu các công ty có nhu cầu huy động vốn bằng phát hành
chứng khoán. Cụ thể, việc tìm hiểu được thực hiện trên cơ sở phân tích: tình hình hoạt động,
ngành nghề của công ty, khả năng tài chính của công ty, sản phẩm công ty cung ứng trên thị
trường, mục đích phát hành chứng khoán, tình hình thị trường tài chính trong nước, quốc tế...
Dựa vào kết quả phân tích trên, tổ chức bảo lãnh sẽ đưa ra những khuyến nghị đối với tổ chức
phát hành trong việc huy động vốn. Nếu thấy công ty thực sự có nhu cầu huy động vốn và việc
phát hành là khả thi thì tổ chức bảo lãnh sẽ ký với tổ chức phát hành hợp đồng bảo lãnh.

Bước 2: Chuẩn bị hồ sơ xin phép chào bán chứng khoán

Việc này được thực hiện trên cơ sở thỏa thuận trong hợp đồng bảo lãnh. Theo hợp đồng,
tổ chức bảo lãnh và tổ chức phát hành chuẩn bị hồ sơ xin phép phát hành chứng khoán. Thông
thường khi chuẩn bị hồ sơ phát hành, việc tham gia của các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính,
kế toán, pháp luật là không thể thiếu được. Tổ chức bảo lãnh là người chịu trách nhiệm chính
trong việc liên hệ với các chuyên gia.

Trong trường hợp cần thiết phải có tổ hợp bảo lãnh phát hành thì sau khi nộp hồ sơ đăng
ký phát hành lên cơ quan có thẩm quyền, tổ chức bảo lãnh chính sẽ thành lập tổ hợp bảo lãnh
và các đại lý phân phối (nếu có). Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia quan hệ bảo lãnh
phát hành được quy định cụ thể trong các hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh, hợp đồng giữa
tổ chức bảo lãnh với các đại lý phân phối và hợp đồng bảo lãnh phát hành chứng khoán.

Việc định giá chứng khoán phát hành là công việc rất quan trọng trong giai đoạn này.
Trên thực tế không có một công thức chung nào giúp định giá một cách chuẩn xác. Điều này
phần lớn phụ thuộc vào hiệu quả kinh doanh, mục đích huy động của công ty.

Sau khi hoàn tất hồ sơ, tổ chức bảo lãnh có thể giúp tổ chức phát hành trình hồ sơ lên
UBCKNN hoặc tổ chức phát hành trực tiếp nộp hồ sơ. Ngoài ra, tổ chức bảo lãnh còn phải nộp
56
hồ sơ bảo lãnh lên UBCKNN. Hồ sơ này bao gồm: bản sao giấy phép hoạt động bảo lãnh phát
hành do UBCKNN cấp; hợp đồng giữa các tổ chức bảo lãnh (nếu có tổ hợp bảo lãnh); các tài
liệu chứng minh tổ chức bảo lãnh có đủ điều kiện làm bảo lãnh cho đợt phát hành.

Bước 3: Cấp Giấy chứng nhận chào bán chứng khoán và phân phối chứng khoán.

Sau khi hồ sơ đăng ký phát hành được UBCKNN chấp thuận và tổ chức phát hành được
cấp phép phát hành, tổ chức bảo lãnh sẽ cùng các đại lý phân phối tiến hành xử lý các phiếu đặt
mua, nhận tiền đặt cọc, lập sổ phân phối chứng khoán. Tùy thuộc vào luật pháp của mỗi nước
mà việc phân phối chứng khoán được quy định khác nhau. Theo pháp luật Việt Nam, Điều 26
Luật Chứng khoán quy định:

- Việc phân phối chứng khoán chỉ được thực hiện sau khi tổ chức phát hành bảo đảm
người mua chứng khoán tiếp cận Bản cáo bạch trong hồ sơ đăng ký chào bán chứng
khoán ra công chúng được công bố tại các địa điểm ghi trong Bản thông báo phát hành.
- Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải phân phối chứng
khoán công bằng, công khai và bảo đảm thời hạn đăng ký mua chứng khoán cho nhà
đầu tư tối thiểu là 20 ngày; trừ trường hợp chứng khoán chào bán là chứng quyền có bảo
đảm, thời hạn này phải được ghi trong Bản thông báo phát hành.

Trường hợp số lượng chứng khoán đăng ký mua vượt quá số lượng chứng khoán được
phép phát hành thì tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải phân phối hết số
chứng khoán được phép phát hành cho nhà đầu tư tương ứng với tỷ lệ đăng ký mua của từng
nhà đầu tư.

- Tiền mua chứng khoán phải được chuyển vào tài khoản phong tỏa mở tại ngân hàng,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài cho đến khi hoàn tất đợt chào bán và báo cáo Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước.
- Tổ chức phát hành phải hoàn thành việc phân phối chứng khoán trong thời hạn 90 ngày
kể từ ngày Giấy chứng nhận đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có hiệu lực.
Trường hợp tổ chức phát hành không thể hoàn thành việc phân phối chứng khoán ra
công chúng trong thời hạn này, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước xem xét gia hạn việc
phân phối chứng khoán nhưng tối đa không quá 30 ngày. Trường hợp đăng ký chào bán
chứng khoán cho nhiều đợt thì khoảng cách giữa đợt chào bán sau với đợt chào bán
trước không quá 12 tháng.
- Tổ chức phát hành hoặc tổ chức bảo lãnh phát hành phải báo cáo kết quả đợt chào bán
cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày kết thúc đợt chào
bán, kèm theo văn bản xác nhận của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài nơi
mở tài khoản phong tỏa về số tiền thu được từ đợt chào bán.
- Tổ chức phát hành, tổ chức bảo lãnh phát hành hoặc tổ chức đại lý phải chuyển giao
chứng khoán hoặc giấy chứng nhận quyền sở hữu chứng khoán cho người mua trong
thời hạn 30 ngày kể từ ngày kết thúc đợt chào bán.

Để tránh trường hợp giá chứng khoán trên thị trường giảm xuống mức thấp hơn giá chào
bán ra công chúng trước khi đợt phát hành kết thúc, tổ chức bảo lãnh có thể thực hiện các biện
pháp bình ổn và điều hòa thị trường. Tổ chức bảo lãnh sẽ mua chứng khoán trên thị trường với
giá dự kiến nhằm ngăn chặn các nhà đầu tư mua với giá thấp hơn. Trong quá trình bình ổn giá,
57
tổ chức bảo lãnh thường bị cấm bán cổ phiếu dưới mức giá nhất định trong một khoảng thời
gian nào đó sau thời điểm kết thúc việc phân phối cổ phiếu ra công chúng và sau khi tổ hợp bảo
lãnh phát hành được giải thể (trong trường hợp có tổ hợp bảo lãnh). Sau thời hạn này, tổ chức
bảo lãnh hoặc thành viên của tổ hợp bảo lãnh được bán cổ phiếu theo bất kỳ giá nào.

Trong trường hợp có tổ hợp bảo lãnh thì các tổ chức bảo lãnh có trách nhiệm thanh toán
cho tổ chức bảo lãnh chính vào thời điểm khóa sổ theo số chứng khoán được phân chia. Tổ
chức bảo lãnh chính sẽ tiếp tục thanh toán tiền bán chứng khoán cho tổ chức phát hành. Hoạt
động của tổ hợp bảo lãnh kết thúc sau khi hoàn tất việc thanh toán tiền bán chứng khoán cho tổ
chức phát hành và tiền hoa hồng chi cho các thành viên tổ hợp.

Ngoài ra, pháp luật thường quy định theo hướng bắt buộc phải có bảo lãnh phát hành
khi chào bán cổ phiếu ra công chúng. Từ đó, có thể loại bỏ các doanh nghiệp phát hành yếu
kém và tăng cường trách nhiệm của CTCK trong vấn đề phát hành cổ phiếu để bảo vệ công
chúng đầu tư.

2.4.2.4 Pháp luật về hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của CTCK

Khoản 32 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019 quy định: Tư vấn đầu tư chứng khoán
là việc cung cấp cho khách hàng kết quả phân tích, báo cáo phân tích và đưa ra khuyến nghị
liên quan đến việc mua, bán, nắm giữ chứng khoán.

Từ quy định trên cho thấy, hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán được hiểu là việc đưa
ra những thông tin cần thiết về thị trường (phân tích vĩ mô), về các nhóm ngành kinh tế (phân
tích ngành), về các hoạt động của doanh nghiệp (phân tích doanh nghiệp) và trên cơ sở đó gợi
ý cho nhà đầu tư trong việc mua, bán chứng khoán. Hoạt động này có thể được thực hiện bởi
các chủ thể khác nhau: CTCK, ngân hàng thương mại... Tuy nhiên, trên thực tế CTCK là chủ
thể chủ yếu thực hiện hoạt động này.

Để thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, CTCK phải đáp ứng được những
điều kiện về nhân sự, vốn pháp định. Theo Điểm d Khoản 1 Điều 175 Nghị định số
155/2020/NĐ-CP mức vốn pháp định cho nghiệp vụ đầu tư chứng khoán là 10 tỷ VNĐ. Đội
ngũ nhân viên làm việc trong lĩnh vực này cũng phải có chứng chỉ hành nghề do UBCKNN
cấp. Người có chứng chỉ hành nghề môi giới chứng khoán, chứng chỉ hành nghề phân tích tài
chính, chứng chỉ hành nghề quản lý quỹ được thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán.

Nội dung tư vấn đầu tư chứng khoán bao gồm: tư vấn chiến lược và kỹ thuật giao dịch;
cung cấp kết quả phân tích chứng khoán và thị trường chứng khoán. Vậy các dịch vụ tư vấn
đầu tư chứng khoán của CTCK bao gồm:

- Tư vấn lựa chọn chiến lược đầu tư hợp lý: chu kỳ, thời điểm mua bán chứng khoán;
mua nhiều lần; mua một lần, mua chọn lọc, mua theo chiến lược thụ động...
- Tư vấn định giá chứng khoán, dự báo sự biến động của các loại cổ phiếu, trái phiếu trên
thị trường;
- Tư vấn phân tích hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty niêm yết; công ty cổ
phần hóa;
- Tư vấn xây dựng danh mục đầu tư cổ phiếu, trái phiếu theo tiêu chí của khách hàng;

58
- Tư vấn cho các nhà đầu tư về các yếu tố rủi ro liên quan đến chứng khoán và TTCK, đề
xuất giải pháp giảm thiểu rủi ro, xây dựng chiến lược phòng ngừa hiệu quả;
- Cập nhật, phân tích các báo cáo phân tích về thị trường trong ngày giao dịch; báo cáo
tuần, tháng về TTCK, báo cáo phân tích ngành, báo cáo phân tích kinh tế vĩ mô.

Ở Việt Nam, pháp luật cho phép CTCK không chỉ hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
mà còn cả thực hiện tư vấn tài chính cho khách hàng như tư vấn tái cơ cấu tài chính doanh
nghiệp, thâu tóm, sáp nhập doanh nghiệp, tư vấn quản trị công ty cô phần, tư vấn chào bán niêm
yết chứng khoán, cổ phần hóa, xác định giá trị doanh nghiệp.

Khi thực hiện tư vấn đầu tư chứng khoán cho khách hàng, các CTCK và nhân viên kinh
doanh phải: Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp; Bảo đảm tính trung thực, khách quan và khoa học
của hoạt động tư vấn; Không được tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công
chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của bất kỳ loại chứng khoán nào; Không được có
hành vi cung cấp thông tin sai sự thật để dụ dỗ hay mời gọi khách hàng mua bán một loại chứng
khoán nào đó; Bảo mật các thông tin nhận được từ người sử dụng dịch vụ tư vấn trừ trường hợp
được khách hàng đồng ý hoặc pháp luật có quy định khác; Chịu trách nhiệm trước pháp luật về
hoạt động tư vấn và bồi thường thiệt hại cho người sứ dụng dịch vụ tư vấn khi vi phạm cam kết
trong hợp đồng tư vấn.

Cơ sở để CTCK thực hiện tư vấn là hợp đồng tư vấn được ký kết giữa CTCK và khách
hàng. Nội dung của hợp đồng bao gồm các nội dung chính sau đây:

- Chủ thể, quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của các chủ thể tham gia hợp đồng;
- Phạm vi tư vấn đầu tư chứng khoán;
- Phương thức cung cấp dịch vụ;
- Phí cung cấp dịch vụ.

Đối với loại hình tư vấn khác như tư vấn pháp luật thì tính chính xác trong tư vấn là cần
thiết và cần được đảm bảo. Tuy nhiên, đối với tư vấn đầu tư chứng khoán, do đặc điểm của
ngành chứng khoán là giá chứng khoán thường xuyên biến động nên việc tư vấn về giá trị chứng
khoán là rất khó khăn, có thể dẫn đến sự xung đột về lợi ích giữa khách hàng và CTCK tư vấn,
đặc biệt là đối với CTCK vừa có hoạt động tư vấn, vừa có hoạt động tự doanh. Trong trường
hợp này, CTCK muốn mua chứng khoán mà khách hàng đang sở hữu, sẽ có thể xảy ra tình
huống không loại trừ khả năng CTCK sẽ đưa ra khuyến nghị để khách hàng bán chứng khoán.
Điều này có lợi cho CTCK nhưng có thể làm cho nhà đầu tư bị thua thiệt khi TTCK đang trong
giai đoạn tăng mạnh. Vì vậy, để hạn chế tình trạng này, pháp luật Việt Nam (điểm d, đ Khoản
6 Điều 4 Thông tư số 121/2020/TT-BTC) quy định "Trừ trường hợp pháp luật có quy định
khác, công ty chứng khoán khi cung cấp dịch vụ cho khách hàng không được trực tiếp hoặc
gián tiếp thực hiện các hành vi cung cấp thông tin sai sự thật để dụ dỗ hay mời gọi khách hàng
mua bán một loại chứng khoán nào đó; cung cấp thông tin sai lệch, gian lận, hoặc gây hiểu
nhầm cho khách hàng ".

Ngoài ra, để đảm bảo sự công bằng, minh bạch cho các chủ thể tham gia hoạt động tư
vấn đầu tư chứng khoán, pháp luật quy định trách nhiệm của CTCK trong tư vấn và đồng thời
cũng yêu cầu khách hàng, nhà đầu tư phải cung cấp đầy đủ thông tin cho bên tư vấn. Nếu khách
hàng không thực hiện yêu cầu này thì khi xảy ra rủi ro, CTCK sẽ không chịu trách nhiệm về
59
kết quả tư vấn không phù hợp của CTCK. Quy định này góp phần quan trọng trong việc tạo ra
sự bình đẳng giữa các chủ thể tham gia TTCK, tạo tính ổn định, trật tự và qua đó quyền lợi của
của tất cả các bên đều được đảm bảo.

Bên cạnh đó, để ngăn ngừa xung đột lợi ích liên quan đến tư vấn đầu tư chứng khoán,
pháp luật Việt Nam yêu cầu:

CTCK phải có trách nhiệm ngăn ngừa xung đột lợi ích với khách hàng; công ty chứng
khoán, người hành nghề chứng khoán phải công bố cho khách hàng biết trước về những xung
đột lợi ích có thể phát sinh giữa công ty chứng khoán, người hành nghề chứng khoán và khách
hàng.

Công ty chứng khoán, người hành nghề chứng khoán phải công bố lợi ích của mình về
chứng khoán mà mình đang sở hữu cho khách hàng đang được tư vấn về chứng khoán đó.

Đặc biệt, do CTCK là bên có nhiều lợi thế trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán,
vì vậy pháp luật có nhiều quy định bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Ví dụ, CTCK cung cấp
dịch vụ tư vấn đầu tư không được trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các hành vi sau:

- Quyết định đầu tư chứng khoán thay cho khách hàng;


- Thỏa thuận với khách hàng để chia sẻ lợi nhuận hoặc lỗ;
- Quảng cáo, tuyên bố rằng nội dung, hiệu quả, hoặc các phương pháp phân tích chứng
khoán của mình có giá trị cao hơn của công ty chứng khoán khác.

Trong trường hợp các CTCK vi phạm những quy định trên thì sẽ bị xử phạt theo quy
định của pháp luật. Cụ thể, Điểm c Khoản 2 Điều 26 Nghị định số 156/2020/NĐ-CP về xử phạt
vi phạm hành chính trong lĩnh vực CK và TTCK quy định: Phạt tiền từ 70.000.000 đồng đến
100.000.000 đồng đối với CTCK thực hiện hành vi vi phạm quy định về trách nhiệm của công
ty chứng khoán trong việc thực hiện nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, tư vấn tài chính;
thực hiện hành vi bị cấm trong nghiệp vụ tư vấn đầu tư chứng khoán, tư vấn tài chính.

Có thể nói, các mức phạt này là tương đối phù hợp, nhằm răn đe và hạn chế tới mức tối
đa các hành vi vi phạm của CTCK trong hoạt động kinh doanh của mình.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định khi thực hiện tư vấn đầu tư chứng khoán, CTCK
phải ký kết hợp đồng bằng văn bản với khách hàng, trên cơ sở đó bảo vệ quyền lợi của nhà đầu
tư. Các hình thức tư vấn có thể khác nhau: trực tiếp hoặc gián tiếp. Các nhà đầu tư và các nhân
viên tư vấn của CTCK trực tiếp gặp gỡ nhau tại sàn giao dịch hoặc thông qua các buổi gặp mặt;
hoặc tư vấn thông qua điện thoại; email, các phương tiện trao đổi khác.

Ngoài các hoạt động kinh doanh chứng khoán nêu trên, CTCK còn thực hiện tư vấn tài
chính và các hoạt động khác nhằm hỗ trợ cho hoạt động kinh doanh chứng khoán như hoạt động
lưu ký chứng khoán, nhận ủy thác quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán trên cơ sở hợp đồng
ủy thác quản lý tài khoản giao dịch chứng khoán ký với khách hàng là cá nhân...

Hoạt động lưu ký chứng khoán của CTCK: Lưu ký chứng khoán là việc nhận ký gửi,
bảo quản, chuyển giao chứng khoán cho khách hàng, giúp khách hàng thực hiện các quyền liên
quan đến chứng khoán lưu ký (Khoản 34 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019). Để thực hiện hoạt

60
động này, CTCK phải là thành viên của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán. Điều kiện
đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán đối với CTCK bao gồm:

- Có Giấy phép thành lập và hoạt động thực hiện nghiệp vụ môi giới hoặc tự doanh chứng
khoán;
- Có địa điểm, trang bị, thiết bị phục vụ hoạt động đăng ký, lưu ký, thanh toán các giao
dịch chứng khoán.

Khi thực hiện hoạt động lưu ký, CTCK phải ký hợp đồng bằng văn bản với khách hàng.
Khách hàng phải mở tài khoản lưu ký tại CTCK. Mỗi khách hàng chi được phép mở một tài
khoản lưu ký chứng khoán và mọi bút toán thanh toán được thực hiện qua tài khoản này. Quyền
và nghĩa vụ của công ty chứng khoán

- Mở tài khoản lưu ký cho khách hàng tại công ty chứng khoán, quản lý tài khoản lưu ký
chứng khoán của khách hàng theo đúng quy định của pháp luật. Tài khoản lưu ký chứng
khoán của khách hàng phải tách biệt với tài khoản lưu ký chứng khoán của chính công
ty;
- Ghi chép chính xác, đầy đủ và cập nhật thông tin về khách hàng mở tài khoản lưu ký và
chứng khoán sở hữu của khách hàng đã lưu ký tại công ty;
- Bảo quản, lưu trữ, thu thập và xử lý số liệu liên quan đến hoạt động đăng ký, lưu ký,
thanh toán bù trừ chứng khoán của khách hàng;
- Xây dựng các quy trình đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ, quản lý sổ cổ đông, đại lý
chuyển nhượng và quy trình kiểm soát nội bộ nhằm quản lý và bảo vệ quyền lợi của
khách hàng hoặc người sở hữu chứng khoán;
- Thu phí dịch vụ hoạt động đăng ký, lưu ký chứng khoán và các loại phí dịch vụ khác
theo quy định của pháp luật.

Trong quá trình hoạt động, CTCK là thành viên của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng
khoán sẽ bị đình chỉ hoạt động lưu ký trong một khoảng thời gian nhất định nếu thường xuyên
vi phạm nghĩa vụ của thành viên lưu ký và gây tổn thất nghiêm trọng cho khách hàng.

Nếu hết thời hạn này mà CTCK không khắc phục được tình trạng nêu trên thì bị thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán. Ngoài ra, CTCK còn bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán trong các trường hợp: Không tiến hành hoạt
động lưu ký chứng khoán trong thời hạn mười hai tháng, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký hoạt động lưu ký chứng khoán; bị thu hồi Giấy phép thành lập và hoạt động; chia, tách,
sáp nhập, hợp nhất, chuyển đổi, giải thể, phá sản.

Hoạt động lưu ký chứng khoán của CTCK giúp khách hàng thực hiện các quyền của
mình đối với chứng khoán như quyền nhận cổ tức, quyền nhận lãi trái phiếu, quyền mua thêm
cổ phiếu phát hành thêm... Hoạt động này đòi hỏi phải chính xác, kịp thời để bảo vệ quyền lợi
của nhà đầu tư. CTCK có thể xâm phạm tới quyền lợi của nhà đầu tư khi nhà đầu tư chuyển
tiền, chứng khoán sang tài khoản mở tại CTCK khác. Vì vậy, sự giám sát chặt chẽ từ phía nhà
nước đối với hoạt động này là rất cần thiết nhằm hạn chế các hành vi vi phạm của CTCK trong
hoạt động lưu ký chứng khoán.

61
Pháp luật đặt ra các điều kiện chặt chẽ khi CTCK gia nhập thị trường như điều kiện về
vốn pháp định, về nhân sự, về cơ sở vật chất, về quy trình giao dịch, kiểm soát nội bộ, về quản
trị, điều hành công ty, về hình thức pháp lý của công ty với mục tiêu bảo vệ quyền lợi của nhà
đầu tư chứng khoán.

Ngoài ra, CTCK với những hoạt động nghiệp vụ đặc thù còn thiết lập quan hệ với nhiều
chủ thể khác trên TTCK như tổ chức phát hành, tổ chức niêm yết, SGDCK, UBCKNN, Tổng
công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán. Pháp luật yêu cầu CTCK hoạt động phải dựa trên những
nguyên tắc nhất định (nguyên tắc đạo đức và nguyên tắc tài chính) như ưu tiên lệnh của khách
hàng trước lệnh của mình trong trường hợp cụ thể, tách bạch tài khoản tự doanh của CTCK với
tài khoản giao dịch của khách hàng...

3. Pháp luật về quỹ đầu tư và công ty quản lý quỹ

Trên thị trường chứng khoán, bên cạnh các nhà đầu tư đơn lẻ, còn tồn tại mô hình đầu
tư tập thể. Mô hình đầu tư tập thể chủ yếu được thực hiện thông qua các quỹ đầu tư. Thông
thường, khi đầu tư tập thể, các nhà đầu tư cùng tập hợp nhau lại, tập trung vốn vào một quỹ đầu
tư để tiến hành đầu tư trên thị trường chứng khoán. Đầu tư theo mô hình tập thể an toàn và hiệu
quả hơn. Tính an toàn và hiệu quả của mô hình đầu tư tập thể được thể hiện ở những điểm sau:

- Đầu tư theo mô hình tập thể giúp đa dạng hóa danh mục đầu tư
- Mô hình đầu tư tập thể thường được vận hành bởi các chuyên gia chuyên nghiệp, có
kiến thức và kinh nghiệm sâu về thị trường chứng khoán.
- Nhà đầu tư đơn lẻ thường gặp nhiều khó khăn trong việc đưa ra quan điểm của mình
trong quản trị, kiểm soát tổ chức phát hành chứng khoán.
- Mô hình đầu tư tập thể giúp cho các nhà đầu tư tiết kiệm được chi phí đầu tư.

Bên cạnh vai trò tích cực đối với nhà đầu tư, mô hình đầu tư tập thể cũng có nhiều tác động
tích cực đến các tổ chức huy động vốn. Quỹ đầu tư có được một nguồn vốn khổng lồ nên có
khả năng đáp ứng được nhu cầu vốn của tổ chức huy động vốn một cách nhanh chóng. Mặt
khác, sự tham gia của các quỹ đầu tư vào hoạt động quản trị các tổ chức huy động vốn sẽ làm
cho quản trị công ty trở nên minh bạch hơn, hiệu quả hơn góp phần giúp nâng cao hiệu quả hoạt
động kinh doanh của tổ chức huy động vốn.

3.1 Pháp luật về quỹ đầu tư chứng khoán

Quỹ đầu tư là một tổ chức đầu tư chuyên nghiệp do các nhà đầu tư cùng góp vốn. Những
khoản tiền tiết kiệm, nhàn rỗi trong dân chúng được tập trung lại thành các nguồn vốn lớn cho
các nhà đầu tư chuyên nghiệp sử dụng trong lĩnh vực đầu tư kiếm lời và phân chia cổ tức cho
các cổ đông góp vốn.

Xét theo tư cách pháp nhân, thì pháp luật chia quỹ đầu tư thành quỹ đầu tư không có tư
cách pháp nhân và quỹ đầu tư có tư cách pháp nhân.

3.1.1 Quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân

Quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân là các quỹ tín thác đầu tư. Theo hình thức này,
công ty quản lý quỹ tạo lập quỹ tín thác đầu tư bằng cách phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư đế
thu hút vốn từ các nhà đầu tư trong công chúng. Tiền thu được sẽ được công ty quản lý quỹ sử
62
dụng để mua cổ phiếu, trái phiếu, các chứng khoán khác và các công cụ tài chính khác trên thị
trường. Trong mô hình quỹ tín thác đầu tư còn có sự tham gia của ngân hàng giám sát. Ngân
hàng giám sát thực hiện chức năng giám sát các hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư nhằm
bảo đảm an toàn vốn cho nhà đầu tư. Mô hình quỹ tín thác đầu tư được sử dụng phổ biến ở các
thị trường chứng khoán đang phát triển.

Theo pháp luật Việt Nam thì quỹ đầu tư không có tư cách pháp nhân được gọi là quỹ
đầu tư chứng khoán. Khoản 37 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019 định nghĩa về quỹ đầu tư
chứng khoán như sau: “Quỹ đầu tư chứng khoán là quỹ hình thành từ vốn góp của nhà đầu tư
với mục đích thu lợi nhuận từ việc đầu tư vào chứng khoán hoặc vào các tài sản khác, kể cả
bất động sản, trong đó nhà đầu tư không có quyền kiểm soát hằng ngày đối với việc ra quyết
định đầu tư của quỹ”. Vì quỹ đầu tư chứng khoán không có tư cách pháp nhân, nên vai trò của
công ty quản lý quỹ là rất lớn.

Cơ cấu tổ chức của quỹ đầu tư chứng khoán bao gồm Đại hội nhà đầu tư quỹ đầu tư
chứng khoán và Ban đại diện quỹ đầu tư chứng khoán. Đại hội nhà đầu tư bao gồm tất cả các
nhà đầu tư, là cơ quan quyết định cao nhất của quỹ đầu tư chứng khoán. Quyền và nghĩa vụ của
Đại hội nhà đầu tư do Điều lệ của quỹ đầu tư chứng khoán quy định. Đại hội nhà đầu tư quỹ
đầu tư chứng khoán có thẩm quyền quyết định các vấn đề căn bản của quỹ. Đại hội nhà đầu tư
quỹ đầu tư chứng khoán có các quyền và nghĩa vụ sau đây:

- Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch và thành viên Ban đại diện quỹ đầu tư chứng
khoán;
- Quyết định mức thù lao và chi phí hoạt động của Ban đại diện quỹ đầu tư chứng khoán;
- Quyết định các thay đổi cơ bản trong chính sách đầu tư, phương án phân phối lợi nhuận
và mục tiêu đầu tư của quỹ đầu tư chứng khoán; quyết định thay đổi công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát; thay đổi mức phí trả cho công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán và ngân hàng giám sát;
- Quyết định sửa đổi, bổ sung Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán;
- Chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể quỹ đầu tư chứng khoán; thay đổi vốn điều lệ,
thay đổi thời hạn hoạt động của quỹ đầu tư chứng khoán;
- Yêu cầu công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát xuất trình sổ sách
hoặc giấy tờ giao dịch tại Đại hội nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán;
- Thông qua các báo cáo về tình hình tài chính, tài sản và hoạt động hằng năm của quỹ
đầu tư chứng khoán; thông qua việc lựa chọn tổ chức kiểm toán được chấp thuận để
kiểm toán báo cáo tài chính hằng năm của quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức định giá
độc lập (nếu có);
- Xử lý vi phạm của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát và Ban
đại diện quỹ đầu tư chứng khoán gây tổn thất cho quỹ đầu tư chứng khoán;
- Quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán.

Đại hội nhà đầu tư quỹ đầu tư chứng khoán họp thường niên hoặc bất thường để xem
xét và quyết định các vấn đề thuộc thẩm quyền của cơ quan này Bộ trưởng Bộ Tài chính quy
định việc triệu tập, thể thức tiến hành và thông qua quyết định của Đại hội nhà đầu tư quỹ đầu
tư chứng khoán.

63
Ban đại diện quỹ đầu tư là cơ quan đại diện của nhà đầu tư do Đại hội nhà đầu tư bầu
ra. Quyền và nghĩa vụ của Ban đại diện quỹ đầu tư do Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán quy
định. Quyết định của Ban đại diện quỹ đầu tư chứng khoán được thông qua bằng biểu quyết tại
cuộc họp, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc bằng hình thức khác theo quy định tại Điều lệ quỹ đầu
tư chứng khoán. Mỗi thành viên Ban đại diện quỹ đầu tư chứng khoán có một phiếu biểu quyết.
Nhìn chung, thể thức hoạt động của Ban đại diện quỹ đầu tư chứng khoán tương tự với thể thức
hoạt động của Hội đồng quản trị của công ty cổ phần.

Theo Điều 99 Luật Chứng khoán năm 2019 phân chia quỹ đầu tư chứng khoán thành:
quỹ đại chúng và quỹ thành viên; quỹ đại chúng bao gồm quỹ mở và quỹ đóng.

Như vậy, căn cứ vào quy mô của quỹ thì có quỹ đại chúng và quỹ thành viên. Quỹ đại
chúng là quỹ đầu tư chứng khoán có ít nhất 100 nhà đầu tư không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp
mua chứng chỉ quỹ và tổng giá trị chứng chỉ quỹ đã bán đạt ít nhất 50 tỷ đồng. Quỹ đại chúng
huy động vốn bằng phát hành chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng. Toàn bộ vốn góp của nhà
đầu tư phải được phong tỏa tại một tài khoản riêng đặt dưới sự kiểm soát của ngân hàng giám
sát và không được sử dụng cho đến khi hoàn tất đợt huy động vốn. Công ty quản lý quỹ phải
báo cáo UBCKNN kết quả huy động vốn có xác nhận của ngân hàng giám sát trong thời hạn
mười ngày, kể từ ngày kết thúc việc huy động vốn. Để bảo đảm an toàn cho khoản đầu tư của
các nhà đầu tư, quỹ đầu tư phải chịu những hạn chế nhất định trong đầu tư.

Cơ cấu đầu tư của quỹ đại chúng có thể sai lệch nhưng không quá mười lăm phần trăm
so với các hạn chế đầu tư vừa nêu trên. Các sai lệch phải là kết quả của việc tăng hoặc giảm giá
trị thị trường của tài sản đầu tư và các khoản thanh toán hợp pháp của quỹ đại chúng.

Quỹ thành viên là quỹ đầu tư chứng khoán có vốn góp tổi thiểu là 50 tỷ đồng và có từ 2
– 99 thành viên là nhà đầu tư chuyên nghiệp. Quỹ thành viên huy động vốn bằng phát hành
riêng lẻ chứng chỉ quỹ đầu tư cho các nhà đầu tư có tổ chức (có tư cách pháp nhân). Quỹ thành
viên do một công ty quản lý quỹ quản lý. Tài sản của quỹ thành viên được lưu ký tại một ngân
hàng lưu ký độc lập với công ty quản lý quỹ. Các nhà đầu tư đầu tư vào quỹ đầu tư thành viên
thường góp một lượng vốn rất lớn nhưng cũng đòi hỏi quỹ phải được quản lý hiệu quả. Quỹ
đầu tư thành viên có vai trò lớn trong việc tham gia quản trị các công ty tiếp nhận vốn đầu tư.
Quỹ đầu tư thành viên có thể cử đại diện của mình tham gia bộ máy quản lý của công ty tiếp
nhận vốn đầu tư hoặc đưa ra ý kiến tư vấn liên quan đến hoạt động quản trị của công ty tiếp
nhận vốn đầu tư.

Căn cứ vào khả năng rút vốn, quỹ đầu tư được chia thành quỹ đóng và quỹ mở. Quỹ
đóng là quỹ đầu tư mà chứng chỉ quỹ được phát hành một lần với một số lượng nhất định ra
công chúng. Sau đó, quỹ sẽ không được phát hành thêm bất kỳ loại cổ phiếu nào để huy động
thêm vốn. Nhà đầu tư không có quyền rút lại vốn bằng cách bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư cho
quỹ. Tuy nhiên, nhà đầu tư có thể bán lại chứng chỉ quỹ đầu tư trên thị trường thứ cấp. Trong
khi đó quỹ mở là quỹ đầu tư có quyền phát hành thêm chứng chỉ quỹ mới và có quyền mua lại
chứng chỉ quỹ từ nhà đầu tư.

3.1.2. Quỹ đầu tư có tư cách pháp nhân (dạng công ty)

64
Quỹ đầu tư có tư cách pháp nhân (dạng công ty) được gọi là công ty đầu tư chứng khoán.
Theo pháp luật Việt Nam, công ty đầu tư chứng khoán Ià quỹ đầu tư chứng khoán được tổ chức
theo loại hình công ty cổ phần để đầu tư chứng khoán. Công ty đầu tư chứng khoán có hai hình
thức là công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ và công ty đầu tư chứng khoán đại chúng. Để được
cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, công ty đầu tư chứng khoán phải có vốn tối thiểu là 50
tỷ đồng.

Về nguyên tắc, công ty đầu tư chứng khoán không được:

- Kinh doanh, sản xuất và cung cấp dịch vụ;


- Phát hành chứng khoán ra công chúng ngoại trừ trường hợp chào bán cổ phiếu lần đầu
ra công chúng để thành lập công ty,
- Phát hành cổ phiếu cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ hoặc phát hành cổ phiếu
để chuyển đổi trong trường hợp hợp nhất, sáp nhập.

Ngoài ra, công ty đầu tư chứng khoán phải tuân thủ các quy định của pháp luật chứng
khoán về hạn chế đầu tư nhằm bảo đảm an toàn cho vốn đầu tư của nhà đầu tư. Theo đó, công
ty đầu tư chứng khoán không được:

- Đầu tư vào chứng khoán của chính mình hoặc của một quỹ đầu tư khác;
- Đầu tư vào chứng khoán của 01 tổ chức phát hành quá 10% tổng giá trị chứng khoán
đang lưu hành của tổ chức đó, trừ trái phiếu Chính phủ.
- Đầu tư quá 20% tổng giá trị tài sản của quỹ đại chúng vào chứng khoán đang lưu hành
của 01 tổ chức phát hành, trừ trái phiếu Chính phủ.
- Đầu tư quá 10% tổng giá trị tài sản của quỹ đóng vào bất động sản, trừ trường hợp là
quỹ đầu tư bất động sản; đầu tư vốn của quỹ mở vào bất động sản.
- Đầu tư quá 30% tổng giá trị tài sản của quỹ đại chúng vào các công ty trong cùng một
nhóm công ty có quan hệ sở hữu với nhau thuộc các trường hợp sau đây: công ty mẹ,
công ty con; các công ty sở hữu trên 35% cổ phần, phần vốn góp của nhau; nhóm công
ty con có cùng một công ty mẹ.
- Cho vay hoặc bảo lãnh cho bất kỳ khoản vay nào.

Các hạn chế đầu tư vào quỹ đầu tư chứng khoán khác và đối với từng loại hình quỹ cụ
thể được thực hiện theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính.

Cơ cấu, tổ chức quản trị của công ty đầu tư chứng khoán tương tự với cơ cấu, tổ chức
quản trị của các công ty cổ phần khác. Cơ cấu tổ chức của công ty đầu tư chứng khoán bao gồm
Đại hội đồng Cổ đông, Hội đồng quản trị và Giám đốc (Tổng giám đôc).

Công ty đầu tư chứng khoán bao gồm công ty đầu tư chứng khoán đại chúng và công ty
đầu tư chứng khoán riêng lẻ. Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng là công ty đầu tư chứng
khoán đã thực hiện việc chào bán thành công cổ phiếu lần đầu ra công chúng. Công ty đầu tư
chứng khoán riêng lẻ là công ty đầu tư chứng khoán có tối đa 99 cổ đông, trong đó giá trị vốn
góp đầu tư của mỗi cổ đông tổ chức tối thiểu là 03 tỷ đồng và của mỗi cá nhân tối thiểu là 01
tỷ đồng17.

17
Điều 3 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP

65
Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng phải ủy thác vốn đầu tư cho một công ty quản lý
quỹ quản lý. Trong khi đó, công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ có thể tự quản lý vốn đầu tư
hoặc ủy thác cho công ty quản lý quỹ quản lý vốn. Trường hợp công ty đầu tư chứng khoán ủy
thác vốn cho công ty quản lý quỹ quản lý, tối thiểu hai phần ba (2/3) số thành viên hội đồng
quản trị của công ty đầu tư chứng khoán phải là các thành viên độc lập.

Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng làm thủ tục thành lập tại UBCKNN. Theo Điều
259 Nghị định số 155/2020/NĐ- CP, điều kiện cấp giấy phép thành lập và hoạt động của công
ty đầu tư chứng khoán đại chúng bao gồm:

- Điều kiện về vốn: Vốn điều lệ thực góp tối thiểu là 50 tỷ đồng. Công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng phải ủy thác vốn cho một công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
quản lý. Toàn bộ tài sản công ty đầu tư chứng khoán đại chúng phải được lưu ký tại
ngân hàng giám sát.
- Điều kiện về trụ sở: có trụ sở làm việc cho hoạt động đầu tư chứng khoán. Công ty đầu
tư chứng khoán đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán ủy thác vốn cho công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán quản lý được sử dụng trụ sở của công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán làm trụ sở chính.
- Điều kiện về nhân sự: Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng, công ty đầu tư chứng
khoán ủy thác vốn cho công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán quản lý không được
tuyển dụng nhân sự và có Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc (Phó giám
đốc) là người điều hành quỹ do công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán chỉ định.
- Điều kiện về cổ đông: Công ty đầu tư chứng khoán đại chúng có tối thiểu 100 cổ đông
không phải là nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Tối thiểu 2/3 số thành viên Hội
đồng quản trị công ty đầu tư chứng khoán đại chúng phải độc lập với công ty quản lý
quỹ đầu tư chứng khoán, ngân hàng giám sát.

Cơ cấu quản trị của công ty đầu chứng khoán tương tự như các công ty cổ phần đại
chúng khác. Thành viên Hội đồng quản trị độc lập phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn sau:

- Không phải là Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc), nhân
viên chính thức của công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát, hoặc công ty mẹ, công ty
liên kết, công ty con của công ty quản lý quỹ, ngân hàng giám sát;
- Không phải là cha, cha nuôi, mẹ, mẹ nuôi, vợ chổng, con, con nuôi, anh, chị em ruột
của cá nhân nêu trên;
- Đáp ứng các điều kiện làm thành viên hội đồng quản trị theo quy định pháp luật về
doanh nghiệp.

Công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ được chia thành công ty đầu tư chứng khoán riêng
lẻ tự quản lý vốn và công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ ủy thác quản lý vốn. Điều kiện thành
lập công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ tự quản lý vốn bao gồm:

- Điều kiện về vốn: Có vốn thực góp tối thiểu là 50 tỷ đồng Việt Nam. Công ty đầu tư
chứng khoán riêng lẻ được tự quản lý vốn đầu tư hoặc ủy thác vốn cho một công ty quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán quản lý.
- Điều kiện về nhân sự: Công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ tự quản lý vốn có Tổng giám
đốc (Giám đốc) đáp ứng tiêu chuẩn quy định tại khoản 5 Điều 75 Luật Chứng khoán và
66
tối thiểu 02 nhân viên có chứng chỉ hành nghề phân tích tài chính hoặc chứng chỉ hành
nghề quản lý quỹ.
- Điều kiện về cổ đông: Công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ có tối đa 99 cổ đông. Trong
đó, cổ đông là tổ chức phải góp tối thiểu là 03 tỷ đồng và cổ đông là cá nhân phải góp
tối thiểu 01 tỷ đồng. Trường hợp tự quản lý, cổ đông trong nước phải là tổ chức do cơ
quan quản lý chuyên ngành về chứng khoán, ngân hàng, bảo hiểm cấp phép thành lập
hoặc là thành viên Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó Tổng giám đốc
(Phó giám đốc) của công ty dự kiến thành lập. Tối thiểu 2/3 số thành viên Hội đồng
quản trị công ty đầu tư chứng khoán đại chúng phải độc lập với công ty quản lý quỹ đầu
tư chứng khoán, ngân hàng giám sát.
- Điều kiện góp vốn bằng tài sản: cổ đông được góp vốn bằng các loại chứng khoán đang
niêm yết, đăng ký giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán theo quy định tại Điều lệ công
ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ và phải bảo đảm:
 Chứng khoán dự kiến góp phải theo mục tiêu đầu tư, chính sách đầu tư của công
ty; không bị hạn chế chuyển nhượng, bị đình chỉ, tạm ngừng giao dịch, hủy bỏ
niêm yết; không đang bị cầm cố, thế chấp, ký quỹ, bị phong tỏa hoặc là tài sản
bảo đảm trong các giao dịch tài sản bảo đảm khác theo quy định của pháp luật;
 Việc góp vốn bằng chứng khoán phải được sự chấp thuận của tất cả các cổ đông
và chỉ được coi là đã hoàn tất sau khi quyền sở hữu hợp pháp đối với chứng
khoán góp vốn đã chuyển sang công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ;
 Giá chứng khoán góp vốn do ngân hàng lưu ký xác định trên cơ sở giá cuối ngày
tại ngày hoàn tất thủ tục chuyển quyền sở hữu tại Tổng công ty lưu ký và bù trừ
chứng khoán Việt Nam và theo Điều lệ công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ.

Công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ được đầu tư không hạn chế vào các loại chứng
khoán, các loại bất động sản và tài sản khác đáp ứng các điều kiện để đưa vào kinh doanh theo
quy định của pháp luật có liên quan. Tuy nhiên, công ty đầu tư chứng khoán riêng lẻ không
được tham gia xây dựng, triển khai và phát triển dự án bất động sản.

3.2. Pháp luật về công ty quản lý quỹ

Công ty quản lý quỹ là doanh nghiệp được thành lập theo hình thức công ty cổ phần
hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn để cung cấp dịch vụ quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và dịch
vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Vốn điều lệ tối thiểu của công ty quản lý quỹ là 25
tỷ đồng (Điều 175 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP).

Khi tham gia thành lập công ty quản lý quỹ, cá nhân chỉ được sử dụng vốn thuộc sở hữu
của mình và phải chứng minh đủ năng lực tài chính, tổ chức cũng chỉ được sử dụng vốn của
chính mình hoặc nguồn vốn hợp pháp khác để góp vốn thành lập công ty quản lý quỹ. Tổ chức
tham gia góp vốn thành lập công ty quản lý quỹ phải có báo cáo tài chính năm gần nhất không
có ngoại trừ. Đưong nhiên, cá nhân thuộc trường hợp không được thành lập doanh nghiệp theo
quy định của pháp luật doanh nghiệp sẽ không được quyền tham gia thành lập công ty quản lý
quỹ. Đối với tổ chức, ngoài điều kiện trên, còn phải đáp ứng các điều kiện sau mới được quyền
tham gia thành lập công ty quản lý quỹ:

67
- Có tư cách pháp nhân và không đang trong tình trạng hợp nhất, sáp nhập, chia, tách,
giải thể, phá sản và không thuộc các trường hợp không được quyền thành lập và quản
lý doanh nghiệp theo quy định pháp luật về doanh nghiệp;
- Hoạt động kinh doanh có lãi trong 02 năm liền trước và không có lỗ luỹ kế.
- Nếu chủ thể tham gia thành lập là ngân hàng thương mại, doanh nghiệp bảo hiểm, tổ
chức kinh doanh chứng khoán thì phải không đang trong tình trạng kiểm soát hoạt động,
kiểm soát đặc biệt hoặc các tình trạng cảnh báo khác; đồng thời đáp ứng đầy đủ các điều
kiện để được tham gia góp vốn, đầu tư theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
- Trường hợp chủ thể tham gia thành lập là các tổ chức kinh tế khác thì phải:

+ Có thời gian hoạt động tối thiểu là 05 năm liên tục liền trước năm tham gia góp vốn
thành lập tổ chức kinh doanh chứng khoán;

+ Sau khi trừ đi tài sản dài hạn, phần còn lại của vốn chủ sở hữu tối thiểu phải bằng số
vốn dự kiến góp;

+ Vốn lưu động tối thiểu phải bằng số vốn dự kiến góp.

Cơ cấu cổ đông, thành viên góp vốn tại công ty quản lý quỹ:

- Có tối thiểu hai (02) cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là tổ chức đáp ứng các điều
kiện theo quy định của pháp luật. Trường hợp công ty quản lý quỹ được tổ chức dưới
hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên, chủ sở hữu phải là doanh nghiệp
bảo hiểm hoặc ngân hàng thương mại hoặc CTCK.
- Tỷ lệ sở hữu cổ phần, phần vốn góp của cac cổ đông sáng lập, thành viên sáng lập là tổ
chức tối thiểu là 65% vốn điều lệ, trong đó các tổ chức là doanh nghiệp bảo hiểm, ngân
hàng thương mại, CTCK sở hữu tối thiểu 30% vốn điều lệ;
- Cổ đông, thành viên góp vốn sở hữu từ 10% trở lên vốn điều lệ của một công ty quản
lý quỹ và người có liên quan của cổ đông, thành viên góp vốn đó (nếu tham gia) không
được sở hữu trên 5% vốn điều lệ tại một công ty quản lý quỹ khác.
- Công ty quản lý quỹ hoạt động tại Việt Nam không được góp vốn thành lập, mua cổ
phần hoặc phần vốn góp tại công ty quản lý quỹ, CTCK tại Việt Nam, ngoại trừ các
trường hợp: hoạt động hợp nhất, sáp nhập; hoặc mua để sở hữu hoặc cùng với người có
liên quan (nếu có) sở hữu không quá 5% số cổ phiếu đang lưu hành của công ty quản lý
quỹ, CTCK đã đăng ký giao dịch, niêm yết trên SGDCK.

Nghiệp vụ chính của công ty quản lý quỹ là quản lý quỹ đầu tư và quản lý danh mục
đầu tư chứng khoán, nghĩa là nhà đầu tư giao tiền của mình cho công ty quản lý quỹ để thực
hiện đầu tư. Vì vậy, pháp luật có những quy định rất chặt chẽ buộc công ty quản lý quỹ phải
tuân thủ nhằm bảo đảm an toàn cho nguồn vốn của nhà đầu tư.

Thứ nhất, công ty quản lý quỹ phải tuân thủ các quy định về bảo đảm an toàn tài chính.
Công ty quản lý quỹ phải tuân thủ các quy định về vốn khả dụng và các chỉ tiêu tài chính khác
do pháp luật quy định.

Thứ hai, trong cấu trúc quản trị, công ty quản lý quỹ phải thiết lập hệ thống quản trị nội
bộ, kiểm soát rủi ro và ngăn ngừa xung đột lợi ích.

68
Thứ ba, trong khi thực hiện dịch vụ quản lý quỹ, công ty quản lý quỹ phải tuân thủ pháp
luật, Điều lệ của quỹ đầu tư, hợp đồng với ngân hàng giám sát, các quyết định của Đại hội nhà
đầu tư. Trong mối quan hệ với quỹ đầu tư, để bảo đảm an toàn cho nguồn vốn của nhà đầu tư,
công ty quản lý quỹ phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:

- Công ty quản lý quỹ được ủy thác sử dụng vốn để đầu tư vào thị trường chứng khoán.

- Công ty quản lý quỹ phải tuân thủ các quy định về ngăn ngừa xung đột lợi ích khi tiến
hành dịch vụ quản lý quỹ.

- Công ty quản lý phải thiện chí, trung thực, cẩn trọng hợp lý vì lợi ích hợp pháp tối đa
của quỹ đầu tư.

- Công ty quản lý quỹ phải tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định về hạn chế đầu tư áp
dụng cho quỹ đầu tư.

Thứ tư, trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, công ty quản lý quỹ
cũng phải thực hiện các nghĩa vụ nhất định.

Thứ năm, công ty quản lý quỹ không được tiết lộ bí mật thông tin của khách hàng trừ
trường hợp được khách hàng đồng ý.

Khi thực hiện các nghiệp vụ thuộc phạm vi giấy phép thành lập và hoạt động, công ty
quản lý quỹ được hưởng lợi ích theo thỏa thuận và theo quy định của điều lệ quỹ đầu tư.

4. Pháp luật về ngân hàng giám sát

Ngân hàng giám sát là ngân hàng thương mại có Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động
lưu ký chứng khoán do Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp, thực hiện các dịch vụ lưu ký và
giám sát việc quản lý quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán. Ngân hàng giám sát thực
hiện giám sát các hoạt động của công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán trong phạm vi liên
quan tới quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán mà ngân hàng cung cấp dịch vụ giám sát.
Ngân hàng giám sát có các nghĩa vụ sau đây:

- Thực hiện các nghĩa vụ thành viên lưu ký của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng
khoán Việt Nam;
- Thực hiện lưu ký tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán; quản lý tách
biệt tài sản của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán và các tài sản khác của ngân
hàng giám sát;
- Giám sát để bảo đảm công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán quản lý quỹ đại chúng,
Tổng giám đốc (Giám đốc) công ty đầu tư chứng khoán quản lý tài sản của công ty đầu
tư chứng khoán tuân thủ quy định của Luật này và Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán,
Điều lệ công ty đầu tư chứng khoán;
- Thực hiện hoạt động thu, chi, thanh toán và chuyển giao tài sản liên quan đến hoạt động
của quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán theo yêu cầu hợp pháp của công ty quản
lý quỹ đầu tư chứng khoán hoặc Tổng giám đốc (Giám đốc) công ty đầu tư chứng khoán;
- đ) Xác nhận báo cáo do công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng
khoán lập có liên quan đến quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán;

69
- Giám sát việc tuân thủ chế độ báo cáo và công bố thông tin của công ty quản lý quỹ đầu
tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán theo quy định của Luật này;
- Báo cáo Ủy ban Chứng khoán Nhà nước khi phát hiện công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán, công ty đầu tư chứng khoán và tổ chức, cá nhân có liên quan vi phạm pháp luật
hoặc Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán, Điều lệ công ty đầu tư chứng khoán;
- Định kỳ cùng công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, công ty đầu tư chứng khoán đối
chiếu sổ kế toán, báo cáo tài chính và hoạt động giao dịch của quỹ đại chúng, công ty
đầu tư chứng khoán;
- Nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật và Điều lệ quỹ đầu tư chứng khoán, Điều lệ
công ty đầu tư chứng khoán.

Ngân hàng giám sát cũng phải tuân thủ nghĩa vụ cẩn trọng, nghĩa vụ trung thành và
nghĩa vụ thiện chí - trung thực đối với quỹ đầu tư và toàn thể các nhà đầu tư.

5. Pháp luật về tổ chức xếp hạng tín nhiệm

5.1 Khái niệm về dịch vụ xếp hạng tín nhiệm

Ở Việt Nam, Khoản 5, 6 Điều 4 Nghị định số 88/2014/NĐ-CP quy định về dịch vụ xếp
hạng tín nhiệm như sau:

Dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đối với doanh nghiệp, tổ chức là dịch vụ được cung cấp bởi
doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm để phân tích, nhận định và xếp hạng về khả năng thực hiện
đầy đủ, đúng hạn nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp, tổ chức.

Dịch vụ xếp hạng tín nhiệm đối với công cụ nợ là dịch vụ được cung cấp bởi doanh
nghiệp xếp hạng tín nhiệm để phân tích, nhận định và xếp hạng về khả năng thực hiện đầy đủ,
đúng hạn nghĩa vụ nợ của chủ thể phát hành đối với công cụ nợ tại thời điểm xếp hạng.

Như vậy từ các định nghĩa trên, bậc xếp hạng tín nhiệm được hiểu là đánh giá hiện thời
của tổ chức xếp hạng tín nhiệm được thể hiện dưới dạng một hệ số tín nhiệm nhất định về khả
năng thanh toán nợ của nhà phát hành chứng khoán nợ hoặc rủi ro tín dụng của chứng khoán
nợ hoặc của sản phẩm tài chính cơ cấu.

Xếp hạng tín nhiệm là một hoạt động nghiệp vụ mang tính chuyên nghiệp của một tổ
chức chuyên môn (tổ chức xếp hạng tín nhiệm) nhằm đánh giá khả năng trả nợ của người phát
hành công cụ nợ hoặc công cụ nợ. Còn hệ số xếp hạng tín nhiệm là kết quả của hoạt động được
thể hiện dưới dạng ký tự nhất định phản ánh khả năng trả nợ của người phát hành công cụ nợ
hoặc của chính công cụ nợ.

5.2 Vai trò của xếp hạng tín nhiệm

Xếp hạng tín nhiệm có vai trò rất quan trọng trong thị trường trái phiếu. Đối với nhà
đầu tư, trên cơ sở tham khảo kết quả xếp hạng tín nhiệm, họ đưa ra được những phán đoán về
khả năng thanh toán của người phát hành chứng khoán nợ hoặc về rủi ro tín dụng của một chứng
khoán nợ mà họ dự định đầu tư. Việc tham khảo hệ số xếp hạng tín nhiệm giúp cho nhà đầu tư
tiết kiệm được chi phí tham vấn khả năng trả nợ của tổ chức phát hành từ các nguồn cung cấp
thông tin khác.

70
Xác định được hệ số xếp hạng tín nhiệm còn giúp nhà phát hành xác định được mức lãi
suất vay hợp lý. Thông thường, hệ số xếp hạng tín nhiệm tỷ lệ nghịch với lãi suất vay. Điều đó
có nghĩa là, nếu một tổ chức phát hành trái phiếu có hệ số xếp hạng tín nhiệm càng cao thì
không những thu hút được nhiều nhà đầu tư mà họ còn huy động được nguồn vốn vay lớn với
lãi suất thấp. Ngược lại, nếu tổ chức phát hành có hệ số xếp hạng tín nhiệm thấp thì lãi suất vay
phải cao tương ứng hoặc họ sẽ không bán được trái phiếu. Ở các thị trường trái phiếu phát triển,
phần lớn các trái phiếu được xếp hạng tín nhiệm trước khi được phát hành.

5.3 Địa vị pháp lý của tổ chức xếp hạng tín nhiệm

Ở Việt Nam, doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm (CRA) được thành lập theo một trong
các loại hình doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần hoặc công ty hợp
danh. Cơ quan đăng ký kinh doanh có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp
nhưng Bộ Tài chính là cơ quan có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh
dịch vụ xếp hạng tín nhiệm.

Theo pháp luật Việt Nam thì tổ chức, cá nhân đã góp vốn sở hữu trên 5% vốn điều lệ
thực góp của một doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm thì không được góp vốn thành lập hoặc
mua, nắm giữ cố phiếu hoặc phần vốn góp của một doanh nghiệp xếp hạng tín nhiệm khác.

Theo Khoản 1 Điều 37 Nghị định số 88/2014/NĐ-CP, CRA bắt buộc phải có hệ thống
kiểm soát nội bộ là tập hợp các cơ chế, chính sách, quy trình, quy định nội bộ nhằm bảo đảm
việc ngăn ngừa và kiểm soát hiệu quả rủi ro trong hoạt động xếp hạng tín nhiệm.

CRA hoạt động dựa trên tiêu chí độc lập, không lệ thuộc vào các khoản tài trợ tài chính
của bất kỳ một cá nhân, tổ chức nào. Hoạt động của CRA được thực hiện bởi những chuyên gia
cao cấp. Một đặc thù là lương trả cho chuyên gia xếp hạng tín nhiệm không phụ thuộc vào kết
quả xếp hạng tín nhiệm và doanh thu. Do vậy, CRA cần phải có một lượng vốn tối thiểu để chi
trả lương cho nguồn nhân lực. Hơn nữa, CRA phải tiến hành thu thập thông tin phục vụ cho
hoạt động xếp hạng tín nhiệm. Để có được những thông tin trung thực, đáng tin cậy, CRA phải
có được những trang thiết bị cần thiết cho việc thu thập thông tin. Thậm chí, đối với một số
nguồn thông tin được bảo hộ bởi luật sở hữu trí tuệ, CRA phải trả chi phí sử dụng. Ngoài ra
CRA phải đầu tư trang thiết bị cần thiết phục vụ cho hoạt động của mình, vì vậy có một nguồn
vốn nhất định sẽ bảo đảm cho CRA hoạt động độc lập và hiệu quả. Theo pháp luật hiện hành
của Việt Nam, mức vốn pháp định của CRA là 15 tỷ đồng.

5.4 Vấn đề giải quyết xung đột lợi ích trong hoạt động của tổ chức xếp hạng tín nhiệm

Xung đột lợi ích phát sinh từ mâu thuẫn giữa tiêu chuẩn về chất lượng với lợi nhuận.
Hiện nay, phần lớn các CRA có nguồn thu do tổ chức phát hành chi trả. Do vậy, vấn đề đặt ra
là kết quả xếp hạng tín nhiệm sẽ phải tuân theo tiêu chuẩn về chất lượng hay là theo doanh số
mà CRA có được từ khách hàng là các tổ chức phát hành.

UBCKNN quản lý, giám sát hoạt động của CRA thông qua báo cáo của CRA và hoạt
động thanh tra, kiểm tra của UBCKNN. UBCKNN có quyền hủy kết quả xếp hạng tín nhiệm
nếu có căn cứ chứng minh kết quả xếp hạng tín nhiệm có sai sót. CRA có hành vi vi phạm pháp
luật sẽ xử lý theo quy định của pháp luật.

71
5.5 Trách nhiệm pháp lý của tổ chức xếp hạng tín nhiệm

Trách nhiệm pháp lý của tổ chức xếp hạng tín nhiệm được hiểu là những hậu quả pháp
lý nhất định được cụ thể hóa bằng các chế tài nhất định do pháp luật quy định mà tổ chức xếp
hạng tín nhiệm phải gánh chịu khi vi phạm pháp luật. Trách nhiệm pháp lý của tổ chức xếp
hạng tín nhiệm có thể bao gồm trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự và trách nhiệm
dân sự.

Trong trường hợp hành vi vi phạm pháp luật cấu thành tội phạm thì người quản lý của
CRA có thể sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự. Bộ luật Hình sự năm 2015 cũng đã thừa nhận
truy cứu trách nhiệm hình sự của pháp nhân. Vì vậy, CRA cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm
hình sự về tội cố ý công bố thông tin sai lệch hoặc che giấu thông tin trong hoạt động chứng
khoán trong trường hợp CRA công bố thông tin không trung thực liên quan đến hệ số xếp hạng
tín nhiệm.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân biệt hoạt động kinh doanh chứng khoán với hoạt động kinh doanh khác trong
nền kinh tế?
2. Các nguyên tắc hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK?
3. Tại sao CTCK là định chế tài chính trung gian không thể thiếu trên thị trường chứng
khoán?
4. Quyền và nghĩa vụ của CTCK theo pháp luật Việt Nam hiện hành?
5. Phân biệt giữa quỹ đại chúng và quỹ thành viên?
6. Các phương thức bảo lãnh phát hành chứng khoán?
7. Đặc điểm của quỹ đầu tư chứng khoán và công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán?
8. Vai trò của ngân hàng giám sát trên thị trường chứng khoán Việt Nam?
9. Phân biệt quỹ đóng và quỹ mở?

72
CHƯƠNG 4: PHÁP LUẬT VỀ CHÀO BÁN CHỨNG KHOÁN

1. Những vấn đề chung về chào bán chứng khoán

1.1 Khái niệm và đặc điểm của hoạt động chào bán chứng khoán

Dưới góc độ kinh tế, chào bán chứng khoán là hoạt động có mục đích chủ yếu là huy
động vốn trung và dài hạn được thực hiện trên thị trường sơ cấp, trong đó người nhận vốn là tổ
chức chào bán chứng khoán và người cấp vốn là nhà đầu tư.

Dưới góc độ pháp lý, chào bán chứng khoán là hoạt động phát hành chứng khoán gắn
liền với quá trình chứng khoán được chuyển từ tổ chức phát hành sang nhà đầu tư theo trình tự,
thủ tục luật định.

Chào bán chứng khoán có những đặc điểm sau:

- Chủ thể chào bán chứng khoán có thể là Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh
nghiệp hoặc các quỹ đầu tư. Chủ thể chào bán chứng khoán chính là người đưa ra
đề nghị về quyền tài sản mà nhà đầu tư sẽ được hưởng và tương ứng là nghĩa vụ tài
sản mà chủ thể chào bán phải chịu đối với nhà đầu tư.

- Chào bán chứng khoán xác lập mối quan hệ pháp lý trực tiếp giữa tổ chức chào bán
chứng khoán và nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp. Đây là điểm khác biệt cơ bản
giữa chào bán chứng khoán với mua bán chứng khoán trên thị trường thứ cấp. Trên
thị trường thứ cấp, chứng khoán được mua bán qua lại giữa các nhà đầu tư, như vậy
tổ chức chào bán chứng khoán không trực tiếp tham gia xác lập quan hệ pháp lý với
nhà đầu tư thứ cấp.

- Chào bán chứng khoán là hoạt động được thực hiện theo quy trình nhất định. Chào
bán chứng khoán là một quy trình từ lập và thông qua đề án, xin phép hoặc đăng ký
chào bán (theo luật quy định) đến đưa ra đề nghị đối với nhà đầu tư và phân phối
chứng khoán cho nhà đầu tư. Quyền tài sản của nhà đầu tư và nghĩa vụ tài sản của
tổ chức chào bán chứng khoán được ghi nhận bởi chứng khoán.

- Trong hoạt động chào bán chứng khoán, ngoài hai chủ thể chính là tổ chức chào
bán chứng khoán và nhà đầu tư, còn có thể có sự tham gia của các chủ thể hỗ trợ
khác như nhà bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành, tổ chức trung gian thanh toán,
đại diện chủ sở hữu trái phiếu, tổ chức định mức tín nhiệm...

- Chào bán chứng khoán luôn tiềm ẩn rủi ro cho nhà đầu tư và thậm chí cho cả hệ
thống tài chính và nền kinh tế. Đặc điểm này xuất phát từ tính rủi ro của các loại
chứng khoán. Các rủi ro của chứng khoán là rủi ro thanh khoản, rủi ro thanh toán,
rủi ro bị lừa đảo... Vì vậy, pháp luật phải xây dựng và bảo đảm thực thi những cơ
chế quản lý, kiểm soát hoạt động chào bán chứng khoán phù hợp nhằm ngăn ngừa
và kiểm soát rủi ro.

1.2 Chủ thể chào bán chứng khoán

Chủ thể chào bán chứng khoán bao gồm Chính phủ, chính quyền địa phương, doanh
nghiệp và các quỹ đầu tư.
73
Chính phủ thường chào bán trái phiếu chính phủ để huy động vốn từ các nguồn lực
trong xã hội nhằm đáp ứng các nhu cầu chi ngân sách của Chính phủ. Trong nhiều trường hợp,
Chính phủ có thể chào bán trái phiếu chính phủ trên thị trường quốc tế để huy động vốn từ các
nguồn lực bên ngoài. Việc sử dụng nguồn vốn từ chào bán trái phiếu chính phủ phải tuân thủ
quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.

Chính quyền địa phương thường chào bán trái phiếu chính quyền địa phương để huy
động các nguồn lực trong và ngoài địa phương để đáp ứng nhu cầu ngân sách của địa phương.
Việc sử dụng nguồn vốn từ chào bán trái phiếu chính quyền địa phương phải tuân thủ pháp luật
ngân sách nhà nước.

Doanh nghiệp là chủ thể có nhu cầu lớn về chào bán chứng khoán để huy động nguồn
lực trong xã hội. Chứng khoán mà các doanh nghiệp chào bán chủ yếu là cổ phiếu và trái phiếu.
Ngày nay, có nhiều loại chứng khoán mới ra đời (các chứng khoán phái sinh như quyền mua
cổ phiếu, quyền mua trái phiếu...) nhưng nhìn chung đều phát triển từ hai loại chứng khoán cơ
bản trên.

Các quỹ đầu tư cũng được coi là chủ thể chào bán chứng khoán. Các quỹ đầu tư chào
bán chứng chỉ quỹ đầu tư nhằm tập hợp các nguồn vốn nhỏ lẻ từ các nhà đầu tư để tạo thành
nguồn vốn lớn đưa vào đầu tư trên thị trường chứng khoán.

1.3 Phương thức chào bán chứng khoán

Nếu căn cứ vào cách thức phân phối chứng khoán, chào bán chứng khoán được chia
thành các phương thức: Đấu thầu phát hành chứng khoán, bảo lãnh phát hành chứng khoán, đại
lý phát hành chứng khoán và bán lẻ chứng khoán. Bảo lãnh phát hành chứng khoán là phương
thức chào bán chứng khoán mà chủ thể chào bán bán chứng khoán thông qua các tổ chức bảo
lãnh phát hành. Đại lý phát hành chứng khoán là phương thức mà chủ thể chào bán ủy thác cho
một tổ chức khác thực hiện bán chứng khoán cho người mua. Bán lẻ chứng khoán là phương
thức mà chủ thể chào bán trực tiếp bán chứng khoán cho từng người mua chứng khoán. Đấu
thầu phát hành chứng khoán là phương thức mà chủ thể chào bán lựa chọn các tổ chức đủ điều
kiện trúng thầu mua chứng khoán đáp ứng các yêu cầu của chủ thể chào bán.

Đối với hoạt động chào bán chứng khoán để huy động vốn, dựa vào phạm vi và quy mô
của đợt chào bán, chào bán chứng khoán bao gồm hai phương thức truyền thống là chào bán
chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ. Việc phân định thành chào bán
chứng khoán ra công chúng và chào bán chứng khoán riêng lẻ có ý nghĩa trong việc quản lý
nhà nước đối với hoạt động phát hành các chứng khoán của doanh nghiệp và các quỹ đầu tư.
Đối với chứng khoán của chính phủ và chính quyền địa phương, các nhà làm luật ít chú trọng
phân biệt dựa trên quy mô và phạm vi chào bán. Pháp luật điều chỉnh về hoạt động chào bán
chứng khoán của chính phủ và của chính quyền địa phương lại chú trọng đến điều chỉnh các
cách thức phân phối chứng khoán.

1.4 Vai trò của chào bán chứng khoán

- Đối với tổ chức chào bán chứng khoán:

74
Đối với Chính phủ, việc phát huy tốt được kênh huy động vốn thông qua chào bán trái
phiếu để vay vốn từ dân chúng sẽ tạo cho quỹ ngân sách nhà nước một nguồn vốn lớn để phục
vụ cho đầu tư phát triển. Nếu có khả năng huy động được nguồn vốn từ dân chúng thông qua
chào bán trái phiếu, chính phủ sẽ ưu tiên phương thức huy động vốn này thay vì vay vốn từ
nước ngoài và các tổ chức tài chính quốc tế. Đối với doanh nghiệp, việc huy động vốn thông
qua chào bán chứng khoán sẽ tạo ra nguồn vốn lớn mà việc vay vốn từ các tổ chức tín dụng khó
có thể đáp ứng được.

- Đối với nhà đầu tư chứng khoán:

Việc mua hoặc tiếp nhận chứng khoán từ các đợt chào bán chứng khoán được coi là
kênh đầu tư hiệu quả bên cạnh việc đầu tư vào bất động sản, ngoại tệ, vàng hoặc gửi tiết kiệm
trong các ngân hàng. Trong một hệ thống tài chính lành mạnh, đầu tư vào cổ phiếu thường
mang lại nhiều lợi ích dài hạn và bền vững hơn cho các đầu tư, còn đầu tư vào trái phiếu mang
lại lợi nhuận chắc chắn, và so với lãi suất ngân hàng, lãi suất trái phiếu thường cao hơn.

- Vai trò đối với nền kinh tế:

Hoạt động chào bán chứng khoán diễn ra sôi động và hiệu quả sẽ làm cho dòng vốn
không ngừng lưu thông, tạo ra một nguồn vốn khổng lồ phục vụ cho hoạt động công nghiệp và
thương mại, là các hoạt động tạo ra tài sản vật chất cho xã hội. Nếu hoạt động chào bán chứng
khoán thực sự lành mạnh và hiệu quả, nền công nghiệp sẽ có cơ hội để phát triển mạnh mẽ, tạo
cơ sở vững chắc cho sự phát triển của nền kinh tế.

1.5 Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư trong hoạt động chào bán chứng khoán

Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, pháp luật về hoạt động chào bán
chứng khoán cần xây dựng và bảo đảm thi hành các cơ chế pháp lý để giải quyết những nội
dung sau đây:

Thứ nhất, phải dựa trên cơ sở mức độ rủi ro của mỗi loại chứng khoán mà xây dựng cơ
chế quản lý hoạt động chào bán phù hợp. Chứng khoán Chính phủ được coi là an toàn nhất do
vậy cơ chế kiểm soát được nới lỏng hơn so với các loại chứng khoán khác. Chứng khoán doanh
nghiệp có độ rủi ro cao cần phải có cơ chế kiểm soát chặt chẽ.

Thứ hai, phải dựa trên cơ sở quy mô và phạm vi chào bán chứng khoán mà có cơ chế
quản lý phù hợp.

Thứ ba, ngoài cơ chế quản lý hoạt động chào bán, pháp luật xây dựng cơ chế công bố
thông tin bắt buộc.

Thứ tư, chế độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư là bình đẳng giữa các
nhà đầu tư. Tuy nhiên, các nhà làm luật cần phân loại nhà đầu tư để có cơ chế bảo vệ phù hợp.

2. Nội dung pháp luật về chào bán chứng khoán

2.1 Pháp luật về chào bán chứng khoán ra công chúng

2.1.1 Khái niệm và đặc điểm của chào bán chứng khoán ra công chúng

75
Khoản 19 Điều 4 Luật Chứng khoán năm 2019 quy định: Chào bán chứng khoán ra
công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức sau đây:

- Chào bán thông qua phương tiện thông tin đại chúng;
- Chào bán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên
nghiệp;
- Chào bán cho các nhà đầu tư không xác định.

Chào bán chứng khoán ra công chúng có những đặc điểm sau:

Một là, chào bán chứng khoán ra công chúng có quy mô rộng (tính chất rộng rãi). Tính
quy mô được thể hiện ở những khía cạnh sau: chào bán chứng khoán cho một số lượng lớn các
nhà đầu tư; khối lượng chào bán lớn; sử dụng phương thức quảng cáo hoặc mời chào rộng rãi
trong chào bán ra công chúng.

Hai là, về nguyên tắc việc đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi chào bán
chứng khoán ra công chúng là thủ tục pháp lý bắt buộc.

Ba là, chủ thể chào bán chứng khoán ra công chúng rất đa dạng, có thể là doanh nghiệp,
Chính phủ, Chính quyền địa phương.

Bốn là, mục đích của chào bán chứng khoán ra công chúng là huy động vốn trung và
dài hạn.

Năm là, chào bán chứng khoán ra công chúng phải đáp ứng các điều kiện và tuân thủ
quy trình luật định.

Trong các đặc điểm nêu trên của chào bán chứng khoán ra công chúng thì tính chất chào
bán rộng rãi được coi là đặc điểm cơ bản để nhận dạng của chào bán chứng khoán ra công
chúng. Khối lượng chào bán cũng là tiêu chí quan trọng mà pháp luật nhiều nước sử dụng để
xác định hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng. Theo pháp luật nhiều nước thì một
đợt chào bán chứng khoán đạt một khối lượng nhất định được coi là chào bán chứng khoán ra
công chúng. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam không sử dụng tiêu chí về khối lượng chào bán để
xác định chào bán chứng khoán ra công chúng.

Tiêu chí "quảng cáo, mời chào rộng rãi" cũng được pháp luật nhiều nước sử dụng làm
căn cứ để xác định môt đợt chào bán là chào bán chứng khoán ra công chúng. Tiêu chí này dựa
vào phương tiện và cách thức để quảng cáo, mời chào chứng khoán dự kiến chào bán. Pháp luật
Việt Nam cũng áp dụng tiêu chí này. Theo đó, việc chào bán chứng khoán thông qua phương
tiện thông tin đại chúng, kể cả Internet là chào bán chứng khoán ra công chúng.

Chào bán chứng khoán ra công chúng được phân chia thành chào bán chứng khoán lần
đầu ra công chúng (IPO) và chào bán thêm chứng khoán ra công chúng. Theo pháp luật Việt
Nam, chào bán chứng khoán lần đầu ra công chúng được sử dụng trong các trường hợp sau:

- Huy động vốn cho tổ chức phát hành;

- Thành lập quỹ đầu tư, doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng, công nghệ cao hoặc
tổ chức tín dụng cổ phần theo quy định của pháp luật;

76
- Chuyển tổ chức phát hành thành công ty đại chúng thông qua thay đổi cơ cấu sở hữu
mà không làm thay đổi vốn điều lệ;

- Chào bán hợp đồng đầu tư ra công chúng.

Chào bán thêm chứng khoán ra công chúng là đợt phát hành bổ sung thêm chứng khoán
mới ra công chúng. Đợt chào bán thêm chứng khoán ra công chúng được thực hiện sau đợt chào
bán chứng khoán lần đầu ra công chúng nhằm bổ sung thêm vốn cho tổ chức phát hành.

2.1.2 Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng

Điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng được hiểu là những tiêu chuẩn, quy
định, hoặc yêu cầu mà pháp luật buộc tổ chức phát hành phải tuân thủ thì mới được cơ quan
nhà nước có thẩm quyền chấp thuận chào bán chứng khoán ra công chúng. Điều kiện chào bán
chứng khoán ra công chúng bao gồm các điều kiện vật chất và điều kiện về thủ tục.

Điều kiện vật chất liên quan đến những quy định về năng lực của tổ chức phát hành, và
các quy định khác nhằm bảo đảm chứng khoán có tính rủi ro thấp và bảo đảm tổ chức phát hành
thực hiện được đúng và đầy đủ nghĩa vụ đối với nhà đầu tư. Các nhà làm luật thường phân chia
các điều kiện vật chất thành điều kiện về tư cách pháp lý của tổ chức chào bán chứng khoán,
điều kiện về năng lực của tổ chức chào bán chứng khoán và các điều kiện liên quan khác tùy
vào từng trường hợp chào bán cụ thể.

2.1.3 Điều kiện về tư cách pháp lý của tổ chức chào bán chứng khoán

Theo pháp luật Việt Nam, không phải chủ thể nào cũng có quyền chào bán chứng khoán.
Pháp luật chỉ ghi nhận các tổ chức có tư cách pháp nhân đầy đủ và được pháp luật thừa nhận
quyền chào bán chứng khoán thì mới có quyền chào bán chứng khoán. Chủ thể đầu tiên có
quyền phát hành chứng khoán là Chính phủ (đại diện là Bộ Tài chính), ủy ban nhân dân cấp
tỉnh là tổ chức có quyền phát hành trái phiếu chính quyền địa phương. Mặc dù có tư cách pháp
nhân nhưng công ty hợp danh không được quyền phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.

Ngoài ra, theo pháp luật hiện hành ở Việt Nam thì công ty trách nhiệm hữu hạn (bao
gồm cả công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên) không có quyền chào bán cổ phiếu ra công chúng. Chỉ công ty cổ phần mới được quyền
chào bán cổ phiếu ra công chúng. Đồng thời, chỉ công ty cổ phần mới có quyền phát hành trái
phiếu chuyển đổi và trái phiếu kèm chứng quyền.

2.1.4 Điều kiện về năng lực của tổ chức chào bán chứng khoán

Ở nhóm điều kiện này, các nhà làm luật tập trung vào các tiêu chí về năng lực tài chính,
năng lực sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Những năng lực này là điều kiện không thể
thiếu để chứng minh khả năng thực hiện nghĩa vụ của tổ chức chào bán chứng khoán với nhà
đầu tư. Các điều kiện về năng lực của tổ chức chào bán được định lượng hóa hoặc định tính
hóa.

Điều kiện về vốn chủ sở hữu hoặc giá trị tài sản ròng của tổ chức chào bán. Các nhà làm
luật Việt Nam dựa chủ yếu vào vốn điều lệ. Theo đó, vốn điều lệ của tổ chức phát hành phải
bằng hoặc cao hơn mức vốn tối thiểu do pháp luật quy định. Theo quy định của pháp luật hiện

77
hành, doanh nghiệp muốn chào bán cổ phiếu hoặc trái phiếu ra công chúng thì phải có vốn điều
lệ từ 30 tỷ đồng trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán tại thời điểm đăng ký chào bán.

Điều kiện về năng lực tạo doanh thu, bảo đảm kinh doanh ổn định và tình trạng tài chính
tốt. Các điều kiện này hứa hẹn rằng tổ chức chào bán sẽ có khả năng tạo ra lợi nhuận và làm
tăng giá trị cho chứng khoán. Điều 15 Luật chứng khoán năm 2019 quy định, để chào bán cổ
phiếu ra công chúng, ngoài các điều kiện khác, Hoạt động kinh doanh của 02 năm liên tục liền
trước năm đăng ký chào bán phải có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký
chào bán. Điều 15 Luật chứng khoán 2019 cũng quy định để chào bán trái phiếu ra công chúng,
ngoài các điều kiện khác, hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký chào bán phải
có lãi, đồng thời không có lỗ lũy kế tính đến năm đăng ký chào bán; không có các khoản nợ
phải trả quá hạn trên 01 năm. Ngoài ra, đối với tổ chức phát hành trái phiếu là công ty cổ phần
còn phải tuân thủ quy định tại Luật doanh nghiệp: "Công ty không thanh toán đủ cả gốc và lãi
của trái phiếu đã phát hành, không thanh toán hoặc thanh toán không đủ các khoản nợ đến hạn
trong 03 năm liên tiếp trước đó sẽ không được quyền phát hành trái phiếu, trừ trường hợp pháp
luật về chứng khoán có quy định khác." Tuy nhiên, việc phát hành trái phiếu cho các chủ nợ là
tổ chức tài chính được lựa chọn không chịu sự hạn chế này.

2.1.5 Cam kết của tổ chức chào bán

- Cam kết đưa chứng khoán vào giao dịch trên thị trường chứng khoán có tổ chức. Luật
chứng khoán đưa ra yêu cầu về việc công ty đại chúng cam kết đưa chứng khoán vào giao dịch
trên thị trường chứng khoán có tổ chức trong thời hạn một năm kể từ ngày kết thúc đợt chào
bán.

- Cam kết của tổ chức chào bán trái phiếu với nhà đầu tư trái phiếu: Ngoài ra, đối với
chào bán trái phiếu, tổ chức chào bán trái phiếu ra công chúng phải có cam kết thực hiện nghĩa
vụ của tổ chức chào bán đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền
và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.

2.1.6 Điều kiện về thủ tục chung cho các trường hợp chào bán chứng khoán

Ngoài các điều kiện đã trình bày ở trên, pháp luật còn quy định những điều kiện về thủ
tục mà chủ thể chào bán chứng khoán phải tuân theo khi chào bán chứng khoán ra công chúng.
Trong đó, phương án phát hành chứng khoán và phương án sử dụng vốn phải được cơ quan có
thẩm quyền trong nội bộ tổ chức phát hành thông qua là điều kiện thủ tục bắt buộc để chào bán
chứng khoán ra công chúng.

2.1.7. Điều kiện đặc thù liên quan đến từng trường hợp chào bán chứng khoán

Ngoài các điều kiện chung, tùy từng trường hợp cụ thể, pháp luật yêu cầu tổ chức chào
bán phải tuân thủ những điều kiện đặc thù nhất định. Các tiêu chí về điều kiện đặc thù rất đa
dạng, phụ thuộc vào từng loại chứng khoán, từng trường hợp chào bán. Các điều kiện này có
thể là các điều kiện về đặc điểm riêng của tổ chức chào bán. Ví dụ: để được phép chào bán cổ
phiếu để thành lập doanh nghiệp mới, doanh nghiệp mới phải là tổ chức tín dụng cổ phần, doanh
nghiệp thuộc lĩnh vực công nghệ cao và doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cơ sở hạ tầng. Cũng có
trường hợp pháp luật đưa ra các điều kiện liên quan đến khối lượng của đợt chào bán. Ví dụ: tổ
chức nước ngoài chào bán chứng khoán ra công chúng ở Việt Nam thì khối lượng của đợt chào
78
bán cũng bị giới hạn. Theo đó, tổng số tiền huy động từ đợt chào bán tại Việt Nam không vượt
quá 30% tổng vốn đầu tư của dự án. Trong một số trường hợp khác, pháp luật buộc tổ chức
phát hành phải đưa ra cam kết về phương án sử dụng vốn, không rút vốn đối ứng, không chuyển
vốn ra nước ngoài, cam kết bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư. Ngoài ra, còn
nhiều điều kiện riêng khác tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể mà pháp luật quy định.

2.1.8 Trình tự, thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng

Trừ trường hợp được miễn trừ đăng ký theo quy định của pháp luật, các trường hợp
chào bán chứng khoán ra công chúng còn lại phải đăng ký với UBCKNN. Trình tự, thủ tục chào
bán chứng khoán ra công chúng được chia làm ba giai đoạn: giai đoạn trước khi đăng ký, giai
đoạn xem xét hồ sơ đăng ký và giai đoạn sau khi đăng ký được chấp thuận.

Giai đoạn trước khi đăng ký

Đây được coi là giai đoạn chuẩn bị và hoàn thiện hồ sơ. Trong giai đoạn này, có một số
thủ tục bắt buộc mà tổ chức chào bán phải hoàn thành trước khi nộp hồ sơ đăng ký chào bán
chứng khoán ra công chúng. Các thủ tục trước đăng ký mà tổ chức chào bán phải hoàn thành
bao gồm:

- Thông qua phương án phát hành chứng khoán.

- Hoàn thiện các họp đồng/cam kết cung ứng dịch vụ với các tổ chức hỗ trợ chào bán
chứng khoán.

- Thông qua hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng.

Giai đoạn thẩm định hồ sơ đăng ký

Sau khi hồ sơ được thông qua, tổ chức phát hành nộp hồ sơ đăng ký chào bán chứng
khoán tại UBCKNN. Sau khi nhận đủ hồ sơ hợp lệ, UBCKNN sẽ xem xét, đánh giá, thẩm định
hồ sơ đăng ký. Thời hạn xem xét, đánh giá hồ sơ đăng ký phụ thuộc vào pháp luật của mỗi
nước. Theo quy định của Luật Chứng khoán thì thời hạn để UBCKNN xem xét, đánh giá hồ sơ
đăng ký là 30 ngày làm việc.

Giai đoạn sau khi đăng ký được chấp thuận

- Công bố thông tin

- Phân phối chứng khoán

- Báo cáo kết quả chào bán:

+ Chào bán cổ phiếu ra công chúng

+ Chào bán trái phiếu ra công chúng

+ Chào bán chứng chỉ quỹ đầu tư ra công chúng

+ Chào bán chứng khoán tại nước ngoài

2.2 Pháp luật về chào bán riêng lẻ

79
2.2.1 Khái niệm, điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ

Trên thị trường chứng khoán sơ cấp, cùng với sự phổ biến của các giao dịch chào bán
chứng khoán ra công chúng, có những giao dịch chào bán chứng khoán cho một số lượng nhỏ
các nhà đầu tư hoặc hoàn toàn cho các nhà đầu tư chuyên nghiệp hoặc có những hoạt động chào
bán chứng khoán với khối lượng nhỏ không phù hợp để chào bán ra rộng rãi ra công chúng.

Khoản 20 Điều 4 Luật Chứng khoán, chào bán chứng khoán riêng lẻ là việc chào bán
chứng khoán không thuộc trường hợp chào bán thông qua phương tiện thông tin đại chúng và
theo một trong các phương thức sau đây: chào bán cho dưới 100 nhà đầu tư, không kể nhà đầu
tư chứng khoán chuyên nghiệp; chỉ chào bán cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Nhà
đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp là ngân hàng thương mại, công ty tài chính, công ty cho
thuê tài chính, tổ chức kinh doanh bảo hiểm, tổ chức kinh doanh chứng khoán. Từ định nghĩa
trên có thể thấy, các nhà làm luật Việt Nam định nghĩa chào bán chứng khoán riêng lẻ ngược
với chào bán chứng khoán ra công chúng. Bởi lẽ chào bán chứng khoán riêng lẻ hướng tới chủ
yếu là các nhà đầu tư chuyên nghiệp, số lượng các nhà đầu tư không chuyên bị hạn chế. Luật
chứng khoán không quy định về điều kiện chào bán riêng lẻ chứng khoán của các doanh nghiệp
thông thường mà để luật chuyên ngành quy định. Luật chứng khoán chỉ quy định về chào bán
riêng lẻ chứng khoán của công ty đại chúng. Tuy nhiên, khác với các điều kiện chào bán ra
công chúng, điều kiện chào bán chứng khoán riêng lẻ được quy định trong Luật chứng khoán
thường không phải là điều kiện về chất lượng của chứng khoán được phát hành. Các điều kiện
này chủ yếu là các điều kiện để bảo đảm đợt chào bán chứng khoán được hưởng chế độ pháp
lý áp dụng cho chào bán chứng khoán riêng lẻ. Điều kiện chào bán riêng lẻ chứng khoán của
công ty đại chúng như sau:

Thứ nhất: Có quyết định của Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị thông qua
phương án phát hành và sử dụng số tiền thu được từ đợt chào bán; xác định rõ đối tượng, số
lượng nhà đầu tư.

Thứ hai: Việc chuyển nhượng cổ phần, trái phiếu chuyển đổi chào bán riêng lẻ bị hạn
chế tối thiểu một năm, kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán, trừ trường hợp chào bán riêng lẻ
theo chương trình lựa chọn cho người lao động trong công ty, chuyển nhượng chứng khoán đã
chào bán của cá nhân cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, chuyển nhượng chứng khoán
giữa các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, theo quyết định của Toà án hoặc thừa kế theo
quy định của pháp luật.

Thứ ba: Các đợt chào bán cổ phần hoặc trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ phải cách nhau ít
nhất sáu tháng.

Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là có thể trong các luật chuyên ngành hoặc trong các văn bản
quy phạm pháp luật khác sẽ quy định về điều kiện, tiêu chuẩn về chất lượng của chứng khoán
được phát hành. VD: Luật Doanh nghiệp không cho phép công ty cổ phần không thanh toán đủ
cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành, không thanh toán hoặc thanh toán không đủ các khoản
nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước đó phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, việc phát hành trái
phiếu cho các chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn không chịu các hạn chế.

80
Về cơ chế quản lý, các nhà làm luật áp dụng cơ chế quản lý chào bán chứng khoán riêng
lẻ lỏng hơn so với quản lý chào bán chứng khoán ra công chúng. Tuy nhiên, mức độ quản lý lại
phụ thuộc vào chủ thể chào bán hoặc loại chứng khoán được chào bán. Trong quá trình chào
bán chứng khoán riêng lẻ, một số chủ thể trung gian có thể tham gia hỗ trợ hoạt động chào bán
chứng khoán riêng lẻ. Trong đó, phổ biến là có sự tham gia của các đại lý phát hành.

2.2.2 Chào bán cổ phiếu riêng lẻ

Pháp luật cho phép công ty cổ phần được chào bán cổ phiếu riêng lẻ. Ngoài ra, pháp
luật cũng cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn được chào bán cổ phiếu riêng lẻ để chuyển
thành công ty cổ phần. Về điều kiện chào bán cổ phiếu riêng lẻ, Luật chứng khoán không quy
định cụ thể mà để các luật chuyên ngành quy định. Luật chứng khoán chỉ quy định về các điều
kiện liên quan đến thủ tục, phương án chào bán cổ phiếu riêng lẻ phải được Đại hội đồng cổ
đông của công ty thông qua. Đối với trường hợp công ty trách nhiệm hữu hạn chào bán cổ phiếu
riêng lẻ để chuyên thành công ty cổ phần, đề án chào bán cổ phiếu để chuyển đổi phải được chủ
sở hữu công ty hoặc hội đồng thành viên thông qua.

Đối với chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty đại chúng, pháp luật áp dụng cơ chế đăng
ký thông tin chào bán. Theo cơ chế này, tổ chức phát hanh phải nộp hồ sơ chào bán cổ phiếu
riêng lẻ lên UBCKNN. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền chỉ xem xét tính đầy đủ, hợp lệ của
hồ sơ chào bán cổ phiếu riêng lẻ, nếu hồ sơ chưa đầy đủ hoặc hợp lệ, cơ quan nhà nước có thẩm
quyền sẽ yêu cầu tổ chức phát hành bổ sung, hoàn thiện. Trong thời hạn luật định, nếu hồ sơ
đầy đủ và hợp lệ, UBCKNN sẽ thông báo cho tổ chức đăng ký phát hành và công bố trên trang
thông tin điện tử về việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ của tổ chức đăng ký. Cuối cùng, sau khi kết
thúc đợt chào bán, tổ chức phát hành phải báo cáo kết quả chào bán với UBCKNN. Việc chào
bán cổ phần riêng lẻ của công ty cổ phần không phải là công ty cổ phần đại chúng được quy
định như sau:

- Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định chào bán cổ phần riêng lẻ,
công ty phải thông báo việc chào bán cổ phần riêng lẻ với Cơ quan đăng ký kinh doanh.
Kèm theo thông báo chào bán cổ phần riêng lẻ phải có các tài liệu sau đây:

+ Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông về chào bán cổ phần riêng lẻ;

+ Phương án chào bán cổ phần riêng lẻ đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua (nếu
có);

- Thông báo chào bán cổ phần riêng lẻ bao gồm các nội dung sau đây:

+ Tên, địa chỉ trụ sở chính, mã số doanh nghiệp;

+ Tổng số cổ phần dự định chào bán; các loại cổ phần chào bán và số lượng cổ phần
chào bán mỗi loại;

+ Thời điểm, hình thức chào bán cổ phần;

+ Họ, tên, chữ ký của người đại diện theo pháp luật của công ty;

- Công ty có quyền bán cổ phần sau 05 ngày làm việc, kể từ ngày gửi thông báo mà không
nhận được ý kiến phản đối của Cơ quan đăng ký kinh doanh;
81
- Công ty thực hiện đăng ký thay đổi vốn điều lệ trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày hoàn
thành đợt bán cổ phần.18.

2.2.3 Chào bán trái phiếu riêng lẻ

Khác với chào bán cổ phiếu riêng lẻ, chào bán trái phiếu riêng lẻ không phải thực hiện
thủ tục đăng ký thông tin chào bán. Tuy nhiên, trường hợp công ty đại chúng chào bán trái
phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền thì phải được đăng ký với UBCKNN và chỉ
được chào bán trái phiếu sau khi có ý kiến bằng văn bản của UBCKNN. Trong phần lớn các
trường hợp còn lại, pháp luật chỉ buộc thủ tục thông qua/chấp thuận phương án phát hành trái
phiếu bởi cơ quan nội bộ của công ty hoặc chủ sở hữu của công ty. Theo quy định của pháp
luật, tổ chức phát hành phải thông báo về việc phát hành với Bộ Tài chính. Đồng thời, tổ chức
phát hành cũng phải tuân thủ nghĩa vụ công bố thông tin cho người đăng ký mua trái phiếu.
Việc công bố thông tin không được chứa đựng nội dung có tính chất quảng cáo, mời chào và
không được đăng tải công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng trừ trường hợp pháp
luật có quy định khác. Nội dung của thông tin công bố bao gồm: Tổng giá trị trái phiếu và kỳ
hạn phát hành; tình hình tài chính của doanh nghiệp tại thời điểm phát hành; phương án phát
hành trái phiếu, kế hoạch sử dụng tiền thu được từ phát hành trái phiếu, phương án trả nợ gốc,
lãi trái phiếu đã được cấp có thẩm quyền thông qua; và kết quả xếp loại của tổ chức định mức
tín nhiệm (nếu có).

Mặc dù trong đa số trường hợp, không áp dụng cơ chế đăng ký chào bán trái phiếu riêng
lẻ nhưng pháp luật quy định những điều kiện rất chặt chẽ về chào bán trái phiếu riêng lẻ. Về
mặt nguyên tắc, trong trường hợp phát hành trái phiếu để đầu tư cho các chương trình, dự án,
doanh nghiệp phát hành phải đảm bảo duy trì tỷ lệ vốn chủ sở hữu tối thiểu là hai mươi phần
trăm (20%) trong tổng mức đầu tư của chương trình, dự án.

Đối với chào bán trái phiếu không chuyển đổi không kèm chứng quyền (không bao gồm
việc chào bán trái phiếu của công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán
không phải là công ty đại chúng), doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện sau:

⁃ Là công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn được thành lập và hoạt động
theo pháp luật Việt Nam.
⁃ Thanh toán đủ cả gốc và lãi của trái phiếu đã phát hành hoặc thanh toán đủ các khoản
nợ đến hạn trong 03 năm liên tiếp trước đợt phát hành trái phiếu (nếu có); trừ trường
hợp chào bán trái phiếu cho chủ nợ là tổ chức tài chính được lựa chọn.
⁃ Đáp ứng các tỷ lệ an toàn tài chính, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động theo quy
định của pháp luật chuyên ngành.
⁃ Có phương án phát hành trái phiếu được phê duyệt và chấp thuận theo quy định tại
Điều 13 Nghị định 153/2020/NĐ-CP.
⁃ Có báo cáo tài chính năm trước liền kề của năm phát hành được kiểm toán bởi tổ chức
kiểm toán đủ điều kiện theo quy định tại Nghị định 153/2020/NĐ-CP.
⁃ Đối tượng tham gia đợt chào bán theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 8 Nghị định
153/2020/NĐ-CP.

18
Điều 123 Luật Doanh nghiệp 2020

82
Đối với chào bán trái phiếu không chuyển đổi không kèm chứng quyền của công ty
chứng khoán, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán không phải là công ty đại chúng: doanh
nghiệp phải đáp ứng các điều kiện quy định tại điểm a, điểm c, điểm d, điểm đ và điểm e khoản
1 Điều 9 Nghị định 153/2020/NĐ-CP.

Đối với chào bán trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền:

⁃ Doanh nghiệp phát hành là công ty cổ phần.


⁃ Đối tượng tham gia đợt chào bán theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 8 Nghị định
153/2020/NĐ-CP.
⁃ Đáp ứng các điều kiện chào bán
⁃ Các đợt chào bán trái phiếu chuyển đổi riêng lẻ, trái phiếu kèm chứng quyền riêng lẻ
phải cách nhau ít nhất 06 tháng kể từ ngày hoàn thành đợt chào bán gần nhất.
⁃ Việc chuyển đổi trái phiếu thành cổ phiếu, thực hiện chứng quyền phải đáp ứng quy
định về tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài theo quy định của pháp luật.

Đối với doanh nghiệp chào bán trái phiếu ra thị trường quốc tế, ngoài việc tuân thủ quy
định của Nghị định 153/2020/NĐ-CP phải tuân thủ quy định tại Nghị định số 219/2013/NĐ-
CP ngày 26 tháng 12 năm 2013 của Chính phủ về quản lý vay, trả nợ nước ngoài của doanh
nghiệp không được Chính phủ bảo lãnh, các văn bản hướng dẫn và các văn bản sửa đổi, bổ
sung, thay thế (nếu có). Trường hợp có sự khác nhau giữa quy định của pháp luật về quản lý
vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp với quy định của Nghị định 153/2020/NĐ-CP thì thực
hiện theo quy định của pháp luật về quản lý vay, trả nợ nước ngoài của doanh nghiệp19.

Việc chào bán trái phiếu trên thị trường quốc tế thực chất là hoạt động vay nợ nước
ngoài do vậy phải chịu sự kiểm soát chặt chẽ của ngân hàng nhà nước. Vì vậy, tổng trị giá phát
hành trái phiếu phải nằm trong tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài hàng năm được Thủ
tướng Chính phủ phê duyệt. Do đó, doanh nghiệp phát hành cần phải được ngân hàng nhà nước
xác nhận trị giá phát hành trái phiếu nằm trong tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài hàng
năm.

Cuối cùng, các điều kiện mang tính thủ tục cũng phải được tuân thủ nghiêm ngặt. Một
điều chắc chắn là việc chào bán trái phiếu ra thị trường quốc tế còn phải tuân theo các điều kiện
và thủ tục do pháp luật nơi chào bán trái phiếu quy định.

2.3 Các hoạt động chào bán chứng khoán không phải đăng ký phát hành

2.3.1 Chào bán cổ phiếu trong trường hợp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước

Chào bán cổ phiếu trong trường hợp cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước thuộc trường
hợp không phải đăng ký phát hành. Việc chào bán cổ phiếu trong trường hợp này được thực
hiện theo một trong ba phương thức sau:

Phương thức đấu giá công khai: Phương thức này được áp dụng trong trường hợp bán
đấu giá ra công chúng mà không có sự phân biệt nhà đầu tư tổ chức, nhà đầu tư cá nhân, nhà
đầu tư trong nước, nhà đầu tư nước ngoài. Việc đấu giá được tổ chức tại các tổ chức tài chính

19
Xem thêm: Điều 25 Nghị định 153/2020/NĐ-CP

83
trung gian, nếu khối lượng cổ phần bán ra có mệnh giá dưới 10 tỷ đồng. Nếu khối lượng cổ
phần bán ra có mệnh giá từ 10 tỷ đồng trở lên, việc đấu giá phải được tổ chức tại SGDCK. Giá
bán theo phương thức đấu giá công khai là giá đấu thành công của từng nhà đầu tư. Theo phương
thức này, các nhà đầu tư trúng ở mức giá nào thì mua cổ phần ở mức giá đó nhưng không được
thấp hơn giá khởi điểm.

Phương thức bảo lãnh phát hành: Trong trường hợp này phương thức bảo lãnh phát
hành theo hình thức cam kết chắc chắn được áp dụng.

Phương thức thỏa thuận trực tiếp: Phương thức thỏa thuận trực tiếp là phương thức bán
cổ phần cho các nhà đầu tư theo kết quả thương thảo giữa Ban chỉ đạo cổ phần hóa hoặc tổ chức
được Ban Chỉ đạo cổ phần hóa ủy quyền với từng nhà đầu tư. Giá bán theo phương thức thỏa
thuận là giá bán thương thảo trực tiếp với từng nhà đầu tư đảm bảo nguyên tắc không thấp hơn
giá khởi điểm (đối với trường hợp bán thỏa thuận trước cho nhà đầu tư chiến lược) hoặc không
thấp hơn giá đấu thành công thấp nhất (đối với trường hợp xử lý cổ phần không bán hết của
cuộc đấu giá công khai).

2.3.2 Chương trình phát hành thêm cổ phiếu của công ty đại chúng

Trong một số trường hợp nhất định, công ty đại chúng có chương trình đặc biệt phát
hành cổ phiếu. Cổ phiếu được phát hành cho những đối tượng đã có mối quan hệ gần gũi với
công ty đại chúng như cổ đông hiện hữu và người lao động. Mối quan hệ này giúp cho người
nhận chứng khoán có thể hiểu biết về thực trạng kinh doanh, tài chính và triển vọng phát triển
của công ty. Mục đích của chương trình phát hành này không phải là huy động vốn từ bên ngoài
mà chủ yếu để cơ cấu lại vốn chủ sở hữu, trả cổ tức hoặc thực hiện chính sách nhân sự của công
ty. Do đó, việc phát hành cổ phiếu theo các chương trình này không cần thiết phải đăng ký mà
chỉ phải thực hiện cơ chế báo cáo phát hành.

Phát hành cổ phiếu để trả cổ tức: Cổ tức có thể được phân phối cho cổ đông bằng tiền,
tài sản hoặc bằng cổ phiếu. Trong nhiều trường hợp, công ty lựa chọn trả cổ tức bằng việc phát
hành cổ phiếu nhằm giữ lại một nguồn vốn phục vụ cho đầu tư phát triển. Trường hợp công ty
đại chúng phát hành cổ phiếu để trả cổ tức thì phải đáp ứng điều kiện là có đủ nguồn vốn từ lợi
nhuận sau thuế chưa phân phối được kiểm toán xác nhận.

Phát hành cổ phiếu để tăng vốn cổ phần từ nguồn vốn chủ sở hữu: Trường hợp công ty
đại chúng thực sự có nguồn lợi nhuận sau thuế chưa phân phối, thặng dư vốn, quỹ đầu tư phát
triển và các quỹ khác được sử dụng để phân bổ vốn điều lệ theo quy định của pháp luật, công
ty đại chúng có thể xem xét phương án tăng vốn cổ phần từ nguồn chủ sở hữu thông qua phát
hành cổ phiếu với điều kiện tổng giá trị các nguồn này không thấp hơn tổng giá trị vốn cổ phần
tăng thêm. Công ty đại chúng muốn phát hành cổ phiếu để tăng vốn cổ phần từ nguồn vốn chủ
sở hữu phải đáp ứng điều kiện có báo cáo tài chính gần nhất được kiểm toán thể hiện có đủ
nguồn vốn nêu trên để thực hiện. Thủ tục phát hành cổ phiếu trong trường hợp này tương tự thủ
tục phát hành cổ phiếu để trả cổ tức.

Phát hành cổ phiếu theo chương trình lựa chọn cho người lao động: là chương trình mà
công ty đại chúng phát hành cổ phiếu để thưởng hoặc bán ưu đãi cho người lao động được lựa
chọn nhằm thực hiện các chính sách nhân sự của công ty. Để phát hành cổ phiếu theo chương

84
trình lựa chọn cho người lao động, trước hết tổng số cổ phiếu được phát hành theo chương trình
trong mỗi 12 tháng không vượt quá 5% tổng số cổ phần đang lưu hành của công ty. Các tiêu
chuẩn, danh sách người lao động được lựa chọn, nguyên tắc xác định giá bán, nguyên tắc xác
định số lượng cổ phiếu được phân phối cho từng đối tượng phải được công khai, minh bạch.
Nếu thưởng cổ phiếu cho người lao động thì phải bảo đảm đủ nguồn vốn từ lợi nhuận sau thuế
chưa phân phối, thặng dư vốn, quỹ đầu tư phát triển và các quỹ khác được sử dụng để phân bổ
vốn điều lệ theo quy định của pháp luật để thực hiện và tổng giá trị các nguồn nêu trên không
nhỏ hơn tổng giá vốn cổ phần tăng thêm. Chương trình lựa chọn người lao động và kế hoạch
phát hành cổ phiếu phải được Đại hội đồng cổ đông thông qua.

Về mặt thủ tục, trước hết Đại hội đồng cổ đông ra nghị quyết thông qua phương án phát
hành cổ phiếu theo một trong các chương trình nêu trên. Sau đó tổ chức phát hành phải nộp hồ
sơ báo cáo với UBCKNN và có nghĩa vụ công bố thông tin trên các phương tiện thông tin đại
chúng theo thời hạn do pháp luật quy định. Trong trường hợp này, việc phát hành chứng khoán
phải được hoàn tất trong thời hạn luật định. Sau khi đợt phát hành hoàn thành, tổ chức phát
hành phải báo cáo kết quả cho UBCKNN và công bố thông tin ra công chúng. Công ty đại
chúng có cổ phiếu niêm yết/đăng ký giao dịch thì phải làm thủ tục đăng ký niêm yết/giao dịch
bổ sung với SGDCK đối với lượng cổ phiếu vừa phát hành.

2.3.3 Phát hành trái phiếu chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương

Phát hành trái phiếu chính phủ: Trái phiếu chính phủ được phát hành trong nước không
phải đáp ứng bất kỳ điều kiện nào và không phải đăng ký phát hành. Tuy nhiên, khi phát hành
trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế thì liên quan đến vấn đề vay nợ nước ngoài. Do đó,
việc phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế cần phải được quản lý nghiêm ngặt
nhằm bảo đảm hiệu quả sử dụng vốn vay. Để phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc
tế, các điều kiện liên quan đến quản lý nợ nước ngoài được quy định trong luật quản lý nợ công
phải được đáp ứng20. Ngoài ra, giá trị phát hành trái phiếu Chính phủ ra thị trường quốc tế phải
nằm trong tổng hạn mức vay thương mại nước ngoài của Chính phủ hàng năm và phù hợp với
chiến lược quản lý nợ công, chương trình quản lý nợ trung hạn được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt. Về mặt thủ tục, Bộ tài chính phải lập đề án phát hành trái phiếu ra thị trường quốc tế và
trình Chính phủ phê duyệt. Sau đó các thủ tục phát hành trái phiếu sẽ do Bộ tài chính quy định
và tổ chức tiến hành.

Trái phiếu chính phủ được phát hành theo một trong các phương thức sau: Đấu thầu
phát hành trái phiếu; Bảo lãnh phát hành trái phiếu; Đại lý phát hành trái phiếu; Bán lẻ trái
phiếu. Đối với trái phiếu kho bạc và công trái xây dựng tổ quốc chỉ các ngân hàng thương mại,
CTCK, công ty tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các định chế tài chính khác được tham
gia đấu thầu, bảo lãnh, đại lý phát hành. Các chủ thể này được xem xét và công nhận là thành
viên của hệ thống nhà tạo lập thị trường nếu đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định.

Trái phiếu chính quyền địa phương: Ủy ban nhân dân cấp tỉnh được phát hành trái phiếu
chính quyền địa phương để đầu tư vào các dự án phát triển kinh tế - xã hội thuộc nhiệm vụ của
ngân sách địa phương theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước và thuộc danh mục đầu tư

20
Xem thêm: Luật Quản lý nợ công 2017

85
trong kế hoạch năm (05) năm đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định; hoặc các dự án
được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xác định có khả năng hoàn vốn. Đối với các dự án được xác
định là có khả năng hoàn vốn, tổng giá trị vốn vay, bao gồm cả việc phát hành trái phiếu để đầu
tư vào một dự án không vượt quá tám mươi phần trăm (80%) tổng mức đầu tư của dự án đó.

Về thủ tục, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải lập đề án phát hành trái phiếu trình Hội đồng
nhân dân cùng cấp và Bộ Tài chính để phê duyệt. Hồ sơ phát hành trái phiếu gồm đề án phát
hành trái phiếu, các văn bản pháp lý chứng minh đủ điều kiện phát hành trái phiếu và các tài
liệu liên quan khác. Căn cứ vào hồ sơ phát hành trái phiếu, các quy định của pháp luật, Bộ Tài
chính thẩm định đề án phát hành trái phiếu và ban hành văn bản chấp thuận hoặc không chấp
thuận việc phát hành trái phiếu.

Sau khi được chấp thuận, trái phiếu chính quyền địa phương được phát hành theo
phương thức đấu thầu, bảo lãnh hoặc đại lý phát hành trái phiếu. Các chủ thể được tham gia
đấu thầu, bảo lãnh hoặc đại lý phát hành trái phiếu bao gồm các ngân hàng thương mại, CTCK,
công ty tài chính, Bảo hiểm xã hội Việt Nam và các định chế tài chính khác.

3. Quản lý nhà nước đối với chào bán chứng khoán

3.1 Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với chào bán chứng khoán

Bảo vệ nhà đầu tư là một trong những mục tiêu quan trọng hàng đầu của quản lý nhà
nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán. Bởi vì, khi một nhà đầu tư bỏ tiền để đầu tư
mua chứng khoán do một tổ chức chào bán, là họ nhận về một tài sản vô hình với giá trị khó có
thể xác định trong tương lai. Tài sản vô hình ấy có thể mang đến cho nhà đầu tư lợi nhuận cao
hơn so với gửi tiền vào tổ chức tín dụng nhưng cũng có thể sẽ làm cho nhà đầu tư bị mất vốn.
Vì vậy, nhà đầu tư chỉ đầu tư vào chứng khoán khi có đầy đủ thông tin về chứng khoán, tổ chức
chào bán và khi họ nhận thấy rằng chất lượng của chứng khoán là bảo đảm. Tuy nhiên, chủ thể
chào bán vẫn có thể che giấu các thông tin nhằm lừa dối nhà đầu tư. Do đó, nhà nước cần quản
lý hoạt động chào bán chứng khoán để bảo đảm hoạt động chào bán chứng khoán lành mạnh
và nhà đầu tư có đủ cơ sở vững chắc để đưa ra quyết định đầu tư của mình. Chào bán chứng
khoán cũng có nguy cơ gây ra rủi ro hệ thống. Trong hoạt động chào bán chứng khoán, tính
công bằng được thể hiện ở chỗ nhà đầu tư có cơ hội ngang nhau trong việc tiếp cận các thông
tin về chứng khoán được chào bán, phương thức xác lập giá chứng khoán và các thông tin liên
quan khác. Đồng thời nhà đầu tư cũng phải được đối xử bình đẳng trong việc đăng ký mua
chứng khoán và phân phối chứng khoán theo các nguyên tắc luật định. Vì vậy, quản lý nhà
nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán một cách phù hợp sẽ góp phần ngăn ngừa và
kiểm soát rủi ro hệ thống.

3.2 Mô hình quản lý nhà nước đối với chào bán chứng khoán ở Việt Nam hiện nay

Mô hình quản lý nhà nước đối với chào bán chứng khoán ở Việt Nam được thể hiện ở
những đặc điểm sau:

Thứ nhất, chứng khoán được chào bán ra công chúng phải được đăng ký với UBCKNN
trừ trái phiếu chính phủ và các trường hợp khác theo quy định của pháp luật. Tổ chức chào bán
chỉ được tiến hành chào bán chứng khoán ra công chúng sau khi được UBCKNN cấp giấy
chứng nhận chào bán chứng khoán ra công chúng. Căn cứ để cấp giấy chứng nhận chào bán
86
chứng khoán ra công chúng là đáp ứng các điều kiện và thực hiện đầy đủ các thủ tục pháp luật
quy định.

Thứ hai, cơ quan quản lý trực tiếp hoạt động chào bán chứng khoán ở Việt Nam bao
gồm UBCKNN và một số cơ quan quản lý chuyên ngành khác. UBCKNN có thẩm quyền quản
lý chào bán chứng khoán ra công chúng, chào bán cổ phiếu riêng lẻ của CTCK, công ty quản
lý quỹ và công ty đại chúng. Bộ tài chính quản lý việc chào bán cổ phiếu riêng lẻ của công ty
bảo hiểm không phải là công ty đại chúng, Ngân hàng nhà nước Việt Nam quản lý việc chào
bán cổ phiếu riêng lẻ của tổ chức tín dụng không phải là công ty đại chúng và chào bán trái
phiếu của tổ chức tín dụng. Theo quy định của pháp luật trong trường hợp tổ chức tín dụng chào
bán trái phiếu ra công chúng thì vừa phải được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp
thuận vừa phải đăng ký tại UBCKNN. Trường hợp chào bán riêng lẻ cổ phiếu của các doanh
nghiệp còn lại sẽ do Sở kế hoạch và đầu tư, Ban quản lý khu công nghiệp, khu chế xuất, khu
công nghệ cao và khu kinh tế quản lý.

Thứ ba, cơ chế hậu kiểm. Sau khi kết thúc đợt chào bán, UBCKNN và các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền vẫn tiến hành hậu kiểm thông qua cơ chế báo cáo kết quả chào bán chứng
khoán và các hoạt động giám sát, thanh tra. Trong quá trình hậu kiểm nếu phát hiện vi phạm,
UBCKNN có quyền đình chỉ hoặc huỷ bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng và áp dụng các
biện pháp xử lý vi phạm thích hợp.

3.3 Xử lý vi phạm pháp luật trong chào bán chứng khoán

Hành vi vi phạm pháp luật trong quá trình chào bán chứng khoán được chia thành các
nhóm chính sau:

Nhóm 1: Hành vi vi phạm quy định về công bố thông tin.

Nhóm 2: Hành vi vi phạm về các điều kiện, thủ tục trong quá trình chào bán chứng
khoán.

Nhóm 3: Thực hiện hành vi chào bán chứng khoán khi đăng ký chào bán chưa có hiệu
lực pháp luật.

Pháp luật quy định cả chế tài hành chính và chế tài hình sự để xử lý các hành vi vi phạm
nói trên. Các biện pháp chế tài hành chính bao gồm các hình phạt chính, hình phạt bổ sung.
Ngoài ra, trong một số trường hợp chủ thể vi phạm còn bị áp dụng các biện pháp khắc phục hậu
quả. Ví dụ, tổ chức phát hành có hành vi không sửa đối, bổ sung hồ sơ khi phát hiện thông tin
không chính xác thì sẽ bị áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là: "Tổ chức chào bán chứng
khoán ra công chúng phải thu hồi chứng khoán đã chào bán, hoàn trả cho nhà đầu tư tiền mua
chứng khoán hoặc tiền đặt cọc (nếu có) cộng thêm tiền lãi tính theo lãi suất tiền gửi không kỳ
hạn của ngân hàng mà tổ chức chào bán chứng khoán mở tài khoản thu tiền mua chứng khoán
hoặc tiền đặt cọc tại thời điểm bị xử phạt vi phạm hành chính, trong thời hạn 30 ngày, kể từ
ngày nhận được yêu cầu của nhà đầu tư". Thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính được trao cho
thanh tra UBCKNN và Chủ tịch UBCKNN.

87
Trong trường hợp hành vi vi phạm pháp luật về chào bán chứng khoán cấu thành tội
phạm theo quy định của pháp luật hình sự, thì chủ thể vi phạm sẽ phải chịu trách nhiệm hình
sự theo quy định của pháp luật hình sự.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Phân biệt chào bán chứng khoán riêng lẻ và chào bán chứng khoán ra công chúng?

2. Mô hình quản lý nhà nước đối với hoạt động chào bán chứng khoán?

3. Cơ sở pháp lý cho hoạt động chào bán riêng lẻ?

4. Cơ sở pháp lý cho hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng?

5. Vai trò của hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng?

6. Bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư trong hoạt động chào bán chứng khoán?

88
Chương 5: PHÁP LUẬT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG VÀ THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHI TẬP TRUNG

A. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẬP TRUNG

1. Những vấn đề chung về sở giao dịch chứng khoán

1.1 Khái niệm, đặc điểm của sở giao dịch chứng khoán

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, không có định nghĩa về sở giao dịch chứng khoán
(SGDCK), chỉ có định nghĩa về thị trường giao dịch chứng khoán. Tại Điều 4 Luật Chứng
khoán có quy định “Thị trường giao dịch chứng khoán là địa điểm hoặc hình thức trao đổi
thông tin để tập hợp lệnh mua, bán và giao dịch chứng khoán”.

Từ định nghĩa trên có thể hiểu: SGDCK là thị trường giao dịch chứng khoán, nơi mua
bán các loại chứng khoán đã được niêm yết một cách có tổ chức theo luật định. SGDCK là một
loại thị trường giao dịch chứng khoán tập trung, có tổ chức và có sự khác biệt với các thị trường
giao dịch phi tập trung.

Đặc điểm của Sở giao dịch chứng khoán:

- Là thị trường trong đó việc giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại một điểm
tập trung gọi là sàn giao dịch của SGDCK. Thị trường này hoạt động theo quy định của
pháp luật, thời gian biểu của việc giao - dịch được quy định rõ.

- SGDCK là thị trường có tổ chức, nơi chứng khoán được mua bán bởi các thành viên
của Sở giao dịch (các CTCK) dưới tư cách người môi giới hoặc chính chủ.

- Hàng hóa trên SGDCK là chứng khoán đủ điều kiện niêm yết tại SGDCK, thường là
chứng khoán của những công ty có khả năng tài chính tốt, có uy tín và phải đáp ứng yêu
cầu của thị trường giao dịch chứng khoán tập trung. SGDCK tổ chức giao dịch chứng
khoán niêm yết, chứng khoán đăng ký giao dịch, không bao gồm các trường hợp chuyển
quyền sở hữu ngoài hệ thống giao dịch theo quy định pháp luật chứng khoán về đăng
ký, lưu ký, thanh toán, bù trừ. SGDCK được tổ chức các phiên giao dịch mua, bán bắt
buộc.

- SGDCK chỉ là thị trường giao dịch, không phải là tổ chức mua vào, bán ra các loại
chứng khoán, nên dù giá chứng khoán lên hay xuống, Sở cũng không bị thua thiệt hay
có lợi gì.

- Chức năng chủ yếu của SGDCK là tổ chức và phục vụ cho hoạt động giao dịch mua -
bán chứng khoán; cung cấp các dịch vụ thông tin; quản lý giám sát các hoạt động mua
bán chứng khoán, bảo đảm công bằng trật tụ, an toàn và hiệu quả trong giao dịch mua
bán chứng khoán.

- SGDCK có chức năng tổ chức và giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán niêm yết
tại SGDCK. SGDCK là tổ chức phục vụ cho hoạt động giao dịch mua bán chứng khoán,
không phải là tổ chức sở hữu chứng khoán, do đó, SGDCK không mua bán bất kỳ một
loại chứng khoán nào, không ấn định giá và không can thiệp vào việc hình thành giá
chứng khoán. SGDCK chỉ công bố danh sách các loại chứng khoán được giao dịch trên
89
thị trường, đảm bảo cho việc mua bán chứng khoán diễn ra công khai, đúng pháp luật,
hạn chế tối đa những tiêu cực có thể xảy ra.

- SGDCK không có người mua và người bán cuối cùng. Nhờ có sự tham gia của các
CTCK với tư cách là nhà tạo lập thị trường, các CTCK - thành viên làm cho thị trường
hoạt động liên tục, không bị gián đoạn. Khi thị trường chứng khoán có cung lớn hơn
cầu, giá chứng khoán hạ, các CTCK có thể mua chứng khoán, còn khi cầu lớn hơn cung,
giá chứng khoán tăng, họ sẽ bán chứng khoán ra. Nhờ đó, trên thị trường chứng khoán,
các chứng khoán luôn luôn được mua đi, bán lại.

1.2 Vai trò của sở giao dịch chứng khoán

- SGDCK tạo tính thanh khoản cho chứng khoán.

- SGDCK huy động vốn cho doanh nghiệp, thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng vốn linh
hoạt và hiệu quả.

- SGDCK khuyến khích các nhà đầu tư sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi có hiệu quả, là một
trong những môi trường giúp kích thích đầu tư.

- SGDCK phản ánh tình hình doanh nghiệp và trạng thái vĩ mô của nền kinh tế.

1.3 Mô hình sở giao dịch chứng khoán

Khi nói về mô hình của SGDCK, chúng ta cần xem xét hình thức sở hữu, cơ cấu tổ chức,
mối quan hệ với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán và các
mặt hoạt động chủ yếu của SGDCK. Pháp luật về chứng khoán tại các nền kinh tế thị trường
phát triển khác nhau cho thấy mô hình tổ chức của SGDCK là khác nhau. SGDCK ở các nước
trên thế giới được tổ chức theo 3 mô hình cơ bản sau:

- Mô hình SGDCK thuộc sở hữu Nhà nước

- Mô hình SGDCK thuộc sở hữu tư nhân

- Mô hình SGDCK thuộc sở hữu hỗn hợp và được tổ chức dưới hình thức pháp lý là
công ty cổ phần

Hiện nay, khi TTCK Việt Nam đã phát triển đến một giai đoạn nhất định, có thể tổ chức
thị trường giao dịch chứng khoán tập trung theo mô hình công ty cổ phần có sự tham gia góp
vốn của Nhà nước để đảm bảo sự can thiệp kịp thời của Nhà nước khi có những biến động lớn,
hạn chế mục tiêu chạy theo lợi nhuận của các tổ chức, cá nhân tham gia trao đổi, mua bán chứng
khoán trên thị trường. Theo quy định tại điều 43 Luật Chứng khoán 2019, Sở giao dịch chứng
khoán Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động theo quy định của Luật này và
Luật Doanh nghiệp, do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ hoặc tổng số cổ phần có quyền
biểu quyết. Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con chịu sự quản lý và giám sát của
Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

1.4 Các nguyên tắc hoạt động của sở giao dịch chứng khoán

Ngoài việc tuân thủ những nguyên tắc chung của thị trường chứng khoán như: nguyên
tắc tôn trọng quyền tự do kinh doanh, giao dịch, mua bán chứng khoán; nguyên tắc công bằng,
90
công khai, minh bạch, bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư... SGDCK còn phải tuân thủ các nguyên tắc
sau đây:

1.4.1 Nguyên tắc trung gian

Đây là nguyên tắc căn bản cho việc tổ chức và hoạt động của SGDCK. Theo nguyên tắc
này, những người mua và người bán chứng khoán không tiến hành giao dịch trực tiếp với nhau
trên thị trường mà phải thông qua các trung gian môi giới. Các trung gian môi giới này là các
thành viên của sở. Theo quy định của Khoản 1 Điều 47 Luật Chứng khoán 2019 thì thành viên
giao dịch tại SGDCK là công ty chứng khoán được Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam chấp
thuận trở thành thành viên giao dịch; Thành viên giao dịch đặc biệt là ngân hàng thương mại,
chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các tổ chức khác được Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam
chấp thuận trở thành thành viên giao dịch đặc biệt.

Nguyên tắc này nhằm đảm bảo cho thị trường chứng khoán hoạt động lành mạnh, hợp
pháp và ngày càng phát triển, bảo vệ được lợi ích của nhà đầu tư, hạn chế được sự lừa đảo, giả
tạo trong giao dịch chứng khoán. Bởi vì, không phải nhà đầu tư nào cũng có thể hiểu biết và
phán đoán được giá trị thực sự của từng loại chứng khoán cũng như những biến động giá trong
tương lai của chúng, muốn đánh giá chính xác giá trị của chứng khoán phải có đủ thông tin
đáng tin cậy.

Tuy nhiên, nhà đầu tư cũng có thể tự mình cập nhật và xử lý các thông tin để biết giá trị
chứng khoán lên hay xuống, làm cơ sở ra quyết định mua hay bán chứng khoán. Nhưng làm
như vậy sẽ mất khá nhiều thời gian và công sức, thậm chí vượt quá khả năng của nhà đầu tư
không chuyên. Trong khi đó, các CTCK (bao gồm các chuyên gia môi giới chứng khoán có
kiến thức chuyên môn) lại thường xuyên cập nhật, lưu trữ và xử lý các thông tin về tổ chức phát
hành để cung cấp cho người đầu tư bất cứ lúc nào họ cần.

Hơn nữa, thị trường chứng khoán có sự tham gia của các nhà đầu tư là người mua và
người bán chứng khoán nhưng họ không biết nhau. Nếu họ tự đi tìm đối tác thì rất mất thời gian
và công sức thậm chí có khi bị ép giá, cách tốt nhất là uỷ quyền cho những chuyên gia chuyên
thu thập các "nguyện vọng" này, đó chính là các CTCK hay những nhà môi giới chứng khoán.
Vì thế, nguyên tắc trung gian được coi là nguyên tắc cơ bản của thị trường giao dịch tập trung.

1.4.2 Nguyên tắc công khai

Các thông tin trên thị trường chứng khoán là cơ sở cho hoạt động, là yếu tố để các nhà
đầu tư định giá chứng khoán. Do đó, luật các nước đều quy định các thông tin về tình hình tài
chính, kết quả kinh doanh của các công ty niêm yết, số lượng và giá cả của từng loại chứng
khoán đã mua bán... đều phải được thông bố công khai trên thị trường và các phương tiện thông
tin đại chúng để đảm bảo cho các nhà đầu tư đều có được thông tin như nhau. Nếu ai đó sử
dụng những thông tin nội bộ, hay các thông tin chưa được phép công bố để giao dịch thu lợi
bất chính sẽ được xem là hành vi giao dịch nội gián và sẽ bị pháp luật cấm. SGDCK ở Việt
Nam ngay từ đầu khi được thành lập cũng đã hướng tới việc xây dựng một hệ thống công bố
thông tin tuân thủ các nguyên tắc: Minh bạch, chính xác, kịp thời và các nhà đầu tư phải dễ
dàng có cơ hội và cơ hội ngang bằng nhau trong việc tiếp cận thông tin.

91
Xuất phát từ yêu cầu tổ chức và quản lý hoạt động trên thị trường chứng khoán, các tổ
chức, cá nhân có trách nhiệm công bố thông tin trên thị trường chứng khoán bao gồm: Công ty
đại chúng, tổ chức phát hành trái phiếu (ngoại trừ tổ chức phát hành trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương), các tổ chức niêm yết
chứng khoán, CTCK, công ty quản lý quỹ, các tổ chức kinh doanh chứng khoán, SGDCK, các
nhà đầu tư thuộc đối tượng công bố thông tin theo quy định của pháp luật, chi nhánh công ty
quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam, quỹ đại chúng.

SGDCK thực hiện công bố thông tin thị trường thông qua các phương tiện của SGDCK
gồm: Trang thông tin điện tử tại SGDCK; ấn phẩm của SGDCK. SGDCK có thể sử dụng các
phương tiện thông tin đại chúng để công bố các thông tin. Ngoài ra, SGDCK còn có nghĩa vụ
cung cấp thông tin về tổ chức niêm yết, công ty quản lý quỹ cho các CTCK. Các CTCK có
trách nhiệm cung cấp lại các thông tin về tổ chức niêm yết và công ty quản lý quỹ cho nhà đầu
tư.

Thông tin thị trường là tất cả các thông tin liên quan đến hoạt động giao dịch trên thị
trường chứng khoán. Thông tin thị trường có thể là những số liệu trước khi giao dịch như: giá
chào mua, giá chào bán, số lượng lệnh và khối lượng của mỗi lệnh... và những thông tin sau
giao dịch như: khối lượng giao dịch, giá trị giao dịch, các loại chỉ số giá... Dựa trên các thông
tin này nhà đầu tư có thể đưa ra các quyết định của mình.

Theo quy định của pháp luật chứng khoán Việt Nam hiện hành thì SGDCK và công ty
con phải công bố:

- Thông tin trong giờ giao dịch

 Tổng số loại chứng khoán được phép giao dịch;

 Giá tham chiếu, giá trần, giá sàn, giá mở cửa, đóng cửa của từng ngày giao dịch, giá
thực hiện và khối lượng thực hiện của giao dịch gần nhất, giá dự kiến (trường hợp khớp
lệnh định kỳ), giá giao dịch cao nhất trong phiên, giá giao dịch thấp nhất trong phiên,
mức và ký hiệu biến động giá của từng loại chứng khoán, giá bình quân của chứng
khoán (đối với thị trường Upcom);

 Ba mức giá chào mua, chào bán tốt nhất của từng loại chứng khoán kèm theo khối lượng
đặt mua, bán tương ứng với các mức giá đó;

 Thông tin giao dịch của trái phiếu phân theo kỳ hạn còn lại, bao gồm: Các kỳ hạn giao
dịch, lợi suất, khối lượng và giá trị của giao dịch gần nhất, biến động lợi suất của giao
dịch gần nhất so với giao dịch trước đó;

 Giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư nước ngoài.

- Thông tin cuối ngày giao dịch

 Tình trạng các loại chứng khoán; khối lượng mở của từng loại chứng khoán phái sinh;

 Tổng số loại chứng khoán được phép giao dịch trong ngày;

92
 Chỉ số giá chứng khoán do Sở giao dịch chứng khoán xây dựng và được Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước chấp thuận; mức và biến động chỉ số so với ngày giao dịch trước đó;

 Mức độ dao động giá cổ phiếu trong ngày giao dịch;

 Số lượng lệnh, khối lượng đặt mua, bán và giá trị tương ứng với mỗi loại chứng khoán;

 Tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường (theo đợt khớp lệnh, ngày giao dịch);

 Giá, khối lượng và giá trị giao dịch của từng loại chứng khoán:

Khớp lệnh (theo từng đợt khớp lệnh và ngày giao dịch đối với khớp lệnh định kỳ và
theo ngày giao dịch đối với trường hợp khớp lệnh liên tục);

Thoả thuận (nếu có): Thời điểm, loại thông tin giao dịch công bố thực hiện theo Quy
chế của Sở giao dịch chứng khoán;

Giao dịch mua lại cổ phiếu của chính mình, bán cổ phiếu quỹ của tổ chức niêm yết,
đăng ký giao dịch (nếu có).

 Tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài và giới hạn còn được mua đối với
từng loại chứng khoán;

 Thông tin giao dịch (giá, khối lượng giao dịch, tỷ trọng giao dịch so với toàn thị trường,
mức độ, tỷ lệ thay đổi giá, khối lượng giao dịch) về 10 cổ phiếu có khối lượng giao dịch
lớn nhất và 10 cổ phiếu biến động giá lớn nhất so với ngày giao dịch gần nhất;

 Thông tin giao dịch (giá, khối lượng giao dịch, tỷ trọng giao dịch so với toàn thị trường;
mức độ, tỷ lệ thay đổi giá và khối lượng giao dịch) của 10 cổ phiếu có giá trị niêm yết
lớn nhất và 10 cổ phiếu có giá thị trường lớn nhất;

 Thông tin giao dịch (giá, khối lượng giao dịch, tỷ trọng giao dịch so với toàn thị trường;
mức độ, tỷ lệ thay đổi giá và khối lượng giao dịch) về trái phiếu bao gồm loại trái phiếu,
lãi suất, thời gian đáo hạn, giá thực hiện, lợi suất hiện hành, lợi suất đáo hạn;

 Số lượng cổ phiếu có quyền biểu quyết của các cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch;

 Công bố thông tin theo yêu cầu của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.

 Công bố thông tin khi thực hiện niêm yết mới, thay đổi mẫu hợp đồng chứng khoán,
hủy niêm yết chứng khoán phái sinh theo quy định sau:

 Công bố thông tin về hợp đồng mẫu tối thiểu 30 ngày trước khi thực hiện niêm yết lần
đầu chứng khoán phái sinh;

 Công bố thông tin tối thiểu 07 ngày làm việc trước khi áp dụng thay đổi điều khoản của
hợp đồng mẫu chứng khoán phái sinh đang niêm yết;

 Công bố thông tin trong thời hạn 24 giờ kể từ khi hủy niêm yết chứng khoán phái sinh
do tài sản cơ sở bị hủy niêm yết.

93
Thông tin thị trường được hiểu gồm có hai dạng là thông tin ban đầu và thông tin đã
được xử lý. Thông tin ban đầu là những thông tin nhận được trực tiếp từ hệ thống giao dịch,
gồm những thông tin như: số lượng lệnh, khối lượng giao dịch, khối lượng và giá chào mua,
khối lượng và giá chào bán, giá thực hiện (giá hiện tại, giá mở cửa, giá đóng cửa, giá cao nhất,
giá thấp nhất...). Thông tin đã được xử lý là những thông tin đã được thống kê lại từ những
thông tin ban đầu nhằm nhiều mục đích sử dụng khác nhau. Các loại chỉ số, các dữ liệu thống
kê báo giá... là những thông tin thuộc loại này. Tuy nhiên, hiện nay, các CTCK đang gặp khó
khăn trong vấn đề xử lý thông tin. Nếu những CTCK chỉ đưa thông tin đơn thuần sẽ không đáp
ứng được nhu cầu hiểu biết của công chúng, còn nếu có những bình luận không tốt sẽ ảnh hưởng
tới các tổ chức niêm yết.

Theo thời gian công bố thông tin, thông tin có thể là thông tin công bố bất thường và
thông tin công bố định kỳ. Thông tin công bố bất thường là những thông tin được công bố ngay
sau khi nhận được. Các thông tin này thường gắn liền với những sự kiện quan trọng, có thể ảnh
hưởng tới giá chứng khoán hoặc lợi ích của người đầu tư. Thông tin công bố định kỳ là những
thông tin được công bố vào những thời điểm quy định.

Ví dụ, đối với thông tin bất thường có thể ảnh hưởng tới giá chứng khoán, theo quy định
tại Điều 120 Luật Chứng khoán, công ty đại chúng phải công bố thông tin bất thường trong thời
hạn 24 giờ, kể từ khi xảy ra một trong các sự kiện sau đây:

- Tài khoản của công ty tại ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa theo
yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền hoặc khi tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán phát
hiện có dấu hiệu gian lận, vi phạm pháp luật liên quan đến tài khoản thanh toán; tài
khoản được phép hoạt động trở lại sau khi bị phong tỏa trong các trường hợp quy định
tại điểm này;
- Tạm ngừng kinh doanh; thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp; thu hồi Giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp; sửa đổi, bổ sung hoặc bị đình chỉ, thu hồi Giấy phép thành
lập và hoạt động hoặc Giấy phép hoạt động;
- Thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông bất thường theo quy định của pháp luật;
- Quyết định mua lại cổ phiếu của công ty; ngày thực hiện quyền mua cổ phần của người
sở hữu trái phiếu kèm theo quyền mua cổ phần hoặc ngày thực hiện chuyển đổi trái
phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu và các quyết định liên quan đến việc chào bán, phát
hành chứng khoán;
- Quyết định về việc tổ chức lại doanh nghiệp, giải thể doanh nghiệp; chiến lược, kế hoạch
phát triển trung hạn và kế hoạch kinh doanh hằng năm của công ty; thành lập, giải thể
công ty con, công ty liên kết, giao dịch dẫn đến một công ty trở thành hoặc không còn
là công ty con, công ty liên kết; thành lập, đóng cửa chi nhánh, văn phòng đại diện;
- Quyết định thay đổi kỳ kế toán, chính sách kế toán áp dụng; kết quả điều chỉnh hồi tố
báo cáo tài chính; ý kiến không phải là ý kiến chấp nhận toàn phần của tổ chức kiểm
toán đối với báo cáo tài chính; việc lựa chọn hoặc thay đổi công ty kiểm toán;
- Thay đổi, bổ nhiệm mới người nội bộ;
- Quyết định mua, bán tài sản hoặc thực hiện các giao dịch có giá trị lớn hơn 15% tổng
tài sản của công ty căn cứ vào báo cáo tài chính năm gần nhất được kiểm toán hoặc báo
cáo tài chính 06 tháng gần nhất được soát xét;

94
- Có quyết định xử phạt vi phạm pháp luật về thuế, bản án, quyết định của Tòa án đã có
hiệu lực pháp luật liên quan đến hoạt động của công ty; thông báo của Tòa án thụ lý đơn
yêu cầu mở thủ tục phá sản doanh nghiệp;
- Có quyết định khởi tố đối với công ty, người nội bộ của công ty;
- Được chấp thuận hoặc bị hủy bỏ niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán nước ngoài;
- Sự kiện khác theo quy định của Bộ trưởng Bộ Tài chính21.

Ngoài ra, việc công bố thông tin theo yêu cầu của công ty đại chúng được thực hiện
trong vòng 24 giờ, kể từ khi nhận được yêu cầu của UBCKNN, SGDCK nơi công ty niêm yết,
đăng ký giao dịch:

- Khi xảy ra sự kiện ảnh hưởng nghiêm trọng đến lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư;

- Có thông tin liên quan đến công ty ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán và cần phải xác
nhận thông tin đó.

- Nội dung thông tin công bố theo yêu cầu phải nêu rõ sự kiện được UBCKNN, SGDCK
yêu cầu công bố; nguyên nhân và đánh giá của công ty về tính xác thực của sự kiện đó,
giải pháp khắc phục (nếu có)22.

1.4.3 Nguyên tắc đấu giá

Theo nguyên tắc đấu giá, một số nhà môi giới sẽ đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường,
đưa ra mức giá chào mua và mức giá chào bán cho các chứng khoán mà họ tiến hành giao dịch.
Các nhà đầu tư mua/bán các chứng khoán bằng cách lựa chọn mức giá tốt nhất đối với họ và
tiến hành giao dịch với các nhà tạo lập thị trường hoặc các nhà đầu tư khác. Giá cả được xác
định thông qua việc cạnh tranh giữa các nhà tạo lập thị trường. Trong trường hợp tại cùng thời
điểm các trung gian môi giới có thể nhận được nhiều lệnh từ nhiều khách hàng đặt mua, bán
cùng một loại chứng khoán với số lượng và giá cả khác nhau thì phải ưu tiên lệnh đặt hàng theo
thứ tự ưu tiên sau: giá, thời gian, quy mô. Thu nhập của các nhà tạo lập thị trường là chênh lệch
giữa các giá chào bán và các giá chào mua.

Có 3 hình thức đấu giá:

- Đấu giá trực tiếp: Là hình thức đấu giá trực tiếp giữa các nhà môi giới với nhau thông
qua một người trung gian (chuyên gia chứng khoán) tại quầy giao dịch trong sàn giao
dịch (ví dụ như SGDCK New York, Tokyo...)

- Đấu giá gián tiếp: Là hình thức đấu giá mà các nhà môi giới không trực tiếp gặp nhau.
Trong sàn giao dịch, các CTCK thường xuyên công bố giá cao nhất sẵn sàng mua và
giá thấp nhất sẵn sàng bán cho mỗi loại chứng khoán mà công ty đang kinh doanh.
Thông tin này được truyền đến cho các CTCK thành viên có liên quan của SGDCK
thông qua hệ thống máy tính nối mạng gồm các CTCK với nhau. Những lệnh đặt hàng
mua hoặc bán của một loại chứng khoán khớp với giá mặc nhiên sẽ được thực hiện (ví

21
Xem: Điều 11 Thông tư 96/2020/TT-BTC
22
Xem: Điều 12 Thông tư 96/2020/TT-BTC

95
dụ như SGDCK London). Giá chào mua và giá bán được các CTCK điều chỉnh thường
xuyên theo tình hình diễn biến thị trường.

- Đấu giá tự động: Là hình thức đấu giá qua hệ thống máy điện tử nối mạng giữa máy chủ
của SGDCK với hệ thống máy con của các CTCK thành viên. Các lệnh mua bán được
truyền đến máy chủ, trong một thời gian nhất định, máy chủ tự xác định một giá chốt,
đảm bảo số lượng mua bán được nhiều nhất và thông báo kết quả trở lại cho các CTCK
có lệnh đặt hàng được thực hiện.

Hệ thống giao dịch tự động xác định giá mở cửa theo cách thức tập hợp các đăng ký
lệnh. Giá mở cửa là giá tại đó số lượng chứng khoán được mua bán nhiều nhất. Nếu có nhiều
giá cho cùng một số lượng chứng khoán mua bán được nhiều nhất thì sẽ chọn giá gần với giá
đóng cửa của phiên giao dịch kế trước đó.

Khi đã có giá mở cửa, các lệnh đặt hàng của các CTCK tự động đưa vào hệ thống tự
động của sàn giao dịch và kết quả được thông báo ngay trên màn hình. Đối với lệnh chưa phù
hợp sẽ được ghi vào hệ thống giao dịch "chờ" và sắp xếp theo thứ tự: giá, thời gian, số lượng.

Theo phương pháp đấu lệnh, các lệnh mua/bán sẽ được tập trung và so khớp tại một thời
điếm nhất định (hoặc liên tục) để xác định ra mức giá thỏa mãn cả bên mua và bên bán. Lệnh
của các nhà đầu tư được so khớp mà không cần có các nhà tạo lập thị trường. Giá cả được xác
định thông qua sự cạnh tranh giữa các nhà đầu tư. Các CTCK nhận phí hoa hồng từ khách hàng
của họ trả cho việc trung gian môi giới.

Theo quy định hiện hành của Việt Nam về giao dịch chứng khoán thì các lệnh giao dịch
nhập vào hệ thống giao dịch được khớp theo thứ tự ưu tiên sau:

- Ưu tiên về giá: Lệnh mua có mức giá cao hơn được ưu tiên thực hiện trước; lệnh bán có
mức giá thấp hơn được ưu tiên thực hiện trước.

- Ưu tiên về thời gian: Trường hợp các lệnh mua, lệnh bán có cùng mức giá thì lệnh giao
dịch được nhập trước vào hệ thống giao dịch được ưu tiên thực hiện trước.

Các nguyên tắc đặc thù nêu trên được thực hiện xuyên suốt trong hoạt động của SGDCK
và được thể hiện rõ nét trong các quy định của SGDCK.

2. Nội dung pháp luật về sở giao dịch chứng khoán

2.1 Vị trí pháp lý của sở giao dịch chứng khoán

Theo quy định của Luật Chứng khoán 2019, SGDCK là tổ chức có tư cách pháp nhân,
được thành lập dưới dạng công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn. SGDCK thực
hiện các chức năng tổ chức, quản lý điều hành việc mua bán chứng khoán; quản lý điều hành
hệ thống giao dịch chứng khoán; cung cấp các dịch vụ hỗ trợ việc mua bán chứng khoán, công
bố các thông tin về hoạt động giao dịch chứng khoán; kiểm tra, giám sát hoạt động giao dịch
chứng khoán tại SGDCK; thu phí niêm yết chứng khoán, phí thành viên, phí giao dịch, phí dịch
vụ cung cấp thông tin và các loại phí dịch vụ khác theo quy định của pháp luật; đình chỉ giao
dịch tạm thời một hoặc một số loại chứng khoán; làm trung gian hoà giải cho các thành viên
khi có yêu cầu.

96
SGDCK ban hành Quy chế hướng dẫn giao dịch chứng khoán, Quy chế niêm yết, Quy
chế thành viên... sau khi được UBCKNN chấp thuận. Ví dụ, Quy chế hướng dẫn giao dịch
chứng khoán quy định cụ thể về: Thời gian giao dịch; phương thức giao dịch; cách xác định giá
tham chiếu; biên độ dao động giá chứng khoán; các loại lệnh giao dịch; việc sửa lệnh, hủy lệnh
giao dịch; việc xác lập giao dịch và loại bỏ giao dịch chứng khoán; việc tạm ngừng giao dịch;
việc công bố thông tin về kết quả giao dịch và các nội dung liên quan khác.

Trước đây, trung tâm giao dịch chứng khoán (tiền thân của SGDCK) là cơ quan hành
chính sự nghiệp, là đơn vị sự nghiệp có thu, trực thuộc UBCKNN. Tuy nhiên, khi chuyển đổi
thành sở, vị trí pháp lý của SGDCK có sự thay đổi phù hợp với vai trò của thị trường chứng
khoán tập trung và đảm bảo tính độc lập, tự chủ trong hoạt động của tổ chức tự quản. Chức
năng nổi bật của SGDCK Việt Nam cũng giống với các chức năng, nhiệm vụ chính của các
SGDCK ở các nước khác, đó là chức năng tổ chức giao dịch mua bán chứng khoán và kiểm tra,
giám sát các hoạt động giao dịch chứng khoán tại SGDCK.

Ngoài ra, khi xem xét vị trí pháp lý của SGDCK, chúng ta phải xem xét mối quan hệ
của nó với UBCKNN - cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán.
Vị trí pháp lý của SGDCK hiện nay ở Việt Nam được xác định là tổ chức có tư cách pháp nhân,
được thành lập dưới hình thức là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước là
chủ sở hữu, chịu sự giám sát và quản lý của UBCKNN.

Thủ tướng Chính phủ quyết định việc thành lập, giải thể, chuyển đổi cơ cấu tổ chức,
hình thức sở hữu của SGDCK theo đề nghị của Bộ trưởng Bộ Tài chính. Hoạt động của SGDCK
phải tuân thủ quy định của pháp luật chứng khoán và Điều lệ SGDCK.

2.2 Cơ cấu tổ chức của sở giao dịch chứng khoán

Hiện nay, cả hai SGDCK ở Việt Nam đều là công ty trách nhiệm hữu hạn một thành
viên do Nhà nước là chủ sở hữu. Cơ cấu tổ chức của các SGDCK ở Việt Nam bao gồm các bộ
phận hợp thành như sau: Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Bộ máy điều hành bao gồm: Tổng
giám đốc, các Phó Tổng giám đốc và bộ máy giúp việc (các phòng, ban). Việc thay đổi cơ cấu
tổ chức quản lý và điều hành của SGDCK do Thủ tướng Chính phủ quyết định.

Theo Điều 44 Luật Chứng khoán 2019 quy định về cơ cấu tổ chức quản lý của Sở giao
dịch chứng khoán Việt Nam thì:

- Thủ tướng Chính phủ quyết định cơ cấu tổ chức quản lý của Sở giao dịch chứng khoán
Việt Nam theo quy định của Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và quy định khác
của pháp luật có liên quan.
- Chủ tịch Hội đồng thành viên hoặc Chủ tịch Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc (Giám
đốc) Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam do Bộ trưởng Bộ Tài chính phê chuẩn hoặc
bổ nhiệm, miễn nhiệm theo đề nghị của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị Sở
giao dịch chứng khoán Việt Nam và ý kiến của Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà
nước.
- Quyền và nhiệm vụ của Hội đồng thành viên hoặc Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc
(Giám đốc), Ban kiểm soát (Kiểm soát viên) thực hiện theo quy định của pháp luật và
Điều lệ Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam

97
So với các Trung tâm giao dịch chứng khoán trước đây, SGDCK đã có những cải cách
nhất định về tổ chức, quản trị, điều hành. Khi còn là trung tâm, cơ cấu tổ chức của TTGDCK
rất đơn giản, với quy mô nhỏ, số lượng các phòng, ban hạn chế hơn so với SGDCK hiện hành.
Điều hành TTGDCK là một Ban giám đốc với nhiệm vụ, quyền hạn còn hạn chế và chịu sự
giám sát nghiêm ngặt của UBCKNN. Hiện nay, với sự chuyển đổi hình thức pháp lý của
SGDCK thành công ty, pháp luật chứng khoán đã đề cao vai trò của tổ chức tự quản này
(SGDCK). SGDCK có quyền ban hành các quy chế sau khi có sự phê chuẩn của cơ quan nhà
nước có thẩm quyền, đồng thời có quyền chấp thuận, hủy bỏ chứng khoán niêm yết, chấp thuận,
hủy bỏ tư cách thành viên giao dịch, vai trò giám sát các thành viên, giám sát các hoạt động
trên sở.

Ở các nước trên thế giới có SGDCK được thành lập dưới hình thức là công ty cổ phần
thì cơ quan có quyền lực cao nhất của SGDCK là Đại hội cổ đông, có chức năng, nhiệm vụ
quyền hạn tương đương với Hội đồng quản trị của SGDCK thành lập dưới hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước là chủ sở hữu.

2.3 Hoạt động của Sở giao dịch chứng khoán

2.3.1 Hoạt động niêm yết chứng khoán

2.3.1.1 Khái niệm và mục tiêu của việc niêm yết chứng khoán

Niêm yết chứng khoán là một quá trình mà một SGDCK chấp thuận cho tổ chức phát
hành có chứng khoán được phép giao dịch trên SGDCK nếu tổ chức này đáp ứng được những
điều kiện nhất định của Sở giao dịch đó. Hay nói cách khác, niêm yết chứng khoán là việc đưa
chứng khoán có đủ điều kiện niêm yết vào giao dịch trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán
niêm yết.

Trong hoạt động niêm yết chứng khoán, SGDCK làm thủ tục cho chứng khoán đủ điều
kiện niêm yết tại sở. Các tổ chức phát hành có nhu cầu niêm yết thì phải đăng ký với sở (trừ
trường hợp đó là trái phiếu Chính phủ và trái phiếu chính quyền địa phương). Khi được Sở cho
phép, chứng khoán sẽ được niêm yết.

Hoạt động niêm yết đòi hỏi phải đảm bảo sự tin cậy đối với thị trường cho các nhà đầu
tư. Cụ thể, các công ty xin niêm yết phải đáp ứng được các điều kiện để niêm yết. Điều kiện
này được quy định cụ thể trong pháp luật chứng khoán và quy chế về niêm yết chứng khoán do
SGDCK ban hành. Các nhà đầu tư và công chúng phải nắm được đầy đủ các thông tin và có cơ
hội nắm bắt thông tin do công ty chào bán công bố ngang nhau, đảm bảo sự công bằng trong
tiếp nhận thông tin, kể cả các thông tin mang tính chất định kỳ hoặc thông tin bất thường có tác
động đến giá cả, khối lượng chứng khoán giao dịch.

Mục tiêu của việc niêm yết chứng khoán là hỗ trợ thị trường hoạt động ổn định, duy trì
lòng tin của công chúng đối với thị trường chứng khoán thông qua việc lựa chọn các chứng
khoán có chất lượng cao để giao dịch. Ở Việt Nam theo Nghị định 155/2020/NĐ-CP công ty
được phép chào bán chứng khoán ra công chúng phải là những công ty hoạt động sản xuất kinh
doanh có hiệu quả, có đủ các điều kiện do pháp luật chứng khoán quy định. Việc chào bán
chứng khoán ra công chúng và niêm yết trên SGDCK mang lại nhiều lợi ích, nhưng kèm theo
đó là những nghĩa vụ mà công ty có chứng khoán được niêm yết phải thực hiện.
98
Công ty niêm yết là chủ thể quan trọng nhất trong hoạt động niêm yết. Công ty niêm yết
được quy định theo Luật chứng khoán năm 2019 là công ty đại chúng có chứng khoán được
niêm yết trên SGDCK. Do tính chất đặc biệt của công ty niêm yết là có chứng khoán được niêm
yết và giao dịch trên SGDCK nên các công ty phải chịu sự quản lý của cơ quan chuyên môn -
đó là Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Cơ quan này thực hiện chức năng, nhiệm vụ cấp phép
đối với hoạt động chào bán chứng khoán; quản lý, giám sát các giao dịch. Để thực hiện được
nhiệm vụ trên, Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước có hệ thống các cơ quan như SGDCK Hà Nội
và SGDCK Thành phồ Hồ Chí Minh, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam.
Trong đó, SGDCK có chức năng tổ chức và giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán niêm
yết tại các Sở giao dịch, còn Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán có chức năng tổ chức
và giám sát hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán.

2.3.1.2 Những lợi ích và hạn chế của việc niêm yết chứng khoán

a/ Những lợi ích của việc niêm yết chứng khoán

- Công ty dễ dàng trong huy động vốn: khi tham gia niêm yết chứng khoán, đặc biệt
niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán, doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách
nhanh chóng, thuận tiện, dễ dàng từ việc phát hành dựa trên tính thanh khoản cao và uy tín của
doanh nghiệp được niêm yết trên thị trường. Huy động theo cách này, doanh nghiệp không phải
thanh toán lãi vay cũng như phải trả vốn gốc giống như việc vay nợ (đối với chứng khoán là cổ
phiếu), từ đó sẽ rất chủ động trong việc sử dụng nguồn vốn huy động được cho mục tiêu và
chiến lược dài hạn của mình. Đây được coi là yếu tố quan trọng nhất khi quyết định niêm yết
chứng khoán trên thị trường chứng khoán.

Ngoài ra, công ty niêm yết được công chúng tín nhiệm hơn công ty không được niêm
yết, bởi vậy khi trở thành công ty niêm yết thì có thể dễ dàng trong việc huy động vốn với chi
phí huy động thấp hơn. Sau khi tham gia niêm yết, tên, hình ảnh của công ty cũng sẽ tạo ra ưu
thế trong việc cạnh tranh tham gia liên doanh, liên kết, ký kết các hợp đồng có giá trị, tham gia
đấu thầu và thực hiện các dự án lớn. Quan trọng hơn cả là đối với các công ty có cổ phiếu được
niêm yết tại SGDCK, giá cổ phiếu sẽ phản ánh cả các giá trị vô hình như uy tín, lợi thế cạnh
tranh..., chứ không chỉ đơn thuần là giá trị sổ sách. Chính vì vậy, uy tín của công ty được nâng
lên.

- Tăng uy tín của doanh nghiệp: để được niêm yết chứng khoán, doanh nghiệp phải đáp
ứng được những điều kiện chặt chẽ về mặt tài chính, hiệu quả sản xuất - kinh doanh cũng như
quản trị công ty... Do đó, những công ty được niêm yết trên thị trường thường là những công ty
có hoạt động sản xuất kinh doanh tốt. Thực tế đã chứng minh, niêm yết chứng khoán là một
trong những cách thức quảng cáo tốt cho doanh nghiệp, làm tăng uy tín của doanh nghiệp, từ
đó thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, tìm kiếm đối tác... Sau khi chào bán chứng khoán ra
công chúng để niêm yết trên thị trường chứng khoán, chứng khoán của công ty được giao dịch
trên phạm vi lớn hơn rất nhiều với độ bảo mật, an toàn, chính xác cao thông qua các dịch vụ do
SGDCK, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán và các CTCK cung cấp. Cổ đông, những
người sở hữu chứng khoán, là những người thu được nhiều lợi ích nhất qua các dịch vụ trên.
Điều này cũng có nghĩa là công ty niêm yết sẽ dễ dàng thu hút các cổ đông hơn.

99
Nâng cao tính thanh khoản cho các chứng khoán: khi các chứng khoán được niêm yết,
chúng có thể được nâng cao tính thanh khoản, mở rộng phạm vi chấp nhận làm tài sản cầm cố,
thế chấp, dễ dàng được sử dụng phục vụ cho các mục đích về tài chính và các mục đích khác.

- Ưu đãi về thuế: ở hầu hết các nước trên thế giới, khi thị trường chứng khoán mới ra
đời Chính phủ dành cho công ty niêm yết rất nhiều ưu đãi như: được thực hiện chế độ khấu hao
nhanh, được miễn giảm thuế thu nhập trong một thời gian nhất định, được miễn phí niêm yết
lần đầu. Cổ đông của công ty có thể được miễn giảm thuế thu nhập cá nhân đối với thu nhập từ
cổ tức của các cổ phiếu niêm yết. Ở Việt Nam cũng vậy, khi TTGDCK ở Việt Nam được thành
lập và đi vào hoạt động vào năm 2000, theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số
39/2000/QĐ-TTg, ngoài các khoản ưu đãi theo pháp luật hiện hành, các tổ chức phát hành có
chứng khoán được niêm yết còn được giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong
hai năm tiếp theo kể từ khi niêm yết chứng khoán lần đầu tại TTGDCK. Các cá nhân đầu tư
chứng khoán được miễn thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cho phần thu nhập từ cổ
tức, lãi trái phiếu và chênh lệch mua bán chứng khoán.

- Nâng cao hiệu quả hoạt động quản trị của công ty: khi doanh nghiệp được niêm yết
chứng khoán phải thực hiện công khai thông tin theo quy định của pháp luật và của Sở giao
dịch. Do vậy, Ban lãnh đạo và quản lý công ty chịu sự giám sát chặt chẽ hơn của cổ đông, của
người đầu tư, chính điều này buộc những người lãnh đạo và quản lý công ty phải thực hiện tổ
chức quản lý công ty tốt hơn.

- Thu hút các nhà đầu tư chiến lược: khi các công ty được niêm yết trên Sở giao dịch
cũng tương ứng với công ty này đã tạo được cho mình những vị thế nhất định. Chứng khoán
của các công ty này nhờ đó có tiềm năng mang lại những giá trị lớn cho các nhà đầu tư trên thị
trường chứng khoán. Do đó, sẽ có nhiều nhà đầu tư muốn trở thành nhà đầu tư chiến lược của
công ty để thu được lợi nhuận từ lượng chứng khoán của công ty.

- Tổ chức niêm yết được bảo vệ trước nguy cơ bị thâu tóm: Do mọi thông tin về các giao
dịch chứng khoán có giá trị lớn của công ty đều được công bố một cách không khai nên các
doanh nghiệp có thể nắm được tỷ lệ sở hữu cổ phần của doanh nghiệp mình để có biện pháp
phòng ngừa và tránh được tình trạng công ty mình bị thâu tóm.

Có thể nói, thông qua việc niêm yết chứng khoán, tổ chức phát hành thu được rất nhiều
lợi ích và có các quyền nhất định. Tuy nhiên quyền lợi thường đi đối với nghĩa vụ, công ty niêm
yết phải thực hiện nhiều nghĩa vụ hơn so với các công ty thông thường khác, đặc biệt là nghĩa
vụ công bố thông tin. Trước khi chào bán chứng khoán ra công chúng để niêm yết và sau khi
được niêm yết, tổ chức phát hành có nghĩa vụ phải công bố một cách đầy đủ chính xác và kịp
thời các thông tin liên quan đến các mặt hoạt động của công ty cũng như các biến động có ảnh
hưởng đến giá chứng khoán niêm yết. Công ty phải lập báo cáo định kỳ hàng năm và báo cáo
bất thường theo yêu cầu của cơ quan quản lý hoặc công chúng đầu tư. Bên cạnh đó, để thực
hiện chế độ công bố thông tin, các công ty phải bố trí những cán bộ chuyên trách về vấn đề này,
điều đó làm tăng chi phí quản lý cũng như tốn kém về công sức và thời gian.

b/ Những hạn chế của việc niêm yết chứng khoán

100
- Nghĩa vụ báo cáo của một công ty niêm yết có thể làm lộ bí mật kinh doanh: Doanh
nghiệp được niêm yết chứng khoán phải công khai thông tin theo yêu cầu của pháp luật và
SGDCK. Những thông tin công bố có thể bị các đối thủ của doanh nghiệp khai thác, điều đó có
thể dẫn tới những bất lợi cho doanh nghiệp trong cạnh tranh.

- Những cản trở trong việc thâu tóm và sáp nhập: Mọi vấn đề đều có hai mặt của nó,
như trên đã phân tích nhưng ưu điểm của việc công bố thông tin sẽ tránh cho doanh nghiệp bị
thâu tóm. Tuy nhiên, khi chính công ty này "muốn" được sáp nhập với doanh nghiệp khác để
mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh thì công bố thông tin lại là điều bất lợi, có thể làm thất
bại chiến lược này của chính công ty niêm yết.

- Áp lực bị giám sát, kiểm tra từ nhiều phía và áp lực đối với lãnh đạo doanh nghiệp về
kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh: tổ chức niêm yết luôn phải chịu áp lực giám sát của
xã hội, áp lực phải nâng cao hiệu quả sản xuất - kinh doanh nhằm duy trì và tăng giá cổ phiếu
trên thị trường chứng khoán và những người đứng đầu doanh nghiệp hiển nhiên sẽ chịu áp lực
lớn nhất.

- Chi phí niêm yết khá tốn kém: doanh nghiệp được niêm yết chứng khoán phải nộp
những khoản phí nhất định cho SGDCK như phí niêm yết, chi phí về kiểm toán... Khi phát
hành, công ty sẽ phải chịu các chi phí đợt phát hành: chi phí thuê kiểm toán độc lập để lập báo
cáo kiểm toán hoạt động của công ty, chi phí thuê người bảo lãnh phát hành, chi phí chuẩn bị
hồ sơ, giấy tờ để xin phép chào bán, chi phí quảng cáo cho đợt chào bán chứng khoán. Ngoài
ra trong hoạt động của mình, công ty sẽ phải bỏ ra nguồn lực lớn về tài chính và con người để
chuẩn bị các báo cáo tài chính thường niên, báo cáo các sự kiện bất thường xảy ra đối với công
ty, báo cáo khi bị cơ quan giám sát tài chính yêu cầu.

- Quyền kiểm soát có thể bị đe dọa: khi doanh nghiệp niêm yết chứng khoán thì chứng
khoán của doanh nghiệp sẽ được mua, bán rộng rãi trong công chúng. Đối với công ty cổ phần,
điều đó dẫn đến tình trạng thay đổi thành phần cổ đông, từ đó, làm cho việc quản lý và kiểm
soát công ty sẽ khó khăn, phức tạp hơn. Nói cách khác, việc thay đổi cơ cấu cổ đông thường
xuyên dẫn đến sự biến đổi và bất ổn định trong quá trình quản lý công ty và có thể đe doạ đến
quyền kiểm soát của các cổ đông lớn.

2.3.1.3 Các loại niêm yết chứng khoán

- Niêm yết lần đầu: là việc cho phép chứng khoán của tổ chức phát hành được đăng ký
niêm yết, giao dịch lần đầu tiên sau khi chào bán ra công chúng và đáp ứng được các
tiêu chuẩn về niêm yết.

- Niêm yết bổ sung: là việc niêm yết thêm một loại cổ phiếu nào đó với mục đích tăng
vốn hay vì các mục tiêu khác như sáp nhập, chi trả cổ tức, thực hiện các trái quyền hoặc
thực hiện các trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu...

- Thay đổi niêm yết: là việc thay đổi tên giao dịch, khối lượng, mệnh giá hoặc tổng giá trị
cổ phiếu được niêm yết của công ty niêm yết.

101
- Niêm yết lại: là việc cho phép một công ty phát hành được tiếp tục niêm yết trở lại các
chứng khoán trước đây đã bị huỷ bỏ niêm yết vì các lý do không đáp ứng được các điều
kiện duy trì niêm yết.

2.3.1.4 Điều kiện niêm yết

Ở Việt Nam, các điều kiện niêm yết chứng khoán trên SGDCK tách biệt với các điều
kiện chào bán chứng khoán ra công chúng. Tổ chức phát hành khi niêm yết chứng khoán tại
SGDCK phải đáp ứng các điều kiện về vốn, hoạt động kinh doanh và khả năng tài chính, số cổ
đông hoặc số người sở hữu chứng khoán. Tùy từng loại chứng khoán khác nhau mà các điều
kiện niêm yết khác nhau. Điều này phụ thuộc vào đặc thù của mỗi loại chứng khoán và chất
lượng của chứng khoán niêm yết. Tổ chức đăng ký niêm yết phải nộp hồ sơ cho SGDCK. Tiêu
chí, điều kiện niêm yết sẽ thay đổi tùy thuộc vào sự phát triển của TTCK trong từng giai đoạn
và các yêu cầu đặt ra đối với thị trường này.

Theo quy định tại mục 2 Chương III Nghị định 155/2020/NĐ-CP các điều kiện niêm
yết được áp dụng khác nhau đối với cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp, chứng chỉ quỹ đại chúng
hoặc cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng.

Các điều kiện niêm yết có thể được chia làm hai loại: điều kiện định lượng và điều kiện
định tính.

- Về nhóm điều kiện định lượng: bao gồm những nội dung: thời gian hoạt động, quy mô
của công ty, lãi suất chứng khoán, các khoản nợ và tỷ lệ nợ, sự phân bổ cổ đông. Quy mô công
ty thường được xác định thông qua 3 tiêu chí chính là chứng khoán vốn, vốn cổ đông và tổng
số chứng khoán bán ra.

+ Thời gian hoạt động: Tiêu chuẩn này đặt ra nhằm đảm bảo tính ổn định trong hoạt
động kinh doanh và phát triển của tổ chức niêm yết. Tiêu chuẩn này được quy định ở Việt Nam
là 2 năm đối với niêm yết trên SGDCK Tp. Hồ Chí Minh. Ngoài ra, việc pháp luật quy định về
điều kiện có lãi trong hai năm liên tục gần nhất đối với công ty muốn niêm yết là nhằm mục
đích chứng minh rằng chỉ có những doanh nghiệp nào sản xuất kinh doanh hiệu quả trong thời
gian như vậy mới có thể tạo được tâm lý yên tâm đối với các nhà đầu tư khi tham gia thị trường
chứng khoán.

+ Quy mô vốn: Tiêu chuẩn này đặt ra nhằm xác định quy mô công ty, thông thường một
công ty có vốn càng lớn thì quy mô hoạt động càng rộng. Pháp luật Việt Nam quy định mức
vốn điều lệ tối thiểu là 120 tỷ đồng khi niêm yết trên SGDCK Tp. Hồ Chí Minh.

+ Lãi suất thu được từ vốn cổ phần. Về nguyên tắc, tổng số lãi suất thu được từ vốn cổ
phần phải cao hơn lãi suất thu được từ tiền gửi có kỳ hạn nhằm tăng tính hấp dẫn của phương
thức đầu tư. Quy định của pháp luật Việt Nam hiện nay yêu cầu các công ty kinh doanh có lãi
liên tục trong 2 năm gần nhất và yêu cầu số lượng lãi cụ thể như tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên
vốn chủ sở hữu (ROE) năm gần nhất tối thiểu là 5%. Có thể nói tiêu chuẩn của Việt Nam rất cụ
thể, nhằm đảm bảo chứng khoán niêm yết trên SGDCK Thành phồ Hồ Chi Minh là hàng hóa
đảm bảo chất lượng.

102
+ Tỷ lệ nợ. Quy định tỷ lệ nợ là nhằm khẳng định tình hình kinh doanh lành mạnh của
công ty. Một số công ty có tỷ lệ nợ quá cao sẽ khiến công chúng thiếu tin tưởng và làm cho độ
rủi ro khi đầu tư vào chứng khoán của công ty cao. Tuy vậy, tỷ lệ nợ cần phải quy định khác
nhau cho những ngành khác nhau. Pháp luật Việt Nam Việt Nam chưa quy định tiêu chuẩn này
mà mới chỉ yêu cầu công bố công khai các khoản nợ của tổ chức xin phép niêm yết.

+ Sự phân bổ cổ đông. Đây chính là hình thức phân phối quyền sở hữu công ty và cũng
chính là điều kiện đảm bảo tính thanh khoản của chứng khoán niêm yết.

Tại Việt Nam, pháp luật quy định rõ về các cổ đông chính và cổ đông thiểu số, theo đó
tối thiểu 20% cổ phiếu có quyền biểu quyết của công ty do ít nhất ba trăm (300) cổ đông không
phải cổ đông lớn nắm giữ, trừ trường hợp doanh nghiệp nhà nước chuyển đổi thành công ty cổ
phần theo quy định của Thủ tướng Chính phủ;

- Nhóm điều kiện định tính

Nhóm điều kiện này được đặt ra để xem xét khả năng phát triển và mức độ hữu ích của
công ty. Ví dụ như: ích lợi của công ty đối với đất nước, vị trí và sự ổn định tương đối của công
ty trong ngành, mức độ đóng góp của nó vào sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như những công
hiến của công ty cho sự phát triển của quốc gia. Nhiều khi các công ty đáp ứng đầy đủ các yêu
cầu về định lượng nhưng không thoả mãn các yêu cầu về định tính thì vẫn không được phép
niêm yết.

Nội dung chính của điều kiện định tính được thể hiện ở khả năng chuyển nhượng cổ
phiếu được ghi trong điều lệ công ty và ý kiến của kiểm toán viên về báo cáo tài chính của công
ty thường trong vòng 3 năm gần nhất. Ngoài ra, điều kiện định tính còn thể hiện thông qua việc
giải quyết của công ty đối với các vụ kiện tụng hoặc tình trạng bị từ chối thanh toán trước đó;
việc kết toán tài chính của công ty trong trường hợp công ty sáp nhập, thâu tóm.

2.3.1.5 Về thủ tục niêm yết

Để việc niêm yết chứng khoán được phê chuẩn, mọi SGDCK đều yêu cầu các công ty
phải tuân theo trình tự, thủ tục niêm yết nhất định. Ở Việt Nam, thủ tục niêm yết chứng khoán
tại SGDCK được quy định tại Nghị định 155/2020/NĐ-CP và Thông tư số 202/2015/TT-BTC
về niêm yết chứng khoán trên SGDCK. Theo đó, tổ chức đăng ký niêm yết chứng khoán lấn
đầu phải nộp hồ sơ đăng ký niêm yết cho SGDCK và ký hợp đồng niêm yết với SGDCK. Các
tài liệu trong hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán được quy định như sau:

Đối với đăng ký niêm yết cổ phiếu, hồ sơ gồm:

- Giấy đăng ký niêm yết cổ phiếu;

- Quyết định của Đại hội đồng cổ đông kỳ gần nhất thông qua việc niêm yết cổ phiếu;

- Sổ đăng ký cổ đông của tổ chức đăng ký niêm yết được lập trong thời hạn 01 tháng
trước thời điểm nộp hồ sơ đăng ký niêm yết;

- Bản cáo bạch theo mẫu của Bộ Tài chính;

103
- Cam kết của cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban Kiểm soát, Giám đốc (Tổng
Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc), Kế toán trưởng và cam kết của cổ
đông lớn là người có liên quan với thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám
đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng Giám đốc) và Kế toán trưởng của công
ty nắm giữ 100% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 06 tháng kể từ ngày niêm
yết và 50% số cổ phiếu này trong thời gian 06 tháng tiếp theo;

- Hợp đồng tư vấn niêm yết (nếu có);

- Giấy cam kết hạn chế tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài theo quy định của pháp luật đối
với lĩnh vực kinh doanh đặc thù (nếu có);

- Danh sách những người có liên quan đến các thành viên Hội đồng quản trị, Ban Giám
đốc, Ban Kiểm soát và Kế toán trưởng;

- Giấy chứng nhận của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán về việc cổ phiếu của
tổ chức đó đã đăng ký, lưu ký tập trung;

- Văn bản chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng cổ phần.

Đối với đăng ký niêm yết trái phiếu, hồ sơ bao gồm:

- Giấy đăng ký niêm yết trái phiếu;

- Quyết định thông qua việc niêm yết trái phiếu của Hội đông quản trị hoặc trái phiếu
chuyển đổi của Đại hội đồng cổ đông (đối với công ty cổ phần), niêm yết trái phiếu của
Hội đồng thành viên (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên)
hoặc Chủ sở hữu công ty (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên);

- Số đăng ký chủ sở hữu trái phiếu của tổ chức đăng ký niêm yết;

- Bản cáo bạch theo mẫu của Bộ Tài chính;

- Cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức đăng ký niêm yết đối với nhà đầu tư, bao gồm
các điều kiện thanh toán, tỉ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu, điều kiện chuyển đổi (trường hợp
niêm yết trái phiếu chuyển đổi) và các điều kiện khác;

- Cam kết bảo lãnh thanh toán hoặc Biên bản xác định giá trị tài sản bảo đảm, kèm tài
liệu hợp lệ chứng minh quyền sở hữu hợp pháp và hợp đồng bảo hiểm (nếu có) đối với
các tài sản đó trong trường hợp niêm yết trái phiếu có bảo đảm. Tài sản dùng để bảo
đảm phải được đăng ký với cơ quan có thẩm quyền;

- Hợp đồng giữa tổ chức phát hành và đại diện người sở hữu trái phiếu;

- Giấy chứng nhận của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán về việc trái phiếu của
tổ chức đó đã đăng ký, lưu ký tập trung;

- Văn bản chấp thuận của Ngân hàng Nhà nước đối với tổ chức tín dụng cổ phần.

Hồ sơ đăng ký niêm yết chứng chỉ quỹ đại chúng và cổ phiếu của công ty đầu tư chứng
khoán đại chúng bao gồm:

104
- Giấy đăng ký niêm yết chứng chỉ quỹ đại chúng hoặc Giấy đăng ký niêm yết cổ phiếu
của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng;

- Sổ đăng ký nhà đầu tư nắm giữ chứng chỉ quỹ đại chứng hoặc sổ đăng ký cổ đông của
công ty đầu tư chứng khoán đại chúng;

- Điều lệ Quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng theo mẫu do Bộ Tài chính
quy định và Hợp đồng giám sát đã được Đại hội nhà đầu tư hoặc Đại hội đồng cổ đông
thông qua;

- Bản cáo bạch theo mẫu của Bộ Tài chính;

- Danh sách và lý lịch tóm tắt của thành viên Ban đại diện quỹ; cam kết bằng văn bản của
các thành viên độc lập trong Ban đại diện quỳ về sự độc lập của mình đối với công ty
quản lý quỹ và ngân hàng giám sát;

- Cam kết của thành viên Ban đại diện quỹ đầu tư chímg khoán hoặc của cổ đông là thành
viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó
Tổng Giám đốc), Kế toán trưởng, cổ đông lớn là người có liên quan với thành viên Hội
đồng quản trị, Ban kiểm soát, Giám đốc (Tổng Giám đốc), Phó Giám đốc (Phó Tổng
Giám đốc) và Kế toán trưởng (nếu có) của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng về
việc nắm giữ 100% số chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 06
tháng kể từ ngày niêm yết và 50% số chứng chỉ quỹ hoặc cổ phiếu này trong thời gian
06 tháng tiếp theo;

- Báo cáo kết quả đầu tư của quỹ và công ty đầu tư chứng khoán đại chúng tính đến thời
điểm đăng ký niêm yết có xác nhận của ngân hàng giám sát;

- Giấy chứng nhận của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán về việc chứng chỉ quỹ
của quỹ đại chúng hoặc cổ phiếu của công ty đầu tư chứng khoán đại chúng đã đăng ký,
lưu ký tập trung.

Có thể thấy, pháp luật hiện hành ở Việt Nam đã có sự phát triển nhất định trong việc
quy định về cấp phép niêm yết, thể hiện sự chuyển đổi từ mô hình xin phép sang mô hình đăng
ký cấp phép niêm yết. Điều này đảm bảo quyền tự chủ của các công ty niêm yết và hạn chế sự
can thiệp của nhà nước vào các hoạt động trên thị trường chứng khoán.

SGDCK sau khi chấp thuận cho tổ chức đăng ký niêm yết phải nộp cho UBCKNN bản
sao hồ sơ đăng ký niêm yết.

Hợp đồng niêm yết là hợp đồng được ký kết giữa một bên là SGDCK và bên kia là tổ
chức xin niêm yết, trong đó có quy định rất rõ các quyền và nghĩa vụ của tổ chức niêm yết. Ở
các thị trường chứng khoán khác nhau thì mẫu hợp đồng này khác nhau, tuy nhiên tựu trung lại
những nội dung của hợp đồng đều hướng tới mục đích: đảm bảo việc công bố thông tin theo
định kỳ của tổ chức niêm yết; đảm bảo việc công bố các bản báo cáo tài chính của tổ chức:
niêm yết theo tiêu chuẩn nguyên tắc kế toán chung (GAAP) một cách thường xuyên và theo
định kỳ; ngăn chặn tổ chức niêm yết thực hiện hoạt động kinh doanh thiếu lành mạnh.

105
Sau khi nhận được giấy đăng ký niêm yết của công ty, SGDCK sẽ kiểm tra tính pháp
lý, tính chính xác của các thông tin. Đặc biệt, SGDCK thực hiện việc kiểm tra các điều kiện về
niêm yết chứng khoán trên sở mà pháp luật đã quy định và kiểm tra các tài liệu báo cáo của
công ty xin phép niêm yết. Trong khi thẩm định hồ sơ đăng ký niêm yết, SGDCK quan tâm đến
những vấn đề cơ bản sau: Khả năng thu lợi nhuận và sự ổn định của công ty; vấn đề tổ chức
quản lý và hoạt động của công ty; việc bảo vệ quyền lợi của các cổ đông. Để việc thẩm định có
hiệu quả, các SGDCK thường có một bộ phận chuyên trách thẩm định và đưa ra các quyết định
chấp thuận cuối cùng. Theo quy định của Nghị định 155/2020/NĐ-CP, trong thời hạn 30 ngày
kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, SGDCK có trách nhiệm chấp thuận hoặc từ chối đăng ký niêm
yết. Trường hợp từ chối đăng ký niêm yết, SGDCK phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Điều này có nghĩa là khi xét thấy công ty đạt đủ các điều kiện về niêm yết chứng khoán, Giám
đốc SGDCK sẽ phê chuẩn cho chứng khoán đó được niêm yết để giao dịch trên SGDCK.

Tổ chức niêm yết phải làm thủ tục thay đổi đăng ký niêm yết khi thực hiện tách, gộp cổ
phiếu, phát hành thêm cổ phiếu để trả cổ tức hoặc cổ phiếu thường hoặc chào bán quyền mua
cổ phần cho cổ đông hiện hữu để tăng vốn điều lệ. Trường hợp phát hành thêm cổ phiếu, tổ
chức niêm yết phải thực hiện niêm yết bổ sung trong vòng 30 ngày sau khi hoàn thành đợt chào
bán; Trong trường hợp tổ chức niêm yết bị tách hoặc nhận sáp nhập hoặc thay đổi số lượng
chứng khoán niêm yết khác trên SGDCK đều phải làm thủ tục đăng ký lại.

Trong hồ sơ thay đổi đăng ký niêm yết nộp cho SGDCK, cụ thể trong giấy đề nghị thay
đổi đăng ký niêm yết phải nêu rõ lý do dẫn đến việc thay đổi niêm yết và các tài liệu có liên
quan. Ngoài ra, hồ sơ còn bao gồm Quyết định thông qua việc thay đổi niêm yết cổ phiếu của
Đại hội đồng cổ đông, thay đổi niêm yết trái phiếu của Hội đồng quản trị hoặc trái phiếu chuyển
đổi của Đại hội đồng cổ đông (đối với công ty cổ phần); thay đổi niêm yết trái phiếu của Hội
đồng thành viên (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên) hoặc chủ sở
hữu công ty (đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên); thay đổi niêm yết chứng chỉ
quỹ đầu tư chứng khoán của Đại hội nhà đầu tư hoặc thay đổi niêm về cổ phiếu của Đại hội
đồng cổ đông công ty đầu tư chứng khoán đại chúng. Việc thay đổi đăng ký niêm yết cổ phiếu,
chứng chỉ quỹ khi thay đổi số lượng cổ phiếu, chứng chỉ quỹ niêm yết không thuộc trường hợp
sáp nhập, tách công ty hoặc các trường hợp cơ cấu lại doanh nghiệp được quy định tại Điều 117
Nghị định 155/2020/NĐ-CP.

Tổ chức niêm yết có chứng khoán hị huỷ bỏ niêm yết chỉ được đăng ký niêm yết lại sau
12 tháng kể từ khi hủy bỏ niêm yết nếu đáp ứng các điều kiện niêm yết lần đầu của tổ chức phát
hành trong nước trên SGDCK Việt Nam.

Việc huỷ bỏ niêm yết chứng khoán có thể do các nguyên nhân khác nhau và có thể do
vi phạm pháp luật, không đáp ứng được các điều kiện luật định hoặc do công ty niêm yết tự
nguyện thực hiện. Trường hợp bị hủy bỏ niêm yết thường áp dụng cho các công ty phát hành
là công ty không thể tiếp tục đáp ứng các quy định về niêm yết hoặc khi một công ty niêm yết
vi phạm các chuẩn mực huỷ bỏ niêm yết chứng khoán. Thông thường đối với chứng khoán của
công ty thì chứng khoán này bị huỷ bỏ niêm yết trong các trường hợp sau:

- Tổ chức niêm yết bị phá sản hay giải thể;

106
- Tổ chức niêm yết ngừng hoạt động kinh doanh chính từ 1 năm trở lên hoặc bị thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc giấy phép hoạt động chính;

- Tổ chức niêm yết bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hoặc Giấy phép hoạt
động trong lĩnh vực chuyên ngành;

- Cổ phiếu không có giao dịch tại SGDCK trong thời hạn 12 tháng;

- Kết quả sản xuất, kinh doanh bị thua lỗ trong 03 năm liên tục hoặc tổng số lỗ luỹ kế
vượt quá số vốn điều lệ thực góp trong báo cáo tài chính kiểm toán năm gần nhất trước
thời điểm xem xét;

- Tổ chức niêm yết chấm dứt sự tồn tại do sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể hoặc
phá sản; quỹ đầu tư chứng khoán chấm dứt hoạt động;

- Trái phiếu đến thời gian đáo hạn hoặc trái phiếu niêm yết được tổ chức phát hành mua
lại toàn bộ trước thời gian đáo hạn;

- Tổ chức kiểm toán không chấp nhận thực hiện kiểm toán hoặc có ý kiến không chấp
nhận hoặc từ chối cho ý kiến đối với báo cáo tài chính năm gần nhất của tổ chức niêm
yết;

- Tổ chức được chấp thuận niêm yết không tiến hành các thủ tục niêm yết tại SGDCK
trong thời hạn 03 tháng kể từ ngày được chấp thuận niêm yết;

- Tổ chức niêm yết vi phạm chậm nộp báo cáo tài chính năm trong 03 năm liên tiếp;

- UBCKNN, SGDCK phát hiện tổ chức niêm yết giả mạo hồ sơ niêm yết hoặc hồ sơ niêm
yết chứa đựng những thông tin sai lệch nghiêm trọng ảnh hưởng đến quyết định của nhà
đầu tư;

- Tổ chức niêm yết vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ công bố thông tin và các trường hợp
mà SGDCK hoặc UBCKNN xét thấy cần thiết phải hủy niêm yết nhằm bảo vệ quyền
lợi của nhà đầu tư.

Niêm yết chứng khoán của công ty nước ngoài tại SGDCK Việt Nam

Các chứng khoán của tổ chức phát hành nước ngoài muốn niêm yết trên SGDCK ở Việt
Nam phải đáp ứng các điều kiện chặt chẽ hơn so với các điều kiện niêm yết chứng khoán của
các tổ chức phát hành trong nước. Ngoài các điều kiện niêm yết chứng khoán như tổ chức phát
hành trong nước, các tổ chức nước ngoài phải đáp ứng thêm các điều kiện sau đây:

- Được một (01) CTCK thành lập và hoạt động tại Việt Nam tham gia tư vấn niêm yết
chứng khoán.

- Có cam kết thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của tổ chức niêm yết theo quy định của pháp
luật Việt Nam.

- Chứng khoán của tổ chức phát hành nước ngoài là chứng khoán đã được chào bán ra
công chúng tại Việt Nam theo quy định pháp luật về chứng khoán Việt Nam.

107
- Số lượng chứng khoán đăng ký niêm yết tương ứng với số lượng chứng khoán được
phép chào bán tại Việt Nam.

Niêm yết chứng khoán trên SGDCK ở nước ngoài

Công ty Việt Nam muốn niêm yết chứng khoán trên SGDCK ở nước ngoài phải đáp
ứng các điều kiện sau đây:

- Không thuộc danh mục ngành nghề mà pháp luật cấm bên nước ngoài tham gia và phải
đảm bảo tỷ lệ sở hữu nước ngoài theo quy định của pháp luật.

- Tổ chức phát hành niêm yết chứng khoán cơ sở tại SGDCK nước ngoài phải gắn với
chào bán chứng khoán ra nước ngoài.

- Có quyết định thông qua việc niêm yết tại Sở giao dịch chứng khoán nước ngoài của
Đại hội đồng cổ đông (đối với công ty cổ phần), của Hội đồng thành viên (đối với công
ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên) hoặc Chủ sở hữu công ty (đối với công
ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên).

- Đáp ứng các điều kiện niêm yết tại SGDCK của nước mà cơ quan quản lý thị trường
chứng khoán hoặc SGDCK đã có thoả thuận hợp tác với UBCKNN hoặc SGDCK của
Việt Nam.

- Tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hôi của Việt Nam.

- Tổ chức phát hành là tổ chức kinh doanh có điều kiện phải được sự chấp thuận của cơ
quan quản lý nhà nước chuyên ngành.

- Được UBCKNN chấp thuận hồ sơ đăng ký.

2.3.1.6 Quản lý niêm yết

Hoạt động quản lý niêm yết bao gồm quản lý chứng khoán niêm yết và quản lý việc
cung cấp thông tin của tổ chức niêm yết. Hoạt động này nhằm mục đích duy trì một thị trường
hoạt động công bằng và trật tự. Giống như một tổ chức tự quản, SGDCK phải cần thiết đề ra
các nghĩa vụ cho các công ty niêm yết và các biện pháp xử lý đối với các công ty niêm yết
không thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình.

Hoạt động quản lý chứng khoán niêm yết được bắt đầu thực hiện từ khi chứng khoán
được niêm yết trên SGDCK. Hoạt động này bao gồm việc quản lý tình trạng tài chính và tình
hình hoạt động của tổ chức niêm yết thông qua các báo cáo tài chính thường niên, bán niên và
các báo cáo khác. Việc quản lý chứng khoán niêm yết được thể hiện trong các trường hợp: tách,
gộp cổ phiếu, mua bán lại cổ phiếu của tổ chức niêm yết, thay đổi tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu có
quyền biểu quyết từ 5% trở lên và nắm giữ trên 25% cổ phiếu có quyền biểu quyết. Hoạt động
này trong thời gian vừa qua trên SGDCK Việt Nam chủ yếu tập trung vào quản lý việc đăng kỷ
mua bán lại cổ phiếu của tổ chức niêm yết và hướng dẫn, làm thủ tục, các biện pháp xử lý vi
phạm trong hoạt động đăng ký và thực hiện bán lại cổ phiếu hoặc mua lại cổ phiếu của các tổ
chức niêm yết còn ít. Hạn chế này xuất phát từ các quy định xử lý vi phạm vẫn chưa được đề
cập đến hoặc đề cập chưa đầy đủ trong các văn bản pháp quy, dẫn đến việc cụ thể hoá trong
thực hiện là rất khó khăn.
108
Hoạt động quản lý việc cung cấp thông tin: các công ty được niêm yết tại SGDCK phải
báo cáo cho sở tất cả các sự việc có liên quan tới việc quản lý chứng khoán được niêm yết. Việc
báo cáo này diễn ra thường xuyên và trong suốt thời gian chứng khoán niêm yết. Bộ phận quản
lý niêm yết có trách nhiệm hướng dẫn cho các tổ chức niêm yết nhận thức được tầm quan trọng
của việc công bố thông tin nhằm cung cấp các thông tin thị trường đầy đủ, chính xác, kịp thời.
Trong trường hợp nhất định, phòng quản lý niêm yết có thể đề xuất với ban lãnh đạo các biện
pháp xử lý đối với các tổ chức niêm yết vi phạm quy định về công bố thông tin.

Hoạt động theo dõi và phân tích tính hình hoạt động của các công ty niêm yết được thực
hiện thông qua việc phân tích các báo cáo tài chính định kỳ quí, năm của công ty niêm yết. Bên
cạnh đó, việc định giá của công ty niêm yết cũng được tính toán qua từng thời kỳ nhằm đối
chiếu, kiểm tra với giá cổ phiếu trên thị trường, từ đó SGDCK có thể theo dõi chặt chẽ và nhanh
chóng đưa ra hoặc đề xuất với UBCKNN những biện pháp cảnh báo trong trường hợp giá thị
trường vượt quá cao so với giá trị sổ sách của tổ chức niêm yết.

SGDCK có thể tạm dừng giao dịch chứng khoán niêm yết trong một thời gian cần thiết
để kiểm tra những thông tin có thể ảnh hưởng tới giá chứng khoán để đảm bảo quyền lợi cho
các nhà đầu tư hay có thể chuyển công ty niêm yết sang thị trường giao dịch khác (đối với mô
hình thị trường tổ chức thành hai khu vực: tiêu chuẩn niêm yết cao và tiêu chuẩn niêm yết thấp),
nếu công ty không đáp ứng được đầy đủ các điều kiện niêm yết.

2.3.2. Hoạt động giao dịch chứng khoán và tổ chức giao dịch chứng khoán trên Sở giao dịch
chứng khoán

Giao dịch chứng khoán trên SGDCK là việc mua, bán chứng khoán trên thị trường giao
dịch tập trung. Ngày nay, ở hầu hết các nước, hoạt động giao dịch trên TTCK tập trung được
chuẩn hóa cao, hạn chế tới mức thấp nhất các giao dịch thủ công.

Theo Luật Chứng khoán 2019, SGDCK và công ty con tổ chức thị trường giao dịch
chứng khoán cho chứng khoán của tổ chức phát hành. Ngoài SGDCK và công ty con, không tổ
chức, cá nhân nào được phép tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán.

2.3.2.1 Phương thức giao dịch

SGDCK thực hiện tổ chức, quản lý, điều hành việc mua bán chứng khoán, quản lý điều
hành hệ thống giao dịch chứng khoán. Theo Thông tư số 120/2020/TT-BTC hướng dẫn về giao
dịch trên thị trường chứng khoán, SGDCK tổ chức giao dịch chứng khoán theo phương thức
khớp lệnh và phương thức thỏa thuận.

- Phương thức khớp lệnh tập trung là phương thức giao dịch được thực hiện trên hệ thống
giao dịch chứng khoán trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán.
Phương thức khớp lệnh tập trung bao gồm khớp lệnh định kỳ và khớp lệnh liên tục.
 Khớp lệnh định kỳ là phương thức giao dịch được thực hiện trên hệ thống giao
dịch chứng khoán trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán tại
một thời điểm xác định.
 Khớp lệnh liên tục là phương thức giao dịch được thực hiện trên hệ thống giao
dịch chứng khoán trên cơ sở so khớp các lệnh mua và lệnh bán chứng khoán
ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch chứng khoán.
109
- Phương thức giao dịch thỏa thuận là phương thức giao dịch trong đó các bên tham gia
giao dịch thông qua thành viên giao dịch tự thỏa thuận về các điều kiện giao dịch trên
hệ thống giao dịch chứng khoán; hoặc các bên tham gia giao dịch thỏa thuận, thực hiện
giao dịch, sau đó thông qua thành viên giao dịch ghi nhận kết quả giao dịch vào hệ thống
giao dịch chứng khoán.

- Phương thức khớp lệnh trên hệ thống giao dịch phải bảo đảm nguyên tắc ưu tiên về giá
và thời gian;

- Phương thức thỏa thuận trên hệ thống giao dịch của SGDCK được thực hiện theo quy
chế của SGDCK.

SGDCK tổ chức giao dịch chứng khoán niêm yết, chứng khoán đăng ký giao dịch,
không bao gồm các trường hợp chuyển quyền sở hữu ngoài hệ thống giao dịch theo quy định
pháp luật chứng khoán về đăng ký, lưu ký, thanh toán, bù trừ

Việc lựa chọn phương thức giao dịch phù hợp với từng giai đoạn phát triển của thị
trường cũng như cho từng loại chứng khoán niêm yết khác nhau đóng vai trò rất quan trọng
trong việc thúc đẩy tính sôi động của thị trường mà vẫn đảm bảo được hiệu quả quản lý của
Nhà nước trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán.

Phương thức giao dịch định kỳ là phương thức tập hợp các lệnh đặt hàng trong một
khoảng thời gian nhất định và trên cơ sở đó sẽ tìm ra được một mức giá giao dịch đảm bảo tối
đa dung lượng giao dịch. Các lệnh đặt hàng có thể là lệnh thị trường lệnh giới hạn, lệnh dùng.

Phương thức khớp lệnh liên tục là phương thức giao dịch, theo đó việc mua bán chứng
khoán được tiến hành liên tục bằng cách phối hợp các lệnh đặt hàng ngay khi có các lệnh đặt
hàng khớp nhau.

Thông thường phương thức giao dịch định kỳ phù hợp với các thị trường có quy mô nhỏ
về người đầu tư và thường được áp dụng trong trường hợp xác định giá tham chiếu (mở cửa và
đóng cửa). Bên cạnh những ưu điểm như tính tập trung lệnh cao, khả năng giá cả biến động đột
biến là tương đối nhỏ.... thì phương thức này chưa tạo ra tính sôi động trong hoạt động giao
dịch. Chính vì vậy, khi số lượng người đầu tư và số lượng lệnh tăng lên thì chúng ta cần áp
dụng phương thức khớp lệnh liên tục. Tuy nhiên, việc áp dụng một trong hai phương thức khớp
lệnh này đều có những ưu và nhược điểm nhất định, chính vì vậy giải pháp tối ưu là áp dụng cả
hai phương thức này. Việc này đòi hỏi pháp luật phải quy định cụ thể nội dung, điều kiện của
từng phương pháp khớp lệnh và trên cơ sở đó có thể áp dụng vào thực tiễn hoạt động của
SGDCK.

Phương thức giao dịch thoả thuận là phương thức giao dịch trong đó các thành viên tự
thoả thuận với nhau về các điều kiện giao dịch. Ở Việt Nam, từ tháng 3/2002 cho đến nay,
SGDCK thành phố Hồ Chí Minh đang áp dụng phương thức này bên cạnh phương thức giao
dịch định kỳ. Việc pháp luật quy định phương thức giao dịch này đã tạo cơ sở cho sự phát triển
của thị trường chứng khoán Việt Nam, làm cho thị trường có nhiều hấp dẫn hơn, bởi lẽ khi mà
thị trường có những biến động, các nhà đầu tư có thể bán ra nhiều hoặc là mua nhiều chứng
khoán theo nguyên tắc thị trường và qua đó khuyến khích được người đầu tư tham gia vào thị
trường này.
110
2.3.2.2 Hàng hoá giao dịch

Theo quy định của Luật Chứng khoán thì hàng hoá giao dịch trên thị trường chứng
khoán là chứng khoán. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ
hoặc dữ liệu điện tử. Các loại chứng khoán là hàng hoá giao dịch trên SGDCK là chứng khoán
của các công ty đáp ứng các điều kiện niêm yết trên sở. Việc phân chia thị trường tập trung ở
Việt Nam thành các SGDCK Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh hiện nay cho thấy các loại
hàng hoá - chứng khoán giao dịch tại hai sàn này là khác nhau. Ví dụ, tại SGDCK Hồ Chí Minh,
cổ phiếu giao dịch là cổ phiếu của các công ty cổ phần có mức vốn tối thiểu cho đến thời điểm
đăng ký niêm yết từ 120 tỷ đồng Việt Nam trở lên tính theo giá trị ghi trên sổ kế toán. Trong
khi đó, tại SGDCK Hà Nội, số vốn này là 30 tỷ đồng Việt Nam.

2.3.2.3 Hệ thống và quy trình giao dịch tại SGDCK

a/ Hệ thống giao dịch

Hệ thống giao dịch tại SGDCK là hệ thống giao dịch tự động, kết nối mạng cục bộ trong
phạm vi sàn giao dịch và các phòng ban chức năng của SGDCK. Mọi giao dịch chứng khoán
diễn ra tại SGDCK được hệ thống máy tính xử lý tự động dưới sự quản lý, giám sát của phòng
giao dịch. Bên cạnh hệ thống giao dịch còn có hệ thống chuyển lệnh của các CTCK thành viên.
Hệ thống chuyển lệnh là hệ thống thực hiện việc chuyển lệnh giao dịch từ thành viên SGDCK
đến SGDCK. Sau khi thực hiện giao dịch, kết quả giao dịch sẽ được chuyển sang hệ thống
thanh toán bù trừ, đồng thời mọi thông tin giao dịch chứng khoán sẽ được chuyển sang hệ thống
máy tính quản lý việc công bố thông tin và được chuyển trực tiếp ra bảng điện tử hoặc sẵn sàng
cho người sử dụng có quyền truy cập thông tin.

Hoạt động giao dịch chứng khoán diễn ra tại SGDCK phải tuân thủ những nguyên tắc
thống nhất đã được Bộ Tài chính quy định trong Thông tư số 120/2020/TT-BTC hướng dẫn về
giao dịch chứng khoán trên SGDCK.

Chỉ có các thành viên giao dịch của SGDCK mới được phép tham gia giao dịch trên hệ
thống giao dịch. Các chủ thể này là CTCK được SGDCK chấp thuận trở thành thành viên giao
dịch.

Luật Chứng khoán 2019 quy định: thành viên giao dịch tại SGDCK là các CTCK được
UBCKNN cấp giấy phép thành lập và hoạt động và được SGDCK chấp thuận tư cách thành
viên. Các điều kiện, thủ tục trở thành thành viên giao dịch tại SGDCK được quy định cụ thể tại
Quy chế thành viên SGDCK. Vậy luật đã giới hạn các chủ thể có thể là thành viên tham gia
giao dịch tại SGDCK, không phải mọi CTCK khi thành lập đương nhiên trở thành thành viên
của sở. Sự hạn chế này nhằm hướng tới bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư khi
mở tài khoản và tham gia giao dịch tại CTCK.

b/ Quy trình giao dịch chứng khoán

Bước 1: Khách hàng mở tài khoản giao dịch tại CTCK.

Nhà đầu tư muốn tham gia giao dịch chứng khoán phải chọn 1 CTCK thành viên
SGDCK để làm người môi giới cho mình. Trước khi thực hiện giao dịch, khách hàng mở tài
khoản giao dịch tại CTCK. Mỗi nhà đầu tư cá nhân chỉ được mở một tài khoản giao dịch tại
111
CTCK. Điều 6 Thông tư số 120/2020/TT-BTC quy định: "Nhà đầu tư phải mở tài khoản giao
dịch chứng khoán tại CTCK để thực hiện giao dịch chứng khoán trên SGDCK và chịu trách
nhiệm cung cấp đầy đủ, chính xác các thông tin nhận biết khách hàng khi mở tài khoản giao
dịch".

Nếu là nhà đầu tư nước ngoài, thủ tục mở tài khoản được tiến hành sau khi đã thực hiện
đăng ký mã số giao dịch chứng khoán trước khi mở tài khoản giao dịch chứng khoán.

Công ty quản lý quỹ, CTCK, doanh nghiệp bảo hiểm, ngân hàng giám sát có thể mở
nhiều tài khoản giao dịch chứng khoán theo nguyên tắc nhất định. Ví dụ, Công ty quản lý quỹ
được mở nhiều tài khoản giao dịch chứng khoán tại mỗi CTCK theo nguyên tắc sau:

- Một (01) tài khoản giao dịch chứng khoán để thực hiện hoạt động kinh doanh chứng
khoán của chính mình;

- Hai (02) tài khoản giao dịch chứng khoán để quản lý danh mục đầu tư cho khách hàng
ủy thác, trong đó một (01) tài khoản để giao dịch chứng khoán cho khách hàng ủy thác
trong nước và một (01) tài khoản để giao dịch chứng khoán cho khách hàng ủy thác
nước ngoài;

- Các tài khoản giao dịch cho các quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán do mình quản
lý, theo nguyên tắc mỗi quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán được mở một (01) tài
khoản giao dịch đứng tên của quỹ đầu tư, công ty đầu tư chứng khoán tại mỗi CTCK.

Về nguyên tắc, nhà đầu tư phải ký quỹ để giao dịch (số dư tài khoản của khách hàng mở
tại thành viên phải đáp ứng quy định ký quỹ tương đương 100% giá trị chứng khoán đặt mua
hoặc đủ số lượng đặt bán).

Nhà đầu tư có thể mở tài khoản giao dịch ký quỹ. Tại mỗi CTCK nơi nhà đầu tư mở tài
khoản giao dịch, nhà đầu tư chỉ được mở một (01) tài khoản giao dịch ký quỹ. Tài khoản giao
dịch ký quỹ là tài khoản riêng biệt hoặc được hạch toán dưới hình thức tiểu khoản của tài khoản
giao dịch hiện có của nhà đầu tư. CTCK phải hạch toán tách biệt tài khoản giao dịch ký quỹ
của nhà đầu tư với tài khoản giao dịch của cùng nhà đầu tư, tách biệt với tài khoản giao dịch và
tài khoản giao dịch ký quỹ của các nhà đầu tư khác.

Bước 2: Đặt lệnh tại CTCK

Sau khi đã tìm hiểu kỹ về những thông tin cần thiết, nhà đầu tư đặt lệnh tại công ty thành
viên. Loại lệnh được sử dụng là lệnh giới hạn. Đó là lệnh mua hoặc lệnh bán chứng khoán thực
hiện tại mức giá bằng hoặc tốt hơn mức giá xác định. Khi đặt lệnh, nhà đầu tư phái tuân thủ
những quy định của SGDCK (biên độ giao động giá, khối lượng giao dịch...) và cung cấp cho
người môi giới đầy đủ những thông tin cần thiết (lệnh mua/bán, giá đặt mua/bán, số tài khoản
của khách hàng...)

Trường hợp nhà đầu tư mở tài khoản lưu ký tại ngân hàng lưu ký và mở tài khoản giao
dịch tại CTCK, nhà đầu tư được đặt lệnh mua và CTCK được thực hiện lệnh mua khi có bảo
lãnh thanh toán hoặc xác nhận của ngân hàng lưu ký về việc ngân hàng lưu ký chấp nhận yêu
cầu thanh toán giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư.

112
Bước 3: Tiến hành khớp lệnh

Hệ thống giao dịch sẽ sắp xếp lệnh theo thứ tự ưu tiên về giá và thời gian. Đối với những
lệnh có cùng mức giá, thì lệnh nào nhập vào hệ thống trước thì sẽ được ưu tiên hơn.

Các lệnh được khớp theo nguyên tắc đảm bảo khối lượng giao dịch lớn nhất, ngoài ra
còn có 2 nguyên tắc:

- Nếu có nhiều mức giá thực hiện được khối lượng giao dịch lớn nhất thì mức giá trùng
hoặc gần với giá thực hiện của lệnh khớp trước đó sẽ được lựa chọn.

- Nếu có nhiều mức giá thoả mãn điều kiện trên thì giá cao nhất được chọn.

Những lệnh chưa được thực hiện sẽ được đưa vào danh sách các lệnh chờ khớp của lần
khớp kế tiếp. Hệ thống sẽ huỷ bỏ những lệnh chưa thực hiện vào cuối ngày giao dịch mà không
cần xác nhận của khách hàng.

Trong trường hợp người đầu tư muốn huỷ lệnh, lệnh huỷ phải được đại diện giao dịch
nhập vào hệ thống trước khi lệnh gốc được thực hiện. Nếu lệnh gốc đã được thực hiện, người
đầu tư phải chịu trách nhiệm thanh toán đủ theo lệnh này (riêng đối với giao dịch theo phương
thức thoả thuận, giá giao dịch - giá thực hiện sẽ là mức giá do thành viên tự thoả thuận với nhau
thông qua hệ thống giao dịch). Giao dịch thoả thuận được coi như hoàn tất ngay khi người mua
thực hiện chấp nhận giao dịch. Tuy nhiên, giao dịch thoả thuận cũng có thể huỷ bỏ khi có sự
đồng ý của đối tác và được SGDCK chấp thuận.

Bước 4: Thông báo kết quả giao dịch

Sau khi hoàn thành xong việc khớp lệnh, toàn bộ kết quả giao dịch của từng công ty
thành viên sẽ được hiển thị trên màn hình của người đại diện giao dịch. Nội dung kết quả giao
dịch gồm: số hiệu lệnh giao dịch, số hiệu xác nhận giao dịch, tên chứng khoán, giá và khối
lượng, thời gian giao dịch. Căn cứ vào những thông tin này, CTCK sẽ thông báo và xác nhận
kết quả giao dịch cho từng khách hàng. Nhà đầu tư phải kiểm tra đầy đủ các chi tiết của giao
dịch để đảm bảo giao dịch được thực hiện chính xác theo lệnh đã đặt. Thành viên giao dịch sẽ
chịu mọi trách nhiệm về lỗi giao dịch phát sinh do nhầm lẫn, sai sót trong quá trình nhận lệnh,
xử lý lệnh hoặc trong quá trình chuyển, nhập lệnh vào hệ thống giao dịch.

Đồng thời với việc xác nhận kết quả giao dịch, hệ thống giao dịch sẽ truyền thông tin
thị trường, bao gồm: thông tin về giao dịch (giá mở cửa, giá đóng cửa, giá cao nhất, thấp nhất
trong ngày giao dịch, khối lượng giao dịch, giá giao dịch, giá chào mua, giá chào bán tốt nhẩt,
quy mô lệnh đã giao dịch); thông tin về chỉ số giá; thông tin quản lý thị trường; thông tin về tổ
chức niêm yết) cho máy chủ truyền tin để truyền trực tiếp ra bảng điện tử và các phương tiện
thông tin đại chúng khác.

Bước 5: Thanh toán, bù trừ chứng khoán

Vào cuối ngày giao dịch, toàn bộ dữ liệu giao dịch sẽ được truyền sang hệ thống máy
tính phục vụ cho việc thanh toán, bù trừ để chuẩn bị dữ liệu thanh toán. Giao dịch chứng khoán
của nhà đầu tư thực sự hoàn tất khi kết thúc việc thanh toán vào ngày làm việc thứ 2 sau ngày
giao dịch (trong vòng T+2. Ngày T là ngày thực hiện giao dịch).

113
Việc bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán là những dịch vụ phụ trợ đảm bảo cho
việc thanh toán giao dịch và chuyển giao quyền sở hữu chứng khoán, góp phần đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp của người đầu tư, và đây cũng là bước hoàn tất cuối cùng, tạo cho các giao
dịch chứng khoán trên thị trường tập trung thành một vòng tròn khép kín. Mọi chứng khoán
được giao dịch tại SGDCK đều phải lưu ký tập trung tại Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng
khoán (VSD) để dễ dàng quản lý, giám sát việc lưu thông chứng khoán và tạo điều kiện thuận
lợi cho việc thanh toán chứng khoán. Sau khi có kết quả giao dịch trên SGDCK, VSD sẽ đối
chiếu, bù trừ chứng khoán và tiền rồi thông báo cho các thành viên thanh toán. Những dịch vụ
này nhằm giảm chi phí giao dịch, thuận lợi cho nhà đầu tư.

VSD thanh toán theo kết quả bù trừ đa phương và thanh toán theo từng giao dịch cho
các giao dịch chứng khoán thực hiện tại các SGDCK. Việc bù trừ chứng khoán được VSD thực
hiện theo từng chứng khoán và tách biệt theo loại tài khoản môi giới cho khách hàng trong
nước, tài khoản môi giới cho khách hàng nước ngoài và tài khoản tự doanh của thành viên lưu
ký. Việc thanh toán giao dịch được thực hiện theo nguyên tắc chuyển giao chứng khoán đồng
thời với thanh toán tiền.

Một số hoạt động có liên quan:

- Đăng ký chứng khoán

Đăng ký chứng khoán là việc ghi nhận quyền sớ hữu, các quyền khác và nghĩa vụ liên
quan của người nắm giữ chứng khoán bằng một hệ thống thông tin lưu giữ chứng khoán trong
các tài khoản lưu ký chứng khoán.

Các loại chứng khoán niêm yết trên SGDCK như cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư phải
đăng ký tại VSD. Bên cạnh đó, các loại chứng khoán khác được đăng ký tại VSD trên cơ sớ
thỏa thuận giữa VSD và tổ chức phát hành.

Tổ chức phát hành phải làm thủ tục đăng ký chứng khoán trực tiếp với VSD. Tổ chức
phát hành phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính chính xác, đầy đủ và kịp thời của các thông
tin chứng khoán đã đăng ký với VSD.

Công ty đại chúng phải thực hiện việc đăng ký chứng khoán tại VSD khi đăng ký là
công ty đại chúng với UBCKNN theo quy định của pháp luật chứng khoán về đăng ký công ty
đại chúng hoặc thông qua CTCK.

Như vậy, có thể thấy việc đăng ký chứng khoán tại VSD là một bước đầu tiên làm cơ
sở cho chứng khoán được giao dịch tại thị trường giao dịch tập trung. Tổ chức phát hành cung
cấp các thông tin về chứng khoán phát hành cho VSD để Trung tâm có cơ sở tiếp nhận chứng
khoán đưa vào lưu ký. Chứng khoán niêm yết muốn được giao dịch tại SGDCK phải đuợc đưa
vào lưu ký tập trung tại Trung tâm và được phản ánh trên tài khoản.

- Lưu ký chứng khoán

Lưu ký là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng và giúp khách hàng thực
hiện các quyền của mình đối với chứng khoán.

114
Hoạt động lưu ký chứng khoán có ý nghĩa quyết định đến việc đảm bảo thanh toán các
giao dịch, theo dõi biến động trên số dư tài khoản chứng khoán của khách hàng và thành viên
lưu ký và là cơ sở cho việc thực hiện quyền lợi của người sở hữu chứng khoán.

Việc lưu ký chứng khoán của khách hàng tại VSD được thực hiện theo nguyên tắc:
khách hàng lưu ký chứng khoán tại thành viên lưu ký và thành viên lưu ký tái lưu ký chứng
khoán của khách hàng tại VSD; Thành viên lưu ký nhận lưu ký các chứng khoán của khách
hàng với tư cách là người được khách hàng uỷ quyền thực hiện các nghiệp vụ đăng ký, lưu ký,
bù trừ và thanh toán chứng khoán. Để lưu ký chứng khoán, khách hàng phải ký hợp đồng mở
tài khoản lưu ký chứng khoán với thành viên lưu ký; VSD nhận tái lưu ký chứng khoán từ các
thành viên lưu ký, tổ chức mở tài khoản trực tiếp. Để tái lưu ký chứng khoán, thành viên lưu
ký, tổ chức mở tài khoản trực tiếp phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán đứng tên thành viên
lưu ký, tổ chức mở tài khoản trực tiếp tại VSD.

Nhà đầu tư chỉ được mở một (01) tài khoản lưu ký chứng khoán tại mỗi thành viên lưu
ký. Nếu nhà đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngoài thì chỉ được mở tài khoản lưu ký chứng
khoán tại thành viên lưu ký sau khi đã đăng ký mã số giao dịch chứng khoán.

VSD nhận lưu ký tổng hợp các chứng chỉ chứng khoán được niêm yết tại SGDCK.
Chứng chỉ chứng khoán được người sở hữu gửi cho các thành viên lưu ký và lưu ký tại kho két
của Trung tâm. Các chứng khoán lưu ký tại VSD được phản ánh trên hệ thống ghi sổ máy tính.
Mọi chuyển khoản nhằm thực hiện thanh toán đều có thể thực hiện thông qua hệ thống máy vi
tính theo yêu cầu của các thành viên lưu ký. Việc chuyển khoản này có hiệu lực tương tự như
giao chứng chỉ chứng khoán.

Các chứng khoán được phép lưu ký hoặc tái lưu ký tại VSD, bao gồm: các loại cổ phiếu,
trái phiếu, quyền mua cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và các loại chứng khoán khác được niêm
yết tại SGDCK. Việc lưu ký chứng khoán chỉ được thực hiện đối với các chứng khoán đã hoàn
tất thủ tục đăng ký lưu ký. Chứng khoán lưu ký tại VSD là tài sản thuộc sở hữu của khách hàng,
được quản lý tách biệt với tài sản của VSD.

Để đảm bảo quyền lợi cho khách hàng, chống các biểu hiện gian lận, VSD không được
sử dụng chứng khoán của khách hàng vì lợi ích của chính VSD hoặc của bên thứ ba, trừ trường
hợp pháp luật có quy định khác.

Thành viên lưu ký phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán chi tiết cho từng khách hàng
và quản lý tách biệt tài sản cho từng khách hàng. Chứng khoán lưu ký của khách hàng tại thành
viên lưu ký là tài sản thuộc sở hữu của khách hàng và được quản lý tách biệt với tài sản của
thành viên lưu ký. Thành viên lưu ký không được sử dụng chứng khoán trong tài khoản lưu ký
chứng khoán của khách hàng vì lợi ích của bên thứ ba hoặc vì lợi ích của chính thành viên lưu
ký trừ trường hợp thành viên lưu ký là CTCK xử lý chứng khoán trên tài khoản của khách hàng
trong giao dịch ký quỹ phù hợp với quy định của pháp luật;

Bên cạnh việc mở tài khoản lưu ký nhằm bảo quản, lưu giữ chứng khoán của khách
hàng, hoạt động lưu ký chứng khoán còn bao gồm trách nhiệm của tổ chức lưu ký giúp khách
hàng của mình thực hiện các quyền của họ đối với chứng khoán như quyền biểu quyết, quyền
mua cổ phiếu, quyền chuyển đổi trái phiếu chuyển đổi nhận cổ tức…

115
- Ký gửi chứng khoán

Việc ký gửi chứng khoán thuộc sở hữu của khách hàng vào VSD được thực hiện thông
qua các thành viên lưu ký. Sau đó thành viên lưu ký tái lưu ký số chứng khoán ký gửi của khách
hàng vào VSD. Tính đến thời điểm hiện nay, các loại cổ phiếu và trái phiếu lưu ký tại VSD vẫn
hạn chế. Nguyên nhân dẫn đến việc số lượng chứng khoán đưa vào lưu ký tại Trung tâm chưa
nhiều, trước hết đó là do thói quen nắm giữ chứng chỉ vật chất trong dân cư. Nguyên nhân thứ
hai là do một số người nắm giữ chứng khoán chưa có nhu cầu về giao dịch, chuyển nhượng mà
vẫn tự mình nắm giữ các chứng chỉ chứng khoán, một số người khác thì lại chưa thực sự tin
tưởng vào những lợi ích do việc lưu ký chứng khoán đem lại.

- Rút chứng khoán

Cũng giống như ký gửi chứng khoán, hoạt động rút chứng khoán của khách hàng tại
VSD được thực hiện thông qua thành viên lưu ký. Khách hàng chỉ được yêu cầu rút chứng
khoán trong phạm vi số lượng chứng khoán sở hữu trên các tài khoản lưu ký, trừ các chứng
khoán đang bị tạm giữ, phong toả. Trong thời gian chờ rút, các chứng khoán yêu cầu rút ra sẽ
được quản lý tách biệt và không được tiến hành chuyển nhượng, chuyển khoản.

Có thể thấy, việc pháp luật quy định hoạt động đăng ký và lưu ký chứng khoán đã tạo
cho SGDCK, VSD và các thành viên lưu ký có khả năng theo dõi và quản lý số dư tài khoản
chứng khoán của các khách hàng. Đây cũng chính là cơ sở cho việc thực hiện nghiệp vụ cầm
cố chứng khoán lưu ký. Theo thông lệ, VSD có quyền thực hiện nghiệp vụ cầm cố đối với các
chứng khoán lưu ký thuộc sở hữu của thành viên lưu ký, còn thành viên lưu ký có nghĩa vụ
quản lý và có quyền thực hiện cầm cố đối với các chứng khoán thuộc sở hữu của khách hàng.
Các thành viên lưu ký cũng có thể cầm cố chứng khoán của nhau.

2.3.3. Hoạt động công bố thông tin

Theo quy định của Thông tư 96/2020/TT-BTC hướng dẫn công bố thông tin trên thị
trường chứng khoán, chủ thể có nghĩa vụ công bố thông tin trên thị trường chứng khoán bao
gồm cả SGDCK. Hoạt động công bố thông tin của chủ thể này có vai trò rất quan trọng cho
việc đảm bảo các giao dịch chứng khoán trên SGDCK diễn ra công khai, công bằng, an toàn và
hiệu quả, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người đầu tư. Đối với Việt Nam, trong giai đoạn đầu
phát triển, SGDCK đã phải tham gia nhiều vào quá trình công bố thông tin và mô hình công bố
thông tin gián tiếp (thông qua SGDCK) đã được áp dụng. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay,
khi thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, khi đó các vấn đề phải công bố ngày càng nhiều
hơn do nhu cầu thông tin về tổ chức niêm yết của nhà đầu tư tăng thì việc áp dụng "mô hình
công bố thông tin trực tiếp" (tổ chức niêm yết, công ty quản lý quỹ công bố thông tin và sau đó
báo cáo SGDCK) là hợp lý.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, hoạt động công bố thông tin của SGDCK chủ
yếu tập trung vào thông tin về tình hình giao dịch trên thị trường, về lệnh giao dịch trên thị
trường, thành viên giao dịch, về chỉ số giá chứng khoán niêm yết, về tổ chức niêm yết, về các
văn bản pháp quy về chứng khoán do SGDCK ban hành, về giám sát TTCK.

Thông tin về tình hình giao dịch bao gồm các thông tin về kết quả giao dịch (giao dịch
khớp lệnh, giao dịch thoả thuận), thông tin về giao dịch mua bán lại cổ phiếu của tổ chức niêm
116
yết. Bên cạnh việc công bố thông tin gián tiếp thông qua các CTCK thành viên, báo chí, dịch
vụ nhắn tin, truyền hình và các hãng truyền thông, SGDCK còn thực hiện việc công bố thông
tin một cách trực tiếp, có nghĩa là thông qua bảng điện tử đặt tại Sàn giao dịch. Tuy nhiên, để
tăng tính hiệu quả của việc công bố thông tin trực tiếp, hiện nay SGDCK thành phố Hồ Chí
Minh sử dụng trang Web chính thức và phát hành bản tin chứng khoán nhằm phổ cập kiến thức
chứng khoán và cung cấp thông tin nhanh, chính xác cho công chúng đầu tư.

SGDCK cũng như các chủ thể công bố thông tin khác phải công bố thông tin đầy đủ,
chính xác, kịp thời theo quy định pháp luật, không được cung cấp thông tin sai sự thật và bảo
đảm đối tượng công bố thông tin phải chịu trách nhiệm về nội dung thông tin công bố. Trường
hợp có sự thay đổi nội dung thông tin đã công bố, đối tượng công bố thông tin phải công bố nội
dung thay đổi và lý do thay đổi so với thông tin đã công bố trước đó. Các yêu cầu về công bố
thông tin nêu trên nhằm đảm bảo giá chứng khoán được hình thành khách quan và giúp nhà đầu
tư có quyết định phù hợp khi thực hiện các giao dịch chứng khoán.

2.3.4 Hoạt động giám sát

Ở Việt Nam, SGDCK có quyền thực hiện hoạt động giám sát, kiểm tra các hoạt động
giao dịch chứng khoán tại SGDCK và giám sát hoạt động công bố thông tin của các tổ chức
niêm yết, tổ chức đăng ký giao dịch, thành viên giao dịch tại SGDCK.

Để nghiên cứu nội dung hoạt động giám sát của SGDCK, trước hết chúng ta cần phân
biệt hoạt động này với hoạt động thanh tra. Hoạt động giám sát mang tính liên tục, thường
xuyên, trong khi đó hoạt động thanh tra chỉ được thực hiện định kỳ hoặc đột xuất tuỳ theo tính
chất hoạt động của các tổ chức, cá nhân thuộc đối tượng thanh tra hoặc tính chất, mức độ các
dấu hiệu vi phạm cần phải thanh tra. Chủ thể thực hiện giám sát hoạt động trên SGDCK là chính
SGDCK, còn chủ thể thực hiện thanh tra là UBCKNN. Phạm vi của hoạt động giám sát của sở
giao dịch là toàn bộ các vấn đề liên quan đến giao dịch chứng khoán và hoạt động công bố
thông tin của các chủ thể tham gia trên sở, còn hoạt động thanh tra chỉ nhằm vào những vụ việc
nghi vấn là giao dịch thao túng thị trường, hoặc những vụ việc nghi vấn là giao dịch nội gián,
hoạt động công bố thông tin không đảm bảo yêu cầu luật định. Kết quả của hoạt động giám sát
giao dịch chứng khoán và công bố thông tin sẽ là cơ sở để UBCKNN quyết định tiến hành điều
tra, thanh tra các cá nhân, tổ chức liên quan và có biện pháp xử lý vi phạm. Kết quả của hoạt
động giám sát của SGDCK còn có thể làm căn cứ để Toà xét xử đối với những hành vi vi phạm
pháp luật hình sự khi tội phạm trong lĩnh vực chứng khoán đã được quy định trong Bộ luật Hình
sự Việt Nam.

a/ Phương pháp giám sát

Hoạt động giám sát của SGDCK phải dựa trên các hoạt động cụ thể, các số liệu, tài liệu
báo cáo để phân tích, đối chiếu với các tiêu chí quy định trong các văn bản pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán. Chính vì vậy, phương pháp phân tích trong hoạt động giám
sát là phương pháp cần được áp dụng đầu tiên. SGDCK phải phân tích diễn biến giao dịch xảy
ra trên thị trường của từng loại chứng khoán, diễn biến giao dịch chung của một nhóm chứng
khoán trong một ngành và diễn biến chung của cả thị trường. Việc phân tích diễn biến giao dịch
sẽ giúp phát hiện các chứng khoán có giao dịch bất thường, phát hiện các dấu hiệu vi phạm làm
căn cứ cho việc kiểm tra.
117
Kết hợp với phương pháp phân tích, phương pháp so sánh, đối chiếu cũng được áp dụng
trong hoạt động giám sát của SGDCK. Trong quá trình giám sát hoạt động giao dịch chứng
khoán tại SGDCK, nhân viên giám sát thị trường sẽ tiến hành so sánh đối chiếu mức độ biến
động giá và khối lượng giao dịch chứng khoán trong từng khoảng thời gian với giá và khối
lượng giao dịch chứng khoán trong những khoảng thời gian trước đó, với xu hướng biến động
chung của thị trường. Khi phát hiện những dấu hiệu bất thường trong hoạt động giao dịch của
một loại chứng khoán, nhân viên giám sát thị trường sẽ xem xét đối chiếu với các loại thông tin
thị trường và những thông tin khác liên quan đến loại chứng khoán đó, từ đó tìm ra mối liên hệ,
liên kết giữa các sự kiện và tìm bằng chứng làm cơ sở để kiểm tra, điều tra đối với các hành vi
bị cấm và hạn chế.

Bên cạnh các phương pháp trên, SGDCK còn áp dụng phương pháp thống kê trong hoạt
động giám sát của mình. Các dữ liệu, thông tin thị trường được cập nhật thường xuyên, phân
loại và lưu trữ phục vụ cho công tác thống kê, tìm ra những xu hướng biến động chung của
ngành hoặc của cả thị trường, bổ trợ cho công tác phân tích chứng khoán.

Nếu phân loại phương pháp giám sát dựa vào mối quan hệ giữa SGDCK và CTCK thành
viên thì ta có phương pháp giám sát trực tiếp và phương pháp giám sát gián tiếp.

Phương pháp giám sát trực tiếp được thực hiện thông qua việc tiếp xúc với CTCK thành
viên và người đầu tư và qua đó có thể tìm ra những nguyên nhân gây biến động thị trường.

Phương pháp giám sát gián tiếp được thực hiện chủ yếu thông qua việc theo dõi và phân
tích những biến động hàng ngày diễn ra trên thị trường để tìm ra những giao dịch bất thường
dựa trên những tiêu chí thống kê do SGDCK đề ra. Như vậy, SGDCK luôn có thể giám sát các
chủ thể tham gia giao dịch chứng khoán mà không phải lúc nào cũng can thiệp vào hoạt động
kinh doanh của CTCK thành viên. Trong số hai phương pháp trên thì phương pháp gián tiếp
hiện nay chủ yếu được sử dụng trong hoạt động giám sát của SGDCK ở Việt Nam. Tuy nhiên,
trong một số trường hợp nhất định, phương pháp giám sát trực tiếp có thể được áp dụng kết hợp
với phương pháp gián tiếp nhằm tăng hiệu quả của hoạt động giám sát tại SGDCK.

b/ Nội dung hoạt động giám sát giao dịch của SGDCK23

- Giám sát trực tiếp hoạt động giao dịch chứng khoán tại từng khu vực thị trường được
giao quản lý, vận hành;

- Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ công tác giám sát giao dịch chứng khoán;

- Giám sát diễn biến các giao dịch trong ngày, nhiều ngày, định kỳ; phân tích, đánh giá
và chịu trách nhiệm xác định các giao dịch nghi vấn có khả năng vi phạm pháp luật về
giao dịch chứng khoán;

- Rà soát các thông tin trên phương tiện thông tin đại chúng, tin đồn liên quan đến các
giao dịch bất thường;

- Giám sát việc công bố thông tin và chế độ báo cáo theo quy định hiện hành liên quan
đến giao dịch chứng khoán của thành viên giao dịch, tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký

23
Thông tư số 95/2020/TT-BTC

118
giao dịch, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, quỹ đầu tư chứng khoán, công ty
đầu tư chứng khoán, nhà đầu tư;

- Báo cáo Sở giao dịch Chứng khoán Việt Nam xử lý theo quy chế đối với thành viên
giao dịch vi phạm quy chế về giao dịch chứng khoán, kiến nghị Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về giao dịch chứng khoán.

Ngoài các quyền và nghĩa vụ nêu trên, Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty
con có các quyền và nghĩa vụ sau:

- Giám sát hoạt động giám sát giao dịch của thành viên giao dịch;

- Yêu cầu các tổ chức, cá nhân liên quan đến giao dịch chứng khoán giải trình, cung cấp
thông tin, tài liệu phục vụ công tác giám sát giao dịch chứng khoán;

- Lập và gửi Ủy ban Chứng khoán Nhà nước báo cáo giám sát giao dịch định kỳ, báo cáo
giám sát giao dịch bất thường, báo cáo theo yêu cầu liên quan đến công tác giám sát
giao dịch chứng khoán;

- Phối hợp với Ủy ban Chứng khoán Nhà nước kiểm tra bất thường đối với hoạt động
giao dịch có khả năng vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;

- Phối hợp với Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam bảo đảm hoạt động
giao dịch, hoạt động bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán an toàn, hiệu quả

Vậy nội dung giám sát tập trung vào một số điểm như sau:

- Giám sát việc tuân thủ các điều kiện giao dịch chứng khoán. SGDCK phân tích từng
hoạt động giao dịch mua, bán chứng khoán và mức độ biến động tăng, giảm giá cả, khối
lượng giao dịch để phát hiện các hoạt động giao dịch mua, bán bất thường.

- Theo dõi thay đổi tỷ lệ sở hữu chứng khoán của các nhà đầu tư trong và ngoài nước (đặc
biệt đối với các nhà đầu tư sở hữu chứng khoán từ 5% trở lên, các nhà đầu tư là cổ đông
lớn, cổ đông nắm quyền kiểm soát).

- Điều tra các tin đồn có ảnh hưởng đến giá cả thị trường. SGDCK khi phát hiện những
thông tin, tin đồn liên quan đến tổ chức niêm yết ảnh hưởng đến giá chứng khoán, sẽ
tiến hành kiểm tra xác minh tin đồn, yêu cầu tổ chức niêm yết xác nhận tin đồn đó. Nếu
phát hiện tin đồn đó là đúng sự thật, sở giao dịch tiến hành kiểm tra, tìm nguyên nhân
và những tổ chức, cá nhân vi phạm quy định về công bố thông tin sẽ bị xử lý phù hợp
theo quy định của pháp luật.

Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và các công ty con thực hiện giám sát nhằm phát
hiện các giao dịch bất thường, giao dịch nghi vấn có khả năng vi phạm pháp luật về giao dịch
chứng khoán, bao gồm:

- Hành vi sử dụng thông tin nội bộ trong mua bán chứng khoán;
- Hành vi thao túng thị trường chứng khoán;
- Hành vi vi phạm khác về giao dịch chứng khoán theo quy định của pháp luật về chứng
khoán và thị trường chứng khoán.

119
Trong quá trình niêm yết tại SGDCK, sẽ có những thời điểm mà chứng khoán có nhiều
khả năng là đối tượng của những người tiến hành mua bán nội gián hoặc lũng đoạn thị trường.
Do đó, dù trong quá trình theo dõi chứng khoán không phát hiện được giao dịch khả nghi nào
nhưng các giao dịch của chứng khoán đó vẫn cần được tiếp tục theo dõi riêng để kịp thời phát
hiện và ngăn chặn các hành vi vi phạm. Đó là trường hợp áp dụng đối với các loại chứng khoán
sau: chứng khoán có giao dịch lô lớn; chứng khoán mới phát hành; chứng khoán mà tổ chức
niêm yết tiến hành mua hoặc bán lại cổ phiếu của chính mình; chứng khoán bị kiểm soát hoặc
được phục hồi đưa ra khỏi danh sách chứng khoán bị kiểm soát; chứng khoán sau khi tổ chức
niêm yết xác nhận tin đồn nhưng vẫn tiếp tục có biến động lớn về giá và khối lượng giao dịch;
chứng khoán có tin đồn đang là đối tượng của hoạt động mua bán nội gián, lũng đoạn thị trường;
chứng khoán thuộc diện bị huỷ bỏ niêm yết hoặc xin huỷ niêm yết.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định những điều cấm trong hoạt động giao dịch chứng
khoán như hành vi mua bán nội gián, lũng đoạn thị trường... Vì vậy hoạt động giám sát thị
trường của SGDCK nói riêng và UBCKNN nói chung càng cần thiết nhằm mục tiêu đảm bảo
thị trường chứng khoán hoạt động an toàn, hiệu quả, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư, hạn chế tối đa rủi ro trên thị trường chứng khoán.

B. PHÁP LUẬT VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN PHI TẬP TRUNG

1. Những vấn đề chung về thị trường phi tập trung (thị trường OTC)

1.1 Khái niệm và đặc điểm thị trường OTC

Thị trường chứng khoán phi tập trung còn được gọi là "thị trường OTC" là thị trường
ngoài SGDCK. OTC là tên viết tắt của các từ tiếng Anh: Over the counter, tức là giao dịch "qua
quầy". Thị trường OTC hình thành cùng với thị trường tập trung giao dịch trên SGDCK. Ở thị
trường OTC, các giao dịch mua bán chứng khoán được thực hiện tại CTCK, ngân hàng thương
mại hoặc chủ thể khác. Các chủ thể này tập hợp thông tin về chứng khoán là đối tượng mua,
bán; thực hiện đàm phán giá chứng khoán để mua hoặc bán chứng khoán với nhà đầu tư.

Xuất phát từ đặc thù của từng quốc gia, thị trường OTC đã hình thành và phát triển
nhằm đáp ứng nhu cầu mua bán chứng khoán chưa niêm yết trên thị trường thứ cấp.

Ở Việt Nam, khoảng những năm 2006 đến năm 2008 giao dịch mua bán chứng khoán
thông qua nhà môi giới là CTCK gia tăng cùng với sự gia tăng của các giao dịch trên trung tâm
giao dịch chứng khoán (SGDCK). Thuật ngữ thị trường OTC đã hình thành gắn với các giao
dịch này.

Thị trường OTC là thị trường giao dịch chứng khoán bên ngoài SGDCK không có một
địa điểm tập trung cố định được quản lý trực tiếp bởi một tổ chức tự quản (Hiệp hội kinh doanh
chímg khoán) hoặc SGDCK và phải đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về chứng khoán và
thị trường chứng khoán, thành viên tham gia thị trường là các nhà môi giới và kinh doanh
chứng khoán với giao dịch được thực hiện theo phương thức thương lượng, thỏa thuận.

Đặc điểm của thị trường OTC:

- Thị trường OTC là thị trường thứ cấp ngoài SGDCK có sự tham gia của các CTCK và
nhà đầu tư mua và bán chứng khoán. Thị trường OTC ra đời do yêu cầu CTCK thực
120
hiện hoạt động tự doanh với tư cách là nhà tạo lập thị trường nhằm đưa thông tin liên
tục về chỉ số giá các mã chứng khoán. Thị trường OTC phát triển từ thị trường mang
tính tự phát thành thị trường giao dịch chứng khoán chuyên nghiệp có sự tham gia của
CTCK. CTCK có thể là nhà môi giới hoặc là nhà tạo lập thị trường nhằm tìm kiếm lợi
nhuận. Sự tham gia của CTCK với tư cách là nhà tạo lập thị trường làm cho thị trường
được vận hành liên tục. Khi khách hàng có nhu cầu mua, bán chứng khoán sẽ liên hệ
với CTCK để thương lượng giá cả, cũng như các điều kiện khác của giao dịch

- Phương thức giao dịch trên thị trường OTC là thương lượng, thỏa thuận trực tiếp. Trên
thị trường này người mua và người bán không gặp gỡ trực tiếp với nhau mà thông qua
các CTCK. Khách hàng viết lệnh mua chuyển cho CTCK, nhân viên giao dịch sẽ xác
định người bán để thương lượng các điều khoản giao dịch. Phương thức giao dịch trên
thị trường OTC không theo phương thức đấu giá như trên thị trường chứng khoán tập
trung.

- Quản lý thị trường OTC ở mức độ khác nhau. Thị trường OTC có thể được quản lý trực
tiếp bởi hiệp hội kinh doanh chứng khoán hoặc SGDCK. Với sự phát triển của hệ thống
mạng (internet) các nhà đầu tư, các CTCK có thể dễ dàng thực hiện các giao dịch dựa
trên các thông tin trên hệ thống mạng điện tử.

- Hàng hóa trên thị trường OTC là các chứng khoán chưa niêm yết hoặc không đủ tiêu
chuẩn niêm yết trên SGDCK. Các chứng khoán này có thể là các cổ phiếu, trái phiếu và
các chứng khoán khác. Với đặc điểm trên, thị trường OTC - thị trường ngoài SGDCK -
cũng phải được pháp luật công nhận sự tồn tại và phải quy định những điều kiện cơ bản
về bảo vệ nhà đầu tư, bảo đảm an toàn giao dịch.

1.2 Lợi ích và rủi ro của thị trường OTC

1.2.1 Lợi ích của thị trường OTC

Sự tồn tại của thị trường OTC bên cạnh SGDCK làm cho thị trường chứng khoán thứ
cấp phong phú, đa dạng. Ngoài ra, sự tồn tại đa dạng của các thị trường chứng khoán tạo ra sự
cạnh tranh lành mạnh giữa các thị trường về chất lượng dịch vụ, chi phí dịch vụ và các điều
kiện khác. Ví dụ, tính chuyên nghiệp của thị trường OTC không bằng tính chuyên nghiệp của
SGDCK. Để thu hút sự tham gia của các CTCK vào thị trường OTC, tổ chức quản lý thị trường
OTC phải cung cấp tốt các dịch vụ như đường truyền nhanh, chính xác và an toàn, nâng cao
tính thanh khoản cho chứng khoán được giao dịch trên thị trường OTC để thu hút nhà đầu tư
tham gia giao dịch trên thị trường OTC. Ngược lại, SGDCK có lợi thế so với thị trường OTC
về cơ chế minh bạch, công khai, an toàn, tính thanh khoản cao... Tuy nhiên, chi phí giao dịch
của SGDCK thường cao hơn so với thị trường OTC.

1.2.2 Rủi ro của thị trường OTC

Thứ nhất, rủi ro ở sản phẩm được giao dịch trên thị trường OTC. Khác với chứng khoán
được giao dịch trên SGDCK phải tuân thủ các điều kiện niêm yết, chứng khoán giao dịch trên
thị trường OTC chưa đủ tiêu chuẩn niêm yết. Mặc dù, một số thị trường OTC có quy định về
điều kiện giao dịch của chứng khoán nhưng các tiêu chuẩn này thường thấp hơn tiêu chuẩn của
công ty niêm yết và giao dịch trên SGDCK.
121
Thứ hai, so với SGDCK thì thị trường OTC có độ minh bạch thấp hơn. Điều này gây
khó khăn không nhỏ cho nhà đầu tư trong việc tiếp cận thông tin về chứng khoán.

Thứ ba, chứng khoán OTC thường có tính thanh khoản thấp hơn. Giao dịch trên thị
trường OTC là giao dịch thỏa thuận, việc mua, bán chứng khoán phụ thuộc vào ý chí của nhà
đầu tư và nhà tạo lập thị trường. Do vậy, có thể có một số chứng khoán rất khó giao dịch vì các
bên không đạt được sự thống nhất về giá.

Có thể nói, với những rủi ro trên, pháp luật cần phải có nguyên tắc điều chỉnh các quan
hệ phát sinh trên thị trường OTC để bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư và an toàn giao dịch
nhưng vẫn phải bảo đảm tính tự do nhất định của thị trường OTC.

2. Yêu cầu điều chỉnh pháp luật về thị trường OTC

2.1 Về tổ chức quản lý thị trường

Tổ chức quản lý thị trường được lập ra nhằm khắc phục những bất cập trong bảo vệ nhà
đầu tư. Thị trường có thể được giao cho hiệp hội kinh doanh chứng khoán quản lý. Hiệp hội
kinh doanh chứng khoán thực hiện chức năng quản lý thị trường OTC thông qua ban hành ra
các quy chế quản lý thị trường và thành viên thị trường, giám sát việc tuân thủ pháp luật và các
quy chế này của các chủ thể tham gia thị trường và áp dụng các hình thức kỷ luật đối với những
chủ thể vi phạm.

Hiệp hội kinh doanh chứng khoán có thể thực hiện quyền giám sát hoạt động của các
thành viên, các giao dịch trên thị trường OTC nhằm ngăn ngừa các rủi ro phát sinh trên thị
trường này và bảo vệ nhà đầu tư.

Trong quá trình giám sát thị trường, hiệp hội kinh doanh chứng khoán được quyền áp
dụng các chế tài kỷ luật để xử lý các chủ thể có hành vi vi phạm, thông thường các biện pháp
xử lý bao gồm: cảnh cáo, hủy giao dịch, hủy bỏ tư cách thành viên.

2.2 Về chủ thể tham gia thị trường

Thành viên của các hiệp hội kinh doanh chứng khoán là các CTCK cũng chính là thành
viên chính tham gia thị trường OTC.

Vị trí của nhà tạo lập thị trường vô cùng quan trọng, là chủ thể quyết định sự tồn tại của
thị trường, giúp cho người sở hữu chứng khoán có thể bán chứng khoán và người mua có thể
mua được chứng khoán bất cứ lúc nào. CTCK vừa thực hiện vai trò của nhà môi giới vừa thực
hiện vai trò của nhà tạo lập thị trường; bởi vậy, pháp luật cần phải có quy định điều chỉnh phù
hợp tránh việc CTCK lạm dụng vị trí của nhà tạo lập thị trường để gây thiệt hại cho nhà đầu tư.

Thông thường, pháp luật quy định thành viên thị trường OTC phái là thành viên của
hiệp hội kinh doanh chứng khoán hoặc tổ chức tương đương giữ vai trò là tổ chức quản lý thị
trường OTC. Ngoài ra, thành viên thị trường còn phải tuân thủ các nghĩa vụ mà quy chế quản
lý thị trường OTC đưa ra. Các thành viên thị trường phải tuân thủ quy định của mỗi thị trường
OTC về cơ chế thiết lập giá, báo giá, cơ chế giao dịch và nghĩa vụ công bố thông tin.

2.3 Về hàng hóa trên thị trường

122
Chứng khoán trên thị trường OTC là chứng khoán chưa niêm yết hoặc chưa đủ điều
kiện niêm yết. Do đó, thông tin về chứng khoán hạn chế, đặc biệt nhiều loại chứng khoán có
thể được phát hành bởi công ty có năng lực tài chính hạn chế. Bởi vậy, nhà đầu tư mua chứng
khoán có thể gặp phải rủi ro trong xác định giá chứng khoán. Ngoài ra, CTCK với tư cách là
nhà đầu tư chuyên nghiệp tạo lập thị trường nếu có cơ hội tiếp cận thông tin liên quan đến chứng
khoán nhưng không công bố cũng có thể gây thiệt hại cho nhà đầu tư. Vì vậy, pháp luật cần
điều chỉnh nhằm hạn chế rủi ro cho nhà đầu tư chứng khoán trên thị trường OTC.

2.4 Phương pháp giao dịch trên thị trường

Phương pháp giao dịch đòi hỏi được thiết lập phù hợp với điều kiện thị trường không
có địa điểm tập trung. Bảng báo giá và thông tin về chứng khoán giao dịch được công bố là cơ
sở quyết định mua hoặc thương lượng thỏa thuận giá mua bán của nhà đầu tư.

3. Pháp luật về thị trường OTC ở Việt Nam

Thị trường Upcom của Việt Nam ra đời trong hoàn cảnh thị trường chứng khoán Việt
Nam chưa thực sự phát triển, nhiều chứng khoán của các công ty đại chúng không niêm yết,
chưa đủ điều kiện niêm yết hoặc bị hủy niêm yết và do đó ảnh hưởng đến tính thanh khoản của
chứng khoán. Trong một thời gian dài, nhu cầu giao dịch các loại chứng khoán này của nhà đầu
tư đã dẫn đến sự hình thành các thị trường nằm ngoài sự kiểm soát của cơ quan quản lý nhà
nước. Vì vậy, thị trường Upcom đã ra đời, đáp ứng nhu cầu của tổ chức phát hành chưa đủ điều
kiện niêm yết hoặc không có mong muốn niêm yết hoặc bị hủy niêm yết và nhu cầu của nhà
đầu tư. Thị trường Upcom là sản phẩm sáng tạo của các nhà quản lý của Việt Nam. Thị trường
Upcom có những đặc điểm của SGDCK vì giao dịch được đăng ký và thực hiện tập trung trên
SGDCK. Hay nói cách khác, thị trường Upcom chính là một "sàn giao dịch chứng khoán đặc
thù" nằm trong SGDCK Hà Nội. Đồng thời, thị trường Upcom cũng có những đặc điểm của thị
trường OTC, đó là: chứng khoán được đăng ký và giao dịch trên thị trường Upcom là các chứng
khoán không niêm yết, chưa niêm yết hoặc bị hủy niêm yết và giao dịch trên thị trường Upcom
được thực hiện theo phương thức thỏa thuận. Thị trường Upcom không phải là thị trường OTC
theo đúng nghĩa, nhưng là tiền đề quan trọng để Việt Nam tiếp tục nghiện cứu, xây dựng những
cơ sở cần thiết cho sự hình thành và phát triển của thị trường OTC tại Việt Nam.

3.1 Cơ sở pháp lý về thị trường chứng khoán chưa niêm yết

Do yêu cầu quản lý thị trường phi tập trung trong bối cảnh mua bán trao tay diễn ra ồ ạt
trong những năm 2006 - 2008. Ngày 20/11/2008 Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số
108/2008/QĐ- BTC về việc ban hành Quy chế tổ chức và quản lý giao dịch chứng khoán công
ty đại chúng chưa niêm yết tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội. Trên cơ sở pháp lý
này, ngày 24/6/2009 thị trường giao dịch cổ phiếu và trái phiếu chuyển đổi của công ty đại
chúng chưa niêm yết (thị trường Upcom) đã chính thức đi vào hoạt động. Thị trường này được
tổ chức để nhà đầu tư có thể mua, bán các loại cổ phiếu của các công ty đại chúng chưa niêm
yết, hoặc hủy niêm yết tại SGDCK TP. Hồ Chí Minh hoặc TTGDCK Hà Nội với mục đích tạo
môi trường giao dịch công bằng, minh bạch, an toàn, giảm thiểu rủi ro cho nhà đầu tư, tăng tính
thanh khoản cho các chứng khoán chưa niêm yết và tăng khả năng huy động vốn cho các doanh
nghiệp. Trên thị trường Upcom, nhà đầu tư giao dịch tại CTCK theo phương thức thỏa thuận.

123
Kết quả giao dịch được chuyển qua hệ thống Upcom để chuyển đến Tổng công ty lưu ký và bù
trừ chứng khoán thực hiện thanh toán.

Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 180/2015/TT-BTC, Thông tư số 13/2019/TT-


BTC hướng dẫn về đăng ký giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán
chưa niêm yết. Theo đó, chứng khoán giao dịch trên thị trường Upcom là chứng khoán của công
ty đại chúng được chấp thuận giao dịch trên thị trường Upcom. Hiện nay, hai thông tư này đã
hết lực, và được thay thế bởi Thông tư 57/2021/TT-BTC quy định lộ trình sắp xếp lại thị trường
giao dịch cổ phiếu, thị trường giao dịch trái phiếu, thị trường giao dịch chứng khoán phái sinh
và thị trường giao dịch các loại chứng khoán khác.

3.2 Pháp luật về thị trường chứng khoán chưa niêm yết

Tổ chức, quản lý thị trường Upcom. Thực chất giao dịch Upcom được diễn ra trên
SGDCK Hà Nội, chứ không có tính chất phi tập trung như giao dịch trên thị trường OTC. Bởi
vì các chứng khoán phải được đăng ký tập trung tại SGDCK Hà Nội và giao dịch được tiến
hành bởi các thành viên hệ thống đăng ký giao dịch thông qua các đại diện giao dịch của thành
viên tại SGDCK Hà Nội thông qua hệ thống đăng ký giao dịch.

Hàng hóa trên thị trường Upcom. Theo Quyết định số 108/2008/QĐ-BTC, tổ chức phát
hành có quyền tự định đoạt đăng ký giao dịch chứng khoán trên thị trường Upcom. Tuy nhiên,
trong thời gian gần đây có xu hướng nhiều cổ phiếu của các công ty đại chúng bị hủy niêm yết
(bắt buộc hoặc tự nguyện) trên SGDCK. Điều này dẫn đến những cổ phiếu này bị mất tính
thanh khoản. Trên thực tế, khi cổ phiếu bị hủy niêm yết, cơ quản lý nhà nước thường khuyến
khích các doanh nghiệp đăng ký cổ phiếu giao dịch trên thị trường Upcom theo Quyết định số
634/QĐ-SGDHN ngày 24 tháng 9 năm 2019 ban hành quy chế tổ chức và quản lý thị trường
giao dịch chứng khoán chưa niêm yết tại sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Theo Quy chế này,
công ty đại chúng không niêm yết trên SGDCK phải đăng ký giao dịch trên hệ thống giao dịch
Upcom. Đối tượng đăng ký giao dịch bao gồm:

- Công ty đại chúng không đủ điều kiện niêm yết;


- Công ty đại chúng đủ điều kiện niêm yết nhưng chưa niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán;
- Công ty hủy niêm yết nếu vẫn đáp ứng điều kiện là công ty đại chúng (bao gồm cả
trường hợp bị hủy niêm yết do công ty hình thành sau hợp nhất, sáp nhập, hoán đổi
không đáp ứng điều kiện niêm yết);
- Doanh nghiệp cổ phần hóa theo quy định pháp luật về cổ phần hóa chưa niêm yết trên
Sở giao dịch chứng khoán. Thị trường Upcom cũng hoạt động theo nguyên tắc công
khai, minh bạch, theo đó công ty đại chúng, thành viên và SGDCK Hà Nội có nghĩa vụ
công bố thông tin.

Các giao dịch chứng khoán trên hệ thống giao dịch Upcom được thực hiện qua thành
viên. Hệ thống giao dịch Upcom của SGDCK chỉ nhận lệnh từ thành viên thông qua hệ thống
nhập lệnh của SGDCK và hệ thống giao dịch trực tuyến của thành viên.

Chỉ đại diện giao dịch của thành viên mới được nhập lệnh vào hệ thống nhập lệnh của
SGDCK. Hoạt động của đại diện giao dịch phải tuân thủ các quy định về giao dịch tại Quy chế

124
này, các quy trình và quy định liên quan của SGDCK về đại diện giao dịch. Thành viên chịu
trách nhiệm về việc thực hiện nhiệm vụ của các đại diện giao dịch của mình. Chứng khoán đăng
ký giao dịch tại SGDCK phải được giao dịch trên hệ thống giao dịch Upcom của SGDCK,
ngoại trừ các trường hợp: trường hợp giao dịch không mang tính chất mua bán hoặc không thể
thực hiện được qua hệ thống giao dịch Upcom của SGDCK; trường hợp xử lý lỗi sau giao dịch
thực hiện qua hệ thống của TTLKCK theo các quy định hiện hành.

Phương thức giao dịch trên thị trường Upcom. SGDCK tổ chức giao dịch đối với chứng
khoán đăng ký giao dịch thông qua hệ thống giao dịch Upcom theo 2 phương thức: phương
thức khớp lệnh liên tục là phương thức giao dịch được thực hiện trên cơ sở so khớp các lệnh
mua và lệnh bán chứng khoán ngay khi lệnh được nhập vào hệ thống giao dịch Upcom; phương
thức thỏa thuận là phương thức giao dịch trong đó các điều kiện giao dịch được các bên tham
gia thỏa thuận với nhau và xác nhận thông qua hệ thống giao dịch Upcom. Đối với hình thức
giao dịch khớp lệnh liên tục, thành viên phải nhập lệnh ngay vào hệ thống giao dịch Upcom
theo thứ tự ưu tiên về thời gian. Đối với hình thức giao dịch thỏa thuận, thành viên có trách
nhiệm chuyển ngay kết quả giao dịch đã được thỏa thuận vào hệ thống giao dịch Upcom trong
thời gian giao dịch của SGDCK theo thứ tự ưu tiên về thời gian.

Trong ngày giao dịch đầu tiên của cổ phiếu mới đăng ký giao dịch hoặc ngày đầu tiên
giao dịch trở lại của cổ phiếu không có giao dịch trên hai lăm (25) phiên liên tiếp, SGDCK chỉ
nhận lệnh giao dịch theo phương thức khớp lệnh liên tục; SGDCK không thực hiện nhận lệnh
giao dịch theo phương thức giao dịch thỏa thuận cho đến khi có giá tham chiếu được xác lập từ
kết quả của phương thức khớp lệnh liên tục. Trong trường hợp cần thiết, SGDCK quyết định
thay đổi hoặc bổ sung phương thức giao dịch đối với từng loại chứng khoán sau khi được
UBCKNN chấp thuận.

Trình tự, thủ tục giao dịch. Để tiến hành giao dịch trên thị trường Upcom, nhà đầu tư
phải mở và chỉ được phép mở một tài khoản giao dịch tại một CTCK. Trường hợp nhà đầu tư
đã có tài khoản giao dịch chứng khoán niêm yết thì có thể dùng ngay tài khoản này để thực hiện
đăng ký giao dịch. Khi có nhu cầu mua hoặc bán chứng khoán đăng ký giao dịch trên thị trường
Upcom, nhà đầu tư ra lệnh giao dịch cho thành viên thị trường. Lệnh chào mua, chào bán, thỏa
thuận điện tử có hiệu lực kể từ khi lệnh được nhập vào hệ thống đăng ký giao dịch cho đến khi
kết thúc thời gian giao dịch trên hệ thống đăng ký giao dịch hoặc cho đến khi lệnh bị huỷ bỏ.
Nhà đầu tư và đại diện giao dịch có thể sửa, hủy bỏ lệnh giao dịch, đại diện giao dịch có thể
sửa giao dịch thỏa thuận theo quy chế của SGDCK Hà Nội.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Quy trình giao dịch chứng khoán trên SGDCK theo pháp luật hiện hành?

2. Các nguyên tắc đặc thù của SGDCK? Tại sao SGDCK là thị trường giao dịch chứng
khoán tập trung, có tổ chức?

3. Nội dung của pháp luật về thị trường OTC? Các nguyên tắc hoạt động của thị trường
OTC?

4. Phân biệt thị trường OTC và thị trường giao dịch chứng khoán tập trung?

125
Chương 6: PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN

1. Khái niệm và đặc điểm của quản lý thị trường chứng khoán

Quản lý thị trường chứng khoán là hoạt động tổ chức, điều tiết và kiểm soát thị trường
chứng khoán bằng các quy tắc nhằm bảo vệ nhà đầu tư, bảo đảm thị trường chứng khoán hoạt
động hiệu quả, công bằng, minh bạch và giảm thiểu rủi ro hệ thống.

Quản lý thị trường chứng khoán có những đặc điểm sau đây:

- Quản lý thị trường chứng khoán đòi hỏi chủ thể quản lý phải nhạy bén, bám sát, nắm
chắc và xử lý kịp thời những diễn biến của thị trường.
- Chủ thể quản lý thị trường chứng khoán bao gồm cơ quan quản lý nhà nước về thị trường
chứng khoán và các tổ chức tự quản được giao quyền tham gia quản lý thị trường chứng
khoán.
- Nội dung quản lý thị trường chứng khoán bao gồm: hoạt động ban hành quy chế quản
lý thị trường chứng khoán, đăng ký, cấp, thu hồi giấy phép, giám sát, thanh tra và xử lý
vi phạm trên thị trường chứng khoán.
- Mục đích của quản lý thị trường chứng khoán nhằm bảo vệ nhà đầu tư, bảo đảm thị
trường chứng khoán công bằng, hiệu quả, minh bạch và giảm thiểu rủi ro hệ thống.

2. Khái niệm và cấu trúc pháp luật về quản lý thị trường chứng khoán

Pháp luật về quản lý thị trường chứng khoán là tổng thể các quy phạm pháp luật do
Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt
động quản lý thị trường chứng khoán giữa chủ thể quản lý thị trường chứng khoán và các đối
tượng quản lý.

Về cấu trúc hình thức, pháp luật về quản lý thị trường chứng khoán bao gồm các văn
bản quy phạm pháp luật, án lệ có chứa đựng các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã
hội phát sinh trong hoạt động quản lý thị trường chứng khoán giữa chủ thể quản lý thị trường
chứng khoán và các đối tượng quản lý.

Để tránh chủ thể quản lý lợi dụng hoặc lạm dụng quyền hạn và kiểm soát được hành vi
của các đối tượng quản lý trên thị trường, Nhà nước cần ban hành đầy đủ các văn bản quy phạm
pháp luật có nội dung bao quát được tất cả các vấn đề phát sinh trong quản lý thị trường chứng
khoán. Văn bản quy phạm pháp luật bao gồm các đạo luật về chứng khoán do Quốc hội ban
hành, tiếp đến là các văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ và các các cơ quan cấp Bộ ban
hành nhằm cụ thể hóa các nguyên tắc được ghi nhận trong các đạo luật.

Tuy nhiên, văn bản quy phạm pháp luật dù được ban hành công phu với kỹ thuật lập
pháp cao vẫn có độ trễ nhất định so với thực tiễn sinh động. Thực tiễn luôn nảy sinh những vấn
đề mới mà các nhà làm luật khó có thể dự đoán đầy đủ được. Để khắc phục được hạn chế đó,
án lệ được thừa nhận như là một nguồn chứa đựng các quy phạm pháp luật và các giải thích
pháp luật bổ sung cho các quy phạm pháp luật thành văn. Án lệ trong lĩnh vực quản lý thị trường
chứng khoán được hình thành thông qua con đường Toà án xét xử các quyết định hành chính
của cơ quan quản lý thị trường chứng khoán. Trong quá trình xét xử, toà án đưa ra các giải thích
cho các quy phạm pháp luật. Ngoài ra, trong trường hợp không tồn tại quy phạm pháp luật về

126
một vấn đề mà toà án phải giải quyết, toà án có thể dựa vào những nguyên tắc chung về trật tự
quản lý hành chính, trật tự quản lý thị trường chứng khoán, tham khảo pháp luật và thực tiễn
áp dụng pháp luật nước ngoài, tham khảo các lý thuyết, các bình luận của các nhà khoa học về
vấn đề liên quan để đưa ra các giải thích, lập luận và quan điểm giải quyết vụ việc. Các giải
thích, lập luận và quan điểm của toà án trong vụ việc trước được áp dụng để giải quyết cho vụ
việc tương tự về sau. Như vậy, các quy phạm pháp luật được suy đoán từ các giải thích, lập
luận và quan điểm của toà án trong các bản án, quyết định giải quyết các vụ việc hành chính
liên quan đến quản lý thị trường chứng khoán.

Về cấu trúc nội dung, pháp luật về quản lý thị trường chứng khoán bao gồm các bộ
phận sau:

- Bộ phận pháp luật về chủ thể quản lý thị trường chứng khoán

- Bộ phận pháp luật về đối tượng quản lý

- Bộ phận pháp luật về các nội dung, biện pháp và công cụ quản lý thị trường chứng khoán

3. Nội dung pháp luật về quản lý thị trường chứng khoán

3.1 Chủ thể quản lý thị trường chứng khoán

3.1.1 Mô hình tổ chức cơ quan quản lý nhà nước về thị trường chứng khoán

Mỗi quốc gia khác nhau sẽ chọn mô hình tổ chức cơ quan quản lý nhà nước đối với thị
trường chứng khoán khác nhau. Trên thế giới có hai mô hình chủ yếu, đó là mô hình trực thuộc
và mô hình độc lập.

Mô hình độc lập: Theo mô hình này, cơ quan quản lý thị trường chứng khoán là một cơ
quan thuộc Chính phủ hoặc cơ quan độc lập với Chính phủ. Cơ quan quản lý thị trường chứng
khoán có quyền lực tương đương với một Bộ hoặc cơ quan ngang bộ. Mô hình này có ưu điểm
là tạo ra tính chủ động trong hoạt động quản lý thị trường nhưng đòi hỏi cơ quan này phải có
đủ sức mạnh và có cơ cấu tổ chức hợp lý để bảo đảm tính hiệu quả trong hoạt động quản lý thị
trường chứng khoán.

Mô hình trực thuộc: Theo mô hình này, cơ quan quản lý thị trường chứng khoán là cơ
quan trực thuộc Bộ tài chính, Bộ kinh tế, Ngân hàng trung ương hoặc cơ quan ngang bộ có chức
năng quản lý tài chính hoặc kinh tế. Mô hình này có ưu điểm là tạo ra sự thống nhất và phối
hợp giữa các bộ phận trong bộ chủ quản trong công tác quản lý thị trường chứng khoán và các
thị trường khác có liên quan. Tuy nhiên, mô hình này có bất lợi là cơ quan quản lý thị trường
chứng khoán mất tính độc lập trong hoạt động quản lý thị trường chứng khoán.

Ở Việt Nam, ban đầu khi mới được thành lập trên cơ sở Nghị định số 75/CP ngày
28/11/1996 về việc thành lập Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN). UBCKNN là cơ
quan thuộc Chính phủ thực hiện chức năng tổ chức và quản lý nhà nước về thị trường chứng
khoán. Nghị định số 90/2003/NĐ-CP ngày 12/8/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của UBCKNN tiếp tục khẳng định UBCKNN là cơ quan thuộc
Chính phủ. Như vậy, tại giai đoạn đầu mới thành lập, UBCKNN được tổ chức theo mô hình
độc lập, là cơ quan thuộc Chính phủ, chịu sự lãnh đạo trực tiếp bởi Chính phủ. Tuy nhiên, ngày

127
19/2/2004, Chính phủ ban hành Nghị định số 66/2004/NĐ-CP về việc chuyển UBCKNN vào
Bộ Tài chính. Theo Nghị định này, UBCKNN là cơ quan trực thuộc Bộ tài chính. UBCKNN
thực hiện chức năng tham mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về chứng khoán
và thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động chứng khoán và thị trường
chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ thuộc lĩnh vực chứng khoán, thị trường chứng
khoán theo quy định của pháp luật.

3.1.2 Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán

a/ Chính phủ

- Thống nhất quản lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

b/ Bộ Tài chính

Bộ Tài chính chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện quản lý nhà nước về chứng
khoán và thị trường chứng khoán và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Trình Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ ban hành chiến lược, quy hoạch, chính sách
phát triển thị trường chứng khoán;

- Trình cấp có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy
phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;

- Chỉ đạo Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước thực hiện chiến lược, quy hoạch, chính sách
phát triển thị trường chứng khoán và các chính sách, chế độ để quản lý và giám sát
hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng khoán.

c/ Uỷ ban chứng khoán Nhà nước

Ủy ban Chứng khoán Nhà nước là cơ quan thuộc Bộ Tài chính thực hiện chức năng tham
mưu, giúp Bộ trưởng Bộ Tài chính quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng
khoán, tổ chức thực thi pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo phân cấp, ủy
quyền của Bộ trưởng Bộ Tài chính và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:

- Trình Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành hoặc để trình cấp có thẩm quyền ban hành các
văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, chiến lược,
kế hoạch, đề án, chính sách phát triển thị trường chứng khoán;

- Tổ chức, phát triển thị trường chứng khoán; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động về
chứng khoán và thị trường chứng khoán; quản lý các hoạt động dịch vụ về chứng khoán
và thị trường chứng khoán theo quy định của pháp luật;

- Cấp, cấp lại, gia hạn, điều chỉnh, thu hồi giấy phép, chứng chỉ hành nghề chứng khoán
và giấy chứng nhận liên quan đến hoạt động về chứng khoán và thị trường chứng
khoán; chấp thuận những thay đổi, đình chỉ, hủy bỏ liên quan đến hoạt động về chứng
khoán và thị trường chứng khoán;

- Quản lý, thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động nghiệp vụ chứng khoán của Sở giao
dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng
khoán Việt Nam; chấp thuận các quy định, quy chế của Sở giao dịch chứng khoán Việt
128
Nam và công ty con, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam; yêu cầu
Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con, Tổng công ty lưu ký và bù trừ
chứng khoán Việt Nam sửa đổi quy định, quy chế liên quan đến hoạt động nghiệp vụ;
đình chỉ, hủy bỏ quyết định liên quan đến hoạt động nghiệp vụ của Sở giao dịch chứng
khoán Việt Nam và công ty con, Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam,
chỉ đạo Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con, Tổng công ty lưu ký và
bù trừ chứng khoán Việt Nam thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến hoạt động nghiệp
vụ trong trường hợp cần thiết để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư;

- Chấp thuận việc đưa vào giao dịch các loại chứng khoán mới, thay đổi và áp dụng
phương thức giao dịch mới, chấp thuận hệ thống giao dịch chứng khoán và đưa vào
vận hành hệ thống giao dịch chứng khoán mới;

- Quản lý, giám sát hoạt động liên quan đến chứng khoán và thị trường chứng khoán
của các tổ chức, cá nhân;

- Thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực chứng khoán và thị trường chứng khoán;

- Báo cáo Bộ Tài chính để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Chính phủ về tình hình hoạt
động của thị trường chứng khoán. Trường hợp có biến động lớn ảnh hưởng đến an
ninh, an toàn thị trường chứng khoán, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có trách nhiệm
kịp thời báo cáo Bộ Tài chính, đồng thời báo cáo Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về
tình hình thị trường và các giải pháp để ổn định thị trường và bảo đảm an ninh, an toàn
tài chính;

- Thực hiện theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền thực hiện các biện pháp bảo
đảm an ninh, an toàn thị trường chứng khoán;

- Thực hiện thống kê, dự báo về hoạt động chứng khoán và thị trường chứng khoán;
hiện đại hóa công nghệ thông tin trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng
khoán;

- Tổ chức, phối hợp với các cơ quan, tổ chức liên quan đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức ngành chứng khoán và người hành nghề chứng khoán; tuyên
truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và thị trường chứng khoán cho công chúng;

- Ban hành văn bản hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, văn bản khác thuộc phạm vi
quản lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước;

- Giám sát tổ chức xã hội - nghề nghiệp về chứng khoán trong việc thực hiện mục đích,
tôn chỉ, Điều lệ hoạt động;

- Thực hiện chế độ báo cáo về chứng khoán và thị trường chứng khoán theo quy định
của pháp luật;

- Thực hiện hợp tác quốc tế và làm đầu mối thực hiện các cam kết quốc tế trong lĩnh
vực chứng khoán và thị trường chứng khoán mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam là thành viên;

129
Nhiệm vụ, quyền hạn khác theo quy định của Luật này và quy định khác của pháp luật
có liên quan.

d/ Cơ quan khác

Các bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
phối hợp với Bộ Tài chính thực hiện quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng
khoán.

Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm
thực hiện quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán tại địa phương.

Sở giao dịch chứng khoán có chức năng tổ chức và giám sát hoạt động giao dịch chứng
khoán niêm yết tại Sở giao dịch.

Ngoài Sở giao dịch chứng khoán Việt Nam và công ty con, không tổ chức, cá nhân nào
được phép tổ chức thị trường giao dịch chứng khoán.

Sở giao dịch chứng khoán được thực hiện liên kết với Sở giao dịch chứng khoán của
quốc gia khác theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ

3.2 Nội dung quản lý nhà nước về chứng khoán và thị trường chứng khoán

3.2.1 Ban hành chính sách, dự án, văn bản QPPL

Thẩm quyền ban hành các đạo luật thuộc về Quốc hội. Vì vậy, cơ quan quản lý thị
trường chứng khoán chỉ tham gia với vai trò là cơ quan đề xuất dự án luật hoặc đưa ra ý kiến
đối với dự thảo luật. Trên cơ sở các quy định khung được đưa ra bởi các đạo luật về chứng
khoán, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ban hành các VBPL dưới luật để quy định chi
tiết và hướng dẫn thi hành các đạo luật về chứng khoán. Chính phủ ban hành các nghị định,
Thủ tướng ban hành các quyết định và Bộ Tài chính ban hành thông tư để quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành Luật Chứng khoán. Đối với các văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm
quyền của Bộ tài chính, UBCKNN trình dự thảo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến
thị trường chứng khoán để Bộ tài chính xem xét ban hành. Như vậy, UBCKNN tham gia với
vai trò là cơ quan tham mưu cho Bộ tài chính trong công tác xây dựng các văn bản quy phạm
pháp luật quản lý thị trường chứng khoán. UBCKNN cũng có quyền ban hành các văn bản
hướng dẫn chuyên môn, nghiệp vụ, văn bản quy phạm nội bộ, văn bản cá biệt thuộc phạm vi
quản lý của UBCKNN.

3.2.2 Xây dựng các quy chế quản lý thị trường chứng khoán

Quy chế quản lý thị trường chứng khoán bao gồm tổng thể các quy tắc pháp lý và các
quy chế tự quản điều chỉnh các quan hệ trong quản lý thị trường chứng khoán. Dựa trên cơ sở
văn bản quy phạm pháp luật ở cấp đạo luật để đưa ra các quy định khung về các vấn đề liên
quan đến thị trường chứng khoán như các chủ thể tham gia thị trường, các loại chứng khoán,
các giao dịch chứng khoán, các thị trường chứng khoán, vấn đề công bố thông tin, các giao dịch
bị cấm trên thị trường chứng khoán, việc xây dựng các quy chế quản lý thị trường chứng khoán
cũng là một trong những công việc quan trọng trong công tác quản lý thị trường chứng khoán.

3.2.3 Cấp, gia hạn, đình chỉ, thu hồi giấy phép hoạt động chứng khoán
130
Để bảo vệ nhà đầu tư và bảo đảm sự lành mạnh cho thị trường chứng khoán, cơ quan
quản lý thị trường chứng khoán phải lựa chọn các tổ chức tham gia thị trường như tổ chức phát
hành, tổ chức niêm yết, các chủ thể trung gian và các sản phẩm tài chính trên thị trường chứng
khoán. Sự lựa chọn được thực hiện ngay từ khâu đầu tiên khi các chủ thể bắt đầu tham gia hoặc
đưa chứng khoán vào thị trường. Do đó, pháp luật chứng khoán của các nước đều có các cơ chế
đăng ký hoặc cấp giấy phép theo nguyên tắc các tổ chức phát hành chứng khoán ra công chúng,
tổ chức niêm yết chứng khoán, các cá nhân, tổ chức kinh doanh chứng khoán và các tổ chức
trung gian khác chỉ được tham gia thị trường chứng khoán sau khi được đăng ký hoặc cấp giấy
phép.

Trong lĩnh vực chứng khoán, đăng ký được hiểu là thủ tục mà cơ quan quản lý thị trường
chứng khoán ghi nhận một chủ thể nhất định vào danh mục các chủ thể được thực hiện một
hoặc một số hoạt động nhất định trên thị trường chứng khoán. Có hai hình thức đăng ký là cấp
giấy chứng nhận đăng ký và công bố thông tin. Cấp giấy chứng nhận đăng ký được áp dụng
cho trường hợp đăng ký trên cơ sở mô hình quản lý theo chất lượng. Nghĩa là nếu đối tượng
đăng ký đáp ứng các điều kiện pháp luật quy định thì cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
cấp giấy chứng nhận đăng ký cho đối tượng đăng ký. Đối tượng đăng ký chỉ được hoạt động kể
từ thời điểm giấy chứng nhận đăng ký cho hoạt động đó có hiệu lực. Ngược lại, công bố thông
tin là hình thức mà đối tượng đăng ký công bố với cơ quan đăng ký các thông tin cần thiết liên
quan đến hoạt động được đăng ký. Nghĩa là đối tượng đăng ký lập hồ sơ công bố thông tin về
hoạt động dự kiến của mình trên thị trường chứng khoán (hồ sơ đăng ký) gửi cơ quan quản lý
thị trường chứng khoán. Nếu hợp lệ, hồ sơ đăng ký có hiệu lực sau một thời hạn nhất định hoặc
sau khi được cơ quan quản lý thị trường chứng khoán chấp thuận hoặc phê chuẩn. Kể từ thời
điểm hồ sơ đăng ký có hiệu lực, đối tượng đăng ký được thực hiện hoạt động đã được đăng ký.
Đăng ký được áp dụng cho các hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng, hoạt động lưu
ký chứng khoán, quy chế do tổ chức tự quản ban hành... Cơ quan quản lý thị trường chứng
khoán có quyền đăng ký thì cũng có quyền đình chỉ hoặc hủy đăng ký trong những trường hợp
pháp luật quy định.

Trong lĩnh vực chứng khoán, cấp giấy phép được hiểu là việc cơ quan quản lý thị trường
chứng khoán cấp hoặc ban hành một văn bản cho phép một đối tượng được thực hiện một hoặc
một số hoạt động cụ thể trên thị trường chứng khoán. Theo pháp luật Việt Nam, UBCKNN cấp
giấy phép thành lập và hoạt động cho CTCK, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng khoán,
chứng chỉ hành nghề chứng khoán cho các cá nhân hành nghề chứng khoán. Cơ quan quản lý
thị trường chứng khoán cũng có quyền đình chỉ hoặc thu hồi giấy phép đã cấp cho đối tượng
quản lý trong những trường hợp pháp luật quy định.

2.2.4 Giám sát thị trường chứng khoán

Giám sát thị trường chứng khoán là việc theo dõi, xem xét và đánh giá hoạt động của
các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán và sự vận hành của thị trường chứng khoán. Công
tác giám sát TTCK dựa trên các hoạt động cự thể, các số liệu, tài liệu báo cáo để phân tích, đối
chiếu với các quy định trong văn bản luật về chứng khoán và TTCK, sớm phát hiện các biểu
hiện, dấu hiệu thiếu sót hoặc vi phạm của các tổ chức và cá nhân trong quá trình phát hành,
niêm yết, công bố thông tin, đăng ký và lưu ký, giao dịch và thanh toán bù trừ chứng khoán…

131
Chủ thể giám sát bao gồm cơ quan quản lý thị trường chứng khoán và các tổ chức tự
quản. Đối tượng giám sát bao gồm tổ chức phát hành chứng khoán, tổ chức niêm yết chứng
khoán, cổ đông lớn, CTCK, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức định mức tín
nhiệm và các chủ thể khác thực hiện các hoạt động trên thị trường chứng khoán. Đối tượng
giám sát còn bao gồm các hoạt động, giao dịch diễn ra trên thị trường chứng khoán, như các
hoạt động phát hành chứng khoán, mua bán chứng khoán, chào mua công khai...

Giám sát thị trường chứng khoán được thực hiện thông qua các hoạt động cụ thể sau:

Thứ nhất, chủ thể giám sát thu thập thông tin từ nhiều nguồn. Chủ thể giám sát sẵn sàng
tiếp nhận tất cả các thông tin từ công chúng đầu tư, các công ty niêm yết chứng khoán, các
CTCK và bất kỳ cá nhân, tổ chức nào. Chủ thể giám sát cũng thu thập và phân tích các thông
tin do các phương tiện thông tin đại chúng cung cấp. Thông tin cũng được thu thập từ việc giải
quyết khiếu nại của nhà đầu tư và các thành viên của thị trường chứng khoán. Để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người cung cấp thông tin, cơ quan quản lý thị trường chiứng khoán có
nghĩa vụ bảo mật các thông tin liên quan đến nhân thân của người cung cấp thông tin. Sau khi
tiếp nhận thông tin, bộ phận tiếp nhận thông tin sẽ chuyển thông tin đến các bộ phận chuyên
môn để xử lý và phân tích thông tin.

Thứ hai, chủ thể giám sát theo dõi và phân tích diễn biến và xu hướng của thị trường.
Công việc này được chủ thể giám sát thực hiện hàng ngày trên cơ sở phân tích các hoạt động,
giao dịch diễn ra trên thị trường, qua đó phát hiện và ngăn chặn kịp thời các hành vi vi phạm,
rủi ro xảy ra trên thị trường. Qua theo dõi và phân tích các diễn biến trên thị trường, chủ thể
giám sát có thể phát hiện ra được xu hướng của thị trường, để từ đó có giải pháp thích hợp nhằm
bảo đảm cho sự phát triển ổn định và bền vững của thị trường.

Thứ ba, một số đối tượng giám sát thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin. Thông tin là
cơ sở để các chủ thể giám sát thị trường nắm bắt được tình hình và xu thế của thị trường nhằm
phát hiện, ngăn chặn và xừ lý các hành vi vi phạm và các rủi ro trên thị trường, vì vậy, công bố
thông tin là nghĩa vụ pháp lý của tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng, công ty đại
chúng, tổ chức niêm yết chứng khoán, CTCK, công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán và các
chủ thể khác trên thị trường chứng khoán.

Thứ tư, giám sát thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra các đối tượng quản lý. Công
tác giám sát cũng được thông qua việc chủ thể giám sát tiến hành thanh tra, kiểm tra trực tiếp
các đối tượng giám sát.

3.2.5 Thanh tra và xử lý vi phạm

3.2.5.1 Thanh tra

Thanh tra chứng khoán là việc xem xét, đánh giá, xử lý theo trình tự, thủ tục do pháp
luật quy định về việc thực hiện và tuân thủ pháp luật của các chủ thể trên thị trường chứng
khoán. Có hai hình thức thanh tra là thanh tra theo chương trình, kế hoạch đã được phê duyệt
và thanh tra đột xuất. Thanh tra đột xuất được thực hiện khi có dấu hiệu vi phạm pháp luật về
chứng khoán và thị trường chứng khoán, theo yêu cầu của việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về
chứng khoán hoặc khi được người có thẩm quyền giao.

132
Đối tượng thanh tra bao gồm các tổ chức chào bán chứng khoán ra công chúng, tổ chức
niêm yết chứng khoán, công ty đại chúng, CTCK, công ty quản lý quỹ, công ty đầu tư chứng
khoán, ngân hàng giám sát, tổ chức định mức tín nhiệm, SGDCK, các tổ chức tự quản khác và
các cá nhân, tổ chức khác tham gia hoạt động trên thị trường chứng khoán.

Khoản 4 Điều 129 Luật chứng khoán năm 2019 quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của
Thanh tra chứng khoán bao gồm:

- Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán;
- Xử phạt vi phạm hành chính theo thẩm quyền hoặc kiến nghị Chủ tịch Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước quyết định việc xử phạt vi phạm hành chính theo quy định của pháp
luật về xử lý vi phạm hành chính;
- Phối hợp với các cơ quan, đơn vị liên quan trong việc phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn,
xử lý hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán;
- Thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của pháp luật.

Theo pháp luật Việt Nam, hoạt động thanh tra chứng khoán được thực hiện theo các
bước sau:

Ra quyết định thanh tra: Hoạt động thanh tra chỉ được thực hiện trên cơ sở có quyết
định thanh tra của người có thẩm quyền. Chánh thanh tra chứng khoán hoặc Chủ tịch UBCKNN
(trong trường hợp cẩn thiết) có thẩm quyền ra quyết định thanh tra và thành lập đoàn thanh tra.
Quyết định thanh tra phải có các nội dung sau: Căn cứ pháp lý để thanh tra; Đối tượng, nội
dung, phạm vi, nhiệm vụ thanh tra; Thời hạn tiến hành thanh tra; Trưởng đoàn thanh tra và các
thành viên đoàn thanh tra. Trong thời hạn ba ngày kể từ ngày ký quyết định thanh tra phải được
gửi cho đối tượng thanh tra, trừ trường hợp thanh tra đột xuất. Quyết định thanh tra phải được
công bố trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày ra quyết định thanh tra. Việc công bố quyết
định thanh tra phải được lập thành văn bản.

Tiến hành thanh tra: Thời hạn thực hiện một cuộc thanh tra không quá ba mươi ngày
kể từ ngày công bố quyết định thanh tra đến khi kết thúc việc thanh tra tại nơi được thanh tra.
Trong trường hợp cần thiết, người ra quyết định thanh tra có thể gia hạn một lần. Thời gian gia
hạn không vượt quá ba mươi ngày. Trong quá trình thanh tra, các đối tượng thanh tra có nghĩa
vụ cung cấp thông tin, tài liệu, giải trình theo yêu cầu của thanh tra trừ những thông tin thuộc
bí mật Nhà nước theo quy định của pháp luật và thông tin này không liên quan đến nội dung
thanh tra. Trên cơ sở thông tin mà đối tượng thanh tra cung cấp, đoàn thanh tra kiểm tra, xác
minh, phân tích các vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra. Trong quá trình thanh tra, người
ra quyết định thanh tra có quyền: chỉ đạo, kiểm tra Đoàn thanh tra thực hiện đúng nội dung,
thời hạn ghi trong quyết định thanh tra; yêu cầu đối tượng thanh tra cung cấp thông tin, tài liệu,
dữ liệu điện tử báo cáo bằng văn bản, giải trình những vấn đề liên quan đến nội dung thanh tra;
yêu cầu tổ chức, cá nhân có thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung thanh tra cung cấp thông
tin, tài liệu đó; trưng cầu giám định về những vấn đề có liên quan đến nội dung thanh tra; yêu
cầu người có thẩm quyền niêm phong, tạm giữ tài liệu, chứng từ, chứng khoán, dữ liệu điện tử
liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán khi xét
thấy cần ngăn chặn ngay hành vi vi phạm hoặc để xác minh tình tiết làm chứng cứ cho kết luận

133
thanh tra; yêu cầu người có thẩm quyền phong tỏa tài khoản tiền, tài khoản chứng khoán và tài
sản thế chấp, cầm cố có liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường
chứng khoán khi xét thấy cần xác minh tình tiết làm căn cứ quyết định xử lý vi phạm hoặc ngăn
chặn ngay hành vi tẩu tán tiền, chứng khoán và tài sản thế chấp, cầm cố có liên quan đến hành
vi vi phạm pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán; tạm đình chỉ hoặc kiến nghị
người có thẩm quyền đình chỉ việc làm khi xét thấy việc làm đó gây thiệt hại nghiêm trọng đến
lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân tham gia thị trường.

Trong quá trình thanh tra, nếu có vấn đề cần quyết định mà không thuộc thẩm quyền
giải quyết, Trưởng đoàn thanh tra hoặc thành viên kiến nghị người có thẩm quyền ra quyết định
giải quyết. Trưởng đoàn thanh tra có quyền ra quyết định niêm phong, tạm giữ tài liệu, chứng
từ, chứng khoán, dữ liệu điện tử. Trong thời hạn hai mươi bốn giờ, kể từ khi ra quyết định,
Trưởng Đoàn thanh tra phải báo cáo và được sự đồng ý bằng văn bản của Chánh thanh tra chứng
khoán; trong trường hợp Chánh thanh tra chứng khoán không đồng ý thì Trưởng đoàn thanh tra
phải huỷ ngay quyết định niêm phong, tạm giữ và trả lại tài liệu, chứng từ, chứng khoán, dữ
liệu điện tử đã bị niêm phong, tạm giữ. Cuộc thanh tra phải được lập biên bản thanh tra. Đối
tượng thanh tra được quyền bảo lưu ý kiến trong biên bản thanh tra. Trưởng đoàn thanh tra có
nghĩa vụ báo cáo kết quả thanh tra cho người ra quyết định thanh tra.

Kết luận thanh tra: Trên cơ sở kết quả thanh tra, người ra quyết định thanh tra có quyền:
ban hành quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị người có thẩm quyền xử lý; kiểm
tra, đôn đốc việc thực hiện quyết định xử lý về thanh tra; kết luận về nội dung thanh tra; chuyển
hồ sơ vụ việc vi phạm pháp luật sang cơ quan điều tra trong thời hạn năm ngày, kể từ ngày phát
hiện có dấu hiệu của tội phạm

Trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo kết quả thanh tra, người
ra quyết định thanh tra phải ra văn bản kết luận thanh tra. Nội dung của kết luận thanh tra bao
gồm: đánh giá việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của đối tượng thanh tra thuộc nội
dung thanh tra; kết luận về nội dung thanh tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên
nhân, trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm (nếu có); các biện pháp xử
lý theo thẩm quyền đã được áp dụng; kiến nghị các biện pháp xử lý. Kết luận thanh tra được
gửi đến Chủ tịch UBCKNN và đối tượng thanh tra; trường hợp Chủ tịch UBCKNN ra quyết
định thanh tra thì kết luận thanh tra được gửi đến Bộ trưởng Bộ Tài chính, trong thời hạn mười
lăm ngày kể từ ngày có kết luận thanh tra của Chánh Thanh tra chứng khoán, Chủ tịch
UBCKNN có trách nhiệm xem xét kết luận thanh tra; xử lý tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm
pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền
hoặc kiến nghị Bộ Tài chính áp dụng biện pháp khắc phục, hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp
luật.

3.2.5.2 Xử lý vi phạm

Hành vi vi phạm trên thị trường chứng khoán là hành vi trái pháp luật chứng khoán hoặc
quy chế quản lý thị trường chứng khoán do tổ chức tự quản ban hành. Như vậy, xử lý vi phạm
trên thị trường chứng khoán là việc cơ quan quản lý thị trường chứng khoán hoặc cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác hoặc tổ chức tự quản áp dụng các biện pháp chế tài đối với chủ thể
thực hiện hành vi vi phạm trên thị trường chứng khoán.

134
Hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán có thể là hành vi vi
phạm dân sự và/hoặc hành chính hoặc hành vi cấu thành tội phạm. Nếu hành vi vi phạm pháp
luật dân sự dẫn đến trách nhiệm dân sự thì toà án hoặc cơ quan tài phán khác sẽ có thẩm quyền
xác định trách nhiệm dân sự của chủ thể vi phạm trên cơ sở đơn yêu cầu của người bị xâm phạm
quyền. Đối với hành vi có dấu hiệu tội phạm, pháp luật một số nước cho phép cơ quan quản lý
thị trường chứng khoán tiến hành điều tra sau đó chuyển hồ sơ sang cho viện công tố truy tố.
Tuy nhiên, theo pháp luật Việt Nam, UBCKNN không có thẩm quyền điều tra tội phạm. Trong
trường hợp phát hiện hành vi có dấu hiệu tội phạm, UBCKNN chuyển hồ sơ cho cơ quan điều
tra để tiến hành các thủ tục khởi tố, điều tra theo quy định của pháp luật tố tụng hình sự.

Xử lý vi phạm pháp luật chứng khoán và thị trường chứng khoán chủ yếu là việc áp
dụng các chế tài hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật chứng khoán và thị trường chứng
khoán. Chủ thể có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm pháp luật
chứng khoán và thị trường chứng khoán chủ yếu là cơ quan quản lý thị trường chứng khoán.

Nghị định số 156/2020/NĐ-CP chia hình thức xử phạt thành hình thức xử phạt chính và
hình thức xử phạt bổ sung. Trong dó, hình thức xử phạt chính bao gồm: cảnh cáo; Phạt tiền;
Đình chỉ giao dịch chứng khoán có thời hạn từ 01 tháng đến 12 tháng; Tước quyền sử dụng
giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện, chứng chỉ hành nghề chứng khoán có
thời hạn từ 01 tháng đến 24 tháng. Hình thức xử phạt bổ sung bao gồm:

- Đình chỉ hoạt động chào mua công khai; hoạt động kinh doanh, dịch vụ chứng khoán;
hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán; hoạt động văn phòng đại diện; hoạt động
lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán; giao dịch chứng khoán hoặc các hoạt động
khác được ghi trong quyết định xử phạt trong thời hạn từ 01 tháng đến 12 tháng;
- Tước quyền sử dụng giấy chứng nhận đăng ký hoạt động văn phòng đại diện, chứng chỉ
hành nghề chứng khoán có thời hạn từ 01 tháng đến 24 tháng, trong trường hợp không
áp dụng là hình thức xử phạt chính;
- Tịch thu tang vật vi phạm hành chính, phương tiện được sử dụng để vi phạm hành chính
trong lĩnh vực chứng khoán.

Các biện pháp khắc phục hậu quả trong trường hợp vi phạm pháp luật chứng khoán và
thị trường chứng. Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm
hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và thị trường chứng khoán có thể bị áp dụng một hoặc
một số biện pháp khắc phục hậu quả sau đây:

- Buộc thu hồi chứng khoán đã chào bán, phát hành; hoàn trả cho nhà đầu tư tiền mua
chứng khoán hoặc tiền đặt cọc (nếu có) cộng thêm tiền lãi tính theo lãi suất ghi trên trái
phiếu hoặc lãi suất tiền gửi không kỳ hạn của ngân hàng mà tổ chức, cá nhân vi phạm
mở tài khoản thu tiền mua chứng khoán hoặc tiền đặt cọc tại thời điểm quyết định áp
dụng biện pháp này có hiệu lực thi hành; buộc thu hồi cổ phiếu phát hành thêm; buộc
thu hồi chứng khoán đã chào bán, phát hành trong khoảng thời gian vượt quá thời gian
quy định; buộc hoàn trả chứng khoán, tiền thuộc sở hữu của khách hàng; buộc tiếp tục
thực hiện chào bán, phát hành chứng khoán riêng lẻ theo đúng thời gian quy định;
- Buộc công bố báo cáo sử dụng vốn được kiểm toán xác nhận tại cuộc họp Đại hội đồng
cổ đông gần nhất hoặc công bố thuyết minh chi tiết việc sử dụng vốn thu được từ đợt

135
chào bán cổ phiếu riêng lẻ hoặc chào bán chứng khoán ra công chúng trong báo cáo tài
chính năm được kiểm toán xác nhận;
- Buộc báo cáo, cung cấp thông tin chính xác; buộc hủy bỏ thông tin, cải chính thông tin;
buộc giải trình, cung cấp thông tin, số liệu liên quan đến hoạt động kiểm toán;
- Buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp hoặc khoản thu trái pháp luật có được do thực hiện
hành vi vi phạm;
- Buộc chào mua công khai theo phương án đã đăng ký; buộc mua tiếp số cổ phiếu hoặc
chứng chỉ quỹ đóng còn lại sau khi thực hiện chào mua công khai; buộc từ bỏ quyền
biểu quyết trực tiếp hoặc thông qua đại diện được uỷ quyền trên số cổ phần có được từ
hành vi vi phạm;
- Buộc bán cổ phiếu hoặc vốn cổ phần hoặc phần vốn góp để giảm tỷ lệ nắm giữ theo
đúng quy định; buộc bán cổ phiếu hoặc chứng chỉ quỹ đóng để giảm tỷ lệ nắm giữ xuống
dưới mức phải chào mua công khai;
- Buộc thông qua Đại hội đồng cổ đông gần nhất hoặc Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng
thành viên hoặc Chủ tịch công ty về việc thay đổi mục đích hoặc phương án sử dụng số
tiền thu được từ đợt chào bán chứng khoán riêng lẻ hoặc chào bán chứng khoán ra công
chúng;
- Buộc nộp hồ sơ đăng ký giao dịch, niêm yết chứng khoán cho Sở giao dịch chứng khoán
Việt Nam và công ty con;
- Buộc lưu ký, quản lý tách biệt tài sản, vốn của từng nhà đầu tư ủy thác, của từng quỹ
đầu tư chứng khoán, của công ty đầu tư chứng khoán do công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoán hoặc chi nhánh công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam quản lý; buộc
quản lý tách biệt tài sản ủy thác, tài sản của quỹ đầu tư chứng khoán, của công ty đầu tư
chứng khoán và tài sản của chính công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán hoặc chi
nhánh công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam; buộc lưu ký, quản lý tách biệt tài
sản của từng quỹ đầu tư chứng khoán, của công ty đầu tư chứng khoán, của từng khách
hàng ủy thác và tài sản của ngân hàng;
- Buộc quản lý tách biệt tài khoản lưu ký, tài khoản ký quỹ là tiền và chứng khoán của
khách hàng tại Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam, thành viên lưu
ký, thành viên bù trừ với tài sản của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt
Nam, thành viên lưu ký, thành viên bù trừ; buộc mở tài khoản lưu ký, tài khoản ký quỹ
chi tiết cho từng khách hàng; buộc quản lý tách biệt tài sản, vị thế giao dịch của từng
khách hàng và của khách hàng với thành viên bù trừ;
- Buộc quản lý tách biệt tài khoản, tài sản của thành viên bù trừ với tài khoản, tài sản của
Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam; buộc quản lý tách biệt tài khoản,
tài sản của từng thành viên bù trừ; buộc quản lý tách biệt tài khoản, tài sản ký quỹ của
từng thành viên bù trừ và các khách hàng của chính thành viên bù trừ đó; buộc tách biệt
giữa tài sản ký quỹ, tiền gửi thanh toán cho giao dịch chứng khoán phái sinh và tiền gửi
thanh toán cho giao dịch chứng khoán cơ sở;
- Buộc gỡ bỏ trang thông tin điện tử, phần mềm, hệ thống giao dịch và các trang thiết bị
khác được sử dụng để thực hiện hành vi vi phạm;
- Buộc dừng thực hiện thủ tục đăng ký công ty đại chúng;
- Buộc dừng thực hiện hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng; buộc
giảm giá trị bảo lãnh phát hành chứng khoán ra công chúng theo đúng quy định.
136
Hành vi vi phạm quy chế tự quản có thể bị áp dụng các biện pháp chế tài kỷ luật thị
trường. Các biện pháp kỷ luật thị trường thường bao gồm: nhắc nhở, cảnh cáo, tạm ngừng kết
nối, tạm ngừng giao dịch, đình chỉ giao dịch, hủy niêm yết, hủy bỏ tư cách thành viên và các
biện pháp kỷ luật khác do quy chế tự quản quy định.

2.2.6 Hoạt động giải quyết tranh chấp về chứng khoán

Tranh chấp về chứng khoán và thị trường chứng khoán là những mâu thuẫn, xung đột
về quyền và lợi ích phát sinh giữa các chủ thể khi tham gia thị trường chứng khoán và được thể
hiện ra bên ngoài dưới những hình thức nhất định và cần giải quyết theo quy định của pháp luật.

Về chủ thể: là những tổ chức, cá nhân tham gia thị trường chứng khoán

Về đối tượng tranh chấp: quyền và lợi ích của các chủ thể

Về giá trị tranh chấp: tùy thuộc vào của chứng khoán và các yếu tố có liên quan.

Cơ chế giải quyết tranh chấp: Các bên có thể lựa chọn các biện pháp khác nhau để giải
quyết tranh chấp.

Thương lượng là biện pháp giải quyết tranh chấp theo đó các bên tranh chấp cùng nhau
bàn bạc, thoả thuận để giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn mà không cần có sự tham gia của
bên thứ ba.

Hòa giải là một biện pháp giải quyết tranh chấp đòi hỏi phải có sự tham gia của một bên
thứ ba, đóng vai trò làm trung gian hoà giải, để giúp các bên phân tích, nhận thức rõ vấn đề
tranh chấp, hỗ trợ, thuyết phục các bên tìm kiếm các giải pháp nhằm giải quyết các bất đồng,
mâu thuẫn.

Theo thủ tục trọng tài, thì tranh chấp về đầu tư chứng khoán sẽ được đưa ra trọng tài
giải quyết nếu giữa các bên (nhà đầu tư và chủ thể có liên quan) đã có thoả thuận trọng tài. Hội
đồng trọng tài (do Trung tâm Trọng tài tổ chức hoặc do các bên thành lập) sẽ quyết định tranh
chấp của các bên.

Tranh chấp trong quan hệ đầu tư chứng khoán có thể được Toà án giải quyết theo thủ
tục tố tụng tư pháp khi có một bên khởi kiện ra Toà, yêu cầu Toà án bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình. Toà án với tư cách là cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ ra quyết định
giải quyết tranh chấp của các bên. Bản án, quyết định của Toà án có hiệu lực pháp lý bắt buộc
đối với các bên tranh chấp, các bên phải thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự. Việc giải
quyết tranh chấp được tiến hành theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự.

CÂU HỎI ÔN TẬP

1. Mục tiêu của quản lý thị trường chứng khoán?


2. Các chủ thể quản lý thị trường chứng khoán?
3. Các biện pháp quản lý thị trường chứng khoán?
4. Phân loại quản lý thị trường chứng khoán?
5. Đặc điểm của quản lý Nhà nước đối với thị trường chứng khoán?

137

You might also like