You are on page 1of 5

công nghệ ngân hàng

XỬ LÝ RỦI RO BẰNG BIỆN PHÁP CHUYỂN VỐN VAY


NGÂN HÀNG THÀNH VỐN GÓP CỔ PHẦN -
ĐÔI ĐIỀU BÀN LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
TS. Trần Công Hoà và ThS. Đỗ Thị Trà Linh *

H
oạt động ngân hàng đó phát triển thêm những khuyến 20/08/2011 của Chính phủ); (ii)
thường gắn với một đặc nghị đối với việc quản lý vốn tín Hơn nữa, về bản chất khoanh nợ
trưng quan trọng là cho dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu và giảm lãi suất đều là như nhau:
vay (tín dụng). Trong hoạt động tín của Nhà nước trong giai đoạn hiện khoanh nợ là biện pháp mà theo
dụng, khó có thể nói rằng không nay. đó ngân hàng không tính lãi trong
có rủi ro và các ngân hàng phải áp Làm rõ thêm về xử lý rủi ro của một khoảng thời gian nhất định
dụng tối đa các biện pháp quản ngân hàng và vấn đề chuyển vốn đối với khoản nợ của khách hàng,
trị để phòng ngừa rủi ro, đồng cho vay thành vốn góp cổ phần thực chất là đó chính là biện pháp
thời phải trích lập dự phòng rủi Thông thường, khi nói đến vấn giảm lãi suất về mức 0% mà thôi.
ro để có thể bù đắp tổn thất nếu đề xử lý nợ, xử lý rủi ro tức là phải Tuy nhiên, ở các ngân hàng thương
rủi ro xảy ra. Gần đây, khi thuật xử lý các khoản nợ xấu (nợ từ nhóm mại hiện nay, ít áp dụng biện pháp
ngữ “tái cấu trúc” đã trở thành một 3 đến nhóm 5 theo quy định của này mà họ coi đó là một biện pháp
khẩu ngữ thường xuyên ở nước ta; Ngân hàng Nhà nước Việt Nam), tín dụng và thực hiện giảm lãi suất
trong quá trình tái cơ cấu nợ, xử lý thậm chí là rất xấu và có khả năng hoặc thậm chí không tính lãi (đưa
nợ của ngân hàng và tái cấu trúc mất vốn (nợ nhóm 5), và con nợ lãi suất về 0%) cho một số hoặc tất
doanh nghiệp, người ta nói nhiều của ngân hàng (doanh nghiệp) như cả các kỳ tương lai trong quá trình
đến việc chuyển vốn cho vay của thế sẽ có mức xếp hạng tín dụng trả nợ của khách hàng. Ngân hàng
ngân hàng thành vốn góp cổ phần rất thấp (gọi nôm na là khách hàng theo đó điều chỉnh lại mức dự thu
(đối với doanh nghiệp cổ phần).
xấu), thậm chí đang ở nguy cơ phá trong kế hoạch kinh doanh. Còn
Qua sự kiện Bianfishco có cổ đông
sản; khi đó các ngân hàng thường trong tín dụng đầu tư và tín dụng
mới là Ngân hàng TMCP Sài Gòn
phải chấp nhận để mất một khoản xuất khẩu của Nhà nước (triển khai
- Hà Nội (SHB) trong năm 2012,
tiền, chi phí nhất định. Đó có thể qua Ngân hàng Phát triển Việt
nhiều người coi việc chuyển vốn
là mất tiền thực biểu hiện ở các Nam), không có quan niệm về việc
cho vay của ngân hàng thành vốn
con số cụ thể về nợ gốc, nợ lãi (ví giảm lãi suất về mức 0%, nhưng
góp cổ phần là một biện pháp xử
dụ như xoá nợ); nhưng nó cũng bao có khái niệm khoanh nợ và chỉ áp
lý hữu hiệu đối với nợ của ngân
hàm ý nghĩa về sự mất mát về một dụng đối với nợ gặp rủi ro chưa có
hàng, vừa cứu ngân hàng vừa cứu
khoản thu dự tính trong tương lai (ví khả năng trả nợ (đã có tính chất là
doanh nghiệp, nhất là đối với các
dụ: khoanh nợ, không tính lãi trong nợ xấu). Đồng thời vì liên quan đến
doanh nghiệp đang chìm sâu vào
nợ nần và có nguy cơ phá sản. một khoảng thời gian nhất định; vấn đề cấp bù chênh lệch lãi suất
Thậm chí trong quá trình sửa đổi giảm lãi suất); và đương nhiên kèm và phí quản lý từ ngân sách nhà
chính sách tín dụng đầu tư và tín theo đó là sự mất mát mang tính nước nên trong bài viết này, chúng
dụng xuất khẩu của Nhà nước hiện chất chi phí cơ hội, ảnh hưởng đến tôi coi đó là một biện pháp xử lý
nay (Nghị định 75/2011/NĐ-CP), kế hoạch kinh doanh của ngân rủi ro của ngân hàng đối với hoạt
đang có quan điểm cho rằng cần hàng. Sở dĩ chúng tôi nêu cả vấn đề động tín dụng.
đẩy mạnh việc thực hiện biện khoanh nợ và giảm lãi suất ở đây Như vậy, dường như đã có
pháp này và coi nó như là biện khi bàn đến xử lý rủi ro vì để dễ so sự nhầm lẫn khi cho rằng việc
pháp xử lý rủi ro. Trong khuôn khổ sánh và: (i) về pháp lý, khoanh nợ chuyển vốn vay thành vốn góp cổ
bài viết, chúng tôi xin chia sẻ một là một biện pháp xử lý rủi ro, nhất phần là một biện pháp xử lý rủi
số bình luận về vấn đề này, qua là trong trong tín dụng đầu tư và ro. Theo chúng tôi, thông thường
tín dụng xuất khẩu của Nhà nước xử lý nợ, xử lý rủi ro chỉ bao gồm
* Ngân hàng Phát triển Việt Nam (Nghị định 75/2011/NĐ-CP ngày các biện pháp là xoá nợ (gốc, lãi)

Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012 31


công nghệ ngân hàng

hoặc khoanh nợ; còn phạm trù hàng là doanh nghiệp cổ phần).
tái cơ cấu nợ thì rộng hơn nhiều, Việc chuyển vốn cho vay thành
nó bao gồm cả việc hoán đổi tín vốn góp cổ phần thực chất chỉ
dụng (swap) hoặc bán nợ, chuyển chuyển đổi khoản tín dụng sang
vốn vay thành vốn góp cổ phần tại hình thức đầu tư tài chính, nó
doanh nghiệp cổ phần, cơ cấu nợ chính là điều chỉnh cơ cấu trong tài
(gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả sản của ngân hàng chứ chưa làm
nợ, điều chỉnh mức trả nợ trong thay đổi về chất của tài sản. Như
mỗi kỳ hạn), điều chỉnh cơ cấu vậy, theo quan điểm của chúng tôi,
tín dụng theo quy mô/ngành nghề, không thể quan niệm cho rằng đây
lĩnh vực, nhóm khách hàng…, và là một biện pháp xử lý rủi ro, bởi vì:
đương nhiên bao gồm cả xử lý rủi Nếu nó là một biện pháp xử lý rủi
ro… Riêng trong tín dụng đầu tư và ro thì sau khi áp dụng biện pháp,
tín dụng xuất khẩu của Nhà nước, tổng mức rủi ro của ngân hàng phải
hiện nay, biện pháp gia hạn nợ vẫn giảm đi. Tuy nhiên, trong trường
được coi là biện pháp xử lý rủi ro hợp này, khi khoản cho vay đã có
nhưng về bản chất lý luận và thực rủi ro xuất hiện và ngân hàng chưa
tiễn trong quá trình thực hiện, biện thu được nợ (nợ quá hạn đã xuất
pháp này đang được thực hiện một hiện kéo dài), việc chuyển vốn cho
cách rất thường xuyên và thuần tuý vay thành vốn góp cổ phần thực doanh của mình có việc cho vay
giống như ở các ngân hàng thương chất mới chỉ chuyển đổi hình thái với doanh nghiệp; vậy mà sau một
mại nên trong bài viết này, quan của rủi ro từ rủi ro tín dụng sang rủi thời gian nhất định, khoản cho
niệm nó thuộc phạm vi cơ cấu nợ. ro đầu tư tư chính mà thôi; khi đó, vay đó trở thành nợ xấu lại chuyển
Khi thực hiện xử lý rủi ro, các về phương diện thống kê, tỷ lệ rủi đổi thành khoản đầu tư tài chính
ngân hàng thường phải sử dụng ro tín dụng (ví dụ: tỷ lệ nợ xấu) của với mức độ rủi ro không giảm đi
đến quỹ dự phòng rủi ro để bù đắp; ngân hàng sẽ giảm nhưng tỷ lệ rủi (ít nhất là xét tại thời điểm chuyển
ngay cả khi thực hiện các biện ro tài chính của ngân hàng lại tăng đổi) và phải gánh thêm những
pháp kỹ thuật là chuyển từ hạch lên và tổng rủi ro của ngân hàng nghĩa vụ mới với tư cách là cổ
toán nội bảng sang hạch toán theo vì thế không đổi. Nó chỉ nên được đông của doanh nghiệp. Như thế,
dõi ngoại bảng (đối với nợ nhóm 5, xem xét như một biện pháp tái cấu nó biểu hiện một sự bất ổn định và
chưa chính thức xoá nợ, vẫn thực trúc của ngân hàng mà thôi, với tự mâu thuẫn trong chiến lược, kế
hiện thu nợ với khách hàng), các định hướng phù hợp với chiến lược hoạch kinh doanh của ngân hàng;
ngân hàng phải sử dụng quỹ dự kinh doanh và theo đuổi mục tiêu nó cũng sẽ tác động tới tổng mức
phòng rủi ro để bù đắp trong bảng giảm thiểu tối đa rủi ro, tăng độ giới hạn tài chính của ngân hàng
đối với số nợ gốc đã được chuyển an toàn và hiệu quả hoạt động của trên các phương diện: tỷ lệ cấp tín
hạch toán và không phải trích lập ngân hàng. Lúc này, tại thời điểm dụng, hệ số an toàn vốn, giới hạn
dự phòng rủi ro thêm đối với khoản chuyển thành vốn góp, nợ nần của đầu tư tài chính…
nợ này. Việc chính thức xoá nợ đối doanh nghiệp được giảm bớt và Một số lưu ý khi xem xét chuyển
với khách hàng chỉ là khâu cuối bảng cân đối tài chính “sạch” hơn. vốn cho vay thành vốn góp cổ
cùng và không còn liên quan đến Về phía ngân hàng, trước mắt cũng phần
việc sử dụng quỹ dự phòng rủi ro giảm được việc trích lập dự phòng Thứ nhất, kế hoạch kinh doanh
nữa, mặc dù vẫn còn trong phạm rủi ro đối với khoản nợ ở tình trạng của ngân hàng vẫn bị điều chỉnh,
vi xử lý rủi ro. Tuy nhiên, trong mất khả năng thanh toán. thay đổi ít nhất ở việc giảm các
nhiều trường hợp, không phải lúc Ở đây, về mặt lý luận thì xuất khoản thu lãi dự tính và cũng chưa
nào quỹ dự phòng rủi ro cũng đủ bù hiện sự mâu thuẫn mang tính thể có ngay khoản thu cổ tức từ
đắp các tổn thất khi rủi ro xảy ra, chiến lược kinh doanh của ngân khoản vốn góp mới được chuyển
đặc biệt trong cho vay đầu tư (quy hàng. Vấn đề đặt ra là một ngân đổi từ vốn cho vay. Tức là xét về
mô vốn lớn); khi đó, ngân hàng hàng, với vị thế có rất nhiều thông phương diện thu nhập, tài chính
thường phải áp dụng các biện tin tổng hợp và năng lực tài chính của ngân hàng cũng không vì thế
pháp phù hợp để xử lý rủi ro, trong rất mạnh, khả năng phân tích tài mà khá lên so với các biện pháp
đó, nhiều người cho rằng có biện chính rất cao so với các doanh xử lý rủi ro khác (ví dụ: so với biện
pháp chuyển vốn cho vay thành nghiệp thông thường, đã xác định pháp xoá nợ: yêu cầu tuyên bố
vốn góp cổ phần (đối với khách trong chiến lược, kế hoạch kinh phá sản doanh nghiệp, phát mại

32 Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012


công nghệ ngân hàng

hướng của thị trường không tốt, cổ


phiếu của doanh nghiệp bị tiếp tục
xuống giá thì ngay trong ngắn hạn,
ngân hàng sẽ phải tăng thêm một
khoản chi phí dự phòng tổn thất
đầu tư tài chính; như thế sẽ ảnh
hưởng tới kết quả hoạt động kinh
doanh nói chung của ngân hàng.
Thực tế là đặt ra việc chuyển đổi
vốn cho vay thành vốn góp ở một
khách hàng đang rất xấu và vẫn
trong chiều hướng xấu đi sẽ chẳng
khác nào ngân hàng tự nhận thêm
rủi ro vào mình, chỉ có điều làm
nó đến chậm hơn mà thôi. Kỳ
vọng của ngân hàng về việc cổ
Bianfishco có cổ đông mới là Ngân hàng TMCP Sài Gòn Hà Nội (SHB)
phiếu sẽ tăng giá bên cạnh việc
trong năm 2012
phụ thuộc vào các yếu tố của môi
trường hoạt động (như: tình hình
tài sản bảo đảm tiền vay, phần nợ dụng và tăng các hỗ trợ khác cho kinh tế vĩ mô, chiều hướng phát
còn lại thực hiện xoá nợ). Do đó, doanh nghiệp đó, làm tăng mức độ triển của ngành mà doanh nghiệp
khi xem xét việc chuyển vốn cho tập trung tín dụng tại khách hàng đang kinh doanh…) sẽ còn phụ
vay thành vốn góp cổ phần phải “đã có vấn đề” (đã có nợ xấu, thậm thuộc vào khả năng của doanh
được đặt trong tổng thể chiến lược, chí rất xấu), tức là tăng nguy cơ rủi nghiệp, xin nêu tại điểm thứ tư
kế hoạch kinh doanh của ngân ro (xét về phương diện lý thuyết là dưới đây.
hàng trong từng thời kỳ (có điều như vậy). Do đó, song song với việc Thứ tư, ngân hàng là cổ đông và
chỉnh phù hợp) chứ không phải là điều chỉnh chiến lược, kế hoạch phải hỗ trợ doanh nghiệp nhiều
thực hiện tuỳ tiện, khi có nợ xấu kinh doanh chung của mình, ngân hơn, đóng vai trò là nhà tư vấn
là chuyển ngay thành vốn góp tại hàng cần có phương án cụ thể ứng nhiều hơn, thậm chí tham gia
doanh nghiệp. phó với các kịch bản thay đổi khi điều hành doanh nghiệp trong
Thứ hai, bản chất và mức độ rủi rủi ro xảy ra trước khi quyết định thời kỳ khó khăn. Song song với
ro của khoản vốn của ngân hàng chuyển vốn cho vay thành vốn góp nó là phải tìm kiếm đối tác chiến
nằm tại doanh nghiệp chưa thể cổ phần tại doanh nghiệp. lược thay thế (vì ngân hàng tham
thay đổi ngay khi chuyển vốn cho Thứ ba, khi xem xét chuyển vốn gia cổ đông có thể chỉ trong thời
vay thành vốn góp cổ phần tại cho vay thành vốn góp cổ phần, gian nhất định và sẽ thoái vốn)
doanh nghiệp; ngân hàng cũng một vấn đề đặc biệt quan trọng là nhằm cơ cấu lại tổ chức bộ máy
chưa thể thu hồi vốn ngay, thậm mức giá để xác định chuyển đổi. điều hành, tái cấu trúc doanh
chí sẽ còn phải tốn thêm chi phí Trường hợp có thể xác định được nghiệp. Trong trường hợp vốn góp
và thời gian đối với khoản này để mức giá chuyển đổi theo giá thị cổ phần của ngân hàng có quyền
thực hiện tốt vai trò là một cổ đông trường thì rất dễ cho nhà quản trị biểu quyết không đủ mạnh, ngân
tại doanh nghiệp. Doanh nghiệp ngân hàng tính toán để quyết định hàng cho dù có khả năng tài chính
là một khách hàng của ngân hàng phương án chuyển đổi, nhưng điều mạnh và trình độ phân tích, tư vấn
nhưng trong trường hợp này, ngân quan trọng sẽ không chỉ dừng ở tài chính doanh nghiệp rất tốt sẽ
hàng cũng chính là một cổ đông mức giá ấy mà ngân hàng cần nhìn khó có thể tạo ra áp lực cần thiết
tại doanh nghiệp này. Do đó, ngân nhận xu hướng giá của thị trường; để thay đổi về quản trị, nâng cao
hàng sẽ có khuynh hướng ưu ái đó là xu hướng giá cổ phiếu của chất lượng điều hành và tổ chức
khách hàng này hơn các khách lĩnh vực/ngành mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, điều chỉnh
hàng khác (mặc dù Ngân hàng hoạt động, nó bị tác động bởi bối chiến lược, kế hoạch kinh doanh
Nhà nước có quy định hạn chế cảnh kinh tế vĩ mô (ví dụ: có khủng của doanh nghiệp. Khi đó, nếu
phù hợp mức độ cấp tín dụng đối hoảng kinh tế hay không?), chiều doanh nghiệp (đang ngập trong nợ
với các doanh nghiệp thuộc diện hướng phát triển ngành mà doanh nần, hoạt động đình trệ, nguy cơ
này), trong đó không tránh khỏi nghiệp đó hoạt động… Sở dĩ phải phá sản) vẫn do những người chủ
việc ngân hàng sẽ “bơm” thêm tín đề cập đến vấn đề này vì nếu xu cũ nắm giữ chi phối và không tạo

Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012 33


công nghệ ngân hàng

được những thay đổi căn bản cần cho rằng SHB đã chuyển vốn vay hàng phải cân nhắc rất kỹ lưỡng
thiết như nêu trên thì kỳ vọng của thành vốn góp cổ phần, đó là một trước khi quyết định, thậm chí nó
ngân hàng về việc thu hồi đủ vốn biện pháp xử lý rủi ro hữu hiệu cần còn khó hơn cả việc quyết định
nhờ cổ phiếu tăng giá trong tương được tính đến. Thực tế không phải cấp tín dụng. Một logic dễ hiểu
lai sẽ trở thành ảo vọng. Đấy là như vậy. SHB (sau khi đã hợp nhất là ngân hàng đã sai lầm khi quyết
chưa nói đến chuyện ngân hàng dù với Habubank) cho đến trước khi định cho vay đối với doanh nghiệp,
có thế mạnh về tài chính, nhưng trở thành cổ đông chính thức chỉ nay doanh nghiệp đó lâm vào
cơ bản là chỉ mạnh trong lĩnh vực có dư nợ (của Habubank đã cho tình trạng nợ nần chồng chất và
kinh doanh tiền tệ, chứ không giỏi vay) chưa đầy 64 tỷ đồng. Số dư nợ thậm chí có nguy cơ phá sản (tức
trong các lĩnh vực sản xuất kinh này hoàn toàn không đủ để chuyển là ngân hàng đã đánh giá không
doanh khác; nguy cơ sai lầm khi thành số cổ phần chiếm tới 50% đúng, không xác thực về dự án, kế
các chuyên gia ngân hàng vào thực vốn điều lệ của Bianfishco như hoạch sản xuất kinh doanh cũng
hiện quản trị sản xuất kinh doanh hiện nay. Thực tế là SHB đã nhận như năng lực của doanh nghiệp),
ở các lĩnh vực khác là luôn thường lại 25 triệu cổ phiếu mà Bianfishco ngân hàng lại chuyển hoá vốn vay
trực. Đối với các khoản nợ càng đã thế chấp từ các chủ nợ khác và thành vốn góp cổ phần thì hầu như
lớn thì việc thực hiện biện pháp bảo lãnh thanh toán cho các chủ không khác gì dấn sâu hơn vào sai
chuyển vốn vay thành vốn góp sẽ nợ này, sau đó mới chuyển số cổ lầm đang có. Thay vì là chủ nợ có
khiến ngân hàng gặp càng nhiều phiếu này sang tên cổ đông mới bảo đảm bằng tài sản (khi cho vay,
thách thức với tư cách là một cổ là SHB, tương ứng với 50% vốn ngân hàng luôn yêu cầu có tài sản
đông lớn hoặc cổ đông của doanh điều lệ. Đây hoàn toàn là một bài đảm bảo tiền vay), nay nếu ngân
nghiệp có hoạt động quy mô lớn và toán khác trong vấn đề tái cấu trúc hàng tự tước bỏ các bảo đảm đó,
phức tạp, yêu cầu cao về kỹ thuật doanh nghiệp. Nói một cách khác tự từ bỏ vị trí chủ nợ và gần như
ngành nghề; khi đó vấn đề năng là chiến lược thôn tính một cách rất (chỉ là gần như thôi) đứng vào vị
lực của ngân hàng để tham gia tái khôn ngoan và đúng luật của SHB trí con nợ; nếu doanh nghiệp phải
cơ cấu, giám sát và quản trị doanh (làm được vấn đề thứ tư và thứ năm phá sản (ví dụ: các chủ nợ khác
nghiệp là không đơn giản. nêu trên), chứ không phải chỉ đơn yêu cầu doanh nghiệp phá sản) thì
Thứ năm, cần lưu ý rằng doanh thuần là việc xử lý rủi ro bằng biện ngân hàng coi như sẽ mất trắng số
nghiệp khi đó đang rất nguy ngập pháp chuyển vốn cho vay thành tiền đã cho vay đã được chuyển
về tài chính và nợ nần của doanh vốn góp cổ phần trong đó. thành vốn góp.
nghiệp chắc chắn không chỉ ở một Công bằng mà nói, việc chuyển Như vậy, nếu ngân hàng chỉ đặt
ngân hàng, thực tế sẽ có nhiều chủ vốn vay thành vốn góp cũng có ý vấn đề đơn thuần xử lý rủi ro (tức
nợ và trong số đó, cũng có nhiều nghĩa tích cực nhưng nó sẽ chỉ có là xử lý nợ xấu) bằng biện pháp
ngân hàng. Khi một ngân hàng hiệu quả với điều kiện là phải giải chuyển nợ vay thành vốn góp cổ
chuyển vốn cho vay của mình quyết được 5 vấn đề lưu ý nêu trên, phần tại doanh nghiệp (chuyển nợ
thành vốn góp cổ phần thì nợ của khi đó ngân hàng sẽ có thêm cơ xấu thành vốn góp cổ phần) thì hầu
doanh nghiệp tại các chủ nợ khác hội để thu hồi đối với các khoản như không giải quyết được gì cả,
vẫn còn nguyên. Ngân hàng khi nợ khó đòi. Về phương diện báo rủi ro không được xử lý và thậm chí
đó để bảo toàn vốn góp của mình cáo tài chính, ngay tại thời điểm có nguy cơ mất vốn. Cần thiết phải
phải đứng ra “làm việc” với tất cả chuyển đổi, nợ xấu của ngân hàng đặt nó trong phương án tổng thể về
các chủ nợ khác, để đảm bảo rằng sẽ giảm đi, nợ phải trả và hệ số nợ tái cấu trúc doanh nghiệp và khả
doanh nghiệp không phá sản; đồng của doanh nghiệp cũng giảm; cả năng tham gia nhiều mặt của ngân
thời phải huy động thêm vốn để ngân hàng và doanh nghiệp đều hàng đối với doanh nghiệp trong
doanh nghiệp hoạt động trở lại. Tất cải thiện được báo cáo tài chính tương lai thì mới có thể có quyết
cả những vấn đề đó là một chặng đẹp hơn, cho dù bản chất và khả định phù hợp; phải cân nhắc kỹ
đường gian nan không dễ vượt qua. năng thu hồi vốn của ngân hàng là nhiều mặt, chứ không phải cứ có
Nên hay không nên: chuyển nợ không thay đổi. thể là chuyển ngay vốn vay thành
xấu thành vốn góp cổ phần Tuy nhiên, các phân tích trên vốn góp cổ phần tại doanh nghiệp.
Qua sự kiện SHB tiếp quản cho thấy, vấn đề thực hiện xử lý rủi Chúng tôi cho rằng, trên cơ sở
BianfishCo, doanh nghiệp có vốn ro (tức là xử lý nợ xấu) bằng biện cân nhắc tính khả thi và cân nhắc
điều lệ 500 tỷ đồng, tổng tài sản pháp chuyển nợ vay thành vốn góp kỹ các yếu tố nhiều mặt, trước khi
gần 2.000 tỷ đồng trong năm cổ phần tại doanh nghiệp (nói cách xem xét việc chuyển nợ xấu thành
2012, rất nhiều cán bộ của ngân khác là chuyển nợ xấu thành vốn vốn góp cổ phần, ngân hàng cần
hàng, thậm chí cán bộ lãnh đạo, góp cổ phần) là vấn đề mà ngân so sánh hiệu quả thu hồi vốn giữa

34 Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012


công nghệ ngân hàng

2 phương án: (i) Phương án 1: xiết Hai là, Ngân hàng Phát triển Việt thường có mức giá trị không cao
nợ, xử lý tài sản đảm bảo và yêu Nam (cơ quan triển khai tín dụng so với số vốn cho vay nên khi đó,
cầu tuyên bố phá sản; (ii) Phương đầu tư và tín dụng xuất khẩu của ngân hàng này vừa đứng tư cách là
án 2: chuyển nợ thành vốn góp và Nhà nước) hoàn toàn không phải chủ nợ, vừa có tư cách là cổ đông,
dự tính thời gian thu hồi vốn với là ngân hàng thương mại, phạm
có điều kiện tốt hơn trong việc thu
mức giá dự kiến thoái vốn. Chiết vi hoạt động tập trung vào cho vay
hồi nợ vay, góp phần bảo toàn vốn
khấu dòng tiền về cùng một mốc đầu tư và cho vay xuất khẩu (trong
thời gian ở cả 2 phương án này rồi đó cho vay đầu tư là chủ yếu, đặc tín dụng của Nhà nước. Dù không
mới quyết định lựa chọn phương án trưng kinh điển của hoạt động ngân phản đối việc chuyển tài sản đảm
và thực hiện; trong quá trình xây hàng phát triển đã được minh chứng bảo tiền vay thành vốn góp tại
dựng, phân tích hai phương án cần ở nhiều nước), nên hầu như không doanh nghiệp, chúng tôi vẫn lưu ý
lưu ý 5 vấn đề rất quan trọng tại thể hỗ trợ thêm được cho doanh rằng cần kể cả thực hiện biện pháp
điểm 2 nêu trên; yếu tố thành công nghiệp như các ngân hàng thương này (chứ không phải chuyển toàn
trong việc tái cơ cấu nợ phải đi kèm mại trong trường hợp chuyển vốn bộ vốn vay thành vốn góp) thì vẫn
với tái cấu trúc doanh nghiệp với cho vay thành vốn góp. Do đó, khả phải quán triệt và tính toán kỹ theo
chiến lược phát triển kinh doanh năng của Ngân hàng Phát triển
5 nhóm vấn đề đã lưu ý tại điểm 2
phù hợp. Việt Nam trong việc giải quyết 5
Một số khuyến nghị đối với tín nêu trên với mục tiêu cao nhất là
vấn đề lưu ý như tại điểm 2 nêu
dụng đầu tư và tín dụng xuất khẩu trên là hầu như không có. Nên nếu an toàn - hiệu quả của ngân hàng.
của Nhà nước thực hiện biện pháp chuyển vốn Tóm lại, xử lý rủi ro là vấn đề
Hiện nay, Chính phủ đã có chủ vay thành vốn góp cổ phần thì rủi ngân hàng luôn phải đối mặt trong
trương sửa đổi chính sách tín dụng ro đối với ngân hàng sẽ tăng lên và hoạt động kinh doanh, đặc biệt là
đầu tư và tín dụng xuất khẩu của Nhà rủi ro cao hơn so với việc thực hiện xử lý rủi ro tín dụng. Tuy nhiên,
nước; trong quá trình đó, có quan phương án 1 (xiết nợ, xử lý tài sản vấn đề xử lý rủi ro cần được cân
điểm cho rằng cần bổ sung hình đảm bảo và yêu cầu tuyên bố phá nhắc trong tổng thể chiến lược kinh
thức xử lý rủi ro là chuyển vốn vay sản). Mặt khác, hoạt động đó nếu
doanh của ngân hàng, trong đó có
thành vốn góp. Về vấn đề này chúng không được kiểm soát chặt chẽ sẽ
vấn đề tái cơ cấu tài sản của ngân
tôi xin khuyến nghị như sau: dẫn tới xa rời mục tiêu hoạt động,
Trước hết, không nên coi biện xa rời bản chất đặc trưng của một hàng. Việc chuyển vốn cho vay
pháp chuyển vốn vay thành vốn ngân hàng phát triển. Trường hợp thành vốn góp tại doanh nghiệp
góp cổ phần là một biện pháp xử lý bổ sung chức năng hoạt động cho cổ phần là một biện pháp rất đáng
rủi ro. Chúng tôi hoàn toàn không Ngân hàng Phát triển Việt Nam để xem xét khi thực hiện tái cơ cấu tài
tán đồng với quan điểm bổ sung giải quyết được 5 vấn đề lưu ý nêu sản nhưng nó không phải là biện
biện pháp này và coi nó như một trên thì Ngân hàng Phát triển Việt pháp xử lý rủi ro và không nên quy
hình thức xử lý rủi ro trong chính Nam sẽ trở thành một ngân hàng định nó vào trong chính sách của
sách tín dụng đầu tư và tín dụng thương mại chứ không phải là ngân
nhà nước như một biện pháp xử lý
xuất khẩu của nhà nước; ngay ở hàng phát triển nữa.
rủi ro. Bên cạnh đó, biện pháp này
phương diện lý luận thì quan điểm Ba là, trong một số trường hợp
đó cũng chưa thật phù hợp, cụ thể nhất định, chỉ nên cho phép cơ dường như không thật sự thích hợp
là: khi thực hiện biện pháp này, quan này thực hiện chuyển tài sản đối với mô hình hoạt động của ngân
tổng rủi ro của ngân hàng là không đảm bảo tiền vay thành vốn góp tại hàng phát triển (cơ quan triển khai
đổi mà nó chỉ chuyển hoá từ rủi ro doanh nghiệp và cũng ở một chừng chính sách tín dụng đầu tư và tín
tín dụng sang rủi ro đầu tư tài chính mực nhất định với các chỉ tiêu kiểm dụng xuất khẩu của nhà nước) bởi
mà thôi, thậm chí là rủi ro đầu tư tài soát chặt chẽ và giám sát kịp thời. liên quan đến những đặc trưng cơ
chính khi đó (nợ đã rất xấu, doanh Thực hiện biện pháp này trong một bản của loại hình ngân hàng này.
nghiệp có nguy cơ phá sản) còn lớn số trường hợp sẽ khắc phục được Dù thế nào, đây cũng là một biện
hơn; nó chỉ đơn thuần là việc điều nhược điểm thanh khoản rất thấp
pháp ẩn chứa nhiều rủi ro và đòi
chỉnh cơ cấu tài sản Nợ của ngân của tài sản bảo đảm, ngân hàng khi
hỏi năng lực, trách nhiệm rất cao từ
hàng chứ không phải là xử lý rủi ro, cần thiết sẽ dễ bán chứng khoán
bản chất và kết quả cuối cùng là rủi này hơn so với một số loại tài sản phía ngân hàng mà các ngân hàng
ro của ngân hàng vẫn không được bảo đảm. Do đặc trưng của tài sản phải cân nhắc kỹ lưỡng nhiều mặt
xử lý thì không nên coi đó là biện đảm bảo trong tín dụng đầu tư và trước khi quyết định nhằm đảm
pháp xử lý rủi ro. tín dụng xuất khẩu của nhà nước bảo hoạt động an toàn - hiệu quả.

Tạp chí ngân hàng | Số 24 | tháng 12/2012 35

You might also like