You are on page 1of 326

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


-------o0o-------

PHẠM ĐỨC ANH

THIẾT CHẾ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM


THẾ KỶ XV - XVIII

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2007
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------o0o-------

PHẠM ĐỨC ANH

THIẾT CHẾ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM


THẾ KỶ XV - XVIII

CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM


MÃ SỐ: 60.22.54

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH VŨ MINH GIANG

HÀ NỘI - 2007
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
3. Mục đích nghiên cứu 8
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 9
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 10
6. Đóng góp của luận văn 11
7. Bố cục luận văn 12

Chƣơng 1 MÔ HÌNH “TẬP QUYỀN QUAN LIÊU” THỜI LÊ SƠ (1428 - 1527) 13


1.1 Quá trình thiết lập mô hình nhà nƣớc Lê Sơ 13
1.2 Tổ chức và hoạt động của chính quyền trung ƣơng thời Lê Sơ 20
1.2.1 Hoàng đế và quyền hạn của Hoàng đế 20
1.2.2 Tổ chức bộ máy hành chính 22
1.2.2.1 Các cơ quan giúp việc Hoàng đế 22
1.2.2.2 Lục bộ và Lục tự 26
1.2.2.3 Các cơ quan chuyên môn 32
1.2.3 Tổ chức quân đội 34
1.2.3.1 Về cơ cấu tổ chức 34
1.2.3.2 Về cơ cấu chuyên môn 40
1.2.4 Các cơ quan giám sát và tư pháp 41
1.2.4.1 Hệ thống thanh tra, giám sát 41
1.2.4.2 Các cơ quan xử án và việc tƣ pháp 47
1.2.5 Chế độ quan chức 51
1.2.5.1 Chế độ tuyển chọn quan lại 51
1.2.5.2 Chế độ bổ dụng quan lại 56
1.2.5.3 Chế độ đãi ngộ quan lại 63
1.2.5.4 Những quy định xử phạt quan lại phạm pháp 66
1.3 Sự suy yếu và sụp đổ của mô hình Lê Sơ 67
Tiểu kết 71

1
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Chƣơng 2 CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ THỜI MẠC (1527 - 1592) 73
2.1 Quá trình hình thành và kiện toàn tổ chức chính quyền Mạc 73
2.2 Hoạt động của chính quyền trung ƣơng 75
2.2.1 Các vua Mạc và chế độ Thượng hoàng 75
2.2.2 Các cơ quan hành chính và đội ngũ quan chức ở trung ương 77
2.2.2.1 Phụ chính và các văn phòng giúp việc Hoàng đế 77
2.2.2.2 Lục bộ và Lục tự 85
2.2.2.3 Các cơ quan chuyên môn 89
2.2.3 Tổ chức quân đội 89
2.2.4 Hệ thống các cơ quan giám sát và tư pháp 92
2.2.4.1 Các cơ quan giám sát 92
2.2.4.2 Các cơ quan và việc tƣ pháp 95
2.2.5 Chế độ quan chức 96
2.3 Sự sụp đổ của chế độ chính trị thời Mạc 105
Tiểu kết 108

Chƣơng 3 THIẾT CHẾ “LƢỠNG ĐẦU” THỜI LÊ - TRỊNH (1599 - 1786) 111
3.1 Sự xuất hiện của thiết chế “Lƣỡng đầu” 111
3.2 Chính quyền trung ƣơng thời vua Lê chúa Trịnh 112
3.2.1 Vua Lê và chúa Trịnh 112
3.2.1.1 Vai trò của vua Lê 112
3.2.1.2 Quyền của chúa Trịnh 113
3.2.2 Chức năng và hoạt động của các cơ quan hành chính 115
3.2.2.1 Triều đình và Phủ đƣờng 115
3.2.2.2 Các văn thƣ phòng 119
3.2.2.3 Lục Bộ và Lục Phiên 122
3.2.2.4 Các cơ quan chuyên môn 133
3.2.3 Quân đội thời Lê - Trịnh 133
3.2.4 Hệ thống các cơ quan giám sát và tư pháp 141
3.2.4.1 Các cơ quan giám sát 141
3.2.4.2 Các cơ quan tƣ pháp 144
3.2.4.3 Quá trình cải biến, hoàn thiện hệ thống luật pháp và các cơ quan tƣ pháp 145

2
3.2.5 Chế độ quan chức 151
3.2.5.1 Các chức quan thời Lê - Trịnh 151
3.2.5.2 Chế độ tuyển chọn 152
3.2.5.3 Chế độ bổ dụng 158
3.2.5.4 Chế độ đãi ngộ 163
3.3 Sự sụp đổ của thiết chế “Lƣỡng đầu” 165
Tiểu kết 168
KẾT LUẬN 171

TÀI LIỆU THAM KHẢO 176


PHỤ LỤC 187
Phụ lục 1: Sơ đồ Tổ chức bộ máy hành chính các triều Lê Sơ, Mạc, Lê - Trịnh 188
Phụ lục 2: Danh sách các chức quan ở triều đình trung ƣơng thế kỷ XV-XVIII 191
Phụ lục 3: Biên niên về tổ chức và hoạt động của Lục bộ thế kỷ XV-XVIII 269
Phụ lục 4: Quá trình thăng giáng của một số quan chức thế kỷ XV-XVIII 293

3
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chính quyền - Nhà nƣớc là bộ phận cốt yếu nhất của thƣợng tầng kiến trúc,
luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự vận động và phát triển của xã hội.
Lịch sử đã chứng thực rằng, sự hƣng thịnh hay suy vong của một quốc gia, một dân
tộc đƣợc tri phối mạnh mẽ bởi thiết chế chính trị, quyền lực nhà nƣớc. Chính vì thế,
các vấn đề về nhà nƣớc và pháp luật từ lâu đã là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học khác nhau nhƣ Sử học, Chính trị học, Luật học, Triết học…
Qua gần năm trăm năm hình thành và phát triển, thể chế quân chủ tập quyền
đạt bƣớc cực thịnh dƣới thời Lê Sơ thế kỷ XV, đƣa Đại Việt trở thành quốc gia
hùng mạnh nhất khu vực Đông Nam Á. Trong số những nguyên nhân tạo nên thành
công đó, sức mạnh của thiết chế chính trị đƣợc tạo bởi sự hoạt động có hiệu quả của
bộ máy quản lý nhà nƣớc và một hệ thống pháp luật hoàn bị là nhân tố quan trọng
hàng đầu. Bƣớc sang thế kỷ XVI, thời đại hoàng kim qua đi, song dấu ấn và tầm
ảnh hƣởng của nó vẫn thể hiện đậm nét dƣới triều Mạc và Lê Trung hƣng, đến tận
thế kỷ XVIII. Nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về thiết chế chính trị Việt
Nam giai đoạn này sẽ giúp lý giải nhiều vấn đề về lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội
đất nƣớc.
Cho đến nay, những nghiên cứu của giới học giả trong và ngoài nƣớc về các
vấn đề nhà nƣớc, pháp luật, tổ chức chính quyền, thiết chế chính trị Việt Nam trong
lịch sử nói chung, giai đoạn XV-XVIII nói riêng đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng
ghi nhận. Song tuy nhiên, nhiều vấn đề vẫn chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu đúng
mức, nhiều câu hỏi chƣa có lời giải thoả đáng, và nhất là những nghiên cứu theo
hƣớng tiếp cận toàn diện, hệ thống chƣa mấy đƣợc thực hiện.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc đang đặt ra yêu cầu bức
thiết về việc đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy hành chính. Làm thế nào
để đổi mới và hoàn thiện thể chế xuất phát từ đặc điểm dân tộc là một vấn đề khoa
học có tính thực tiễn cao. Bởi lẽ ấy, những nghiên cứu, đánh giá một cách đúng đắn,
khách quan khoa học về các thiết chế chính trị trong lịch sử để thấy rõ đặc trƣng,
khuynh hƣớng phát triển và rút ra những bài học kinh nghiệm cho hiện tại là việc
làm vô cùng cần thiết.
Với những ý nghĩa trên đây, tác giả quyết định chọn “Thiết chế chính trị
Việt Nam thế kỷ XV-XVIII” làm đề tài luận văn của mình.

4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ lâu, thiết chế chính trị Việt Nam trong lịch sử nói chung, giai đoạn XV-
XVIII nói riêng đã thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên cứu của đông đảo giới học giả
trong, ngoài nƣớc với những phạm vi, mức độ và hƣớng tiếp cận khác nhau.

Ngay thời trung đại, một số các công trình khảo cứu về mặt này hay mặt
khác của thiết chế chính trị Việt Nam trong lịch sử đã xuất hiện. Đáng lƣu ý nhất
trong số đó phải kể đến ba tác phẩm: Kiến văn tiểu lục, Lịch triều hiến chương loại
chí và Sử học bị khảo.

Kiến văn tiểu lục đƣợc Lê Quý Đôn biên soạn và hoàn thành vào nửa sau thế
kỷ XVIII. Trong phần lớn quyển 2 (Thể lệ thƣợng) và quyển 3 (Thể lệ hạ) tác giả đã
tập trung trình bày về diễn biến của tổ chức bộ máy nhà nƣớc và chế độ quan lại ở
nƣớc ta từ thế kỷ XI đến thời ông đang sống. Điểm nổi bật trong nghiên cứu này là
tác giả không chỉ dừng lại ở việc khảo tả cấu trúc bộ máy quan lại mà đã kê cứu
tƣờng tận, đối chiếu với hệ thống quan chức Trung Hoa, qua đó chỉ rõ nguồn gốc
ban đầu của các chức cũng nhƣ những khác biệt về tên gọi, chức năng của một số
chức danh giữa quan chế hai nƣớc.

Lịch triều hiến chương loại chí đƣợc coi là bộ bách khoa thƣ đồ sộ do Phan
Huy Chú biên soạn vào đầu thế kỷ XIX. Trong số 10 loại chí, chỉ trừ Dƣ địa chí và
Văn tịch chí, còn lại đều liên quan trực tiếp đến lịch sử thiết chế chính trị Việt Nam
từ khởi nguồn đến trƣớc khi triều Nguyễn thành lập. Đây là một công trình nghiên
cứu công phu, kê cứu tƣờng tận và đƣợc sắp xếp khoa học, hệ thống.

Sử học bị khảo đƣợc Đặng Xuân Bảng biên soạn vào nửa cuối thế kỷ XIX.
Phần cuối của công trình này (quyển 4 - Quan chế khảo) đƣợc tác giả dành để khảo
cứu về sự thay đổi quan chế các triều, từ thời Hùng Vƣơng đến Nguyễn. Nội dung
tác phẩm đƣợc trình bày một cách sơ lƣợc, ngắn gọn và súc tích.

Dƣới thời Pháp thuộc, các công trình nghiên cứu về lịch sử thiết chế chính trị
Việt Nam, nhất là trong giai đoạn XV-XVIII xuất hiện không nhiều và chủ yếu là
của các học giả ngƣời Pháp. Đáng kể nhất trong số này phải kể đến La Justice dans
l’ancien Annam của P.Deloustan. Trong tác phẩm, tác giả đã đi sâu nghiên cứu hệ
thống pháp luật Việt Nam thời trung đại và qua đó ông là ngƣời đầu tiên chỉ ra
những tính chất độc đáo của luật pháp thời Lê.

5
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhƣng những nghiên cứu của giới
sử học Việt Nam hiện đại về thiết chế chính trị Việt Nam nói chung, giai đoạn XV-
XVIII nói riêng chỉ thực sự xuất hiện sau khi hoà bình đƣợc lập lại năm 1954.

Trong số những nghiên cứu nổi tiếng của các học giả miền Nam trƣớc 1975
có thể kể đến nhƣ: Tổ chức chính quyền trung ương dưới thời Lê Thánh Tông (1460
- 1497) [1963] và Văn hoá chính trị Việt Nam - Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ
XVII-XVIII [1974] của Lê Kim Ngân; Les Institutions du Vietnam au XVIIIè siècle
(Những thể chế của Việt Nam thế kỷ XVIII) [Paris, 1969] của Đặng Phƣơng Nghi;
Pháp chế sử Việt Nam [1974] của Vũ Quốc Thông; Cổ luật Việt Nam thông khảo
[1972]; Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử [1973], Pháp luật thông khảo [1974] của
Vũ Văn Mẫu…
Cùng giai đoạn này, ở miền Bắc đáng kể nhất có Sơ thảo lịch sử Nhà nước và
pháp quyền Việt Nam [1968] của tác giả Đinh Gia Trinh.

Sau khi hai miền thống nhất, trƣớc yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và đổi mới toàn diện đất nƣớc, những nghiên cứu về lịch sử nhà nƣớc và
pháp luật Việt Nam nói chung ngày càng thu hút đƣợc sự quan tâm của giới sử học
trong nƣớc, đặc biệt là từ đầu những năm 1990 lại đây. Những vấn đề lịch sử cụ thể,
thiết chế chính trị qua từng giai đoạn hoặc xuyên suốt các thời kỳ đều đƣợc tập
trung nghiên cứu ở những mức độ khác nhau. Đối với giai đoạn XV-XVIII, có thể
chia những nghiên cứu trên theo các khoảng thời gian mà chúng đề cập:
Về thiết chế chính trị thời Lê Sơ có thể kể đến Trƣơng Hữu Quýnh: Công
cuộc cải tổ và xây dựng Nhà nước pháp quyền thời Lê Thánh Tông [1992] và Suy
nghĩ về cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông [1997]; Trần Thị Tuyết
[1994]: Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương thời kỳ Lê Sơ (thế kỷ XV) qua các
văn bản pháp luật; Đặng Kim Ngọc [1998]: Vấn đề tuyển dụng quan chức thời Lê
sơ (1428-1527); Nguyễn Danh Phiệt [2003]: Thời Lê sơ vào buổi suy tàn - Bi kịch
và hệ quả…

Xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, trong đó chủ yếu là khan hiếm nguồn tài
liệu nên những nghiên cứu về lịch sử nhà Mạc nói chung có phần khiêm tốn hơn so
với các triều đại khác. Những vấn đề về thiết chế thời Mạc chủ yếu đƣợc đề cập
trong các tác phẩm: Vương triều Mạc (1527-1592) [1996] của Viện Sử học; Thiết
chế Nhà nước thời Mạc [1991], Thể chế chính trị ở Việt Nam cuối thế kỷ XV đầu thế
kỷ XVI và những hoạt động chính trị của Mạc Đăng Dung tiến tới thành lập vương

6
triều Mạc [1995]; Chế độ quân chủ thời Mạc (1527-1592) và thể chế chính trị
đương thời [1995] của tác giả Trần Thị Vinh; Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn
bia [2001] của Đinh Khắc Thuân; Việt Nam thời Mạc - Cuộc chiến không khoan
nhượng giữa hai tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh và Mạc [2004] của Nguyễn Danh
Phiệt.
Về thời Lê Trung hƣng, các nghiên cứu gồm: Nguyễn Văn Động [1994]: Tổ
chức bộ máy nhà nước ở trung ương thời vua Lê chúa Trịnh (1599-1788); Trần Thị
Vinh: Thể chế chính quyền Nhà nước Lê - Trịnh: Sản phẩm đặc biệt của lịch sử Việt
Nam thế kỷ XVII-XVIII [2004] và Phương thức tuyển dụng quan lại cho bộ máy
chính quyền nhà nước ở thế kỷ XVII-XVIII [2006]; Nguyễn Đức Nhuệ: Tìm hiểu tổ
chức Phiên trong bộ máy nhà nước thời Lê Trung hưng [1997] và Một số nét về
khoa cử và thể lệ bổ dụng quan lại thời Lê Trung Hưng [2006]; Nguyễn Văn Kim
[2003]: Về cơ chế hai chính quyền cùng song song tồn tại trong lịch sử Việt Nam và
Nhật Bản…

Xuyên suốt các giai đoạn lịch sử trên là những nguyên cứu của các tác giả
Vũ Minh Giang: Lịch sử và hiện trạng hệ thống chính trị nước ta - một số vấn đề
khoa học đang đặt ra [1993], Những hệ luận rút ra từ những đặc trưng của lịch sử
hệ thống chính trị Việt Nam [1993], Pháp luật với xã hội Việt Nam từ thế kỷ XV đến
thế kỷ XVIII [1994], Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XV-XVII [1999]; Đặc
điểm của các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp trong lịch sử trung đại Việt
Nam [2000]…; Trƣơng Hữu Quýnh [1995]: Lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt
Nam. Ngoài ra còn phải kể đến hai cuốn giáo trình về Lịch sử nhà nước và pháp
luật Việt Nam của Vũ Thị Phụng [1990] và của Khoa Luật, Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội [1998].

Do tầm quan trọng của vấn đề, lịch sử và những đặc trƣng của thiết chế
chính trị thời kỳ trung đại luôn đƣợc quan tâm nghiên cứu trong các chƣơng trình
Nhà nƣớc phục vụ cho nhiệm vụ đổi mới hệ thống chính trị. Có thể kể đến đề tài
Lịch sử và hiện trạng hệ thống chính trị Việt Nam thuộc Chƣơng trình KX.05
(1993-1995) và Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống
chính trị trước thời kỳ Đổi mới thuộc Chƣơng trình KX.10 (2005-2006) đều do Giáo
sƣ Vũ Minh Giang chủ trì.

Trong số những ngƣời nƣớc ngoài nghiên cứu về thiết chế chính trị, xã hội
Việt Nam giai đoạn XV-XVIII đáng lƣu ý hơn cả là hai vị học giả J.K.Whitmore

7
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
(ngƣời Mỹ) và Insun Yu (ngƣời Hàn Quốc). Năm 1968, J.K.Whitmore công bố The
Development of Le Government in Fifteenth Century Vietnam (Sự phát triển của
Chính quyền Lê ở Việt Nam thế kỷ XV) tại Đại học Cornell, Mỹ. Năm 1990, Insun
Yu cho xuất bản Law and Society in Seventeenth and Eighteenth Century Vietnam
(Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII) bằng tiếng Anh tại Seoul. Bốn năm sau
(1994), tác phẩm này đƣợc dịch ra tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam. Bên cạnh
đó, đầu năm 2006 tác giả Insun Yu còn công bố Sự thành lập triều Lê và sự xác lập
lý luận Nho giáo từ ý niệm Phật giáo đến ý niệm Nho giáo trên Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử.

Ngoài ra, với những mức độ và phạm vi khác nhau, các nội dung liên quan
đến thiết chế chính trị Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ XV đến XVIII còn đƣợc
đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác, gồm các sách chuyên khảo, kỷ yếu
hội thảo, bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành (Nghiên cứu lịch sử, Tổ chức nhà
nước, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Xưa và Nay…) của các tác giả:
Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Hải Kế…

Lƣợc qua những nghiên cứu trên đây để thấy rằng các nội dung liên quan đến
tổ chức bộ máy nhà nƣớc, hệ thống pháp luật, thể chế chính trị - xã hội Việt Nam
trong giai đoạn XV-XVIII không còn là vấn đề mới mẻ. Những thành tựu đạt đƣợc
đến nay là hết sức đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến giờ chƣa có công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống thiết chế chính trị Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XVIII theo hƣớng vừa nghiên cứu sâu từng mô hình, vừa tìm ra mối liên hệ giữa
các giai đoạn phát triển của cả thời kỳ. Luận văn này hi vọng sẽ góp phần lấp
khoảng trống trong nhận thức khoa học với mục đích chỉ rõ những đặc trƣng ở mỗi
giai đoạn nhất định, đồng thời phát hiện các đặc trƣng xuyên suốt, những xu hƣớng
vận động, biến đổi và nguyên nhân dẫn tới sự biến đổi của thiết chế chính trị thời kỳ
này.

3. Mục đích nghiên cứu


Trên cơ sở các nguồn tƣ liệu lịch sử, các kết quả nghiên cứu có trƣớc, luận
văn tái hiện một cách khách quan, chân thực quá trình hình thành, phát triển và suy
vong của các mô hình thiết chế chính trị ở Việt Nam từ thế kỷ XV-XVIII.

Ở mỗi giai đoạn nhất định, tác giả sẽ tập trung làm rõ những nguyên nhân,
điều kiện dẫn đến sự xuất hiện và sự hoàn thiện của mô hình; đặc tả về cấu trúc

8
chính trị, tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền, hệ thống pháp luật; cũng
nhƣ chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu và sụp đổ của mô hình.

Những nội dung trên luôn đƣợc phân tích trong các mối quan hệ tƣơng tác
đồng đại và lịch đại, trong sự nhìn nhận tổng hợp các vấn đề. Qua đó tìm ra những
đặc trƣng nổi trội, những mặt tích cực và cả những hạn chế của từng thiết chế chính
trị - xã hội, góp phần chỉ ra những đặc trƣng xuyên suốt, những khuynh hƣớng vận
động của thiết chế chính trị trong thời kỳ đƣợc nghiên cứu.

Từ những bài học, kinh nghiệm lịch sử tác giả luận văn hi vọng đề xuất một
số giải pháp, khuyến nghị góp phần vào công cuộc cải cách toàn diện hệ thống
chính trị của đất nƣớc hiện nay.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu


Từ góc độ của khoa học lịch sử, luận văn lấy thiết chế chính trị Việt Nam
trong giai đoạn từ thế kỷ XV đến XVIII làm đối tƣợng nghiên cứu. Xuất phát từ
quan điểm coi quyền lực nhà nƣớc luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong thiết chế
chính trị, phần lớn nội dung luận văn đƣợc dành để phân tích cơ cấu tổ chức và hoạt
động của bộ máy chính quyền nhà nƣớc. Tuy nhiên, tổ chức nhà nƣớc ở đây không
phải là một cấu trúc cứng nhắc mà luôn hoạt động trong một hệ thống với tổng hoà
các quan hệ. Nghĩa là, nó đƣợc nghiên cứu trong các mối quan hệ nội tại và với các
yếu tố có tác động quan lại với nó. Chính quyền nhà nƣớc, cùng với bệ đỡ tƣ tƣởng,
nền tảng kinh tế - xã hội, các chuẩn mực chính trị và ứng xử chính trị là những nội
dung không thể tách rời.

Do khuôn khổ hạn chế của một luận văn thạc sĩ, nghiên cứu của chúng tôi
tập trung chủ yếu vào giai đoạn lịch sử gần bốn thế kỷ, từ năm 1428 đến 1786,
tƣơng ứng với ba triều đại, ba mô hình tổ chức nhà nƣớc: Lê Sơ (1428-1527), Mạc
(1527-1592) và Lê - Trịnh (1592-1786). Nhƣ vậy, về phạm vi không gian nó tƣơng
ứng với quốc gia Đại Việt thời Lê Sơ, lãnh thổ Bắc triều thời Mạc và Đàng Ngoài
thời Trịnh - Nguyễn. Ở mỗi tổ chức nhà nƣớc, chúng tôi tập trung nghiên cứu vào
bộ máy chính quyền và đội ngũ quan lại ở trung ƣơng, các cấp địa phƣơng đƣợc đề
cập trong mức độ cần thiết. Trong thời kỳ này, trên lãnh thổ nƣớc ta còn tồn tại thiết
chế chính trị của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây là một nội dung lớn và rất
phức tạp nên tác giả chƣa thể đề cập tới trong luận văn này.

9
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Các nguồn tài liệu
Có thể chia tƣ liệu đƣợc sử dụng trong luận văn thành các nhóm sau:

- Các bộ sử biên niên là những tƣ liệu ghi chép về các sự kiện, nhân vật lịch
sử theo diễn trình thời gian. Hầu hết những bộ chính sử lớn nhƣ: Đại Việt sử ký toàn
thư, Đại Việt sử ký tục biên, Đại Việt thông sử, Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, Lịch triều tạp kỷ, Việt sử cương mục tiết yếu, Lê quý kỷ sự, Lê quý dật
sử… đều đƣợc khai thác phục vụ cho luận văn. Đây là nguồn tƣ liệu quý vì thời gian
ghi chép gần với thời gian diễn ra các sự kiện.

- Các bộ hội điển, điển chế, văn bản pháp luật cổ là những tƣ liệu hết sức
quan trọng cung cấp những thông tin trực tiếp cho nội dung nghiên cứu. Các sách
thuộc loại này gồm: Quốc triều hình luật, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức thiện
chính thư, Lê triều chiếu lệnh thiện chính, Lê triều quan chế, Lê triều cựu điển, Lê
triều hội điển…

- Các sách chuyên khảo và sách thể “chí” là những công trình kê cứu hết sức
công phu, tỷ mỷ của các tác giả thời xƣa. Trực tiếp liên quan đến nội dung nghiên
cứu có các sách: Kiến văn tiểu lục, Lịch triều hiến chương loại chí, Sử học bị khảo.

- Các tác phẩm văn học sử đƣợc viết theo lối tùy bút, ký nhƣ: Vũ trung tuỳ
bút của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống
chí của Ngô gia văn phái... là những tƣ liệu quý giá, bổ sung cần thiết cho nguồn tƣ
liệu chính thống.

- Luận văn cũng khai thác và sử dụng nguồn tƣ liệu văn bia (chủ yếu đƣợc
công bố bởi Đinh Khắc Thuân), tra cứu các sách từ điển về quan chức của Việt
Nam và Trung Quốc nhƣ: Từ điển chức quan Việt Nam của Bùi Thiết, Trung Quốc
lịch đại quan chế (bản chữ Hán), Từ điển Lịch sử chế độ chính trị Trung Quốc (bản
dịch Nxb. Trẻ, 2006)…, các sách tra cứu về khoa cử và các chức quan (Các nhà
khoa bảng Việt Nam 1070-1919 của Ngô Đức Thọ)…

- Bên cạnh thƣ tịch cổ trong nƣớc, nguồn tƣ liệu đƣơng thời còn bao gồm các
tập du ký của ngƣời nƣớc ngoài, nhất là của các tác giả Tây phƣơng từng đến Đại
Việt trong các thế kỷ XVII, XVIII. Có thể kể đến nhƣ: A.Rhodes với Lịch sử Vương
quốc Đàng Ngoài, Hành trình và truyền giáo, J.B.Tavernier: Tập du ký mới và kỳ
thú về vương quốc Đàng Ngoài, W.Dampier: Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài

10
năm 1688, C.B.Maybon: Thương điếm Anh ở Đông Kinh thế kỷ XVII (1672-1697)
và Người châu Âu ở An Nam... Đây là những ghi chép khách quan, khoa học và hết
sức sinh động của các giáo sĩ và thƣơng nhân phƣơng Tây về lịch sử, văn hoá, xã
hội Đàng Ngoài nói chung, trong đó có các vấn đề về tổ chức chính quyền, đội ngũ
quan lại, quân đội, pháp luật…
- Ngoài ra, luận văn còn kế thừa những kết quả nghiên cứu từ trƣớc đến nay
của các tác giả trong và ngoài nƣớc, đƣợc công dƣới dạng các sách chuyên khảo, kỷ
yếu hội thảo, các bài đăng tạp chí khoa học chuyên ngành và các luận án, luận văn,
khoá luận tốt nghiệp.

5.2. Phương pháp nghiên cứu


Với nội dung, mục đích, yêu cầu đặt ra, luận văn chủ yếu sử dụng các
phƣơng pháp truyền thống của khoa học lịch sử. Thu thập, phân tích và tổng hợp tài
liệu là những bƣớc tiến hành quan trọng nhất, qua đó, các nguồn tài liệu đƣợc tập
hợp, phân loại, kiểm chứng, so sánh, phân tích và nghiên cứu tổng hợp. Từ tƣ liệu,
lịch sử đƣợc tái tạo, song nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả đơn thuần, mà
nó đƣợc khái quát hoá trong phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp tổng hợp và
nghiên cứu so sánh nhằm làm nổi bật những đặc trƣng cần chỉ rõ. Phƣơng pháp lịch
sử, phƣơng pháp lôgic cũng đƣợc sử dụng nhằm nhìn nhận, kiến giải, đánh giá các
sự kiện, hiện tƣợng trong chiều sâu lịch sử và mang tính thuyết phục cao.

Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp phân tích định lƣợng đối với số
liệu đám đông nhằm chỉ ra khuynh hƣớng vận động của các hiện tƣợng hoặc sự
kiện.

6. Đóng góp của luận văn


Đóng góp của luận văn sẽ bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây: Thứ nhất,
hệ thống hoá các tƣ liệu và những kết quả nghiên cứu từ trƣớc đến nay. Thứ hai, chỉ
ra quá trình vận động và biến đổi của thiết chế chính trị Việt Nam từ thế kỷ XV đến
XVIII. Thứ ba, lý giải các nguyên nhân của sự biến đổi ấy. Ngoài ra, thông qua tập
hợp từ các nguồn sử liệu, luận văn đã kê cứu các chức quan cùng danh sách cụ thể
của hơn 2.500 nhân vật từng giữ các chức ấy qua các triều Lê Sơ, Mạc và Lê Trung
hƣng. Trên cơ đó, luận văn mong muốn góp phần đƣa ra một cái nhìn toàn cảnh và
hệ thống về thiết chế chính trị ở Việt Nam trong thời kỳ thịnh đạt nhất, song cũng
không ít những biến động về chính trị, xã hội.

11
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục nội dung chính của luận văn đƣợc
trình bày trong ba chƣơng, tƣơng ứng với ba thời kỳ lịch sử, ba mô hình tổ chức nhà
nƣớc:

Chƣơng 1: Mô hình “Tập quyền quan liêu” thời Lê Sơ (1428-1527)

Chƣơng 2: Chế độ chính trị thời Mạc (1527-1592)

Chƣơng 3: Thiết chế “lƣỡng đầu” thời Lê - Trịnh (1599-1786)


*
* *
Để hoàn thành bản luận văn này, tôi đã nhận đƣợc sự chỉ bảo, giúp đỡ hết
sức tận tình và quý báu của các thầy trong Bộ môn Lịch sử Việt Nam cổ trung đại,
Khoa Lịch sử, mà trƣớc hết là từ thầy giáo hƣớng dẫn. Nhân đây em xin đƣợc bày
tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới các thầy, đặc biệt là GS.TSKH Vũ Minh
Giang.

Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp Khoa
Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
đã luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi.

Dù đã rất cố gắng, song chắc chắn bản luận văn sẽ không trách khỏi những
hạn chế, thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo, đóng góp của quý thầy cô cùng bạn bè
đồng nghiệp.

Hà Nội, tháng 5 năm 2007

Tác giả

Phạm Đức Anh

12
CHƢƠNG 1
MÔ HÌNH “TẬP QUYỀN QUAN LIÊU” THỜI LÊ SƠ (1428 - 1527)

Thiết chế chính trị thời Lê Sơ là một thiết chế tập quyền dựa trên một bộ máy
quyền lực (các cơ quan và chức quan) hoàn bị với một hệ thống giúp việc (liêu
thuộc) chuyên nghiệp. Để phân biệt với các thiết chế trƣớc và sau đó, chúng tôi sử
dụng khái niệm “Tập quyền quan liêu”1 để nói về mô hình này.
1.1. Quá trình thiết lập mô hình nhà nƣớc Lê Sơ
Đại Việt nửa cuối thế kỷ XIV lâm vào cuộc khủng hoảng trên mọi phƣơng
diện kinh tế, chính trị, xã hội, kết thúc bằng sự sụp đổ của thiết chế “Tập quyền thân
dân” thời Lý - Trần. Trong chính sử về giai đoạn này có không ít những sự kiện cụ
thể phản ánh cuộc khủng hoảng này. Nông dân mất mùa, đói kém, giặc giã nổi lên
khắp nơi. Bên ngoài, quan hệ với nhà Minh xấu đi nhanh chóng. Những nƣớc vốn
thần phục Đại Việt nhƣ Ai Lao, Chiêm Thành liên tiếp đem quân quấy phá. Nhiều
lần quân Chiêm tấn công vào tận Thăng Long mà các vua Trần chỉ biết rút chạy.
Trong triều chính sự rối loạn, chỉ trong vòng hơn nửa thế kỷ có tới bảy lần thay vua.
Thậm chí, một kẻ ngoại tộc nhƣ Dƣơng Nhật Lễ cũng đƣợc đƣa lên ngôi… Triều
Trần hầu nhƣ bất lực trong việc kiểm soát tình hình đất nƣớc. Sử gia Phan Phu Tiên
từng nhận xét: “Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm phóng túng, lại thêm
Chiêm Thành xâm lƣợc, quấy rối, thì giặc cƣớp rất nhiều..., pháp luật không thể
ngăn cấm đƣợc” [23,184].
Tình trạng suy thoái kinh tế, những biến loạn chính trị - xã hội cuối thời Trần
có căn nguyên trong chính mô hình của nhà nƣớc đó.
Mô hình tổ chức nhà nƣớc thời Trần đƣợc dựng đặt từ thời Lý, là một thiết
chế tập quyền dựa trên sự liên kết giữa triều đình trung ƣơng do vua đứng đầu cùng
với tầng lớp quý tộc có điền trang, thái ấp riêng. Trong thiết chế này, những chức vụ
chủ chốt ở triều đình trung ƣơng cũng nhƣ ngoài các địa phƣơng đều do quý tộc
nắm giữ [91,4].
Yếu tố cốt lõi tạo nên sự gắn kết và duy trì nền thống nhất quốc gia giúp cho
mô hình đó tồn tại là mối quan hệ hoà đồng giữa làng và nƣớc, mà ruộng đất công
làng xã chính là bệ đỡ kinh tế cho các quan hệ đó. Mô hình này có chỗ dựa tinh thần

1
Cách gọi các mô hình “Tập quyền quan liêu”, “Tập quyền thân dân” và “Tập quyền chuyên chế”
đƣợc GS Vũ Minh Giang lần đầu tiên đƣa ra trong Đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc “Lịch sử và hiện
trạng hệ thống chính trị nƣớc ta” (1993-1995), Mã số KX.05.03.

13
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
là ý thức tự tôn, lòng tự hào dân tộc của cả cộng đồng Việt sau hơn nghìn năm
chống Bắc thuộc, lại tiếp tục đƣợc củng cố và phát triển qua những cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm suốt các thế kỷ XI-XIII. Bầu không khí hoà đồng còn đƣợc
tƣ tƣởng Phật giáo tôn thêm vẻ linh thiêng, hoá thân trong chính sách cai trị “thân
dân” của các vị vua triều Lý và đầu nhà Trần.
Trong quá trình phát triển, những tác động qua lại giữa các yếu tố của mô
hình và sự xuất hiện của những nhân tố mới dần dần làm biến đổi toàn hệ thống. Sự
phát triển của ruộng đất tƣ hữu là một quá trình tự nhiên. Chính sách ruộng đất của
nhà Trần trong giai đoạn đầu đã giúp cho sở hữu tƣ có điều kiện vƣơn lên phát triển
mạnh mẽ. Điều đáng nói là, sự phát triển của ruộng đất tƣ hữu không chỉ là phần
mở rộng trên những vùng đất mới khai phá mà còn bao gồm cả quá trình tƣ hữu hoá
công điền, khiến cho bộ phận ruộng đất này ngày càng bị thu hẹp. Cùng với quá
trình đó, sở hữu phong kiến ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ ruộng
đất, trong khi sở hữu làng xã ngày càng mất dần vai trò làm bệ đỡ kinh tế cho chính
quyền trung ƣơng và chịu sự chi phối của các thế lực phong kiến địa phƣơng [57,3-
5]. Vào nửa sau thế kỷ XIV, tình hình này đã dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng.
Lúc này, vai trò kinh tế cũng nhƣ thế lực chính trị của tầng lớp đại quý tộc đã
thực sự lớn mạnh. Những vƣơng hầu, quý tộc nhà Trần là chủ những thái ấp, điền
trang rộng lớn, có phủ đệ riêng của mình, “chỉ khi chầu hầu mới đến kinh sƣ, xong
việc lại về”. Điền trang, thái ấp trở thành nơi sử dụng rất nhiều gia nô, thậm chí có
cả quân đội riêng. Khi kinh tế điền trang phát triển thì các quý tộc có xu hƣớng
củng cố và mở rộng các cơ sở kinh tế tƣ nhân của mình. Xu hƣớng ly tâm, cát cứ
trỗi dậy. Lợi ích của các phong kiến tƣ nhân và chính quyền trung ƣơng bắt đầu
xung đột. Rõ ràng, đây không chỉ là một cuộc khủng hoảng triều đại mang tính nhất
thời, mà đó là cuộc khủng hoảng của cả mô hình kinh tế - xã hội và một thiết chế
chính trị tƣơng ứng trong sự phát triển của chế độ quân chủ Việt Nam.
Nhận thấy dấu hiệu của cuộc khủng hoảng, chính quyền trung ƣơng đã thi
hành một số biện pháp nhất định song không cứu vãn nổi tình hình. Từ cuối thế kỷ
XIII, chính quyền nhà Trần đã từng bƣớc tăng cƣờng bộ máy quan liêu, đề cao Nho
học và dần đƣa Nho sĩ nắm giữ các chức vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền.
Năm 1267, triều đình có lệnh “chọn dùng Nho sinh hay chữ sung vào quán, các,
sảnh, viện”, mở đầu cho thời kỳ giới Nho sĩ tham giữ quyền bính [23,36]. Từ đó
cho đến hết thế kỷ XIV, trong đội ngũ quan lại đã có sự thay đổi đáng kể về nhân
sự. Những quý tộc, nhất là quý tộc tôn thất thƣa vắng dần trong bộ máy chính
quyền, thay vào đó là tầng lớp quan liêu Nho sĩ… Tuy nhiên, biện pháp trên đây chỉ

14
mang tính chất nhất thời và không giải quyết đƣợc triệt để các mâu thuẫn đang ngày
càng trở nên sâu sắc. Dù những thay đổi này chƣa làm biến đổi căn bản tính chất
của thiết chế tổ chức nhà nƣớc, nhƣng dù sao đó cũng là bƣớc chuẩn bị cần thiết cho
việc xây dựng thiết chế tập quyền ở Việt Nam trong những giai đoạn sau.
Khi Hồ Quý Ly nổi lên nhƣ một nhân vật có quyền lực cao nhất trên chính
trƣờng thì nhu cầu cần phải có một cuộc cải cách toàn diện đã trở nên vô cùng bức
thiết. Lịch sử đã đặt lên vai Hồ Quý Ly và sau đó là vƣơng triều Hồ hai nhiệm vụ
cần tiến hành cùng lúc: củng cố, tăng cƣờng chế độ quân chủ tập quyền và giải
quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội do cuộc khủng hoảng đặt ra. Để khắc phục tình
trạng rối loạn chính trị, Hồ Quý Ly thiết lập một vƣơng triều mới. Triều Hồ thành
lập cũng đồng thời loại bỏ vị trí chính trị của tầng lớp quý tộc Trần và chuyển dần
sang mô hình nhà nƣớc mới. Nhà Hồ đẩy mạnh giáo dục, khoa cử Nho học, tăng
cƣờng công tác tuyển chọn và sử dụng đội ngũ quan liêu mới. Ngay khi lên ngôi,
Hồ Quý Ly đã tổ chức thi Thái học sinh, lấy đỗ 20 ngƣời bổ dụng các chức khác
nhau. Năm 1404, nhà Hồ định lại thể lệ thi Hƣơng, thi Hội, quy định ba năm mở
một khoa thi, năm trƣớc thi Hƣơng năm sau thi Hội. Việc học ở các lộ, phủ, châu
cũng đƣợc chấn chỉnh, cùng với việc ban hành chế độ học quan và học điền. Một
đội ngũ đông đảo những ngƣời thuộc tầng lớp quan liêu mới đƣợc bổ sung cho bộ
máy chính quyền từ trung ƣơng đến các địa phƣơng. Pháp luật nhà nƣớc đƣợc kiện
toàn, đƣờng lối pháp trị ngày càng đƣợc đẩy mạnh.
Về các mặt kinh tế - xã hội, những chính sách cải cách cụ thể của nhà Hồ chủ
yếu nhằm hạn chế vai trò của tầng lớp quý tộc, duy trì sự tồn tại của chế độ tƣ hữu
ruộng đất trong giới hạn cho phép, đồng thời không ngừng tăng cƣờng vai trò kinh
tế nhà nƣớc. Chính sách hạn danh điền (năm 1397), hạn nô (1401) một mặt chấp
nhận về mặt pháp lý đối với sự tồn tại của những chủ tƣ hữu với mức dƣới 10 mẫu
ruộng, đồng thời góp phần củng cố tiềm lực kinh tế nhà nƣớc thông qua việc sung
công một số lƣợng không nhỏ ruộng đất và nô tỳ vốn thuộc các địa chủ, nhƣng đồng
thời cũng đánh mạnh vào tầng lớp đại quý tộc điền trang. Thêm vào đó, chính sách
phát hành tiền giấy (1396), đánh thuế thuyền buôn (1400), thuế ruộng đất (1402),
thuế đinh nam (1402), thống nhất các đơn vị đo lƣờng (1403)… đã tăng nguồn thu
nhập cho ngân sách quốc gia, phần nào đấy thể hiện sự quan tâm của nhà nƣớc đối
với lợi ích của một bộ phận dân nghèo không có hoặc có ít ruộng đất.
Dù còn chƣa hoàn toàn thống nhất khi đánh giá về các chính sách của Hồ
Quý Ly, nhƣng các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng Hồ Quý Ly là một nhà cải
cách táo bạo và kiên quyết hiếm có trong lịch sử trung đại Việt Nam. Cải cách của

15
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
ông đã kết thúc giai đoạn tồn tại của mô hình kinh tế - xã hội cũ, với phƣơng thức
cai trị theo lối “thân dân”, chuyển sang hình thức cai trị mang dáng dấp của mô hình
“Tập quyền quan liêu”. Trong bối cảnh Đại Việt lúc bấy giờ, việc xây dựng mô hình
mới là một đòi hỏi khách quan, đáp ứng những yêu cầu phát triển nội tại của đất
nƣớc. Tiếc rằng, mô hình nhà nƣớc do Hồ Quý Ly xây dựng chƣa thể xác lập đƣợc
một cơ sở tồn tại vững chắc và do đó chƣa thể phát huy vai trò của mình thì bị gián
đoạn bởi cuộc xâm lƣợc của nhà Minh. Tuy vậy, những tƣ tƣởng cải cách của Hồ
Quý Ly cũng nhƣ khuynh hƣớng tập quyền và quan liêu của ông đã đƣợc triều Lê
Sơ hiện thực hoá.
Giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Minh, thiết lập vƣơng triều
mới trong ánh hào quang của cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, triều Lê Sơ có mọi
điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển mô hình nhà nƣớc theo hƣớng tập quyền
quan liêu.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều Lê. Bên cạnh những chính
sách kinh tế, xã hội nhằm khôi phục đất nƣớc sau những năm tháng chiến tranh, Lê
Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào thiết lập một bộ máy chính quyền mới. Về cơ bản,
tổ chức nhà nƣớc đầu thời Lê Sơ không khác mấy so với giai đoạn cuối Trần và thời
Hồ, nhƣng đội ngũ quan lại giữ những cƣơng vị chủ chốt không còn là những quý
tộc vƣơng thất mà thay vào đó là những tƣớng lĩnh có công trong sự nghiệp bình
Ngô, một bộ phận những trí thức Nho học và một số quan lại đã từng phục vụ triều
Hồ. Để bổ sung cho đội ngũ quan lại, các vị vua đầu triều Lê chủ yếu sử dụng
phƣơng thức tập ấm, tiến cử và phần nào là khoa cử. Nho giáo đƣợc đề cao và dần
trở thành hệ tƣ tƣởng chính thống của nhà nƣớc.
Sau khi vua Thái Tổ qua đời năm 1433 có nhiều dấu hiệu cho thấy tình hình
chính trị, xã hội nhà Lê ngày càng bất ổn. Những vị vua kế nhiệm nhƣ Thái Tông,
Nhân Tông lên ngôi khi còn nhỏ tuổi (Thái Tông 10 tuổi, Nhân Tông 2 tuổi). Quyền
lực thực tế nằm trong tay các đại thần xuất thân võ tƣớng mà có nhà sử học nƣớc
ngoài gọi là nhóm “thiểu số chính trị gốc Thanh Hoá” [80]. Sự biến cung đình diễn
ra liên tiếp. Hàng loạt những “đại thần khai quốc” nhƣ Nguyễn Trãi, Lƣu Nhân
Chú, Lê Sát, Lê Ngân, Trịnh Khả… bị sát hại. Số những quan lại thanh liêm và có
trình độ không nhiều. Tình trạng quan lại đục khoét tài sản nhà nƣớc, sách nhiễu
nhân dân ngày càng phổ biến. Để mô tả khái quát tình hình triều chính rối ren và sự
bê bối của đội ngũ quan lại trong những thập niên 30 đến 50 của thế kỷ XV các sử
gia thời Lê dẫn bài Quang Thuận Trung hưng ký bình luận rằng: “Nhân Tông mới
lên hai tuổi đã sớm nối ngôi vua, Thái hậu Nguyễn Thị là gà mái gáy sớm, Đô đốc

16
Lê Khuyển nhƣ thỏ khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn
thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham, khoác lác hoành hành khắp cõi, kẻ thân yêu
nắm quyền vị, nạn hối lộ đƣợc công khai. Việc văn giáo lặng lẽ nhƣ băng hàn,
ngƣời hiền từ phải bó cánh. Bậc túc nho nhƣ Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì đẩy
vào chỗ nhàn, phƣờng dốt đặc ồn ào nhƣ ong đàn nổi dậy, nhƣ chó chuột nhe răng.
Tể thần nhƣ Lê Sủng, Lê Sát thì ngu si không phân biệt sáu loại súc vật, Chƣởng
binh Lê Điên, Lê Luyện, thì mù tịt, chẳng sao hiểu đƣợc bốn mùa một năm. Bậc
lƣơng thần nhƣ Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa mà giết đi, ngƣời tài sĩ nhƣ
Nguyễn Mộng Tuân thì đẩy vào vòng tai hoạ. Oan uổng không chỉ kêu xin, mọi
việc thảy đều đổ nát. Văn giai nhƣ Công Soạn tuổi gần tám mƣơi, tể thần nhƣ Lê Ê
không biết một chữ. Bọn trẻ không biết nghĩ, làm bậy ngông cuồng, ngƣời già
chẳng chết đi, trở thành mối hoạ. Bán quan mua kiện, ƣa giàu ghét nghèo. Hiền tài
là rƣờng cột của triều đình mà sạch không nhƣ quét đất. Văn chƣơng là khí vận của
nhà nƣớc mà im ắng tựa cỏ khô. Bọn xiểm nịnh đƣợc tin dùng, kẻ đao bút đƣợc tiến
cử…”[23,384-85].
Đã không ít lần, nhà vua ban chiếu răn các quan lại phải giữ khuôn phép,
chấn chỉnh lề lối làm việc, song hiệu quả mang lại không đáng kể. Liên tiếp trong
các năm 1443, 1445, 1449…, những lần xảy ra thiên tai, hạn hán, mất mùa, nhà
vua1 chỉ còn biết than trách tự hỏi: “Có phải do trẫm không biết dốc lòng thành kính
để đƣợc hƣởng lộc trời…, không biết ban ân huệ cho khắp muôn dân…, không biết
sử dụng nhân tài, những loại đƣợc dùng đều là loại hèn kém mà đến nỗi thể chăng?
Có phải do nạn hối lộ công khai, tệ phi tần lộng hành…, các đại thần giúp việc chƣa
trọn đạo, tƣớng soái phiên thần không biết yêu thƣơng quân dân, quen thói đục
khoét…, hay là quan hình ngục không giữ công bằng, chỉ lo xử nặng, kẻ nào đút lót
thì tha, để oán khí bốc lên mà đến nỗi thế chăng?... …” [23,370].
Thực tế trên đây trở thành gánh nặng đặt lên vai ngƣời kế nhiệm và triều đại
của ông - vua Lê Thánh Tông. Hơn lúc nào hết, việc củng cố quyền lực của ngƣời
đứng đầu nhà nƣớc, tăng cƣờng sức mạnh và sự trong sạch của đội ngũ quan lại,
xây dựng và hoàn thiện thống pháp luật trở thành một yêu cầu bức thiết. Đó cũng
chính là mục tiêu và nội dung của công cuộc cải tổ chính trị thời Lê Thánh Tông.
Nhƣ vậy, có thể nói mô hình nhà nƣớc “Tập quyền quan liêu” đã đƣợc manh
nha vào cuối thời Trần - Hồ, bắt đầu có hình hài rõ nét ngay từ thời các vua Lê đầu
tiên, nhƣng phải đến Lê Thánh Tông mới thực sự hoàn thiện. Có thể coi lệnh “Hiệu

1
Thực tế vua Nhân Tông lúc này còn nhỏ tuổi. Quyền nhiếp chính thuộc về Thái hậu Nguyễn Thị
Anh và Thái uý Trịnh Khả.

17
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
định quan chế” ban hành năm 1471 nhƣ một cái mốc đánh dấu sự hoàn thiện của
mô hình nhà nƣớc Lê Sơ. Đến lúc này, cơ sở kinh tế - xã hội, nền tảng cho sự tồn tại
của mô hình ấy cũng đã đƣợc xác lập vững chắc trên cơ sở sự cân bằng giữa sở hữu
ruộng đất công, nông dân làng xã với sở hữu tƣ nhân của tầng lớp địa chủ. Cũng
vào thời điểm này, nhà nƣớc đã hoàn toàn khẳng định quyền sở hữu tối cao của
mình đối với toàn bộ ruộng đất trong cả nƣớc.
Với chế độ lộc điền, nhà nƣớc một mặt vẫn thể hiện đƣợc chính sách trọng
đãi công thần, nhƣng mặt khác với cơ chế ban cấp của nó đã hạn chế đến mức tối đa
sự phát triển của chế độ sở hữu lớn về ruộng đất và sự xuất hiện của những quý tộc
đại địa chủ, làm triệt tiêu nguy cơ cát cứ, phân quyền.
Với chế độ quân điền, lần đầu tiên nhà nƣớc đã có thể can thiệp trực tiếp vào
bộ phận ruộng đất công làng xã, song tuy nhiên nhà nƣớc vẫn tôn trọng tính tự trị và
tự quản của làng xã trong một số nguyên tắc nhất định. Xét ở góc độ này, khi nhà
nƣớc tìm ra phƣơng thức xử lý tối ƣu trong việc giải quyết mối quan hệ giữa yêu
cầu tập trung quyền lực với phát triển kinh tế chính đã tạo nên nhân tố thành công
của mô hình.
Khi nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nƣớc Lê Sơ, đã từng có nhiều ý kiến
cho rằng đó là sự mô phỏng từ quan chế triều Minh.
Đặng Xuân Bảng trong Sử học bị khảo khi xét về quan chế triều Lê đã khẳng
định chắc chắn rằng: “Quan chế đời Lê hoàn toàn mô phỏng nhà Minh” [1,535].
Các tác giả sách Việt sử thông giám cương mục có chung quan điểm, nhƣng đặc biệt
nhấn mạnh ở cấu trúc nhà nƣớc thời Lê Thánh Tông. Khi chép về sự kiện vua Lê
Thái Tông ban chiếu năm 1435 yêu cầu các quan đại thần cử ngƣời giữ chức
Chuyển vận và Trấn thủ các lộ, trấn các sử gia triều Nguyễn đã dẫn theo sách Lê sử
lược đàm mà chua rằng: “(Lê) Thái Tổ cắt đặt quan chức phần nhiều noi theo phép
cũ của nhà Trần và nhà Hồ, lại dùng xen kẽ cả điển lệ nhà Minh” [25,840]. Còn về
quan chế triều Lê Thánh Tông phần nào đã đƣợc phản ánh qua câu chuyện xảy ra
năm 1485, sau khi giết Thái tử Thiếu bảo Trần Phong, vua Lê Thánh Tông đã dụ
quan Lại bộ Thƣợng thƣ Nguyễn Nhƣ Đổ rằng: “Trần Phong lúc trƣớc làm bầy tôi
cũ Lệ Đức Hầu (tức Nghi Dân), nay hắn thờ trẫm, nhƣng vẫn chứa đựng cái lòng
không hết đạo làm tôi, hắn thƣờng phỉ báng trẫm là sắp xếp quan hiệu theo chế độ
nhà Minh, mà không theo thông chế của quốc triều, hắn thật là một bầy tôi bạn
nghịch” [25,1170-71].
Quan điểm trên sau này đã đƣợc sự đồng tình của một số sử gia hiện đại. Tác
giả Trƣơng Hữu Quýnh trong bài Công cuộc cải tổ và xây dựng nhà nước pháp

18
quyền thời kỳ Lê Thánh Tông đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6/1992 đã nêu
quan điểm: “Chúng ta thƣờng phê phán việc mô phỏng cách tổ chức chính quyền
của nhà Minh mà Lê Thánh Tông đã làm. Điều đó đúng. Nhƣng điều đó lại là không
tránh khỏi. Các triều đại Lý, Trần, Hồ cũng đã làm nhƣ vậy, tuy có châm trƣớc, thay
đổi ít nhiều để làm rõ tính độc lập của mình…” [130,3].
Tuy nhiên, theo chúng tôi, những ý kiến trên đây cần đƣợc xem xét lại. Ngay
từ thế kỷ XVIII, trong Kiến văn tiểu lục Lê Quý Đôn đã đƣa ra một quan điểm hoàn
toàn khác. Theo ông, “bản triều (triều Lê - TG) xếp đặt quan chức, đại lƣợc phỏng
theo nhà Tống và dùng lẫn cả chế độ nƣớc ta, thay đổi không nhất định” [6,110].
J.K.Whitmore khi nghiên cứu về sự thay đổi và phát triển của các cấu trúc
chính quyền thời Lê Sơ đã chỉ ra rằng ở giai đoạn đầu, khi Lê Lợi thiết lập vƣơng
triều ông đã dựa theo khuôn mẫu của chính phủ thời Đƣờng và các chức tƣớc mà
những vị cố vấn cao cấp của triều đình chiếm giữ là những chức “vay mƣợn một
cách ngẫu nhiên từ chế độ cũ nhà Đƣờng” [80,16]. So với mô hình của nhà Minh
đƣơng thời thì rõ ràng đã có sự “tƣơng phản giữa hai kiểu chính phủ” này [80,102].
Tuy nhiên, đến Lê Thánh Tông, “khuôn mẫu đó đã không còn phù hợp lắm”, ông
“nhận thấy một sự cần thiết rõ ràng về một đƣờng đi nào đó có thể đƣa nhà nƣớc
Đại Việt vào kiểu mẫu Khổng giáo tiêu chuẩn” [80,107]. Cách thức mà Lê Thánh
Tông sử dụng nhằm củng cố ngai vàng cũng giống nhƣ cách mà Minh Thái Tổ
(Ming Tai Zu) đã làm; một số cơ quan mà Lê Thánh Tông đã áp dụng cho tổ chức
nhà nƣớc của mình (điển hình là Thông Chính ty) là sự “rập khuôn theo nhà Minh”;
và xét đại cục thì “chính phủ nhà nƣớc Đại Việt chấp nhận hình thức chung của
chính phủ Minh” [80,165,169]. Tuy nhiên, ngay cả khi khẳng định sự mô phỏng
hay vay mƣợn mẫu hình Trung Hoa của cả cấu trúc nhà nƣớc thời Lê Thái Tổ và Lê
Thánh Tông thì nhà sử học ngƣời Mỹ này cũng không quên nhấn mạnh đến nét
khác biệt và tính sáng tạo của chúng. Nhƣ ông khẳng định: “Nói chung các tổ chức
vay mƣợn từ khuôn mẫu nhà Đƣờng nhƣng bản thân khuôn mẫu không bao giờ
đƣợc lắp kín, và các tổ chức phải dồn lại với nhau một cách ngẫu nhiên tƣơng tự và
theo kiểu không chắc chắn nhƣ trong thời kỳ trƣớc đó” [80,19]. Khi nghiên cứu về
sự thiết lập sáu Tự thời Lê Thánh Tông, Whitmore cho rằng chúng là để thay thế
cho các Viện và nhằm thực hiện những phƣơng diện có tính chất kỷ luật hơn cho
các quyết định của Hoàng đế, sáu Tự theo ông “đƣợc gom góp từ các phần khác
nhau của kiểu mẫu nhà Minh [80,169]. Còn khi so sánh cách thức để củng cố quyền
lực ngai vàng giữa Lê Thánh Tông và Minh Thái Tổ, ông đã lƣu ý rằng: “Chúng ta
sẽ không phạm sai lầm khi giả thiết ngƣời trƣớc chỉ là một ngƣời để bắt trƣớc, một
bóng mờ của ngƣời sau… Chúng ta phải tƣởng tƣợng Hoàng đế Việt Nam đã đƣợc

19
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
dạy dỗ theo phƣơng pháp mà qua đó Minh Thái Tổ đạt đƣợc mục đích của mình.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy sự áp dụng một cách giàu tƣởng tƣợng phƣơng
pháp Minh Thái Tổ vào điều kiện đặc biệt ở Việt Nam” [80,227].
Theo quan điểm của chúng tôi, sự ảnh hƣởng của mẫu hình Trung Hoa đến
các thiết chế chính trị Việt Nam thời trung đại nói chung, giai đoạn Lê Sơ nói riêng
là điều không thể phủ nhận, song sẽ là thiếu chính xác nếu nhận định đó chỉ là sự
mô phỏng hoàn toàn hay sao chép nguyên xi. Vào đầu thời Lê Sơ, thiết chế tập
quyền quan liêu vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Mô hình đó có tham khảo thể
chế thời Đƣờng, Tống của Trung Hoa, nhƣng có nhiều điểm kế thừa mô hình cuối
Trần và Hồ. Đến khi hoàn thiện, cấu trúc của nó đã có những biến đổi căn bản. Ảnh
hƣởng của mẫu hình triều Minh đƣợc biểu hiện rõ nét trong cách thức tổ chức chính
quyền dƣới thời Lê Thánh Tông. Việc tìm đến kinh nghiệm tổ chức thiết chế chính
trị của triều Minh trong quá trình giải quyết tình hình chính trị - xã hội bất ổn đƣơng
thời, nhằm xây dựng Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong khu vực có thể
coi là một sự lựa chọn khôn ngoan và hợp lý. Tuy nhiên, đó hoàn toàn không phải là
sự rập khuôn theo một mẫu hình có sẵn. Ngoài các nguyên tắc chung trong việc xây
dựng cấu trúc và những kinh nghiệm trị nƣớc học tập từ triều Minh, thiết chế chính
trị thời Lê Thánh Tông còn là sự kế thừa những di sản dân tộc từ quá khứ, đồng thời
có sự bổ sung cần thiết và những nét sáng tạo độc đáo. Tất cả tạo nên một sắc thái
riêng của thời đại Lê Thánh Tông. Qua những phân tích dƣới đây về cơ cấu tổ chức
và hoạt động của bộ máy chính quyền triều Lê Sơ, chủ yếu là từ thời Lê Thánh
Tông, nhận định trên sẽ dần đƣợc làm sáng tỏ.
1.2. Tổ chức và hoạt động của chính quyền trung ƣơng thời Lê Sơ
1.2.1. Hoàng đế và quyền hạn của Hoàng đế
Trong thể chế quân chủ tập quyền Việt Nam mà đỉnh cao là giai đoạn Lê Sơ,
Hoàng đế có quyền lực khá rộng lớn. Quyền lực của Hoàng đế bao trùm thiên hạ,
nắm trong tay cả nền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Vua là nguồn gốc của luật
pháp. Mọi mệnh lệnh của của vua dƣới dạng các sắc lệnh, chiếu dụ đều có giá trị
pháp lý tối cao. Pháp luật đƣợc soạn và ban bố phần nhiều cũng xuất phát từ ý
nguyện của Hoàng đế và trƣớc hết là nhằm bảo vệ quyền lợi của Hoàng đế. Duy
nhất Hoàng đế mới có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ luật pháp. Vì thế, “phép vua”
chính là “phép nƣớc”. Hoàng đế còn là ngƣời đứng đầu nền hành chính quốc gia,
trực tiếp điều hành hệ thống hành pháp. Vua là ngƣời có quyền lực tối cao trong
việc bổ nhiệm, thăng giáng hay trừng phạt tất cả các chức quan lại trong bộ máy
chính quyền. Về phƣơng diện tƣ pháp, vua đƣợc coi là vị thẩm phán tối cao trong

20
nƣớc, ngƣời định đoạt việc xét xử tất cả các loại án, duy nhất có quyền sửa đổi các
bản án (dù đã tuyên) hoặc ân xá cho phạm nhân.
Ngoài những quyền lực hiện hữu đó, Hoàng đế còn có nhiều đặc quyền mang
tính linh thiêng khác. Hoàng đế và tất cả những gì liên quan đến Hoàng đế đều là
điều cấm kỵ và bất khả xâm phạm. Luật pháp triều Lê nghiêm trị mọi tƣ tƣởng,
hành động có ý xâm hại đến uy tín, địa vị Hoàng đế. Tất cả những tội khi quân,
phạm thƣợng hay chống đối, phản nghịch đều bị trừng trị thích đáng.
Đối với một quốc gia phƣơng Đông thời cổ trung đại, trong đó có Việt Nam,
quyền lực của Hoàng đế gắn chặt và là biểu hiện của quyền lực nhà nƣớc. Vì thế, sự
hƣng vong của đất nƣớc trƣớc hết phụ thuộc vào phẩm chất, trí tuệ và tài năng của
vị vua.
Tuy nhiên, trong thực tế lịch sử Việt Nam cho thấy quyền lực của Hoàng đế
cũng chịu sự tác động và bị hạn chế bởi một số nhân tố nhất định.
Nhân tố đầu tiên có thể tác động và hạn chế quyền lực của Hoàng đế là
những áp lực đƣợc tạo ra từ phía nhân dân. Lòng dân đƣợc tƣ tƣởng Khổng Mạnh
coi là cội nguồn sức mạnh dân tộc. Bài học đó càng có ý nghĩa hơn đối với triều Lê
Sơ, một vƣơng triều đƣợc kiến lập trên cơ sở của sự ủng hộ nhiệt thành và sự tín
nhiệm tuyệt đối của dân chúng. Chính vì thế, mọi chính sách trƣớc khi ban hành đều
đƣợc các vua triều Lê xét tính kỹ và nó chỉ thực sự có hiệu quả khi ít nhiều đáp ứng
đƣợc nguyện vọng của nhân dân. Mọi sự phản ứng từ phía dân chúng đều đƣợc coi
là cơ sở cho những điều chỉnh trong chính sách nhà nƣớc.
Quan hệ làng xã là một nhân tố khác tác động và tri phối tới chính thể quân
chủ và quyền lực của Hoàng đế. Làng xã là nền tảng xã hội, nơi quyền lực và pháp
luật nhà nƣớc đƣợc thực thi. Tuy nhiên, do tính độc lập của nó mà quan hệ giữa
làng xã và nhà nƣớc không phải lúc nào cũng đồng nhất. Giữa luật pháp nhà nƣớc
và việc thực thi nó trong đời sống làng xã nhiều khi còn là một khoảng cách. Chính
vì thế, các vua triều Lê mặc dù luôn cố gắng tìm cách can thiệp và kiểm soát làng xã
nhƣng những chính sách đó nhìn chung không mang tính chất cƣỡng bức cực đoan
và ở một mức độ nào đó “lệ làng” vẫn đƣợc tôn trọng.
Đội ngũ quan lại, bộ phận thừa hành những mệnh lệnh của vua cũng là một
trong những nhân tố có khả năng làm giảm thiểu quyền lực tối cao của Hoàng đế.
Dƣới thời Lê Sơ, khoa cử trở thành phƣơng thức tuyển dụng chủ đạo, kết quả là
hình thành một bộ máy quan lại mà những trí thức Nho học nắm phần chủ yếu. Họ
là những ngƣời không chỉ biết tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, là tay chân đắc lực

21
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
của Hoàng đế, mà còn có thể can thiệp và làm giảm thiểu rất nhiều tính chủ quan,
độc đoán trong các quyết định của Hoàng đế. Dấu ấn của đội ngũ quan lại, nhất là
những quan lại xuất thân khoa bảng trong các mệnh lệnh của Hoàng đế, các quyết
sách của nhà nƣớc là điều có thể nhận thấy.
Một nhân tố khác có chức năng điều tiết hanh vi, hạn chế quyền lực của
Hoàng đế nằm trong chính những quy định và tổ chức bộ máy nhà nƣớc do Hoàng
đế đặt ra. Trong chính thể tập quyền, xuất phát từ sự cần thiết của việc tự giới hạn
quyền lực, nhằm hạn chế sai lầm trong những quyết định do quyền lực quá lớn gây
nên, các Hoàng đế đã đặt ra những cơ chế tự điều tiết hành vi của mình. Các quy
định về việc vua không đƣợc đọc thực lục, không đƣợc xem trƣớc hồ sơ các vụ án
do Ngự sử đài xây dựng khi xét xử… là nhằm mục đích đó. Đặc biệt, dƣới triều Lê
Sơ hệ thống thanh tra, giám sát đƣợc kiện toàn và có quyền lực rất lớn. Những lời
can gián, khuyên ngăn của ngôn quan luôn đƣợc Hoàng đế coi trọng.
Nhƣ vậy, ngay cả trong chính thể tập quyền cao độ nhƣ thời Lê Sơ thì quyền
lực tƣởng trừng nhƣ vô hạn của Hoàng đế vẫn luôn có sự giám sát và điều chỉnh
nhất định. Đây đƣợc coi là một trong những đặc trƣng nổi trội của chính thể quân
chủ Việt Nam thời trung đại.
1.2.2. Tổ chức bộ máy hành chính
1.2.2.1. Các cơ quan giúp việc Hoàng đế
Để giúp vua soạn thảo các công văn, trông coi việc giấy tờ, triều Lê Sơ từ Lê
Thánh Tông chủ yếu chỉ còn duy trì hoạt động của năm cơ quan văn phòng là: Hàn
lâm viện, Đông các, Trung thƣ giám, Bí thƣ giám và Hoàng môn sảnh.
Hàn lâm viện đƣợc đặt ra ở Trung Quốc từ đầu thời Đƣờng1 với nhiệm vụ
phụng mệnh vua khởi thảo các bài chế, cáo, thơ, ca, văn thƣ [104,45]. Ở nƣớc ta,

1
Thời Đƣờng Thái Tông (626-649), những danh nho và học sĩ thƣờng đƣợc triệu vào kinh để giúp
vua soạn sửa chiếu chỉ, nhƣng họ chƣa có chức danh chuyên biệt. Đến thời Càn Phong (666-667),
những ngƣời này đƣợc đặt làm Bắc môn học sĩ, sau đổi làm Hàn lâm viện Đãi chiếu, rồi Hàn lâm
Cung phụng vào đời vua Huyền Tông (712-756). Năm Khai Nguyên thứ 26 (738) Học sĩ viện
chính thức đƣợc thành lập, trở thành cơ quan văn phòng độc lập giúp việc Hoàng đế. Theo chế độ
nhà Đƣờng, triều Tống tiếp tục lập Hàn lâm học sĩ viện. Triều Nguyên đổi làm Hàn lâm quốc sử
viện, đồng thời phân định rõ sáu bậc quan lại trong viện, đặt Hàn lâm viện Thừa chỉ (hàm 1b) đứng
đầu. Đến năm thứ 2 niên hiệu Hồng Vũ (1369), nhà Minh lập Hàn lâm viện với các chức quan:
Thừa chỉ (hàm 3a), Học sĩ (hàm 3b), Thị giảng học sĩ (hàm 4a), Thị độc học sĩ (hàm 4b), Trực học
sĩ, Đãi chế, Tu soạn, Ứng phụng, Biên tu và Điển bạ. Theo quan chế triều Minh, quan Hàn lâm bắt
buộc phải là Thƣợng thƣ, Tả hữu Thị lang của bộ Lễ và một trong hai Thị lang của bộ Lại. Trong
đó, Thƣợng thƣ phải là quan Học sĩ, còn Thị lang là Thị độc hoặc Thị giảng của Hàn lâm viện.
Xem Robert Des Rotours, Traité des Fonctionnaires et Traité de L’armée, San Francisco, Chinese
Materials Center, Inc, 1974, Vo.1, p.15; Guan Wenfa và Yan Guangwen, Mindai zhengzhi zhidu

22
Hàn lâm viện ra đời vào năm Quảng Hựu thứ 3 thời vua Lý Nhân Tông (1087), do
viên Học sĩ đứng đầu. Quan chế thời Trần tiếp tục noi theo, đặt Hàn lâm Phụng chỉ
đứng đầu Hàn lâm viện. Vì chức ấy rất trọng nên thƣờng dùng Thái sƣ, Nội mật
viện kiêm giữ [3,528].
Dƣới thời Lê Sơ, Hàn lâm viện vẫn là cơ quan văn phòng giúp việc quan
trọng của Hoàng đế. Phan Huy Chú cho biết: “Nhà Lê lúc mới dựng nƣớc vẫn đặt
các quan Hàn lâm viện, có những chức Phụng chỉ học sĩ (bấy giờ Nguyễn Trãi làm
Hàn lâm Phụng chỉ, giữ việc soạn các bài chế, cáo), Thị độc, Thị giảng, Trực học sĩ,
Tri chế cáo, Đãi chế, Hiệu kiểm. Sau lại đặt Đại học sĩ làm quan viện trƣởng. Thánh
Tông định lại quan chế, bãi chức Đại học sĩ mà đặt các chức Thừa chỉ, Thị độc, Thị
giảng, Thị thƣ, Đãi chế, Hiệu lý, Tu soạn, Kiểm thảo, phẩm trật ở hàng chánh tứ
phẩm trở xuống” [3,557]. Đặng Xuân Bảng cho biết thêm, Hàn lâm viện thời Lê Sơ
mô phỏng theo quan chế nhà Minh, bao gồm các chức: Hàn lâm viện Học sĩ 1, giữ
việc chế chiếu sử sách văn hàm làm cố vấn, Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ mỗi
chức 2 ngƣời và Thị độc, Thị giảng đều 2, giữ việc giảng đọc kinh sử cho vua nghe
[1,542].
Khảo cứu trong chính sử cho thấy, từ thời Lê Thái Tổ đến niên hiệu Quang
Thuận (1460-1469) thời Thánh Tông, chức trƣởng quan Hàn lâm viện tồn tại dƣới
nhiều tên gọi khác nhau nhƣ: Thừa chỉ Học sĩ, Hàn lâm viện Học sĩ, Hàn lâm viện
Đại học sĩ, Thừa chỉ. Chức danh Thừa chỉ Học sĩ thời Lê Sơ xuất hiện đầu tiên năm
1427 do Nguyễn Trãi đảm nhậm. Sau đó, Nguyễn Nhƣ Đổ, Nguyễn Vĩnh Tích cùng
giữ chức này năm 1463. Chức Hàn lâm viện Học sĩ xuất hiện năm 1461, do Nguyễn
Đình Mỹ giữ. Sau đó, vào năm 1466, cả Vũ Vĩnh Trinh và Nguyễn Cƣ Đạo đều làm
chức này. Riêng Hàn lâm viện Đại học sĩ chỉ thấy duy nhất thuộc về Trần Bàn năm
1465 (Xin xem bảng 1, phần phụ lục).
Nếu tất cả các chức trên đều là trƣởng quan của Hàn lâm viện, thì đứng đầu
cơ quan này không phải một mà có thể là nhiều ngƣời. Toàn thư cho biết, vào tháng
3 năm 1466, khi vua ngự điện Kính Thiên hỏi thi đình đã sai Hàn lâm viện Đại học
sĩ quyền Ngự sử đài Đô ngự sử đại phu Trần Bàn làm giám thí; Hàn lâm viện Thừa
chỉ Nguyễn Trực, Hàn lâm viện Thừa chỉ quyền Hộ bộ Hữu thị lang kiêm Cẩn Đức
điện Đại học sĩ Nhập thị kinh diên Tả xuân phƣờng Thái tử tả dụ đức Nguyễn Cƣ
Đạo, Hàn lâm viện Học sĩ hành Hải Tây đạo Tuyên chính sứ ty tham tri kiêm Bí thƣ
giám Học sĩ Vũ Vĩnh Trinh làm độc quyển [23,409]. Trƣờng hợp này, nếu chức

yanjiu, Bắc Kinh, Trung Quốc Khoa học xã hội xuất bản xã, 1995, tr.100; Zhang Yanyu, Ming Shi
(Zhiguan zhi), q.6, 1974, tr.1787, dẫn theo Đinh Khắc Thuân [159,106-107].

23
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
trƣởng quan viện Hàn lâm chỉ có một là Hàn lâm viện Đại học sĩ, thì Học sĩ, Thừa
chỉ có thể chỉ là các chức quan dƣới quyền, giúp việc cho Đại học sĩ.
Đến thời Hồng Đức (1470-1497), Lê Thánh Tông định lại cơ cấu tổ chức của
Hàn lâm viện. Khi ấy, Hàn lâm viện bao gồm các chức: Thừa chỉ (hàm 4a)1 đứng
đầu viện; Thị độc (hàm 5a) giữ việc đọc sách, tham khảo; Thị giảng (hàm 5b) phụ
trách việc giải thích, bình luận, chú thích các văn thƣ, thơ, ca, chế, biểu; Tả, Hữu
thuyết thƣ (hàm 5b) coi việc giảng nghĩa kinh sách; Thị thƣ (hàm 6a) biên chép các
văn thƣ; Đãi chế (hàm 6b) sẵn sàng cho biết ý kiến về văn từ trong các bài chế của
vua; Hiệu lý, Đãi chiếu (đều hàng 7a) giữ việc kiểm sát, chỉnh lý và khi cần sẽ cho ý
kiến về văn từ trong chiếu chỉ, đồng thời sẵn sàng giải thích những văn từ trong
chiếu chỉ của nhà vua khi có ngƣời hỏi; Kiểm thảo (hàm 7b) giữ việc kiểm thảo các
văn thƣ [104,45-46]. Nhân sự trong Hàn lâm viện đƣợc định rõ là: “các chức quan
Thừa chỉ, Thị độc, Thị giảng, Thị thƣ, Thị chế, Hiệu lý và Hiệu thảo thuộc Hàn lâm
viện không câu nệ số quan viên” [21,66].
Trực thuộc Hàn lâm viện có ba cơ quan chuyên về việc giáo dục là: Sùng văn
quán trông coi về sách vở, đồ thƣ, chủ yếu là để cung cấp tài liệu và dạy bảo học
sinh; Chiêu văn quán trông coi việc sao chép, sửa chữa, hiệu đính Tứ khố toàn thƣ
và Tú lâm cục trông coi việc dạy bảo con các quan viên. Đứng đầu mỗi cơ quan này
gồm một viên Tƣ huấn (hàm 8a) và một viên Điển nghĩa (hàm 8b) giúp việc
[104,46-47].
Hoạt động của viện Hàn lâm thời Lê Sơ đƣợc mô phỏng theo cơ chế của Hàn
lâm viện triều Minh. Thời Vĩnh Lạc (1403-1424), nhà Minh đặt lệ chọn ngƣời đỗ
tiến sĩ vào làm việc tại Hàn lâm viện có quy định rằng: “Sau ba năm thi khảo, một
số đƣợc tuyển lựa giữ lại làm việc trong viện. Sau một hai giáp làm việc tại đây,
một số đƣợc bổ chức Biên tu, Kiểm thảo, số khác làm Cấp sự trung, Ngự sử đài
hoặc ra làm quan ở châu, huyện”2. Nhƣ thế, có thể tạm coi Hàn lâm viện nhƣ một
trƣờng bồi dƣỡng nghiệp vụ và đào tạo đội ngũ công chức cao cấp cho bộ máy
chính quyền.
Thống kê từ các nguồn sử cũ cho thấy: 1- Các chức trƣởng quan Hàn lâm
viện không phải là các quan chuyên trách, mà thƣờng do ngƣời đứng đầu các cơ
quan khác kiêm nhiệm. Ngƣời đứng đầu Hàn lâm viện (Thừa chỉ, Thị độc) thƣờng
là/sau đó sẽ là các quan đứng đầu Đông các hoặc các Bộ. 2- Việc sắp đặt các chức
quan đứng đầu Hàn lâm viện đƣợc tiến hành theo quy định, nhƣng không nhất thiết

1
(4a): Ký hiệu chỉ phẩm trật quan lại. Con số chỉ thứ bậc, “a” là Chánh phẩm, “b” là Tòng phẩm.
2
Huang Bendai, Lidai zhiguan biao, Shanghai, Zhonghua shuju, 1965, tr.55, dẫn theo Đinh Khắc
Thuân [159,114].

24
phải đặt đủ. Rất ít ngƣời giữ chức Thừa chỉ đứng đầu viện Hàn lâm, mà chủ yếu là
do các chức đứng hàng thứ hai (Thị độc), hoặc thứ ba (Thị giảng) kiêm quản với
chức danh “tham/thự” chƣởng Hàn lâm viện sự. Riêng chức Tả, Hữu thuyết thƣ
không thấy xuất hiện trong chính sử. 3- Chức Tƣ huấn Sùng Văn quán, Chiêu Văn
quán và Tú Lâm cục đƣợc đặc giao cho các viên Thị thƣ trong Hàn lâm viện (Xin
xem phụ lục, bảng 2).
Đông các là cơ quan đƣợc lập ra dƣới triều Hồng Đức1, chuyên việc sửa
chữa các bài chế cáo, thơ, ca, văn thƣ của nhà vua. Về chức năng này, Đông các là
cơ quan giúp việc cho viện Hàn lâm. Ngoài ra, Đông các còn có nhiệm vụ trông coi
việc sắp đặt quan lại, chức nào chƣa hợp lý Đông các có quyền tâu lên để sửa đổi.
Đứng đầu Đông các là Đông các Đại học sĩ (hàm 5a). Giúp việc có các chức Đông
các Học sĩ (hàm 5b), Đông các Hiệu thƣ (hàm 6a) giữ việc kiểm sát, xem lại những
bài chế, cáo, thơ, ca… do Đông các Đại học sĩ phụng mệnh sửa chữa [104,47]. Đại
học sĩ, Học sĩ và Hiệu thƣ cũng không câu nệ về số quan viên [21,67].
Phẩm trật tuy không cao, nhƣng những quan Đông các triều Lê Sơ đều là các
đại thần trọng chức, vì ngoài các chức danh Đại học sĩ, Học sĩ, Hiệu thƣ ở Đông các
họ đều là những trƣởng quan của Ngự sử đài, Hàn lâm viện và Lục bộ. Sau khi Lê
Thánh Tông loại bớt các cơ quan giúp việc khác thì Đông các ngày càng có vị trí
quan trọng hơn.
Trung thư giám đƣợc Lê Thánh Tông đặt ra vào năm Hồng Đức thứ 2
2
(1471) . Trƣớc đó, vào đầu thời Lê Sơ vua Thái Tổ đặt ra ba sảnh là Thƣợng thƣ
sảnh giữ sự vụ quan chức, Trung thƣ sảnh (đứng đầu là Trung thƣ lệnh, thƣờng do
Tể tƣớng nắm giữ) bàn bạc các việc trọng đại của đất nƣớc và Môn hạ sảnh thẩm tra
mọi việc trƣớc khi ban bố thi hành. Đến đây (năm 1471), Thánh Tông bãi bỏ
Thƣợng thƣ sảnh và Môn hạ sảnh, đổi Trung thƣ sảnh thành Trung thƣ giám với
nhiệm vụ kém quan trọng hơn nhiều. Lúc này, Trung thƣ giám chỉ còn là cơ quan
phụ trách việc biên chép tờ kim tiên, ngân tiên, các chế, sắc, biểu, các bài giảng, văn
tế của vua ở điện miếu. Đứng đầu Trung thƣ giám là một viên Trung thƣ giám xá
nhân (hàm 6a), giúp việc có một viên Điển thƣ (hàm 6b) và 11 viên Chính tự
[21,67]. Xét về tổ chức, Trung thƣ giám thời Lê Sơ giản lƣợc hơn nhiều so với cơ
quan này trong tổ chức chính quyền triều Minh. Theo quan chế triều Minh, Trung
thƣ giám gồm 20 Trung thƣ xá nhân giữ việc viết cáo sắc, thiết sách, thiết khoán,

1
Theo Toàn thư, hai ngƣời đầu tiên giữ chức Đông các Hiệu thƣ dƣới triều Lê Sơ là Đỗ Nhuận và
Quách Đình Bảo năm 1471; vị Đông các Đại học sĩ đầu tiên là Thân Nhân Trung năm 1473
[23,458,463].
2
Đặng Xuân Bảng trong Sử học bị khảo cho biết Trung thƣ giám đầu thời Lê gọi là Trung thƣ
khoa, đến đời Quang Thuận (1460 - 14670 đổi là Trung thƣ giám [1,543].

25
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
còn Trực văn hoa điện đông phòng xá nhân, Trực vũ anh điện tây phòng xá nhân và
Nội các báo cáo sắc phòng xá nhân đều không có ngạch nhất định [1,544].
Tuy không trực thuộc, nhƣng xét về chức năng, Trung thƣ giám có quan hệ
mật thiết với Hàn lâm viện và Đông các. Một văn thƣ đầu tiên đƣợc Hàn lâm viện
khởi thảo, sau đó chuyển qua Đông các sửa chữa, và cuối cùng đƣợc Trung thƣ
giám biên chép [104,47-48].
Bí thư giám là cơ quan trông coi thƣ viện của nhà vua. Đứng đầu Bí thƣ giám
là một viên Bí thƣ giám Học sĩ (hàm 5b), giúp việc có Bí thƣ giám Điển thƣ (hàm
6b) [104,49].
Hoàng môn sảnh do viên Hoàng môn Thị lang (hàm 3b) đứng đầu, có nhiệm
vụ trông giữ các ấn của nhà vua.
1.2.2.2. Lục bộ và Lục tự
Đầu thời Lê Sơ, do tình hình đất nƣớc, triều đình chỉ đặt hai Bộ là Lại và Lễ.
Những vị Thƣợng thƣ đầu tiên của bộ Lại là Nguyễn Trãi, Hà Lật và Nguyễn Nhƣ
Đổ; Thƣợng thƣ bộ Lễ là Bùi Ƣ Đài, Đào Công Soạn và Trình Dục. Năm 1460, Lê
Nghi Dân đặt đủ sáu bộ Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công.
Đến năm 1465, vua Lê Thánh Tông đổi sáu Bộ làm sáu Viện, đặt các chức
Thƣợng thƣ và Tả hữu thị lang đứng đầu. Nhƣng chỉ một năm sau (1466), Lê Thánh
Tông lại bỏ sáu Viện đổi làm sáu Bộ (Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công). Sau khi bãi
bỏ các chức quan và cơ quan trung gian giữa vua và bộ phận thừa hành nhƣ Tƣớng
quốc, Đại hành khiển, Tả hữu bộc xạ, Thƣợng thƣ sảnh, Trung thƣ sảnh, Môn hạ
sảnh, Khu mật viện… để trực tiếp quản lý mọi công việc thì Lục bộ trở thành cơ
quan quan trọng hàng đầu, giúp vua trông coi và thừa hành mọi công việc chủ yếu
của nhà nƣớc.
Lục bộ thời Lê Sơ có chức năng, nhiệm vụ đƣợc quy định nhƣ sau1:
“Bộ Lại giữ công việc quan tƣớc, chọn bổ, xét hạch, thăng giáng và các việc
điền bổ (chức khuyết), cấp cho (bổng lộc).
Bộ Hộ giữ công việc ruộng đất, nhân dân, kho tàng, lƣơng tiền, thu phát và
các việc về ruộng lộc, thuế khoá, muối, sắt.

1
Vì thiếu nguồn tài liệu chúng tôi không thể đƣa ra những quy định trực tiếp của triều Lê Sơ về
quyền hạn và trách nhiệm của Lục bộ. Ở đây, chúng tôi xin dựa vào quy định đƣợc triều Lê Trung
hƣng ban hành năm Đức Nguyên thứ 2 (1675) là thời điểm gần với thời Lê Sơ nhất. Sau đó, vào
các năm 1751 và 1787, triều Lê đã ban hành các quy định mới về nhiệm vụ của sáu Bộ. Chúng tôi
sẽ có dịp trở lại vấn đề này trong chƣơng 3 của Luận văn [3,576-577].

26
Bộ Lễ giữ công việc lễ nghi, tế tự, lễ mừng, tiệc yến, việc học, việc thi cử,
các chi tiết về mũ áo, ấn, dấu, chƣơng tấu, bài biểu, việc đi cống, đi sứ, vào chầu.
Lại kiêm trông coi các việc về tƣ thiên (thiên văn), về y, bốc, tăng, đạo, giáo
phƣờng, đồng văn, nhã nhạc.
Bộ Binh giữ công việc binh nhung, cấm vệ, xe ngựa nghi trƣợng, khí giới và
các việc về dân biên giới, quân trấn giữ, các dịch trạm, các dân Man di hiểm hại,
những việc khẩn cấp.
Bộ Hình giữ công việc luật lệnh, hình pháp, xét lại ngục tụng, xử tội về năm
hình.
Bộ Công giữ việc thành trì, cầu cống, đƣờng xá, xây đắp, thợ thuyền, việc
sửa chữa xây dựng cùng là việc cấm chế về núi rừng, vƣờn tƣợc, sông, đầm”
[3,576-577].
Về cơ cấu tổ chức, mỗi Bộ đều có các chức trƣởng quan đứng đầu gồm một
viên Thƣợng thƣ (hàm 2b) và hai viên Tả hữu thị lang (hàm 3b); một cơ quan
thƣờng trực gọi là Tƣ vụ sảnh do viên Tƣ vụ (hàm 8b) đứng đầu để giải quyết
những công việc thƣờng nhật; và tuỳ theo nhiệm vụ của từng Bộ mà mỗi Bộ có thể
gồm một hoặc một vài cơ quan chuyên trách gọi là Thanh lại ty để giải quyết các
công việc có tính chất chuyên môn. Các bộ Lại, Lễ có một cơ quan chuyên trách là
Thuyên Khảo thanh lại ty (bộ Lại), Nghi Chế thanh lại ty (bộ Lễ); các bộ Hộ, Binh
và Công đều có hai Thanh lại ty là Độ Chi thanh lại ty và Bản Tịch thanh lại ty (bộ
Hộ), Vũ Khố Thanh lại ty và Quân vụ Thanh lại ty (bộ Binh), Doanh Thiện thanh
lại ty và Công Trình thanh lại ty (bộ Công); riêng bộ Hình có bốn Thanh lại ty là
Thanh Hình, Thận Hình, Minh Hình và Tƣờng Hình. Tổng cộng có 12 Thanh lại
ty1. Đứng đầu mỗi Thanh lại ty là một viên Lang trung (hàm 6a) và một viên Viên
ngoại lang (hàm 6b) giúp việc. Riêng các Thanh lại ty của bộ Hộ có 2 Viên ngoại
lang (cộng là 4 viên) và của bộ Hình có ba viên ngoại lang (cộng là 12 viên). Ngoài
ra, bộ Hộ và bộ Hình còn có thêm Chiếu ma sở do viên Chiếu ma (hàm 8b) đứng
đầu chuyên việc ghi chép văn thƣ, sổ sách. Cũng tuỳ theo công việc của từng Bộ mà

1
Sách Cương mục cho biết: “Theo chế độ cũ, viện Ngũ hình có: Tả hình, Hữu hình, Thẩm hình,
Tƣờng hình và Ti hình, mỗi viện đều đặt chức Đại phu. Đến nay (10/1466 - TG) sắp xếp lại bộ
Hình, đổi viện Tả hình làm ti Thanh hình, viện Hữu hình làm ti Thận hình, ba viện Thẩm hình,
Tƣờng hình và Ti hình chia làm hai ti Minh hình, Tƣờng hình. Mỗi ti đều đặt chức Lang trung, còn
chức Đại phu ở viện Ngũ hình đều bãi bỏ. Nhà vua lấy cớ rằng khoảng niên hiệu Thái Hoà (1443-
1453), ở Hình ti chỉ đặt hai viên Đại phu, xét đoán việc hình ngục phần nhiều chậm trễ; đến nay hạ
sắc lệnh cho bộ Lại đặt thêm ở Hình ti 3 ngƣời giữ chức Viên ngoại lang. Chức này chọn các quan
trong kinh sƣ và ngoài các đạo ngƣời nào có đức độ vừa cƣơng vừa nhu dung hoà với nhau và có
tài sở trƣờng về việc hỏi kiện để bổ sung [25,1026-1027].

27
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
mỗi Bộ có số lại viên nhất định để giúp việc. Theo quan chế thời Hồng Đức, số
thuộc viên của bộ Lại là 80 ngƣời, bộ Hộ 110 ngƣời, bộ Lễ 71 ngƣời, bộ Binh 128
ngƣời, bộ Hình 167 ngƣời và bộ Công 40 ngƣời [104,52-74].

Bảng 1: Các quan lại và cơ quan của Lục bộ triều Lê Sơ


(Theo Lê Kim Ngân [104,52-74])
Quan Lục bộ
viên/thuộc Lại Hộ Lễ Binh Hình Công
viên/cơ quan
Quan viên 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng
2 Tả hữu thị 2 Tả hữu thị 2 Tả hữu thị 2 Tả hữu thị 2 Tả hữu thị thƣ
lang lang lang lang lang 2 Tả hữu
thị lang
Thuộc viên 1 Lang trung 2 Lang trung 1 Lang trung 2 Lang trung 4 Lang trung 2 Lang trung
1 Viên ngoại 4 Viên ngoại 1 Viên ngoại 2 Viên ngoại 12 Viên ngoại 2 Viên ngoại
lang lang lang lang lang lang
1 Tƣ vụ 1 Tƣ vụ 1 Tƣ vụ 1 Tƣ vụ 1 Tƣ vụ 1 Tƣ vụ
1 Chiếu ma 1 Chiếu ma
Cơ quan 1 Thanh lại 2 Thanh lại ty: 1 Thanh lại 2 Thanh lại ty: 4 Thanh lại 2 Thanh lại
ty: Thuyên Độ Chi, Bản ty: Nghi Chế Vũ Khố, Quân ty:Thanh Hình, ty: Doanh
Khảo Tịch Vụ Thận Hình, Thiện, Công
Minh Hình, Trình
Tƣờng Hình
Cộng 3/3/1 3/8/2 3/3/1 3/5/2 3/18/4 3/5/2

Sơ đồ 1: Tổ chức Bộ thời Lê Sơ

THƢỢNG THƢ

TẢ THỊ LANG HỮU THỊ LANG


CƠ QUAN CHUYÊN TRÁCH
(Một hoặc vài cơ quan tuỳ Bộ)

(Một hoặc vài cơ quan tuỳ Bộ)


NHA MÔN THỪA HÀNH

Văn phòng Trung ƣơng

TƢ VỤ SẢNH

28
So sánh với quan chế triều Minh có thể thấy sáu Bộ thời Lê đƣợc tổ chức
khác và gọn nhẹ hơn nhiều. Điểm khác biệt thứ nhất dễ nhận thấy thể hiện ngay
chính ở tên gọi của các cơ quan chuyên môn trực thuộc sáu Bộ. Ngoài ty Nghi Chế
của bộ Lễ và ty Doanh Thiện của bộ Công là trùng nhau, còn lại các ty khác của Lục
bộ triều Minh không hề thấy xuất hiện trong tổ chức chính quyền triều Lê. Trong khi
đó, 10 ty: Thuyên Khảo (của bộ Lại), Độ Chi, Bản Tịch (bộ Hộ), Vũ Khố, Quân Vụ
(bộ Binh), Thanh Hình, Thận Hình, Minh Hình, Tƣờng Hình (bộ Hình) và Công
Trình (bộ Công) lại là riêng có của triều Lê Sơ. Về cơ cấu tổ chức, sáu Bộ triều Lê
đƣợc thiết lập một cách thống nhất gồm các cơ quan thƣờng trực và cơ quan chuyên
môn ở trung ƣơng, từ đó quản lý mọi hoạt động của đất nƣớc. Trong khi đó, Lục bộ
triều Minh đƣợc tổ chức thành hai loại. Đối với những Bộ ít phải làm việc trực tiếp
với các địa phƣơng nhƣ bộ Lại, Lễ, Công thì nhà Minh chỉ tổ chức các cơ quan ở cấp
trung ƣơng. Còn các bộ Hộ, Binh, Hình do công việc thƣờng xuyên liên hệ đến các
địa phƣơng nên ngoài cơ quan thƣờng trực ở trung ƣơng nhà Minh tổ chức các cơ
quan chuyên môn trực tiếp tại 13 tỉnh. Về bộ máy tổ chức, sáu Bộ triều Lê gọn nhẹ
hơn rất nhiều so với Lục bộ nhà Minh. Ngoài những chức trƣởng quan đứng đầu Lục
bộ (Thƣợng thƣ, Tả hữu thị lang), nhà Lê Sơ tỉnh giảm rất nhiều số thuộc viên và các
cơ quan trực thuộc (ty, cục, kho). Xin xem bảng sau:
Bảng 2: Các quan lại và cơ quan của Lục bộ triều Minh
(Theo Đặng Xuân Bảng, [1,535-538])1
Quan Lục bộ
viên/thuộc
viên/cơ quan Lại Hộ Lễ Binh Hình Công
Quan viên 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng thƣ 1 Thƣợng thƣ
2 Tả hữu thị 2 Tả hữu thị 2 Tả hữu thị 2 Tả hữu thị 2 Tả hữu thị 2 Tả hữu thị
lang lang lang lang lang lang
2 Tƣ vụ 2 Tƣ vụ 2 Tƣ vụ 2 Tƣ vụ 2 Tƣ vụ 2 Tƣ vụ

Thuộc viên 4 Lang trung 13 Lang trung 4 Lang trung ? 13 Lang 4 Lang trung
4 Viên ngoại 13 Viên ngoại 4 Viên ngoại trung 4 Viên ngoại
lang lang lang 13 Viên lang
4 Chủ sự 26 Chủ sự 4 Chủ sự ngoại lang 8 Chủ sự
13 Chiếu ma 26 Chủ sự
13 Kiểm hiệu
Cơ quan 4 Thanh lại 13 Thanh lại 4 Thanh lại ? 13 Thanh lại 4 Thanh lại ty:
ty: Văn thuộc 13 tỉnh ty: Nghi Chế, ty thuộc 13 Doanh Thiện,
Tuyền, 3 Cục: Báo Từ Chế, Chƣ tỉnh Nga Hành, Đô
Nghiệm Sao, Sao Chỉ, Khách, Tinh Thuỷ, Đồn
Phong, Ấn Sao Thiện Điền
Kê Huân, 5 Kho: Quảng 5 Cục: Bì Tác,
Khảo Công Huệ, Quảng Yên Bí, Bào
Tích, Quảng Tuyền, Quận
Doanh, Tang Khí, Tạp Tạo
Phạt, Ngự mã
quân trừ
Cộng 5/12/4 5/78/21 5/12/4 5/?/? 5/52/13 5/16/9

1
Trong sáu Bộ, Đặng Xuân Bảng đã sót không chép về bộ Binh. Do vậy, ngoài các chức trƣởng
quan đƣợc chép ở phần đầu chúng tôi không rõ bộ Binh của nhà Minh gồm những thuộc viên và cơ
quan nào. Theo phỏng đoán của chúng tôi, có thể bộ Hình đƣợc tổ chức giống nhƣ bộ Hộ và bộ
Hình.

29
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Cùng với việc sắp đặt sáu Bộ, năm 1466 Lê Thánh Tông thiết lập sáu Tự
gồm Đại lý tự, Thái thƣờng tự, Quang lộc tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự và Thƣợng
bảo tự với nhiệm vụ phụ giúp và thừa hành các công việc của Lục bộ1.

Cho đến nay, những thông tin trong chính sử Việt Nam ghi chép về Lục tự
nhìn chung rất ít và vụn vặt. Do đó, thật khó để có thể hình dung một cách đầy đủ
về tổ chức và hoạt động của Lục tự thời Lê Sơ. Tuy nhiên, một nhận định có lẽ
không chủ quan rằng cơ cấu tổ chức và nhiệm vụ của sáu Tự thời Lê sơ đơn giản
hơn nhiều so với Lục tự bên Trung Quốc.

Theo Lê triều quan chế thì đứng đầu mỗi Tự là một viên Tự khanh (hàm 5a),
một viên Thiếu khanh (hàm 6a) làm phó và một viên Tự thừa (hàm 7a) giúp việc.
Riêng Đại lý tự thêm một viên Bình sự (hàm 8b) và Hồng lô tự thêm một viên Tự
ban (hàm 9a) [21,19-20,67]. Tuy nhiên, trên thực tế không phải lúc nào các chức
trên cũng đƣợc đặt đủ (xin xem bảng 9 và 10 phần phụ lục). Thậm chí ngay cả khi
đặt đủ thì tổ chức của Lục tự triều Lê Sơ cũng đơn giản hơn nhiều so với cơ quan
này của triều Minh.
Bảng 3: Các quan lại và cơ quan của Lục tự triều Minh
(Theo Đặng Xuân Bảng, [1,539-541])
Quan Lục tự
viên/thuộc Đại lý Thái thƣờng Quang lộc Thái bộc Hồng lô Thƣợng
viên/cơ quan bảo
Quan viên 1 Tự khanh 1 Tự khanh 1 Tự khanh 1 Tự khanh 1 Tự khanh 1 Tự khanh
2 Tả hữu 2 Tả hữu 2 Tả hữu 2 Tả hữu Thiếu 2 Tả hữu 1 Thiếu
Thiếu khanh Thiếu khanh Thiếu khanh khanh Thiếu khanh khanh
2 Tả hữu Tự 2 Tả hữu Tự 2 Tả hữu Tự 4 Tự thừa 2 Tả hữu Tự 1 Tự thừa
thừa thừa thừa thừa
Thuộc viên 2 Tƣ vụ 2 Điển tịch 2 Điển tịch 1 Chủ bạ 1 Chủ bạ -
2 Tả hữu Tự 2 Bảo sĩ 1 Lục sự 1 Trƣởng 2 Tƣ nghi Tƣ
chính 2 Hiệp luật 4 Thự chính Doanh khố sứ tấn
2 Tự phó 9 Tán lễ lang 16 Thự thừa 2 Mục giám 1 Thự?
4 Bình sự 20 Tƣ nhạc 16 Giám sự Chính/phó 1 Thự thừa
2 Phụng tự 2 Tƣ sinh ty giám 4 Hồng tán
(các đàn, đại/phó sứ 1 Mục giám 50 Tự ban
miếu, lăng, từ) 2 Tƣ sinh cục Lục sự
2 Tự thừa (các đại/phó sứ 1 Quần trƣởng
đàn, miếu, 1 Tu mục cục
lăng, từ) đại sứ
1 Hy sinh sở 1 Ngân khố
lại mục đại sứ
Cơ quan - - 4 Thự: Thái - - -
quan, Trân tu,
Lƣơng uẩn,
Chƣởng diêm
Cộng 5/10/0 5/40/0 5/45/4 7/6/0 5/59/0 3/0/0

1
Xét nhiệm vụ của sáu Tự dƣới đây cho thấy những công việc của các Tự chủ yếu liên quan đến bộ
Lễ và bộ Hình.

30
Sau khi khảo cứu Lục tự trong tổ chức chính quyền thời Đƣờng, nhà nghiên
cứu Lê Kim Ngân đã mô phỏng nhiệm vụ của sáu Tự thời Lê Sơ nhƣ sau:
- Đại lý tự có nhiệm vụ xét lại những vụ trọng án đã xử, bao gồm các án về
tội tử và tội lƣu, sau đó gửi kết quả điều tra và án xử đến bộ Hình trƣớc khi đệ trình
lên vua xin quyết định. Trong quá trình xét án, nếu có khiếu kiện về bản án đã xử và
đƣợc sự chấp thuận của bộ Hình thì án văn sẽ đƣợc một hội đồng gồm Đô đốc ngũ
phủ, Ngự sử đài và Đại lý tự duyệt lại. Còn nếu xét thấy bản án không có đủ bằng
chứng để kháng án thì Đại lý tự sẽ chuyển ngay đến các cơ quan xét xử khác, xin
các quan trong triều đình nghị, hoặc trực tiếp xin quyết định của nhà vua. Sau khi ra
án quyết cuối cùng, trừ án tử hình, bản án xử lại sẽ đƣợc trao trở xuống cho cơ quan
xét xử các cấp thi hành.
- Thái thường tự: phụ trách thi hành những thể thức nghi lễ, âm nhạc, trông
coi các đền, chùa, miếu… Thái thƣờng tự bao gồm 7 cơ quan chuyên môn là: Giao
xã thự phụ trách việc tổ chức tế lễ trời đất; Thái nhạc thự chuyên trông coi việc âm
nhạc; Cổ suý thự phụ trách việc đánh trống và thổi sáo; Thái y thự trông coi về y tế
cho vua và toàn quốc (thời Hồng Đức cơ quan này gọi là Thái y viện, trực thuộc bộ
Lễ); Thái bốc thự chuyên việc tính âm dƣơng bói toán; Lẫm hi thự đảm nhận việc
cung cấp thóc gạo và súc vật cho các buổi tế lễ; và Thái miếu thự giữ việc trông coi
các đền thờ, miếu mạo.
- Quang lộc tự: phụ trách việc quản lý và cung cấp rƣợu tế, đồ lễ, đồ ăn trong
các buổi tế tự, triều hội, yến tiệc.
- Thái bộc tự: chuyên việc trông coi xe, chăm sóc ngựa của nhà vua và
Hoàng tử, kiểm soát gia súc trong cả nƣớc.
- Hồng lô tự: có trách nhiệm tổ chức những buổi xƣớng danh thi Đình. Ngoài
ra, Hồng lô tự còn đảm nhận nhiệm vụ sắp xếp các thể thức lễ nghi khi đón tiếp sứ
thần. Hồng lô tự kiêm quản hai thự là Điển khách thự phụ trách việc đón tiếp các
thƣợng khách ngoại quốc và Ti nghi thự chuyên việc tổ chức lễ an táng cho các đại
thần trong triều.
- Thường bảo tự: đảm nhận việc đóng ấn vào quyển thi của các thí sinh dự
Hội thí [104,74-76].
Tuy nhiên, nhƣ trên đã nói đây là những quy định trong quan chế thời
Đƣờng. Lục tự thời Lê Sơ có lẽ không có vai trò quan trọng và thực hiện nhiều công
việc đến thế.

31
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
1.2.2.3. Các cơ quan chuyên môn
Các cơ quan chuyên môn thời Lê Sơ chủ yếu bao gồm các giám, ty, viện và
sở sau:

- Quốc tử giám

Quốc tử giám là cơ quan giáo dục cao nhất cả nƣớc. Nhiệm vụ của Quốc tử
giám là phụng mệnh vua trông coi nhà Văn miếu, dạy dỗ các sĩ tử, hàng tháng theo
đúng kỳ hạn cho tập làm văn, “để gây dựng nhân tài, giúp việc thực dụng cho nƣớc”
[3,586].

Đứng đầu Quốc tử giám là quan Tế tửu (hàm 4b). Các Quốc tử giám Tế tửu
thời Lê thƣờng do các vị trƣởng quan Lục bộ, viện Hàn lâm, Đông các và Ngự sử
đài kiêm nhiệm. Giúp việc quan Tế tửu có Quốc tử giám Tƣ nghiệp (hàm 5b), năm
vị Ngũ kinh Bác sĩ (không rõ phẩm hàm), Giáo thụ (hàm 8a) chuyên việc giảng dạy
các kinh sách, Trực giảng và Trợ giáo1.

Những ngƣời học tại Quốc tử giám đƣợc chia làm hai loại là giám sinh và
học sinh. Giám sinh thời kỳ đầu là con các quan viên đã đỗ bốn trƣờng trong kỳ thi
Hƣơng. Về sau, nhằm khuyến khích và nâng đỡ con các quan viên hiếu học triều
đình có lệnh chỉ cho phép con các quan viên nếu thi Hƣơng trúng ba trƣờng thì
đƣợc sung làm Thƣợng xá sinh, trúng hai trƣờng làm Trung xá sinh, trúng một
trƣờng làm Hạ xá sinh, mỗi xá 100 ngƣời đƣợc vào học tại Quốc tử giám. Tiền ăn
học của mỗi giám sinh đƣợc quy định thống nhất là 9 tiền/tháng. Đến khi bổ dụng,
Quốc tử giám bảo cử và bộ Lại lựa chọn nhất loạt nhƣ nhau trong số giám sinh ba
xá. Đến năm 1484, theo lời tâu của Phó đô ngự sử Quách Hữu Nghiêm, vua Lê
Thánh Tông đã ban hành quy định sửa đổi về tiền lƣơng cấp hàng tháng và tỷ lệ bổ
dụng các giám sinh. Theo đó, phụ cấp ăn học của Thƣợng xá sinh là 1 quan/tháng,
Trung xá sinh là 9 tiền/tháng và Hạ xá sinh là 8 tiền/tháng. Đến khi trao chức thì
chia theo phần: Thƣợng xá sinh 3 phần, Trung xá sinh 2 phần và Hạ xá sinh 1 phần
[23,491; 25,1162]. Cũng để khuyến khích việc học hành, thi cử trong dân gian, năm
1483 vua Lê Thánh Tông đã ra sắc lệnh cho phép quân và dân nếu ai thi Hƣơng
trúng ba trƣờng đƣợc sung vào sinh đồ trong phủ mình, còn đỗ bốn trƣờng đƣợc
sung vào Quốc tử giám làm học sinh [25,1162].

1
Trực giảng và Trợ giáo là hai chức không có trong quan chế thời Lê nhƣng lại thấy chép trong
Đại Việt sử ký toàn thư.

32
Tồn tại tròn một trăm năm dƣới triều Lê Sơ, Quốc tử giám đã đào tạo hàng
nghìn nhân tài cho đất nƣớc, góp phần quan trọng tạo nên thời kỳ hƣng thịnh của
nền giáo dục và khoa cử Việt Nam thời trung đại.

- Thông chính ty

Nhƣ bản Hiệu định quan chế năm 1471 đã quy định: “Thông chính ty sứ ty
để tuyên hoá đức của vua và đề đạt nguyện vọng của dân” [23,453]. Vậy có thể
thấy, trách nhiệm chính của Thông chính ty là chuyển đạt công văn, chỉ dụ của triều
đình tới dân chúng, đồng thời chuyển đệ đơn từ của dân chúng lên triều đình. Ngoài
ra, Thông chính ty còn là cơ quan tiếp nhận bản tâu trình của các quan và nha môn
đƣợc sai đi làm việc, kiểm soát và đóng dấu vào các bản tâu trƣớc khi đệ trình lên
vua [23,405,433,498].

Đứng đầu Thông chính ty là một viên Thông chính sứ (hàm 4b). Giúp việc
có các chức Phó thông chính (hàm 5b), Ty thừa (hàm 6b), Điển sự (hàm 8b) [21,16-
19].

- Quốc sử viện

Quốc sử viện là cơ quan chuyên việc ghi chép, biên soạn sử sách. Quan chế
triều Lê quy định về chức vụ Sử quan: “Giữ công việc ghi chép biên soạn (sử sách).
Phàm nhà vua nói gì, làm gì, trong cung ƣa chuộng những gì, cùng là quan ty ngay
gian, chính sự hay dở, nhân tài hơn kém, phong tục xấu tốt, đều là theo từng việc
ghi chép thẳng thắn, để lƣu làm gƣơng mà khuyên răn” [3,590].

Đứng đầu Quốc sử viện là một viên Quốc sử viện Tu soạn (hàm 8a). Giúp
việc có các chức Sử quán Biên lục (hàm 8b), Đồng tu sử [21,19; 23,367].

Thế kỷ XIX, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần Văn
tịch chí cho biết từ thời Lý đến hết thời Hồng Đức đã có 36 bộ sử (gồm các loại
Hiến chƣơng, Kinh sử và Truyện ký) đã đƣợc biên chép, chiếm hơn 1/3 (36/107)
danh mục các tác phẩm sử học tính đến thời của ông. Đó cũng chính là những tƣ
liệu hết sức quan trọng để các sử quan triều Lê hoàn tất những tập đại thành về sử
học, mà Đại Việt sử ký toàn thư (hoàn thành năm 1479) là tác phẩm tiêu biểu nhất
[167,420-421].

33
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
- Các Sở về nông nghiệp

Với tƣ tƣởng trọng nông nhất quán, triều Lê Sơ lập ra nhiều cơ quan chuyên
trông coi về vấn đề ruộng đất và kinh tế nông nghiệp, đó là:

Sở Đồn điền có nhiệm vụ trông coi về ruộng đất cả nƣớc. Đứng đầu sở là
một viên Đồn điền Sở sứ (hàm 8b) và một viên Đồn điền Phó sứ (hàm 9a) giúp
việc.

Sở Tàm tang chuyên coi việc trồng dâu nuôi tằm. Sở do một viên Tàm tang
Sở sứ (hàm 8b) và một viên Tàm tang Phó sứ (hàm 9a) phụ giúp.

Sở Thực thái do một viên Thực thái Sở sứ (hàm 9a) đứng đầu, có nhiệm vụ
trông coi việc trồng rau.

Sở Điền mục có viên Điền mục Sở sứ (hàm 9a) phụ trách, chuyên trông coi
việc chăn nuôi gia xúc, gia cầm.

Ngoài ra, năm 1475 vua Lê Thánh Tông còn đặt chức Khuyến nông sứ và Hà
đê sứ (đều hàm 9b) để chuyên coi việc nông nghiệp, đê điều [104,78-79].

Các cơ quan chuyên môn trên đây tuy không trực thuộc sáu Bộ nhƣng lại
giúp công việc của sáu Bộ đƣợc triển khai nhanh chóng và có hiệu quả.

1.2.3. Tổ chức quân đội

1.2.3.1. Về cơ cấu tổ chức

Thông thƣờng, ngƣời đứng đầu quân đội toàn quốc là quan Thái uý. Tuy
nhiên, từ thời Lê Thánh Tông rất ít ngƣời giữ chức này. Quyền thống lĩnh toàn quân
khi ấy thuộc về một hội đồng gồm các Tả hữu Đô đốc của Ngũ phủ. Theo binh chế
thời Lê, các viên Tả hữu Đô đốc này cũng đồng thời đứng đầu mỗi quân phủ độc
lập và chịu trách nhiệm trực tiếp trƣớc Hoàng đế. Ngoài Ngũ phủ, nhà vua còn đặt
thêm quân ở trong kinh (vệ binh hay cấm binh) và quân địa phƣơng ngoài các đạo.
Vệ binh và quân các đạo không lệ thuộc trực tiếp và chỉ chịu sự thống lĩnh của Ngũ
phủ về mặt nguyên tắc, còn trên thực tế các đơn vị này chịu trách nhiệm cao nhất
trƣớc nhà vua. Nhƣ thế, Hoàng đế chính là vị chỉ huy tối cao của quân đội toàn
quốc.

34
- Quân Cấm vệ

Cấm vệ quân hay Cấm binh là lực lƣợng quân đội đóng tại kinh thành, có
nhiệm vụ trực tiếp bảo vệ nhà vua và triều đình trung ƣơng. Cấm binh đƣợc chia
làm nhiều vệ, mỗi vệ lại bao gồm một số ty hoặc sở (mỗi vệ thƣờng có 5 hoặc 6 sở);
mỗi ty gồm 100 ngƣời, mỗi sở gồm 20 đội, mỗi đội 20 ngƣời (tức mỗi sở có 400
quân). Đứng đầu mỗi ty là một viên Chỉ huy sứ (hàm 4a), phụ tá có các viên Chỉ
huy Đồng tri (hàm 4b) và Chỉ huy Thiêm sự (hàm 5a).
Bảng 4: Những Ty thuộc các Vệ Cấm quân thời Lê Thánh Tông
(Theo Lê Kim Ngân,[104,91])
Vệ Kim Quang vệ Cẩm Y vệ Cẩm Y vệ Kim Ngô vệ Kim Ngô vệ
(5 vệ) Lực sĩ Dũng sĩ Tráng sĩ Vũ sĩ Tráng sĩ
Ty 1. Kim đao 1. Ngân đao 1. Địch vạn 1. Trấn điện 1. Tráng sĩ
(66 ty) 2. Bảo đao 2. Ngọc sinh 2. Phục ba 2. Lực sĩ 2. Lăng ba
3. Hải thanh 3. Nghi vệ 3. Xa nhân 3. Kỳ thủ 3. Thần tý
4. Hà thanh 4. Tài quan 4. Tuấn sĩ 4. Tài lực 4. Chiêu dũng
5. Kỵ xạ 5. Hiệu lệnh 5. Thần uy 5. Trƣờng
6. Súng xạ 6. Địch vạn 6. Phi kỵ thƣơng
7. Minh uy 7. Thiên mã 7. Ngoại trực 6. Lăng ba
8. Loan giá 8. Kỳ thủ 8. Hiệu lệnh 7. Kính nỗ
9. Hiệu lệnh 9. Đình uý 9. Đình uý 8. Hoàn vệ
10. Phụng lệnh 10. Thủ ngữ 10. Nghi vệ 9. Đoản sào
11. Phục ba 11. Minh tiên 10. Định lệnh
12. Ngân thƣơng 12. Kỳ bài 11. Hộ vệ
13. Hãn vệ 13. Du nỗ 12. Thần tý
14. Du nỗ 14. Xuy kim 13. Định uy
15. Thần uy 15. Tráng nỗ 14. Thanh đạo
16. Phi kỵ 16. Ngũ hành
17. Thần xạ binh mã
18. Thanh Lộ 17. Tƣợng cứu
19. Xá nhân 18. Mã cứu
20. Kỳ bài

Nhƣ vậy, lực lƣợng Cấm vệ quân thời Lê Thánh Tông gồm 66 ty và 51 vệ.
Nếu quân số các ty, sở trên là đủ thì tổng số Cấm binh trong kinh thành là: 66 ty x
100 ngƣời + 51 vệ x 5 sở x 400 ngƣời = 108.600 quân.

35
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi

Bảng 5: Một số vệ, sở chính trong kinh đô


(Theo Lê Kim ngân, [104,92])

Cẩm y Kim ngô Điện tiền


4 vệ Tuần tƣợng, mỗi vệ: 1 vệ 4 vệ Thần vũ, mỗi vệ: 4 vệ Hiệu lực
- Đứng đầu: Chỉ huy sứ Mã - Đứng đầu: Chỉ huy sứ - Đứng đầu: Chỉ huy sứ
- Phụ tá: Chỉ huy sứ Đồng tri và nhàn, - Phụ tá: Chỉ huy sứ Đồng tri và - Phụ tá: Chỉ huy sứ Đồng tri và 6 vệ
Chỉ huy sứ Thiêm sự (mỗi Chỉ huy sứ Thiêm sự Chỉ huy sứ Thiêm sự
vệ
nhƣ
Vệ bên)
(19 Tiền Tả vệ Hữu Hậu 1 vệ Tiền Tả vệ Hữu Hậu Tiền Tả vệ Hữu Hậu Vũ lâm Tuyên Thiên Thuỷ Thần ứng
vệ) vệ 5 5 sở vệ 5 vệ 5 sở vệ 5 5 sở vệ 5 vệ 5 vệ 5 5 sở vệ 5 vệ 5 vệ 5 sở trung oai vệ quân sách thiên
sở sở sở sở sở sở sở sở sở vệ 5 sở 6 sở vệ 6 vệ 5 vệ 5 sở
sở vệ
Sở 1. 1. Đại 1. Oai 1. Tựu 1. Du 1. 1. 1. Vũ 1. 1. 1. 1. 1. 1. Đề 1. Tồi 1. 1. Hải 1. Tồi 1.
(97 Chiết tráng nhuệ lãng cảnh Phụng Hiệu công Kính Trung Trung Trung Trung kỵ sơn Thần kình kích Củng
sở) xung thiên trung tiết điện thần
2. 2. 2. Uy 2. 2. 2. 2. Úc 2. 2. 2. 2. 2. 2. 2. Tĩnh 2. Phi 2. 2. Hải 2. 2. Dực
Hùng Hoả dũng Cầm Tống Tiền trảo Thần Tráng Tiền Tiền Tiền Tiền nan thạch Thần mã Phục võ
lực mãnh chí hậu hƣng cục do tiến tàng
3. Oai 3. 3. 3. 3. Du 3. 3. 3. 3. Bảo 3. Tả 3. Tả 3. Tả 3. Tả 3. 3. 3. 3. Hải 3. 3.
phong Kính Chấn Thành mỹ Dũng Hoàn Túc tín Trƣờng Kiều Kính côn Vân Khống
uy địch nhạc hãn hổ quan kỹ quan nỗ dực hạc
4. 4. 4. Đô 4. 4. 4. Chu 4. 4. 4. 4. 4. 4. 4. 4. Trực 4. Quệ 4. 4. Hải 4. 4. Trực
Tráng Thần lỗ. Cảng Lăng lƣ Toàn Chấp Hiệp Hữu Hữu Hữu Hữu quang trƣơng Thần thu Duẩn quan
nghị thắng hà tiêu hầu sầm chính nỗ kích
5. 5. 5. 5. Quy 5. Đại 5. Hồ 5. 5. 5. Sƣ 5. Hậu 5. Hậu 5. Hậu 5. Hậu 5. Hắc 5. Dực 5. Tấn 5.Hài 5. 5. Phi
Phấn Phấn Khắc lâm hà viên Sâm Hiệp can sào vệ thạch hồng Thứ sơn
mãnh nhuệ tiệp cài lặc phi
6. Tấn 6. Hải
phi bằng

36
- Quân Ngũ phủ
Tháng 4 năm Quang Thuận thứ 7 (1466), Lê Thánh Tông bãi bỏ chế độ quân
5 đạo từ thời Lê Thái Tổ, đặt quân 5 phủ: Trung quân, Đông quân, Tây quân, Nam
quân và Bắc quân trông coi quân đội cả nƣớc1. Trong quan hệ với bộ Binh, Ngũ phủ
chịu trách nhiệm trông coi về phƣơng diện kỹ thuật chuyên môn thuộc binh bị; còn
bộ Binh chỉ có nhiệm vụ giải quyết những vấn đề thuộc về nhân sự, tiếp tế… Khi có
chiến tranh, Đô đốc Ngũ phủ kiểm sát về chiến thuật, bộ Binh hoạch định mƣu kế
và xếp đặt quân ngũ [104,83].
Về cơ cấu tổ chức: Mỗi phủ gồm 6 vệ, mỗi vệ có 5 hoặc 6 sở, mỗi sở có 20
đội, mỗi đội có 20 ngƣời (mỗi sở gồm 400 quân). Đứng đầu mỗi phủ gồm 1 viên Tả
đô đốc, 1 viên Hữu đô đốc, 1 Đô đốc Đồng tri và 1 viên Đô đốc Thiêm sự. Mỗi vệ
đặt các chức Tổng tri, Đồng tổng tri và Thiêm tổng tri. Mỗi sở có các chức Quản
lãnh, Phó quản lãnh, Chánh võ uý và Phó võ uý.
Bảng 6: Tổ chức quân Ngũ phủ thời Lê Thánh Tông
(Theo Lê Kim Ngân, [104,85-89])
Trung quân phủ
5 vệ, 31 Sở
Phụng Thánh Phụng Thần vệ Can Ngƣu Vệ Hổ Bôn vệ Xa Kỵ vệ Chấn Oai vệ
vệ 5 Sở 5 Sở 5 Sở 5 Sở 6 Sở
5 Sở
1. Thiên định 1. Hàm hổ 1. Minh nghĩa 1. Lục đinh 1. Cƣờng vũ 1. Lôi hoả
2. Thiên oai 2. Oai hổ 2. Hiệu nghĩa 2. Thần đinh 2. Thần vũ 2. Điện hoả
3. Thiên hùng 3. Thần hổ 3. Oai nghĩa 3. Tráng đinh 3. Hƣng vũ 3. Oai hoả
4. Thiên khôi 4. Mãnh hổ 4. Tín nghĩa 4. Nghĩa đinh 4. Kiêu vũ 4. Tiệp hoả
5. Thiên tiết 5. Hùng hổ 5. Kinh nghĩa 5. Hoả đinh 5. Tín vũ 5. Nhuệ hoả
6. Xuyên vân
Đông quân phủ
5 vệ, 31 sở
Minh nghị vệ Quang vũ vệ Ngọc kiềm vệ Anh đức vệ Lâm khang vệ Phấn oai vệ
5 sở 5 sở 5 sở 5 sở 5 sở 6 sở
1. Kiêu kỵ 1. Tam phụ 1. Chƣơng vũ 1. Vũ oai 1. Trực đãng 1. Chu điện
2. Huyền 2. Giải phân 2. Khống quyền 2. Thiết hồ 2. Ứng bình 2. Oai điện
ngạch 3. Oai dũng 3. Tráng dũng 3. Đầu đồng 3. Loan hồ 3. Mãnh điện
3. Khai sơn 4. Vân kỵ 4. Kiện vũ 4. Huyền qua 4. Bác trạo 4. Liệt điện
4. Trung oai 5. Hiệu thắng 5. Phê cang 5. Chấn viễn 5. Kiêu hùng 5. Phấn điện
5. Định oai 6. Lăng tiêu

1
Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, phần Binh chế chí chép: “Thánh Tông, năm
Quang Thuận thứ 7 (1466) đặt quân 5 phủ: Trung quân phủ lĩnh các xứ Thanh Hoa, Nghệ An;
Đông quân phủ lĩnh các xứ Hải Dƣơng, Yên Bang; Nam quân phủ lĩnh các xứ Sơn Nam, Thuận
Hoá, Quảng Nam; Tây quân phủ lĩnh các xứ Tam Giang, Hƣng Hoá; Bắc quân phủ lĩnh các xứ
Kinh Bắc, Lạng Sơn (các xứ Thái Nguyên, Tuyên Quang thì thuộc vào quân Phụng trực” [4,319].
Tháng 8 năm 1467, Lê Thánh Tông xét định lại chế độ quân ngũ, chia Trung quân phủ làm hai
Đô ty Thanh Hoá (gồm 5 vệ, 30 sở) và Nghệ An (3 vệ, 18 sở). Năm 1489, khi cả nƣớc đƣợc chia
thành 13 xứ, nhà vua lại đổi Trung quân phủ làm Trung đô phủ quản lãnh quân hai huyện Thọ
Xƣơng và Quảng Đức ở kinh thành Thăng Long, lệ thuộc trực tiếp vào Kinh sƣ. Cũng năm 1467,
đạo An Bang đƣợc tách khỏi Đông quân phủ, đạo Hƣng Hoá tách khỏi Tây quân phủ, đạo Thuận
Hoá tách khỏi Nam quân phủ và đạo Lạng Sơn tách khỏi Bắc quân phủ để thành lập các Đô ty
riêng (xem chi tiết bảng 6).

37
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Tây quân phủ
5 vệ, 30 sở
Kiêu tiếp vệ Nghiêm dũng vệ Ƣng dƣơng vệ Báo thao vệ Chiêu công vệ Lôi oai vệ
5 sở 5 sở 5 sở 5 sở 5 sở 5 sở
1. Oai viễn 1. Thận quốc 1. Ninh sóc 1. Chấn vũ 1. Chấp di 1. Xiết điện
2. Nhân oai 2. Bách ngạch 2. Lăng vân 2. Kiêu thắng 2. Phù tấn 2. Oanh thiên
3. Tín oai 3. Hùng thắng 3. Đột kỵ 3. Tinh việt 3. Kiển kỳ 3. Lôi oanh
4. Quy nghĩa 4. Chấp kích 4. Thiết sơn 4. Thiết ngạch 4. át khấu 4. Đình khu
5. Quyết kỳ 5. Hoành hải 5. Vạn tiệp 5. Tồi kiên 5. Thích xà 5. Xung chấn
Nam quân phủ
5 vệ, 31 sở
Bảo trung vệ Kiến huân vệ Chế thắng vệ Tráng tiết vệ Lạc xƣơng vệ Hùng oai vệ
5 sở 5 sở 5 sở 5 sở 5 sở 6 sở
1. Thần loan 1. Tráng phong 1. Chiêu vũ 1. Phi ƣng 1. Siêu quan 1. Chấn địch
2. Vân đề 2. Vũ kỵ 2. Chế kỳ 2. Quả cảm 2. Trinh kiện 2. Chế địch
3. Thần dực 3. Thần lực 3. Thiên trƣờng 3. Hoành dã 3. Hiệp luân 3. Hùng lực
4. Dũng tiếp 4. Mao đầu 4. Tráng tạo 4. Trấn lỗ 4. Tì túc 4. Chấn biên
5. Định vũ 5. Loan liễn 5. Sâm kỳ 5. Khắc địch 5. Đầu tì 5. Tĩnh tái
6. Ấm vũ
Bắc quân phủ
5 vệ, 31 sở
Ninh quốc vệ Dực thuận vệ Khai sơn vệ Thanh sóc vệ Hoàng tĩnh vệ Tuyên oai vệ
5 sở 5 sở 5 sở 5 sở 5 sở 6 sở
1. Đại thắng 1. Nghĩa dũng 1. Diệu võ 1. Quyết bài 1. Lạc hoan 1. Mãnh đột
2. Tĩnh kỵ 2. Lăng gian 2. Nghĩa thắng trung sở 2. Trƣớc kích 2. Khƣớc địch
3. Ngữ địch 3. Bạt sơn 3. Trứ dũng 2. Chiêu thắng 3. Tiễn hùng 3. Vô địch
4. Bình khấu 4. Tồi phong 4. Vạn thắng tiền sở 4. Đề khu 4. Quán giáp
5. Hùng dũng 5. Quyết thắng 5. Tĩnh biên 3. Vạn thắng 5. Phục hùng 5. Chấn hổ
hữu sở 6. Quán cách
4. Tĩnh biên
hậu sở
5. Không rõ
tên

Nhƣ vậy, Ngũ phủ quân thời Lê Thánh Tông gồm 30 vệ, 154 sở. Nếu quân
số các vệ sở trên là đủ thì tổng số quân Ngũ phủ là 154 sở x 400 quân = 61.600
ngƣời.

- Quân địa phương

Nhằm tăng cƣờng lực lƣợng quân bị, năm 1467, vua Lê Thánh Tông tách
quân của một số đạo ra khỏi Ngũ phủ lập thành các Đô ty riêng. Tại những đạo
không trực thuộc Ngũ phủ, các quan Tả hữu Đô đốc chỉ thống lĩnh về mặt danh
nghĩa, còn trên thực tế các Đô ty thuộc quyền điều khiển trực tiếp của quan Đô
Tổng binh sứ. Năm 1471, sau khi lập đạo Quảng Nam, nhà vua chia cả nƣớc làm 13
đạo Thừa tuyên (năm 1490 đổi thành xứ). Phụ trách mỗi đạo/xứ Thừa tuyên là ba cơ
quan độc lập: Thừa ty, Hiến ty và Đô ty. Đô ty chính là cơ quan đứng đầu về quân
đội ở mỗi địa phƣơng.

38
Lê Kim Ngân dựa trên những nghiên cứu của C.O.Hucker1, đồng thời căn cứ
vào Cương mục đã cho biết về tổ chức của các Đô ty nhƣ sau: Đứng đầu Đô ty là
một viên Đô tổng binh sứ, dƣới có các chức Tổng binh Đồng tri và Tổng binh
Thiêm sự giúp việc. Mỗi Đô ty gồm một số vệ (nhiều hay ít tuỳ sự quan trọng của
xứ đó). Mỗi vệ có ít nhất 5.600 quân lính, do một viên Chỉ huy sứ đứng đầu và hai
viên Chỉ huy sứ Đồng tri và Chỉ huy sứ Thiêm sự giúp việc. Mỗi vệ đƣợc chia thành
5 Sở Thiên hộ, mỗi sở 1.120 quân. Mỗi Sở Thiên hộ do một viên Thiên hộ phụ trách
và hai viên Phó thiên hộ giúp việc. Một Sở Thiên hộ lại bao gồm 10 Sở Nhất bách
hộ. Mỗi Sở Nhất bách hộ có 112 quân, đƣợc chia làm hai Tổng kỳ; mỗi Tổng kỳ chỉ
huy 5 Tiểu tổng kỳ; mỗi Tiểu tổng kỳ kiểm soát 10 lính. Ngoài ra, năm 1490 còn có
thêm các Sở Thủ ngữ Kinh lƣợc sứ đƣợc tổ chức giống nhƣ các Sở Thiên hộ, nhƣng
chịu sự quản lý trực tiếp của Đô ty chứ không lệ thuộc vào các vệ [104,93-94].
Bảng 7: Tổ chức quân ngũ tại các đạo Thừa tuyên2 thời Lê Thánh Tông
(Theo Lê Kim Ngân, [104,93-94])
Đơn vị Quân trực thuộc Ngũ phủ Quân thuộc các đạo
13 đạo Thiên Bắc Nam Quốc Thanh Nghệ An Tuyên Hƣng Thái Lạng Thuận Quảng
Thừa Trƣờng Giang Sách Oai Hoá An Bang Quang Hoá Nguyên Sơn Hoá Nam
tuyên
9 Đô ty Không Không Không Không Đô ty Đô Đô Đô ty Đô ty Đô ty Đô Đô ty Đô ty
có có có có Thanh ty ty Tuyên Hƣng Thái ty Thuận Quảng
Hoá Nghệ An Quang Hoá Nguyễn Lạng Hoá Nam
An Bang Sơn
26 Vệ - - - - 5 vệ 3 vệ 1 vệ 4 vệ 2 vệ 5 vệ 2 vệ 4 vệ Không

154 Sở - - - - Mỗi Mỗi 6 sở Mỗi vệ Mỗi 4 vệ 6 Mỗi 1 vệ 6 Không
vệ 6 vệ 6 6 sở = vệ 6 sở, 1 vệ vệ 6 sở, 3 rõ
sở sở = 26 sở sở = 5 sở = sở = vệ 5
= 30 18 sở 12 sở 29 sở 12 sở sở =
sở 21 sở
77 Sở - - - - - 7 sở 9 sở 5 sở 8 sở 22 sở 18 sở 6 sở 2 sở
Thủ ngữ

Nhƣ vậy, quân đội đóng ở các đạo tính đến thời điểm tháng 8 năm 1467 có
26 vệ. Nếu quân số các vệ trên là đủ thì tổng số quân địa phƣơng là 26 vệ x 5.600 =
145.000 quân.
Với cơ cấu tổ chức nhƣ trên, ta có thể tính đƣợc tổng số quân đội toàn quốc
vào năm Quang Thuận thứ 8 (1467) là: 108.600 quân Cấm vệ + 61.600 quân Ngũ
phủ + 145.000 quân địa phƣơng = 315.200 quân3.

1
Charles O.Hucker, Organization of the Ming Dynasty, Havard Journal of Asiatic Studies, Vol.21,
December, 1985, p.1-66.
2
Năm 1471, đạo Thiên Trƣờng đổi thành Sơn Nam, Bắc Giang thành Kinh Bắc, Nam Sách thành
Hải Dƣơng, Quốc Oai thành Sơn Tây.
3
Lê Đình Sỹ trong Cải cách võ bị triều Lê Thánh Tông sau khi tính toán đã đƣa ra một số liệu khác
về lực lƣợng quân đội thời Lê Thánh Tông tại thời điểm xét định quân ngũ năm 1467: Cấm binh có
66 ty, 300 sở, 120.000 quân; quân Ngũ phủ có 30 vệ, 154 sở, 61.600 quân; quân địa phƣơng có 27
vệ, 257 sở, 137.600 quân. Tổng cộng quân số cả nƣớc là 317.200 (chƣa kể 4 đạo Thừa tuyên không
có vệ trực thuộc Đô ty) [143,55].

39
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Tuy nhiên, không phải toàn bộ số quân trên đều thƣờng xuyên tại ngũ. Với
chính sách “ngụ binh ƣ nông”, quân đội thƣờng trực thời Lê Sơ thƣờng chỉ có 1/2
quân tại ngũ. Do vậy, vào thời bình quân số thƣờng trực của cả nƣớc chỉ khoảng 15
đến 16 vạn binh sĩ [104,95]. Khi đất nƣớc có chiến tranh, quân số sẽ tăng gấp đôi
hoặc hơn1.
1.2.3.2. Về cơ cấu chuyên môn
Bộ binh, Thuỷ binh, Kỵ binh và Tƣợng binh là bốn loại quân chủ yếu trong
lực lƣợng quốc phòng nƣớc ta thời phong kiến. Tuy nhiên, phải đến Lê Thánh
Tông, quan niệm về sự phân chia các binh chủng trên đây mới đƣợc xác định rõ
ràng. Tháng 11 năm Quang Thuận thứ 6 (1465), Lê Thánh Tông ban hành phép
duyệt tập trận đồ thuỷ bộ và các điều quân lệnh, trong đó có 9 đồ pháp thuỷ trận, 3
đồ pháp bộ trận, 31 điều quân lệnh về thuỷ trận, 22 điều về tƣợng trận, 27 điều về
mã trận và 42 điều về kinh vệ bộ trận [23,407-408]. Đây là một bƣớc tiến lớn về
nghệ thuật quân sự Việt Nam thời cổ.
Trong số các ty, vệ thuộc Cấm quân bảo vệ kinh thành, Lê Thánh Tông đặt
riêng 4 vệ Tuần Tƣợng và 1 vệ Mã Nhàn, mỗi vệ 5 sở (mỗi sở có 400 quân), đều có
quân hiệu riêng trực thuộc Cẩm Y vệ. Nhƣ vậy, tại kinh đô Thăng Long luôn có
8000 tƣợng binh và 2000 kỵ binh thƣờng trực trong tổng số 108.600 Cấm binh.
Tƣợng binh và Kỵ binh là hai lực lƣợng đƣợc triều đình quan tâm đặc biệt. Theo sắc
chỉ ban hành tháng 9 năm 1465, những kẻ cố ý giết voi nhà nƣớc, gây nguy hại đến
Tƣợng binh đều bị xử tội theo những mức độ khác nhau [23,406]. Hơn thế, những
quy định về việc nuôi dƣỡng, chăm sóc, bảo vệ voi ngựa của nhà nƣớc đã đƣợc đƣa
vào Quốc triều hình luật.
Đối với thuỷ quân, phần lớn các quy định về phép duyệt tập trận đồ thuỷ bộ
và các điều quân luật đƣợc ban hành năm 1465 trên đây; cùng với hàng loạt những
cuộc tập thuỷ trận do đích thân vua Lê Thánh Tông chỉ huy trong liên tiếp hai năm
1466, 1467 ở cửa biển Giao Thuỷ, ở sông Thiên Phái, Lỗ Giang, sông Vi, sông An
Cha và ngã ba Bạch Hạc [23,409,412,415-416]… đã cho thấy tầm quan trọng đặc
biệt của quân thuỷ trong binh chế triều Lê Thánh Tông. Cũng theo sử cũ, năm 1470,
Lê Thánh Tông đã huy động 25 vạn quân, sử dụng đến 5000 chiến thuyền trong
cuộc chinh phạt Champa [23,445; 174,264]. Điều đó phần nào cho thấy sức mạnh to
lớn của lực lƣợng thuỷ quân thời Lê Sơ.
Ngoài số quân tƣợng, quân ngựa và quân thuỷ trên đây, bộ binh là lực lƣợng
đông nhất trong quân ngũ triều Lê Sơ.
1
Ví dụ, năm 1470, khi Lê Thánh Tông thân chinh đi đánh Chiêm Thành, số quân đi theo là 26 vạn,
cộng với khoảng 14 vạn quân trấn thủ ngoài các đạo, tổng cộng là 40 vạn quân [104,81].

40
1.2.4. Các cơ quan giám sát và tư pháp
1.2.4.1. Hệ thống thanh tra, giám sát
* Lục khoa

Cho đến trƣớc thời Lê Thánh Tông, về cơ bản quan chế vẫn còn giản lƣợc.

1
Để giám sát toàn bộ hoạt động của bộ máy chính quyền, ngoài Ngự sử đài (lúc ấy
chủ yếu mới đƣợc tổ chức ở cấp trung ƣơng) đƣợc giao đặc trách còn có các chức
Tả hữu gián nghị đại phu thuộc Môn hạ sảnh . Năm 1460, cùng với việc đặt đủ
sáu Bộ, triều Lê lập ra sáu Khoa là Trung thƣ khoa, Hải khoa, Đông khoa, Tây
khoa, Nam khoa và Bắc khoa để giám sát hoạt động của sáu Bộ.

Để chuyên môn hoá hoạt động giám sát, năm 1465 Lê Thánh Tông cho đổi
Trung thƣ khoa thành Lại khoa, Hải khoa thành Hộ khoa, Đông khoa thành Lễ
khoa, Nam khoa thành Binh khoa, Tây khoa thành Hình khoa và Bắc khoa thành
Công khoa.

Đứng đầu mỗi Khoa là một viên Đô cấp sự trung (hàm 7a), một viên Cấp sự
trung (hàm 8a), cùng với số nha lại giúp việc cho các khoa Lại, Lễ và Công đều 21
ngƣời, hai khoa Hộ, Binh đều 51 ngƣời và Hình khoa là 32 ngƣời [25,1139]. Các
chức trƣởng quan trong Lục khoa xét về phẩm hàm tuy không cao, nhƣng do giữ
những chức vụ quan trọng nên đƣợc triều đình ban nhiều đặc ân. Theo chỉ dụ do Lê
Thánh Tông ban hành năm 1487 và 1493 thì khi nghị bàn chính sự tại triều đƣờng,
mỗi lúc nhà vua truyền hỏi, các quan sáu Khoa đƣợc tâu bày trƣớc tiên và đƣợc
đứng cùng hàng với các quan văn võ trong ban lục phẩm [23,502,511]. Chính vì
chức trọng, các quan sáu Khoa đƣợc triều đình tuyển chọn kỹ càng. Theo quy định,
đó phải là những ngƣời “liêm khiết, cần mẫn, cứng rắn, ngay thẳng, có thành tích về
chính trị” đƣợc chọn ra từ những tiến sĩ xuất thân trong cả nƣớc. Sau khi giữ chức
đủ một năm, Đô ngự sử đài sẽ khảo xét, đánh giá về những công việc họ đã làm
trong năm, tâu bày lên vua rồi mới đƣợc quyết định là tiếp tục giữ chức hay đổi
sang làm nhiệm vụ khác [25,1191].

Chức trách chính của Lục khoa là kiểm soát sáu Bộ về phƣơng diện chuyên
môn, nhƣ Lê Thánh Tông đã quy định trong Hiệu định quan chế năm 1471: “Bắt

1
Ở nƣớc ta, các chức Tả hữu gián nghị đại phu đƣợc đặt từ thời Lý Thái Tông (1028-1054). Năm
1471, Lê Thánh Tông định lại quan chế đã bỏ các chức ấy. Từ đó về sau, để khen ngợi những bề tôi
nói thẳng nhà nƣớc đặc cách gia thêm hàm ấy chứ không liệt vào thứ bậc.

41
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
lính, xuất quân là việc ở phủ Đô đốc, mà thể thống tất quan hệ đến bộ Binh; xuất
kho, nhập kho là chức trách bộ Hộ, mà thu chi tất can thiệp đến Hộ khoa; Bộ Lại
nếu cất nhắc ngƣời bất tài, Lại khoa có quyền bác bẻ cải chính; Bộ Lễ bàn nghi lễ
sai trình tự, Lễ khoa đƣợc phép hặc tấu; Hình khoa kết luận những việc mà bộ Hình
xét hỏi kiện sai hay đúng; Công khoa xét công việc bộ Công chăm hay lƣời”
[6,118].

Bên cạnh chức năng chuyên trách là giám sát sáu Bộ (năm 1465 là Viện)
theo từng lĩnh vực hoạt động, Lục khoa còn có nhiệm vụ phối hợp thực hiện công
việc và giám sát chéo với Ngự sử đài, nhất là trong việc tuyển bổ, thăng giáng hay
bãi miễn quan lại. Mặc dù các chức quan trong sáu Khoa là do Đô ngự sử đài khảo
xét, tuyển bổ hoặc đề nghị miễn nhiệm, nhƣng Lục khoa lại có quyền đàn hặc nếu vị
quan đứng đầu Ngự sử đài không thực thi đúng chức trách của mình [25,1191].

Ngoài ra, Lục khoa còn có các nhiệm vụ khác nhƣ tham gia luận bàn những
vấn đề hệ trọng của đất nƣớc; thẩm tra hình ngục, xét xử các án kiện; tìm hiểu, điều
tra đời sống của nhân dân…

Chính nhờ hoạt động tích cực của Lục khoa mà các Bộ không dám lộng
quyền, bỏ bễ công việc hoặc làm sai chức trách. Đây là một giải pháp hữu hiệu làm
lành mạnh hoá hoạt động của các cơ quan nhà nƣớc trong một thiết chế tập quyền
cao.

* Ngự sử đài

Ngự sử đài xuất hiện ở nƣớc ta từ thời vua Lý Thái Tổ, đứng đầu bởi các
chức quan: Ngự sử đại phu, Ngự sử trung thừa, Trung thừa xá nhân1. Sang thời
Trần, Ngự sử đài tiếp tục đƣợc duy trì và hoàn thiện với nhiều chức quan chuyên
trách nhƣ Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Ngự sử trung tán, Ngự sử trung thừa, Ngự
sử Đại phu và Chủ thƣ Thị ngự sử2.

1
Cho đến nay, rất nhiều nghiên cứu đều cho rằng Ngự sử đài ra đời ở nƣớc ta vào thời Trần. Tuy
nhiên, Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu lục, Đặng Xuân Bảng trong Sử học bị khảo đã cho biết thời
Lý đã có các chức quan trong Ngự sử đài là Ngự sử đại phu, Ngự sử Trung thừa và Trung thừa xá
nhân [6,110; 1,497]. Đại Việt sử ký toàn thư cho biết rõ hơn, vào năm 1016 thời vua Lý Thái Tổ,
Lƣơng Nhậm Văn giữ chức Ngự sử đại phu [tập 1, tr.245].
2
Các chức quan này đƣợc Phan Huy Chú kê trong Lịch triều hiến chương loại chí [3]. Tuy nhiên,
Đặng Xuân Bảng trong Sử học bị khảo đã đƣa ra một danh sách khác so với Phan Huy Chú. Ngoài
các chức: Thị ngự sử, Giám sát ngự sử, Ngự sử trung tán, Ngự sử đại phu ông còn bổ sung chức
Ngự sử trung tƣớng (sau đổi làm trung uý) nhƣng không thấy nhắc đến chức Chủ thƣ thị ngự sử.

42
Đầu thời Lê Sơ, trong khi nhà Minh đã lập Đô sát viện1 thì Ngự sử đài tiếp
tục đƣợc duy trì ở Việt Nam. Ở trung ƣơng, Ngự sử đài có các chức Ngự sử Trung
thừa, Ngự sử Phó trung thừa, Thị ngự sử, Điện trung thị ngự sử cùng một số lại viên
giúp việc khác. Ở các địa phƣơng, mỗi đạo2 có một viên Giám sát ngự sử. Tuy
nhiên, sử liệu không cho biết gì nhiều hơn về cơ cấu tổ chức, số lƣợng, phẩm hàm
quan lại, cũng nhƣ quyền hạn, trách nhiệm của cơ quan này.
Sơ đồ 2: Hệ thống giám sát, thanh tra nhà nƣớc từ 1429-1459

Hoàng đế

Ngự sử đài TW

Giám sát ngự sử


5 đạo

Quan hệ giám sát


Quan hệ can gián

Đến Lê Thánh Tông, trong nội dung cải cách hành chính của mình ông hết
sức chú trọng việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức và nâng cao vai trò, quyền hạn của các
cơ quan thanh tra, giám sát. Cải tổ lại Ngự sử đài, Lê Thánh Tông cho đổi chức
Trung thừa làm Đô ngự sử (còn gọi là Đô đài ngự sử, hàm 3a); đổi Phó trung thừa
thành Phó đô ngự sử (4a); lập thêm Thiêm đô ngự sử (5a); bỏ chức Thị ngự sử và
bổ sung 2 viên Đề hình giám sát ngự sử (7a) để chuyên giám sát hoạt động của các
cơ quan trông coi pháp luật3 [6,115; 1,67]. Các cơ quan trực thuộc Ngự sử đài có: 1-

Riêng chức Ngự sử trung tán ông cho rằng do nhà Trần kiêng huý nên đổi Trung thừa thành Trung
tán [1,516].
1
Năm 1367, nhà Minh đổi Ngự sử đài thành Đô sát viện, với các chức Tả hữu Đô ngự sử 2, Tả hữu
Phó đô ngự sử 2, Tả hữu Thiêm đô ngự sử 2 và 118 vị Giám sát ngự sử 13 đạo. Theo quan chế triều
Minh, Đô sát viện còn có vai trò kết hợp với các Bộ trong việc khảo xét truất giáng quan lại, hình
ngục. Xem Huang Bendai, Lidai zhiguan biao, Sđd, tr.123, dẫn theo Đinh Khắc Thuân [1,133].
2
Cả nƣớc khi ấy đƣợc chia làm 5 đạo: Đông, Tây, Nam, Bắc và Hải Tây.
3
Trong Tổ chức chính quyền dưới triều Lê Thánh Tông (1460-1497) Lê Kim Ngân đã dẫn sách
Hiệu định tấn thân sự lục cho rằng chức Đề hình giám sát ngự sử chỉ có nhiệm vụ chuyên trông coi
về việc hình án do Ngự sử đài khám đoán [104,97]. Tuy nhiên, trong Đại Việt sử kỷ toàn thư có
chép: “Tháng 8 (1471) định chức trách của quan Đề hình. Các Đề hình ngự sử khi đứng trong ban
triều tham phải nhƣ Ngự sử của các đạo. Còn việc soát xét Hình bộ và Đại lý tự, việc kiểm tra hình

43
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Tư vụ tỉnh do 1 viên Tƣ vụ (8b) đứng đầu, có trách nhiệm trông coi tổng quát các
công việc hàng ngày của Ngự sử đài; 2- Kinh lịch ty đứng đầu bởi 1 viên Kinh lịch
(8b) đảm trách việc đăng lục các án; 3- Chiếu ma sở giữ nhiệm vụ ghi chép sổ sách,
án văn… do 1 viên Chiếu ma (8b) phụ trách; 4- Án ngục sở do 1 viên Ngục thừa
(9a) đứng đầu với trách nhiệm trông coi việc hình ngục [25,1116-1117; 104,97].
Tính toàn bộ, ở cấp trung ƣơng Ngự sử đài bao gồm 4 cơ quan và 9 viên quan
chuyên trách, cùng với 30 viên đô lại giúp việc [21,115].

Về việc chọn bổ các chức trong Ngự sử đài, thời Lê Thái Tổ đã có quy định
rằng: “Các chức Ngự sử đài Trung thừa và Phó trung thừa, bổ chức An phủ ở lộ
sung vào; Điện trung thị ngự sử bổ Chuyển vận sứ ở huyện và và Giáo thụ ở lộ sung
vào; Giám sát ngự sử bổ thuộc quan ở Trung thƣ sảnh, Ngự tiền học sinh và Giáo
thụ các lộ sung vào; Ngự sử chủ bạ bổ học sinh sung vào” [25,825; 6,115-116]. Tuy
nhiên, giai đoạn này vì nhiều lý do khác nhau mà việc tuyển chọn các chức trong
Ngự sử đài chƣa đƣợc tiến hành quy củ. Năm 1481, vua Lê Thánh Tông xuống
chiếu nói rõ: “Bầy tôi trong kinh sƣ, ngoài các đạo, bắt chƣớc thói xấu của nhau ăn
tiền nhảm nhí, việc này tin chắc là vì chƣa tìm đƣợc ngƣời xứng đáng giữ chức
trách ngôn luận, hoặc ngƣời thì xuề xoà xong việc, cho thế là hay, hoặc ngƣời thì đả
kích ngƣời khác, rƣớc lấy sự ghen ghét vào mình. Lề lối ngƣời làm quan, thành ra
tham ô nhũng lạm, làm cho dân phải oán thán, vì thế mà can phạm đến khí hòa, sinh
ra tai biến, tệ tục cần phải thay đổi. Vậy từ nay, đối với các chức trong Lục khoa,
Ngự sử đài và Hiến sát sứ, ngƣời nào đáng phải thải đi, ngƣời nào đáng đƣợc cất
nhắc lên để thay thế, các bầy tôi trong triều nên theo lẽ công bằng bàn luận việc lựa
chọn, rồi làm bản tâu đầy đủ, sẽ cho thi hành, để bỏ hết tệ tục trƣớc” [25,1159-
1160]. Năm 1497, triều đình lại ban hành quy định bổ sung, theo đó các chức quan
Ngự sử đài từ Giám sát ngự sử trở lên phải xuất thân tiến sĩ, là những “ngƣời liêm
khiết, cần mẫn, cứng rắn, ngay thẳng, có thành tích về chính trị”. Sau một năm làm
việc, “Đô ngự sử đài xét nghiệm về sự trạng đã làm, rồi tâu bày đầy đủ. Nếu xét ra
ngƣời nào có thể dùng đƣợc sẽ cho giữ chức nhƣ cũ, ngƣời nào không thể dùng
đƣợc sẽ đổi sang giữ chức khác” [25,1191].

án của Ngũ hình là theo quy định của các năm Thuận Thiên và Đại Bảo, không phải là mới đặt. Từ
Hình bộ Thƣợng thƣ trở xuống, tới Đại lý tự và các ngục quan, ngƣời nào tha tội hay buộc tội cho
ngƣời không đúng luật pháp thì phải tâu hặc. Ngƣời có tội bị oan uổng cũng phải xét lại và minh
oan cho họ” [23,452-453]. Nhƣ vậy, bộ Hình, Đại lý tự và tất cả các viên quan thực thi việc hình án
đều thuộc quyền giám sát của Đề hình giám sát ngự sử.

44
Trên nguyên tắc, Ngự sử đài chịu trách nhiệm cao nhất và trực tiếp trƣớc nhà
vua, trong một số lĩnh vực chịu sự giám sát của Lục khoa, nhƣng có quyền hạn và
trách nhiệm rất lớn:

1- Trực tiếp can gián Hoàng đế. Trong lệnh dụ khi lập Ngự sử đài năm 1429,
Lê Thái Tổ đã cho phép các ngôn quan đƣợc thẳng thắn can gián vua. Năm 1456,
Lê Nhân Tông trong tờ chiếu chiếu răn dạy trăm quan làm tròn bổn phận đã quy
định “các quan ở Ngự sử đài thì nên giúp vua sửa điều lỗi, chữa điều lầm, trừ bỏ
điều ác, biểu dƣơng điều thiện” [25,973]. Theo chức trách đƣợc giao, các ngôn quan
đƣợc phép nói thẳng, khuyên can về thái độ, tác phong, hành vi cƣ xử, cũng nhƣ
thẳng thắn tâu bày, can ngăn trong tất cả các quyết định hệ trọng của nhà vua. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy giữa nhiệm vụ họ đƣợc giao và việc thực thi nó lại không
hoàn toàn đồng nhất. Trong trƣờng hợp này, tính chất tập quyền luôn là nguyên tắc
tối thƣợng và việc các gián quan thực hiện nhiệm vụ đến đâu lại phụ thuộc rất lớn
vào sự anh minh, sáng suốt của vị Hoàng đế. Đã không ít trƣờng hợp, vì việc
khuyên can mà các ngôn quan bị giáng, miễn chức (trƣờng hợp của Phó trung thừa
Nguyễn Thiên Hựu thời Thái Tông, Giám sát ngự sử Cao Mô thời Nhân Tông, Nam
đạo Giám sát ngự sử Trình Bá Tu thời Thánh Tông…), bị tù ngục (Phó đô ngự sử
Đỗ Nhân thời Uy Mục…) hoặc thậm chí bị giết hại (Đô ngự sử Nguyễn Quang Bật
thời Uy Mục, Đô ngự sử Đỗ Nhạc và Thiêm đô ngự sử Nguyễn Dự thời Chiêu
Tông…).

2- Tham gia luận bàn chính sự. Tuy không phải là cơ quan trực tiếp giải
quyết các công việc quản lý nhà nƣớc, nhƣng các quan trong Ngự sử đài đƣợc tham
gia họp bàn, góp ý kiến vào tất cả những quyết định hệ trọng của đất nƣớc. Theo
quy định về thứ tự luận bàn chính sự của các quan khi lên triều đƣờng ban hành
năm 1487, thì khi nhà vua truyền hỏi, các quan ở Lục khoa và Ngự sử đài đƣợc
phép tâu trình trƣớc tiên, sau đó mới đến các quan trong Lục bộ, Lục tự, các quan
đƣợc ban tƣớc công, tƣớc hầu, tƣớc bá và Đô đốc trong Ngũ phủ.

3- Đàn hặc các quan. Đây là nhiệm vụ chính của Ngự sử đài. Với chức năng,
thẩm quyền đƣợc giao, phàm “các đại thần, quan lại, tƣớng hiệu, quan chức trong
ngoài không giữ phép, nhận hối lộ, nhiễu hại lƣơng dân, thiên tƣ phi pháp” [23,299-
230] và “các nha môn ở trong kinh có những việc tham tang, việc trái phép cùng tất
cả sự lợi hại về việc công” [25,1161] thì Ngự sử đài đều đƣợc phép dâng sớ trực
tiếp lên vua để hặc tội. Chức trách của ngôn quan là nhằm “sửa chữa điều lỗi, bẻ
hặc điều lầm, ngăn ngừa kẻ dở, cất nhắc ngƣời hay”, “cốt là để cho các chức lớn

45
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
nhỏ cùng giàng buộc nhau, nặng nhẹ cùng giữ gìn nhau, lẽ phải của nƣớc không bị
chuyên riêng, việc lớn của nƣớc không đến lung lay, khiến có thói tốt làm hợp đạo
đúng phép, không có lầm lỗi làm trái nghĩa phạm hình” [3,573].

4- Tham gia vào việc tuyển bổ, khảo xét quan lại. Nhà vua từng có lệnh dụ
riêng với Lục khoa và Ngự sử đài rằng: "Tiến cử ngƣời hiền tài, loại bỏ kẻ bất hiếu,
đó là việc lớn của chính trị… Bọn các ngƣơi giữ giƣờng mối của triều đình, làm tai
mắt của Thiên tử, tiến ngƣời hay, bỏ kẻ dở là chức phận phải làm" [23,523]. Về việc
cho phép các ngôn quan đƣợc quyền bảo cử quan lại, Lê Thánh Tông đã ban hành
hai sắc dụ quan trọng vào năm 1487 và 1489, một đồng ý để họ tham gia chọn bầu
và bổ dụng chức Tổng binh các xứ, và một cho phép tham gia bảo cử ngƣời giữ
chức Lang trung và Viên ngoại lang trong bộ Hình. Về việc khảo xét các quan, năm
1484 Lê Thánh Tông ban sắc dụ yêu cầu Ngự sử đài xét lại các quan do Đô đốc
Ngũ phủ và đƣờng quan ba ty Đô, Thừa, Hiến các xứ bảo cử. Riêng việc khảo hạch
thƣờng niên đối với các quan Thừa chính và Hiến sát các xứ Ngự sử đài đƣợc giao
trực tiếp phụ trách.

5- Thanh tra, giám sát và trực tiếp xét xử hình án. Quyền hạn của Ngự sử đài
đối với việc hình án thể hiện ở cả chức năng thanh tra, chất vấn các cơ quan tƣ pháp
(bộ Hình, Đại lý tự, Đình uý ty… Ở chức năng này Ngự sử đài có phạm vi kiểm
soát rộng hơn so với Hình khoa), và cả ở chức năng trực tiếp xét xử các án. Đầu
triều Lê, Ngự sử đài theo quy chế chỉ đƣợc xét xử các vụ trọng án sau khi đã có đặc
chỉ của nhà vua, còn những vụ kiện tụng phải phúc thẩm thì không giao qua cơ quan
này [6,114]. Từ thời Lê Nhân Tông, việc xét khám từ tụng của Ngự sử đài tuy
không đặt thành lệ, nhƣng trong một số trƣờng hợp cụ thể, các ngôn quan đƣợc trực
tiếp tham gia xét xử hình án [23,359; 25,943-944].
Bảng 8: Các chức quan Ngự sử đài triều Lê Thánh Tông
(Thống kê từ Thiên Nam dư hạ tập, Lê triều quan chế,
Khâm định Việt sử thông giám cương mục)
Chức vụ Số lƣợng Phẩm hàm
Đô ngự sử 1 3a
Phó đô ngự sử 1 4a
Thiêm đô ngự sử 1 5a
Đề hình giám sát ngự sử 2 7a
Giám sát ngự sử 13 đạo 26 7a
Kinh lịch 1 8b
Tƣ vụ 1 8b
Chiếu ma 1 8b
Ngục thừa 1 9a
Cộng 35

46
Sơ đồ 3: Hệ thống thanh tra, giám sát triều Lê Thánh Tông

Hoàng đế

Ngự sử đài
Lục khoa
Trung ƣơng

Lục bộ Giám Hiến


sát sát
ngự sử sứ
13 đạo
ty

Cùng với Lục khoa và Ngự sử đài ở trung ƣơng còn có Giám sát ngự sử ở 13
đạo thừa tuyên (trực thuộc Ngự sử đài ở trung ƣơng) và Hiến sát sứ ty các xứ. Tất
cả tạo thành một hệ thống liên hoàn, chặt chẽ và quy củ. Chúng tồn tại trong mối
quan hệ vừa cộng tác, phối hợp với nhau thực hiện nhiệm vụ, lại vừa kiềm chế,
kiểm soát lẫn nhau tạo nên một hệ thống kiểm soát chéo, giám sát kép trong hoạt
động thanh tra nhà nƣớc. Các cơ quan đó chính là “tai mắt” của Hoàng đế, thay ông
giám sát toàn bộ hoạt động và góp phần làm lành mạnh hoá bộ máy chính quyền các
cấp.
1.2.4.2. Các cơ quan xử án và việc tư pháp
Theo quan chế triều Lê, không có một cơ quan nào toàn quyền về xét xử
hình án, mà đó là sự tồn tại của một hệ thống các thẩm cấp.
Ở các cấp cơ sở, vị thẩm phán cao nhất chính là viên quan đứng đầu địa
phƣơng đó, và việc xét án chỉ là một trong những công việc hành chính mà ngƣời
đó phải đảm nhiệm. Dƣới thời Lê Thánh Tông, cả nƣớc đƣợc chia làm 13 đạo thừa
tuyên, dƣới đạo là các cấp phủ, huyện (hoặc châu ở miền núi), xã. Đứng đầu cấp
đạo là ba ty: Đô ty, Thừa ty và Hiến ty, trong đó Hiến ty là cơ quan chuyên việc
hình ngục. Ở các cấp thấp hơn, việc tƣ pháp đƣợc giao cho các quan đứng đầu tổ
chức hành chính.
Các án tuỳ theo mức độ nặng nhẹ mà đƣợc xét xử ở cấp có đủ thẩm quyền và
phải tuân theo trình tự nhất định. Năm 1434, nhà Lê quy định về thủ tục tố tụng nhƣ
sau: “Quân hay dân nếu có vụ kiện nhỏ thì tới chỗ xã quan của mình mà trình bày,

47
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
xã quan không giải quyết đƣợc mới lên huyện, huyện không giải quyết đƣợc mới
lần lƣợt lên lộ, lên phủ, phủ không giải quyết đƣợc thì bấy giờ mới đƣợc tâu lên…
Các vụ kiện lớn thì mới cho tâu thẳng lên” [23,318]. Pháp luật nhà Lê nghiêm cấm
việc đệ đơn từ vƣợt cấp. Năm Hồng Đức thứ 12 (1484), nhà nƣớc có quy định: “Trừ
các việc tình hình biên giới, các việc cơ mật, nếu là các việc kiện tụng, các ty Thừa
Hiến của phủ huyện và các nha môn giám sát của Bộ khám xét giải quyết đều không
đƣợc đệ đơn lên. Nếu kẻ nào đệ đơn vƣợt cấp mà nha Thông chính kiểm tra phát
hiện ra thì theo lệnh trƣớc đây xử phạt đánh trƣợng, huỷ bỏ đơn đó. Nếu nha Thông
chính không kiểm tra phát hiện ra thì các quan Lục khoa kiểm tra rồi đƣa ra xét xử,
hỏi tội” [28,291]. Thủ tục tố tụng đƣợc quy định thành luật là một bƣớc tiến mới
trong hoạt động lập pháp thời Lê Sơ.
Ở cấp trung ƣơng, trƣớc thời Lê Thánh Tông, việc xét xử hình án đƣợc giao
cho năm Viện tƣ pháp độc lập gọi là Viện Ngũ hình, gồm: Tả hình, Hữu hình, Thẩm
hình, Tƣờng hình và Ty hình. Đứng đầu mỗi Viện là một viên Đại phu, các viên
Phó sứ, Lang trung, Đồng tri giúp việc. Tuy nhiên, vì thiếu nguồn tài liệu nên chúng
tôi không rõ về quyền hạn và sự phân công nhiệm vụ giữa các Viện này.
Đến năm 1460, cùng với sự ra đời của Lục bộ, bộ Hình trở thành cơ quan
chịu trách nhiệm chung về việc pháp luật và hình án. Lúc này, Viện Ngũ hình trực
thuộc bộ Hình. Năm 1466, Lê Thánh Tông sắp xếp lại bộ Hình, đổi viện Tả hình
thành ty Thanh hình, viện Hữu hình thành ty Thận hình, ba viện Thẩm hình, Tƣờng
hình và Ty hình chia làm hai ty Minh hình và Tƣờng hình, bỏ chức Đại phu và chọn
ngƣời “có đức độ vừa cƣơng vừa nhu dung hoà với nhau và có tài sở trƣờng về việc
hỏi kiện” để sung chức Lang trung và Viên ngoại lang đứng đầu các Thanh lại ty
[23,343; 25,1026-1027].
Cơ quan thứ hai có thẩm quyền xét xử hình án là Ngự sử đài. Theo thủ tục
thông thƣờng, ở trong kinh các án phải qua các cấp xét xử là Đề lĩnh, Phủ doãn, ở
ngoài các đạo thì qua tay các Thừa ty và Hiến ty rồi mới chuyển về bộ Hình. Trong
trƣờng hợp án bị kêu ca và khiếu nại thì Ngự sử đài đem ra duyệt lại [104,99].
Năm 1466, Lê Thánh Tông đặt sáu Tự. Đại lý tự trở thành cơ quan tƣ pháp
chuyên xét xử các vụ trọng án1.
Một cơ quan khác ở trung ƣơng cũng có thẩm quyền xét xử các án là Ty
Đình uý. Đầu thời Lê, Ty Đình uý thuộc Cẩm Y vệ. Năm 1499, vua Lê Hiến Tông
tách Đình uý ty khỏi vệ Cẩm Y, chọn nho thần trao các chức Chỉ huy sứ ty, Chỉ huy

1
Xem thêm phần 1.2.2.2, trang 31 của luận văn.

48
Đồng tri và Chỉ huy Thiêm sự trông coi. Nhiệm vụ của ty Đình uý là khi có chiếu
chỉ của nhà vua đƣợc phép xét hỏi những phạm nhân trọng tội, án đáng ngờ [24,20].
Nhƣ vậy, giữa bốn cơ quan tƣ pháp ở trung ƣơng thì bộ Hình quản lý chung
về tất cả các việc liên quan đến luật lệnh, hình pháp, tù ngục; Ngự sử đài xét duyệt
các án có kêu ca, khiếu nại do bộ Hình chuyển đến; Đại lý tự xét lại những vụ trọng
án trƣớc khi đệ trình lên vua; ty Đình uý xét xử các phạm nhân trọng tội, án đáng
ngờ khi có đặc chỉ của nhà vua. Trong nhiều trƣờng hợp, những vụ trọng án phức
tạp, các cơ quan trên cùng họp bàn, công đồng xét xử.
Cùng với việc kiện toàn các cơ quan xét xử, triều Lê, đặc biệt là từ thời Lê
Thánh Tông đã rất chú ý đến việc hoàn thiện hệ thống luật pháp, tạo khung pháp lý
cho việc thực thi phép nƣớc. Ngoài ba bộ luật lớn cùng đƣợc ban hành dƣới triều
Hồng Đức là Quốc triều hình luật, Thiên Nam dư hạ tập và Hồng Đức thiện chính
thư thì trong gần 38 năm trị vì, vua Lê Thánh Tông còn ban hành 112 sắc chỉ, lệnh
dụ khác. Trong số đó, có 83 sắc chỉ về các công việc hành chính và thể chế quan
chức, 10 sắc chỉ về các quy định kiện tụng, 8 sắc chỉ về đội ngũ quan lại trông coi
pháp luật, 11 sắc chỉ về chống tham nhũng, buôn lậu, hối lộ, móc ngoặc và những
sắc chỉ khác về các vấn đề hình sự, dân sự… [54,108].
Thông qua các sắc chỉ, lệnh dụ trên, Lê Thánh Tông đặc biệt chú ý đến việc
xây dựng đội ngũ quan lại xét án và chấn chỉnh lề lối làm việc của ngành tƣ pháp.
Trƣớc hết, về tiêu chuẩn của đội ngũ quan lại trông coi pháp luật, vua Lê
Thánh Tông ban chiếu rằng: “Việc hình ngục quan hệ không nhỏ, quan xét xử phải
chọn cẩn thận”. “Hình quan là chức quan trọng, phải chọn ngƣời có sở trƣờng.
Quan các ty ở Hình bộ, không kể là nho hay là lại, nếu tài năng kiến thức nông cạn,
không am hiểu về hình danh, thì đƣờng quan Bộ ấy lựa thải ra, làm bản tâu lên, giao
cho Lại bộ đổi bổ chức khác, rồi chọn các quan trong kinh ngoài trấn, ngƣời nào đã
nhận chức đủ hai kỳ khảo khoá trở lên, đã thi đỗ và có tài năng, kiến thức, cùng
những ngƣời do lại viên xuất thân mà đã từng trải việc hình danh để bổ vào thay”
[23,481]. Nhƣ thế, có kinh nghiệm làm việc và sự am hiểu về kiến thức luật pháp là
những tiêu chuẩn quan trọng hàng đầu mà Lê Thánh Tông đòi hỏi ở đội ngũ pháp
quan. Năm 1465, Lê Thánh Tông lệnh chỉ chia các quan ở viện Ngũ hình thành ba
loại: loại xử kiện công bằng, không có oan uổng, loại bình thƣờng và loại hèn kém.
Khi xét công, loại thứ nhất đƣợc khen thƣởng, loại thứ hai đƣợc giữ lại làm việc,
còn loại thứ ba phải chuyển ra làm chức Chuyển vận (sau đổi thành Tri huyện)
[23,404,505]. Năm Đinh Hợi (1467), sau khi cắt chức hai viên Lang trung Phạm
Nại và Viên ngoại lang Đoàn Văn Thông của bộ Hình vì đã nhiều lần xử oan, đơn

49
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
kiện chất chứa, vua Lê Thánh Tông đã lệnh cho Thƣợng thƣ bộ Lại Nguyễn Nhƣ
Đổ phải “lựa chọn chọn lấy những ngƣời nhân hậu, khoan thứ, sáng suốt, công bằng
ở các nha môn trong ngoài” để thay vào chức ấy [23,432]. Năm 1478, nhà vua lại
dụ cho quan bộ Hình công bằng xét kỹ các quan ở ty trực thuộc, ngƣời nào vốn xuất
thân là lại viên mà học thức nông cạn, tài năng thấp kém thì làm bản tâu lên bộ Lại
để đổi sang làm việc khác. Đồng thời, chọn lấy các tiến sĩ và sĩ nhân đã thi đỗ, từng
làm qua các chức ở phủ, huyện, châu và chức thủ lĩnh mà có tài năng, kiến thức để
bổ thay vào [23,472].
Tuy vậy, đội ngũ pháp quan dƣới triều Lê cũng bộc lộ nhiều yếu kém, một số
trƣờng hợp còn vi phạm pháp luật. Đã không ít lần các quan xét xử hình án bị trách
phạt, bị giáng hoặc biếm chức vì không làm tròn chức trách, phạm tội móc ngoặc
hoặc tham lam nhận hối lộ. Thực tế đó đã khiến Lê Thánh Tông nhiều lần phải than
phiền: “Hình quan và các quan Thừa Hiến phủ, huyện các xứ xét xử án kiện, lấy của
đút thì nhiều, giữ lẽ công thì ít, có trƣờng hợp để ứ đọng văn án đến 3, 4 năm; có
trƣờng hợp nha môn trên dƣới đùn đẩy lẫn nhau, đổi trắng thay đen, cho trái làm
phải, gian trá trăm cách, lý ngay không đƣợc tỏ bày, oan trái nhiều, sầu than lắm”.
Chính vì thế, nhà vua ra lệnh rằng: “Triều thần phải công bằng mà lựa chọn hoặc sa
thải hình quan và quan Thừa, Hiến, phủ, huyện các xứ để đều đƣợc ngƣời giỏi, xét
xử đúng lẽ, phải tâu lên để thi hành” [23,480]. Riêng các chức đứng đầu các Thanh
lại ty của bộ Hình, năm 1489 vua Lê Thánh Tông có lệnh chỉ: “Từ nay, chức Lang
trung, Viên ngoại ở Hình bộ có khuyết viên nào, thì Lại bộ làm bản tâu lên, trong
kinh thì đƣờng quan Lục bộ, Ngự sử đài và Lục tự khanh; bên ngoài thì các quan
hai ty Thừa, Hiến cùng nhau bảo cử ngƣời mình quen biết và các quan phụ trách các
nha môn đã trải qua hai lần khảo khoá trở lên, là ngƣời liêm khiết, từng trải, am
hiểu hình danh thì Lục bộ làm 1 bản, hai ty Thừa, Hiến bản xứ, mỗi ty làm 1 bản,
khai ghi họ tên của ngƣời đƣợc bảo cử cho rõ ràng, làm bản tâu lên, nếu đƣợc chỉ
chuẩn y thì giao cho Lại bộ thuyên bổ. Ngƣời nào dám vì tình riêng hay tiền bạc mà
bảo cử không đúng, thì Lục khoa và Giám sát ngự sử điều tra sự thực, tâu hặc lên sẽ
theo đúng luật trị tội” [23,505-506].
Cùng với việc xây dựng đội ngũ, Lê Thánh Tông cũng ban hành những chỉ
dụ liên quan đến việc chấn chỉnh lề lối làm việc của các quan trông coi luật pháp.
Ngay khi lên ngôi (năm 1460), nhà vua đã sắc chỉ cho các hình quan: “Từ nay, việc
kiện tụng phải mỗi tháng 3 lần trình lên để quyết định, coi đó là định chế lâu dài”
[23,392]. Nhà vua đặc biệt lƣu ý các quan về thời hạn xét án. Năm 1488, vua Lê
Thánh Tông ban hành quy định về thời gian xét các án nhỏ là 5 ngày, án lớn là 10
ngày và ra lệnh cho các hình quan “không đƣợc bỏ trễ quá thời hạn” [23,503]. Việc

50
này sau đó đã đƣợc vua Lê Hiến Tông nhắc lại năm 1498: “Việc hình ngục liên
quan đến sinh mạng của dân, xử đúng thì dân thoả lòng, xử trái đạo thì dân chịu
hại… Thế thì, trong việc tra xét, há có thể đƣợc phép trì hoãn sao! Kể từ nay về sau,
Hình bộ, Đình uý ty và các quan xét xử án kiện trong ngoài, hễ thấy những án nào
còn ngờ, khó xử, cũng đều phải theo đúng thời hạn mà xét xử cho xong. Nếu có ai
dám để chậm trễ quá kỳ hạn, thì đến cuối mỗi năm, quan phụ trách cùng Hình bộ,
Đề hình giám sát ngự sử, Thanh hình Hiến sát sứ ty phải kiểm tra tâu hặc lên để trị
tội theo pháp luật” [24,10-11].
Pháp luật nhà Lê nghiêm trị những hình quan phạm luật. Nhiệm vụ giám sát
toàn bộ hoạt động của các cơ quan xét xử hình án thuộc về Ngự sử đài, trong đó đặc
trách giao cho hai viên Đề hình giám sát ngự sử. Năm 1471, vua Lê Thánh Tông khi
định chức trách cho quan Đề hình đã lệnh rằng: “Từ Hình bộ Thƣợng thƣ trở xuống,
tới Đại lý tự và các ngục quan, ngƣời nào tha tội hay buộc tội cho ngƣời không
đúng luật pháp thì phải tâu hặc” và “ngƣời nào mắc tội lƣời biếng, gian tham, buông
tuồng phóng túng thì làm bản tâu lên theo luật mà trị tội” [23,453,510].
Hệ thống các cơ quan xét xử đƣợc tổ chức chặt chẽ từ trung ƣơng đến địa
phƣơng, cùng với sự hoàn chỉnh của hệ thống pháp luật chính là công cụ hữu hiệu
giúp nhà Lê giữ vững sự ổn định tình hình chính trị, xã hội đất nƣớc và củng cố thể
chế tập quyền.
1.2.5. Chế độ quan chức
1.2.5.1. Chế độ tuyển chọn quan lại
Nhằm thƣờng xuyên bổ sung nhân sự cho bộ máy chính quyền, triều Lê Sơ
sử dụng ba phƣơng thức tuyển chọn quan lại chủ yếu là nhiệm tử, bảo cử và khoa
cử, gọi chung là phép tuyển bổ.
Nhiệm tử là cách tuyển lựa dựa vào ân trạch của cha ông ngƣời đƣợc chọn,
trên cơ sở đó trao chức tƣớc mà không qua thi cử. Nói cách khác, việc lựa chọn này
dựa vào tiêu chí “thân huân”, vào công trạng của các bậc công thần mà con cháu họ
nhờ đó đƣợc “tập ấm”, “tập phong”. Đây không hoàn toàn xuất phát từ nhu cầu
thiếu quan chức nên phải bổ dụng, mà thực tế nó là chính sách trọng đãi của nhà
nƣớc đối với những quan lại có công huân.
Cách tuyển bổ quan lại thứ hai là bảo cử. Theo Phan Huy Chú, có hai cách
chủ yếu để giới thiệu ngƣời ra làm quan mà không qua khoa cử là tiến cử và bảo cử.
Trong đó, “tiến cử thì lấy ngƣời tài đức hơn hẳn mà không cứ thân phận, còn bảo cử
thì lấy ngƣời danh vọng rạng rệt mà phải theo tƣ cách. Hai lối ấy giống nhau mà thể

51
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
thức hơi khác” [3,689]. Thực ra, tiến cử và bảo cử đều có chung nội dung. Một
ngƣời nào đó muốn ra làm quan, hoặc phải đƣợc sự giới thiệu và đảm bảo của ngƣời
khác, thƣờng là do các quan lại đƣơng chức đảm nhiệm (đƣợc gọi là tiến hiền, tiến
cử hoặc bảo cử), hoặc do chính mình ứng cử (tự tiến cử). Tuy nhiên, thực tế lịch sử
Việt Nam cho thấy trƣờng hợp thứ hai rất hiếm [108,54].
Cả hai phƣơng thức nhiệm tử và tiến cử trên đây đều là cách tuyển dụng
quan lại truyền thống của các triều đại phong kiến Việt Nam. Vào đầu triều Lê Sơ,
do hoàn cảnh đất nƣớc vừa trải qua cuộc chiến tranh, các công thần khai quốc chiếm
số lƣợng lớn trong đội ngũ quan lại, và nhất là do khoa cử Nho học chƣa phát triển
nên đây là hai phƣơng thức tuyển dụng chủ yếu. Từ thời Lê Thánh Tông, dù Nho
học đã phát triển nhƣng chúng vẫn tiếp tục đƣợc duy trì ở mức độ nhất định. Hai
phƣơng thức tuyển chọn này nhằm giải quyết những đòi hỏi cấp bách của bộ máy
quan lại, phần nào thể hiện chính sách trọng đãi công thần và mong muốn cầu hiền
của nhà nƣớc phong kiến, tuy nhiên chúng đều không tránh khỏi những hạn chế
mang tính cố hữu. Nhƣ chính các sử gia phong kiến nhận định thì đây là những
“phép tuyển bổ không đƣợc tốt vậy” [3,683].
Dƣới thời Lê Sơ, phƣơng thức tuyển chọn quan lại chủ yếu là khoa cử. Cho
đến nay, các nhà nghiên cứu đều thống nhất nhận định rằng giai đoạn Lê Sơ, đặc
biệt triều Lê Thánh Tông là đỉnh cao của nền giáo dục và khoa cử truyền thống ở
Việt Nam. Cũng chính vì thế, đã không ít những công trình nghiên cứu tập trung
tìm hiểu về chế độ cũng nhƣ những thành tựu của nền giáo dục và khoa cử Việt
Nam giai đoạn này. Những nội dung đó chúng tôi xin không nhắc lại. Trên cơ sở
những thống kê cụ thể trong sách Các nhà khoa bảng Việt Nam 1075-1919 của Ngô
Đức Thọ (dƣới đây gọi tắt là sách Các nhà khoa bảng Việt Nam), chúng tôi xin nêu
hai điểm đáng lƣu ý về phƣơng thức quyển chọn quan chức bằng khoa cử thời Lê
Sơ.
Thứ nhất, về nguồn gốc xuất thân của các quan chức đỗ đạt khoa bảng. Nếu
tính theo đơn vị hành chính hiện tại, 1006 vị Tiến sĩ thời Lê Sơ có quê quán thuộc
20/64 tỉnh thành, thuộc khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ ngày nay. Trong số đó, có
đến 880 ngƣời (chiếm 87,47%) là các Tiến sĩ quê ở các tỉnh Đồng bằng Bắc Bộ.
Đây là lực lƣợng chủ yếu, thƣờng xuyên nhất bổ sung cho đội ngũ quan chức.
Chính họ sau đó đã giữ những chức vụ cao cấp trong bộ máy chính quyền Lê Sơ.
Bằng vai trò và qua quá trình làm việc, tác động của họ lên tổ chức và hoạt động
của bộ máy chính quyền, cũng nhƣ những quyết sách của nhà nƣớc là điều dễ nhận
thấy.

52
Bảng 9: Quê quán của những Tiến sĩ thời Lê Sơ
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam [155])
Khu vực Địa phƣơng Số ngƣời đỗ Tỷ lệ (%)
Trung du miền núi Bắc Bộ 21 2,09
- Yên Bái 1
- Tuyên Quang 1
- Thái Nguyên 3
- Phú Thọ 16
Đồng bằng Bắc Bộ 880 87,47
- Vĩnh Phúc 53
- Hà Nội 90
- Hà Tây 135
- Bắc Ninh 163
- Bắc Giang 16
- Hƣng Yên 72
- Hải Dƣơng 217
- Hải Phòng 54
- Quảng Ninh 2
- Hà Nam 23
- Thái Bình 38
- Nam Định 17
Trung bộ 101 10,04
- Thanh Hoá 49
- Nghệ An 12
- Hà Tĩnh 39
- Quảng Trị 1
Không rõ quê 4 0,4
Cộng 1006 100,0

Điểm thứ hai chúng tôi xin lƣu ý là về tính hiệu quả của phƣơng thức tuyển
chọn quan lại bằng khoa cử thời Lê Sơ. Theo thống kê, trong số 1006 Tiến sĩ tuyển
chọn qua 31 khoa thi thời Lê Sơ, có đến 896 ngƣời (chiếm 89,07%) sau đó đã làm
quan. Họ giữ nhiều cƣơng vị khác nhau trong bộ máy chính quyền, nhƣng nhiều
nhất là các chức Thƣợng thƣ, Tả hữu thị lang các Bộ và Thừa chính, Tham chính
các đạo/xứ Thừa tuyên. Những chức vụ họ đảm nhậm chủ yếu thuộc các cơ quan
cao cấp của triều đình nhƣ Lục bộ, Ngự sử đài, Hàn lâm viện hoặc đứng đầu các địa
phƣơng trong nƣớc. Còn lại, 110 vị Tiến sĩ khác không quan chức, chiếm 10,93%.
Theo chúng tôi, số Tiến sĩ không quan chức này thuộc hai trƣờng hợp, hoặc sau khi
đỗ họ không ra làm quan (có lẽ ít), hoặc họ có làm quan nhƣng do sử sách không
ghi lại nên không có thông tin. Tính chung lại, hiệu suất sử dụng quan lại xuất thân
khoa bảng nhƣ thế có thể nói là khá cao. Đào tạo, tuyển chọn gắn với sử dụng là
một đặc trƣng quan trọng của chính sách tuyển dụng quan chức thời Lê Sơ.

53
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bảng 10: Chức quan của các Tiến sĩ thời Lê Sơ
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam [155])
STT Chức quan cao nhất Phẩm hàm Số ngƣời
1 - Thái phó Trên 1a 1
2 - Thái bảo 1
3 - Thiếu phó 2a 1
4 - Thiếu bảo 5
5 - Thƣợng thƣ 2b 169
6 - Ngự sử đài Đô ngự sử 3a 31
7 - Cẩm Y vệ Đô chỉ huy sứ 1
8 - Đô Tổng binh sứ 2
9 - Tả thị lang 3b 82
10 - Hữu thị lang 48
11 - (?) Thị lang 34
12 - Thừa chính sứ 63
13 - Hàn lâm viện Thừa chỉ 4a 13
14 - Ngự sử đài Phó đô ngự sử 13
15 - Chỉ huy sứ 1
16 - Tổng binh Thiêm sự 2
17 - Đông các Đại học sĩ 4b 8
18 - Quốc tử giám Tế tửu 5
19 - Tham chính sứ 59
20 - Thông chính sứ 2
21 - Chỉ huy Đồng tri 1
22 - Hàn lâm viện Thị độc 5a 1
23 - Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử 13
24 - Tự khanh sáu Tự 34
25 - Phụng Thiên Phủ doãn 9
26 - Chỉ huy Thiêm sự 1
27 - Hàn lâm viện Thị giảng 5b 1
28 - Đông các Học sĩ 2
29 - Quốc tử giám Tƣ nghiệp 8
30 - Vƣơng phó 2
31 - Hàn lâm viện Thị thƣ 6a 5
32 - Đông các Hiệu thƣ 9
33 - Đoán sự các vệ 19
34 - Hiến sát sứ các đạo/xứ 59
35 - Kinh lƣợc sứ 1
36 - Hàn lâm viện Đãi chế 6b 1
37 - Viên ngoại lang 2
38 - Tri phủ 3
39 - Hàn lâm viện Hiệu lý 7a 7
40 - Đề hình Giám sát ngự sử 12
41 - Giám sát Ngự sử các đạo/xứ 38
42 - Đô cấp sự trung sáu Khoa 36
43 - Hàn lâm viện Hiệu thảo 7b 15
44 - Tri huyện 5
45 - Cấp sự trung sáu Khoa 8a 9
46 - Quốc sử viện Tu soạn 3
47 - Lục sự 8b 1
48 - Quan Hàn lâm (?) Không rõ phẩm hàm 26
49 - Hàn lâm viện Trực học sĩ 6
50 - Quan Đông các (?) 7
51 - Ngự sử đài Thị ngự sử 3
52 - Bí thƣ giám (?) 1
53 - Quốc tử giám Bác sĩ 1
54 - Thẩm hình viện sứ 1
55 - Đình Uý sứ 7
56 - Đô lực sĩ 1
57 - An phủ sứ 1
58 - Chuyển vận sứ 4
Cộng 896

54
Số ngƣời BiÓu ®å 1: PhÈm hµm cña c¸c quan xuÊt th©n khoa b¶ng thêi Lª S¬
300

261

250

200
175

150

113
104 99
100
71
58

50
13
2
0
NhÊt NhÞ Tam Tø Ngò Lôc ThÊt B¸t Kh«ng
phÈm phÈm phÈm ph¶m phÈm phÈm phÈm phÈm râ Phẩm hàm

Bảng 11: Nơi làm việc của các quan xuất thân khoa bảng thời Lê Sơ
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam [155])

Loại quan Cơ quan Số ngƣời Tỷ lệ (%)


Nội nhiệm 673 75,11
Tam Thái, Tam Thiếu 8 0.89
Lục bộ 335 37.39
Hàn lâm viện 76 8.48
Đông các 26 2.90
Ngự sử đài 110 12.28
Lục tự 34 3.79
Lục khoa 45 5.02
Bí thƣ giám 1 -
Quốc tử giám 14 1.56
Quốc sử viện 3 -
Thẩm hình viện 1 -
Đình uý ty 7 0.78
Thông chính ty 2 -
Phủ Phụng Thiên 9 1.00
Phủ Thái tử 2 -
Ngoại nhiệm 214 23,89
Đạo/ xứ Thừa tuyên 201 22.43
Phủ 4 0.46
Huyện 9 1.00
Võ quan Các Vệ, Sở 9 1,00
Cộng 896 100,0

55
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Biểu đồ 2: Tỷ lệ về nơi làm việc của các quan
xuất thân khoa bảng thời Lê Sơ
9

214

673

Quan néi nhiÖm


Quan ngo¹i nhiÖm
Vâ quan

Nhờ kết hợp một cách hợp lý, luôn đề cao tính nghiêm minh và sự công bằng
trong các hình thức tuyển chọn, đặc biệt chú trọng khoa cử, triều Lê Sơ trong 100
năm tồn tại đã xây dựng đƣợc một đội ngũ quan lại đông đảo, có đủ năng lực và
phẩm chất đáp ứng yêu cầu cao của công cuộc xây dựng và phát triển đất nƣớc.

1.2.5.2. Chế độ bổ dụng quan lại


Trên cơ sở tuyển chọn, triều Lê Sơ ban hành nhiều quy định liên quan việc
chọn bổ, thăng giáng, thuyên chuyển các chức, tạo nên chế độ bổ dụng quan lại.
Trƣớc hết, đó là những quy định về việc chọn bổ các chức, áp dụng phân biệt giữa
hai đối tƣợng quan và lại.

Đối với hạng lại viên, ngay năm Thiệu Bình thứ 4 (1437), vua Thái Tông đã
tổ chức kỳ thi gồm hai môn viết và làm tính cho đối tƣợng là học sinh, lấy đỗ 690
ngƣời bổ làm thuộc lại các nha môn trong, ngoài. Năm 1449, lần đầu tiên nhà nƣớc
đặt lệ bổ giám sinh làm Chuyển vận Phó sứ các lộ và thuộc lại các đạo. Đến thời Lê
Thánh Tông, năm 1467, nhà vua ra sắc lệnh quy định: những ngƣời đỗ hai, ba
trƣờng trong các kỳ thi Hội đƣợc bổ làm thuộc lại của các nha môn; những giáo
chức trúng cách trong các đợt khảo thí đƣợc bổ làm Kinh lịch; các học sinh Cục
Cận thị trúng cách đƣợc bổ làm Huyện thừa; còn thuộc lại các nha môn nếu trúng
tuyển sẽ đƣợc bổ làm giáo chức các phủ. Năm Hồng Đức thứ 8 (1477), nhà vua ban
sắc chỉ định lệ về tƣ cách của thuộc lại các nha môn và lệnh sử các phủ nha. Theo
đó, thuộc lại các nha môn đƣợc phân biệt rõ làm hai loại: Lại sử (cũng gọi là Lại

56
điển) có xuất thân là những ngƣời thi đỗ trong các kỳ thi thƣ toán và Lại sử không
xuất thân, tức những ngƣời chƣa thi đỗ trong các kỳ thi nói trên. Những Lại sử xuất
thân khi nhận chức lần đầu đƣợc làm Thƣ lại (ngƣời giữ việc giấy tờ, thƣ từ ở nha
môn), sau ba năm thăng một cấp làm Đạt lại và ba năm sau nữa thăng Đô lại. Trong
khi đó, những Lại sử không xuất thân ban đầu chỉ đƣợc bổ chức Thông lại (thấp hơn
Thƣ lại một cấp), làm việc đủ 9 năm mới đƣợc thăng Đề lại. Các lệnh sử ở phủ nha,
lúc mới bổ làm Á lệnh sử, 3 năm sau thăng Thừa lệnh sử, đủ 9 năm xét xứng chức
mới đƣợc thăng Đô lại. Đối với các hoa văn học sinh, sắc chỉ năm 1494 quy định:
những ngƣời nào làm việc lâu năm đã từng đi công cán hoặc theo đi đánh giặc có
công thì bộ Lại tuyển bổ theo nhƣ lệ lại viên xuất thân ở các nha môn [3,672-674].

Đối với hạng quan viên, quan chế triều Lê quy định cụ thể và có phân biệt
giữa các đối tƣợng là quan viên có/không có xuất thân, giữa quan trong kinh và
ngoài các địa phƣơng, giữa quan văn và quan võ.

Những ngƣời thi đỗ trong các kỳ thi hội và thi đình, sau khi đƣợc yết bảng
vàng, vinh quy bái tổ đều đƣợc trở về kinh để nhậm chức. Đây là lần trao chức đầu
tiên. Theo quy chế ban hành năm 1472, Trạng nguyên lần đầu đƣợc trao chức Thị
giảng (hàm 6a), ban 8 tƣ; Bảng nhãn đƣợc trao chức Thị thƣ (hàm 6b), 7 tƣ; Thám
hoa chức Thị chế (hàm 7a ), 6 tƣ; Hoàng giáp chức Hiệu lý (hàm 7b), 5 tƣ; các
DDồng tiến sĩ xuất thân đƣợc trao chức Cấp sự trung sáu Khoa (hàm 8a), 4 tƣ; riêng
ngƣời ít tuổi nhất đƣợc trao chức Hiệu thảo viện Hàn lâm (hàm 7b). Những ngƣời
này lúc đầu bổ vào Hàn lâm viện đƣợc gia một cấp, sau đó cứ theo phẩm hàm của
mình mà đƣợc đề bạt các chức Giám sát ngự sử hoặc Tri huyện [6,128-129;
25,1123]. Ngoài các khoa thi định kỳ, những lúc cần kíp, nhà Lê còn mở các chế
khoa (khoa thi không thƣờng xuyên) để tuyển bổ các chức. Lê Quý Đôn cho biết,
thời vua Nhân Tông triều đình tổ chức các khoa thi Sĩ vọng (cũng gọi là Hoành từ)
cho những ngƣời đã đỗ Hƣơng cống. Những ngƣời trúng tuyển tuỳ theo thứ bậc và
tƣ cách mà đƣợc bổ các chức Tri huyện, Tự thừa, Hiến phó hoặc Tham nghị. Đến
thời Đồng Đức, nhà vua tổ chức các kỳ thi Đông các cho các quan chức từ tứ phẩm
trở xuống. Những ngƣời trúng cách, bậc nhất đƣợc bổ làm Đông các Đại học sĩ, bậc
ba đƣợc bổ làm Đông các Hiệu thƣ [6,99-100].

Để bổ dụng con cháu các quan viên cao cấp, năm 1478, vua Lê Thánh Tông
định lệ cho phép cháu trƣởng các tƣớc công, hầu, bá, tử, nam và con trƣởng các
quan văn võ nhị, tam phẩm đƣợc bổ làm tản quan hàm bát phẩm đến tứ phẩm.

57
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Trƣờng hợp ngƣời ít tuổi nhƣng có thành tích học tập thì đƣợc đặc cách tuyển vào
Sùng Văn quán, cho phép bộ Lại chọn bổ các chức Điển nghĩa và Tƣ huấn [3,674].

Ở trong kinh, các quan thuộc Lục khoa, Ngự sử đài và bộ Hình luôn là các
chức trọng, đƣợc tuyển chọn kỹ càng. Năm 1498, nhà vua ban sắc rằng: “Từ nay
Cấp sự trung sáu Khoa và Giám sát ngự sử có khuyết thì Lại bộ chọn các quan trong
ngoài, viên nào do tiến sĩ xuất thân, thanh liêm siêng năng, ngay thẳng có chính tích
thì tạm bổ vào, sau một năm Cấp sự trung sáu Khoa công đồng xét lại việc làm của
viên ấy, tâu lên đợi chỉ, có thể làm nổi việc thì cho lƣu nhiệm, không làm nổi việc
thì đổi bổ chức khác. Nếu Cấp sự trung sáu Khoa sát hạch không công thì Đô ngự
sử xét lại việc làm, tâu lên đợi chỉ, làm nổi việc thì cho lƣu nhiệm, không làm nổi
việc thì đổi bổ chức khác. Ngự sử đài sát hạch không công thì quan Lục khoa lấy đủ
sự thực ra hặc. Lại bộ chọn bổ không đƣợc ngƣời xứng đáng, Khoa Đài che giấu,
đều phải trị tội cả” [3,676]. Còn với các chức Lang trung và Viên ngoại lang thuộc
bộ Hình, nếu khuyết thiếu thì bộ Lại phải có trách nhiệm tâu trình, nhà vua giao
xuống cho các quan ở sáu Bộ, Ngự sử đài, Lục khoa và các quan ở hai ty Thừa,
Hiến các đạo cùng bảo cử ngƣời mình biết. Ngƣời đƣợc bảo cử nhất định đã trải qua
hai lần khảo khoá trở lên và phải là “ngƣời liêm khiết, lão luyện” [6,125].

Ở ngoài địa phƣơng, các chức quan từ cấp đạo/xứ trở xuống đều đƣợc quy
định cụ thể. Theo đó, chức Tổng binh phải do Lục khoa và Ngự sử đài cùng chọn
bầu những ngƣời “có đảm lƣợc, học thức, tƣ cách, đức vọng, tài năng, cần mẫn” ở
các nha môn để bổ dụng; Tham nghị thì dùng ngƣời “có độ lƣợng, kiến thức, tƣ
cách, đức vọng” từ hàm lục phẩm trở lên; Hiến sát thì dùng ngƣời “thanh liêm,
minh mẫn, lịch duyệt, lão luyện” trong Lục khoa, Lục tự, Ngự sử đài, trải đủ bốn
lần khảo khoá mới đƣợc trao chức; còn chức Hiến phó thì chọn trong số các Tiến sĩ,
Chỉ huy các vệ, hiệu, hoặc những ngƣời thi Hội trúng trƣờng mà làm việc “có tiếng
là thanh liêm chính trực” để chọn bổ [6,124-125]. Những giám sinh, nho sinh, học
sinh và thuộc lại các nha môn nếu thi Hội nhiều lần trúng trƣờng, làm việc lâu năm,
am hiểu công việc, siêng năng mẫn cán và có quân công thì đƣợc bổ các chức Tri
châu, Huyện thừa, Đồng tri châu, Thủ lĩnh, Tự ban. Các viên này đều phải trải qua
ba năm thử việc, sáu năm xét thấy xứng chức thì Tri huyện, Tri châu đƣợc thăng
Viên ngoại lang; Huyện thừa, Đồng tri châu, Tri bạ, Điển bạ, Tự ban đƣợc thăng
các chức Tƣ vụ, Chủ sự, Thôi quan, Đô quan, đủ 6 lần khảo khoá không phạm lỗi
thì Viên ngoại lang, Đồng tri châu mới đƣợc thăng Tri phủ [3,675].

58
Đối với ngạch võ quan ở các phủ, vệ, sở, quan chế triều Lê quy định: Các
chức Đô đốc, Đô kiểm điểm, Đề đốc, Chỉ huy sứ, Đô Tổng binh ở Ngũ phủ nếu
khuyết thiếu thì bộ Lại có trách nhiệm xin chỉ bổ dụng; Nếu vệ, sở nào khuyết một
viên Tổng tri thì theo quy định phải đề cử hai viên Quản lĩnh, khuyết một viên Quản
lĩnh thì đề cử ba viên Võ uý để chọn lấy một ngƣời cho phó nhiệm. Chỉ huy các vệ
sở, Hàn lâm viện và ba ty Đô, Thừa, Hiến các xứ có trách nhiệm công đồng để chọn
bổ các chức ấy [3,676-677].
Cùng với việc sắp đặt quan chức, triều Lê ban hành quy chế nhằm thƣờng
xuyên và định kỳ kiểm tra, đánh giá về năng lực, phẩm chất cũng nhƣ hiệu quả làm
việc của từng chức quan và lại, phân loại và lấy đó làm cơ sở cho việc thăng
thƣởng, chuyển đổi hoặc bãi miễn các chức. Đó là nội dung của chế độ khảo khoá
hay còn gọi là phép chọn bổ thời Lê Sơ.

Phép khảo khoá (hay khảo công) đƣợc thi hành từ thời Lê Thái Tổ, tuy
nhiên, phải đến Lê Thánh Tông mới đƣợc định rõ. Dƣới thời Lê Thánh Tông, những
điển chế về khảo khoá đƣợc ban hành bằng nhiều sắc chỉ, lệnh dụ vào các năm
1470, 1471, 1478, 1480, 1488, 1489… Theo đó, ba tiêu chuẩn quan trọng nhất để
xét các quan có xứng chức hay không gồm: có yêu thƣơng, chăm lo cho dân hay
không; có đƣợc nhân dân yêu mến hay không và; dân trong hạt cai quản có chốn đi
nơi khác hay không (lệnh dụ năm 1470). Niên hạn khảo khoá theo quy định là 3
năm một lần sơ khảo, 6 năm tái khảo, 9 năm thông khảo. Tuy nhiên, giữa các kỳ
khảo khoá các quan cũng có thể đƣợc thăng thƣởng hoặc bị giáng, biếm chức do có
công lao đặc biệt hoặc vì phạm lỗi. Đối tƣợng khảo khoá đƣợc chia làm hai hạng.
Hạng thứ nhất gồm Hoàng thân quốc thích, con cháu các công thần khai quốc và
những võ quan nếu nhậm chức đủ hạn khảo khoá mà xứng chức sẽ đƣợc thăng hàm
nhất, nhị phẩm. Hạng thứ hai là thƣờng dân hoặc do thi đỗ, hoặc do lập chiến công
đƣợc làm quan nếu nhậm chức đủ hạn, khảo khoá xứng chức thì chỉ đƣợc thăng đến
tam phẩm. Trừ trƣờng hợp trong 9 năm đƣơng chức ngƣời đó đã đƣợc thăng cấp do
lập nhiều công lao, thì đến kỳ thông khảo mới đƣợc thăng nhị phẩm trở lên. Trƣởng
các cơ quan là ngƣời khảo xét các nhân viên thuộc quyền, bộ Lại duyệt lần cuối
trƣớc khi tâu trình lên vua ra quyết định thăng, giáng các chức (sắc dụ năm 1489)
[23,447, 504-505].
Qua chế độ khảo khoá cho thấy triều Lê đặc biệt coi trọng ở đội ngũ quan lại
của mình về phẩm chất, năng lực chuyên môn và kinh nghiệm làm việc thực tế. Nhà
nƣớc đặt yêu cầu cao khi thực thi công việc đòi hỏi ngƣời làm quan phải có trình độ

59
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
về chuyên môn. Muốn có trình độ chuyên môn, không cách nào khác là phải qua
học tập và thi cử. Trình độ văn hóa cả nƣớc do đó phần nào cũng đƣợc nâng lên.
Nhƣ Phan Huy Chú đã từng nhận xét: “Đến nhƣ ngƣời ứng vụ các vệ, thuộc lại các
nha, đều lấy ngƣời trúng trƣờng ra làm. Nhƣ thế thì các chức các ty ai cũng phải là
phƣờng Nho học, văn hóa do đó mà thịnh vậy” [3,676]. Còn việc chọn bổ quan lại
dựa vào niên hạn, dù nhận định “nhà Nho đƣơng thời thƣờng cho là không tốt” thì
tác giả sách Lịch triều hiến chương loại chí cũng phải thừa nhận: “Các đời tuyển bổ
vẫn cứ noi theo, chƣa thay đổi đƣợc”. Theo ông, “đời sau dùng ngƣời tất phải có
phép tuyển bổ, mà phép tuyển bổ tất phải theo năm tháng mà định khác nhau, vì
ngƣời tài lạ khác thƣờng chƣa từng dễ thấy, mà những ngƣời bình thƣờng, nếu
không nhờ ngày tháng mà xem xét đức tính cùng việc làm, thì lòng cạnh tranh, thói
cầu cạnh sinh ra, tệ hại ấy không thể nói sao cho xiết. Phép tuyển bổ theo niên hạn
này tuy có câu nệ, nhƣng ngăn đƣợc đƣờng cầu cạnh, tỏ đƣợc mức cố gắng, cho nên
không thể dễ đổi đƣợc đâu” [3,677-678].

Mục đích quan trọng hàng đầu của chế độ khảo khoá thời Lê là nhằm loại bỏ
những quan lại yếu kém, không đủ năng lực, thanh lọc và làm trong sạch đội ngũ
quan chức. Nhƣ chính Nguyễn Trực, Trạng nguyên khoa thi năm Đại Bảo thứ 3
(1442) đã nhận xét trong bài văn đối thi đình của mình: “Lại ban phép khảo xét
công trạng, trải đủ kỳ khảo xét kỹ rồi mới quyết định thăng hay giáng, khen hay
chê. Ngƣời nào tốt, kẻ nào xấu, ngƣời nào liêm khiết, tài giỏi siêng năng mẫn cán,
kẻ nào ngu dốt, tham lam, lơ là lƣời biếng, giữ ghế ăn hại, không đức bất tài, gian
ngoan chứa ác, đều bộc lộ rõ ràng” [76,72]. Còn Phan Huy Chú thì hết lời ngợi ca:
“Chính sách yên dân chúng chẳng gì hơn việc chấn chỉnh quan trƣờng. Mà cách
chấn chỉnh quan trƣờng tất phải khảo công, để xét rõ ngƣời hơn kẻ kém mà thăng
giáng cho rõ ràng, thì liêm sỉ riêng đƣờng, chính hoá đi khắp. Việc cốt yếu cho nƣớc
thịnh trị của bậc đế vƣơng không vƣợt qua điều ấy đƣợc” [3,701].
Chế độ khảo khoá còn nhằm tổ chức, sắp xếp lại hệ thống quan chức. Qua
việc tìm hiểu chế độ chọn bổ các chức trên đây chúng ta đã phần nào hiểu đƣợc
chính sách thăng giáng, luân chuyển quan lại dƣới thời Lê Sơ. Các chức tuỳ theo
thành tích và niên hạn làm việc mà đƣợc triều đình thăng hoặc giáng.
Để góp phần tìm hiểu rõ hơn về nội dung này, chúng tôi xin tập trung vào
những trƣờng hợp cụ thể, qua việc khảo sát đƣờng tiến thân của một số nhân vật
tiêu biểu nhất thời Lê Sơ. Trƣớc hết, thống kê phần Nhân vật chí trong Lịch triều
hiến chương loại chí chúng tôi thấy rằng, ngay cả những viên quan đƣợc triều Lê

60
tôn vinh là “ngƣời phò tá có công lao tài đức”, “tƣớng có tiếng và tài giỏi”, “nhà
Nho có đức nghiệp”, “bề tôi tiết nghĩa” thì đƣờng hoạn lộ của họ không phải lúc
nào cũng suôn sẻ. Do có công lao, trình độ mà họ thăng bổ, nhƣng cũng không ít
lần, vì những lý do khác nhau họ bị sung, đổi hoặc giáng, bãi miễn các chức. Trong
số đó, có cũng có những ngƣời vì một lần phạm tội mà phải mất mạng. Sự nghiệp
cả đời làm quan cũng nhƣ những công lao, đóng góp của họ chỉ có sử là mãi lƣu
danh (thông tin chi tiết xin xem bảng 42, phần Phụ lục).
Bảng 12: Đƣờng hoạn lộ của một số quan chức tiêu biểu triều Lê Sơ1
(Thống kê từ Lịch triều hiến chương loại chí)
Số chức quan
Nhân vật Số lần Số lần Số lần Số lần Số lần Tội đồ Trung bình
thăng sung đổi giáng khởi ngƣời/chức
bổ chức chức chức phục
(1) (2) (3) (4) (5) (6)
40 167 15 13 10 10 4 5,38

Thƣợng thƣ là chức vụ cao nhất trong hệ thống quan lại triều Lê. Ngƣời có
cƣơng vị đó thƣờng trải qua nhiều bƣớc thăng trầm. Khảo sát đƣờng tiến thân của
các vị Thƣợng thƣ sáu Bộ sẽ góp phần hiểu thêm bức tranh về hệ thống quan lại
thời Lê Sơ.
Số liệu thống kê cho thấy, trong số 1006 vị Tiến sĩ triều Lê có 169 ngƣời giữ
chức Thƣợng thƣ các Bộ, gồm 144 vị Thƣợng thƣ triều Lê Sơ và 25 vị Thƣợng thƣ
triều Mạc (danh sách cụ thể xin xem bảng 8, phần phụ lục). Theo ghi chép của Đại
Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương mục ta biết có 34 vị
Thƣợng thƣ khác không xuất thân khoa bảng. Nhƣ vậy, số Thƣợng thƣ triều Lê Sơ
ít nhất có 178 vị2. Trong số đó, chỉ có 27 vị Thƣợng thƣ xuất thân khoa bảng và 21
Thƣợng thƣ không khoa bảng đƣợc sử ghi chép khá đầy đủ về các chức mà họ từng
giữ. Trên cơ sở đó, chúng tôi có hai bảng sau:

1
Trong tập hợp này chúng tôi chỉ thống kê những nhân vật có thông tin về hai chức quan trở lên.
Những ngƣời không có thông tin hoặc sách chỉ chép về một chức quan không bao gồm trong tập
hợp. Thăng bổ (1): nhận các chức mới có phẩm hàm cao hơn; Đổi chức (3): các chức có phẩm hàm
tƣơng đƣơng; Giáng chức (4): các chức có phẩm hàm thấp hơn; Số lần “sung” (2), “khởi phục” (5)
các chức và “tội đồ” (6) đƣợc căn cứ theo ghi chép trong sử cũ.
2
Theo chúng tôi, số liệu về những ngƣời giữ chức Thƣợng thƣ thời Lê Sơ trong Các nhà khoa
bảng Việt Nam có thể không hoàn toàn chính xác. Trong số 144 vị Thƣợng thƣ xuất thân khoa bảng
kể trên chúng tôi chỉ tìm thấy tên và chức tƣớc tƣơng ứng của 28 ngƣời, còn lại 116 trƣờng hợp
không thấy đƣợc nhắc tới trong chính sử. Mặt khác, triều Lê Sơ mãi năm 1460 mới lập đủ sáu Bộ,
trƣớc đó chỉ có hai bộ Lại và Lễ. Vậy, với khoảng thời gian tính đến khi triều Lê Sơ kết thúc năm
1527 nhƣng có đến 178 vị Thƣợng thƣ, trung bình chƣa đầy 2,5 năm mỗi Bộ có một Thƣợng thƣ
đƣợc bổ nhiệm là điều cần đƣợc xem xét thêm. Có thể những thông tin từ sử liệu mà tác giả sách
Các nhà khoa bảng Việt Nam dựa vào không hoàn toàn xác thực; nhiều trƣờng hợp danh vị Thƣợng
thƣ hoặc chỉ là do đƣợc truy phong sau khi mất, hoặc là do dân gian tôn phong mà sử chép lầm.

61
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bảng 13: Những chức quan khác của các Thƣợng thƣ thời Lê Sơ
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Trong đó

Lại viên các

Quan ngoại

Quan cùng

Văn phòng
Ngự sử đài

Chức khác
Đông các

Quan Bộ
nha môn

Hàn lâm
Võ quan
Loại Thƣợng thƣ Số nhân Số chức quan1

nhiệm

khác
viện

TW
Bộ
vật

Trƣớc khi làm 83 7 4 17 11 8 18 2 6 6 9


Khoa bảng 27 Thƣợng thƣ
Sau khi làm 43 0 0 2 3 6 6 9 4 6 7
Thƣợng thƣ
Trƣớc khi làm 24 1 4 6 4 0 2 3 0 3 1
Không khoa bảng 21 Thƣợng thƣ
Sau khi làm 26 0 5 5 1 1 1 3 2 2 6
Thƣợng thƣ

Bảng 14: Đƣờng hoạn lộ của một số quan Thƣợng thƣ triều Lê Sơ2
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Số chức quan
Số Số lần Số lần Số lần Số lần Số lần Số lần Tội
Loại Thƣợng thƣ nhân thăng bổ đổi sung giáng bãi khởi đồ Cộng
vật chức chức chức chức phục
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8)
Có khoa bảng 27 134 10 1 9 3 2 2 161
Không khoa bảng 21 58 6 0 6 0 1 1 72
Cộng 58 192 16 1 15 3 3 3 233

Từ số liệu trong bảng thống kê có thể rút ra một vài nhận xét sau đây:
1- Đƣờng thăng tiến của các vị Thƣợng thƣ xuất thân và không xuất thân
khoa bảng có nhiều điểm khác biệt đáng lƣu ý. Đối với những Thƣợng thƣ khoa
bảng, trƣớc khi giữ chức này họ thuộc ngạch văn quan và phải trải qua quá trình
làm việc nhiều năm ở ngoài địa phƣơng hoặc các cơ quan trong kinh nhƣ Hàn Lâm
viện, Ngự sử đài, Đông các. Sau khi giữ chức Thƣợng thƣ, họ thƣờng tiếp tục kiêm
nhiệm, nhƣng với cƣơng vị cao hơn ở các cơ quan này. Do đó số các chức vụ họ
từng giữ/kiêm nhiệm nhiều hơn, hay cũng có thể nói họ nhiều thăng trầm hơn trong
đƣờng hoạn lộ. Trong khi đó, các Thƣợng thƣ không khoa bảng thƣờng khởi nghiệp
ở ngạch võ quan thuộc các vệ, sở trong ngoài, do lập chiến công lớn mà đƣợc cất
nhắc lên chức Thƣợng thƣ. Sau khi giữ chức, họ thƣờng ít đƣợc kiêm nhiệm các vị
trí khác. Khi bị giáng hoặc đổi sang chức khác (trƣờng hợp này nhiều hơn các
Thƣợng thƣ xuất thân), họ thƣờng đƣợc chuyển ra làm quan ngoài hoặc võ quan
đứng đầu các đạo/xứ Thừa tuyên.

1
Số chức quan trên không bao gồm chức Thƣợng thƣ đầu tiên mà các nhân vật này nắm giữ.
2
Thăng bổ (1): nhận các chức mới có phẩm hàm cao hơn; Đổi chức (2): các chức có phẩm hàm
tƣơng đƣơng; Giáng chức (4): các chức có phẩm hàm thấp hơn. Số lần “sung” (2), “bãi” (3), “khởi
phục” (6) các chức và “tội đồ” (7) đƣợc căn cứ theo ghi chép trong chính sử. Số liệu tổng hợp ở cột
(8) lớn hơn số chức quan ở bảng 13 vì đã bao gồm chức Thƣợng thƣ và những lần sử chỉ chép
“thăng/ giáng” hoặc “bãi/ truất” nhƣng không cho biết rõ là chức gì.

62
2- Những Thƣợng thƣ xuất thân khoa bảng thƣờng đƣợc giao đảm nhiệm
những Bộ quan trọng đòi hỏi đến trình độ học vấn, liên quan đến các công tác tổ
chức quan lại (bộ Lại) và nghi lễ quốc gia (bộ Lễ). Trong khi đó, các Thƣợng thƣ
không xuất thân thƣờng đứng đầu các Bộ trực tiếp thực thi các công việc của nhà
nƣớc đối với dân chúng, nhƣ bộ Hộ, bộ Binh.
3- Hiện tƣợng luân chuyển quan chức giữa các Bộ cũng diễn ra khá phổ biến
dƣới thời Lê Sơ. Trƣớc khi làm Thƣợng thƣ một Bộ (đầu tiên), ngƣời đó có thể đã
trải qua các chức Tả hữu thị lang cùng Bộ hoặc ở Bộ khác. Sau khi làm Thƣợng thƣ,
do yêu cầu công việc hoặc do không đủ năng lực, ngƣời đó có thể đƣợc thăng/bị
giáng sang làm Thƣợng thƣ hoặc Tả hữu thị lang của Bộ khác.
4- Độ tuổi đƣợc bổ nhiệm vào chức Thƣợng thƣ dao động trong khoảng từ
36 (trƣờng hợp Đỗ Nhân (Nhạc)) đến 60 (Lê Tung hay Dƣơng Bang Bản), trung
bình là 48,8 tuổi. Thời gian họ đƣợc trao chức đó từ 10 năm (trƣờng hợp Nguyễn
Bá Tuấn) đến 34 năm (trƣờng hợp Vũ Hữu), trung bình là 22,7 năm sau khi đỗ Tiến
sĩ (xin xem chi tiết ở bảng 42, phần phụ lục).
1.2.5.3. Chế độ đãi ngộ quan lại
Dƣới triều Lê Sơ, các quan lại đƣợc hƣởng nhiều đặc quyền đặc lợi. Ngoài
quyền lực và địa vị xã hội có đƣợc từ chức tƣớc, phẩm trật, họ còn đƣợc hƣởng
những quyền lợi về vật chất thông qua chế độ ban cấp bổng lộc, gồm lƣơng bổng,
ruộng đất và những ƣu đãi khác.
Chế độ ban cấp lƣơng bổng cho quý tộc và quan lại các cấp đƣợc triều Lê Sơ
ban hành vào năm Hồng Đức thứ 8 (1477). Đây là lần đầu tiên trong lịch sử, việc
cấp lƣơng cho quan lại đƣợc quy định thống nhất thành thể chế và ban bố công khai.
Theo chế độ này, ngoại trừ Hoàng đế đƣợc coi là chủ tể toàn bộ tài sản quốc gia,
còn tất cả những quý tộc vƣơng thất, quan lại, công chức trong bộ máy công quyền
đều đƣợc nhà nƣớc quy định cụ thể về mức thụ hƣởng. Tuỳ theo chức tƣớc, phẩm
hàm hàng năm họ đƣợc triều đình ban cấp tiền gọi là tuế bổng, tiền thu thuế một số
hộ gọi là thực hộ, đất ở và một số loại ruộng đất gọi chung là lộc điền.
Tiền tuế bổng cho quan lại đƣợc phân làm nhiều mức khác nhau. Cao nhất là
Hoàng Thái tử đƣợc nhận 500 quan/năm, tiếp đến là Thân vƣơng 200 quan, Tự thân
vƣơng 140 quan, Vinh phong Quốc công 127 quan. Từ Vinh phong Quốc công trở
xuống cho đến hàm chánh nhị phẩm tuế bổng giảm mỗi bậc 7 quan; từ chánh nhị
phẩm đến chánh tam phẩm giảm mỗi bậc 6 quan; từ chánh tam phẩm đến tòng ngũ
phẩm giảm mỗi bậc 4 quan; từ tòng ngũ phẩm đến tòng bát phẩm giảm mỗi bậc 3
quan; từ tòng bát phẩm đến nha môn thái nhàn tản (những ngƣời ít hoặc đang chờ

63
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
việc) giảm mỗi bậc 2 quan. Những ngƣời làm việc ở các nha môn thái nhàn tản
đƣợc nhận tuế bổng ở mức thấp nhất là 6 quan/năm [25,1135]. Nhƣ vậy, tuế bổng
có thể đƣợc coi nhƣ một thứ lƣơng trả bằng tiền cho quý tộc và quan lại các cấp.
Giữa các bậc lƣơng có sự phân mức nhất định và chức càng cao thì cấp độ phân
mức càng lớn. Giữa ngƣời đƣợc nhận tuế bổng ở mức cao nhất và mức thấp nhất
cách nhau hơn 80 lần. Tuy nhiên, ngay cả ngƣời đƣợc nhận lƣơng bổng ở mức thấp
nhất cũng đủ để đảm bảo cho cuộc sống của họ và gia đình. Có thể thấy quan lại
thời Lê Sơ đƣợc hƣởng mức lƣơng bổng khá cao. Với một chế độ lƣơng bổng nhƣ
vậy, triều Lê đã phân định rõ về thứ bậc, vị trí các chức cùng những quyền lợi tƣơng
ứng, nhằm tạo ra sự khuyến khích và thúc đẩy nỗ lực tiến thân của ngƣời làm quan;
đồng thời thông qua chính sách đó, triều Lê còn muốn thể hiện bằng hành động thực
tế chính sách trọng đãi nhân tài và góp phần làm trong sạch đội ngũ quan lại, hạn
chế tệ tham nhũng, hối lộ.

Về đất ở, theo quy định năm 1477 quan chức ở địa phƣơng đƣợc cấp 80
thƣớc làm vƣờn, riêng trong kinh thành thì quý tộc và quan lại đƣợc cấp đất và ao
theo quy định (ngƣời cao nhất đƣợc cấp 5 mẫu), đất ở cấp cho quan đến cửu phẩm,
còn ao chỉ cấp đến tƣớc Nam, quan lại không có tƣớc hiệu không đƣợc cấp. Ngoài
ra, các quý tộc và quan lại từ tƣớc Bá trở lên còn đƣợc một số thực hộ để thu thuế,
đƣợc cấp ngƣời hầu và dân làm muối. Theo quy định, ở mức cao nhất Thân vƣơng
đƣợc cấp 500 thực hộ, 500 ngƣời hầu, 200 dân làm muối, Tự thân vƣơng đƣợc cấp
200 thực hộ, 130 ngƣời hầu, 70 dân làm muối… [25,1145-1147].
Cũng với quy chế năm 1477, các quan lại còn đƣợc nhận lộc điền gồm ruộng
đất thế nghiệp (thế nghiệp điền, thế nghiệp thổ), ruộng vua ban (tứ điền), ruộng bãi
dâu, ruộng thờ cúng (tự điền). Theo quy định này, từ quý tộc, quan lại cao cấp cho
đến các tôn phụ, nữ quan đều đƣợc nhận lộc điền với những số lƣợng diện tích khác
nhau. Thân vƣơng đƣợc nhận mức cao nhất là 2.090 mẫu, trong khi mức thấp nhất
thuộc về Nữ quan lục cấp là 35 mẫu ruộng đất các loại. Ngoài các loại ruộng đất
trên, quý tộc từ Thân vƣơng đến tƣớc Bá còn đƣợc cấp một diện tích ao tính bằng
tiền từ 80 đến 30 quan [25,1145-1149].

Qua quy chế và thể lệ ban cấp lộc điền của triều đình, so sánh đối chiếu với
những ghi chép trong một số gia phả dân gian, các tác giả sách Lịch sử Việt Nam1
đã nêu lên một số nội dung cơ bản và nhận xét sau đây về chế độ lộc điền thời Lê
Sơ:
1
Sách của tập thể tác giả Khoa Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn do PGS.TS
Nguyễn Quang Ngọc chủ biên. Sách hiện vẫn đang ở dạng bản thảo chuẩn bị xuất bản.

64
Thứ nhất, chế độ lộc điền chỉ dành riêng cho các quý tộc và quan lại từ tòng
tứ phẩm trở lên, là đặc quyền của tầng lớp quý tộc, quan lại cao cấp. Chế độ lộc
điền cùng chế độ tuế bổng và một số quyền lợi bổ sung khác đƣợc qui chế hóa là
một bƣớc phát triển mới của chế độ quân chủ tập quyền.
Thứ hai, quy mô ban cấp ruộng đất khá lớn và đƣợc chia làm hai loại: ruộng
đất đƣợc truyền lại cho con cháu (thế nghiệp điền, tự điền) và ruộng chỉ đƣợc hƣởng
dụng một đời, sau khi chết ba năm phải trả lại cho Nhà nƣớc (tứ điền, bãi dâu). Tuy
nhiên, theo quy định thì ruộng đất thế nghiệp không đƣợc coi là ruộng đất tƣ hữu vì
mỗi triều vua mới lên trị vì có thể xem xét lại và khi cần, nhà vua có thể rút bớt
hoặc thu hồi số ruộng đất ấy.
Thứ ba, ruộng đất triều đình lấy để ban cấp trong buổi đầu chủ yếu là ruộng
đất do tịch thu của quan lại nhà Minh, ngụy quan, thế gia tuyệt tự và ruộng hoang,
về sau chủ yếu lấy từ ruộng hoang và một phần ruộng đất công làng xã. Tuy nhiên,
nếu là ruộng công của làng xã thì ngƣời đƣợc cấp chỉ có quyền thu tô thuế làm bổng
lộc, không có quyền chiếm làm ruộng đất tƣ hay tự tổ chức cày cấy.
Thứ tư, ngƣời đƣợc cấp lộc điền không phải nộp tô thuế cho Nhà nƣớc, đƣợc
quyền khai hoang, tổ chức cày cấy, phát canh hƣởng lợi nếu là đất hoang hay thu tô
thuế của nông dân nếu là ruộng đất công làng xã. Do đó về nguyên tắc, chế độ lộc
điền vừa bảo đảm quyền lợi cho tầng lớp quý tộc, quan lại cao cấp, vừa có tác dụng
mở rộng công cuộc khẩn hoang, góp phần phát triển nông nghiệp.
Thứ năm, qua nhiều tài liệu cho thấy giữa qui chế nhà nƣớc và thực tế ban
cấp lộc điền có một khoảng cách đáng kể. Quy mô ban cấp theo thể lệ là khá lớn,
nhƣng do quỹ ruộng đất để ban cấp hạn hẹp nên nhà nƣớc chỉ có thể ban cấp đƣợc
một phần theo qui chế mà thôi.
Cuối cùng, ruộng đất ban cấp do có nhiều nguồn gốc khác nhau nên thƣờng
không tập trung trong một khu vực mà rất phân tán, nằm rải trên nhiều vùng thuộc
nhiều xã, huyện, phủ khác nhau. Do đó, so với chế độ ban cấp thái ấp, điền trang
thời Lý - Trần thì chế độ lộc điền thời Lê Sơ là sản phẩm của chế độ quân chủ phát
triển đến mức độ tập quyền cao hơn, nó vừa bảo đảm quyền lợi của tầng lớp quý tộc
quan lại vừa củng cố quyền lực nhà nƣớc.
Ngoài lộc điền, các quan lại từ tam phẩm trở xuống còn đƣợc nhận ruộng
công (công điền) ở quê. Theo chế độ quân điền ban hành thời Hồng Đức thì ruộng
đất công của các làng xã đƣợc chia thành các phần, quy mô mỗi phần lớn hay nhỏ
tuỳ theo quỹ đất và số đối tƣợng đƣợc chia của từng làng. Các quan từ nhị phẩm trở

65
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
lên vì đƣợc đã đƣợc ban cấp nhiều lộc điền nên không đƣợc nhận, còn lại các quan
từ tam phẩm trở xuống đều đƣợc chia ruộng công theo thể lệ: tam phẩm 11 phần, tứ
phẩm 10 phần…, cho đến cửu phẩm tạp lƣu, lại dịch, binh lính từ 7 đến 4 phần
[28,286-290].
1.2.5.4. Những quy định xử phạt quan lại phạm pháp
Đi đôi với những chính sách trọng đãi, triều Lê đòi hỏi đội ngũ quan lại phải
luôn làm tròn chức trách và nhiệm vụ, đồng thời nghiêm minh xử phạt nếu họ
không hoàn thành bổn phận hoặc vi phạm luật pháp. Các quy định về chức phận và
hình thức xử phạt quan lại phạm pháp đƣợc các vua triều Lê ban hành bằng nhiều
chiếu, dụ, sắc, chỉ, nhƣng tập trung nhất là trong các chƣơng Cấm vệ, Vi chế, Tạp
luật của bộ Quốc triều hình luật. Về cơ bản, quan lại có hai nghĩa vụ là đối với nhà
vua và với dân chúng, do đó các hình thức xử phạt cũng đƣợc áp dụng tuỳ theo mức
độ phạm tội của viên quan đó đối với hai loại đối tƣợng trên.
Vua là ngƣời có quyền lực tối thƣợng, là đại diện cao nhất và duy nhất của
một quốc gia. Do đó, những tội có liên quan trực tiếp với vua đều là trọng tội. Điều
2 trong Quốc triều hình luật quy định: nếu làm giả ấn tín của nhà vua, chỉ trích nhà
vua hay lấy trộm đồ thờ trong lăng miếu và đồ ngự dụng, chế thuốc ngự không theo
đúng phƣơng thuốc, làm đồ ngự thiện (thức ăn) là những món cấm kỵ… đều bị coi
là “đại bất kính” - một trong mƣời tội ác (thập ác), xếp ngang với các tội “mƣu
phản”, “mƣu đại nghịch”, “mƣu chống đối”. Ngƣời phạm phải một trong những tội
trên tuỳ từng mức độ khác nhau có thể bị xử tội đồ, tội lƣu hoặc tội chém (các điều
80, 103, 110, 111, 132, 411, 412, 624…).
Ở những mức độ khác, nếu là tội tỏ ý khinh nhờn vua (khi quân), nhƣ không
ăn mặc chỉnh tề khi vào Hoàng thành thì bị biếm một tƣ, viên quan canh cửa cho
vào bị phạt 60 trƣợng (điều 81); coi thƣờng sắc chỉ, chiếu lệnh vua ban, đón tiếp
không đúng nghi lễ, thiếu sự cung kính thì lỗi nhẹ xử tội biếm hay bãi chức, lỗi
nặng xử tội đồ hoặc tội chém, còn nếu vứt bỏ hay xé nát chiếu chỉ, ngông nghênh
ngạo mạn khi tiếp chỉ đều bị xử tội đồ hoặc tội chết (điều 229). Đối với tội bất kính
trong ngôn từ, ví nhƣ phạm huý nhà vua khi dâng thƣ hay tâu việc thì bị phạt 60
trƣợng, biếm hai tƣ, miệng nói phạm tên huý bị xử tội xuy, cố ý đặt tên chính hay
tên tự phạm huý thì bị xử tội lƣu, tội tử hình (điều 125); dùng từ xƣng hô không
đúng lễ khi tâu việc thì bị xử phạt 5 quan, dâng thƣ mà viết nhầm thì bị phạt 50 roi,
biếm một tƣ (điều 126); khi dâng thƣ nói về triều đại trƣớc mà cố ý chê bai thì phải
tội đồ làm chủng điền binh, nói miệng thì xử phạt 60 trƣợng, biếm hai tƣ (điều 127).
Khi nhận lệnh nhƣng làm lỡ việc, nếu là việc nhỏ (công việc hàng tháng) thì xử tội

66
đồ, việc lớn (việc hàng năm) tội lƣu, việc khẩn cấp thì tội nặng hơn (điều 232); còn
nếu nhận mệnh nhƣng cố ý làm trái thì phải tội đồ, làm sai lầm thì phải tội biếm hay
phạt (điều 122)…
Đối với dân chúng, nghĩa vụ của quan lại là coi sóc, bảo vệ và giáo hoá dân.
Nếu viên quan nào không biết chăm lo, bảo vệ dân, để dân phải phiêu bạt đi nơi
khác, hộ khẩu hao hụt, giặc cƣớp nổi lên trong hạt thì bị bãi chức hay tội đồ (điều
284). Các quan nếu không biết nêu gƣơng tốt, dùng lễ giáo để cảm hoá dân chúng,
lại còn mê đắm tửu sắc, để phƣơng hại đến việc quan đều bị xử tội biếm hay bãi
chức (điều 637). Ngoài ra, tất cả những tội sách nhiễu, hà hiếp dân chúng, tham lam
nhận hối lộ hay xâm chiếm tài sản của dân đều tuỳ theo mức độ mà bị trừng trị thích
đáng (các điều 138,163, 164, 632, 636, 638, 639… …).
Ban hành và thực thi những điều luật nghiêm ngặt nhƣ vậy, triều Lê trƣớc hết
muốn củng cố thể chế tập quyền, đề cao lợi ích quốc gia và quyền lợi của dân
chúng; đồng thời qua đó nhằm xây dựng một đội ngũ quan lại trong sạch, vững
mạnh, làm việc theo luật pháp và tuyệt đối trung thành với nhà vua, với chế độ, với
quốc gia.
1.3. Sự suy yếu và sụp đổ của mô hình Lê Sơ
Mặc dù mô hình tập quyền quan liêu thời Lê Sơ đã đạt đến độ hoàn bị nhƣng
cuối cùng cũng không tránh khỏi sự đổ vỡ. Dấu hiệu suy vong bộc lộ rõ từ sau cái
chết của Lê Thánh Tông (năm 1497), nhƣng phải vài thập niên sau mới sụp đổ hoàn
toàn, khép lại thời kỳ hoàng kim trong lịch sử trung đại Việt Nam.
Lên nối nghiệp khi triều đại Lê Sơ đang trong những năm tháng thịnh trị,
Hoàng đế Lê Hiến Tông đƣợc thừa hƣởng từ vua cha những thành quả to lớn của sự
nghiệp kiến quốc, nhƣng đồng thời đó cũng là sứ mạng hết sức nặng nề. Với bảy
năm trị vì, Lê Hiến Tông đƣợc sử sách ghi nhận là đấng “Thiên tử anh minh thông
duệ, giữ vận thịnh trị, thái bình…, xứng đáng là bậc vua giỏi giữ cơ đồ” [24,7]. Tuy
nhiên, trong ngày tháng bình yên cuối cùng ấy đã chứa đựng nhiều điều bất ổn.
Năm 1499, tức là hai năm sau khi trị vì, Lê Hiến Tông ban sắc chỉ cho bá quan
rằng: “(triều đình) trừng trị kẻ tham ô, khen thƣởng ngƣời liêm cần, điển chƣơng đã
đầy đủ. Chăm chắm roi vọt răn đe, ngăn ngừa tƣ thông đút lót. Mà sao bọn quan lại
giữ chức quyền, không đoái chi tới phép tắc của triều đình. Ngƣời lo cho nƣớc,
quên việc nhà thì ít; kẻ thiếu trách nhiệm, bỏ chức phận thì nhiều. Tha giàu bắt
nghèo, không chừa ác cũ; tham tiền khoét của, vẫn theo lối xƣa. Kẻ thì chỉ lo hại
ngƣời để béo mình, kẻ thì đam mê tửu sắc mà chẳng bỏ, kẻ thì dựa thế đang lên

67
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
nghĩ cách bóc lột, kẻ thì nhân đƣợc gả xuống mà mặc sức vét bòn, kẻ thì cho nhờ vả
che chở làm mƣu hay mà vứt bỏ phép nƣớc, kẻ thì lấy yêu sách, đánh đập làm kế
giỏi mà không thƣơng xót ngƣời nghèo. Việc quân, việc nƣớc hỏng nát không lúc
nào nghiêm trọng bằng lúc này...” [24,12-13]. Đó là lời nhắc nhở, trách phạt của
Hoàng đế đối với đội ngũ quan lại của mình, nhƣng đồng thời nó phản ánh thực
trạng đáng báo động của tình hình triều chính mà Lê Hiến Tông là ngƣời phải gánh
chịu. Thực ra, đó là mặt trái của “thời kỳ hoàng kim”, là những di tồn nằm ngoài ý
muốn song là hệ quả tất yếu trong quá trình phát triển của thể chế quân chủ chuyên
chế tập quyền theo hƣớng quan liêu, Nho giáo thời kỳ Lê Sơ. Biện pháp khắc phục
thông thƣờng đƣợc nhà vua sử dụng là thông qua các sắc, chỉ, chiếu, lệnh và cả 24
huấn điều (ban hành năm 1499) nhằm hƣớng dẫn, khuyên răn, nêu gƣơng cho quan
lại của mình theo lời dạy của thánh nhân song đã tỏ ra vô hiệu. Bi kịch bùng phát
sau cái chết của Hoàng đế Lê Hiến Tông năm 1504.
Những biến loạn chính trị cuối thời Lê Sơ diễn ra trƣớc hết và chủ yếu trong
cung đình, gây ra bởi tầng lớp vua chúa và quan lại. Chỉ trong vòng 22 năm, từ
1505 đến 1527 đã diễn ra tất cả 46 sự biến chính trị, trong đó 30 vụ việc do quan lại
văn võ, 7 vụ do đích thân nhà vua và 9 vụ không rõ ngƣời cầm đầu gây nên. Các vụ
việc do nhà vua trực tiếp gây ra đƣợc kể bắt đầu từ Uy Mục giết hại Thái hậu
Trƣờng Lạc cùng một số quan lại vào năm 1505, tiếp đến nghi kỵ, bắt bớ, xua đuổi
tông thất công thần về Thanh Hoá (năm 1509); Tƣơng Dực giết 15 vƣơng công tông
thất năm 1514; Lê Chiêu Tông giết công thần năm 1518; hoặc đẩy các quan văn võ
vào cuộc chiến nhằm bảo vệ vƣơng quyền, nhƣ trƣờng hợp Quang Thiệu đế chống
Mạc Đăng Dung năm 1522… Trong số 9 vụ biến loạn không xác định đƣợc ngƣời
cầm đầu diễn ra khắp các địa bàn: trong kinh thành, miền núi, đồng bằng, nhƣng
đáng chú ý nhất là cuộc bạo loạn của Trần Tuân nổ ra ở Sơn Tây năm 1511. Chiếm
phần lớn nhất trong số các sự biến cuối thời Lê là do các vƣơng công quý tộc, đại
thần cao cấp gây ra (30/46 vụ). Đó là các loại vụ việc sau: chống lại vua đƣơng
triều, giết vua, mƣu chuyện phế lập (trƣờng hợp Giản Tu công Oánh bức tử Uy Mục
đế giành ngôi năm 1509, Trịnh Duy Sản giết Tƣơng Dực mƣu lập Quang Trị năm
1516, Mạc Đăng Dung phế Quang Thiệu đế, lập Hoàng đệ Xuân năm 1523…); nổi
binh làm loạn, chống lại triều đình (đáng chú ý nhất là loạn Trần Cao năm 1516); và
cầm quân đánh lẫn nhau (điển hình là vụ An Hoà hầu Nguyễn Đức Dụ và Vĩnh
Hƣng hầu Trịnh Tuy năm 1517) [119,5-7].
Từ những biến cố cung đình, sự rối loạn ngoài xã hội cũng bắt đầu xuất hiện.
Trƣớc hết là sự lộng hành của nạn ngoại thích. Toàn thư chép: “Bấy giờ, uy quyền

68
thuộc về họ ngoại, phía đông thì làng Hoa Lăng (quê của cha nuôi), phía tây thì làng
Nhân Mục (quê của vợ vua), phía bắc thì làng Phù Chẩn (quê của mẹ vua) đều
chuyên cậy quyền thế, vùi dập các quan, kẻ thì vì ý riêng mà giết hại sinh dân, kẻ
thì dùng ngón kín mà yêu sách tiền của, mọi thứ súc vật, hoa màu của dân, chúng
đều cƣớp đoạt cả, nhà nào có đồ lạ, vật quý, chúng đánh dấu chữ vào và đòi lấy.
Muôn dân ta oán mà vua vẫn không chừa, lại mang lòng ngờ vực, đố kỵ…” [24,45].
Quan lại khắp các địa phƣơng, nhất là đội ngũ cƣờng hào, lý dịch các làng xã nhân
đó ra sức cƣớp bóc, hà hiếp, sách nhiễu dân chúng. Nhân dân đói khổ, lầm than,
giặc cƣớp nổi lên khắp nơi. Sử chép, liên tiếp trong các năm 1516: “trong nƣớc đói
to, xác ngƣời chết đói nằm gối lên nhau. Những nơi trải qua binh lửa nhƣ Đông
Triều, Giáp Sơn ở Hải Dƣơng, Yên Phong, Tiên Du, Đông Ngàn ở Kinh Bắc lại
càng đói dữ”; 1518, khi quân của Nguyễn Kính, Nguyễn Duy Nhạc từ Sơn Tây tràn
vào Thăng Long “thả sức cƣớp phá, trong thành sạch không, Kinh sƣ thành bãi săn
bắn, đánh cá”; 1519 “giặc Xá ở đầu nguồn các xứ Thái Nguyên, Tuyên Quang nổi
loạn, cƣớp bóc vợ con của cải của dân chúng”; 1522 “giặc cƣớp nổi lên ở kinh
thành, đốt phá phố xá”… … [24,86,101]. Chỉ khi Mạc Đăng Dung lên nắm quyền,
tình hình trên đây mới dần đi vào ổn định.
Vấn đề đặt ra là vì sao một mô hình tổ chức nhà nƣớc hoàn bị đến thế lại có
thể sụp đổ dễ dàng? Có thể nêu ra ba nguyên nhân sau đây:

Trước hết, là nguyên nhân nội tại, nằm trong chính quá trình phát triển kinh
tế - xã hội. Bệ đỡ kinh tế của thiết chế trung ƣơng tập quyền thời Lê Sơ là chế độ sở
hữu nhà nƣớc về tƣ liệu sản xuất cơ bản, trong đó quan trọng nhất là ruộng đất.
Thông qua chính sách lộc điền và quân điền vua Lê đã khẳng định đƣợc quyền sở
hữu tối cao đối với ruộng đất toàn quốc, qua đó có đƣợc vai trò chi phối mọi mặt
đời sống kinh tế - xã hội. Luật nhà Lê nghiêm cấm mọi hình thức biến ruộng đất
công thành sở hữu tƣ. Tuy nhiên, trên thực tế quá trình tƣ hữu hoá về ruộng đất
dƣới các hình thức ẩn lậu, dấu diếm nhà nƣớc vẫn lặng lẽ, âm thầm diễn ra sau luỹ
tre làng. Mặc dù triều đình đã có nhiều cố gắng trong việc thiết lập hệ thống kiểm
soát đối với làng xã, thông qua hệ thống pháp luật và bộ máy lý dịch do nhà nƣớc
sắp đặt, nhƣng bằng thực lực kinh tế và dựa vào tục lệ làng xã, bộ phận thực sự nắm
quyền quản lý và thao túng là xã làng tầng lớp địa chủ giàu có. Chính quyền lực
kinh tế của tầng lớp địa chủ và cùng với nó là các hoạt động kinh tế tƣ nhân khác đã
dần làm xói mòn và rạn nứt cấu trúc ổn định thời Lê. Sau khi Lê Thánh Tông qua
đời, nó bùng phát và trở thành vấn nạn không thể kiểm soát.

69
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Thứ hai, thiết chế tập quyền Lê Sơ sụp đổ còn là do các mâu thuẫn nằm trong
chính mô hình đó. Xuất phát từ yêu cầu củng cố quốc gia thống nhất, triều Lê Sơ
xây dựng mô hình nhà nƣớc theo hƣớng tập quyền quan liêu cao độ. Một bộ máy
quản lý hành chính đƣợc kiện toàn từ trung ƣơng đến tận các làng xã, tất cả đều
chịu trách nhiệm cao nhất trƣớc Hoàng đế. Trong những thời điểm lịch sử nhất
định, hệ thống đó đã phát huy tối đa hiệu quả của mình. Tuy nhiên, thiết chế này đòi
hỏi sự trong sạch và thạo việc của đội ngũ quan lại, sự lành mạnh của các cơ quan
hành pháp. Khi luật pháp nhà nƣớc không đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh, họ rất dễ
tha hoá, biến chất, dẫn đến tệ tham nhũng, quan liêu. Thêm vào đó, xu thế gia tăng
của đội ngũ quan lại quá mức cần thiết khó tránh khỏi sẽ làm cho bộ máy trở nên
cồng kềnh, là gánh nặng cho dân. Để có thể vận hành và điều khiển tốt toàn bộ hệ
thống đó, phẩm hạnh, trí tuệ, tài năng của ngƣời đứng đầu, tức Hoàng đế giữ vai trò
đặc biệt quan trọng. Dƣới thời Lê Sơ, Lê Thánh Tông từng là một vị vua nhƣ vậy.
Nhƣng sau khi ông mất, với những “vua quỷ”, “vua lợn” lên thay thì sự nghiệp nhà
Lê đã bị huỷ hoại trong tay họ.
Thứ ba, nhà nƣớc Lê Sơ sụp đổ còn là do kết quả của sự xung đột giữa hệ
thống quan phƣơng và các thiết chế phi quan phƣơng trong cùng một cấu trúc. Đến
thời Lê Sơ, hệ thống pháp luật hoàn bị đã đƣợc ban hành, trở thành công cụ hữu
hiệu cho việc quản lý mọi mặt đời sống xã hội đất nƣớc. Làng xã là nơi pháp luật
đƣợc thực thi, nhƣng ở đây ngoài “phép nƣớc” còn có “lệ làng”, mà trong thực tế
những tục lệ và quy ƣớc này lại thƣờng có vị trí quan trọng hơn, tri phối mạnh mẽ
hơn nơi làng xã (“phép vua thua lệ làng). Cũng tại đây, ngoài bộ máy quản lý hành
chính do nhà nƣớc cắt đặt, hệ thống quyền lực tự trị vốn tiềm ẩn nay đã hồi sinh
dƣới dạng một hội đồng nằm ngoài hệ thống chính quyền nhƣng lại nắm thực quyền
quyền nơi làng xã. Hội đồng ấy tồn tại dựa trên một cơ sở kinh tế do dân làng đóng
góp, nhƣng chủ yếu và trƣớc hết là của những ngƣời giàu (địa chủ). Nó hoạt động
và thực thi quyền lực thông qua tục lệ và quy ƣớc của làng. Mặt khác, chính chế độ
tự trị làng xã còn là môi trƣờng thuận lợi dung dƣỡng tâm lý trọng lệ hơn trọng luật,
quen với lối sống thiếu kỷ luật chặt chẽ và khó thích ứng với luật pháp của những
cƣ dân nông nghiệp. Tất cả tạo thành những thiết chế phi quan phƣơng tồn tại trong
thế đối chọi với hệ thống quan phƣơng nhà nƣớc. Chúng tác động mạnh mẽ đến mọi
mặt của đời sống xã hội, làm giảm thiểu quyền lực của thể chế tập quyền và tính
thực thi của hệ thống luật pháp nhà nƣớc [60,9-10; 67,368-371].
Từ những lý do trên đây, sự kết thúc vai trò lịch sử của thiết chế chính trị Lê
Sơ vào đầu thế kỷ XVI là điều khó tránh khỏi.

70
Tiểu kết
Đầu thế kỷ XV, sau những biến động dữ dội của tình hình chính trị, xã hội,
Đại Việt bƣớc vào kỷ nguyên mới. Cùng với quá trình đó, một thể chế chính trị mới
dần xuất hiện và là nhân tố chủ yếu tạo nên thời kỳ hoàng kim của chế độ phong
kiến Việt Nam - thể chế tập quyền quan liêu thời Lê Sơ. Thể chế đó đƣợc thiết lập
dựa trên một nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc, một nền hành chính hiện đại với
đội ngũ quan lại đƣợc tổ chức chặt chẽ và một hệ thống pháp luật hoàn bị. Sức
mạnh của thể chế đã đƣợc khẳng định bởi lịch sử. Những thành tựu to lớn trên các
lĩnh vực xây dựng đất nƣớc, trình độ lập pháp, phát triển kinh tế, mở rộng lãnh thổ,
mở mang văn hoá… đã đƣa Đại Việt trở thành một trong những quốc gia cƣờng
thịnh nhất khu vực Đông Nam Á lúc bấy giờ.

Cấu trúc chính trị thời Lê Sơ đƣợc thiết lập dựa trên sự kế thừa từ những mô
hình trƣớc, trực tiếp là triều Hồ, lại có sự tiếp nhận từ mô hình Trung Hoa, chủ yếu
là của triều Minh. Tuy nhiên, ngay cả khi tiếp nhận thì mô hình Lê Sơ không phải là
sự sao chép, mô phỏng hoàn toàn từ khuôn mẫu sẵn có, mà nó thể hiện tính sáng
tạo, nét độc đáo riêng. Trƣớc hết đó là sự gọn nhẹ, tinh giản và có nhiều khác biệt
trong cấu trúc bộ phận và chức năng thực tế của các cơ quan, chẳng hạn nhƣ, trong
bộ máy chính quyền Lê Sơ có nhiều chức tƣớc chỉ đặt ra cho đủ lệ, nhiều chức danh
khác chỉ là kiêm nhiệm, Ngự sử đài tiếp tục đƣợc duy trì trong khi nhà Minh lập Đô
sát viện...

Khi nhận định về tính chất của thiết chế chính trị thời Lê Sơ, điển hình là
triều Lê Thánh Tông (1460-1497), một quan điểm phổ biến coi đây là mô hình cực
trị, độc tôn Nho giáo, nhƣng nghiên cứu sâu cho thấy thực tế không đơn giản nhƣ
vậy. Xƣa nay Lê Thánh Tông luôn đƣợc đánh giá là một vị Hoàng đế sùng Nho, đề
cao Nho giáo và lấy đó làm nền tảng tƣ tƣởng trị nƣớc. Điều đó đúng nhƣng chƣa
đủ. Bản thân con ngƣời ông và những chính sách cai trị của ông còn là sự kết hợp
của nhiều yếu tố khác. Lê Thánh Tông không chỉ là một vị Hoàng đế uyên bác giáo
lý Khổng Mạnh, mà còn thông hiểu dân gian. Ông là một trong số ít những vị vua
Việt Nam mà thân phận và cuộc đời đã đi vào tâm thức dân gian, đƣợc dân gian
chấp nhận và trở nên bất tử. Không những thế, chính ông còn là một tác giả thơ
Nôm, tiêu biểu với những Thánh Tông di thảo, Hồng Đức Quốc âm thi tập. Qua
những sáng tạo văn thơ Nôm với những xúc cảm của ngƣời Việt, Lê Thánh Tông

71
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
trở về với con ngƣời thật của mình. Với một vị Hoàng đế nhƣ vậy, tƣ tƣởng cực trị,
độc tôn Nho giáo khó có thể đƣợc chấp nhận.

Trong đƣờng lối trị nƣớc, Lê Thánh Tông đặc biệt đề cao luật pháp, song luật
pháp thời Lê không quá gò bó, cứng nhắc mà luôn thể hiện sự linh hoạt và phản ánh
tính dân tộc sâu sắc. Với Quốc triều hình luật, những quy phạm đạo lý Việt Nam
đƣợc thể hiện rõ nét. Chẳng hạn, khi quy định về mƣời trọng tội (thập ác), điều 2
của bộ luật đã xếp các tội bất hiếu, bất mục, loạn luân ngang với các tội chống đối
vua, mƣu đại nghịch, phản quốc… Luật nhà Lê nghiêm cấm và xử phạt nặng đối
với tội bất hiếu dù chỉ là những biểu hiện nhỏ nhất. Ví dụ, một gia đình có tang ông
bà, cha mẹ mà con trai không cử tang thì phải tội đồ làm khao đinh (phu cắt cỏ), đàn
bà đồ làm tang thất phụ (phu chăn tằm). Trong khi có tang mà quan lại bỏ đồ tang
mặc đồ thƣờng, vui chơi đàn hát thì bị biếm hai tƣ (điều 130). Hay nhƣ điều 504
quy định: Con cháu tố cáo ông bà cha mẹ bị xử tội lƣu đi châu xa… Cũng trong
Luật Hồng Đức, những tập tục truyền thống của ngƣời Việt đƣợc nhà nƣớc tôn
trọng và bảo vệ. Đó là những điều luật thừa nhận quyền bình đẳng của con cái, giữa
con trai và con gái trong thừa kế tài sản, hƣơng hoả tổ tiên, quyền lợi của ngƣời phụ
nữ trong gia đình và xã hội… Đây là những điều khoản hoàn toàn không thể tìm
thấy trong bất kỳ bộ luật nào của Trung Quốc. Hay một ví dụ khác là dù luôn muốn
thống nhất hệ thống pháp luật toàn quốc, nhƣng luật nhà Lê vẫn cho phép “ngƣời
thƣợng du phạm tội với nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội” (điều 40)… Với
Luật Quân điền, một số tập tục cổ truyền của làng xã vẫn đƣợc nhà nƣớc bảo lƣu ở
mức độ nhất định. Biểu hiện rõ nét nhất của chính sách đó là việc nhà nƣớc chia
ruộng đất công làng xã cho các xã dân theo từng “phần”. Nghĩa là, những ngƣời
thuộc cùng một loại đối tƣợng sẽ đƣợc nhận một số “phần” nhƣ nhau theo luật định,
nhƣng mức độ nhiều ít khác nhau của từng phần lại phụ thuộc vào quỹ đất công và
số nhân khẩu của mỗi làng xã. Theo nguyên tắc phân chia này, nhà nƣớc đã tôn
trọng lệ “ruộng đất công của làng xã nào thì dân làng ấy hƣởng”. Tính linh hoạt và
hiệu quả thực tế của chính sách đó rõ ràng đã đƣợc khẳng định. So với chế độ quân
điền thời Thuận Thiên, đây là một thành công lớn của Lê Thánh Tông.

Với tất cả những giá trị trên đây, mô hình tập quyền quan liêu thời Lê Sơ đã
từng đƣợc coi là hình mẫu lý tƣởng, là “khuôn vàng thƣớc ngọc” cho các triều đại
về sau noi theo.

72
CHƢƠNG 2
CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ THỜI MẠC (1527 - 1592)

Trên danh nghĩa phải đến tận năm 1677 triều Mạc mới hoàn toàn chấm dứt
sự tồn tại, nhƣng từ 1592, sau khi bị đánh bật khỏi kinh đô, phải chạy lên Cao Bằng,
vai trò của vƣơng triều này trên chính trƣờng gần nhƣ đã hết.

2.1. Quá trình hình thành và kiện toàn tổ chức chính quyền Mạc
Cuộc khủng hoảng trầm trọng và toàn diện diễn ra ở Đại Việt kéo dài trong
thập niên cuối thế kỷ XV và vài thập niên đầu thế kỷ XVI báo hiệu sự sụp đổ của
nhà nƣớc Lê Sơ là điều không tránh khỏi. Mạc Đăng Dung đã bƣớc lên vũ đài chính
trị trong bối cảnh ấy.

Mạc Đăng Dung sinh ngày 23 tháng 11 năm 1483, vào thời kỳ có thể coi là
cƣờng thịnh nhất của chế độ phong kiến Việt Nam, nhƣng ông lại trƣởng thành và
gắn bó toàn bộ sự nghiệp trong thời loạn. Xuất thân từ từng lớp bình dân chuyên
nghề đánh cá ở vùng ven biển Đông Bắc (nay thuộc Hải Phòng). Xét theo vị thế xã
hội, Mạc Đăng Dung có điểm khởi đầu rất thấp. Trong khoảng 20 năm đầu, lịch sử
gần nhƣ không biết ông là ai. Bƣớc ngoặt quan trọng đến với cuộc đời Mạc Đăng
Dung khi vua Lê Uy Mục cho tuyển dũng sĩ. Đăng Dung dự môn đánh vật, trúng
Đô lực sĩ xuất thân, đƣợc sung vào đội túc vệ, giữ việc cầm dù theo xe vua [7,254].
Từ đó, nhờ tài năng, sự khôn khéo của bản thân cùng những điều kiện khách quan
xuất hiện từ sự rối loạn của tình hình chính trị, Mạc Đăng Dung từng bƣớc tham gia
chính trƣờng và chẳng bao lâu đã khẳng định đƣợc vai trò số một trong bộ máy
chính quyền triều Lê. Năm 1508, Mạc Đăng Dung giữ chức Đô chỉ huy sứ vệ Thần
Vũ, rồi đƣợc phong tƣớc Vũ Xuyên bá (1511), Trấn thủ Sơn Nam, gia phong Phó
tƣớng Tả đô đốc (1516), Vũ Xuyên hầu (1518), Minh Quận công (1519), Nhân
Quốc công tiết chế các doanh thuỷ lục 13 đạo (1521), Bình chƣơng quân quốc trọng
sự Thái phó Nhân Quốc công (1524), và An Hƣng vƣơng (1527). Lúc này, triều
đình nhà Lê thực sự rối loạn. Nhờ có công phò giúp vua Chiêu Tông và Hoàng Đệ
Xuân, đánh dẹp các thế lực chống đối, Mạc Đăng Dung đã tập hợp quanh mình
nhiều vây cánh, tạo nên một thế lực thực sự làm nghiêng ngả triều Lê. Tháng 6 năm
1527, khi đã đủ cả thế và lực, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vào Kinh sƣ ép vua Lê
nhƣờng ngôi, tự xƣng Hoàng đế, ban lệnh đại xá, đổi niên hiệu.

73
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Tuy nhà Mạc xuất hiện do kết quả một cuộc chính biến và đã từng bị các sử
gia triều đại sau gọi là “nguỵ triều”, chép vào sử với tƣ cách một “nhuận triều”
(không chính thức), nhƣng trong bối cảnh Đại Việt khi đó, việc thiết lập một triều
đại mới thay thế cho triều Lê đã cũ nát có thể coi là một dấu hiệu tích cực. Thời đại
hoàng kim của thiết chế tập quyền quan liêu đã lụi tàn và sự ra đời của một vƣơng
triều mới làm xuất hiện khả năng giải quyết những yêu cầu khách quan của lịch sử
đặt ra.
Vừa lên nắm quyền, Mạc Đăng Dung ban bố chiếu lên ngôi, đích thân cử
hành lễ tế cáo trời đất, cho dựng tôn miếu, truy tôn tiêu tổ, đồng thời lập ngôi Thái
tử cho con trai trƣởng Đăng Doanh và phong tƣớc vƣơng, công chúa cho các con
trai, con gái khác. Để thu phục lòng ngƣời và nhân sĩ trong nƣớc, Mạc Đăng Dung
tiến hành thăng thƣởng chức tƣớc cho các cựu thần nhà Lê (chủ yếu là những ngƣời
có công hoặc theo về họ Mạc) nhƣ Vũ Hộ, Nguyễn Thế An, Vũ Duệ, Đàm Thận
Huy…, đồng thời sai ngƣời tu sửa lầu điện, lăng mộ nhà Lê ở Lam Kinh, ra lệnh
xuân thu nhị kỳ tế lễ. Không những thế, nhà Mạc vẫn giữ nguyên chế độ, pháp luật
của triều Lê. Đây là những biện pháp nhằm nhanh chóng ổn định tình hình nội
chính, kiện toàn tổ chức bộ máy nhà nƣớc. Nhƣng các sử gia lại bình luận rằng:
“Đăng Dung sợ lòng ngƣời nhớ vua cũ, để lâu lại sinh biến, nên phải tuân giữ pháp
độ của triều Lê, không dám thay đổi” [24,110].
Tuy nhiên, chỉ vài tháng sau đó, đầu năm 1528, chính quyền nhà Mạc bắt
đầu ban hành một số chính sách mới. Trƣớc hết là trên lĩnh vực kinh tế. Tháng
Giêng, sau khi cho đúc đồng tiền Thông Bảo theo triều đại cũ không thành, Mạc
Đăng Dung sai làm tiền “gián” mới bằng kẽm pha sắt và ra lệnh “ban hành các xứ
trong nƣớc để dễ tiêu dùng”. Tháng 2, vua Mạc tiến hành ban phong chức tƣớc cho
56 đại thần văn võ, chủ yếu là các đình thần cựu Lê và hoàng thân quốc thích, gồm
các chức từ Phò mã đô uý Thái bảo Lâm Quốc công Nguyễn Quốc Hiến, Thái sƣ
Lâm Quốc công Mạc Quốc Trinh, Tả Đô đốc Khiêm Quận công Mạc Đình Khoa…
trở xuống. Cùng tháng ấy, nhà Mạc sai ngƣời sang Yên Kinh báo với triều Minh về
việc vua mới lên ngôi và xin thần phục để giữ quan hệ ngoại giao bình thƣờng với
triều Minh. Đến tháng 10, Mạc Đăng Dung bắt đầu tiến hành những cải cách về
binh chế, điền chế, lộc chế, theo đó, cho đặt bốn vệ Hƣng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y,
Kim Ngô, năm phủ, các vệ sở trong ngoài, các ty sở thuộc, hiệu ty, tên quan và số
lại viên, số ngƣời, số lính của các nha môn... Đầu năm 1529, nhà Mạc bắt đầu mở
khoa thi Hội, lấy đỗ 3 Tiến sĩ cập đệ (Trạng Nguyên, Bảng Nhãn, Thám Hoa), 8

74
Tiến sĩ xuất thân (Hoàng Giáp) và 16 Đồng tiến sĩ xuất thân [24,111-113; 7,267-
269]… Đó là những động thái đầu tiên của nhà Mạc nhằm cải tổ lại tổ chức và hoạt
động của bộ máy chính quyền.
Nhƣ vậy, hệ thống tổ chức của chính quyền triều Mạc đƣợc định hình ngay
từ đời vua đầu tiên. Mạc Đăng Dung không những là ngƣời thiết lập vƣơng triều,
mà còn là ngƣời đề ra những thay đổi trong mô hình cấu trúc nhà nƣớc. Sau Mạc
Đăng Dung, chính quyền Mạc tiếp tục đƣợc hoàn thiện dƣới thời Đăng Doanh và
các đời vua sau. Mô hình ấy tồn tại đến năm 1592, sau khi triều Mạc thất bại ở
Thăng Long, buộc phải rút chạy lên Cao Bằng.
Trong điều kiện của sự khan hiếm nguồn tài liệu, để tìm hiểu một cách đầy
đủ và chân xác về tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền thời Mạc là việc
không đơn giản. Với những cố gắng cao nhất, dƣới đây chúng tôi xin phác hoạ
những nét chính về chính quyền nhà nƣớc thời Mạc, qua đó có một vài so sánh và
liên hệ với mô hình thời Lê Sơ trƣớc đó.
2.2. Hoạt động của chính quyền trung ƣơng
2.2.1. Các vua Mạc và chế độ Thượng hoàng
Triều Mạc thay thế nhà Lê là một bƣớc kế tiếp trong chuỗi phát triển của
thiết chế quân chủ tập quyền ở Việt Nam. Suốt 65 năm trị vì, nhà Mạc luôn tuân thủ
nguyên tắc truyền ngôi cho trƣởng nam, dòng đích. Sau hai năm rƣỡi tại vị (từ tháng
6 năm Đinh Hợi (1527) đến tháng 12 năm Kỷ Sửu (1529)), Mạc Đăng Dung đã
quyết định nhƣờng ngôi cho Thái tử Đăng Doanh, lui về làm Thái Thƣợng hoàng.
Sau khi Mạc Đăng Doanh chết (năm 1540), Đăng Dung đã chọn cháu nội là Mạc
Phúc Hải (con trai trƣởng của Đăng Doanh) lên kế vị. Mạc Phúc Hải chết, trai
trƣởng là Mạc Phúc Nguyên lên thay. Cuối cùng, Thái tử Mạc Mậu Hợp thừa kế
ngai vàng sau khi Mạc Phúc Nguyên chết (năm 1564).
Để bảo vệ nguyên tắc này, nhà Mạc nhiều khi phải dùng đến những biện
pháp cứng rắn. Năm 1546, khi Mạc Phúc Hải qua đời, Thái tử Phúc Nguyên mới 2
tuổi. Quan nhà Mạc là Tứ Dƣơng hầu Phạm Tử Nghi bàn định lập Hoằng vƣơng
Chính Trung là con thứ của Mạc Đăng Dung, lúc ấy đã lớn tuổi, nhiều lần cầm quân
và lập không ít chiến công lên nối ngôi. Tuy nhiên, các vƣơng tôn họ Mạc, nhất là
ông chú Mạc Kính Điển và các đại thần không theo, quyết lập Phúc Nguyên. Quyết
định này sau đó đã dẫn đến một cuộc biến loạn trong triều. Phạm Tử Nghi không
phục tùng quyết định đã cùng với Thành Quốc công (không rõ tên) tôn phò Chính

75
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Trung lên ngôi, đặt tên hiệu và lập triều đình riêng ở phủ Tiên Hƣng (nay thuộc
Thái Bình). Quan quân nhà Mạc nhiều lần phải cất quân đánh dẹp. Sau một năm
tình hình mới tạm yên [7,383-86].
Ngoại trừ trƣờng hợp trên đây, do tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc truyền
ngôi này nhà Mạc đã loại bỏ đƣợc tình trạng tranh giành ngôi vua trong suốt 65 năm
cai trị ở Thăng Long. Dƣới thời Lê Sơ, tình trạng bỏ con trƣởng, lập con thứ diễn ra
khá phổ biến và đó có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến những lần rối
loạn chính trị của vƣơng triều Lê. Điều này hầu nhƣ không lặp lại dƣới thời Mạc.
Có thể bài học đó đƣợc nhà Mạc rút ra từ chính triều Lê Sơ.
Một nét đặc sắc trong thiết chế chính trị thời Mạc là việc thi hành chế độ
Thái thƣợng hoàng. Theo Toàn thư thì: “Mùa đông, tháng 12 (năm 1529), khi ấy,
Mạc Đăng Dung cƣớp ngôi đã đƣợc 3 năm, tự thấy mình tuổi già, bèn truyền ngôi
cho con trƣởng là Đăng Doanh, tự xƣng là Thái thƣợng hoàng, ra ở điện Tƣờng
Quang, coi nghề đánh cá là thú ngao du tự lạc” [24,113]. Sự thực là Mạc Đăng
Dung sinh năm 1483, khi xƣng Thái Thƣợng hoàng mới 47 tuổi, cái tuổi chƣa thể
coi là già, nhất là đối với cƣơng vị ngƣời đứng đầu đất nƣớc. Chế độ Thái Thƣợng
hoàng không phải là sáng tạo của triều Mạc mà đã từng đƣợc thực thi từ thời Trần.
Xét từ lợi ích dòng họ thì đây là biện pháp ngăn chặn nạn cƣớp ngôi, nhƣng nhìn từ
góc độ tổ chức hệ thống thì biện pháp này có mặt tích cực là sự chủ động rèn luyện
năng lực cai trị của ngƣời kế vị và kết hợp đƣợc sức mạnh, tính năng động của tuổi
trẻ và kinh nghiệm, uy quyền của ngƣời lớn tuổi. Hệ thống này, trong bối cảnh
chính trị phức tạp khi ấy đã góp phần tạo nên sự ổn định.
Thực tế là, mặc dù lui về làm Thái Thƣợng hoàng nhƣng Mạc Đăng Dung
vẫn từ xa điều khiển công việc triều chính và nắm quyền quyết định tối cao trong
mọi quyết sách của vƣơng triều. Ngay sau khi lên ngôi, Mạc Đăng Doanh đã cho
xây dựng cung điện ở Dƣơng Kinh cho Thƣợng hoàng và đặt lệnh hàng tháng vào
các ngày mồng 8 và 22 nhà vua sẽ đích thân dẫn quần thần đến điện Thƣợng hoàng
triều yết. Theo Lê Quý Đôn thì “Đăng Dung về Cổ Trai ở, là để trấn vững nơi căn
bản, và làm ngoại viện cho Đăng Doanh, nhƣng vẫn định đoạt các việc quốc gia
trọng đại” [7,269].
Về danh nghĩa chính thức, Đăng Dung là vị Thƣợng hoàng duy nhất của triều
Mạc. Sau khi Mạc Đăng Dung qua đời (1541), nhà Mạc duy trì chế độ Phụ chính,
luôn có một hoặc hai vị Phó vƣơng bên cạnh nhà vua. Đặc biệt, từ năm 1562 đến
cuối triều Mạc, ngƣời giữ chức Phụ chính là Mạc Đôn Nhƣợng, ông chú (ông trẻ)

76
của Hoàng đế Mậu Hợp nên xét ở một góc độ nào đó có thể coi vai trò của ông nhƣ
vị Thƣợng hoàng. Nhờ thi hành một cơ chế quyền lực nhƣ vậy, nên mặc dù các vua
Mạc lên ngôi khi còn nhỏ tuổi (Phúc Nguyên 2 tuổi, Mậu Hợp 2 tuổi…) nhƣng tình
hình triều chính vẫn luôn đƣợc giữ vững, dù những bất ổn chính trị - xã hội là nguy
cơ thƣờng trực.
Nhƣ vậy, chế độ quân chủ tập quyền Việt Nam sau thời kỳ phát triển đỉnh
cao dƣới thời Lê Thánh Tông đã có những đổi thay đáng kể dƣới triều Mạc. Trong
thiết chế chính trị thời Mạc, Hoàng đế không còn giữ vai trò độc tôn trong việc giải
quyết mọi công việc. Quyền lực đó phần nào đƣợc chia sẻ cho Thƣợng hoàng hoặc
ngôi vị Phụ chính. Cơ chế này có phảng phất ảnh hƣởng của thiết chế chính trị thời
Trần, nhƣng với những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội có nhiều điểm khác trƣớc.
Thiết chế chính trị thời Mạc thực chất đã biến đổi theo hƣớng linh hoạt, mềm dẻo
hơn so với thời Lê Sơ. Nếu nhƣ sự mềm dẻo, ít cứng nhắc của mô hình thời Trần là
do sự tác động mạnh của các quan hệ làng xã, thì rất có thể sự linh hoạt của triều
Mạc lại là sự thích ứng với sự phát triển mạnh của kinh tế hàng hoá ở thế kỷ XVI.
2.2.2. Các cơ quan hành chính và đội ngũ quan chức ở trung ương
2.2.2.1. Phụ chính và các văn phòng giúp việc Hoàng đế
* Phụ chính:
Để trợ giúp Hoàng đế, triều Mạc đặt chức Phụ chính. Ngôi vị này đƣợc lập
một tháng sau khi Thƣợng hoàng Đăng Dung qua đời (tháng 8/1540). Đại Việt
thông sử có ghi: “Tháng 9 ngày Mậu thân, Phúc Hải sai Thái uý Trung Quốc công
Mạc Nhƣ Quế, Thái bảo Dƣơng Quốc công Đặng Đôn Tín vào phụ chính (nhập nội
phụ chính)” [7,272]. Nhƣ vậy, Phúc Hải cùng lúc cần đến hai vị phụ chính, một
Thái uý chuyên về quân sự và một Thái bảo lo về chính sự. Trọng trách này sau đó
đƣợc trao cả cho quan Thái tể Nguyễn Thiến. Dƣới hai triều vua cuối Phúc Nguyên
và Mậu Hợp, ngôi vị Phụ chính thuộc về những vƣơng thân tôn thất là Khiêm
vƣơng Mạc Kính Điển (?-1580) và Ứng vƣơng Mạc Đôn Nhƣợng (?-1593). Toàn
thư chép: “Nhâm Tuất, [Chính Trị] năm thứ 5 (1562), tháng giêng, Mạc Mậu Hợp
tuổi còn nhỏ lên nối ngôi, lấy Ứng Vƣơng Mạc Đôn Nhƣợng làm Nhập nội phụ
chính ẵm Mậu Hợp ra coi chầu” [24,165].
Quyền hạn của các vị Phụ chính thời Mạc rất lớn. Theo Lê Quý Đôn “các
bản tấu chƣơng của đình thần, hết thảy đều uỷ cho vị Phụ chính Ứng Vƣơng quyết
đoán” [7,328]. Hay nhƣ lời tâu của Lại bộ Hữu thị lang kiêm Đông các Học sĩ Đạo

77
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
phái bá Nguyễn Năng Nhuận năm 1581, thì Phụ chính có quyền “đốc suất các vị sƣ
bảo trọng thần, Đô đốc 5 phủ, Thƣợng thƣ 6 Bộ, cùng các vị Ngự sử trọng thần,
nhận lời can gián của mọi ngƣời để can gián vua” [7,337]. Phụ chính đứng đầu các
bậc vƣơng công đại thần, nắm trong tay cả chính quyền và binh quyền. Năm 1586,
nhận thấy trách nhiệm nặng nề một mình không kham nổi, Ứng Vƣơng Mạc Đôn
Nhƣợng đã dâng sớ lên Mạc Mậu Hợp xin thôi chức chính sự trong triều để chuyên
quản việc binh. Mậu Hợp xem xong tờ sớ đáp rằng: “Hiện nay, kỷ cƣơng nhà nƣớc
chƣa phấn chấn, cơ nghiệp tổ tông chƣa vững bền, mà tiểu tử thì chƣa từng trải,
chính là lúc cần nhờ đến sức cần lao của thúc phụ, sớm hôm cứu giúp, trong thì sửa
sang nhà nƣớc, ngoài thì đánh dẹp giặc thù, để sáng tỏ công nghiệp của tiên vƣơng,
khôi phục lãnh thổ tiền triều. Thúc phụ đối với tiểu tử, nghĩa tuy là vua tôi, nhƣng
ân nhƣ cha con. Việc quốc gia trọng đại, rất cần nhờ dựa vào thúc phụ, kính mong
thúc phụ cố gắng giữ trách nhiệm, cho thoả lòng chí thành của tiểu tử. Đôn Nhƣợng
lại coi giữ triều chính” [7,345-46].
Tuy khác tên gọi, nhƣng xét về bản chất chức Phụ chính thời Mạc cũng
giống nhƣ ngôi Tể tƣớng các triều đại trƣớc. Thời Lý - Trần, chức Tể tƣớng tồn tại
dƣới nhiều tên gọi khác nhau nhƣ: Phụ quốc Thái uý (thời Lý Thái Tông), Kiểm
hiệu bình chƣơng quân quốc trọng sự (thời Lý Nhân Tông) hay Tả hữu tƣớng quốc,
kiêm Kiểm hiệu Đặc tiến khai phủ nghi đồng tam ty Bình chƣơng sự (thời Trần
Thái Tông)… Dƣới triều Trần, chức này thƣờng do vƣơng thân tôn thất nắm giữ.
Sang thời Lê Sơ, Lê Thánh Tông bãi bỏ chức Tể tƣớng. Đến đây, nhà Mạc khôi
phục ngôi vị Tể tƣớng phỏng theo chế độ nhà Trần giai đoạn hậu kỳ, chỉ khác với
tên gọi Phụ chính.
* Các văn phòng giúp việc Hoàng đế

Ngoài chức Phụ chính, nhà Mạc tiếp tục thiết lập các cơ quan văn phòng
giúp việc Hoàng đế. Do sự khan hiếm nguồn tài liệu, những hiểu biết của chúng ta
đến nay về các cơ quan văn phòng bên cạnh vua Mạc nhìn chung còn nhiều hạn chế.
Trong điều kiện ấy, việc khai thác triệt để những thông tin từ chính sử, kết hợp với
các nguồn tài liệu thƣ tịch khác, nhất là tƣ liệu văn bia sẽ phần nào đem lại cái nhìn
toàn diện và đầy đủ hơn. Dƣới đây chủ yếu trình bày về hai cơ quan văn phòng
quan trọng nhất thời Mạc là Hàn lâm viện và Đông các.
Dựa vào tƣ liệu thƣ tịch và văn bia, tác giả Đinh Khắc Thuân trong nghiên
cứu của mình [159,109-115] đã cho biết về tổ chức và hoạt động của Hàn lâm viện
thời Mạc nhƣ sau:

78
- Có tất cả 16 ngƣời từng giữ các chức quan Hàn lâm viện thời Mạc, gồm:
Chƣởng Hàn lâm viện 3, Học sĩ 1, Thị độc 3, Thị thƣ 4, Đãi chế 1, Hiệu lý 1 và
Kiểm thảo 3 (xem bảng 16, phần phụ lục).

- Trong số các chức quan Hàn lâm thời Mạc có 5 loại tƣơng tự nhà Lê là: Thị
độc (hàm 5a), Thị thƣ (hàm 6a), Đãi chế (hàm 6b), Hiệu lý (hàm 7a) và Kiểm thảo
(hàm 7b).

- Riêng chức quan đứng đầu Hàn lâm viện thời Lê Sơ (từ Lê Thánh Tông -
TG) là Thừa chỉ, còn thời Mạc là Hàn lâm viện Học sĩ theo lệ nhà Trần, hoặc Hàn
lâm viện Thị độc kiêm quản công việc của viện Hàn lâm - “chƣởng Hàn lâm viện
sự”. Chức danh Hàn lâm viện Học sĩ đƣợc bắt gặp trong văn bia chùa Rộc (Ứng
Hoà, Hà Tây) khắc năm 1580, do Nguyễn Miễn, Tiến sĩ khoa Tân Mùi (1571) nắm
giữ, cùng với chức danh kiêm nhiệm khác là Tự khanh. Đây là trƣờng hợp duy nhất
xuất hiện chức danh Hàn lâm viện Học sĩ mà tác giả Đinh Khắc Thuân đã biện dẫn.
Đồng thời, trong công trình nghiên cứu của mình, ông cũng nhấn mạnh: “Trong khi
ở thời Trần, chức Học sĩ thƣờng đƣợc ban cho các bậc đại thần có danh vọng, thì ở
đây đƣợc ban cho cả ngƣời có chức quan không lớn nhƣ Nguyễn Miễn. Hơn nữa,
chức quan Học sĩ này đƣợc sử dụng không nhiều ở thời Mạc” (tr.111).
- Trong khi nhà Mạc ít đặt các chức chuyên trách để đứng đầu, thì Hàn lâm
viện thƣờng do các viên quan ở hàng thứ hai trong viện hoặc Thƣợng thƣ, Tả hữu
thị lang các Bộ kiêm quản. Đó là các trƣờng hợp của quan Thị độc Nguyễn Giản
Thanh, Đỗ Uông, Mai Công Cẩn, Thƣợng thƣ Nguyễn Giản, Tả thị lang bộ Lại
Phạm Đoan Lƣơng, Tả thị lang bộ Lễ Vũ Kính… Từ những trƣờng hợp nghiên cứu
cụ thể nhƣ trên, tác giả Đinh Khắc Thuân đã đi đến nhận xét: “Chức vị đứng đầu
của Hàn lâm viện thời Mạc nhƣ vậy, hầu nhƣ không gặp ở các triều đại trƣớc đó”
(tr.112).
- Hàn lâm viện đời Lê, ở hàm tòng ngũ phẩm có chức Thị giảng, tuy nhiên
trong thời Mạc không hề thấy xuất hiện chức này. Thực tế là, một ngƣời từ chức Thị
thƣ (hàm 6a) có thể đƣợc thăng thẳng lên làm Thị độc (hàm 5a), tiêu biểu nhƣ
trƣờng hợp của Nguyễn Giản Thanh. Nguyễn Giản Thanh là Tiến sĩ khoa khoa Mậu
Thìn (1508), từng giữ chức Hàn lâm viện Thị thƣ kiêm Đông các Học sĩ thời Lê;
sau theo về nhà Mạc đƣợc thăng làm Lễ bộ Thƣợng thƣ Hàn lâm viện Thị độc.
Cùng ở hàng tòng ngũ phẩm trong viện Hàn lâm đầu thời Lê còn có chức Tả hữu
thuyết thƣ, tuy nhiên từ sau lần cải cách hành chính năm 1471 Lê Thánh Tông đã
bãi bỏ chức này, triều Mạc theo đó cũng không đặt.

79
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
- Về hoạt động của Hàn lâm viện thời Mạc có lẽ không khác so với thời Lê
Sơ và quan chế nhà Minh. Theo đó, Hàn lâm viện vẫn giữ chức năng nhƣ một
trƣờng đào tạo và bồi dƣỡng nghiệp vụ cho các quan lại hành chính cao cấp của nhà
nƣớc. Văn bia Tô Quận công xã Mộ Trạch (nay là thôn Mộ Trạch, xã Tân Hồng,
Cẩm Giàng, Hải Dƣơng) cho biết Lê Quang Bí sau khi đỗ Tiến sĩ năm 1526 vào làm
việc tại viện Hàn lâm, giữ chức Hiệu lý. Sau chín năm (1535) ông đƣợc bổ ra làm
Hiến sát sứ Sơn Tây. Văn bia đền Tiên Hiến ở xã Lại Yên (Hoài Đức, Hà Tây) cũng
cho biết Nguyễn Vĩnh Miên sau khi đỗ Tiến sĩ năm 1562 đã vào làm tại viện Hàn
lâm, sau đó đƣợc thăng chức Lễ bộ Thƣợng thƣ.

- Từ những đặc điểm trên đây, tác giả Đinh Khắc Thuân đã đi đến kết luận:
“Hàn lâm viện thời Mạc đã kế thừa chế độ Hàn lâm nhà Lê và nhà Trần của Việt
Nam, đồng thời chịu ảnh hƣởng quy chế Hàn lâm viện thời Minh. Tuy nhiên, có
một số nét đặc thù, mà trƣớc hết là chức vị ngƣời đứng đầu Hàn lâm viện không
thực sự đƣợc chú trọng, bởi phần lớn đều do vị quan ở cấp thứ hai trong Hàn lâm
viện kiêm nhiệm. Điều đó phản ảnh một thực tế là Hàn lâm viện thời Mạc chủ yếu
duy trì các hoạt động có tính nghiệp vụ nhƣ giúp vua chuẩn bị các chiếu cáo, văn
thƣ, hơn là hoạt động văn chƣơng, thù đáp nhƣ thƣờng gặp ở các vị vua, các triều
đình khác” (tr.115).

Về cơ bản, có thể đồng ý với các nhận xét trên của Đinh Khắc Thuân. Tuy
nhiên, khảo cứu lại chính sử, nhất là căn cứ vào những thông tin trong Các nhà
khoa bảng Việt Nam, đối sánh với những kết quả nghiên cứu của tác giả, một vài
thông tin về Hàn lâm viện thời Mạc cũng cần phải đƣợc bổ sung và đính chính:

Một là, sau khi so sánh, đối chiếu và loại bỏ những trƣờng hợp trùng nhau 1
giữa kết quả nghiên cứu của Đinh Khắc Thuân với sách của Ngô Đức Thọ, danh
sách các quan chức viện Hàn lâm thời Mạc tổng hợp đƣợc là 36 ngƣời chứ không
phải là 16 nhƣ tác giả sách Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia đã đƣa ra.
Trong số 36 ngƣời này, có 3 ngƣời giữ chức Chƣởng Hàn lâm viện, 2 Học sĩ, 3 Thị
độc, 6 Thị thƣ, Đãi chế, Thị chế, Hiệu lý đều 1, 3 Hiệu thảo, 7 Kiểm thảo và 9
ngƣời khác chỉ ghi quan Hàn lâm nhƣng không rõ chức gì. Thông tin chi tiết xin
xem bảng sau:

1
Có 6 trƣờng hợp trùng nhau là: Nguyễn Giản, Phạm Đoan Lƣơng, Vũ Kính, Trần Toại, Nguyễn
Kỳ và Đặng Thì Thố.

80
Bảng 15: Chức danh quan Hàn lâm thời Mạc
(Theo Ngô Đức Thọ [115] và Đinh Khắc Thuân [159,109-110])1
TT Nhân vật Chức quan Chức tƣớc khác Tài liệu dẫn
Hàn lâm viện
1 Nguyễn Giản Chƣởng Hàn Thƣợng thƣ, tƣớc Lâm ĐKL 29b, SH 1183
lâm viện Khê hầu
2 Vũ Kính Thị lang bộ Lễ, Quân ĐKL 33a, SH 1223
Xuyên hầu
3 Phạm Đoan Lƣơng Thị lang bộ Lại ĐKL 42a, SH 1332
4 Nguyễn Miễn Học sĩ Tự khanh B 143
5 Nguyễn Thì Dự Thái bảo Lễ quận công TT 192
6 Nguyễn Giản Thanh Thị độc Thƣợng thƣ bộ Lễ ĐKL 26a
7 Đỗ Uông (1579) Thị lang bộ Lễ B 151
8 Mai Công Cẩn (1586) Thƣợng thƣ bộ Lễ B 50
9 Nguyễn Vĩnh Miên Thị thƣ Tả thị lang bộ Lễ B 40
10 Nguyễn Giản Thanh Đông các đại học sĩ ĐKL 26a
11 Nguyễn Kỳ ĐKL 34b, SH 1203
12 Trần Toại ĐKL 65b, SH 1168
13 Bùi Doãn Đốc SH 1136
14 Nguyễn Kỳ Phùng SH 1479
15 Đặng Thi Thố Đãi chế ĐKL 38b, SH 1351
16 Nguyễn Cung Thị chế SH 1423
17 Lê Quang Bí (1528) Hiệu lý Ty huấn B 124
18 Viêm Nghĩa Lộ Hiệu thảo SH 1220
19 Trần Thuỵ SH 1085
20 Giáp Lễ SH 1410
21 Vũ Văn Chính Kiểm thảo Mậu lâm lang B 98
22 Phạm Công (1570) Cẩn sự tá lang B 121
23 Bùi Thuần Phu B9
24 Chu Tam Dị SH 1101
25 Đinh Thuỵ SH 1103
26 Phạm Khuông Đỉnh SH 1201
27 Ngô Quang SH 1206
28 Nguyễn Chiêu Khánh Quan Hàn lâm SH 1091
29 Nguyễn Trùng Quang (?) SH 1145
30 Nguyễn Uyên SH 1154
31 Phạm Nguyện SH 1211
32 Nguyễn Đôn Mục SH 1257
33 Dƣơng Trí Tri SH 1259
34 Nguyễn Công Tộc SH 1314
35 Đặng Đức Thi SH 1539
36 Nguyễn Hữu Đức SH 1552

1
Một số chữ viết tắt trong bảng: SH tức Số hiệu (số thứ tự) theo sách của Ngô Đức Thọ; B tức văn
bia (xếp theo danh mục cuối sách của Đinh Khắc Thuân), ĐKL tức Đăng khoa lục, TS tức Đại Việt
thông sử, sách dịch,1973, TT tức Đại Việt sử ký toàn thư, sách dịch, 1993.

81
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Hai là, đối chiếu 36 ngƣời trên đây với danh sách Các nhà khoa bảng Việt
Nam cho thấy có 30 ngƣời đỗ Tiến sĩ thời Mạc, 3 ngƣời đỗ Tiến sĩ thời Lê Sơ và chỉ
có 3 ngƣời không xuất thân khoa cử1. Điều đó cho thấy Hàn lâm viện thời Mạc vẫn
là cơ quan giúp việc quan trọng của Hoàng đế và những ngƣời làm việc ở đó đòi hỏi
phải có trình độ cao.
Ba là, trong Viện Hàn lâm của triều Mạc vẫn giữ nguyên 7 chức danh vốn có
từ thời Lê Thánh Tông là: Thị độc, Thị thƣ, Đãi chế, Thị chế, Hiệu lý, Hiệu thảo và
Kiểm thảo, riêng chức Hàn lâm viện Học sĩ mới đƣợc bổ sung. Ngoài trƣờng hợp
Nguyễn Miễn mà Đinh Khắc Thuân đã dẫn ở trên, Đại Việt sử ký toàn thư còn cho
biết một ngƣời khác cũng từng giữ chức Hàn lâm viện Học sĩ thời Mạc là Nguyễn
Thì Dự, ngƣời huyện Đông Ngàn. Bên cạnh chức quan Học sĩ, Nguyễn Thì Dự còn
đƣợc phong tƣớc Thái bảo Lễ quận công [24,192]. Nhƣ vậy, Học sĩ viện Hàn lâm
thời Mạc cũng là một chức quan trọng mà ít ngƣời đƣợc kiêm giữ. Sử cũng không
cho phép khẳng định Học sĩ có phải là chức đứng đầu Hàn lâm viện thời Mạc hay
không. Tuy nhiên, nếu đúng nhƣ nhận định của Đinh Khắc Thuân là nhà Mạc dùng
Học sĩ làm trƣởng quan của viện Hàn lâm thì có lẽ đó không hẳn là sự mô phỏng
quan chế thời Trần, mà theo chúng tôi, nhà Mạc học từ triều Minh nhiều hơn. Vì
vào thời điểm này, nhà Minh lập Hàn lâm viện, đặt chức Thừa chỉ (hàm 3a) đứng
đầu và Học sĩ (hàm 3b) đứng hàng thứ hai. Có thể nhà Mạc bỏ chức Thừa chỉ có từ
thời Lê Thánh Tông mà đặt chức Học sĩ đứng đầu Hàn lâm viện? [159,106-107]2.
Bốn là, nhà Mạc không đặt chức quan chuyên trách đứng đầu Hàn lâm viện
(Thừa chỉ) mà cƣơng vị này thƣờng do ngƣời ở hàng thứ hai trong Viện hoặc
Thƣợng thƣ, Tả hữu thị lang các Bộ kiêm nhiệm. Việc tổ chức nhƣ vậy là nhằm
giản lƣợc bớt số viên chức trong bộ máy hành chính. Tuy nhiên, đây không phải là
sản phẩm sáng tạo của nhà Mạc. Cơ chế sắp xếp nhƣ vậy thực tế đã đƣợc áp dụng từ
thời Lê Thánh Tông, nhƣ ở trang 24-25 của Luận văn này đã chỉ rõ.
Cuối cùng, qua cách thức tổ chức và hoạt động của Hàn lâm viện thời Mạc
trên đây có thể thấy những nét tƣơng đồng, sự kế thừa so với Hàn lâm viện thời Lê
Sơ, cũng nhƣ những ảnh hƣởng từ quan chế triều Minh. Tuy nhiên, bên cạnh đó
cũng có thể nhận thấy ít nhiều sự khác biệt. Sự khác biệt lớn nhất là sự tiếp tục tinh
giản và tính gọn nhẹ của nó. Hàn lâm viện thời Mạc không có quá nhiều quan chức,
và có lẽ công việc mà viện Hàn lâm thời Mạc phải đảm nhiệm cũng không quá nặng
nề nhƣ triều Lê Sơ.
1
Ba Tiến sĩ thời Lê Sơ làm quan Hàn lâm thời Mạc là Nguyễn Giản Thanh, Lê Quang Bí, Bùi
Thuần Phu; ba ngƣời không xuất thân khoa bảng gồm: Nguyễn Kì, Vũ Văn Chính và Phạm Công.
2
Dẫn trong Guan Wenfa và Yan Guangwen, Mindai zhengzhi zhidu yanjiu (Nghiên cứu chế độ
chính trị thời Minh), Bắc Kinh, Trung Quốc Khoa học xã hội xuất bản xã, 1995, tr.100.

82
Đông các thời Mạc cơ bản đƣợc tổ chức tƣơng tự nhƣ triều Lê Sơ. Ba chức
quan đứng đầu Đông các vẫn là Đại học sĩ (hàm 5a), Học sĩ (hàm 5b) và Hiệu thƣ
(hàm 6a).
Vẫn dựa vào nguồn tƣ liệu thƣ tịch và văn bia, tác giá Đinh Khắc Thuân đã
thống kê đƣợc dƣới triều Mạc có tất cả 9 ngƣời mang chức danh Đông các Đại học
sĩ, 3 ngƣời là Đông các Học sĩ1 và 3 ngƣời giữ chức Đông các Hiệu thƣ (xem bảng
18, phần phụ lục). Tuy nhiên, số liệu đó chƣa đầy đủ. Kết hợp giữa nghiên cứu của
Đinh Khắc Thuân với chính sử và Các nhà khoa bảng Việt Nam của Ngô Đức Thọ
chúng tôi xin đƣa ra bảng thống kê sau:
Bảng 16: Các chức quan Đông các thời Mạc
(Thống kê từ Ngô Đức Thọ [155] và Đinh Khắc Thuân [159,109-110])2
TT Nhân vật Chức quan Chức tƣớc khác Tài liệu dẫn
Đông các
1 Nguyễn Thanh (1529) Đại học sĩ Thƣợng thƣ bộ Lễ B 73
2 Nguyễn Thì Ung (1529) Thƣợng thƣ bộ Lễ B 73
3 Vũ Cán (1432) Thƣợng thƣ bộ Lễ B 133
4 Nguyễn Văn Thái (1534,1536) Thƣợng thƣ bộ Lễ B 23, B 94
5 Mạc Ninh Bang (1541) Thiếu bảo, Liêm Quận TS 145
công
6 Nguyễn Thiến (1550) Lại bộ Thƣợng thƣ, Ngự TT 137, TS 197,
sử đài Đô ngự sử, Nhập SH 1108
thị kinh diên, tƣớc Thƣ
quận công
7 Nguyễn Năng Nhuận (1581) Thị lang bộ Lại TS 266
8 Giáp Trƣng (1584) Thái bảo, Lại bộ Thƣợng TT 174, TS 248
thƣ chƣởng bộ sự, tƣớc
Luân Quận công
9 Đỗ Uông (1588) Thƣợng thƣ bộ Lại, Phúc B 82, SH 1328
Quận công
10 Đỗ Tấn Thƣợng thƣ, tƣớc quận SH 1146
công
11 Nguyễn Trùng Quang Hàn lâm viện, tƣớc quận SH 1145
công
12 Giáp Hải Lục bộ Thƣợng thƣ Nhập SH 1167
thị kinh diên, Thái bảo,
tƣớc Sách quốc công
13 Nguyễn Tế SH 1252
14 Lê Hiến Tả thị lang SH 1291
15 Nguyễn Xuân Quang SH 1360
16 Phạm Duy Quyết Tả thị lang, Xác Khê hầu SH 1371
17 Trƣơng Lỗ Tả thị lang SH 1372
18 Phạm Quang Tiến SH 1389
19 Hoa Hữu Mô Hoà Khê bá SH 1427
20 Đỗ Trực An Giang hầu SH 1475
21 Ngô Cung SH 1494

1
Thực ra chỉ có hai ngƣời giữ chức Học sĩ. Ở đây tác giả đã tính nhân vật Đỗ Uông làm hai lần.
2
Một số chữ viết tắt trong bảng: SH tức Số hiệu (số thứ tự) theo sách của Ngô Đức Thọ; B tức là
văn bia (xếp theo danh mục cuối sách của Đinh Khắc Thuân), ĐKL tức Đăng khoa lục, TS tức Đại
Việt thông sử, sách dịch,1973, TT tức Đại Việt sử toàn thư, sách dịch, 1993.

83
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
22 Đỗ Uông Học sĩ Thị lang bộ Công, Lễ, sau B 124, B 151, B
(1579, 1580, 1583) thăng Thƣợng thƣ bộ 154, B 55
Binh
23 Ngô Cung (1592) TS 304
24 Nguyễn Cƣ Nhân (1529) Hiệu thƣ Phụng trực đại phu B 73
25 Ngô Diễn (1557,1559) Triều liệt đại phu B 129, B 139
26 Phạm Quyết TT 150
27 Nguyễn Dần Lƣợng Hộ bộ Hữu thị lang SH 1138
28 Nguyễn Hoàng Diễn Lão Tuyên bá SH 1208
29 Phạm Kính SH 1269
30 Vũ Hữu Chính SH 1405
31 Hoàng Chân Nam SH 1428
32 Vũ Duy Hàn SH 1443
33 Đỗ Cung SH 1474
34 Vũ Văn Khuê Đông các (?) SH 1439

Thống kê trên cho thấy có ít nhất 34 ngƣời từng giữ các chức quan Đông các
dƣới thời Mạc. Số này bao gồm 21 Đại học sĩ, 2 Học sĩ, 10 Hiệu thƣ và 1 ngƣời
không rõ chức. Điều đáng lƣu ý là cả 34/34 trƣờng hợp kể trên đều xuất thân là Tiến
sĩ.
Phần lớn các nhân vật ở trên không chỉ mang riêng chức quan Đông các, mà
họ thƣờng kiêm nhiệm nhiều chức danh khác nhau. Đặc biệt, những ngƣời đứng đầu
Đông các (Đông các Đại học sĩ) cũng đồng thời là trƣởng các cơ quan hành chính
nhƣ Lục bộ, Ngự sử đài, Hàn lâm viện. Trong số này có 1 Thái bảo, 1 Thiếu bảo, 8
Thƣợng thƣ, 4 Tả thị lang, 1 quan Hàn lâm, 1 tƣớc hầu, 1 tƣớc bá. Điều đó cho thấy
sự coi trọng của nhà nƣớc cũng nhƣ vai trò của Đông các dƣới thời Mạc.
Khác với Đại học sĩ và Học sĩ là những hƣ hàm (do kiêm nhiệm) thì Hiệu thƣ
là chức vị thực thụ ở Đông các thời Mạc. Chính họ mới là những viên quan chuyên
trách, thƣờng xuyên làm việc tại Đông các. Điểm này tƣơng đồng so với cách thức
tổ chức và hoạt động của Đông các thời Lê Sơ.
Về việc tuyển chọn quan lại làm việc tại Đông các, nhà Mạc cũng mô phỏng
theo chế độ thời Lê. Theo đó, những chức quan trong Đông các thƣờng phải trải qua
kỳ thi sát hạch giành riêng cho các quan từ tứ phẩm trở lên do nhà nƣớc tổ chức, gọi
là thi Đông các. Những ngƣời đƣợc tuyển vào Đông các sau một thời gian làm việc
nhất định sẽ đƣợc xem xét để bổ dụng vào các chức vị cao hơn trong bộ máy hành
chính trung ƣơng hoặc thăng chuyển ra làm các chức quan địa phƣơng. Sách Đăng
khoa lục cho biết dƣới triều Mạc có nhiều ngƣời sau khi đỗ Tiến sĩ đã tiếp tục tham
dự kỳ thi Đông các và sau đó đã giữ nhiều trọng trách khác nhau. Đó là các trƣờng
hợp của Phạm Công Sâm (Tiến sĩ khoa Tân Sửu 1541), Đào Tông, Ngô Cung (cùng
là Tiến sĩ khoa Quý Mùi 1583)… Sau khi thi đỗ và làm việc tại Đông các một thời
gian, Phạm Công Sâm đƣợc phong chức Thừa chính sứ, còn Đào Tông làm Đông
các Hiệu thƣ, Ngô Cung làm Đông các Đại học sĩ… Với chức năng nhƣ vậy, Đông
các khá giống với Hàn lâm viện là nơi đào tạo và bồi dƣỡng nghiệp vụ cho các quan

84
lại hành chính cao cấp của nhà nƣớc. Ngoài ra, Đông các thời Mạc còn có nhiệm vụ
cùng với Hàn lâm viện giúp nhà vua soạn sửa các văn thƣ, chiếu cáo, trong đó Đông
các chuyên trách các vấn đề về chính trị, ngoại giao [159,116-118].
Xét tất cả những đặc điểm trên đây có thể thấy Đông các thời Mạc đƣợc tổ
chức và hoạt động không khác mấy so với thời Lê Sơ.
Ngoài Hàn lâm viện và Đông các, nhà Mạc còn tiếp tục duy trì Trung thư
giám. Nghiên cứu danh tính và chức quan của những nhân vật xuất hiện trong bia
Mạc cho thấy có ít nhất 8 ngƣời làm việc tại Trung thƣ giám thời Mạc. Trong số
này, một ngƣời kiêm giữ chức Thông chƣơng đại phu (hàm 3a), một Triều liệt đại
phu Trung thƣ giám Chính tự, Tu thận doãn (hàm 4b), một Mậu lâm lang (hàm 6a)
và năm ngƣời khác là Trung thƣ giám Hoa văn học sinh1.
Triều Lê còn có hai cơ quan văn phòng giúp việc Hoàng đế khác là Bí thư
giám và Hoàng Môn sảnh. Tuy nhiên, dƣới thời Mạc tƣ liệu không cho phép khẳng
định sự tồn tại của hai cơ quan này.
2.2.2.2. Lục bộ và Lục tự
Cho đến nay, không mấy tƣ liệu còn lại cho biết về tổ chức và hoạt động của
các Bộ thời Mạc. Tuy nhiên, có thể khẳng định chắc chắn rằng nhà Mạc vẫn tiếp tục
duy trì sáu Bộ nhƣ triều Lê Sơ. Qua nguồn tƣ liệu văn bia đƣợc tập hợp và công bố
bởi Đinh Khắc Thuân [159] và danh mục quan chức của những Tiến sĩ thời Mạc
qua Các nhà khoa bảng Việt Nam của Ngô Đức Thọ, kết hợp với những ghi chép
trong chính sử, chủ yếu là Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt thông sử, chúng tôi
đã tiến hành thống kê số lƣợng những ngƣời đã kinh qua các chức vụ chủ chốt của
Lục bộ thời Mạc.
Bảng 17: Số lƣợng các chức quan Lục bộ thời Mạc
(Thống kê từ Toàn thư, Đại Việt thông sử, Các nhà khoa bảng Việt Nam
và theo Đinh Khắc Thuân [159])
Bộ Không
Lại Lễ Hộ Binh Hình Công rõ Cộng
Chức quan Bộ
Thƣợng thƣ 12 13 5 3 2 1 74 110
Tả Thị lang 14 15 5 3 7 1 19 64
Hữu thị lang 7 3 4 2 0 2 5 23
? Thị lang 25 25
Cộng 33 31 14 8 9 4 123 222

1
Cụ thể là Thông chƣơng đại phu, Trung thƣ giám (không rõ tên) (bia 2); Triều liệt đại phu Trung
thƣ giám Chính tự, Tu thận doãn Trần Hƣu (bia 3); Trung thƣ giám Mậu lâm lang Kiều Đỉnh Tú
(bia 77); Trung tƣ giám Hoa văn học sinh Nguyễn Thái Thầm (bia 27), Phạm Thanh (bia 45), Phạm
Hiền (bia 52), Nguyễn Đức Thông (bia 82), Vũ Kim Thanh (bia 114). Xem Đinh Khắc Thuân
[158,159].

85
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Thống kê trên cho thấy, có ít nhất 222 ngƣời từng giữ các chức quan khác
nhau thuộc sáu Bộ triều Mạc1. Trong đó, số lƣợng những ngƣời từng giữ chức
Thƣợng thƣ là 110 ngƣời. Qua đó có thể tính bình quân khoảng 3,6 năm có một đợt
bổ nhiệm các Thƣợng thƣ mới. Trong khi đó số lƣợng ngƣời từng đƣợc bổ nhiệm
vào chức vụ thấp hơn là Thị lang là 112 ngƣời (Tả thị lang 64 ngƣời, Hữu thị lang
23 ngƣời, 25 trƣờng hợp còn lại sách Các nhà khoa bảng Việt Nam chỉ ghi là Thị
lang). Nếu cơ cấu chức danh các Bộ thời Mạc giống nhƣ Lê Sơ, nghĩa là mỗi Bộ có
một Thƣợng thƣ và hai Thị lang thì với con số thống kê đƣợc, bình quân phải tới
gần 7 năm mới có một lƣợt bổ nhiệm chức Thị lang. Có lẽ điều này do yêu cầu tính
chuyên trách, thạo việc của chức vụ này quy định?.
Trong sáu Bộ thời Mạc, Lại bộ vẫn là Bộ quan trọng nhất. Nhận định đó
phần nào đƣợc thể hiện qua số lƣợng thống kê các chức quan thuộc Bộ này ở bảng
trên. Ngoại trừ 123 trƣờng hợp các chức quan không xác định đƣợc thuộc Bộ nào,
thì số quan thuộc bộ Lại chiếm phần lớn nhất (33 trƣờng hợp). Chức Thƣợng thƣ bộ
Lại thời Mạc thƣờng có vị trí cao hơn một bậc so chƣởng quan các Bộ khác. Phần
lớn trong số họ đƣợc ban hàm Tam Thái, Tam Thiếu, tƣớc công và tƣớc hầu. Đến
năm 1579, nhà Mạc đƣa Thƣợng thƣ bộ Binh đứng trên các Bộ khác với danh hiệu
“chƣởng Lục bộ sự”. Đó là trƣờng hợp của Giáp Trƣng. Giáp Trƣng đƣợc Mạc
Phúc Nguyên bổ làm Thƣợng thƣ bộ Lại năm 1562, đến 1579 đƣợc thăng làm Binh
bộ Thƣợng thƣ đứng đầu sáu Bộ [7,311,326].
Bảng 18: Chức quan kiêm nhiệm và phẩm tƣớc của các quan Lục bộ thời Mạc
(Thống kê từ Toàn thư, Đại Việt thông sử, Các nhà khoa bảng Việt Nam
và theo Đinh Khắc Thuân [159])
Chức quan Lục bộ Chức quan khác Tƣớc đƣợc phong
Quan Quan Đại Hàn Đông Ngự Quốc Các xứ
Chức quan không kiêm thần lâm các sử tử Thừa Công Hầu Bá Tử
kiêm nhiệm trọng viện đài giám tuyên
nhiệm chức
Thƣợng thƣ 59 51 11 7 12 6 3 4 15 37 31 -

Tả hữu thị lang 100 12 2 2 6 - - - 1 13 36 4

Cộng 159 63 13 9 18 6 3 4 16 50 67 4

Những vị Thƣợng thƣ, Tả hữu thị lang các Bộ thƣờng không chỉ chuyên
trách công việc của Bộ mình mà còn kiêm nhiệm công việc của nhiều cơ quan khác.
Với 222 trƣờng hợp thống kê trên, có vị 59 Thƣợng thƣ và 100 Thị lang không có

1
Thống kê của Đinh Khắc có 41 ngƣời, danh mục của Ngô Đức Thọ gồm 189 ngƣời. Có 8 trƣờng
hợp trùng nhau giữa hai danh sách trên là: Thƣợng thƣ bộ Lại Nguyễn Thiến, Lê Quang Bí, Đỗ
Uông; Hữu thị lang bộ Lại Ngô Vĩ; Thƣợng thƣ bộ Lễ Nguyễn Thanh, Nguyễn Vĩnh Miên; và
Thƣợng thƣ bộ Hộ Hoàng Sĩ Khải, Đặng Võ Cạnh. Danh sách cụ thể xin xem ở bảng 20 và 21,
phần phụ lục.

86
thông tin về các chức vị kiêm nhiệm, còn lại 63 trƣờng hợp khác (gồm 51 Thƣợng
thƣ, 12 Thị lang) có thể biết đƣợc các chức vụ ngoài Lục bộ mà họ kiêm giữ. Trong
số 51 vị Thƣợng thƣ thời Mạc có 11 ngƣời là đại thần trọng chức (Tam Thái, Tam
Thiếu), 7 ngƣời làm Thị thƣ, chƣởng Hàn lâm viện, 12 ngƣời làm Đông các Đại học
sĩ, 6 ngƣời làm Ngự sử đài Đô ngự sử, 3 ngƣời làm Tế tửu Quốc Tử giám… Điều
đáng chú ý ở đây là trong quan chế triều Mạc, những vị Thƣợng thƣ Lục bộ còn
kiêm quản công việc của ngƣời đứng đầu xứ thừa tuyên. Có bốn trƣờng hợp thuộc
loại này là Lễ bộ Thƣợng thƣ kiêm Thừa chính sứ Hƣng Hoá Trần Phỉ, Thƣợng thƣ
kiêm Thừa chính sứ Hải Dƣơng Nguyễn Đoan Trung, Thƣợng thƣ kiêm Thừa chính
sứ Sơn Nam Ngô Đức Cơ và Thƣợng thƣ kiêm Thừa chính sứ Hải Dƣơng Nguyễn
Tảo [6,278; 155]. Trong nhiều trƣờng hợp, một vị Thƣợng thƣ có thể cùng lúc kiêm
giữ nhiều chức vụ khác nhau. Ví dụ nhƣ Nguyễn Thiến làm Lại bộ Thƣợng thƣ,
Ngự sử đài Đô ngự sử, Đông các Đại học sĩ, Nhập thị kinh diên; Trần Phi Chiêu
làm Thiếu bảo, Hộ bộ Thƣợng thƣ, Tán trị đồng đức công thần, Đô ngự sử, Nhập thị
kinh diên… Trong khi đó, các Tả hữu thị lang Lục bộ thƣờng kiêm nhiệm các chức
ở bậc thấp hơn nhƣ: Trụ quốc (1 ngƣời), Gia hành đại phu (1 ngƣời), Thị thƣ viện
Hàn lâm (2 ngƣời); Đông các Học sĩ, Đông các Hiệu thƣ (6 ngƣời).

Tƣớc phẩm của các vị Thƣợng thƣ thời Mạc có thể xác định đƣợc gồm 15
ngƣời tƣớc công, 37 tƣớc hầu và 31 ngƣời tƣớc bá1. Trong số 15 ngƣời đƣợc phong
tƣớc công có 4 Thƣợng thƣ bộ Lại, 1 Thƣợng thƣ bộ Lễ và 10 Thƣợng thƣ không rõ
Bộ. Có 4 Tả hữu thị lang đƣợc phong tử, 36 tƣớc bá, 13 tƣớc hầu, và 1 trƣờng hợp
duy nhất đƣợc phong tƣớc công là Nguyễn Văn Luân, Tả thị lang bộ Lại.

Phần lớn những vị Thƣợng thƣ, Thị lang Lục bộ thời Mạc đều xuất thân khoa
bảng. Có đến 208/222 trƣờng hợp thuộc loại này, trong đó có 40 ngƣời là Tiến sĩ
thời Lê Sơ. 14 trƣờng hợp không xuất thân khoa bảng gồm 8 ngƣời là Thƣợng thƣ,
5 Tả thị lang và 1 Hữu thị lang2. Điểm đáng lƣu ý là có đến 5/14 trƣờng hợp kể trên

1
Trong nhiều trƣờng hợp, các nhân vật đƣợc thống kê chỉ có thông tin về phẩm hàm mà không có
thông tin về chức tƣớc. Vì vậy số liệu về phẩm hàm của các vị Thƣợng thƣ, Thị lang nhiều hơn so
với số liệu về chức tƣớc của họ.
2
Cụ thể gồm: 3 Thƣợng thƣ bộ Lại là Đinh Thận, Trần Văn Nghi, Giáp Trƣng, 3 Thƣợng thƣ bộ Lễ
là Trần Phỉ, Nguyễn Triệt, Mai Công Cẩn, Thƣợng thƣ bộ Hộ Nguyễn Đông, Thƣợng thƣ bộ Binh
Mạc Ninh Chính; Tả thị lang bộ Lại Nguyễn Văn Luân, 3 Tả thị lang bộ Lễ Hoàng Trƣng, Vũ bang
Kiệt, Trần Cự Công, Tả thị lang bộ Hộ Ngô Tạo; Hữu Thị lang bộ Lại Nguyễn Năng Nhuận.

87
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
thuộc bộ quan trọng nhất là bộ Lại, trong đó có những ngƣời giữ nhiều trọng trách
nhƣ Thiếu bảo, Lại bộ Thƣợng thƣ Lâm Quận công Giáp Trƣng, Lại bộ Thƣợng
thƣ, Quốc tử giám Tế tửu, Bỉnh Lễ bá Đinh Thận, Lại bộ Thƣợng thƣ, Nhập thị kinh
diên Nghĩa Sơn hầu Trần Văn Nghi… Điều này phản ánh đôi nét khác biệt trong
chính sách bổ dụng quan chức của nhà Mạc so với triều Lê Sơ. Một mặt nhà Mạc
vẫn đặc biệt coi trọng khoa cử, dùng khoa cử làm phƣơng thức tuyển chọn quan lại
chủ yếu, song không tuyệt đối nó trong việc bổ dụng quan chức. Trong nhiều
trƣờng hợp, những đại thần trọng chức đƣợc nhà Mạc trao cho ngƣời trong hoàng
tộc, những ngƣời có huân công mà không câu nệ ở đƣờng xuất thân. Chính Nguyễn
Năng Nhuận, Hữu thị lang bộ Lại trong một bản tấu trình lên Mạc Mậu Hợp năm
1581 đã xác nhận: “Nói ngay nhƣ trách nhiệm bộ Lại của hạ thần, mỗi khi thăng
chức cho quan lại, trừ những ngƣời đƣợc lệnh chỉ nhà vua truyền cho, ngoài ra chỉ
toàn những ngƣời có thân tình và có thế lực, còn những kẻ hàn sĩ viễn thần, thì chỉ
độ một hai phần trăm đƣợc dự mà thôi. Việc này cả thiên hạ ai ai cũng biết, không
thể bƣng bít đƣợc công luận” [7,336].

Nhƣ vậy, về cơ bản Lục bộ thời Mạc vẫn đƣợc tổ chức và hoạt động giống
nhƣ triều Lê Sơ, tuy nhiên cũng có những điểm khác biệt nhất định. Khác biệt lớn
nhất có thể nhận thấy là sự nổi lên vai trò và tầm quan trọng của bộ Binh bên cạnh
bộ Lại trong bối cảnh đất nƣớc luôn thƣờng trực trong điều kiện chiến tranh.
Thƣợng thƣ sáu Bộ thời Mạc bên cạnh việc đảm trách chức vụ chánh chƣởng của
các cơ quan hành chính trung ƣơng nhƣ Hàn lâm viện, Đông Các, Ngự sử đài, Quốc
tử giám còn đồng thời là ngƣời đứng đầu cấp chính địa phƣơng (xứ Thừa tuyên). Cơ
chế sắp đặt quan chức nhƣ thế chƣa hề thấy xuất hiện trong triều Lê Sơ. Việc bổ
nhiệm các chức vụ đƣờng quan (quan Lục bộ) cũng đƣợc nhà Mạc tiến hành một
cách linh hoạt hơn. Bên cạnh phần lớn thuộc về những ngƣời xuất thân khoa bảng,
chức quan Lục bộ thời Mạc còn giành cho những ngƣời trong tôn thất hoặc những
bậc đại huân công.

Để giúp việc cho Lục bộ, nhà Mạc tiếp tục lập các Tự, tuy rằng thông tin từ
các nguồn tƣ liệu xác nhận về sự tồn tại của cơ quan này rất hiếm. Qua Các nhà
khoa bảng Việt Nam của Ngô Đức Thọ, kết hợp với chính sử và nguồn tƣ liệu văn
bia chúng tôi có danh sách của 15 vị Tự khanh thời Mạc:

88
Bảng 19: Các chức quan Lục tự thời Mạc1
Tiến Chức quan lục Chức Tài liệu
TT Nhân vật sĩ Tự tƣớc khác dẫn
khoa
1 Phan Kính Trung 1514 Đại lý Tự khanh SH 994
2 Nguyễn Dƣơng 1529 Tự khanh SH 1106
3 Nguyễn Hiên 1538 Đại lý Tự khanh SH 1197
4 Lê Thọ Khảo 1544 Tự khanh tƣớc tử SH 1234
5 Ngô Bật Lƣợng 1550 Đại lý Tự khanh B. 32
6 Nguyễn Viết Mậu 1556 Tự khanh SH 1330
7 Trần Quang Tá 1559 Tự khanh SH 1363
8 Phạm Hoành Tài 1565 Tự khanh SH 1390
9 Nguyễn Miễn 1571 Tự khanh SH 1422
10 Mạc Văn Tú 1574 Tự khanh SH 1441
11 Phùng Trạm 1574 Tự khanh SH 1449
12 Ngô Trừng 1580 Tự khanh SH 1476
13 Bùi Thế Vinh 1580 Tự khanh SH 1482
14 Nguyễn Cận - Tự khanh TT 178
15 Ngô Áng - Tự khanh TT 181

Bảng trên cho thấy, với nguồn tƣ liệu hiện còn chúng ta chỉ có thể biết đƣợc
tên gọi và phần nào số lƣợng của chức quan đứng đầu Lục tự thời Mạc. Trong số
này, chỉ có chức Tự khanh của Đại lý tự là đƣợc xác nhận chính xác, còn những
trƣờng hợp khác không rõ thuộc Tự nào. Nhƣ thế có nghĩa là không có đủ cơ sở để
khẳng định là nhà Mạc có lập đủ sáu Tự hay không. Những ngƣời giữ chức Tự
khanh thời Mạc phần lớn đƣợc tuyển chọn trong hàng Tiến sĩ. Họ thƣờng không
kiêm nhiệm các chức khác mà chỉ chuyên trách công việc của Tự mình. Điểm này
cho phép khẳng định sự tƣơng đồng so với Lục tự triều Lê Sơ.

2.2.2.3. Các cơ quan chuyên môn


Để hỗ trợ công việc của Lục bộ, triều Mạc tiếp tục duy trì hoạt động của các
cơ quan chuyên môn gồm: Quốc tử giám, Quốc sử viện, Tƣ thiên giám, các sở trông
coi về nông nghiệp…

2.2.3. Tổ chức quân đội


Do tính chất và cũng là đòi hỏi có tính sống còn trong bối cảnh Đại Việt hồi
thế kỷ XVI, nhà Mạc một mặt lo xây dựng và củng cố bộ máy chính quyền, nhƣng
mặt khác đã rất chú trọng đến chức năng quân sự trong tổ chức nhà nƣớc. Một lực
lƣợng quân đội thƣờng trực đông đảo, đƣợc tổ chức chặt chẽ và quy củ đã đƣợc duy
trì trong suốt triều Mạc.

1
Một số chữ viết tắt trong bảng: SH tức Số hiệu (số thứ tự) theo sách của Ngô Đức Thọ; B tức văn
bia theo sách Văn bia thời Mạc của Đinh Khắc Thuân [158], TT tức Đại Việt sử ký toàn thư, sách
dịch, 1993.

89
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Về tổ chức, quân đội thời Mạc cơ bản đƣợc mô phỏng theo quan chế thời
Minh và Lê Sơ, tuy có đôi nét khác biệt. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép sự kiện
xảy ra vào tháng 10 năm Mậu Tý (1528), tức là ngay sau khi lên ngôi Mạc Đăng
Dung “sai bề tôi là bọn Quốc Hiến bàn định binh chế”, “đặt bốn vệ Hƣng Quốc,
Chiêu Vũ, Cẩm Y, Kim Ngô, năm phủ, các vệ sở trong ngoài, các ty sở thuộc, hiệu
ty, tên quan và số lại viên, số ngƣời, số lính của các nha môn, phỏng theo quan chế
triều trƣớc, y lệ mà biên chế bổ sung” [24,112]. Nhƣ vậy, ta biết đƣợc quân đội thời
Mạc vẫn gồm ba loại là: Cấm quân, Ngũ phủ quân và quân thƣờng trực tại các địa
phƣơng.

Đoạn chính sử trên cho thấy, từ năm 1528 lực lƣợng cấm quân của nhà Mạc
gồm bốn vệ là Hƣng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y và Kim Ngô. So với thời Lê Sơ, cấm
quân đầu triều Mạc ít hơn một vệ, nhƣng đồng thời lại xuất hiện tên gọi của hai vệ
mới là Hƣng Quốc và Chiêu Vũ1. Về sau, nhà Mạc lập thêm vệ thứ năm là Triều
Đông vệ [7,361]2. Cũng trong lần xét định binh chế năm 1528, nhà Mạc còn quy
định lấy quân trấn giữ xứ Hải Dƣơng cho lệ thuộc vào vệ Hƣng Quốc, quân trấn giữ
xứ Sơn Nam lệ thuộc vệ Chiêu Vũ, quân trấn giữ xứ Sơn Tây lệ thuộc vệ Cẩm Y và
quân trấn giữ xứ Kinh Bắc lệ thuộc vệ Kim Ngô. Đứng đầu các vệ cấm quân nhà
Mạc thƣờng do ngƣời trong tôn thất nắm giữ. Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử
cho biết Khiêm vƣơng Mạc Kính Điển có 9 con trai, trong đó con thứ hai tên là
Kính Trực, đƣợc phong tƣớc Trung Cẩn công, giữ chức Cẩm Y vệ Chƣởng vệ sự;
con thứ ba Kính Phu, tƣớc Đoan Lƣợng công, chức Hƣng Quốc vệ Chƣởng vệ sự;
Kính Giản đƣợc phong tƣớc Huệ Thành công, chức Chƣởng vệ vệ Chiêu Vũ; Kính
Tuân tƣớc Dũng Nghĩa công, chức Chƣởng vệ vệ Triều Đông [7,361]. Mỗi vệ bao
gồm các ty, mỗi ty đặt 1 viên Chỉ huy sứ, 1 viên Chỉ huy Đồng tri, 1 viên Chỉ huy
Thiêm sự, 10 viên Trung hiệu và 1.100 Trung sĩ, chia thành 22 phiên, mỗi phiên 5
giáp, mỗi giáp đặt một viên Giáp thủ [24,112].
Ngũ phủ quân tức thuộc quân ở kinh đô Thăng Long và bốn vùng phụ cận,
gồm: Trung quân, Đông quân, Tây quân, Bắc quân và Nam quân. Dƣới thời Mạc,
đứng đầu mỗi phủ vẫn là các chức Tả hữu Đô đốc, Đô đốc Đồng tri và Đô đốc
1
Cấm quân thời Lê Sơ gồm 5 vệ là: Kim Quang vệ Lực sĩ, Cẩm Y vệ Dũng sĩ, Cẩm Y vệ Tráng sĩ,
Kim Ngô vệ Vũ sĩ và Kim Ngô vệ Tráng sĩ [104,91].
2
Chính sử không cho biết chính xác, tuy nhiên có thể khẳng định vệ Triều Đông đƣợc nhà Mạc lập
sau năm 1549 và trƣớc năm 1581. Bởi lẽ, năm 1549 Mạc Mậu Hợp ra lệnh duyệt tuyển quân chỉ
thấy nhắc đến 4 vệ kể trên [7,289]. Năm 1581 Mạc Kính Điển chết, một trong số 9 ngƣời con trai
của ông là Kính Tuân khi ấy đang giữ chức Triều Đông vệ chƣởng vệ sự, tƣớc Dũng Nghĩa công
[7,361].

90
Thiêm sự. Tuy nhiên, sử cũ chủ yếu chỉ cho biết thông tin về chức Tả Đô đốc của
năm phủ thời Mạc. Các chức này có vị trí đặc biệt quan trọng trong bộ máy chính
quyền. Phần lớn trong số họ đều xuất thân từ nghiệp tƣớng và sau khi giữ chức đều
đƣợc phong tƣớc Vƣơng hoặc tƣớc Công. Đại Việt thông sử cũng cho biết, năm
1449, Mạc Phúc Nguyên cùng lúc thăng thƣởng cho các tƣớng lĩnh Ngũ phủ. Trong
đó, tƣớng Đông quân (không rõ tên) đƣợc phong Thiệu Quốc công; Khiêm Quốc
công Mạc Đình Khoa thăng tƣớc Gia Quốc công; bổ chức Thái uý cho hai tƣớng
Tây quân là Tây Quốc công Nguyễn Kính và Đoan Quốc công Nguyễn Khải Khang,
đều cho đổi sang họ Mạc; thăng tƣớng Nam quân Phụng Quốc công Lê Bá Ly lên
chức Thái Tể [7,289].
Lực lƣợng thứ ba của nhà Mạc là đội quân đông đảo đóng tại các địa
phƣơng, biên chế thuộc các Đô ty. Về nguyên tắc, quân tại các xứ thừa tuyên không
trực thuộc Ngũ phủ, do đó quan Tả hữu Đô đốc chỉ thống lĩnh về mặt danh nghĩa,
còn trên thực tế các Đô ty thuộc quyền điều khiển trực tiếp của các quan Đô Tổng
binh sứ. Dƣới thời Mạc, lực lƣợng quân đội tại các địa phƣơng có thể không đông
nhƣ triều Lê Sơ. Bởi lẽ, ngoài số quân ngũ thuộc bốn xứ Hải Dƣơng, Sơn Nam, Sơn
Tây, Kinh Bắc đã lệ thuộc trực tiếp vào Cấm vệ quân thì số các xứ Thừa tuyên
thuộc nhà Mạc cai quản không còn nhiều nhƣ trƣớc.
Trên nguyên tắc, vua Mạc là vị chỉ huy tối cao lực lƣợng quân đội toàn quốc.
Đã không ít lần các vua Mạc là Mạc Đăng Dung, Mạc Đăng Doanh, Mạc Phúc Hải,
Mạc Phúc Nguyên và Mạc Mậu Hợp đã thân chinh cầm quân đánh dẹp các thế lực
nổi dậy của nhà Lê hoặc xông pha nơi trận tiền chống lại quân đội Nam triều. Điều
này khẳng định rõ vai trò thống lĩnh quân đội của các Hoàng đế Mạc. Tuy nhiên,
ngoại trừ những thời điểm đó, binh quyền nhà Mạc đƣợc giao cho Khiêm vƣơng
Mạc Kính Điển, sau Kính Điển chết (1581) lại giao cho Phụ chính Ứng vƣơng Mạc
Đôn Nhƣợng. Theo quan chế thời Mạc, Phụ chính quản lĩnh quân Ngũ phủ, cũng
tức là có quyền thay vua thống lĩnh toàn bộ lực lƣợng quân đội trong nƣớc.
Theo chính sử, tổng lực lƣợng quân đội thời Mạc có khoảng trên dƣới 10
vạn. Toàn thư chép sự kiện xảy ra tháng 8 năm Canh Ngọ (1570), nhà Mạc sai Mạc
Kính Điển thống suất quân đội toàn quốc gồm 10 vạn, đi trên 700 chiến thuyền theo
đƣờng biển tấn công vào Thanh Hoá [24,141]. Sự kiện thứ hai xảy ra cuối năm
1591, khi cuộc chiến Nam - Bắc triều đi vào hồi kết, nhà Mạc đã huy động binh mã
của 4 trấn, 4 vệ và 5 phủ, tức toàn bộ quân nhà Mạc gồm 10 vạn để chống lại nhà
Lê [24,168; 7,351].
Để tăng cƣờng sức mạnh quân sự, ngoài việc không ngừng kiện toàn tổ chức
và nâng quân số, nhà Mạc cũng ban hành nhiều chính sách ƣu đãi đối với quân đội.

91
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Để động viên tƣớng sĩ, năm Quảng Hoà thứ 3 (1543), triều đình ban hành chế độ
cấp lộc điền cho các tƣớng hiệu. Theo quy định này, các xã dùng ruộng đất công và
ruộng chùa để phân cho các hạng trong xã theo khẩu phần, trong đó hạng nhất
Trung hiệu và hạng nhất Trung sĩ đều mỗi ngƣời 2 phần rƣỡi. Đối với những xã
nhiều ruộng mà ít ngƣời thì những hạng trên giảm xuống đƣợc nhận 2 phần, nhƣng
2 phần đó cũng không đƣợc vƣợt quá 2 mẫu. Còn đối với những xã ít ruộng thì mỗi
ngƣời chỉ đƣợc nhận một phần. Những hạng binh sĩ khác tuỳ theo cấp bậc đều đƣợc
nhận các phần khác nhau theo quy định. Tuy nhiên, do số binh sĩ trong diện đƣợc
nhận lộc điền quá đông (mỗi Ty có 10 viên Trung hiệu và 1.100 Trung sĩ), trên thực
tế nhà nƣớc không đủ ruộng đất để ban cấp. Vì thế, Mạc Phúc Hải sau đó đã chuẩn
theo lời tâu của Thiếu sƣ Mạc Ninh Bang ban lệnh dụ yêu cầu chỉ huy các vệ, sở và
các huyện quan chỉ lựa chọn bảo cử những ngƣời “tinh tráng khoẻ mạnh và thiện
chiến” phân làm hạng nhất, lập sổ cấp lộc điền, các quan phủ huyện và xã trƣởng
chuẩn theo danh sách đó lấy ruộng hạng nhất để phân cấp [6,280-81].
Tóm lại, trong bối cảnh Đại Việt thế kỷ XVI có nhiều biến loạn, nhà Mạc đã
chủ trƣơng xây dựng và duy trì lực lƣợng quân đội mạnh, không ngừng nâng cao
chức năng quân sự của nhà nƣớc. Tuy nhiên, không vì thế mà nhà Mạc lơi là hay bỏ
bễ công việc phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội. Thể chế chính trị Mạc không giống
nhƣ mô hình tập quyền quân sự thời Đinh - Tiền Lê thế kỷ X hay triều Hồ đầu thế
kỷ XV.
2.2.4. Hệ thống các cơ quan giám sát và tư pháp
2.2.4.1. Các cơ quan giám sát
Để giám sát hoạt động của Lục bộ, triều Mạc tiếp tục lập sáu Khoa. Căn cứ
vào chính sử (chủ yếu là Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt thông sử), nguồn tƣ
liệu văn bia (qua tập hợp của Đinh Khắc Thuân) và thông tin về chức quan của
những ngƣời đỗ Tiến sĩ trong Các nhà khoa bảng Việt Nam chúng tôi có danh sách
của 39 vị trƣởng quan các Khoa thời Mạc, bao gồm 25 Đô cấp sự trung và 14 viên
Cấp sự trung. Qua danh sách này có thể xác nhận chắc chắn sự tồn tại của bốn Khoa
là: Lại, Binh, Hình và Công; còn các chức thuộc Lễ khoa và Hộ khoa không thấy ai
nắm giữ (xem bảng 23, phần phụ lục). Tuy nhiên, căn cứ vào sự kiện năm 1581
đƣợc chép trong Đại Việt thông sử về việc sáu vị Đô cấp sự trung là Nguyễn Phong,
Nguyễn Tự Cƣờng, Phạm Nhƣ Giao, Nguyễn Ích Trạch, Lê Viết Thảng và Nguyễn
Quang Lƣợng1 cùng ký tên vào một tờ sớ dâng lên Mạc Mậu Hợp có thể phỏng
đoán nhà Mạc lập đủ cả sáu Khoa [7,327].

1
Bản dịch của Nxb. Khoa học xã hội năm 1978 còn chép tên hai ngƣời khác là Ngô Vỹ và Mạc
Đình Dự, tuy nhiên bản Sài Gòn năm 1974 chỉ chép sáu ngƣời kể trên.

92
Dƣới thời Mạc, quan Lục khoa có quyền hạn và trách nhiệm khá lớn. Ngoài
nhiệm vụ giám sát sáu Bộ về chuyên môn, các quan Lục khoa còn có quyền trực
tiếp can gián vua và luận bàn những vấn đề hệ trọng của đất nƣớc. Bản tấu sớ năm
1581 của sáu vị trƣởng quan Lục khoa chúng tôi vừa nhắc trên đây đƣợc trình bày
với những lời lẽ rất thẳng thắn và có phần quyết liệt: “Hiện nay, thời sự gian nguy,
có những điểm đáng lo: kỷ cƣơng rối loạn, chính sự hững hờ, hình ngục oạn uổng,
pháp lệnh sai lầm… Nếu ngay bây giờ biết nghĩ phƣơng kế để cải cách tệ chính;
biết sợ cơn giận của trời, chỉnh đốn binh bị để chinh phạt giặc thù, thì cũng chƣa
muộn, vẫn có thể kịp. Khốn nỗi vua tôi trên dƣới, cứ vui chơi ngạo nghễ, vẫn hơn
hớn tự cho là thái bình vô sự. Về phần bệ hạ, hiện chƣa tự thân điều khiển chính sự,
các bản tấu chƣơng của đình thần, hết thảy đều uỷ cho vị phụ chính Ứng vƣơng
quyết đoán, mà Ứng vƣơng thƣờng về Dƣơng Kinh luôn. Bởi thế các công việc
trong triều đều bê bối, quân sự cũng theo đà đó mà trễ nải… Ngày nay thảo luận,
ngày mai bàn tán, chỉ toàn những việc lặt vặt ở các nha môn, còn việc chính trị
trọng đại của triều đình không hề nói tới. Nhƣ vậy, việc nƣớc sẽ một ngày một suy
đồi, đó là cơ nguy loạn không thể cấp cứu. Những ngƣời giữ việc nƣớc, biết mà
không chịu nói, hoặc nói mà không hết lời, một khi triều đình đã thất kế, thì thiên hạ
quốc gia sẽ nhƣ thế nào?”. Bản tấu trình đó không những không bị trách phạt mà
còn đƣợc Mạc Mậu Hợp khen thƣởng [7,328-29].
Cũng căn cứ vào các nguồn tài liệu trên chúng tôi có bảng danh sách của 73
vị quan Ngự sử thời Mạc. Điểm đáng lƣu ý đầu tiên là các chức quan này đƣợc nhà
Mạc tuyển chọn rất kỹ càng. Có đến 70/73 trƣờng hợp đều xuất thân là Tiến sĩ. Vậy
có thể thấy, trình độ chính là tiêu chuẩn đầu tiên trong việc bổ dụng các chức ngôn
quan dƣới thời Mạc.
Tập hợp thống kê về các chức quan Ngự sử thời Mạc của chúng tôi gồm: Đô
ngự sử 14, Phó đô ngự sử 1, Thiêm đô ngự sử 2, Đề hình Giám sát ngự sử 12 và
Giám sát ngự sử 44 (xem chi tiết ở bảng 24 và 25, phần phụ lục). Nhƣ vậy, về tên
gọi nhà Mạc hoàn toàn duy trì các chức có từ sau cải cách của Lê Thánh Tông năm
1471.
Chức Đô ngự sử thời Mạc phần lớn là do kiêm nhiệm. Họ đều là những đại
thần trọng chức (Tam Thái, Tam Thiếu) hoặc làm Thƣợng thƣ các Bộ (8/14 trƣờng
hợp). Ví nhƣ Nguyễn Thiến, ngoài chức Đô Ngự sử ông còn làm Thƣợng thƣ bộ
Lại, Đông các Đại học sĩ, Nhập thị kinh diên, tƣớc Thƣ Quận công; hay nhƣ Đô ngự
sử Đặng Võ Cạnh kiêm chức Hộ bộ Thƣợng thƣ, tƣớc bá; Binh bộ Thƣợng thƣ Trần
Phỉ sau khi kiêm nhiệm chức Đô ngự sử đã đƣợc gia phong kiêm tri quán cục, tham
dự triều chính, tƣớc Lại Quận công; còn Thƣợng thƣ bộ Hộ Giáp Trƣng giữ chức
Đô ngự sử năm 1577, năm sau (1578) đƣợc thăng làm Thiếu bảo, Lại bộ Thƣợng

93
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
thƣ, tƣớc Luân Quận công… Rõ ràng, những vị trƣởng quan Ngự sử đài có một vị
trí rất quan trọng trong tổ chức chính quyền triều Mạc.
Dƣới Đô ngự sử một bậc là chức Phó đô. Dƣới thời Mạc, có thể chức Phó đô
đài Ngự sử không đƣợc đặt thƣờng xuyên nên ta chỉ bắt gặp duy nhất trƣờng hợp
của Nguyễn Thiến. Văn bia chùa Đức Mục (Kiều Trì, thị xã Hà Đông, Hà Tây) khắc
năm Quảng Hoà thứ 4 (1544) cho biết thời điểm này Nguyễn Thiến giữ chức Phó
đô ngự sử, vinh phong Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, tƣớc Trung Dực bá. Có thể
khi ấy ông làm phó dƣới quyền Đài trƣởng Trần Phỉ. Tuy nhiên, chỉ 4 năm sau
(1548) Nguyễn Thiến đƣợc phong Đô ngự sử, tƣớc Thƣ quận công. Đến năm 1551,
Nguyễn Thiên bỏ nhà Mạc theo về nhà Lê [159,136-37].
Trong danh sách 73 vị quan Ngự sƣ thời Mạc chỉ có 2 ngƣời giữ chức Thiêm
đô ngự sử. Đó là Trần Diễn, Tiến sĩ năm 1544 và Lại Mẫn, Tiến sĩ năm 1565. Riêng
Thiêm đô ngự sử Lại Mẫn sau khi cùng sứ bộ nhà Mạc sang Trung Quốc trở về đã
đƣợc thăng làm Thƣợng thƣ, tƣớc bá nhƣng vẫn kiêm nhiệm chức cũ trong Ngự sử
đài. Với chức phận của mình, Lại Mẫn đã từng nhiều lần dâng sớ lên vua Mạc nói
về đức trị nƣớc của nhà vua và sự tệ hại của chính sự đƣơng thời. Đặc biệt, năm
1581, ông dâng lên Mạc Mậu Hợp bài sớ “Tƣ nguy” cực lực phê phán về mọi tệ
đoan của quan lại và các nha môn trong ngoài với những lời lẽ “phỉ báng sôi nổi”.
Bài sớ có đoạn viết: “Sự thế hiện nay, chính là thời kỳ cực bĩ! Kỷ cƣơng bỏ bê mà
không chấn hƣng, chính sự thối nát mà không tu sửa; trộm cƣớp hoành hành, giặc
mạnh xâm lấn; lòng ngƣời nao núng, thế nƣớc lung lay. Nhƣ muốn chuyển bĩ làm
thái, thì phải trên dƣới hợp chí đồng tâm, mới có thể đƣợc. Thế mà nay chỉ trang
sức hƣ văn, mà không lo thực sự, trên dƣới trong ngoài đều theo thói cũ... Ở các
Điện, Phủ, Giám, Ty, Bộ, Tự, Khoa, Đạo, nội vệ tam ty, Đô Thừa Hiến tam ty, hết
thảy các tệ lậu chƣa cải cách hết. Ngoài ra còn nhiều việc trái lẽ hại đạo, khác
thƣờng loạn tục, không thể kể xiết…” [6,329-30].
Có 12 vị Đề hình Giám sát ngự sử. Đây là những quan chuyên trách bởi
ngoài Ngự sử đài họ không kiêm nhiệm bất kỳ chức vị nào khác. Nhiệm vụ của họ
vẫn giống nhƣ thời Lê Sơ là giám sát toàn bộ hoạt động của các cơ quan tƣ pháp ở
trung ƣơng.
Trực thuộc Ngự sử đài trung ƣơng nhà Mạc tiếp tục đặt Giám sát ngự tại các
địa phƣơng (cấp đạo). Điểm khác biệt lớn nhất giữa Giám sát ngự sử thời Mạc so
với thời Lê Sơ thể hiện ở tính chuyên trách cao hơn của họ trong việc thực thi
nhiệm vụ. Theo quy định năm 1471 thì một Giám sát ngự sử triều Lê thƣờng đƣợc
giao giám sát hai đạo cùng lúc. Ví nhƣ các Giám sát ngự sử đạo Thanh Hoa và
Nghệ An, Hải Dƣơng và An Bang, Sơn Tây và Hƣng Hoá, Thuận Hoá và Quảng
Nam…. Tuy nhiên, dƣới triều Mạc mỗi Giám sát ngự sử chỉ giám sát một đạo duy

94
nhất. Các trƣờng hợp đƣợc dẫn ra từ tƣ liệu văn bia có: Nguyễn Đồng Dần, Giám
sát ngự sử đạo Quảng Nam năm 1565; Đồng Văn Tiết, Giám sát ngự sử đạo Hải
Dƣơng năm 1583; Nguyễn Khắc Cần, Giám sát ngự sử đạo Thanh Hoa năm 1589;
hay nhƣ Nguyễn Khẳng Công từng làm Giám sát ngự sử đạo Tuyên Quang năm
1562, rồi chuyển sang làm Giám sát ngự sử đạo Hƣng Hóa năm 1563, rồi đạo Hải
Dƣơng năm 1569… Nhƣ vậy, có thể phỏng đoán rằng tại cùng một thời điểm nhà
Mạc phải đặt nhiều chức Giám sát ngự sử hơn triều Lê Sơ, nhƣ thống kê của chúng
tôi đã chỉ ra có 44 ngƣời giữ chức này. Một điểm khác biệt nữa, là chức Giám sát
ngự sử thời Mạc thƣờng đồng thời đƣợc giao chức vụ của ngƣời đứng đầu cơ quan
hành chính địa phƣơng. Trƣờng hợp điển hình là Lê Quang Bí, Giám sát ngự sử đạo
Tuyên Quang kiêm chức Tham chính của Thừa ty, sau thăng lên Thừa tuyên sứ
Kinh Bắc [159,138-39].
Cùng tham gia hoạt động giám sát tại các đạo còn có chức Thanh hình Hiến
sát sứ ty. Thống kê trong số 484 ngƣời đỗ Tiến sĩ thời Mạc cho thấy có đến 50
ngƣời giữ chức này, chiếm 10,33%. Qua số lƣợng của các quan Giám sát ngự sử và
Hiến sát sứ ty trên đây phần nào thấy rằng công tác thanh tra, giám sát tại các địa
phƣơng đã đƣợc nhà Mạc chú trọng hơn một bƣớc.
Nhìn chung, các cơ quan giám sát thời Mạc hoạt động rất tích cực. Trƣớc bối
cảnh biến loạn của đất nƣớc vào nửa cuối thế kỷ XVI, các ngôn quan đã liên tiếp
dâng lời can gián, thẳng thắn phê phán về tình hình chính sự đƣơng thời. Tiêu biểu
trong số đó là các tấu sớ của Đô ngự sử Giáp Trƣng năm 1577, Đặng Võ Cạnh năm
1586, của Thiêm đô ngự sử Lại Mẫn năm 1581, Đô cấp sự trung Nguyễn Phong,
Ngô Vĩ năm 1579… Có thể nói, ở một mức độ nào đó những lời can gián ấy đã có
những tác dụng nhất định trong việc điều chỉnh hành vi, việc làm của Hoàng đế và
đội ngũ quan lại, cũng nhƣ trong các chính sách quan trọng của đất nƣớc.
Tổ chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan giám sát về cơ bản giống
nhƣ triều Lê Sơ. Nét khác biệt rõ nhất có thể nhận thấy là nhà Mạc nâng cao một
bƣớc quyền hạn, vị thế của chức trƣởng quan đứng đầu các cơ quan giám sát trung
ƣơng, đồng thời tăng cƣờng hệ thống giám sát tại các địa phƣơng. Với chính sách
này, nhà Mạc hy vọng làm trong sạch đội ngũ quan lại, mặt khác củng cố quyền cai
quản của mình tại các địa phƣơng trong thế tranh giành với Nam triều.
2.2.4.2. Các cơ quan và việc tư pháp
Hiện chƣa có tƣ liệu để khẳng định triều Mạc duy trì tổ chức và hoạt động
của tất cả những cơ quan tƣ pháp đã có từ thời Lê Sơ. Tuy nhiên, qua những nghiên
cứu trên đây về tổ chức bộ máy chính quyền có thể khẳng định những cơ quan thực
thi tố tụng nhƣ bộ Hình, Ngự sử đài, Đại lý tự vẫn đóng vai trò quan trọng dƣới

95
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
triều Mạc. Ở các địa phƣơng, hệ thống tƣ pháp vẫn đƣợc tổ chức theo các cấp quản
lý hành chính, Hiến sát sứ và Giám sát ngự sử là những phán quan chịu trách nhiệm
cao nhất tại mỗi xứ thừa tuyên.
Thừa hƣởng thành tựu từ thời Lê Sơ, hoạt động lập pháp của triều Mạc chủ
yếu là tập hợp, bổ sung và tiếp tục hoàn thiện bộ luật (luật Hồng Đức) hay những
văn bản pháp luật có sẵn từ trƣớc. Tháng giêng năm Canh Dần - 1530, ngay sau khi
lên thay cha nắm quyền Mạc Đăng Doanh đã cho soạn và ban bố 59 điều cáo, tuy
nhiên chính sử không cho biết rõ đó gồm những nội dung gì [7,269]. Thành tựu lập
pháp quan trọng nhất của triều Mạc là trên cơ sở những điều luật, lệnh, lệ ban hành
thời Lê Sơ chủ yếu với niên hiệu Hồng Đức (1470-1497) và đầu thời Mạc đã đƣợc
Thiếu sƣ Liêm Quận công Mạc Ninh Bang tập hợp và biên chép thành Hồng Đức
thiện chính thư trong khoảng thời gian 20 năm, từ 1541 đến 1561 [29,421].
Với tinh thần đề cao luật pháp, giữ vững kỷ cƣơng phép nƣớc của chính
quyền nhà nƣớc nên nhìn chung đời sống xã hội, tình hình an ninh trật tự dƣới thời
Mạc luôn đƣợc duy trì khá tốt. Các sử gia thời Hậu Lê dù không mấy thiện cảm với
triều Mạc, cũng phải nhận định: “Họ Mạc ra lệnh cấm ngƣời các xứ trong, ngoài
không đƣợc cầm giáo mác và dao nhọn, can qua, cùng những binh khí khác hoành
hành trên đƣờng đi. Ai vi phạm thì cho phép ty bắt giữ. Từ đấy, ngƣời buôn bán và
kẻ đi đƣờng đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cƣớp, trâu bò thả chăn
không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không
biết đƣợc là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, ngƣời đi đƣờng không nhặt
của rơi, cổng ngoài không phải đóng, đƣợc mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên”
[24,115].
2.2.5. Chế độ quan chức
Kiện toàn hệ thống quan chức trong tổ chức bộ máy chính quyền là một việc
làm vô cùng cần kíp đối với nhà Mạc ngay sau khi giành đƣợc vƣơng quyền.
Trong điều kiện buổi đầu của vƣơng triều mới, lại đƣợc thiết lập bởi một
dòng họ bình dân, tầng lớp quý tộc tôn thất chiếm số lƣợng ít và chƣa đóng vai trò
gì đáng kể; triều đình cũng chƣa thể ngay lập tức tổ chức khoa cử để tuyển chọn
quan lại thì những “công thần khai quốc” của nhà Mạc là những cựu thần triều Lê.
Họ là những ngƣời từng trải chốn quan trƣờng, có khuynh hƣớng xu thời, biết dứt
bỏ nghiệp cũ để theo về triều mới tiến bộ hơn. Nhà Mạc do đó không có lý do gì lại
không triệt để tận dụng họ trong việc kiến lập vƣơng triều.
Có ý kiến cho rằng: “Nhà Mạc lúc đầu để lấy lòng nhà Minh và để trấn an
các sĩ phu cũ triều Lê, có dùng lại và thậm chí cho tuyển những ngƣời trong phe
cánh thuộc dòng dõi nhà Lê vào làm việc trong chính quyền mới. Nhƣng sự trọng

96
dụng của nhà Mạc còn dè dặt. Phần lớn đều lấy những ngƣời bạn thân tình với Đăng
Dung và từng phụng sự, tôn thờ Mạc Đăng Dung…”. “Tuy vậy, nhà Mạc vẫn có ý
thức muốn dùng nhân sĩ dòng họ Mạc và những sĩ phu đã từng đƣợc thi cử tuyển
chọn dƣới triều Mạc, còn những nhân sĩ cũ càng về sau nhà Mạc càng có ý thức loại
dần” [180,34-35].
Nhận định này không sai, nhƣng cũng xin bổ sung một vài chi tiết đáng lƣu ý
khác. Chúng ta đều biết, đợt ban chức tƣớc đầu tiên của nhà Mạc vào tháng 12 năm
Mậu Tý (1528) cho 56 vị đại thần1, thì phần lớn trong số họ là những quan lại vốn
phục vụ trong bộ máy chính quyền triều Lê Sơ mà không hẳn chỉ dựa vào mối thân
tình với nhà Mạc. Những nhân vật này sau đó đều là những bậc công thần, giữ
cƣơng vị lâu năm và có nhiều đóng góp quan trọng cho triều Mạc nhƣ: Phò mã Đô
uý Thái bảo Lâm Quốc công Nguyễn Quốc Hiến (đƣợc ban họ Mạc), Thái sƣ Lân
Quốc công Mạc Quốc Trinh, Thiếu bảo Thông Quận công Nguyễn Thì Ung, Lai
Quận công Trần Phỉ, Khánh Khê hầu Nguyễn Bỉnh Đức (sau đổi tên thành Mạc
Ninh Bang), Đạo Xuyên hầu Nguyễn Văn Thái…
Nghiên cứu các chức quan và đƣờng hoạn lộ của những Tiến sĩ thời Lê Sơ
chúng tôi thấy rằng, khi nhà Mạc cƣớp ngôi, bên cạnh những “bề tôi trung nghĩa”
không chịu đầu hàng “giặc Mạc”, thì vẫn có không ít những ngƣời khác đã theo về
làm quan cho tân triều.
Bảng 20: Số những Tiến sĩ thời Lê Sơ làm quan nhà Mạc
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Chức tƣớc Số lƣợng
1 Tam Thái, Tam Thiếu 6
2 Thƣợng thƣ các Bộ 25
3 Thị lang các Bộ 11
4 Đại lý Tự khanh 1
5 Thừa chính sứ 1
6 Tham chính sứ 1
7 Hiến sát sứ 1
8 Tƣớc hầu 3
9 Tƣớc bá 1
10 Không rõ chức tƣớc 2
Cộng 52

Sau khi làm quan, họ đƣợc nhà Mạc trọng dụng, ban chức tƣớc cao. Trong số
52 Tiến sĩ thời Lê theo về nhà Mạc thì có 6 ngƣời thuộc hàng đại thần trọng chức
(Tam Thái, Tam Thiếu), 25 ngƣời là Thƣợng thƣ, 11 Tả hữu thị lang các Bộ, 1 Tự
khanh Đại lý tự, 1 Thừa chính sứ, 1 Tham chính sứ, 1 Hiến sát sứ, 3 ngƣời đƣợc ban
tƣớc hầu, 1 tƣớc bá và 2 ngƣời không rõ chức tƣớc (bảng 20).

1
Gồm 5 tƣớc công, 8 tƣớc hầu, 7 tƣớc bá và 36 đại chức khác.

97
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Trong số 52 nhân vật kể trên có 10 trƣờng hợp chúng tôi có thể khảo cứu
đƣợc chức quan của họ khi làm cho triều Lê và cả triều Mạc sau đó. Qua đối chiếu
cho thấy 9/10 nhân vật đƣợc thăng chức tƣớc sau khi họ làm quan cho triều Mạc. Số
này gồm 3 ngƣời từ tƣớc bá lên tƣớc hầu, 1 từ tƣớc hầu lên tƣớc công, 1 từ Thƣợng
thƣ (hàm 2b) lên Thiếu bảo (hàm 2a), 1 từ Hữu thị lang kiêm Thừa chính sứ (hàm
3b) lên Thƣợng thƣ (hàm 2b), 2 từ Đông các Đại học sĩ (hàm 4b) lên Thƣợng thƣ
(hàm 2b) và 1 từ Đề hình Giám sát ngự sử (hàm 7a) lên Thƣợng thƣ (hàm 2b).
Trƣờng hợp duy nhất bị giáng chức là Phạm Khiêm Bính, Tiến sĩ khoa Nhâm Tuất
(1502), từ Lễ bộ Thƣợng thƣ kiêm Ngự sử đài Đô ngự sử (hàm 2b) xuống làm Hữu
thị lang bộ Hộ (hàm 3b).
Bảng 21: Đƣờng thăng giáng chức tƣớc của các Tiến sĩ triều Lê khi làm quan nhà Mạc1
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Số Nhân vật Khoa Chức nhà Lê Phẩm Chức nhà Mạc Phẩm Thăng/
hiệu thi hàm hàm giáng
1 640 Nguyễn Thì Ung 1493 Thƣợng thƣ, Lƣơng 2b Thiếu bảo, tƣớc 2a T
văn hầu Thông quận công
2 691 Phan Đỉnh Tú 1499 Lại bộ Thƣợng thƣ, tƣớc hầu T
tƣớc Lan Xuyên bá
3 713 Khuất Quỳnh Cửu 1499 Lễ bộ Thƣợng thƣ, 2b Thuần Khê hầu T
tƣớc Thuần Khê bá
4 729 Nguyễn Quý Nho 1499 Đề hình giám sát 7a Lại bộ Thƣợng 2b T
ngự sử thƣ kiêm Đông
các đại học sĩ,
Nhập thị kinh
diên
5 739 Nguyễn Văn Thái 1502 Đông các Đại học sĩ, 4b Thƣợng thƣ, tƣớc 2b T
tƣớc Đạo Xuyên bá hầu
6 764 Phạm Khiêm Bính 1502 Hộ bộ Thƣợng thƣ, 2b Hộ bộ Hữu thị 3b G
thăng Lễ bộ Thƣợng lang
thƣ kiêm Đô ngự sử,
tham dự triều chính
7 800 Trần Phỉ 1505 Hữu thị lang, Thừa 3b Thiếu sƣ, Lại bộ 2a T
chớnh sứ xứ An Thƣợng thƣ, tƣớc
Bang. Lại Quận công
8 841 Phạm Gia Mậu 1505 Thƣợng thƣ, tƣớc 2b Bình chƣơng T
Hoành lễ hầu quân quốc sự,
hàm Thái sƣ, tƣớc
Hải quốc công

1
T: viết tắt của chữ “thăng”, G: “giáng” các chức, tƣớc.

98
9 853 Nguyễn Giản Thanh 1508 Hàn lâm viện thị thƣ 4b Lễ bộ Thƣợng thƣ 2b T
kiêm Đông các đại kiêm Hàn lâm
học sĩ viện Thị độc,
Chƣởng viện sự,
tƣớc Trung Phụ

10 966 Nguyễn Trọng Hiệu 1514 Thƣợng thƣ, tƣớc bá Tƣớc hầu T

Nhƣ vậy, trong số những quan cũ triều Lê khi tiếp tục phục vụ nhà Mạc,
phần lớn đƣợc trọng dụng. Tuy nhiên, số này chiếm không nhiều trong cơ cấu bộ
máy chính quyền Mạc; mặt khác, về lâu dài nhà Mạc không thể mãi trông cậy vào
đội ngũ đó.

Kiến lập vƣơng triều mới, nhà Mạc cũng rất có ý thức trong việc xây dựng
đội ngũ quý tộc hoàng tộc mạnh, nắm giữ những chức vụ chủ chốt trong bộ máy
chính quyền. Trong số các thân vƣơng họ Mạc có thể kể đến hai nhân vật nổi tiếng
nhất, có ảnh hƣởng rất lớn đến sự tồn vong của vƣơng triều là Khiêm vƣơng Mạc
Kính Điển và Ứng vƣơng Mạc Đôn Nhƣợng. Tuy nhiên, xét trên mọi phƣơng diện
nhà Mạc không có điều kiện để thiết lập một tập đoàn dòng họ mạnh nhƣ triều Trần
hồi thế kỷ XIII-XIV.

Phƣơng thức quan trọng nhất để nhà Mạc tuyển dụng quan chức là khoa cử.
Trong suốt 65 năm trị vì, triều Mạc đã đều đặn tổ chức 3 năm một kỳ đại khoa, với
22 khoa tổng cộng, tuyển chọn đƣợc 484 Tiến sĩ, trong đó có 11 vị Trạng nguyên,
13 Bảng nhãn, 19 Thám hoa [155]. Với kết quả đó, nhà Mạc không thua kém bất cứ
triều đại phong kiến Việt Nam nào trong việc tổ chức khoa cử và tuyển chọn nhân
tài.

Về cách thức thi tuyển chúng tôi xét thấy không có điều đáng bàn. Bởi nhƣ
Phan Huy Chú cho biết: “Mạc Đăng Dung cƣớp ngôi, năm Minh Đức thứ 3 (1529)
mở khoa thi Hội. Đăng Doanh tiếm ngôi, năm Đại Chính thứ 3 (1532), lại mở khoa
thi Hội. Thể lệ thi cử đều theo nhà Lê. Sau Đăng Doanh thì Phúc Nguyên, Phúc Hải,
Mậu Hợp đều theo lệ cũ ấy mà thi” [4,25]. Ở dây, thông qua những thống kê từ Các
nhà khoa bảng Việt Nam chúng tôi xin lƣu ý mấy điểm sau về chế độ bổ dụng quan
lại xuất thân khoa bảng dƣới triều Mạc:

99
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bảng 22: Quê quán những ngƣời đỗ tiến sĩ thời Mạc
(Theo Ngô Đức Thọ [155])
Khu vực Địa phƣơng Số ngƣời đỗ Tỷ lệ (%)
Trung du miền núi Bắc Bộ 8 1,65
- Thái Nguyên 2
- Phú Thọ 5
- Hoà Bình 1
Đồng bằng Bắc Bộ 463 95,67
- Vĩnh Phúc 17
- Hà Nội 48
- Hà Tây 44
- Bắc Ninh 114
- Bắc Giang 27
- Hƣng Yên 40
- Hải Dƣơng 109
- Hải Phòng 25
- Quảng Ninh 1
- Hà Nam 7
- Thái Bình 21
- Nam Định 9
Trung bộ 13 2,68
- Thanh Hoá 7
- Nghệ An 2
- Hà Tĩnh 3
- Quảng Bình 1
Cộng 484 100,0

Thứ nhất, trong số các địa phƣơng có Tiến sĩ đỗ thời Mạc, khu vực đồng
bằng Bắc Bộ, nhất là các tỉnh thành Bắc Ninh, Hải Dƣơng, Hà Nội, Hà Tây ngày
nay vẫn chiếm số lƣợng lớn nhất. Trong khi đó, các tỉnh Trung Bộ từ Thanh Hoá trở
vào đã có sự sụt giảm đáng kể về tỷ lệ những ngƣời đỗ Tiến sĩ so với thời Lê Sơ (từ
10,04% xuống còn 2,68%). Lý do quan trọng nhất có thể giải thích cho hiện tƣợng
này là khi đó địa bàn từ Thanh Hoá trở vào thuộc quyền kiểm soát của Nam triều,
những ngƣời ở đây phần lớn tham gia thi tuyển và sau đó làm quan cho chính quyền
Lê - Trịnh.

Thứ hai, có đến 477/484 (chiếm 98,55%) Tiến sĩ thời Mạc sau đó đều tham
gia đội ngũ quan chức, hoặc cho triều Mạc, hoặc cho triều Lê Trung hƣng1. Họ giữ
các chức từ hàm tòng bát phẩm đến trên chánh nhất phẩm (Thái phó, Thái bảo),
trong đó chiếm số lƣợng lớn nhất là các chức quan thuộc hàng tam phẩm (151
ngƣời, chiếm 31,66%). Bảy trƣờng hợp khác không thấy ghi quan chức, chỉ chiếm
1,45% số Tiến sĩ thời Mạc. Hiệu xuất sử dụng nhƣ vậy là rất cao, cao hơn so với
triều Lê Sơ (89,07%).

1
Có 87 Tiến sĩ thời Mạc làm quan cho triều Lê Trung hƣng. Chúng tôi sẽ trở lại nội dung này trong
chƣơng 3 của Luận văn.

100
Bảng 23: Chức quan của các Tiến sĩ thời Mạc
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam [155])

TT Chức quan cao nhất Phẩm Số ngƣời


hàm
1 - Thái phó Trên 1a 1
2 - Thái bảo 1
3 - Thiếu bảo 2a 5
4 - Thƣợng thƣ 2b 62
5 - Ngự sử đài Đô ngự sử 3a 4
6 - Đô Tổng binh sứ 2
7 - Tả thị lang 3b 50
8 - Hữu thị lang 16
9 - (?) Thị lang 27
10 - Thừa chính sứ 52
11 - Tổng binh Thiêm sự 4a 3
12 - Đông các Đại học sĩ 4b 7
13 - Tham chính sứ 54
14 - Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử 5a 1
15 - Tự khanh sáu Tự 12
16 - Phụng Thiên Phủ doãn 3
17 - Chỉ huy Thiêm sự 1
18 - Quốc tử giám Tƣ nghiệp 5b 1
19 - Hàn lâm viện Thị thƣ 6a 3
20 - Đông các Hiệu thƣ 8
21 - Đoán sự các vệ 5
22 - Hiến sát sứ các đạo/xứ 50
23 - Hàn lâm viện Đãi chế 6b 1
24 - Hàn lâm viện Thị chế 1
25 - Đề hình Giám sát ngự sử 7a 11
26 - Giám sát Ngự sử các đạo/xứ 44
27 - Đô cấp sự trung sáu Khoa 21
28 - Hàn lâm viện Hiệu thảo 7b 7
29 - Cấp sự trung sáu Khoa 8a 11
30 - Lục sự 8b 1
32 - Quan Hàn lâm (?) Không rõ 9
33 - Quan Đông các (?) 1
34 - Huy văn Viện Thiêm sự 1
35 - Tham tri 1
Cộng 477

101
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
BiÓu ®å 3: PhÈm hµm cña c¸c quan xuÊt th©n khoa b¶ng thêi M¹c
Số ngƣời
160 151

140

120

100
83
80 68
67 64

60

40

18
20 12 12
2
0
NhÊt NhÞ Tam Tø Ngò Lôc ThÊt B¸t Kh«ng
phÈm phÈm phÈm ph¶m phÈm phÈm phÈm phÈm râ Phẩm hàm

Thứ ba, chức quan của các Tiến sĩ thời Mạc phần lớn thuộc ngạch văn giai,
chủ yếu là các quan nội nhiệm làm việc tại Lục bộ, Ngự sử đài, Lục khoa, Viện Hàn
lâm và Đông các... Số này chiếm 64,37% (thời Lê Sơ là 75,11%). Khá nhiều những
Tiến sĩ khác sau khi thi đỗ đƣợc điều ra làm quan ngoại nhiệm, giữ các chức Thừa
chính, Tham chính, Hiến sát các xứ thừa tuyên. Số này chiếm 33,33%, tăng 10,9%
so với thời Lê Sơ. Những Tiến sĩ giữ chức võ quan, đứng đầu các Vệ, Sở quân đội
cũng cao hơn thời kỳ trƣớc, với 11 ngƣời, chiếm 2,3%.

Bảng 24: Nơi làm việc của các quan xuất thân khoa bảng thời Mạc
Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam [155])
Loại quan Cơ quan Số ngƣời Tỷ lệ (%)
Nội nhiệm 307 64,37
Tam Thái, Tam Thiếu 7
Lục bộ 155
Hàn lâm viện 21
Đông các 16
Ngự sử đài 60
Lục tự 12
Lục khoa 32
Quốc tử giám 1
Phủ Phụng Thiên 3
Ngoại nhiệm 159 33,33
Đạo/ xứ Thừa tuyên 159
Võ quan Các Vệ, Sở 11 2,30
Cộng 477 100,0

102
BiÓu ®å 4: N¬i lµm viÖc cña c¸c quan
xuÊt th©n khoa b¶ng thêi M¹c
11

307

159

Quan néi nhiÖm


Quan ngo¹i nhiÖm
Vâ quan

Cuối cùng, nhà Mạc thƣờng xuyên tổ chức các khoa thi Tiến sĩ không phải
nhằm đề cao truyền thống Nho học hay muốn khẳng định thời thịnh trị của vƣơng
triều, mà trƣớc hết là để tuyển chọn đội ngũ quan chức bổ sung cho bộ máy chính
quyền vốn đang rất thiếu hụt, tức là đề cao tính thực dụng của biện pháp này.
Những quan lại đƣợc tuyển chọn qua khoa cử là lực lƣợng chủ yếu trong cơ cấu tổ
chức bộ máy chính quyền thời Mạc. Thông qua khoa cử, nhà Mạc còn muốn đào tạo
và tuyển chọn đội ngũ Nho sĩ quan liêu đông đảo và tuyệt đối trung thành với
vƣơng triều, trung thành với chế độ.

Cũng vì thế, nhà Mạc nhìn chung có một chế độ đãi ngộ cao bằng chức tƣớc
và bổng lộc đối với quan lại. Dƣới thời Mạc, nhà nƣớc nhiều lần tiến hành phong
chức tƣớc cho các quan, trong đó có những đợt phong quy mô lớn diễn ra vào các
năm 1528, 1541, 1549, 1562, 1584, 1585… Đọc lại chính sử, những ngƣời mang
tƣớc Quốc công, Quận công, tƣớc hầu, tƣớc bá thời Mạc chiếm số lƣợng cao hơn so
với các thời kỳ khác.
Sử cũ không cho biết gì nhiều về chế độ ban cấp bổng lộc cho quan lại dƣới
thời Mạc. Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt thông sử đều chép sự kiện năm 1528,
Mạc Đăng Dung ngay khi lên ngôi đã cho bàn định phép “điền chế”, “lộc chế”
[24,112; 7,268]. Tuy nhiên, thể lệ và số lƣợng ban cấp thế nào thì không đƣợc rõ.
Chỉ biết, năm 1554, sau khi Thiếu sƣ Lại Quận công Trần Phỉ chết đã đƣợc Mạc
Phúc Nguyên ban cấp 57 mẫu ruộng “thế nghiệp” [7,301], còn Gia Quốc Công
Nguyễn Thám đƣợc cấp 50 mẫu ruộng thế nghiệp vào năm 1582 [24,158]. Nguồn tƣ

103
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
liệu văn bia cho biết Tĩnh Quốc công Mạc Kính Điển có ruộng đất (điền thổ) 55
mẫu tại xã Thiên Bài, huyện Yên Mô (nay thuộc Ninh Bình); gia đình Thƣợng thƣ
Lê Quang Bí đƣợc cấp 50 mẫu ruộng thế nghiệp, 11 mẫu 4 sào miễn hoàn điền và
80 mẫu tế điền sau khi ông mất năm 1566 [158,192]. Tƣ liệu gia phả xác nhận hai
trƣờng hợp khác là Nguyễn Bỉnh Khiêm sau khi mất đƣợc nhà Mạc cấp cho 100
mẫu ruộng thờ và Nguyễn Lai, Thƣợng thƣ bộ Lại, ngƣời Lai An, huyện Đan
Phƣợng (Hà Tây) khi mất để lại cho dòng họ 10 mẫu ruộng đã đƣợc ban cấp từ thời
Mạc1… Nhƣ vậy, ban cấp ruộng đất thế nghiệp vẫn là một trong những chính sách
đãi ngộ quan lại chủ yếu của nhà nƣớc thời Mạc. Với những ví dụ dẫn ra trên đây
cho thấy so với định mức ban cấp thời Lê Sơ thì số lƣợng ruộng đất thế nghiệp mà
quan lại đời Mạc đƣợc nhận thấp hơn rất nhiều2. Tuy nhiên, vì số huân công đại
thần thời Mạc nhiều nên số ruộng đất nhà nƣớc dùng để ban cấp cũng rất đáng kể.
Mặt khác, sau khi ban cấp, nhà nƣớc hầu nhƣ không thể kiểm soát đƣợc bộ phận
ruộng đất này. Nó thuộc quyền sử hữu tƣ nhân, ngƣời đƣợc ban cấp có toàn quyền
sử dụng, mua bán hoặc cung tiến cho nhà chùa nhƣ đã xảy ra phổ biến dƣới thời
Mạc.

Bên cạnh “thế nghiệp điền” cho quan lại cao cấp, nhà Mạc còn dùng một số
lƣợng không nhỏ ruộng đất để ban cấp cho các hạng sĩ quan (Trung hiệu và sĩ
Trung sĩ) và binh lính theo luật quân điền. Với chính sách xây dựng quân đội theo
hƣớng chính quy chuyên nghiệp, chế độ “ngụ binh ƣ nông” tồn tại từ thời Lý đến
đây cơ bản bị phá sản. Cùng với chế độ lƣơng bổng, ruộng đất trở thành một trong
những hình thức đãi ngộ của nhà nƣớc cho lực lƣợng binh sĩ.
Hai loại ruộng đất mà nhà nƣớc sử dụng để ban cấp ở trên đều có chung một
nguồn gốc là phần lớn đƣợc lấy từ ruộng đất công làng xã. Bằng sức mạnh, nhà
nƣớc đã can thiệp mạnh mẽ vào quan hệ làng xã bằng cách lấy công điền để quân
cấp cho binh sĩ và ban phát cho các quan lại cao cấp. Tuy nhiên, cùng với sự phát
triển không thể kiểm soát của chế độ tƣ hữu ruộng đất khiến cho quỹ ruộng đất công
còn lại để “theo số ngƣời trong xã mà chia đồng đều” chẳng đáng là bao. Chính
sách “quân điền” thời Mạc cơ bản không thể thực hiện. Thông qua chính sách ban
cấp ruộng đất, nhà Mạc phần nào đã đáp ứng đƣợc yêu cầu bức thiết đặt ra lúc bấy

1
Tƣ liệu của Trƣơng Hữu Quýnh, dẫn theo Đặng Kim Ngọc: Một số biện pháp của nhà Mạc trong
việc xây dựng đất nước// Vƣơng triều Mạc (1527-1592), tr.53-54.
2
Theo quan chế thời Lê Thánh Tông ban hành năm 1477, các bậc đại thần từ tƣớc bá đến Thân
vƣơng đƣợc ban cấp từ 200 - 400 mẫu thế nghiệp điền.

104
giờ là xây dựng một bộ máy chính quyền nhà nƣớc và lực lƣợng quân đội hùng
mạnh. Song tuy nhiên, mặt trái hay là hệ quả tất yếu của chính sách đó là nhà Mạc
đã không thể tạo lập đƣợc một nền tảng kinh tế - xã hội vững chắc và tự làm yếu đi
sức mạnh của thể chế tập quyền trong việc kiểm soát các cấp chính quyền địa
phƣơng, đặc biệt là làng xã.

Tóm lại, để xây dựng đội ngũ quan lại phục vụ bộ máy chính quyền, nhà
Mạc một mặt trọng dụng những quan chức cũ triều Lê, không ngừng tăng cƣờng vai
trò của tầng lớp quý tộc hoàng tộc, song quan trọng nhất vẫn là đẩy mạnh khoa cử
để bổ dụng quan chức. Cùng với đó, chính sách nhất quán của nhà Mạc là trọng
dụng và đãi ngộ quan lại. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh nhà Mạc không có
điều kiện để biệt đãi nhƣ triều Lê Sơ trƣớc đó.

2.3. Sự sụp đổ của chế độ chính trị thời Mạc


Năm 1592, quân đội Lê - Trịnh tấn công vào Thăng Long, quân Mạc thất bại.
Vua quan nhà Mạc phải rút chạy.

Vƣơng triều Mạc kết thúc sau 65 năm trị vì là kết quả trực tiếp từ cuộc chiến
chống lại nhà Lê, tuy nhiên những yếu kém hay hạn chế trong thiết chế chính trị
mới là căn nguyên sâu xa. Dấu hiệu của sự bất ổn trong mô hình nhà nƣớc thời Mạc
xuất hiện từ khá sớm, luôn tiềm ẩn ngay cả vào thời kỳ thịnh trị nhất và bùng phát
mạnh mẽ khi nhà Mạc bất lực trƣớc sự lớn mạnh của Nam triều.

Sau những rối loạn của tình hình chính trị, xã hội đất nƣớc cuối thời Lê Sơ,
đất nƣớc tạm ổn định vào đầu triều Mạc, nhất là dƣới thời hai vị vua đầu Đăng
Dung và Đăng Doanh. Theo nhận xét của Phan Huy Chú, Mạc Đăng Doanh là
ngƣời “khoan hậu giản dị. Ông giữ pháp độ, cấm hà khắc tàn bạo, ít việc tạp dịch,
nhẹ thuế khoá. Bấy giờ đƣợc mùa, nhà no, ngƣời đủ, trong nƣớc gọi thời ấy là trị
bình” [3,257-58]. Mặc dù rất kỳ thị nhà Mạc, nhƣng chính các sử thần triều Lê cũng
phải hết lời ca ngợi cảnh thái bình thịnh trị dƣới thời Đại Chính (1530-1540)
[24,115].

Tuy nhiên, thời thịnh trị của triều Mạc qua đi nhanh chóng. Những khó khăn
của đời sống chính trị đất nƣớc trƣớc hết đến từ những cuộc chiến triền miên mà
nhà Mạc tiến hành. Ngay năm 1531, đám cựu thần nhà Lê gồm Lê Công Uyên,
Nguyễn Ngãi, Nguyễn Thọ Trƣờng, Nguyễn Nhân Liên dấy quân chống lại nhà
Mạc, chiếm cứ vùng Thanh Hoá, bắt ngƣời, đốt phá, cƣớp bóc. Không lâu sau, một
viên quan tên Hùng Sơn vì mắc tội với nhà Mạc đã làm phản, đem theo ngƣời vào

105
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
chiếm cứ vùng Thanh Hoá, Mạc Đăng Doanh nhiều lần thân chinh mới dẹp yên
[24,115]. Lợi dụng thời cơ khi nhà Mạc cƣớp ngôi triều Lê, Vũ Văn Uyên cũng
chiếm cứ miền Tuyên Quang, Hƣng Hoá tự xƣng là Gia Quốc Công. Văn Uyên
chết, Văn Mật là em nối nghiệp, tiếp tục giữ vững chính quyền riêng, cho xây dựng
thêm nhiều thành luỹ kiên cố và tăng cƣờng quân đội chống lại nhà Mạc. Sau Văn
Mật theo về nhà Lê [24,127]. Năm 1546, sau khi bàn định lập ngôi vua mới bất
thành, Tứ Dƣơng hầu Phạm Tử Nghi tụ họp bộ tƣớng và quân sĩ, tôn phò Hoằng
vƣơng Mạc Chính Trung, chiếm vùng An Quảng làm căn cứ. Mãi 5 năm sau (1551)
nhà Mạc mới dẹp yên [24,127]… Tuy nhiên, đối thủ lớn nhất của nhà Mạc là chính
quyền Nam triều Lê - Trịnh. Cuộc chiến dằng co, hao ngƣời tốn của kéo suốt 47
năm (1545 - 1592) cuối cùng thất bại thuộc về nhà Mạc.

Để phục vụ cho cuộc chiến chống Nam triều, nhân lực của dân chúng đã
đƣợc huy động tối đa. Ngay khi lập vƣơng triều, nhà Mạc cho xây dựng Dƣơng
Kinh thành Kinh đô thứ hai. Thăng Long cũng nhiều lần đƣợc tu sửa, gia cố để
chống chọi những đợt tấn công của quân đội Lê - Trịnh. Đặc biệt, dƣới thời Mậu
Hợp, Thăng Long đƣợc mở rộng và xây dựng kiên cố hơn rất nhiều. Sử chép: “Năm
1588… họ Mạc thấy quan quân mỗi ngày một mạnh, liền bàn định kế đánh giữ. Hạ
lệnh cho quân dân các huyện trong bốn trấn đắp thêm ba lớp luỹ ngoài thành Đại La
ở Thăng Long, bắt đầu từ phƣờng Nhật Chiêu vƣợt qua Tây Hồ, qua Cầu Dừa đến
cầu Dền suốt đến Thanh Trì, giáp phía Tây bắc sông Nhị Hà, cao hơn thành Thăng
Long đến vài trƣợng, rộng 25 trƣợng, đào 3 lớp hào, đều trồng tre, dài tới mấy mƣơi
dặm để bọc lấy ngoài” [24,164]. Ngoài ra, nhà Mạc còn xây dựng rất nhiều thành
luỹ quân sự khác, nhƣ thành Xích Thổ ở Hoành Bồ, thành Cẩm Phả (Quảng Ninh),
hệ thống đồn luỹ trong dãy Huyền Đinh (nay thuộc Bắc Giang)… Cùng với những
cung diện, thành quách là hệ thống đƣờng xá, cầu cống phục vụ các nhu cầu chính
trị, quân sự…

Cuộc nội chiến kéo dài đã làm tổn hại không biết bao sinh mạng và tài sản
của dân chúng. Hậu quả của chiến tranh đã khiến các làng quê tiêu điều, xã hội rối
loạn, sản xuất đình trệ.

Những bê bối trong đời sống chính trị, mà trƣớc hết là nơi triều chính đã sớm
xuất hiện và ngày càng trở nên trầm trọng. Sử chép: “Mậu Hợp chỉ ham chơi bời,
say đắm tửu sắc, không để ý đến việc nƣớc” [7,326]. Đầu năm 1582, Mạc Mậu Hợp
sai ngƣời dựng một ngôi điện trong kinh thành làm nơi giảng học, nhƣng thực chất
là để yến tiệc chơi bời. Ngôi điện vừa hoàn thành thì chẳng may gặp hoả hoạn, một

106
đêm cháy trụi. Triều thần là Trần Văn Tuyên dâng sớ nói: “Nay bệ hạ mới ngự ngôi
điện mới dựng, đáng lẽ là lúc bắt đầu ban bố chính sự và giáo hoá, thế mà lại tới đấy
để thoả vui yến tiệc, không có đề phòng, đến nỗi ngôi điện bị cháy, việc này không
thể đổ cả cho trời đƣợc, đó chính là bởi nhân sự xui nên vậy. Nếu ngƣời không có
sơ hở, thì tai biến đâu có xảy ra. Ý trời răn bảo đã rõ ràng nhƣ vậy, chính là lúc nên
lo sợ chăm chỉ” [7,340]. Thói cũ khó sửa, Mậu Hợp vẫn “hoang dâm chơi bời”. Một
lần, vì mê đắm sắc đẹp của vợ viên trấn thủ Nam đạo Sơn Quận công Bùi Văn Khuê
là Nguyễn Thị Niên (con gái Nguyễn Quyện, em gái Hoàng hậu), Mậu Hợp đã lập
mƣu giết hại Bùi Văn Khuê. Chuyện bại lộ, Bùi Văn Khuê phẫn uất dẫn theo quân
sĩ về chiếm giữ hạt Gia Viễn (nay thuộc Ninh Bình) chống lại triều Mạc, rồi sau
theo về nhà Lê [7,356-57]…

Văn võ đại thần, từ Phụ chính Ứng vƣơng Mạc Đôn Nhƣợng “yên vui ngạo
nghễ, nhu nhƣợc, trễ nải, không cứu chữa chính sự sai lệch, không chỉnh đốn quân
sự phân tán, không sửa chữa sai lầm của mình”. “Bởi thế các công việc trong triều
đều bê bối, quân sự cũng theo đà đó mà trễ nải… Bậc công bảo đại thần nhƣ Lễ
Quận công Trần Thì Thầm thì e sợ hiềm nghi, thƣờng né tránh không chịu quyết
đoán; Luân Quận công Giáp Trƣng, thì lấy sự quá thịnh làm răn, thƣờng luôn luôn
xin giải chức; Đốc phủ trƣởng quan Ngạn Quận công Mạc Ngọc Liễn và Thạch
Quận công Nguyễn Quyện, thì hoặc thoái thác không đến công đƣờng, hoặc né
tránh không chịu bàn việc, cho nên các quan Tả hữu không giám bàn bạc; văn thần
trọng trách nhƣ Nghĩa Sơn bá Trần Văn Nghi, Vịnh Kiều bá Hoàng Sĩ Khải, An
Khê bá Mai Công, Đam Xuyên bá Nguyễn Triệt, thì đều giữ vẻ khoan hậu, không
cần nghĩ tới việc sâu xa. Bởi thế các liêu thuộc nhân đó mà trễ nải. Có viên về thăm
quê đến hàng tuần, hoặc có cuộc bàn luận mà chỉ có một viên họp, hoặc có viên
hiện có mặt ở Kinh mà không tới họp, hoặc có viên dự họp mà không phát biểu ý
kiến. Ngày nay thảo luận, ngày mai bàn tán, chỉ toàn những việc lặt vặt ở các nha
môn, còn việc trọng đại của triều đình không hề nói tới” [7,328-330].

Quân đội, quan lại các địa phƣơng nhân đó đƣợc thể làm bừa: “các phủ
huyện lấy lính, tuy đã chiếu đủ số, mà mỗi khi sai làm việc gì, thì ngƣời nọ lừa cho
ngƣời kia, cố ý lánh việc, tƣớng quân không cấm nổi, để cho cái tệ quấy nhiễu càng
ngày càng nhiều. Đến nhƣ việc ngục tụng, là trách nhiệm của quan hữu ty, thế mà
các nha phủ, các quan trong doanh trại, và các quan đô ty vệ sở, đều lập nha môn xử
kiện ngay trong nhà, có ngƣời kiện về việc hộ, việc giá thú, điền sản và các việc
khác, các viên ấy đều tự tiện nhận đơn, rồi bắt tới tra khảo, hạch sách tiền của, tự ý

107
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
phân xử, mà các quan hữu ty cũng không can thiệp…”. “Cả đến việc thu thuế và
cho dân vay thóc cũng rất phiền phức, sớm mới buông tha, chiều đã thôi thúc, suốt
năm không ngày nào yên, cứ đếm đầu ngƣời mà thu, rồi lại tính lời từng phân từng
ly. Từ niên hiệu Sùng Khang thứ 6 (1573) tới nay, trong khoảng 9 năm đó, các xứ
thu vét sƣu thuế chi dùng chỉ đòi hỏi ở dân nghèo; đến chi dùng trong điện cũng chỉ
đòi hỏi đám dân ấy. Các quân Thần vũ Hiệu lực cũng đòi hỏi ở đám dân ấy, các vệ
sở châu huyện trƣng thu cũng ở đám dân ấy… Ngoài ra còn có khi tăng gấp đôi số
thuế đã định, làm cho dân phải khánh kiệt phá sản. Dân tình ngao ngán, không còn
muốn sống” [7,300, 331-32].

Thêm vào đó, những tai ƣơng nhƣ lũ lụt, hạn hán, động đất liên tiếp xảy đến;
đi kèm với mất mùa, dân đói, bỏ đi xiêu tán, ruộng đồng hoang hoá… Hậu quả của
những năm tháng bi thƣơng ấy thậm chí còn di hại đến nhiều năm về sau. Khi nhà
Lê đã thay triều Mạc trị vì thì đâu đó vẫn thấy sử chép: “… mất mùa to, đói kém
đến ăn thịt lẫn nhau, chết đói đến một phần ba (năm 1594)”, “… nhân dân mất mùa,
đói to, lại thêm ôn dịch, ngƣời chết xác gối lên nhau (năm 1595)”… [24,189,191].

Bình luận về thời chính cuối triều Mạc, Lê Quý Đôn đã viết: “Lúc này chính
trị của triều đình Mậu Hợp nát bét, binh lực thì suy yếu, lại tai dị luôn luôn, lòng
ngƣời xao xuyến sợ hãi” [7,351]. Sự thất bại của triều Mạc trƣớc nghiệp trung hƣng
nhà Lê dƣờng nhƣ là điều đã đƣợc dự đoán trƣớc.

Tiểu kết
Không hẳn là lực lƣợng đại diện cho khuynh hƣớng mới đang lên, nhƣng
triều Mạc thành lập đã đặt dấu chấm hết cho thiết chế chính trị Lê Sơ. Do tầm ảnh
hƣởng quá lớn từ mô hình cũ, lại thêm cuộc nội chiến kéo dài là một trở ngại khách
quan khiến cho thiết chính thời Mạc cơ bản đƣợc xây dựng dựa trên mẫu hình Lê
Sơ, tuy có đôi nét khác biệt. Thiết chế đó ít nhiều đã phát huy tác dụng tích cực
trong giai đoạn đầu, không những đã phần nào giải quyết cuộc khủng hoảng thời kỳ
trƣớc mà còn tạo nên nhiều thành tựu đáng ghi nhận trên mọi phƣơng diện, tạo dấu
ấn riêng của triều Mạc trong lịch sử trung đại Việt Nam.

Xét về cấu trúc, thiết chế chính trị thời Mạc thể hiện tính linh hoạt, thực dụng
cao và tỏ ra tƣơng đối thích ứng với bối cảnh Đại Việt đƣơng thời. Tuy nhiên, thiết
chế đó lại không tồn tại dựa trên những cơ sở vững chắc.

108
Trƣớc hết, nhà nƣớc thời Mạc trong suốt giai đoạn tồn tại đã không thể tạo
lập một nền tảng kinh tế riêng. Chế độ sở hữu Nhà nƣớc về ruộng đất - cơ sở kinh tế
của thiết chế tập quyền quan liêu đã tan rã cùng với sự sụp đổ của mô hình Lê Sơ,
dù muốn hay không, nhà Mạc cũng không bao giờ có thể áp dụng trở lại. Thế kỷ
XVI là thời kỳ phát triển mạnh mẽ của chế độ sở hữu tƣ nhân về ruộng đất. Đây là
hệ quả tất yếu của một quá trình phát triển tự nhiên đã diễn ra từ trƣớc, nhƣng đồng
thời cũng là kết quả của những chính sách không kìm hãm sở hữu tƣ nhân dƣới thời
Mạc. Có thể coi đó là những chính sách cởi mở, tạo điều kiện cho nông nghiệp phát
triển. Tuy nhiên, bi kịch của nhà Mạc là đã không đủ sức tạo dựng một mô hình
điều hoà đƣợc quá trình phát triển ấy. Bên cạnh đó, để đáp ứng yêu cầu xây dựng,
củng cố đội ngũ quan liêu và lực lƣợng quân đội, triều Mạc đã sử dụng ruộng đất
công làng xã để ban cấp “tứ điền”, “lộc điền” cho các tầng lớp quý tộc dòng họ,
quan lại cao cấp và đặc biệt là lực lƣợng binh sĩ. Chính sách đó vô hình chung làm
cho quỹ ruộng công vốn đã bị xâm hại nghiêm trọng lại càng trở nên hạn hẹp. Chính
sách quân điền ít nhiều vẫn đƣợc thực thi nhƣng hiệu quả vô cùng hạn chế. Điều đó
đồng nghĩa với việc nhà Mạc tự đánh mất hay làm yếu đi vai trò kiểm soát, tri phối
của mình đối với làng xã. Sự ràng buộc của làng xã đối với chính quyền trung ƣơng
thời Mạc thực tế rất yếu. Một thực tế khác quan cũng cần đƣợc lƣu ý là dƣới thời
Mạc, kinh tế công thƣơng nghiệp, quan hệ tiền tệ có chiều hƣớng phát triển khá
mạnh mẽ. Tuy nhiên, các chính sách của triều Mạc tác động tới mức độ nào đối với
sự phát triển đó là vấn đề cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu ở mức độ sâu hơn.

Mô hình nhà nƣớc thời Mạc thực tế chỉ là sự tiếp nối, tuy ít nhiều có sự đổi
khác so với mẫu hình Lê Sơ. Ảnh hƣởng của thời đại Lê Sơ lên đời sống chính trị
triều Mạc đƣợc thể hiện đậm nét. Không những thế, so với thời Lê Sơ, thiết chế
chính trị triều Mạc còn có những hạn chế không thể sánh bằng. Dƣới thời Mạc,
phạm vi kiểm soát của chính quyền nhà nƣớc đã bị thu hẹp nhiều so với trƣớc. Đây
là điểm khởi đầu cho tình trạng chia cắt, cát cứ kéo dài của các tập đoàn phong kiến.
Triều Mạc thực tế chỉ kiểm soát đƣợc phần lãnh thổ từ Ninh Bình trở ra, còn từ
Thanh Hoá trở vào thuộc quyền Nam triều. Thậm chí, ngay cả trên địa bàn cai quản
của nhà Mạc, thì vùng Tây Bắc (chủ yếu là Tuyên Quang, Hƣng Hoá) thực tế đã
mất về tay anh em viên thổ tù Vũ Văn Uyên. Với vùng kiểm soát ngày càng bị thu
hẹp, nhà Mạc cũng không thể kiểm soát chặt chẽ nhƣ triều Lê Sơ. Sự ràng buộc của
các địa phƣơng với chính quyền trung ƣơng nhìn chung rất lỏng lẻo. Với những lý

109
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
do đó, sau 1/4 thế kỷ tạm coi là ổn định, cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trở lại và
ngày càng trở nên trầm trọng hơn.

Dƣới thời Mạc, mặc dù các hệ tƣ tƣởng khác có điều kiện phục hồi, song
Nho giáo vẫn là nền tảng chủ đạo đƣợc nhà nƣớc sử dụng trong quản lý và xây
dựng thể chế. Tuy nhiên, thời độc tôn học thuyết Khổng Mạnh đã qua đi, dù cố
gắng nhà Mạc cũng không thể vãn hồi. Mạc Đăng Dung và những ngƣời kế nhiệm
ông dù rất mong muốn đƣa đất nƣớc trở lại thời kỳ hoàng kim của chế độ phong
kiến, song đó mãi chỉ là ƣớc nguyện không thể thực hiện. Đời sống tƣ tƣởng của
Đại Việt giai đoạn này cho thấy nhà Mạc vẫn mãi luẩn quẩn và trƣợt dài trên đƣờng
khủng hoảng không lối thoát.

Trong suốt thời gian tồn tại, triều Mạc cũng chƣa tạo lập riêng cho mình một
cơ sở xã hội thực sự vững chắc. Chính quyền Mạc là một thể chế quân chủ mạnh,
bao gồm một đội ngũ đông đảo các quý tộc, quan liêu đƣợc hƣởng nhiều đặc quyền,
đặc lợi do nhà nƣớc ban. Tuy nhiên, đứng trƣớc thử thách nghiệt ngã, khi nhà Mạc
suy yếu và có nguy cơ sụp đổ, đội ngũ quan lại đã phân hoá theo nhiều ngả đƣờng.
Một bộ phận trung thành, “sống chết” cùng chế độ; bộ phận khác phần vì bất mãn,
phần vì nhận thấy tình thế không thể vãn hồi đã tìm cách thoái quan, tìm cảnh yên
bình nơi thôn vắng; bộ phận còn lại dƣờng nhƣ “xu thời” hơn đã bỏ triều Mạc, theo
nhà Lê tiếp tục đƣờng công danh, sự nghiệp.

Vƣơng triều Mạc tồn tại khá ngắn ngủi trong lịch sử Việt Nam và cho đến
nay vẫn còn nhiều ý kiến nhìn nhận, đánh giá khác nhau, thậm chí trái ngƣợc nhau.
Dƣới nhãn quan sử học hiện đại, lịch sử triều Mạc cần phải đƣợc nghiên cứu một
cách khách quan, sâu sắc và toàn diện hơn.

110
CHƢƠNG 3
THIẾT CHẾ “LƢỠNG ĐẦU” THỜI LÊ - TRỊNH (1599 - 1786)

“Lƣỡng đầu chế” là cách gọi thiết chế chính trị thời Lê - Trịnh đƣợc Lê Kim
Ngân lần đầu tiên đƣa ra vào năm 19691. Trong luận văn này, thuật ngữ chỉ đƣợc
dùng nhƣ một tên gọi tắt.
3.1. Sự xuất hiện của thiết chế “Lƣỡng đầu”
Vào những năm đầu thế kỷ XVI, các Hoàng đế Lê Sơ mất dần thực quyền,
bắt đầu phải nhờ cậy đến các thế lực võ quan để duy trì và phục hồi địa vị, quyền lợi
thống trị của mình. Hậu quả là không lâu sau đó, võ tƣớng Mạc Đăng Dung đã lật
đổ nhà Lê, lập ra triều Mạc.
Phất ngọn cờ “phù Lê diệt Mạc”, một võ tƣớng khác là Hữu vệ Điện tiền
Tƣớng quân, tƣớc An Thành hầu Nguyễn Kim đứng ra tập hợp lực lƣợng ở Sầm
châu (Ai Lao), dựng Trang Tông lên ngôi Hoàng đế. Dƣới sự chỉ huy của Nguyễn
Kim, đội quân phù Lê đã tiến đánh Thanh Hoá, Nghệ An, thu phục Tây đô, mở ra
thời kỳ trung hƣng của triều Lê.
Sau cái chế đột ngột của Nguyễn Kim (năm 1545), mọi binh quyền đƣợc trao
vào tay Trịnh Kiểm, con rể Nguyễn Kim. Trải Nam chinh, Bắc chiến uy thế dòng
tộc Trịnh ngày càng lớn mạnh.
Đánh bại nhà Mạc, quyền hành họ Trịnh trên thực tế đã lấn át triều Lê. Ngày
7 tháng 4 năm Kỷ Hợi (1599), vua Thế Tông sai Hoàng Đình Ái đem sách vàng tấn
phong Trịnh Tùng làm Đô nguyên suý Tổng quốc chính Thƣợng phụ Bình An
vƣơng [24,205]. Từ đó họ Trịnh đƣợc thế tập tƣớc vƣơng, đƣợc mở phủ chúa, đặt
quan chức và nhờ vậy ngày càng thâu tóm mọi quyền hành trong tay. Vua Lê là hƣ
vị, chỉ còn đƣợc giữ lại 5.000 quân lính túc trực, 7 thớt voi, 20 thuyền rồng, ngụ lộc
1.000 xã làm lộc thƣợng tiến và cử hành một vài nghi lễ mang tính hình thức nhƣ
“mặc áo long bào, cầm hốt ngọc, nhận lễ triều yết” [26,222,300].
Với quyền lực nhƣ vậy, các chúa Trịnh có thừa khả năng để phế truất nhà Lê,
lập ra triều đại riêng của mình. Tuy nhiên, họ đã không đi vào vết xe đổ của họ
Mạc. Các chúa Trịnh hiểu rằng thành công của sự nghiệp trung hƣng phần lớn là
dựa trên ảnh hƣởng và uy tín của nhà Lê, trong điều kiện mới, ngọn cờ chính trị
“tôn phù Lê thất” vẫn nguyên giá trị. Nhận thức đƣợc tình thế chính trị đó, các chúa
1
Trong Văn hoá chính trị Việt Nam - Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII, Viện Đại học
Vạn Hạnh, Sài Gòn, 1969.

111
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Trịnh đã áp dụng một định chế mà ở đó ngôi vị vua Lê vẫn đƣợc bảo tồn, đồng thời
họ Trịnh vẫn duy trì đƣợc địa vị thống trị của mình và đảm bảo thực thi quyền lực.
Cơ chế “liên kết” này luôn phải đảm bảo tính ổn định, bền vững để không thể bị phá
vỡ dẫn đến tình trạng phong kiến phân quyền. Đó là cơ sở để thiết lập nên một thiết
chế chính trị hết sức đặc biệt trong lịch sử trung đại Việt Nam - thiết chế “lƣỡng
đầu” vua Lê chúa Trịnh.
Trải gần hai thế kỷ tồn tại, qua 11 đời chúa và 13 đời vua, nguyên tắc trên
đây đã luôn đƣợc duy trì. Núp dƣới danh nghĩa vua Lê, các chúa Trịnh gần nhƣ toàn
quyền định đoạt, điều hành mọi công việc quốc gia. Trong quá trình ấy, thiết chế
chính trị thời Lê - Trịnh cũng dần đƣợc kiện toàn. Điều này đƣợc thể hiện trong tổ
chức bộ máy chính quyền và hiệu lực quản lý nhà nƣớc.
3.2. Chính quyền trung ƣơng thời vua Lê chúa Trịnh
3.2.1. Vua Lê và chúa Trịnh
Thiết chế “lƣỡng đầu” đƣợc đặc trƣng bởi tính nhị nguyên trong phân chia
ngôi vị vua - chúa và bản chất quyền lực của hai cƣơng vị đó. Trong cơ chế này,
vua là một biểu tƣợng quan trọng nhƣng chỉ có hƣ quyền; còn chúa ở địa vị thứ yếu
song lại nắm thực quyền lực cai trị đất nƣớc. Tất cả đƣợc phản ánh trong câu nói
ngắn gọn nhƣng súc tích thƣờng đƣợc ngƣời đƣơng thời nhắc tới: “Hoàng gia giữ
uy phúc, Vƣơng phủ nắm quyền bính” [105,211-212].
3.2.1.1. Vai trò của vua Lê
Trong con mắt của bá quan và dân chúng, vua Lê vẫn là “thiên tử”, ngƣời
có quyền năng tối thƣợng, đại diện hợp pháp duy nhất của quốc gia. Chính vì thế,
các vua Lê vẫn luôn đƣợc đề cao.
Xét về hình thức, vua Lê có những đặc quyền không ai có đƣợc. Chỉ có vua
Lê mới đƣợc sử dụng hoàng bào, thể hiện địa vị chí tôn, vƣợt trên tất cả quần thần.
Pháp luật nhà Lê nghiêm cấm quan lại và dân chúng không đƣợc sử dụng sắc phục
của nhà vua. Trong mọi điển lễ quốc gia, những nghi thức cử hành đối với Hoàng
đế luôn là trang trọng nhất. Tất cả biểu thị sự trang nghiêm trƣớc quyền uy của đấng
trị vì muôn dân.
Xét về nội dung, vua Lê có những vai trò không thể thay thế, đặc biệt là
trên phƣơng diện thần quyền. Hoàng đế là ngƣời duy nhất có quyền phong sắc cho
bách thần và cử hành những nghi lễ trọng đại nhất. Trên phƣơng diện thế quyền,
vua Lê về danh nghĩa là nguyên thủ nhƣng thực chất đã chia quyền cùng chúa Trịnh
trên cƣơng vị ngƣời đứng đầu nền lập pháp, tƣ pháp và hành pháp quốc gia.

112
Thời Trung hƣng, vua chỉ có quyền ban hành những văn bản luật pháp có
tính chất phổ quát, đƣa ra những nguyên tắc cốt yếu dƣới dạng dụ hay sắc dụ (nếu
quan trọng) hoặc chỉ chuẩn, chiếu hay sắc chiếu (nếu ít quan trọng). Đối với những
văn bản lập pháp ở dạng này, hầu nhƣ không thấy sự can thiệp của chúa Trịnh.
Những khi ban hành chiếu hay dụ, nhà vua thƣờng cho tổ chức rất trọng thể tại
chính điện Kính Thiên, đích thân làm chủ tọa, với sự hiện diện của chúa và đông đủ
văn võ bá quan.
Mặc dù đã mất quyền là vị quan toà tối cao trong các cấp xét xử, nhƣng
vua Lê vẫn là vị thẩm phán cao nhất về phƣơng diện biểu kiến, duy nhất có quyền
ban bố chiếu đại xá, giảm miễn tội cho các phạm nhân.
Đối với nền hành pháp, vua Lê cũng chia quyền cùng chúa Trịnh trong
ngôi vị ngƣời lãnh đạo nền hành chính quốc gia, dù trong thực tế có thể nhà chúa đã
dùng những biện pháp khéo léo nhằm gây áp lực đối với các quyết định của nhà
vua. Vua là ngƣời trực tiếp có quyền gia phong, thăng giáng, bãi miễn đối với các
chức quan từ hàm tam phẩm trở lên, kể cả ngôi chúa. Với những chức quan ngoại
nhiệm và từ hàm tứ phẩm trở xuống, mặc dù theo quy định chúa Trịnh trực tiếp có
quyền bổ nhiệm nhƣng để hợp lễ nhà chúa vẫn phải chuyển hồ sơ sang triều đình để
vua ban sắc chiếu và làm chủ toạ trong những buổi lễ khâm ban. Đối với những
mệnh lệnh có tính chất quan trọng, chúa Trịnh cũng không thể tự quyết mà phải đệ
lên vua phê duyệt và đứng chủ toạ trong lễ ban chiếu. Trên lĩnh vực quân sự, vua Lê
chủ trì những buổi lễ ban bố mệnh lệnh liên quan đến chính sách quốc phòng,
những buổi lễ xuất chinh, hay ban sắc phong chức cho những tƣớng lĩnh cao cấp
trong quân đội. Trong quan hệ bang giao, vua là ngƣời đại diện hợp pháp duy nhất
quốc gia. Hoàng đế Trung Hoa chỉ thừa nhận vua Lê là “An Nam Quốc vƣơng”, có
quyền đón tiếp các sứ giả Trung Quốc và đứng tên trong các văn thƣ ngoại giao với
“thiên triều” phƣơng Bắc.
3.2.1.2. Quyền của chúa Trịnh
Trên danh nghĩa, chúa Trịnh chỉ là thần tử của vua Lê, thay nhà vua trông
coi bá quan và bách tính. Vì thế, trong một số nghi thức nhất định chúa Trịnh không
đƣợc vƣợt quá giới hạn trên. Chẳng hạn, trong lễ phục các chúa Trịnh chỉ đƣợc mặc
tử bào, đồng sắc với triều phục của các quan tƣớc công và Thƣợng thƣ Lục bộ. Tuy
nhiên, khi họp riêng với các quan tại phủ đƣờng, chỉ có chúa mới đƣợc mặc tử bào
và đội mũ xung thiên, còn các quan không kể tƣớc phẩm đều chỉ đƣợc mặc y phục
màu lam, nhằm phân biệt và làm nổi bật địa vị bá chủ của nhà chúa. Các nghi lễ với
nhà chúa cũng đƣợc tiến hành giản tiện hơn, nhƣng vẫn thể hiện rõ tính quân cách,

113
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
biểu dƣơng sự uy dũng của vị Đại nguyên soái đứng đầu quân đội toàn quốc
[105,193-195]. Tuy vậy, trong thực tế các chúa Trịnh có một phạm vi quyền lực rất
rộng lớn.
Về phƣơng diện lập pháp, chúa cũng có quyền ban hành những văn bản có
tính pháp quy dƣới dạng các lệnh hay lệnh dụ (nếu có tính chất ngăn cấm, khuyên
răn) hoặc chỉ hay chỉ truyền (để ban bố những thể lệ, luật lệnh). Các văn bản pháp
luật do chúa ban hành có tính ứng dụng cao, là sự cụ thể hoá các chiếu, sắc dụ của
nhà vua trong đời sống thực tiễn. Nhà vua hay triều đình cũng không có sự can
thiệp hay kiểm soát nào đối với các văn bản lập pháp do chúa ban hành. Mỗi khi
cho ban hành những lệnh dụ hay chỉ truyền mới, nhà chúa cũng cho tổ chức tại phủ
đƣờng nhƣng với nghi thức ít trọng thể hơn so với khi ban chiếu hay dụ bên triều
đình. Điều đáng lƣu ý ở đây là mặc dù cả vua và chúa đều có quyền ban hành các
văn bản pháp luật, những văn bản đó cũng không chịu sự quản lý hay kiểm soát của
bất kỳ một cơ quan trung gian nào nhƣng chúng lại không bao giờ trùng lặp hoặc
mâu thuẫn với nhau về nội dung. Đó là vì ngoài nguyên tắc về sự phân định quyền
hạn giữa vua và chúa: vua nắm quyền quyết định những nguyên tắc pháp lý chung,
chúa giữ nhiệm vụ ứng dụng những nguyên tắc chung đó vào thực tiễn; thì còn bởi
tất cả những văn bản này đều đƣợc giao đến các văn thƣ phòng giúp việc chung
gồm Hàn lâm viện, Đông các và Trung thƣ giám trƣớc khi đƣợc ban hành. Chính
những cơ quan này đã góp ý kiến để những văn bản lập pháp trên đƣợc ban bố theo
đúng thể thức và không trùng lặp về nội dung.
Về phƣơng diện tƣ pháp, chúa Trịnh đã hoàn toàn thay thế vua Lê trong vai
trò vị thẩm phán tối cao trong mọi vụ án. Theo hệ thống tổ chức tƣ pháp thời Trung
hƣng, chúa Trịnh là vị quan toà cao nhất, có quyền chung thẩm các vụ án, quyết
định các hình thức xử phạt hoặc miễn giảm, ân xá cho các phạm nhân, dù rằng để
cho hợp thức phải thông qua các sắc, chiếu của vua Lê.
Chúa Trịnh cũng là ngƣời đứng đầu nền hành chính quốc gia. Với chức
Tổng quốc chính do vua Lê phong, chúa Trịnh có toàn quyền trong việc tuyển bổ,
thăng giáng, bãi miễn các chức và ban hành lệnh dụ, chỉ truyền đối với các quan
ngoại nhiệm, quan hàm từ tam phẩm trở xuống, mà trên thực tế họ mới chính là
những ngƣời thực sự điều hành nền nội chính. Chúa Trịnh cũng có quyền ban hành
những mệnh lệnh có tính lập quy, những quyết định hành chính liên quan đến việc
điều động mọi chức quan lại trong ngoài. Với chức Đại nguyên suý, chúa Trịnh
cũng chính là vị tổng chỉ huy quân đội cả nƣớc, toàn quyền điều động, tuyển bổ
binh lính, thăng giáng tƣớng lĩnh, quyết định những chính sách quốc phòng và nắm

114
quyền cao nhất về việc đảm bảo an ninh quốc gia. Chúa Trịnh còn là ngƣời kiểm
soát toàn bộ nền kinh tế, tài chính trong nƣớc. Trên phƣơng diện bang giao, chúa
Trịnh nắm thực quyền trong việc quyết định đƣờng lối ngoại giao, đón tiếp các sứ
thần ngoại quốc và cử ngƣời đi sứ nƣớc ngoài…
Mặc dù có sự phân chia giữa hai ngôi vị vua và chúa, nhƣng quyền lực lại
luôn tồn tại trong mối quan tƣơng hỗ không thể tách rời. Vai trò của Lê đế đƣợc
khẳng định nơi quyền hạn của Trịnh chúa; ngƣợc lại, quyền lực của chúa Trịnh chỉ
đƣợc đảm bảo bằng uy tín và vai trò của vua Lê. Đó là nét độc đáo trong thiết chế
chính trị thời Lê - Trịnh.
3.2.2. Chức năng và hoạt động của các cơ quan hành chính
Chỉ với danh nghĩa thần tử chúa Trịnh đã thâu tóm mọi quyền hành của vua
Lê. Song, để đảm bảo địa vị của mình, chúa Trịnh còn lập ra Phủ đƣờng trong thế
đối sánh với Triều đình nhà Lê. Nếu Triều đình có các thƣ phòng giúp việc Hoàng
đế, có Lục bộ để điều hành các việc chuyên môn; thì Phủ chúa cũng lập ra các văn
phòng riêng, có Lục phiên để quản lý mọi hoạt động của đất nƣớc. Tuy cùng thực
hiện chung một nhiệm vụ, nhƣng các cơ quan bên cung vua và bên phủ chúa lại
không hề có sự chồng chéo, dẫm chân lên nhau; mà ngƣợc lại chúng luôn có sự
phân công rõ ràng, phối hợp nhịp nhàng khi triển khai công việc.
3.2.2.1. Triều đình và Phủ đường
Triều đình (hay triều đƣờng) là nơi dự bàn quốc sự của đại thần văn võ bá
quan. Chính vì thế, cách bài trí cũng những nghi thức cử hành nơi triều đƣờng luôn
trang trọng, biểu hiện vẻ tôn nghiêm và quyền uy của Hoàng đế. Trong những ngày
thiết triều, từ chúa Trịnh, các quan văn võ từ nhất phẩm đến cửu phẩm và những
ngƣời đƣợc phong tƣớc công, hầu, bá, tử… đều tề tựu đông đủ. Nếu ai vắng mặt,
Lại khoa có trách nhiệm ghi tên và làm tờ khải lên chúa để phạt tiền theo thứ bậc.
Tuy nhiên, dƣới thời Trung hƣng vai trò họp bàn chính sự của triều đình Lê không
còn. Đây trở thành nơi tụ hội của quần thần chủ yếu để thăm viếng, chúc tụng vua
Lê theo nghi lễ định kỳ hàng tháng vào các ngày sóc (mồng một), vọng (ngày rằm)
hoặc những ngày đại lễ khánh hạ hay khi vua ban hành các sắc dụ, chiếu chỉ. Hoạt
động thƣờng nhật của Triều đình do Lục bộ tiến hành cũng không còn nhƣ trƣớc.
Phủ đƣờng là nơi chúa Trịnh tụ họp các đại thần để luận bàn những việc
quân quốc trọng sự và điều hành toàn bộ hoạt động của bộ máy hành chính nhà
nƣớc. Dƣới thời Trung hƣng, các chúa Trịnh trực tiếp nắm quyền điều động Ngũ
phủ quân, thƣờng xuyên hội họp tƣớng sĩ và các đại thần để bàn quyết việc quân cơ

115
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
nên nơi ấy đƣợc gọi là Phủ đƣờng. Sau khi lên ngôi chúa, Trịnh Tùng đặt chức
Tham tụng và Bồi tụng đứng đầu hàng văn bên Phủ đƣờng, gọi là quan Phủ liêu;
còn đứng đầu hàng võ (tức đứng đầu Ngũ phủ quân) là chức Chƣởng phủ, Thự phủ
và Quyền phủ, gọi là quan Ngũ phủ; hợp nhất các chức Tham tụng, Bồi tụng,
Chƣởng phủ, Thự phủ và Quyền phủ gọi là quan Ngũ phủ Phủ liêu.
Tuy cách bài trí và các nghi lễ cử hành nơi Phủ chúa không trang nghiêm và
phức tạp nhƣ bên Triều đình, nhƣng đây thực sự là nơi họp bàn chính sự dƣới thời
Trung hƣng. Theo quy định, các quan văn võ đại thần phải đến hầu chúa đều đặn
vào chín ngày trong tháng là mồng hai, mồng năm, mồng tám, mƣời một, mƣời bốn,
hai mƣơi hai, hai mƣơi ba, hai mƣơi sáu và hai mƣơi chín để bàn định việc công.
Phủ đƣờng trở thành nơi chúa ngự điện thính chính, chủ toạ mọi cuộc luận bàn quốc
sự. Ngoài ra, vào những ngày đại lễ, nhƣ lễ phong Vƣơng cho chúa, phong Tiết chế
cho Thế tử, lễ sinh nhật của chúa… các quan cũng phải có mặt đông đủ để chúc
mừng. Trong những buổi mở phủ đƣờng, những ngƣời dự họp gồm quan Ngũ phủ
Phủ liêu và các quan viên khác có mặt tại kinh đô. Khi có việc khó hoặc hệ trọng
cần giải quyết, chúa thƣờng ban lệnh dụ họp chính phủ tại Nghị sự đƣờng để bàn
định. Trong buổi họp này chúa không dự mà thành phần chỉ có các quan chính phủ
gồm: Tham tụng, Bồi tụng và sáu viên Tri phiên. Thể thức họp nhƣ vậy đƣợc gọi là
đình nghị1.
Trực tiếp điều hành mọi hoạt động hành chính, quân sự bên Phủ đƣờng là
các quan Tham tụng, Bồi tụng, Chƣởng phủ, Thự phủ và Quyền phủ. Các quan Ngũ
phủ Phủ liêu chính là những chức có quyền hạn lớn nhất trong bộ máy quan lại thời
Lê - Trịnh.
Chức Tham tụng đƣợc chúa Trịnh lập năm 1600, giữ ngôi vị Tể tƣớng bên
Phủ liêu. Theo quan chế thời Trung hƣng, số ngƣời giữ chức Tham tụng không hạn
chế, có khi 2-3 ngƣời cùng đƣợc trao chức này. Theo thống kê của chúng tôi, thời
Lê - Trịnh có ít nhất 60 ngƣời từng giữ chức Tham tụng Phủ liêu (xem danh sách cụ
thể ở bảng 30, phần phụ lục). Khi chọn ngƣời giữ chức Tham tụng, chúa Trịnh
không quan tâm lắm đến phẩm trật do triều đình ban, mà cốt chọn ngƣời có năng
lực, trung thành với nhà chúa. Họ cũng không nhất thiết phải đỗ đạt khoa bảng.
Trong số 60 vị Tham tụng kể trên, có 9 ngƣời không phải Tiến sĩ. Tuy chức Tham
tụng chƣa đƣợc quy định phẩm hàm, nhƣng những ngƣời giữ chức này có quyền
hạn rất lớn. Họ đồng thời còn kiêm giữ nhiều chức vụ quan trọng khác bên triều
đình.
1
Nguyễn Triệu Luật: Loạn kiêu binh, Sài Gòn, 1955, tr.70-71, dẫn theo Lê Kim Ngân [105,251-
252].

116
Bảng 25: Chức vụ kiêm nhiệm và tƣớc phẩm của các quan Phủ liêu thời Lê - Trịnh
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Đại Việt sử ký tục biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Chức quan Phủ liêu Chức quan kiêm nhiệm Tƣớc đƣợc phong
Quan Quan

Võ quan cao

Thƣợng thƣ

Ngự sử đài
trọng chức

Tả hữu thị

Lục phiên
không kiêm

Lục khoa
Đông các
Đại thần

Hàn lâm

Quốc tử

Công
Chức nhiệm

giám

Nam
Hầu
lang

viện
kiêm

cấp

Tử

quan nhiệm

Tham tụng 9 51 14 45 3 2 6 7 2 27 8 5 1

Bồi tụng 22 45 3 2 12 18 1 2 10 3 2 2 3 14 5 2 5

Cộng 31 96 17 2 57 21 3 8 17 5 2 2 30 22 10 2 6

Qua bảng trên cho thấy, ngoài 9 vị Tham tụng không rõ thông tin, còn lại 51
ngƣời khác đều kiêm nhiệm các chức vụ khác bên triều đình. Trong số này, nhiều
nhất là chức Thƣợng thƣ (45 trƣờng hợp), tiếp đến là đại thần trọng chức (tam Thái,
tam Thiếu), quan Ngự sử, Đông các, Thị lang Lục bộ, quan Hàn lâm và Quốc tử
giám. Gắn với các chức, những ngƣời này có tƣớc phẩm rất cao: 27 tƣớc công, 8
tƣớc hầu, 5 tƣớc bá và 1 tƣớc nam.
Chức Bồi tụng ra đời năm 1601, giữ ngôi vị Á tƣớng về hàng văn bên Phủ
đƣờng. Số lƣợng ngƣời giữ chức Bồi tụng cũng không hạn chế. Có khi nhà chúa cất
nhắc 3-4 ngƣời cùng giữ chức này. Thống kê của của chúng tôi cho thấy, ít nhất có
67 vị Bồi tụng dƣới thời Trung hƣng (xem danh sách cụ thể ở bảng 30, phần phụ
lục). Khi cử ngƣời giữ chức Bồi tụng, chúa Trịnh cũng không câu nệ ở đƣờng xuất
thân (có 12/67 trƣờng hợp không Tiến sĩ) hoặc phẩm hàm của họ bên triều đình.
Những ngƣời giữ chức Bồi tụng thƣờng đồng thời là Thị lang, Thƣợng thƣ Lục bộ,
quan Ngự sử đài, ngoài ra còn kiêm giữ đại thần trọng chức, quan Quốc tử giám, võ
quan cao cấp, Đông các hoặc Hàn lâm viện. Những ngƣời này chủ yếu mang tƣớc
hầu (14 ngƣời), tƣớc bá (5 ngƣời), tƣớc nam (5 ngƣời), số ít mang tƣớc công (3
ngƣời) và tƣớc tử (2 ngƣời) (xin xem bảng 25).

Các chức Chƣởng phủ, Thự phủ, Quyền phủ là những võ quan cao cấp đứng
đầu Ngũ phủ quân và trực tiếp thống lĩnh quân đội toàn quốc. Ngƣời đƣợc chọn giữ
chức này thƣờng là những tay chân thân cận của chúa Trịnh. Họ cũng đồng thời là
những bậc huân thần, đƣợc ban phong tƣớc phẩm rất cao bên triều đình (xin xem
chi tiết ở mục 3.2.3 bản Luận văn này).

Tóm lại, Phủ đƣờng có chức năng nhƣ một triều đình thứ hai nhƣng quan
trọng hơn. Với cơ quan thƣờng trực tối cao riêng có, Ngũ phủ Phủ liêu trực tiếp
đảm trách việc điều hành toàn bộ guồng máy hành chính quốc gia và nắm thực
quyền cai trị đất nƣớc. Những quan chức làm việc tại Phủ đƣờng là những đại thần

117
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
cao cấp nhất, trụ cột của triều đình Lê - Trịnh. Họ cũng đồng thời nắm giữ những
trọng trách bên triều đình, nhờ vậy mà Phủ chúa thâu tóm mọi hoạt động của vua
Lê.
Nhƣ mục nói về quan hệ giữa vua và chúa ở trên đã chỉ rõ, giữa Triều đình
và Phủ đƣờng có sự phân công rõ ràng khi thực thi nhiệm vụ. Vai trò của vua Lê và
quyền của các chúa trịnh quyết định đến sự phân chia nhiệm vụ của hai khối cơ
quan này.
Mọi sắc phong thần, phân loại các vị thần hay những quy định về việc thờ
cúng… đều xuất phát từ Triều đình. Khi đó, Phủ đƣờng không can thiệp, mà có
trách nhiệm cấp phát tiền cho dân làng có thần đƣợc phong để lo việc thờ phụng,
nghĩa là tuân theo quyết định của Triều đình.
Trên phƣơng diện lập pháp, Triều đình là nơi ban hành những mệnh lệnh có
tính chung, tổng quát; Phủ đƣờng là nơi cụ thể hoá những mệnh lệnh đó thành chính
sách cụ thể áp dụng trong thực tiễn. Riêng các văn bản pháp quy liên quan đến lĩnh
vực kinh tế tài chính, Phủ đƣờng có toàn quyền quyết định mà không cần đƣa qua
Triều đình duyệt xét.
Về quyền tƣ pháp, Ngự sử đài bên Triều đình là cơ quan phúc thẩm cao nhất
giải quyết mọi án xét lại từ các địa phƣơng gửi về. Tuy nhiên, nếu đƣơng sự không
chấp nhận bản án do Ngự sử đài khám đoán có thể làm tờ khải lên chúa để xin các
quan Ngũ phủ Phủ liêu xử chung thẩm. Dù vậy, với chế tài quy định ngƣời theo
kiện phải cam kết chịu tội đồ hay tội chết nếu cơ quan chung thẩm xử đúng nhƣ bản
án Ngự sử đài đã tuyên thì trong thực tế rất ít ngƣời tiếp tục kháng án lên Phủ chúa.
Nhƣ vậy, vai trò của Triều đình trong lĩnh vực tƣ pháp vẫn còn khá lớn.
Về quyền hành pháp, Phủ đƣờng nắm toàn quyền thu chi ngân sách quốc gia,
hoàn toàn định đoạt việc thu thuế, tăng giảm thuế khoá toàn quốc. Triều đình không
còn quyền can thiệp vào những quyết sách trên của Phủ đƣờng. Chỉ khi vào những
dịp đại khánh, nhà vua mới ban hành sắc chiếu đại xá thiên hạ tại triều đƣờng,
nhƣng là theo đề nghị từ phía Phủ chúa. Trong lĩnh vực quân sự, Phủ đƣờng nắm
quyền thống lĩnh quân đội toàn quốc, kiểm soát vấn đề binh chính và toàn quyền
quyết định những chính sách về quốc phòng. Tuy nhiên, mỗi khi quyết định những
vấn đề lớn nhƣ cử binh xuất chinh Phủ đƣờng phải làm tờ biểu tâu lên vua Lê để
nhà vua ban chiếu tại Triều đƣờng. Mỗi khi nhà nƣớc tiến hành ban phong chức
tƣớc, trƣớc tiên các quan dự lễ Khâm ban tại Triều đƣờng, nhận sắc phong và lạy tạ
vua, sau đó qua Phủ đƣờng làm lễ Phụng ban, lạy tạ chúa và nhận giấy khám hợp
(nếu có) trƣớc khi nhậm chức. Trong quan hệ bang giao, Triều đình tổ chức những

118
buổi đón tiếp sứ thần mang nghi thức quốc gia; trong khi Phủ đƣờng chỉ là nơi tiếp
đãi mang tính cách cá nhân và là nơi viếng thăm xã giao của các sứ thần ngoại quốc
đối với nhà chúa mà thôi [105,255-258].
Với cơ chế phân quyền nhƣ vậy, Phủ đƣờng thực sự là cơ quan nắm quyền
quản lý và tri phối mọi mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội đất nƣớc. Điều
này đã đƣợc chính vua Lê Lê Hiển Tông thừa nhận khi ông tâm sự riêng với quần
thần: “Từ ngày sáng nghiệp về sau thì quyền ở cả Hoàng gia. Từ ngày Trung hƣng
đến nay quyền về Vƣơng phủ. Câu ấy đã thành quen miệng đi rồi. Vả lại, cái thế đôi
bên Hoàng gia - Vƣơng phủ ỷ vào nhau để cùng còn mất đã thành cái thế bất dịch
rồi” [105,237]1.
3.2.2.2. Các văn thư phòng
Để giúp triển khai các công việc của triều đình và phủ đƣờng, chính quyền
Lê - Trịnh cùng lúc duy trì ba loại cơ quan văn phòng ở trung ƣơng: các văn thƣ
phòng giúp việc Hoàng đế gồm Thông chính ty, Bí thƣ giám và Hoàng môn sảnh;
các văn thƣ phòng giúp việc nhà chúa gồm Phủ liêu, Bí thƣ các; và các văn phòng
giúp việc chung cho cả vua và chúa là Hàn lâm viện, Đông các và Trung thƣ giám.
- Thông chính ty là cơ quan giữ nhiệm vụ liên lạc, chuyển đạt công văn,
mệnh lệnh của vua tới quan lại và dân chúng cùng các tấu chƣơng của quan, các
đơn từ, khiếu nại của dân tới nhà vua. Đứng đầu Thông chính ty là một viên Thông
chính sứ (hàm 4b) và một viên Thông chính phó (hàm 5b) giúp việc.
- Bí thư giám trông coi về thƣ viện của triều đình, đồng thời có nhiệm vụ sao
chép, lƣu trữ những công văn đệ đạt lên vua hoặc do vua ban hành. Đứng đầu Bí
thƣ giám có Bí thƣ giám Học sĩ (hàm 5b) và Bí thƣ giám Điển thƣ (hàm 6b) đứng
thứ hai.
- Hoàng môn sảnh là cơ quan chuyên việc giữ ấn và đóng ấn của nhà vua vào
các văn thƣ. Hoàng môn sảnh đƣợc giao cho một viên Hoàng môn Thị lang (hàm
3a) phụ trách.
- Phủ liêu là cơ quan thuộc quyền điều khiển trực tiếp của nhà chúa, có
nhiệm vụ trông coi mọi công việc bên Phủ đƣờng, từ việc nghi lễ đến thu và phát
các công văn, giấy tờ. Sắc dụ năm Cảnh Hƣng thứ 12 (1751) quy định chín nhiệm
vụ chủ yếu của Phủ liêu sau đây: 1- Uốn nắm lòng vua, 2- Chọn lựa quan lại, 3- Bàn
phép trị dân, 4- Thẩm xét binh cơ, 5- Chế định tài chính, 6- Định lệ kiện tụng, 7-
Hội kê đinh điền, 8- Làm đúng thƣởng phạt, 9- Giữ đúng pháp lệnh [3,577-583].

1
Dẫn lại từ Nguyễn Triệu Luật: Loạn kiêu binh, Sđd, tr.59.

119
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Quan Phủ liêu gồm các chức Tham tụng vá Bồi tụng, ngoài ra còn có các Nội sai,
Thị nội thƣ giúp việc. Các chức này đều do đích thân chúa Trịnh chọn lựa.
- Bí thư các là cơ quan có nhiệm vụ phê duyệt công văn, sổ sách và lƣu trữ
các hồ sơ bên phủ chúa, do hai quan Học sĩ đứng đầu và các viên Chính tự giúp
việc. Có thể thấy Bí thƣ các đƣợc thiết lập với tổ chức và nhiệm vụ giống nhƣ Bí
thƣ giám bên cung vua. Tuy nhiên, mãi cuối thời trung hƣng Bí thƣ các mới đƣợc
lập. Sử chép: “[Tháng 10 năm Nhâm Ngọ, Cảnh Hƣng năm thứ 23 (1762)]… Đặt
thƣ các. Cho Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Quý Đôn làm Học sĩ, để duyệt sách vở. Chọn
ngƣời ở hàng văn, có văn học là bọn các ông Ngô Thì Sĩ xung chức Chính tự”
[5,273].
- Hàn lâm viện thời Lê - Trịnh vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức và hoạt động
giống nhƣ triều Lê Sơ. Đây là cơ quan có nhiệm vụ phụng mệnh khởi thảo các bài
chế, cáo, thơ ca, văn thƣ, nhƣng có điều khác trƣớc là Hàn lâm viện thời kỳ này
phải thừa mệnh của cả vua và chúa. Có lẽ vì khối lƣợng công việc lớn nên các chức
quan Hàn lâm xuất hiện khá thƣờng xuyên trong sử triều Lê. Thống kê từ Đại Việt
sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên, Khâm định Việt sử thông giám cương mục…
và thông tin quan chức trong Các nhà khoa bảng Việt Nam chúng tôi có danh sách
của 139 vị quan Hàn lâm thời Lê - Trịnh, bao gồm: 24 Thừa chỉ, 11 Thị độc, 11 Thị
giảng, 11 Thị thƣ, 27 Đãi chế, 10 Thị chế, 11 Hiệu lý, 31 Hiệu thảo và 3 ngƣời khác
không rõ chức (xin xem chi tiết ở bảng 26 và 27, phần phụ lục). Nhƣ vậy, về tên gọi
các chức quan Hàn lâm thời Lê - Trịnh không có gì khác trƣớc. Chức Tả hữu thuyết
thƣ vẫn chỉ nêu trong quan chế chứ thực tế không đặt. Điểm khác biệt rõ nhất là
chính quyền Lê - Trịnh đặt chức Thừa chỉ một cách thƣờng xuyên để đứng đầu đảm
trách mọi việc chứ ít dùng các chức Thị độc, Thị giảng kiêm việc của Viện trƣởng.
Các quan Hàn lâm thời Trung hƣng có chức tƣớc và phẩm hàm cao. Ngoài công
việc ở Viện Hàn lâm, họ đồng thời còn kiêm nhiệm chức vụ của nhiều cơ quan
khác. Các chức Thừa chỉ, Thị độc thƣờng kiêm giữ hoặc sau đó sẽ làm Thƣợng thƣ,
Tả hữu thị lang các Bộ hoặc Tham tụng, Bồi tụng bên phủ chúa; các chức Thị
giảng, Thị thƣ, Đãi chế, Thị chế thƣờng kiêm Đô cấp sự trung sáu Khoa, Ngự sử
đài, Tri phiên hoặc Tham chính, Thừa chính các trấn; các chức Hiệu lý, Hiệu thảo
viện Hàn lâm thƣờng làm Đốc đồng, Đốc trấn ngoài các địa phƣơng.
- Đông các đƣợc lập ra dƣới triều Hồng Đức (1470-1497) và tiếp tục đƣợc
duy trì trong suốt thời Lê - Trịnh. Đây là cơ quan chuyên việc sửa chữa các bài chế
cáo, thơ, ca, văn thƣ của vua và chúa. Đồng thời, Đông các còn có nhiệm vụ khác là
trông coi việc bảo cử ở triều đình, sẵn sàng tâu trình lên vua hoặc khải với chúa về

120
những chức vị xét thấy chƣa hợp lý. Quan Đông các vẫn gồm các chức: Đại học sĩ
(hàm 4b), Học sĩ (hàm 5b) và Hiệu thƣ (hàm 6a). Các quan Đông các thời Lê -
Trịnh có vị trí khá quan trọng trong bộ máy chính quyền, bởi ngoài chức danh Đông
các họ còn thƣờng kiêm nhiệm thêm các chức khác nhƣ Thƣợng thƣ, Tả hữu thị
lang các Bộ, Tham tụng, Bồi tụng bên phủ liêu, hoặc chí ít cũng là Thừa chính,
Tham chính, Đốc đồng các trấn (xin xem bảng 28 và 29, phần phụ lục).
- Trung thư giám thời Trung hƣng vẫn giữ nguyên cơ cấu tổ chức và nhiệm
vụ nhƣ thời Lê Sơ từ sau năm 1471. Theo đó, Trung thƣ giám là cơ quan phụ trách
việc biên chép các tờ kim tiên, ngân tiên, chế, cáo, sắc và các bài biểu, giản, văn tế
ở điện miếu. Đứng đầu Trung thƣ giám là viên Trung thƣ giám Xá nhân (hàm 6a),
giúp việc có các chức Trung thƣ giám Điển thƣ (hàm 6b) chuyên khảo về kinh điển
và văn thƣ, Trung thƣ giám Chính tự (hàm 7a) lo việc hiệu đính lại văn bản các bài
văn thƣ [105,158-159].
Nhƣ vậy, so với thời Lê Sơ và Mạc, các văn thƣ phòng triều Trung hƣng
nhiều hơn về số lƣợng và có nhiều thay đổi trong việc phân công thực thi nhiệm vụ.
Ngoài Thông chính ty, Bí thƣ giám, Hoàng môn sảnh vẫn đƣợc giữ nguyên nhƣ
trƣớc về cơ cấu tổ chức tuy phần nào bị thu hẹp về phạm vi hoạt động; thì Hàn lâm
viện, Đông các, Trung thƣ giám đã tách ra làm nhiệm vụ trung gian giữa vua và
chúa, giữa triều đình và phủ đƣờng; bên cạnh đó chúa Trịnh còn lập thêm Phủ liêu
và Bí thƣ các với vai trò ngày càng đƣợc tăng cƣờng. Cùng với việc kiện toàn hệ
thống tổ chức, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan này cũng đƣợc định rõ.
Theo đó, đối với các loại văn bản do nhà vua ban hành nhƣ chỉ, chuẩn, dụ, cáo, chế
hay sắc dụ, sắc chỉ, chiếu chỉ, sách văn… sẽ bắt đầu từ Hàn lâm viện khởi thảo,
Đông các sửa chữa, Trung thƣ giám biên chép, Hoàng môn sảnh đóng dấu, chuyển
qua Bí thƣ giám sao lại để lƣu trữ, còn bản chính đƣợc đem tới Thông chính ty làm
thủ tục ban bố. Đối với những văn bản do chúa Trịnh ban ra nhƣ lệnh dụ, chỉ truyền
cũng đƣợc bắt đầu khởi thảo từ Hàn lâm viện, qua Đông các sửa chữa, Trung thƣ
giám biên chép, nhƣng Bí thƣ các làm nhiệm vụ sao chép để lƣu giữ, sau đó bản
chính đƣợc đƣa sang Phủ liêu để đóng dấu và ban hành (Quan Thị nội thƣ đóng dấu,
các viên Nội sai lo việc ban hành). Còn đối với những chỉ truyền ít quan trọng hơn,
chúa Trịnh trực tiếp giao cho Thị nội thƣ khởi thảo, chúa phê chuẩn rồi chuyển qua
Phủ liêu đóng dấu và ban hành mà không cần thông qua các cơ quan văn phòng bên
triều đình [105,161-162]. Một hệ thống các cơ quan văn phòng nhƣ thế chƣa từng
xuất hiện trƣớc đó ở nƣớc ta.

121
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
3.2.2.3. Lục bộ và Lục phiên
* Cơ cấu tổ chức của Lục bộ:
Trong suốt thời Trung hƣng, cơ cấu tổ chức của Lục bộ không có những thay
đổi lớn. Cơ cấu này đƣợc hoàn thiện dƣới thời Lê Thánh Tông (1460-1497) và tiếp
tục đƣợc duy trì đến hết thời Lê - Trịnh. Phụ trách mỗi Bộ vẫn là một ban điều hành
gồm một Thƣợng thƣ (hàm 2b) và hai viên Tả hữu thị lang (hàm 3b). Thống kê từ
nhiều nguồn sử liệu cho thấy các chức trƣởng quan Lục bộ đƣợc đặt thƣờng xuyên,
với số lƣợng lớn trong thời Trung hƣng (bảng dƣới). Để giải quyết những công việc
thƣờng nhật, mỗi Bộ đều có một cơ quan văn phòng trung ƣơng là Tƣ vụ sảnh. Tuỳ
theo khối lƣợng công việc mà mỗi Bộ có một hoặc một vài cơ quan chuyên môn
(Thanh lại ty) và các Nha môn thừa hành.
Bảng 26: Số lƣợng các chức quan Lục bộ thời Lê trung hƣng
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Đại Việt sử ký tục biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Bộ Không rõ
Lại Hộ Lễ Binh Hình Công Bộ Cộng
Chức quan
Thƣợng thƣ 20 15 17 26 29 28 12 147
Tả Thị lang 43 28 18 23 22 16 9 159
Hữu thị lang 23 12 22 17 18 28 8 128
? Thị lang 4 4
Cộng 86 55 57 66 69 72 33 438

Giúp việc cho Lục bộ có Lục tự, gồm: Đại lý tự, Thái thƣờng tự, Quang lộc
tự, Thái bộc tự, Hồng lô tự và Thƣợng bảo tự. Đứng đầu mỗi Tự là một viên Tự
khanh (hàm 5a), một viên Thiếu khanh (hàm 6a) và một viên Tự thừa (hàm 6a).
Thống kê từ chính sử cho thấy triều Lê - Trịnh đặt đủ cả sáu Tự, với 76 viên Tự
khanh qua các thời kỳ (xin xem bảng 36 và 37, phần phụ lục). Tuy nhiên, với sự
xuất hiện của Lục phiên và sự suy giảm quyền lực của Lục bộ, Lục tự thời Lê -
Trịnh không còn đóng vai trò quan trọng nhƣ trƣớc, các chức đặt ra chỉ là “hàm hƣ
không và nhàn tản”[3].
Cơ cấu tổ chức không thay đổi, nhƣng số nhân viên (quan và lại), đặc biệt là
số lại viên các Bộ có sự biến động lớn qua các thời kỳ1. Trƣớc năm 1751, số ngạch
nhân viên của sáu Bộ vẫn đƣợc giữ nguyên nhƣ thời Hồng Đức (1470-1497), bao
gồm các chức Thƣợng thƣ, Tả hữu thị lang, Lang trung, Viên ngoại lang, Tƣ vụ và
thuộc lại (Lại sử) cộng 648 ngƣời. Đến năm 1751, với việc chúa Trịnh cho ban hành
1
Tính riêng số thuộc viên (Lại sử), từ thời Hồng Đức đến trƣớc 1751 theo quy định gồm: bộ Lại
80, bộ Hộ 110, bộ Lễ 71, bộ Binh 128, bộ Hình 167, bộ Công 40; giai đoạn 1751-1762: bộ Lại 15,
bộ Hộ 37, bộ Lễ 7, bộ Binh 24, bộ Hình 35, bộ Công 20; giai đoạn 1763-1786 các Bộ đều không
có; giai đoạn 1787-1789: bộ Lại 60, bộ Hộ 80, bộ Lễ 60, bộ Binh 80, bộ Hình 60, bộ Công 60
[105,349-350].

122
“Thân huân đại thần văn võ bách quan đẳng”, số các quan lại thuộc sáu Bộ giảm
còn 182 ngƣời, trong đó đặc biệt giảm mạnh ở số các thuộc lại (Lại sử). Tiếp đến,
năm 1763, số thuộc lại các Bộ bị cắt giảm hoàn toàn, chỉ còn lại các chức trƣởng
quan đứng đầu bộ, đứng đầu các văn phòng thƣờng trực và các cơ quan chuyên môn
thuộc Bộ với vẻn vẹn 48 ngƣời (mỗi Bộ 8 ngƣời). Chỉ đến khi Lê Chiêu Thống lên
nắm quyền, Phủ đƣờng lúc này đã bị bãi bỏ thì số quan lại thuộc sáu Bộ mới cơ bản
đƣợc phục hồi nhƣ trƣớc. Sự biến động về số nhân viên các Bộ trong thời Lê - Trịnh
nhƣ đã trình bày trên đây đƣợc quy định bởi phạm vi hoạt động và quyền hạn của
Lục bộ tại những thời điểm tƣơng ứng (chúng tôi sẽ trở lại nội dung này trong phần
dƣới đây).
Bảng 27: Tổng số quan lại các Bộ thời Lê Trung hƣng qua các giai đoạn
(Theo Lê Kim Ngân, [105,349-350]
Bộ Số quan lại
Trước 1751 1751-1762 1763-1786 1787-1789
Lại 86 21 8 72
Hộ 120 47 8 94
Lễ 77 13 8 72
Binh 136 32 8 92
Hình 181 49 8 88
Công 48 20 8 71
Cộng 648 182 48 489

BiÓu ®å 5: Qu¸ tr×nh biÕn ®æi sè quan l¹i Lôc bé thêi Lª Trung h-ng

Thêi gian

1787-1789

1763-1786

1751-1762

Tr-íc 1751 Sè quan l¹i


(ng-êi)

0 50 100 150 200

L¹i Hé LÔ
Binh H×nh C«ng

123
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
* Cơ cấu tổ chức của Lục phiên:

Lục phiên là cơ quan thừa hành công vụ quan trọng nhất của Phủ đƣờng thời
Lê - Trịnh. Hồi đầu, chỉ ba Phiên đƣợc khởi lập là Hộ phiên, Binh phiên và Thuỷ sƣ
phiên1. Đến năm 1718, chúa Trịnh Cƣơng bỏ Thuỷ sƣ phiên, lập thêm bốn Phiên
mới là Lại phiên, Lễ phiên, Hình phiên, Công phiên cùng với Hộ phiên và Binh
phiên đặt ra từ trƣớc thành Lục phiên, tƣơng ứng với Lục bộ bên triều đình. Công
việc thuế khoá trƣớc đây do 46 hiệu phụ trách, nay chúa Trịnh cho gộp lại thành sáu
cung (Lục cung) trực thuộc Lục phiên là: Tả trung cung, Hữu trung cung, Đông
cung (gồm hai hiệu Đông giáp và Đông ất), Nam cung (gồm hai hiệu Nam giáp và
Nam ất), Đoài cung (Đoài giáp và Đoài ất) và Bắc cung (Bắc giáp và Bắc ất)
[4,155]. Cơ chế Lục phiên tồn tại đến năm 1787 thì bị bãi bỏ cùng với sự kết thúc
vƣơng quyền của chúa Trịnh.

Cũng năm 1718, cơ cấu tổ chức của Lục phiên chính thức đƣợc kiện toàn và
hầu nhƣ không mấy thay đổi trong suốt thời gian tồn tại của nó. Mỗi Phiên đều
đƣợc hợp thành bởi ba hệ thống cơ quan: 1- Hệ thống văn phòng trung ương gồm
Công điếm giữ nhiệm vụ hành chính, chuyên việc thu phát và lƣu trữ các công văn,
giấy tờ thuộc Phiên; Loát hiệu chuyên thu nhận những sổ sách về việc thu thuế do
các loát quan (quan thu thuế) đem nộp; Quan khố là kho thu trữ lúa của bản Phiên;
2- Hệ thống các hiệu đƣợc chia làm ba loại, gồm các hiệu phụ trách thu thuế theo
địa phƣơng, các hiệu phụ trách thu thuế theo sản vật và các hiệu chuyên thu nhận
thuế má và cấp phát bổng lộc; 3- Hệ thống các cơ quan chuyên trách đảm nhận các
công việc chuyên môn của Phiên [105,332-338].

Đứng đầu mỗi Phiên là quan Tri phiên (hàm 2b), có Phó tri phiên (Phó đô,
hàm 3b), Thiêm tri phiên (Thiêm đô, hàm 3b) giúp việc. Lúc đầu, với nhiệm vụ chủ
yếu là trông coi việc thu thuế do các hiệu đem nộp nên các chức trƣởng quan Lục
phiên không mấy quan trọng, nhà chúa thƣờng dùng 2 viên Tri phiên, 2 Phó tri và 2
Thiêm tri ở mỗi Phiên. Đến khi Trịnh Giang hiệu định quan chế (năm 1751), các
chức quan Lục phiên trở nên rất quan trọng. Phần lớn trong số họ là các văn thần

1
Về thời điểm chính xác Tam phiên đƣợc lập không thấy chép trong chính sử. Chỉ biết, Quốc triều
chiếu lệnh thiện chính khi chép chỉ truyền của chúa Trịnh ban hành năm Bính Ngọ, niên hiệu Cảnh
Trị thứ 4 (1666) về lệ định thải thay binh có nhắc đến chức trách của Binh phiên và Thuỷ sƣ phiên
[30,650]. Trƣớc đó, trong “Phúc Minh tự bi” lập năm Cảnh Trị 3 (1665) cũng cho biết ngƣời viết
văn bia là Vũ Liên, giữ chức Thuỷ sƣ Nội thị thƣ tả ở Thuỷ sƣ phiên [111,46]. Nhƣ vậy, Binh phiên
và Thuỷ sƣ phiên chắc chắn phải đƣợc lập trƣớc năm 1665.

124
xuất thân khoa mục. Riêng chức Tri phiên chỉ đặt 1 ngƣời chuyên trách và thƣờng
do Thƣợng thƣ các Bộ đảm nhiệm. Trợ giúp Tri phiên vẫn gồm 2 viên Phó tri phiên
và 2 Thiêm tri phiên nhƣ trƣớc. Chức Phó tri thƣờng đƣợc chọn trong số các viên
Thiêm tri, Tự khanh “ở chức đã lâu năm, làm việc xứng chức, và nghiêm nghị ngay
thẳng” để bổ nhiệm. Bên cạnh các chức trƣởng quan nắm quyền quản lý chung, mỗi
Phiên còn có bộ phận thừa hành công vụ là các Nội sai và Lại viên. Nội sai gồm các
chức Câu kê (hàm 7a), Phó câu kê (hàm 7b), Cai tƣ (hàm 8a), Cai hợp (hàm 8a) và
Thủ hợp (hàm 8b) với nhiệm vụ giải quyết các công việc thƣờng nhật của Phiên.
Lại viên gồm 60 ngƣời/phiên, với các chức Thƣ tả, Lệnh sử, Xá nhân và Tƣớng
thần lại (đều hàm 9a) chuyên việc ghi chép sổ sách, chuyển đạt công văn và thừa
hành các công việc khác do quan Phiên sai phái. Các chức Nội sai và Lại viên đều
do chúa Trịnh tuỳ ý bổ dụng, cốt chọn ngƣời có năng lực, trung thành với nhà chúa
chứ không có quy định thống nhất.
Sơ đồ 5: Tổ chức Lục phiên thời Lê - Trịnh1

TRI PHIÊN

PHÓ TRI THIÊM TRI


(PHÓ ĐÔ) (THIÊM ĐÔ)

CÁC HIỆU THU THUẾ CÁC HIỆU THU THUẾ


THEO ĐỊA PHƢƠNG THEO SẢN VẬT
(

CƠ QUAN TIẾP NHẬN THUẾ


VÀ CẤP PHÁT BỔNG LỘC

CƠ QUAN CHUYÊN MÔN

VĂN PHÒNG TRUNG ƢƠNG

1
Trong số sáu Phiên, chỉ trừ Hộ phiên không có cơ quan chuyên môn. Số lƣợng và tên gọi của các
hiệu, các cơ quan cụ thể của các Phiên cũng khác nhau (Xem Trần Thị Vinh, [183,26]).

125
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Nhƣ vậy, xét về nguồn gốc, Lục phiên là một sản phẩm đặc biệt và riêng
có của thời Lê - Trịnh. Tổ chức này chƣa từng xuất hiện trong lịch sử Việt Nam
trƣớc đó và cả về sau. Tuy nhiên, có thể nhận thấy Lục phiên đƣợc các chúa
Trịnh thiết lập và kiện toàn trong thế đối sánh với Lục bộ bên triều đình, vì thế
Lục phiên có thể coi là bản sao nguyên mẫu từ Lục bộ nếu xét về cơ cấu tổ chức.
Song dù vậy, phạm vi quyền hạn cũng nhƣ chức năng, nhiệm vụ của hai cơ quan
này lại luôn có sự biến đổi, đúng hơn là hoán đổi theo thời gian. Đó là xu hƣớng
tất yếu khi mà vai trò các vua Lê ngày bị thu hẹp nhƣờng chỗ cho sự gia tăng
quyền lực của các chúa Trịnh.

* Phạm vi quyền hạn và sự phân công nhiệm vụ giữa Lục bộ và Lục phiên

Có thể phân theo bốn giai đoạn sau:

- Giai đoạn thứ nhất (trước 1718) với sự xuất của Tam phiên là Hộ phiên,
Binh phiên và Thuỷ sƣ phiên về cơ bản quyền hạn của Lục bộ vẫn đƣợc bảo
toàn. Xét bản Chỉ dụ ban hành năm Đức Nguyên thứ 2 (1675) thì chức trách và
phạm vi quyền hạn của sáu Bộ vẫn còn rất lớn, cơ bản giống với thời Hồng Đức.
Cũng trong Chỉ dụ này, chức nhiệm của Tam phiên không hề đƣợc nhắc tới mặc
dù chúng đã xuất hiện từ trƣớc đó khá lâu. Tam phiên khi ấy chƣa đóng vai trò
thực sự quan trọng trong bộ máy chính quyền triều Lê mà có thể chỉ là một cơ
quan nhỏ bên phủ chúa, phục vụ quyền lợi riêng cho nhà chúa. Lý do khiến
Trịnh vƣơng ban đầu mới chỉ lập ba Phiên với quyền lực hạn chế là bởi lúc ấy uy
thế của Lê đế còn lớn, nhà chúa chƣa dám lộ liễu lấn quyền. Hộ phiên đƣợc lập
chủ yếu là để trông coi việc thu thuế trên phần đất đai mà chúa đƣợc phân cấp.
Với chức Đại nguyên soái thống lĩnh quân đội toàn quốc, chúa Trịnh lập Binh
phiên và Thuỷ sƣ phiên với mục đích tăng cƣờng khả năng kiểm soát và giám sát
đối với lực lƣợng quân bị, cũng nhƣ để trực tiếp đối phó với cuộc chiến chống
chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nhiệm vụ chủ yếu của Binh phiên và Thuỷ sƣ phiên
lúc này chỉ là kiểm kê quân số, tuyển và thải loại binh sĩ. Nhƣ vậy, với sự xuất
hiện của Tam phiên trƣớc năm 1718, chỉ có bộ Binh và phần nào là bộ Hộ bị
phân quyền, còn các Bộ khác quyền hạn không hề thay đổi (xin xem chi tiết ở
bảng 28).

126
- Giai đoạn thứ hai (1718-1751) đƣợc đánh dấu bởi sự kiện chúa Trịnh
cho lập đủ sáu Phiên và cùng với đó là sự gia tăng quyền hạn, phạm vi hoạt động
cơ quan này. Với quyền trực tiếp quản lý sáu Cung, giờ đây Lục phiên đảm nhận
trách nhiệm trông coi ruộng đất, nhân khẩu và thu tô thuế ở 7115/7727 xã thuộc
11/13 trấn cả nƣớc [111,49-50]. Công việc này trƣớc đây do bộ Hộ đặc trách,
nay bộ Hộ chỉ còn quyền thu tô thuế ở phủ Trung đô và 612 xã còn lại thuộc hai
trấn Thuận Hoá và Quảng Nam (hai trấn này dân cƣ thƣa thớt, trên thực tế lại
đang thuộc quyền cai quản của các chúa Nguyễn). Bộ Hộ cũng không còn nắm
quyền quản lý ngân sách quốc gia, mà giới hạn nhiệm vụ chỉ còn là ấn định các
khoản thu chi cho riêng nhà vua, đồng thời quản lý tài sản, vật dụng của hoàng
cung. Quyền quản lý việc thu chi cho Phủ chúa và toàn bộ nền tài chính quốc gia
nay thuộc cả về Hộ phiên. Đối với nhiệm vụ cấp phát thóc tiền, lƣơng bổng cho
quan lại trong ngoài và binh sĩ, bộ Hộ nay chỉ còn đóng vai trò trung gian, tiếp
nhận đề nghị từ phía các Bộ, chuyển đạt và nhận tiền từ các Phiên tƣơng ứng rồi
chuyển lại cho Bộ theo yêu cầu.

Trong lĩnh vực quân sự, bộ Binh chỉ nắm quyền ấn định những nguyên tắc
chung về binh nhung, tổ chức quân cấm vệ, trông coi xe ngựa, nghi trƣợng, khí
giới, việc biên cảnh…; công đồng bàn bạc cùng Binh phiên trong các vấn đề về
tuyển bổ binh lính, khám sức khoẻ tân binh. Trong khi đó, Hộ phiên ngoài trách
nhiệm tham bàn cùng bộ Binh để tuyển chọn binh lính, bổ dụng các chức còn
nắm quyền kiểm kê quân số (cả bộ binh và thuỷ binh), đặc biệt là quản lý toàn
bộ việc chi tiêu của quân đội toàn quốc.

Trong lĩnh vực hình án, mặc dù bộ Hình vẫn giữ đƣợc những chức nhiệm
chính của mình, nhƣng đã bị Lục phiên can thiệp thông qua việc nắm đặc quyền
xét xử tất cả những vụ án liên quan đến vấn đề thuế khoá trên địa bàn 11 trấn do
Lục cung quản lý. Sự can thiệp này của Lục phiên cũng không nằm ngoài mục
đích tăng cƣờng khả năng kiểm soát nền kinh tế, tài chính của Phủ chúa.

Với những Bộ còn lại (Lại, Lễ, Công), tuy Lục phiên không can thiệp
trực tiếp vào chức trách chuyên môn, nhƣng lại kiểm soát và tri phối tới các Bộ
này thông qua đặc quyền cấp phát kinh phí, lƣơng bổng, phẩm vật.

127
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Nhƣ vậy, trong giai đoạn thứ hai phạm vi hoạt động và quyền hạn của Lục
bộ đã bị sụt giảm đáng kể. Những Bộ phải phân quyền trực tiếp là bộ Hộ, bộ
Binh và bộ Hình, trong khi những Bộ khác cũng dần bị lệ thuộc vào Lục phiên.
Trọng tâm trong bƣớc lấn quyền thứ hai này đƣợc chúa Trịnh đặt vào lĩnh vực
kinh tế, tài chính, thông qua đó mà kiểm soát các quyền lực khác. Từ đó “chính
quyền trong nƣớc về hết Lục phiên, mà Lục tự, Lục bộ chỉ đặt cho đủ vị mà thôi”
[26,412].

- Giai đoạn thứ ba (1751-1762) mở đầu bằng sự kiện ngày 26 tháng 6 năm
1751 khi chúa Trịnh ép vua Lê phải ban hành đạo dụ Hiệu định quan chế chính
thức khẳng định quyền hạn của Lục phiên bên cạnh Lục bộ. Với đạo dụ này, Phủ
chúa từ quyền kiểm soát các lĩnh vực quân sự, kinh tế - tài chính đã tiến thêm
một bƣớc trong việc thâu tóm quyền hành trên phƣơng diện chuyên môn của các
Bộ. Những nhiệm vụ trƣớc đây vốn đƣợc coi là đặc trách của Lục bộ, thì nay Lục
bộ hoặc phải chia quyền hoặc chỉ còn hoạt động trong phạm vi cung vua mà thôi.
Lục phiên trên danh nghĩa tuy chỉ là thứ yếu, nhƣng lại nắm thực quyền trong
việc điều hành mọi hoạt động của đất nƣớc.

- Giai đoạn thứ tư (1763-1786) khẳng định sự xác lập hoàn toàn quyền
của Lục phiên về cả danh nghĩa và thực chất. Lúc này, Lục bộ đóng vai trò là
những cơ quan cố vấn danh dự cho Lục phiên, tồn tại bởi hƣ quyền. Trong khi
đó, mọi quyền hành trƣớc đây thuộc Lục bộ nay đều do Lục phiên nắm giữ. Cơ
cấu quyền lực này kéo dài 14 năm, đến 1787 thì kết thúc cùng sự sụp đổ của Phủ
chúa.

- Giai đoạn thứ năm (1787-1789) chứng kiến sự phục hồi quyền lực của
Lục bộ nhà Lê. Năm 1787, vua Lê Chiêu Thống ban chiếu rằng: “Quốc triều buổi
đầu theo đời xƣa đặt quan, đặt ra sáu Bộ, chia việc đốc suất thuộc hạ, giữ liêm
giữ phép, cùng noi theo nhau, mƣu lớn về trị bình, để lại làm phép tắc mãi mãi.
Từ thời Trung hƣng trở đi, quyền coi việc chia cho sáu Phiên, thể thống rối loạn
bởi quan hệ riêng, tích lâu thành hỏng, nên mới có ngày nay” và hạ lệnh “tham
chiếu quan chế cũ đời Hồng Đức mà định lại (sáu Bộ - TG)”[3,549]. Tuy nhiên,
quyền hạn đó cũng chỉ duy trì trong vòng chƣa đầy hai năm thì chấm dứt cùng
với sự tiêu vong của triều Lê.

128
Bảng 28: Sự suy giảm quyền lực của Lục bộ và quá trình lấn quyền của Lục phiên dƣới thời Lê - Trịnh
(Theo Phan Huy Chú [3] và Lê Kim Ngân [105])
1. Giai đoạn trƣớc 1718
Lại bộ Hộ bộ Lễ bộ Binh bộ Hình bộ Công bộ
- Các việc quan tƣớc, - Việc ruộng đất, nhân - Các việc về lễ nghi, - Việc binh nhung, - Việc luật lệnh, hình - Việc thành trì, cầu
chọn bổ, xét hạch, dân, kho tàng, lƣơng tế tự, lễ mừng, tiệc cấm vệ, xe ngựa, nghi pháp cống, đƣờng xá, xây
thăng giáng, điền bổ tiền, thu phát yến, việc học, việc thi trƣợng, khí giới - Xét lại ngục tụng, đắp, thợ thuyền,
chức khuyết - Các việc về ruộng cử - Các việc về dân biên xử tội phạm nhân - Xây dựng, sửa chữa
- Ban cấp bổng lộc lộc, thuế má, muối, - Các chi tiết về mũ áo, giới, quân trấn giữ, - Việc cấm chế về núi
sắt ấn dấu, chƣơng tấu, bài các dịch trạm, các dân rừng, vƣờn tƣợc, sông,
biểu, việc đi sứ, tiếp sứ Man di hiểm hại đầm
- Các việc về thiên - Các việc khẩn cấp
văn, y, bốc, tăng đạo,
giáo phƣờng, đồng
văn, nhã nhạc
Hộ phiên Binh phiên
- Thu thuế tại những - Công đồng bàn bạc
đất đai thuộc quyền sở cùng bộ Binh trong
hữu của chúa Trịnh việc tuyển bổ, sa thải,
do vua Lê phong thay thế quân lính
- Kiểm kê quân số
thuộc quân bộ
Thuỷ sƣ phiên
- Kiểm kê quân số,
thay thế binh lính
thuộc quân thuỷ
2. Giai đoạn 1718 - 1751
Lại bộ Hộ bộ Lễ bộ Binh bộ Hình bộ Công bộ
- Giữ nguyên những - Trong coi ruộng đất, - Giữ nguyên những - ấn định những quy - Giữ nguyên những - Giữ nguyên những
nhiệm vụ nhƣ giai hộ khẩu và thu tô thuế nhiệm vụ nhƣ giai tắc chung về binh nhiệm vụ nhƣ giai nhiệm vụ nhƣ giai
đoạn trƣớc tại Trung đô và hai trấn đoạn trƣớc nhung, tổ chức quân đoạn trƣớc, ngoại trừ đoạn trƣớc
Thuận Hoá, Quảng Cấm vệ, trông coi xe việc tra vấn và xét xử
Nam ngựa, nghi trƣợng, khí những vụ kiện tụng
- Ấn định ngân khoản giới, việc biên cảnh cụ thể, chủ yếu liên

129
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
chi thu cho riêng nhà - Công đồng bàn bạc quan đến thuế khoá
vua cùng Binh phiên trong (nhƣ sẽ trong phần
- Quản lý tiền, vàng các vấn đề về tuyển Lục phiên dƣới đây)
bạc, vật dụng của vua bổ binh lính, khám
Lê chi dùng trong sức khoẻ tân binh
hoàng cung - Lập bảng kê về chi
- Làm trung gian nhận phí cho quân đội gửi
và cấp phát tiền giữa sang Binh phi xin cấp
các Phiên và các Bộ lại phát
cho các Bộ
Lại phiên Hộ phiên Lễ phiên Binh phiên Hình phiên Công phiên
- Trong coi ruộng đất, - Trong coi ruộng đất, - Trong coi ruộng đất, - Công đồng bàn bạc - Trong coi ruộng đất, - Trong coi ruộng đất,
hộ khẩu và thu tô thuế hộ khẩu và thu tô thuế hộ khẩu và thu tô thuế cùng Binh bộ trong hộ khẩu và thu tô hộ khẩu và thu tô thuế
tại trấn Nghệ An tại hai trấn Thanh Hoa tại hai trấn Hải Dƣơng các vấn đề về tuyển thuế tại hai trấn Sơn tại hai trấn Kinh Bắc
- Tra vấn những việc và An Quảng và Tuyên Quang bổ binh lính, khám Tây và Hƣng Hoá và Lạng Sơn
từ tụng về thuế khoá - Chuẩn chi và ƣớc - Tra vấn những vụ từ sức khoẻ tân binh - Tra vấn những vụ từ - Tra vấn những vụ từ
tại những sở thu thuế lƣợng khoản thu chi tụng liên quan đến: - Kiểm kê quân số cả tụng liên quan đến tụng liên quan đến:
thuộc Tả trung cung, cho Phủ liêu và toàn bộ việc tế tự, các vụ kiện bộ binh và thuỷ binh việc cƣớp bóc, tranh các xƣởng làm gỗ,
việc kê khai tiền thu công vụ quốc gia của dân thuộc Đông - Cấp phát kinh phí chấp tại các phƣờng, thuyền bè, những
đƣợc của các Hiệu - Quản lý toàn bộ tiền, cung, các vụ kiện liên xuất của bộ Binh chợ trong kinh thành; Tƣợng, Cục thuộc sáu
Thâu trƣng; những kẻ vàng bạc, tài sản của quan đến dân và quan - Trong coi ruộng đất, cùng bộ Hình xét xử Cung, việc điền lộc
mạo xƣng quan chức; nhà nƣớc Cai thâu thuộc vùng hộ khẩu và thu tô thuế những vụ kiện tụng của sứ thần, việc đê
việc thu tiền và các - Tra vẫn những vụ Hải Dƣơng, Tuyên tại hai trấn Sơn Nam liên quan đến việc điều, đƣờng xá, ruộng
viên chức quá lạm; tụng liên quan tới: Quang, việc kiện liên và Thái Nguyên không chịu đóng thuế đất công…
việc gom góp những những Sở thu thuế tại quan đến nhà chùa và - Tra vấn những vụ từ của dân chúng với
dân vùng Bố Chính, Hữu trung cung, dân dân chúng về đất đai tụng liên quan đến các quan thu thuế thuộc
Kỳ Hoa và Cao Bằng; chúng không chịu đóng việc: kêu ca của lãnh Đoài cung
việc kêu ca về những sƣu thuế, những kêu ca binh về khẩu phần
hà lạm của các sở thu của dân chúng về ruộng binh điền, tranh chấp
thuế đất, thuế khoá, quan lại của các quản cơ, tranh
nhũng lạm chấp đất ở, lạch ngòi ở
kinh kỳ, các phƣờng
Kinh kỳ bị Doanh,
Đội ức hiếp lấy tiền,

130
kiện tụng của quan
quản và binh lính,
tranh chấp, cƣớp bóc
trong quân lính
3. Giai đoạn 1751-1762
Lại bộ Hộ bộ Lễ bộ Binh bộ Hình bộ Công bộ
- Tuyển bổ, thăng - Thu thuế, cấp phát - Trông coi về các thể - Tham gia bàn bạc - Xét xử những án - Trông coi việc xây
giáng, khảo khoá, ruộng đất tại Trung đô thức lễ nghi, tế tự cùng Binh phiên trong kiện ngoài những khu dựng, tu sửa các công
phong quan tƣớc cho - ấn định các khoản trong toàn quốc; tổ vấn đề định ngạch vực thuộc Lục phiên trình thuộc bên triều
các quan bên Triều chi tiêu cho nhà vua chức các buổi tế bên tuyển bổ quân lính - Phúc thẩm những vụ đình và quốc gia
đình - Nhận tiền ở Phiên và Triều đình; tổ chức kiện do Hình phiên - Phúc thẩm những án
- Lĩnh tiền bên Lại phát lƣơng bổng cho đón tiếp, khoản đãi các tra vấn, xét xử thuộc kiện về thuế má, ruộng
phiên để cấp cho các một số quan lại bên sứ thần ngoại quốc khu vực Đoài cung đất thuộc Bắc cung
quan lại trong những Triều đình chính thức tại cung (Sơn Tây, Hƣng Hoá) (Lạng Sơn, Kinh Bắc)
ngày lê tiết (ngoại trừ vua do Công phiên xét xử
ba ngày Lại phiên đã - Hoạch định chƣơng
phát) trình học tập và thi cử,
- Phúc thẩm những vụ tổ chức các kỳ thi; đúc
án liên quan đến thuế những ấn tín thuộc bên
má trong phạm vi triều đình
thuộc Tả Trung cung - Cùng Lễ phiên quản
(Nghệ An) do Lại lý các nha môn sở
phiên xét trƣớc thuộc: Thái y viện, Tƣ
thiên giám, Tăng đạo,
nhã nhạc, đồng văn…
- Phúc thẩm lại những
vụ kiện tụng liên quan
đến thuế má thuộc
phạm vi Đông cung
do Lễ phiên xét xử
Lại phiên Hộ phiên Lễ phiên Binh phiên Hình phiên Công phiên
- Tuyển bổ, thăng - Phát hành tiền tệ - Tổ chức các buổi tế - Toàn quyền lo về - Những nhiệm vụ nhƣ - Trông coi việc xây
giáng, khảo khoá - Chuẩn chi ngân sách bên Phủ đƣờng; tổ các vấn đề binh dụng, giai đoạn 1751-1763; dựng, tu sửa các công
những chức bên Phủ quốc gia chức đón tiếp, khoản binh lƣơng và các vấn thêm việc thu tiền phạt, trình thuộc bên Phủ

131
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
chúa: Cai hợp, Thủ - Thu thuế những nơi đãi các sứ thần ngoại đề biên giới tiền chuộc tội từ các vụ chúa
hợp, Thƣ tá, Tƣớng thuộc quyền quốc khi họ đến Phủ - Kiểm kê quân số, án
thần lại… - Cấp phát lƣơng bổng chúa phân loại binh sĩ; hội
- Cấp tiền cho các cho quan lại, binh sĩ - Phụ tá Lễ bộ trong đồng cùng bộ Binh
quan trong ba ngày lễ công việc giáo dục và định kế hoạch tuyển
lớn: Tết Nguyên đán, khoa cử; đúc những ấn bổ binh lính
lễ Yết giao và lễ Diên tín thuộc bên Phủ chúa
Thọ - Cùng Lễ phiên quản
- Tra vấn và xét xử lý các nha môn sở
những vụ án liên quan thuộc: Thái y viện, Tƣ
đến thuế má trong thiên giám, Tăng đạo,
phạm vi thuộc Tả nhã nhạc, đồng văn…
Trung cung (Nghệ An) - Tra vấn và xét xử
những vụ kiện tụng
liên quan đến thuế má
thuộc phạm vi Đông
cung (Hải Dƣơng,
Tuyên Quang)
4. Giai đoạn 1763 - 1786
Lại bộ Hộ bộ Lễ bộ Binh bộ Hình bộ Công bộ
- Tƣ vấn cho Lại phiên - Tƣ vấn cho Hộ - Tƣ vấn cho Lễ phiên - Tƣ vấn cho Binh - Tƣ vấn cho Hình - Tƣ vấn cho Công
trong quá trình thực phiên trong quá trình trong quá trình thực phiên trong quá trình phiên trong quá trình phiên trong quá trình
hiện công việc thực hiện công việc hiện công việc thực hiện công việc thực hiện công việc thực hiện công việc
- Phúc thẩm lại những - Phúc thẩm lại những - Phúc thẩm lại những - Phúc thẩm lại những - Phúc thẩm lại những - Phúc thẩm lại những
vụ án do Lại phiên tra vụ án do Hộ phiên tra vụ án do Lễ phiên tra vụ án do Binh phiên vụ án do Hình phiên vụ án do Công phiên
xét xét xét tra xét tra xét tra xét
Lại phiên Hộ phiên Lễ bộ Binh bộ Hình bộ Công bộ
Những nhiệm vụ của Những nhiệm vụ của Những nhiệm vụ của Những nhiệm vụ của Những nhiệm vụ của Những nhiệm vụ của
bộ Lại trƣớc năm 1718 bộ Hộ trƣớc năm bộ Lễ trƣớc năm 1718 bộ Binh trƣớc năm bộ Hình trƣớc năm bộ Công trƣớc năm
1718 1718 1718 1718
5. Giai đoạn 1787-1789
Lại bộ Hộ bộ Lễ bộ Binh bộ Hình bộ Công bộ
Nhƣ năm 1675 Nhƣ năm 1675 Nhƣ năm 1675 Nhƣ năm 1675 Nhƣ năm 1675 Nhƣ năm 1675

132
3.2.2.4. Các cơ quan chuyên môn
Để thực hiện các công việc ngoài trách nhiệm của Lục bộ và Lục phiên,
triều Lê - Trịnh tiếp tục duy trì hoạt động của cơ quan chuyên môn gồm: Quốc tử
giám, Quốc sử viện, Tƣ thiên giám, Hà đê sứ và các sở về nông nghiệp… Bên
cạnh đó, noi theo quan chế thời Trần, triều Trung hƣng lập Tôn nhân phủ chuyên
việc khảo xét tài năng, phẩm hạnh của những ngƣời trong tôn thất để đƣa sang bộ
Lại chọn bổ và chuyên việc khám hỏi các vụ kiện trong hoàng gia [3,590]. Đứng
đầu Tôn nhân phủ là một viên Tôn nhân lệnh (hàm 3a), giúp việc có hai viên Tả
hữu Tôn chánh (đều hàm 3b), một viên Thủ lĩnh và một viên Kiểm hiệu (đều hàm
9a) [21,33].
3.2.3. Quân đội thời Lê - Trịnh
Triều Lê trung hƣng đƣợc xác lập và tồn tại trong hoàn cảnh lịch sử đầy
biến động: diệt trừ nhà Mạc để giành lại vƣơng quyền, chiến tranh chống chúa
Nguyễn ở Đàng Trong, lại luôn phải lo đối phó với các thế lực nổi dậy và khởi
nghĩa nông dân trong giai đoạn mạt kỳ. Chính vì thế, xây dựng và không ngừng
củng cố sức mạnh quân sự là một trong những chính sách quan trọng có ý nghĩa
sống còn của chính quyền nhà nƣớc.
Thời kỳ đầu, tổ chức quân đội đại thể vẫn giống nhƣ dƣới triều Lê Sơ. Quân
đƣợc chia làm năm phủ và vẫn do các chức Tả hữu Đô đốc đứng đầu. Tuy nhiên,
cấu trúc bên trong của Ngũ phủ quân đã có nhiều điểm khác trƣớc. Thống lĩnh
quân đội toàn quốc lúc này không còn là vua Lê, mà thuộc về chúa Trịnh. Năm
1664, Trịnh Tạc đặt quan Ngũ phủ với các chức Chƣởng phủ, Thự phủ đứng đầu
ban võ bên Phủ đƣờng để giúp nhà chúa trông coi toàn quân. Những chức vụ này
ban đầu thƣờng đƣợc trao cho các đại thần võ quan thân cận hoặc dạn dày thân
huân nhƣ: Thái phó Khê quận công Trịnh Trƣợng giữ chức Trung quân Đô đốc
phủ Tả đô đốc Chƣởng phủ sự; Lỵ quận công Trịnh Đống giữ chức Đông quân Đô
đốc phủ Tả đô đốc Chƣởng phủ sự; Thiếu uý Vân quận công Trịnh Kiền làm Tây
quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Thự phủ sự; Hào quận công Lê Thì Hiến giữ chức
Nam quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Thự phủ sự; Thiếu phó Điện quận công Trịnh Ốc
giữ chức Bắc quân Đô đốc phủ Tả đô đốc Thự phủ sự [26,308]. Từ thời Bảo Thái
(1720-1728) về sau, các chức đứng đầu Ngũ phủ quân thƣờng do các văn thần nắm
giữ nhƣ Quốc lão Đặng Đình Tƣớng làm Chƣởng phủ sự, Tham tụng Nguyễn
Công Cơ làm Thự phủ sự [3,564].

133
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bên cạnh năm phủ, chúa Trịnh còn cho lập quân dinh năm khuông là Trung
khuông, Tả khuông, Hữu khuông, Tiền khuông và Hậu khuông. Dƣới quân dinh lại
đƣợc chia thành các cơ, đội theo thứ bậc khác nhau. Lúc ấy, chỉ lính ở hai xứ
Thanh - Nghệ mới đƣợc bổ vào quân ngũ. Ngoài ra, cấm quân nhà Mạc thuộc bốn
vệ Hƣng Quốc, Chiêu Vũ, Cẩm Y và Kim Ngô sau khi đầu hàng cũng đƣợc cho
nhập vào quân ngũ [4,321].
Từ thời vua Lê Kính Tông (1600-1619) về sau, quân đội cả nƣớc đƣợc
phiên chế thành hai lực lƣợng chủ yếu là binh Túc vệ và Ngoại binh hay Nhất binh.
- Binh Túc vệ là lực lƣợng quân đội thƣờng trực ở Thăng Long, có nhiệm vụ
canh giữ Kinh thành và Phủ chúa. Riêng quân Túc vệ chầu trực bên Phủ chúa đƣợc
gọi là binh Thị hậu. Quân Túc vệ gồm những binh sĩ đƣợc tuyển chọn từ 3 phủ
thuộc Thanh Hoá (Thiệu Thiên, Hà Trung, Tĩnh Gia) và 12 huyện thuộc Nghệ An
(6 huyện thuộc phủ Đức Quang và 6 huyện thuộc 3 phủ Diễn Châu, Anh Đô, Hà
Hoa). Ba phủ ở Thanh Hoa từng là căn cứ vững chắc của họ Trịnh trong buổi đầu
Trung hƣng và là nơi cung cấp chủ yếu quân túc vệ cho Phủ chúa nên lính ở đây
đƣợc gọi là quân Tam phủ. Những binh sĩ thuộc vùng Thanh - Nghệ kể trên do có
công theo Trịnh chống Mạc từ đầu, sau đƣợc giữ lại túc trực tại Kinh thành, nhiều
lần có công theo nhà chúa Nam chinh nên rất đƣợc trọng dụng và đƣợc gọi là ưu
binh. Do đảm trách công việc đặc biệt nên ƣu binh đƣợc tuyển lựa kỹ càng, chủ
yếu dựa vào hình thể và sức khoẻ. Công việc tuyển đổi ƣu binh cũng đƣợc tiến
hành một cách thƣờng xuyên. Theo quy định năm Bảo Thái 5 (1724) thì cứ ba năm
nhà nƣớc tuyển binh đổi vào ngạch Thị hậu một lần. Tuy nhiên, nếu chƣa đến kỳ
mà xét thấy số binh thiếu nhiều thì đợi đến mùa thu năm ấy sẽ chọn ngƣời để bổ
khuyết. Khi đến kỳ, quan Binh phiên xin chỉ, truyền cho các dinh, cơ, đội, thuyền
khai sổ và dân các làng xã vùng Thanh - Nghệ theo đó chọn ngƣời để cung tiến
thay thế [4,340-341; 32,77].
- Ngoại binh hay Nhất binh là lực lƣợng quân đội đƣợc tuyển chọn từ hai
phủ Trƣờng Yên, Thiên Quan và bốn trấn quanh kinh thành với nhiệm vụ phòng
giữ tại địa phƣơng và canh gác các trấn. Triều đình Lê - Trịnh không chủ trƣơng
duy trì lực lƣợng ngoại binh đông, mà chỉ lấy những ngƣời tình nguyện và những
đƣơng binh có chất lƣợng tốt, còn lại chỉ để tên trong sổ, khi có việc mới gọi đến,
xong việc lại cho về [4,321].
Tuy nhiên, đến năm 1721, do tình hình đất nƣớc có nhiều biến động: phong
trào nông dân khởi nghĩa bắt đầu nổ ra ở một số nơi, quân túc vệ ở kinh thành vốn
thiếu hụt về lực lƣợng lại ngày càng trở nên cao ngạo, chính sách tuyển mộ, thay

134
quân lính có nhiều bất cập… chúa Trịnh đã quy định lại về chế độ tuyển chọn và
sắp đặt quân ngũ. Theo quy định mới, tỷ lệ tuyển quân ở hai xứ Thanh - Nghệ và
bốn trấn đều thống nhất 5 đinh lấy 1 lính (trƣớc đây Thanh - Nghệ là 3 đinh lấy 1
lính). Trên cơ sở đó, năm 1722 chúa Trịnh gộp binh bốn trấn và vùng Thanh -
Nghệ vào chung một ngạch để lập ra 6 quân doanh mới là: Trung Dực, Trung Uy,
Trung Thắng, Trung Khuông, Trung Nhuệ và Trung Tiệp, mỗi quân doanh 800
ngƣời. Từ đó, quân ngũ thống nhất, “binh chế bốn phƣơng đều theo một đƣờng”,
tuy rằng giữa ƣu binh và nhất binh vẫn có những phân biệt nhất định.
Ngoài quân đội chính quy, từ cuối thập niên 30 đầu 40 của thế kỷ XVIII, để
đối phó với sự nổi dậy ngày càng mạnh mẽ của nông dân khắp nơi, chính quyền Lê
- Trịnh còn tổ chức lực lƣợng quân đội ở các địa phƣơng gọi là hương binh và phủ
binh. Năm 1739, chúa Trịnh đặt hƣơng binh ở bốn trấn, mỗi xã 10 đinh lấy 2, cho
tự sắm sửa vũ khí và đặt điếm canh. Theo địa phận, cứ 4-5 xã hoặc 6-7 xã kết
thành một đoàn, chọn một ngƣời chức dịch ở trấn hay nha lại ở huyện làm đoàn
trƣởng để đốc suất các xã việc canh phòng và tuyển chọn đinh nam. Năm 1741,
chúa Trịnh lại ra lệnh tuyển thêm hƣơng binh các trấn, mỗi xã 3 đinh lấy 1, ai có
công chiêu mộ dân đinh tuỳ theo số lƣợng đều đƣợc khen thƣởng. Năm 1742, chúa
Trịnh đặt ngạch phủ vệ, định lệ rằng mỗi phủ trong bốn trấn đặt thành một vệ,
chọn một viên văn và một viên võ làm Tuần phủ và Tuần thủ để quản lãnh vệ binh.
Mỗi vệ đều đặt một viên đội trƣởng, vệ quan có quyền chọn các binh viên và tổng
trƣởng trong các làng, kê danh sách nộp lên Binh phiên để viết lệnh ban cho làm
việc. Vệ binh thuộc quyền quan Trấn thủ. Đến năm 1748, vệ binh lại đƣợc phiên
chế thành các cơ đội, theo đó cứ 300 ngƣời làm thành một đội, 400 ngƣời làm
thành một cơ [4,325]. Việc sắp đặt và ban hành những quy chế về tổ chức, hoạt
động của lực lƣợng hƣơng binh và phủ binh thời Lê - Trịnh một mặt xuất phát từ
đỏi hỏi thực tế của tình hình chính trị - xã hội đƣơng thời, nhƣng mặt khác cũng
cho thấy một cố gắng mới của chính quyền trong việc tăng cƣờng lực lƣợng quốc
phòng.
Xét về cơ cấu chuyên môn, quân đội thời Lê - Trịnh gồm bộ binh, thuỷ
binh, kỵ binh, tƣợng binh và pháo binh, trong đó bộ binh là lực lƣợng chủ đạo. Bên
cạnh những loại vũ khí truyền thống nhƣ gƣơm, đao, giáo, mác, cung nỏ, bộ binh
thời kỳ này còn đƣợc trang bị những vũ khí tƣơng đối tối tân, nhƣ các loại súng lớn
và súng trƣờng nòng dài do một số quan xƣởng trong nƣớc chế tạo hoặc mua từ
phƣơng Tây. Để cung cấp cho kỵ binh và tƣợng binh, nhà nƣớc đã nuôi một số
lƣợng lớn ngựa và voi chiến. Theo S.Baron, một thƣơng nhân phƣơng Tây đƣơng

135
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
thời đến Đàng Ngoài thì chúa Trịnh có đến 8.000-10.000 ngựa và 300-400 con voi
chiến [38,665]. Kỵ binh chiếm số lƣợng không nhiều nhƣng rất thiện chiến. Họ
đƣợc trang bị các loại vũ khí nhƣ cung tên, giáo dài hoặc thƣơng [39,91]. Pháo
binh cũng là một lực lƣợng mạnh. W.Dampier, một thƣơng nhân Anh đến Đàng
Ngoài năm 1688 cho biết rằng trƣớc cung điện của chúa Trịnh là một thao trƣờng
lớn, nơi đó có các dãy nhà dùng để cất giữ những khẩu súng thần công và những
loại súng hạng nặng khác. Trong số này, có khoảng 50 đến 60 khẩu thuộc loại
Falcon, 2 hay 3 khẩu Culverin hoặc bán đại bác, còn lại là những khẩu súng cối cũ.
Đặc biệt gây chú ý đối với vị thƣơng nhân này là một khẩu thần công bằng đồng
cỡ lớn, nặng đến 8.000-9.000 pound (3.632 - 4.086kg) [39,89-90]. Tuy nhiên, loại
vũ khí cơ động nhất của các pháo binh Đàng Ngoài là súng bắn đạn cỡ nhỏ, với độ
dài nòng khoảng 2m. Loại súng này một ngƣời có thể mang vác nhƣng khi sử dụng
lại cần đến sự phối hợp của hai ngƣời. Súng này dùng bắn dọn đƣờng hoặc nã qua
sông để đánh lui quân địch [39,89-90].
Quân lực đáng chú ý nhất giai đoạn này là thuỷ binh. Theo A.Rhodes, thuỷ
binh Lê - Trịnh có khoảng 500-600 chiến thuyền [33,15]. Còn Phan Đỉnh Khuê,
tác giả sách An Nam ký du cho biết ngày thƣờng thuyền chiến neo đậu dọc sông
Nhị Hà dài tới 50-60 dặm [37,80]. Thuyền chiến Đàng Ngoài thƣờng đƣợc đóng
theo ba loại chủ yếu: loại nhỏ Tiểu Hậu, Hậu Nhị với 31 ngƣời mỗi thuyền; loại
vừa Trung hậu với 36 ngƣời mỗi thuyền; và loại lớn Ƣu Nhất, Trạch Nhất (mỗi
thuyền 72 ngƣời), Kiệu Nhất (mỗi thuyền 86 ngƣời) [4,328]. Loại lớn nhất là
thuyền đi biển tốc độ nhanh, dài tới 60 thƣớc, rộng 9 thƣớc, với 44 tay chèo
[32,130]. W.Dampier mô tả cụ thể hơn về chiến thuyền Đàng Ngoài, theo đó mỗi
thuyền dài khoảng 15-21m, rộng 3-3,6m; gồm 16 đến 24 tay chèo; chở đƣợc 60, 80
hoặc thậm chí 100 ngƣời [39,94-95]. Với lực lƣợng hùng hậu và rất thiện chiến,
thuỷ quân Đàng Ngoài khiến ngay cả ngƣời phƣơng Tây đƣơng thời cũng phải sợ
nể.
Về tổng quân số toàn quốc thời Lê - Trịnh, cho đến nay vẫn chƣa có số liệu
thống nhất. W.Dampier dẫn theo các tác giả phƣơng Tây khác cho rằng thời Lê -
Trịnh thƣờng có khoảng 70.000-80.000 binh sĩ trong diện hƣởng lƣơng [39,90].
Phan Huy Chú lại tỏ ý nghi ngờ với số quân thời Bảo Thái (1720-1729) chỉ có
65.700 ngƣời. Ông cho rằng khi mới trung hƣng quân số có 20 vạn; khi thu phục
Thăng Long chỉ riêng binh sĩ hai xứ Thanh - Nghệ đã là 12 vạn [4,333]. Vậy, về
sau quân số chắc chắn phải nhiều hơn.

136
Để xây dựng quân đội, chính quyền Lê - Trịnh chủ yếu thực hiện chế độ
tuyển lính nghĩa vụ, kết hợp với chế độ mộ quân tình nguyện và chế độ quân dự bị
(đăng ký sổ quân nhƣng khi chƣa cần vẫn ở quê cày ruộng). Đinh nam cả nƣớc, từ
18 tuổi trở lên, khoẻ mạnh đều có nghĩa vụ phải đăng ký sổ quân. Trên cơ sở đó,
nhà nƣớc tiến hành tuyển binh theo tỷ lệ khác nhau tuỳ từng khu vực. Tỷ lệ tuyển
chọn cũng tuỳ từng thời điểm cụ thể, song nhìn chung ở vùng Thanh - Nghệ là 3
đinh lấy 1, bốn nội trấn là 5 đinh lấy 1, các ngoại trấn thì tỷ lệ thấp hơn. Từ khoảng
những năm 1720 về sau, do đỏi hỏi của tình hình thực tế triều đình đã liên tiếp phải
tuyển thêm tân binh. Bên cạnh số quân nghĩa vụ ngày càng tăng, nhà nƣớc còn mộ
thêm quân tình nguyện, tuyển lại binh đã thải hồi ở bốn trấn, đồng thời còn lập
thêm nhiều hƣơng binh và phủ binh. Quân ngũ thời kỳ này tăng mạnh và do đó trở
thành gánh nặng cho ngân sách quốc gia. Những lệnh dụ phát ra từ Phủ chúa liên
tiếp sau đó về việc thải lính, giảm quân đã phần nào phản ánh thực tế trên.
Đi liền với việc tuyển chọn, khâu huấn luyện, đào tạo binh sĩ cũng đƣợc hết
sức chú ý. Thời kỳ này nhà nƣớc cho sửa sang và lập mới nhiều cơ sở võ bị dùng
làm nơi giảng dạy, luyện tập và thao diễn nhƣ Giảng võ điện, Giảng võ đƣờng,
Diễn vũ trƣờng, Tế kỳ đàn… Nhiều kỳ thi võ các cấp nhƣ Sở cử, Bác cử đƣợc tổ
chức với các môn về trận pháp và võ thuật (múa đao, đấu gƣơm, đánh vật, bắn
súng…). Học vị Tạo sĩ bên võ đƣợc công nhận nhƣ Tiến sĩ bên văn.
Để động viên, khích lệ tinh thần và trả công cho binh sĩ, triều Lê - Trịnh thi
hành chính sách đãi ngộ bằng nhiều hình thức khác nhau nhƣ lƣơng bổng, ruộng
đất, chế độ tử tuất…
Dƣới thời Trung hƣng, chúa Trịnh định lệ thống nhất trả lƣơng cho mọi
hạng binh sĩ bằng tiền chứ không cấp thóc nhƣ các thời kỳ trƣớc. Tuy nhiên, mức
lƣơng mà nhà nƣớc chi trả có sự phân biệt giữa các loại lính (ƣu binh hoặc nhất
binh), thậm chí cùng một loại lính nhƣng công tác ở các đơn vị khác nhau lại đƣợc
nhận các mức lƣơng khác nhau. Chế độ phụ lƣơng, phụ cấp, tiền thƣởng… theo đó
cũng có sự phân biệt.
Đối với hạng ƣu binh, chúa Trịnh trả lƣơng rất hậu và có sự phân định rõ
ràng. Ví dụ, cùng là binh Thị hậu (lính túc trực Phủ chúa) nhƣng nếu thuộc đội Nội
nhƣng hoặc thuyền Kiệu nhất thì mỗi năm đƣợc nhận 15 quan 4 tiền và 6 tiền cộng
thêm; trong khi nếu là lính các đội Ngũ kính, Bát thị, Thị bồng, Thị tiệp thì lƣơng
năm mỗi ngƣời là 8 quan 6 tiền tổng cộng, chỉ bằng xấp xỉ 1/2 so với mức lƣơng
của lính thuộc các đơn vị trên. Những ngƣời phụ trách các đội này (đội trƣởng)
đƣơng nhiên cũng đƣợc nhận lƣơng theo các mức độ khác nhau (xin xem bảng
dƣới).

137
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bảng 29: Mức lƣơng nhận theo năm của binh lính các đội Thị hậu
(Theo Phan Huy Chú [4,343])
Mức lƣơng nhận (ngƣời/năm) Đối tƣợng nhận
Tiền lƣơng Tiền thêm
20 quan - Đội trƣởng đội Nội nhƣng và thuyền Kiệu nhất
18 quan - Đội trƣởng các đội Tứ kiệu, Tứ nội, Lục kỵ, Trù tả, Nội
thuỷ
15 quan 4 tiền 6 tiền Lính đội Nội nhƣng và thuyền Kiệu nhất
13 quan 6 tiền Lính các đội Tứ kiệu, Tứ nội, Lục kỵ
13 quan - Lính các đội Trù tả, Nội thuỷ
12 quan 6 tiền Lính các đội Ngũ trạch, Nội hãn
11 quan 6 tiền Lính các đội Mã nhất, Mã tả, Mã hữu
11 quan - Lính các đội Trù hữu, Trù nhị
10 quan 6 tiền Lính các đội Tứ dực, Trạch Tả hữu, Ƣu Tả hữu, Thị
trạch, Thị ƣu
9 quan 6 tiền Lính các đội Trạch tiền hậu, Ƣu tiền hậu, Cựu nhất, Cựu
nhị, Cựu tam, Nội uy, Tứ trạch, Mã nhị, Nội mã, Cựu uy
9 quan - Lính các đội Cựu tứ, Nội lão
8 quan 6 tiền Lính các đội Ngũ kính, Bát thị, Thị bồng, Thị tiệp

Đến năm Bảo Thái thứ 9 (1728), chúa Trịnh định lệ tăng lƣơng cho các hạng
lính tuỳ mức khác nhau, trong đó ƣu binh các đội Nhƣng nhất, Kiệu nhất đƣợc
hƣởng mức cao nhất là thêm mỗi ngƣời 1 quan tiền quý/năm. Năm Vĩnh Hựu thứ 6
(1740), Trịnh Doanh lại quyết định tăng thêm khẩu phần cho binh các dinh cơ đội
thuyền thị hậu, mỗi suất 2 quan tiền quý [4,347].
Ngoài lƣơng chính, ƣu binh còn đƣợc nhận phụ lƣơng, tiền thƣởng và các
khoản phụ cấp khác. Theo quy định có từ trƣớc năm 1741 thì ƣu binh hai xứ Thanh -
Nghệ đƣợc quân cấp ruộng công theo khẩu phần quy định trong luật quân điền làm
phụ lƣơng. Tuy nhiên, vì quỹ ruộng công của các làng xã nhiều ít khác nhau, thậm
chí nhiều làng không có nên số ruộng đất đƣợc quân cấp của binh sĩ không đều nhau
và nhìn chung là ít. Vì thế, năm 1741 chúa Trịnh cho ban hành quy định mới: mỗi
suất ƣu binh đƣợc đồng loạt quân cấp 1 mẫu ruộng công; nếu xã nào không đủ ruộng
công, đất bãi và đầm công để quân cấp cho ƣu binh của xã mình thì cho phép đƣợc
lấy ruộng còn thừa của các xã khác hoặc huyện khác để quân cấp. Chính sách mới
này rõ ràng nhằm đem lại lợi ích cho đội ngũ ƣu binh vùng Thanh - Nghệ. Tuy
nhiên, ngay sau khi ban hành nó đã lập tức vấp phải sự phản đối từ phía dân chúng.
Luật quân điền thời Thái Tổ dƣờng nhƣ phần nào đƣợc áp dụng trở lại (lần này chỉ
với ƣu binh hai xứ Thanh - Nghệ), nhƣng một lần nữa nó đã không thành công.
Chƣa đầy hai năm sau (năm 1743), chúa Trịnh Doanh đã phải cho bãi bỏ lệnh cũ,
thu hồi ruộng quân cấp trả lại cho dân và hạ lệnh các xã bổ thu thuế các loại ruộng
công tƣ để quân phân cho ƣu binh trong xã làm phụ lƣơng [4,347-48].

138
So với ƣu binh, các hạng ngoại binh (hay nhất binh) cũng đƣợc triều đình
trọng đãi nhƣng với mức độ thấp hơn. Tiền lƣơng của các binh lính ngoại trấn
cũng đƣợc phân chia theo các định mức khác nhau, trong đó mức cao nhất thuộc
về binh ở huyện Kỳ Hoa (phủ Hà Hoa, trấn Nghệ An) là 13 quan 6 tiền 80
đồng/ngƣời/năm; trong khi nhất binh các trấn là 6 quan và ngoại binh đồn trú ở
Kinh đô, binh cũ lƣu lại ở các đồn trấn, trong các dinh và ở Kỳ Hoa chỉ là 2 quan 8
tiền 80 đồng/ngƣời/năm. Tất cả hạng ngoại binh trên đây không có tiền thêm hàng
năm (quy định năm 1728).
Bảng 30: Mức lƣơng nhận theo năm của ngoại binh các trấn
và các nha dịch thuộc sai theo quy định của Phủ chúa năm 1728
(Theo Phan Huy Chú, [4,343])
Mức lƣơng nhận (ngƣời/năm) Đối tƣợng nhận
Tiền lƣơng Tiền thêm
13 quan 6 tiền 80 đồng - Binh huyện Kỳ Hoa (Nghệ An)
12 quan - Quản tƣợng biệt sai ở các cơ, đội, thuyền
8 quan 4 tiền - Lƣơng y, Nha dịch của quan Phó đốc thị
7 quan 6 tiền 80 đồng - Binh Súng cục và binh Bố Chính
7 quan 2 tiền - Đoàn tƣợng, cứu tƣợng, quản tƣợng, ngƣời nuôi
voi, chăn voi
6 quan - Nhất binh các trấn
3 quan 9 tiền 60 đồng - Thị nội tả các Phiên và Đề lại
2 quan 8 tiền 80 đồng - Binh đồn trú ở Kinh đô; binh cũ lƣu lại ở các đồn
trấn, trong các dinh và ở Kỳ Hoa

Cũng năm 1728, trong khi ƣu binh đƣợc nhận mức lƣơng tăng theo quy
định mới là 1 quan/ngƣời/năm thì ngoại binh chỉ đƣợc nhận từ 3 đến 6 tiền [4,347].

Bổ sung cho lƣơng chính, ngoại binh các trấn cũng đƣợc quân cấp ruộng đất
làm phụ lƣơng. Theo quy định đầu thời Trung hƣng, các binh sĩ và sĩ quan các đơn
vị ngoại binh đƣợc cấp ruộng theo các định mức khác nhau.
Bảng 31: Mức ruộng nhận của nhất binh các trấn theo quy định đầu thời Trung hƣng
(Theo Phan Huy Chú, [4,343])
Mức ruộng nhận Đối tƣợng nhận
10 mẫu Đô tri, Xá nhân thuộc quân Lực sĩ; Đội trƣởng các đội thuộc quân Chí
nguyện lực chiến
8 mẫu Đội phó các đội thuộc quân Chí nguyện lực chiến
6 mẫu Chỉ huy, Đồng tri, Thiêm sự thuộc quân Lực sĩ
5 mẫu Lính đội Bả dù thuộc quân Lực sĩ; Lính thuộc phủ Trƣờng Yên
4 mẫu 5 sào Lính đội Tả hữu xa thuộc quân Lực sĩ; Lính các đội thuộc quân Chí
nguyện lực chiến
4 mẫu Lính đội Khiên mã thuộc quân Lực sĩ
3 mẫu Lính Trí đội, Trụ đội và những ngƣời theo các dinh cơ đội thuộc quân Lực

139
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Đến năm Bảo Thái thứ 9 (1728), chúa Trịnh lại chuẩn định cấp công điền
cho binh lính bốn trấn và phủ Trƣờng Yên theo khẩu phần thống nhất nhƣng dựa
trên chất lƣợng các loại ruộng nhƣ sau: đất bãi và ruộng hạng nhất thì mỗi ngƣời 5
mẫu; ruộng hạng hai mỗi ngƣời 6 mẫu; còn ruộng hạng ba mỗi ngƣời 7 mẫu; chƣa
thành điền thì chƣa cấp. Năm 1743, chúa Trịnh Doanh lại quyết định cấp thêm cho
mỗi suất 1 mẫu ruộng công làm khẩu phần [4,346,348; 32,79].
Ngoài lƣơng và các khoản phụ cấp, chính sách đãi ngộ binh sĩ thời Lê -
Trịnh còn đƣợc thể hiện bằng chế độ tử tuất. Theo quy định thời Thần Tông ban
hành năm Thịnh Đức 3 (1655) thì cai đội, cai thuyền chết trận đƣợc gia tặng Tả
hiệu điểm, quân cấp 20 mẫu quan điền; chánh đội trƣởng và đội trƣởng gia tặng
Hữu hiệu điểm, cấp 15 mẫu quan điền; binh lính thì đƣợc cấp 5 mẫu quan điền và
cho con đƣợc miễn trừ việc quan, còn nếu chƣa có con thì cho anh em hay cháu
gọi bằng chú, bác ruột đƣợc hƣởng suất ấy. Đến năm Vĩnh Khánh thứ 4 (1732),
chúa Trịnh lại định lệ cấp tiền tuất cho gia đình các sĩ quan, binh sĩ tử trận. Theo
quy định này, tất cả các thuộc viên và binh lính thị hậu ăn lƣơng từ 10 quan trở lên
thì chánh đội trƣởng, phó chánh đội trƣởng mỗi suất đƣợc cấp 3 quan tiền quý, đội
trƣởng mỗi suất 2 quan 5 tiền quý, ƣu binh mỗi suất 2 quan tiền quý. Thuộc viên
và binh thị hậu, lƣơng từ 8 quan trở lên thì chánh đội trƣởng, phó tránh đội trƣởng
mỗi suất 2 quan 5 tiền quý, đội trƣởng mỗi suất 2 quan tiền quý, ƣu binh mỗi suất
1 quan 5 tiền quý. Còn đối với thuộc viên và ngoại binh thì chánh đội trƣởng, phó
chánh đội trƣởng mỗi suất 2 quan tiền quý, đội trƣởng 1 quan 5 tiền quý, binh lính
1 quan tiền quý. Sang năm Cảnh Hƣng thứ 5 (1744), nhà chúa lại chuẩn định rằng
các chức thuộc viên, tuỳ hiệu, tiện suất và quân nhân các sắc mà chết trận thì đƣợc
tặng chức một bậc. Ngoài ra, các thuộc viên, tuỳ hiệu chết trận thì cho phép chọn
một ngƣời con trai để nhận tƣớc bát phẩm, nếu có tài thì đƣợc bổ dụng, còn không
ở nhà; quân sĩ các hạng chết trận thì cho phép chọn một con trai nhận tƣớc cửu
phẩm. Nếu chết trận mà không có con trai thì thuộc viên, tuỳ hiệu đƣợc cấp 5 mẫu
quan điền, quân nhân các sắc đƣợc cấp 3 mẫu, giao cho cha mẹ hay vợ con trông
coi, nhƣng chỉ đƣợc hƣởng một đời. Khi quân nhân mới tử trận, viên quản binh
thuộc đơn vị đó phải có trách nhiệm cấp cho mỗi ngƣời 3 quan, giao cho cơ đội để
chôn cất và làm mộ chí; còn tiền gạo của quân nhân đó vẫn chia nhƣ trƣớc, cho vợ
con hay thân thuộc đƣợc truy lĩnh, cho đến khi tuyển đƣợc suất mới đến thay thế
thì thôi [4,349-50; 30,648].
Song song với chế độ đãi ngộ thoả đáng, chính quyền Lê - Trịnh cũng đặc
biệt coi trọng tính kỷ luật quân đội. Những điều răn về “cấm trốn tránh”, “cấm

140
nhũng tệ”, “cấm sơ suất”, “cấm kiêu lƣời”… đã nhiều lần đƣợc nhà nƣớc quy
thành điển chế và ban bố rộng rãi trong toàn quân. Ngoại trừ đám kiêu binh đƣợc
nuông chiều sinh thói ngạo mạn, nhìn chung binh sĩ thời Lê - Trịnh có tính kỷ luật
rất cao. Giáo sĩ A.De Rhodes đƣơng thời đến Đàng Ngoài cũng phải khen ngợi và
ông cho rằng tinh thần kỷ luật đó tốt hơn cả đội quân Kitô giáo [33,22].
Tóm lại, xuất phát từ đòi hỏi của thực tế đất nƣớc, chính quyền Lê - Trịnh
chủ chƣơng xây dựng và duy trì một lực lƣợng quân sự hùng hậu làm chỗ dựa
vững chắc cho sức mạnh của thể chế. Tính trọng võ và biệt đãi quân sĩ là một đặc
trƣng của thiết chế chính trị thời Trung hƣng. Song tuy nhiên, chính sách này cũng
có nhiều hạn chế và hậu quả mà nó để lại cho chính quyền nhà nƣớc và nhân dân là
khôn lƣờng.
3.2.4. Hệ thống các cơ quan giám sát và tư pháp
3.2.4.1. Các cơ quan giám sát
* Lục khoa:
Căn cứ vào nhiều nguồn sử cũ có thể biết chắc chắn rằng Lục khoa tiếp tục
đƣợc đặt đủ và thƣờng xuyên dƣới thời Lê - Trịnh. Đứng đầu mỗi Khoa vẫn là các
chức Đô cấp sự trung (hàm 7a) và Cấp sự trung (hàm 8a). Thống kê của chúng tôi
cho thấy có ít nhất 85 ngƣời giữ chức Đô cấp sự trung và 77 ngƣời giữ chức Cấp
sự trung dƣới thời Trung hƣng. Những chức vụ này đƣợc triều đình khá coi trọng.
Có đến 154/162 trƣờng hợp kể trên xuất thân Tiến sĩ (danh sách cụ thể ở xin bảng
38 và 39, phần phụ lục). Ngƣời giữ chức Đô cấp sự trung sáu Khoa thƣờng kiêm
chức Bồi tụng bên Phủ chúa.
Bảng 32: Số lƣợng các chức quan Lục khoa thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Đại Việt sử ký tục biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Khoa Chức quan
Đô cấp sự trung Cấp sự trung
Lại 17 8
Hộ 12 8
Lễ 4 11
Binh 8 2
Hình 15 2
Công 9 9
Không rõ Khoa 20 37
Cộng 85 77

Lục khoa là cơ quan chuyên trách giám sát hoạt động của sáu Bộ. Dƣới thời
Trung hƣng, với sự xuất hiện của Lục phiên và sự suy giảm quyền lực của Lục bộ,
vai trò của Lục khoa không còn nhƣ trƣớc. Năm 1674, khi chúa Trịnh định chức

141
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
trách trăm quan chỉ thấy hai Khoa đƣợc nhắc tới là Lại khoa và Hình khoa, trong
đó: “Lại khoa có nhiệm vụ trả lại, bác đi, nhƣ thấy Lại bộ bổ dụng ngƣời vô tài thì
bác bỏ mà trả lại. Hình khoa có nhiệm vụ trả lại bác đi, nhƣ thấy Hình bộ xử đoán
không công, cũng bác đi mà trả lại” [3,575]. Đến năm 1751, chúa Trịnh ban hành
lệnh dụ mới, chức vụ sáu Khoa phần nào đƣợc khôi phục. Lệnh dụ nêu rõ: “Gần
đây duy có Lại khoa duyệt lại các chức do Lại bộ bổ dụng, Hình khoa chuyển
giao các nha môn xét lục những án tội nhẹ, Lễ khoa phụng mệnh ban quan lịch,
Công khoa thì ban xuân ngƣu, còn Hộ khoa, Binh khoa thì không chuyên giữ
chức vụ gì. Nay nên cho sáu Khoa đều chiếu lệ cũ, [hễ các Bộ] xét hỏi không
công bằng, đều đƣợc bác trả lại” [3,587].
Đến đây, Lục khoa trở thành công cụ, “tai mắt” của nhà chúa trong việc
thanh tra, giám sát hoạt động của Lục bộ bên triều đình.
* Ngự sử đài:
Dƣới thời Trung hƣng, cơ cấu tổ chức của Ngự sử đài đƣợc giữ nguyên nhƣ
triều Lê Thánh Tông. Ở trung ƣơng, quan Ngự sử vẫn gồm các chức Đô ngự sử
(hàm 3a), Phó đô ngự sử (hàm 4a), Thiêm đô ngự sử (hàm 5a) và Đề hình giám sát
ngự sử (hàm 7a). Giám sát ngự sử (hàm 7a) cùng với Hiến ty vẫn là cơ quan thanh
tra, giám sát ở các địa phƣơng (cấp trấn).
Các chức quan Ngự sử thời Lê - Trịnh vẫn giữ vai trò quan trọng nên đƣợc
tuyển lựa khá kỹ càng. Phần lớn trong số họ đều tiến thân bằng khoa mục (197/224
trƣờng hợp. Xem chi tiết ở bảng 40 và 41, phần phụ lục). Riêng chức Đô ngự sử
theo quy định năm Bảo Thái thứ 2 (1721) bắt buộc phải chọn trong số những
ngƣời đỗ Tiến sĩ, quan tiến triều thì không đƣợc dự [3,640-41]. Ngƣời giữ chức Đô
ngự sử thời Trung hƣng thƣờng kiêm chức Thƣợng thƣ Lục bộ hoặc Tham tụng,
Bồi tụng bên Phủ liêu. Đến năm 1772, để đảm bảo tính độc lập và khách quan của
Ngự sử đài khi thực thi nhiệm vụ chúa Trịnh đã đặt lệnh quy định quan chính phủ
không đƣợc kiêm giữ chức ngôn quan [5,350].
Bảng 33: Các chức quan Ngự sử đài thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Đại Việt sử ký tục biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Chức quan Số lƣợng
1 Đô ngự sử 35
2 Phó đô ngự sử 32
3 Thiêm đô ngự sử 41
4 Đề hình giám sát ngự sử 18
5 Giám sát ngự sử các trấn 98
Cộng 224

142
Năm 1674, khi định chức trách trăm quan chúa Trịnh có dụ rằng: “Ngự sử
là chức quan tai mắt [của vua], cốt để giữ giƣờng mối răn phong độ [của các quan].
Phàm tể tƣớng có lỗi, các ty trái phép, và thời chính có thiếu sót, đều cho đàn hặc
tâu bày. Việc kiện tụng mà đã trải qua các nha môn trấn ty, hiến ty, cai đạo, thì
mới đƣợc xét, khiến việc kiện cáo đến đấy là thôi. Chức Đề hình giám sát ngự sử
chuyên giữ các việc bàn cãi, thẩm đoán, xét hỏi, đàn hặc, xét sổ [tù], chiếu mà
thanh toán, lại cho đƣợc đàn hặc các quan, điều trần về chính sự, không đƣợc im
lặng. Giám sát ngự sử các đạo có trách nhiệm đàn hặc, nhƣ thấy thời chính có thiếu
sót, trăm quan có lỗi lầm, thì phải tâu bày, xét hặc. Còn việc trộm cƣớp kiện tụng
thì đã qua tay trấn thủ, lƣu thủ, hiến ty rồi mới đƣợc xét. Nếu là những việc ức hiếp
hà khắc, thì dù ở trong Kinh, cũng cho bắt xét”. [3,574-75].
Đến năm 1751, chúa Trịnh cho nhắc lại chức vụ của Ngự sử đài: “đàn hặc
các quan, nói bàn về chính sự hiện thời. Phàm các quan làm trái phép, chính sự
hiện thời có thiếu sót, đều đƣợc xét hặc trình bày, cùng là việc xét bàn về thành
tích của các nha môn đề lĩnh, phủ doãn, trấn thủ, lƣu thủ, thừa ty, và xét hỏi các vụ
kiện về ngƣời quyền quý ở Kinh ức hiếp, về ngƣời cai quản hà lạm” [3,585].
Nhƣ vậy, lệnh dụ năm 1751 về chức năng, nhiệm vụ của Ngự sử đài không
có điểm khác biệt so với quy định năm 1674, mà chỉ là nhắc lại và cụ thể hơn mà
thôi. Đối chiếu với Ngự sử đài thời Lê Sơ có thể nhận thấy mấy điểm sau về chức
trách của Ngự sử đài thời Lê - Trịnh:
1- Đàn hặc các quan vẫn là trách nhiệm quan trọng nhất của Ngự sử đài.
Quan chế thời Trung hƣng cho phép Ngự sử đài có quyền hặc tội mọi chức quan
và cơ quan trong bộ máy chính quyền, từ chức Tể tƣớng (Tham tụng) trở xuống.
2- Ở chức trách tham bàn chính sự Ngự sử đài có quyền dâng sớ hoặc tấu
lên vua hay chúa nói về những sai lầm, thiếu sót của chính sự nƣớc nhà; cũng nhƣ
đƣợc phép bày tỏ ý kiến trong mọi quyết định của vua và chúa.
3- Nhiệm vụ can gián vua (hoặc chúa) tuyệt đối không thấy đƣợc nhắc tới
trong các quy định thời Trung hƣng. Tuy nhiên, thông qua quyền đƣợc tham bàn
chính sự, nhiệm vụ này của Ngự sử đài phần nào vẫn đƣợc thực hiện.
4- Về quyền tham gia vào việc tuyển bổ, khảo xét quan lại của Ngự sử đài
thời Trung hƣng đã bị thu hẹp hơn trƣớc. Theo lệnh dụ năm 1751, Ngự sử đài chỉ
đƣợc tham dự vào việc xét bàn thành tích, quyết định thăng giáng những quan lại
thuộc các nha môn Đề lĩnh, Phủ doãn, Trấn thủ, Lƣu thủ và Thừa ty.

143
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
5- Xét xử các án là một nhiệm vụ quan trọng khác mà Ngự sử đài đƣợc chúa
Trịnh trao cho. Dƣới thời Trung hƣng, Ngự sử đài là cơ quan phúc thẩm cao nhất,
có quyền xét xử mọi án kiện, án ngờ trong Kinh và từ các địa phƣơng gửi về (rất ít
trƣờng hợp phải chung thẩm ở Phủ đƣờng).
Để đảm bảo cho các quan Ngự sử thực hiện nhiệm vụ một cách công tâm,
chúa Trịnh cho phép họ khi muốn đàn hặc, củ soát ai hoặc điều gì có thể trình bày
ý kiến của mình vào phong bì, dán kín rồi khải lên chúa [5,238]. Đến năm 1759,
nhà chúa lại ban chỉ chuẩn: “Từ nay ngày bàn việc, cho quan Ngự sử vào hầu, có
điều gì chƣa thoả đáng cho biện luận ngay tại triều đƣờng. Việc này cho lấy làm lệ
thƣờng lâu dài” [5,263].
Với quyền hạn và chức trách đƣợc trao, Ngự sử đài vẫn giữ vai trò hết sức
quan trọng trong tổ chức chính quyền thời Lê - Trịnh. Có điều khác trƣớc là cơ
quan này thực sự đã trở thành “tai mắt” của Trịnh vƣơng trong việc giám sát toàn
bộ hoạt động của bộ máy.

3.2.4.2. Các cơ quan tư pháp


Nhƣ các giai đoạn trƣớc, các cấp xét xử ở địa phƣơng thời Trung hƣng cũng
đƣợc xây dựng dựa trên các đơn vị hành chính. Nói cách khác, cơ cấu hành chính -
tƣ pháp đƣợc kết hợp chặt chẽ với nhau. Ngƣời đứng đầu các đơn vị hành chính
cũng đồng thời là ngƣời có thẩm quyền xét xử các án. Các thẩm cấp theo trình tự
là: xã - huyện/châu - phủ - Thừa ty - Đô ty/Trấn ty - Hiến ty. Hiến ty là cơ quan
chuyên môn và có thẩm quyền xét xử cao nhất tại mỗi địa phƣơng.
Ở Trung ƣơng, các cơ quan chuyên việc hình án gồm:

- Lục phiên: Sau khi ra đời, Lục phiên dần thâu tóm mọi quyền hành của
Lục bộ, trong đó có cả quyền xét án của bộ Hình. Sáu Phiên đƣợc quyền chia nhau
thẩm tra các án kiện trên những địa bàn (cung) đã đƣợc phân định.

- Lục bộ: phúc thẩm lại những án do Lục phiên xét xử.

- Đại lý tự: là cơ quan chuyên xét những vụ trọng án. Dƣới thời Trung
hƣng, mặc dù vẫn tồn tại nhƣng vai trò của Đại lý rất mờ nhạt. Trong các luật,
lệnh, lệ ban hành thời kỳ này hầu nhƣ không nhắc đến chức trách của cơ quan này.

- Ngự sử đài: là cơ quan xét xử cao nhất, có quyền phúc thẩm mọi vụ án.
Đề hình giám sát ngự sử là chức chuyên việc hình án của Đài. Trực thuộc Ngự sử

144
đài Trung ƣơng còn có Giám sát ngự sử là chức quan chịu trách nhiệm cao nhất về
việc hình án ở các địa phƣơng.
- Chánh đường Phủ chúa: là cấp xét xử chung thẩm. Những vụ án ở Phủ
đƣờng do các quan Ngũ phủ, Phủ liêu công đồng xét xử. Để giúp giải quyết các vụ
án tồn đọng, năm 1696 Trịnh vƣơng còn lập thêm chức Thiêm sai, đóng vai trò
nhƣ các uỷ viên bổ sung bên cạnh Phủ liêu. Ngoài ra, năm 1748, chúa Trịnh còn
cho lập Tả hữu pháp ty do các quan Tham tụng và Ngự sử đứng đầu để tƣ vấn cho
nhà chúa trong các việc hình án.
3.2.4.3. Quá trình cải biến, hoàn thiện hệ thống pháp luật và các cơ quan
tư pháp
Trong suốt hai thế kỷ tồn tại chính quyền Lê - Trịnh chủ yếu vẫn dựa trên
bộ luật đã đƣợc biên soạn dƣới triều Lê Sơ (Luật Hồng Đức), nhƣng có những điều
chỉnh, bổ sung cho phù hợp với thực tế xã hội đƣơng thời.

Buổi đầu Trung hƣng, tầm ảnh hƣởng và tính phù hợp của luật pháp thời Lê
Sơ đối với xã hội còn rất lớn. Mặt khác, đây cũng là thời kỳ đất nƣớc trải qua
nhiều biến động do đó chính quyền không có điều kiện quan tâm nhiều đến luật
pháp. Thành tựu lập pháp giai đoạn này không mấy đáng kể. Từ sau cuộc nội chiến
Đàng Trong - Đàng Ngoài kết thúc, chính quyền Lê - Trịnh có điều kiện quan tâm
nhiều hơn đến mọi mặt của đời sống xã hội, Nho giáo đƣợc tăng cƣờng, luật pháp
đƣợc chú trọng. Bên cạnh đó, hệ quả tất yếu của thời hậu chiến là những bất cập
trong đời sống chính trị - xã hội: số vụ việc vi phạm pháp luật tăng nhanh; sự phát
triển mạnh mẽ của kinh tế tƣ nhân kéo theo những mắc mớ, tranh chấp, kiện cáo;
đội ngũ quan lại lợi dụng chức quyền đục khoét công quỹ, bóc lột, hà hiếp dân
chúng… Những lý do đó đặt ra yêu cầu bức thiết đối với chính phủ là cần phải
tăng cƣờng tính nghiêm minh và hoàn thiện hệ thống luật pháp.

Liên tiếp trong nhiều năm luật pháp đã đƣợc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện và
ban hành bởi những chiếu chỉ, sắc lệnh của nhà vua hoặc lệnh, chỉ truyền của chúa
Trịnh. Toàn bộ các điều luật, lệnh, lệ thời Lê Trung hƣng đã đƣợc tập hợp trong
bốn văn bản pháp luật quan trọng nhất là: Quốc triều hình luật (1428-17881), Lê
triều chiếu lệnh thiện chính (1619-1729), Lê triều hội điển (1645-1734) và Quốc
triều khám tụng điều lệ (1625-1777).

1
Khoảng thời gian các điều luật, lệnh, lệ đƣợc biên soạn và tập hợp.

145
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Nghiên cứu nội dung các văn bản pháp luật kể trên cho thấy chiếm phần lớn
trong đó là các điều khoản liên quan đến thủ tục, thẩm quyền và trình tự xét xử. Cụ
thể là có 217/722 điều trong Quốc triều hình luật, 40/182 điều trong Lê triều chiếu
lệnh thiện chính, 40 điều trong Lê triều hội điển (chủ yếu thuộc phần bộ Hình) và
đặc biệt Quốc triều khám tụng điều lệ đƣợc coi là bộ luật tố tụng hoàn chỉnh đầu
tiên trong hệ thống pháp luật Trung đại Việt Nam với 131/131 điều
[124,62,90,92,104]. Điều đó khẳng định, đóng góp nổi bật nhất trên lĩnh vực lập
pháp thời Lê - Trịnh là việc hoàn thiện thể thức tố tụng và cải tiến hệ thống xét xử.
Trƣớc hết, về thủ tục tố tụng. Các chƣơng Danh lệ, Vi chế, Bộ vong và
Đoán ngục trong Quốc triều hình luật định rõ thủ tục tố tụng của các cấp xét xử
gồm bốn bƣớc chủ yếu là: Thụ lý, thẩm vấn, xét xử và thi hành án. Các điều lệ bổ
sung về thi hành án và các điều khoản về ân xá, đại xá phạm nhân còn đƣợc quy
định trong một số văn bản pháp luật khác. Điều kiện đầu tiên để thụ lý các vụ kiện
cáo dân sự là phải có chứng cứ (văn khế, văn tự mua bán, chúc thƣ…), các án trộm
cƣớp phải có tang vật, cờ bạc phải có tang chứng, đánh nhau phải có thƣơng tích,
án mạng phải có nghiệm án, nhân chứng… Tuy nhiên, điều đặc biệt đáng lƣu ý ở
đây là trƣớc khi thụ lý hồ sơ tất cả các án đều đƣợc sơ bộ phân theo các loại vụ
việc. Trên cơ sở đó, cả ngƣời đi kiện và ngƣời xét kiện biết đƣợc thẩm quyền và
trình tự xét xử đối với từng loại án. Có những án phải lần lƣợt qua các cấp, nhƣng
cũng có án đƣợc phép trình thẳng lên cấp trên (sẽ nói rõ ở phần dƣới). Các chế tài
xử phạt cũng đƣợc áp dụng đối với từng loại án. Quốc triều khám tụng điều lệ
đƣợc coi là điển hình trong phân loại án bởi bản thân nó đƣợc xây dựng dựa trên
sáu loại vụ việc sau: 1- Lệ kiện tụng về nhân mạng (điều 66-73); 2- Lệ kiện tụng
về trộm cƣớp (điều 74-80); 3- Lệ kiện tụng về ruộng đất (điều 81-89); 4- Lệ kiện
tụng về ức hiếp, hà lạm, sai phái (điều 90-104); 5- Lệ kiện tụng về đấu ẩu (điều
105-111); 6- Lệ kiện tụng về lăng mạ, gian dâm, cƣới xin, tiền nợ, cờ bạc, mồ mả,
tạp tụng, điêu toa (điều 112-133). Ngoài ra, pháp luật tố tụng thời Lê - Trịnh còn
căn cứ vào mức độ giá trị tài sản liên quan đến vụ án để phân cấp thẩm quyền xét
xử và giới hạn tối đa cấp phúc thẩm, chung thẩm. Chỉ có những vụ việc có tài sản
lớn mới đƣợc phúc thẩm ở Ngự sử đài và chung thẩm tại Chánh đƣờng Phủ chúa
[124,145].
Về thời hạn xét xử cũng tuỳ theo mức độ nghiêm trọng và giá trị tài sản liên
quan đến vụ án. Theo đó, đối với những án trộm vặt ban ngày tang vật không quá 1
quan, tranh chấp của cải dƣới 3 quan, đánh nhau gây thƣơng nhẹ… thì thời gian
xét án không quá 20 ngày, ở Trấn ty thì cho hạn 1 tháng. Các vụ việc về hộ tịch,

146
hôn thú, đánh chửi, lăng mạ, gây thƣơng tích thì 2 tháng. Các án kiện về ruộng đất,
trộm cƣớp thì 3 tháng. Các vụ về án mạng là 4 tháng. Tất cả đều đƣợc tính bắt đầu
từ thời điểm bị cáo đến trình đơn. Quan xét án nếu để quá hạn đều bị nghiêm trị,
nếu để quá 1 tháng bị xử tội biếm, 3 tháng trở lên bị bãi chức [32,275].
Sau khi kết án, bên bị đơn ngoài trách nhiệm theo án phạt còn phải chịu
hoàn toàn phí tổn của vụ án. Tiền đó gọi đảm lễ, dùng làm chi phí cho quá trình
thụ án, điều tra, xét xử. Đối với tội danh giết ngƣời, kẻ bị kết án còn phải nộp tiền
án phí, tiền cung đốn cho quan lại xét án; đồng thời toàn bộ tài sản và ruộng đất sẽ
bị niêm phong dùng làm tiền đền mạng. Theo quy định năm 1660 thì tiền đền
mạng tuỳ thuộc vào địa vị xã hội của ngƣời bị hại. Nếu là quan nhất phẩm thì tiền
đền mạng là 1.500 quan, trong khi mạng của một ngƣời thƣờng dân phải đền là
150 quan [4,180,201].
Để nâng cao trách nhiệm của bên nguyên đơn, năm 1718 và 1719 chúa
Trịnh đã liên tiếp ban hai lệnh dụ quy định ngƣời đệ đơn phải cam đoan về những
điều viết trong đơn là sự thật. Đến năm 1729, một điều lệ bổ sung khác quy định
hình phạt đối với những ngƣời kiện sai sự thật (vu khống). Hình phạt cho tội danh
này là khá nặng. Theo đó nếu sự vu khống ở mức độ nghiêm trọng thì ngƣời kiện
bậy bị phạt từ 80 đến 100 quan tiền và bị đánh 80 trƣợng; ở mức độ nhẹ nhất bị
phạt 1 quan và đánh 10 trƣợng [4,189]. Ngoài ra, sau tất cả các vụ án bên thắng
kiện phải nộp lễ tạ cho công đƣờng xử kiện, việc kiện lớn thì 1 con lợn giá 1 quan
tiền quý và 1 vò rƣợu; việc kiện nhỏ thì 1 con lợn giá 5 tiền quý và 1 chĩnh rƣợu
[4,179].
Đối với đội ngũ pháp quan, nhà nƣớc cũng có những quy định hết sức cụ
thể về quyền lợi và trách nhiệm của từng chức. Sau mỗi phiên xét xử, các án quan
tuỳ theo phẩm cấp và theo tính chất của vụ án đều đƣợc nhận lễ đảm và lễ tạ theo
mức nhiều ít khác nhau, ngoài ra không đƣợc nhận bất cứ một khoản tiền nào khác
từ cả hai phía nguyên đơn và bị đơn. Ngƣợc lại, nếu các quan xét kiện không đúng
thì cũng tuỳ theo phẩm cấp và tính chất của vụ án mà phải chịu những hình thức
xử phạt tƣơng ứng. Theo quy định năm 1655 thì đối với những vụ án lớn nếu xử
sai các quan sẽ bị biếm 1 tƣ, bị phạt tiền theo các mức khác khau, từ 100 quan đối
với quan nhất phẩm cho đến 15 quan đối với quan bát cửu phẩm. Còn nếu là án
nhỏ mà xử kiện không đúng thì phạt xã trƣởng và quan phủ huyện 5 quan; Thừa ty,
Hiến ty, Đề lĩnh, Trấn thủ và Cai đạo 15 quan; Ngự sử đài 20 quan [4,181].

147
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Nhằm tăng cƣờng trách nhiệm và tính liên đới giữa các cấp xét xử, chính
quyền Lê - Trịnh còn trao quyền giám sát cho các cơ quan tƣ pháp đối với cấp
dƣới thuộc quyền. Sắc lệnh năm 1659 định rõ: “Xét xử các kiện mà huyện quan
làm không đúng thì cho phủ quan tra xét đúng thực, trình lên Thừa ty để theo đó
mà khải lên; Thừa ty không đúng thì cho Hiến ty xét khải lên; Hiến ty không đúng
thì cho Cai đạo xét khải lên; Cai đạo không đúng thì cho Ngự sử [đài] xét khải lên;
Ngự sử [đài] không đúng thì đƣa ra công đồng bàn xét. Những ngƣời bị xét khải
lên thì tuỳ nặng nhẹ mà xử: nhẹ thì xử phạt, nặng thì biếm bãi” [4,179].
Để nắm tình hình xét án trong cả nƣớc, năm 1666 chúa Trịnh định lệ loát
tụng. Theo đó, cứ vào khoảng tháng 10 hàng năm từ xã trƣởng đến Giám sát ngự
sử đều phải làm sổ kê khai (sổ loát) về tình hình xét án của mình/ cơ quan mình
trong năm qua để trình lên các cơ quan cấp trên chủ quản. Sổ loát phải trình bày
cặn kẽ các nội dung về số vụ án đã thụ lý, số vụ đã xét xử, số vụ xử hợp lý, số vụ
xử chƣa đúng, ngày tháng tra xét, xử đoán, lời kết án… Trình tự nộp sổ đƣợc quy
định: xã trƣởng nộp lên huyện quan, huyện quan nộp lên phủ quan, phủ quan nộp
lên Thừa ty, Thừa ty nộp lên Hiến ty, Hiến ty nộp lên Cai đạo, Cai đạo nộp lên
Ngự sử đài. Đến hạ tuần tháng 11, Ngự sử đài thu sổ nộp của các địa phƣơng, cộng
với báo cáo tổng hợp về tình hình xét án của nha môn mình rồi cùng khải lên Chúa
[4,181-182].
Cùng với việc hoàn thiện thể thức tố tụng, chính quyền Lê - trịnh còn đặc
biệt chú ý đến công tác cải tiến hệ thống xét xử.
Theo quy định đầu thời Trung hƣng thì những vụ kiện về hộ khẩu, hộ hôn,
ruộng đất, tạp tụng trƣớc hết cho báo án ở xã trƣởng; nếu tiếp tục khiếu kiện mới
trình lên xét xử ở các cấp trên. Những vụ kiện về nhân mạng thì cho cáo với chánh
tổng và xã trƣởng để khám nghiệm qua, sau mới trình lên quan phủ, huyện, Thừa,
Hiến. Đến thời Vĩnh Thịnh (1705-1819), chúa Trịnh mới định lệ “dừng việc xã
trƣởng khám tụng, chuẩn định quan cai đạo, Ngự sử tiến hành khám xét” [32,110].
Từ đó về sau cấp xã chủ yếu đóng vai hoà giải ở cơ sở, đồng thời phối hợp, hỗ trợ
với cấp trên trong việc điều tra, xét án, truy bắt tội nhân và thi hành án.

Các cơ quan xét án thời Trung hƣng đƣợc chia thành 3 hệ thống thẩm cấp:
Hệ thống thẩm cấp I là các huyện, châu, phủ. Trong đó, huyện/châu có
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án về hộ hôn, ruộng đất, tài sản, lăng mạ, đấu ẩu
và các vụ án về nhân mạng, nguyên do thù sát, dâm sát, ẩu sát. Cấp phủ ngoài

148
quyền phúc thẩm các án do huyện hoặc châu tuyên xử còn có thẩm quyền xét sơ
thẩm các vụ án trộm cƣớp (đạo tặc). Các vụ án do cấp phủ xét xử nếu tiếp tục còn
khiếu kiện sẽ đƣợc trình lên phúc thẩm tại Thừa ty.

Hệ thống thẩm cấp II: Thừa ty, Trấn ty, Hiến ty và Giám sát ngự sử. Thừa
ty có thẩm quyền xét xử phúc thẩm và giám đốc thẩm các vụ án về ruộng đất, dân
sự, đánh giết ngƣời do cấp huyện và phủ trình lên; đồng thời sơ thẩm xét xử các án
liên quan đến quan lại hành chính ở cấp huyện và phủ. Trấn ty (với các chức Trấn
thủ, Lƣu thủ, Đốc trấn) chủ yếu xét xử các án về bức hiếp, trộm cƣớp và giết ngƣời
hung ác. Ở trong Kinh, thẩm quyền này thuộc về quan Đề lĩnh. Hiến ty có quyền
phúc thẩm và giám đốc thẩm các bản án mà huyện, phủ, Thừa ty và Trấn ty đã
tuyên xử. Giám sát ngự sử (Cai đạo) ngoài chức năng củ soát quan lại còn đồng
thời đứng đầu hệ thống tƣ pháp ở địa phƣơng. Giám sát ngự sử có quyền xét lại
mọi bản án từ cấp huyện đến Hiến ty.

Hệ thống thẩm cấp III: Lục phiên, Lục bộ, Ngự sử đài, Chánh đƣờng phủ
chúa. Tất cả các cơ quan này đều có quyền xét xử những vụ án lớn, phúc thẩm,
giám đốc thẩm, tái thẩm và chung thẩm mọi vụ án trong kinh và ngoài các địa
phƣơng gửi về. Trong đó, Lục bộ (chủ yếu là bộ Hình) có quyền phúc thẩm các
bản án do Lục phiên (chủ yếu là Hình phiên) xét; Ngự sử đài là cơ quan phúc thẩm
cao nhất bên triều đình; Chánh đƣờng phủ chúa là cơ quan chung thẩm.

So sánh hệ thống tổ chức tƣ pháp thời Lê - Trịnh với các triều đại trƣớc có
thể nhận thấy mấy điểm biến đổi đáng lƣu ý sau: 1- Vai trò phán quan của xã
trƣởng dần bị hạn chế và chấm dứt vào năm 1717, huyện trở thành cấp xét xử cơ
sở. 2- Trong khi thẩm quyền của bộ Hình không còn nguyên vẹn, Đình uý ty bị bãi
bỏ, chức trách phúc khám của Đại lý tự hầu nhƣ không đƣợc nhắc tới trong các
luật, lệnh, thì Lục phiên (đặc biệt là Hình phiên) nổi lên là cơ quan tƣ pháp đóng
vai trò quan trọng. Bên cạnh đó, cả sáu Bộ đều tham gia vào công tác tƣ pháp -
điều trƣớc đó không hề thấy. 3- Ngự sử đài đƣợc nâng cao vai trò, trở thành cơ
quan phúc thẩm cao nhất bên triều đình. Thông qua Ngự sử đài, quyền tƣ pháp của
nhà vua ở mức độ nào đó vẫn đƣợc thực hiện. 4- Chúa Trịnh và Phủ đƣờng nắm
quyền tối cao trong xét xử hình án. Với những đặc trƣng đó, hệ thống tƣ pháp thời
Lê - Trịnh đƣợc coi là hoàn bị nhất và chƣa từng xuất hiện trƣớc đó trong lịch sử
Việt Nam. Có thể hình dung trình tự xét xử các loại án thời Trung hƣng theo sơ đồ
sau:

149
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Sơ đồ 7: Trình tự xét xử các loại án dƣới thời Trung hƣng
Quan hệ quản lý/ ngang hàng
Quan hệ (trình tự) xét án

Vua Chúa
Triều đình Phủ đƣờng

Các
Ngự sử đài
cấp

xét
Lục bộ Lục phiên
xử

Giám sát
ngự sử

Hiến ty Thừa ty Trấn ty

Phủ

Huyện/châu

Các
Ruộng đất, Trộm cƣớp,
loại Quyền quý dân sự, đấu Hành chính giết ngƣời
hiếp tróc ẩu, nhân quan chức hung ác, bức
án mạng hiếp

Bên cạnh những cố gắng trong việc hoàn thiện các định chế liên quan đến
luật tố tụng, chính quyền Lê - Trịnh còn khẳng định những bƣớc tiến lớn trong
việc ban hành các luật lệnh liên quan đến kinh tế. Chỉ riêng trên lĩnh vực thu thuế,
từ năm 1627 đến 1764 nhà nƣớc đã cho ban hành tất cả 15 lệnh dụ quy định bổ
sung, sửa đổi về biểu thuế nhằm làm cho việc thu thuế phù hợp hơn với thực tế.
Ngoài thuế nông nghiệp, đầu thế kỷ XVIII, hầu hết các ngành kinh doanh đều có
định mức nộp thuế, gọi chung là thuế chuyên lợi. Chính sách thuế của chính quyền

150
Lê - Trịnh nhìn chung đƣợc đánh giá là mềm dẻo và sát thực. Từ sau cuộc cải cách
kinh tế - tài chính của Trịnh Cƣơng, những luật lệnh về kinh tế xuất hiện thƣờng
xuyên hơn trong các văn bản pháp luật. Không phải ngẫu nhiên mà những quy
định liên quan đến bộ Hộ đƣợc đặt lên đầu tiên trong Lê triều Hội điển.
Nhƣ vậy, trên cơ sở kế thừa thành tựu lập pháp thời Lê Sơ, các nhà làm luật
triều Trung hƣng đã điều chỉnh, bổ sung và hoàn thiện hơn, chủ yếu là những điều
khoản liên quan đến thể thức tố tụng và quản lý kinh tế. Tuy nhiên, sự hoàn chỉnh
của hệ thống văn bản pháp luật vẫn là chƣa đủ để giúp chính quyền giữ vững kỷ
cƣơng phép nƣớc. Sự rối ren của xã hội Đàng Ngoài, đặc biệt là ở nửa sau thế kỷ
XVIII không phải xuất phát từ chỗ thiếu luật. Nguyên nhân nằm ở tính thiếu
nghiêm minh của bộ máy hành pháp và hệ thống tƣ pháp, mặt khác cũng phải nói
tới tính cố hữu hay mặt trái trong truyền thống ngƣời Việt là trọng lệ hơn trọng
luật. Khi phép nƣớc không đƣợc thực hiện nghiêm chỉnh, hạn chế ấy có điều kiện
trỗi dậy không thể kiểm soát.
3.2.5. Chế độ quan chức
3.2.5.1. Các chức quan thời Lê - Trịnh
Xây dựng đội ngũ quan lại phục vụ bộ máy chính quyền, triều Lê - Trịnh
chủ yếu duy trì các chức có từ trƣớc, nhƣng đồng thời cũng bãi bỏ nhiều vị trí
không cần thiết và lập thêm một số ngạch quan mới. Xét toàn diện, đội ngũ quan
chức thời kỳ này có xu hƣớng giản lƣợc tối đa. Sách Lê triều quan chế cho biết
tổng số quan lại văn võ trong kinh và ngoài trấn thời Trung hƣng gồm 4.883 ngƣời,
ít hơn 515 ngƣời so với đời Hồng Đức [21,65]. Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu
lục lại cung cấp một số lƣợng ít hơn rất nhiều. Ông cho biết, thời Trung hƣng rất
nhiều chức quan văn võ trong ngoài “đều giảm bới đi”, “có tên quan mà không có
nhiệm vụ”, “có nhiệm vụ mà không phải chức danh”, hoặc “chỉ là hƣ hàm để cho
chức dƣới thăng lên, không bổ dụng đủ số nhân viên”; tính tổng bên võ không quá
300, bên văn không quá 200 viên chức, “so với quan chế đời Hồng Đức chỉ độ một
phần mƣời” [6,121-122]. Tuy số liệu từ hai nguồn tài liệu trên có sự chênh lệnh
khá xa song đều phản ánh số lƣợng quan lại thời Lê - Trịnh ít hơn nhiều so với thời
Hồng Đức. Mặc dù số lƣợng các chức đƣợc tinh giảm, nhƣng với việc tiếp tục duy
trì và lập thêm nhiều phiên hiệu mới, lại với sự tồn tại của đông đảo những quan
lại hƣ hàm (có phẩm tƣớc, bổng lộc nhƣng không có nhiệm vụ) đã khiến tính cồng
kềnh, quan liêu của bộ máy chính quyền thời kỳ này không hề giảm bớt so với
trƣớc.

151
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Xuất phát từ đòi hỏi thực tế của tình hình chính trị, xã hội đất nƣớc, do phải
đƣơng đầu với những cuộc nội chiến diễn ra triền miên mà đội ngũ võ quan thời kỳ
này chiếm số lƣợng lớn và đóng vai trò quan trọng hơn so với văn quan. Trƣớc khi
cuộc nội chiến Trịnh - Nguyễn kết thúc, từ các chức trong Ngũ phủ đến ngƣời
đứng đầu các trấn đều do các võ quan cao cấp nắm giữ. Sau đó, những chức này
dần đƣợc nới rộng cho đội ngũ văn thần, song vẫn ở mức độ hạn chế. Trọng võ là
một đặc điểm nổi bật của bộ máy chính quyền thời Lê - Trịnh.
3.2.5.2. Chế độ tuyển chọn
Để tuyển chọn quan lại tham gia bộ máy chính quyền, thời Lê - Trịnh tiếp
tục sử dụng ba phƣơng thức chủ yếu là nhiệm tử, bảo cử và khoa cử.
Buổi đầu Trung hƣng, số công thần khai quốc, công thần trung hƣng chiếm
tỷ lệ khá đông, do đó đãi ngộ quan lại bao gồm việc tập ấm cho con cháu các quan
là một trong những chính sách quan trọng của nhà nƣớc. Các sắc lệnh, lệnh dụ về
chế độ nhiêu ấm cho con cháu các quan viên đƣợc triều Lê - Trịnh liên tục ban
hành vào các năm 1619, 1664, 1666, 1677 và 1722. Đứng trƣớc thực tế là số các
đối tƣợng đƣợc hƣởng chính sách của nhà nƣớc ngày càng lớn, chi phí vƣợt quá
khả năng của chính phủ. Thêm vào đó, chính sách bổ dụng của nhà nƣớc nhiều khi
không đƣợc thực hiện nghiêm túc, ban phong vô hạn độ, lại thêm sự mạo xƣng,
nhận bừa là con cháu đời xa của các công thần diễn ra một cách phổ biến. Do đó,
nội dung của các sắc lệnh trên đây là sự điều chỉnh theo hƣớng giảm dần về số đối
tƣợng và mức độ thụ hƣởng từ chế độ tập ấm. Ví nhƣ lệnh dụ năm 1664 và 1666
chuẩn định: công thần khai quốc từ Tam thái, Tam thiếu trở lên đời đời đƣợc công
thần tôn; công thần Trung hƣng từ Tả hữu đô đốc, Tả hữu thị lang trở lên đời đời
đƣợc quan viên tử; quan Nội giám (Thái giám) thì quan viên tử (con nuôi) đƣợc tối
đa 8 ngƣời, quan viên tôn (cháu nuôi) tối đa 7 ngƣời. Đến năm 1722, khi chế độ
đƣợc sửa lại thì chỉ công thần Trung hƣng do thế thứ còn gần nên con cháu đời đời
vẫn làm công thần tôn; còn công thần khai quốc thế thứ đã xa nên chỉ cho ngành
trƣởng đời đời đƣợc một ngƣời làm công thần tôn; các quan văn võ đƣợc phong
công thần thì cho con cháu tập ấm tối đa là 5 đời; các quan không thuộc hạng công
thần thì cho tối đa 3 đời làm quan viên tử, quan viên tôn; quan Nội giám chỉ đƣợc
con nuôi tối đa 3 ngƣời làm quan viên tử [3,635-638].
Về việc bảo cử các quan, năm Cảnh Trị thứ 8 (1670), chúa Trịnh ban lệnh
dụ chọn ngƣời “có học hạnh chính sự” để giữ các chức chánh, phó ở phủ huyện và
chức huấn đạo. Theo lệnh dụ này, quan nhị phẩm đƣợc quyền bảo cử 4 ngƣời,
quan tam phẩm đến ngũ phẩm mỗi viên cử 3 ngƣời, lục phẩm đến bát phẩm mỗi

152
viên cử 2 ngƣời, giao cho bộ Lại tuyển dụng. Nếu cử ngƣời xứng đáng thì đƣợc
khen thƣởng; còn nếu cử ngƣời không xứng, sớm phát giác và tâu bày thì đƣợc
miễn tội, cố ý giấu giếm thì cả ngƣời bảo cử và ngƣời đƣợc bảo cử đều phải tội
nhƣ nhau. Đến năm 1707, chúa Trịnh Căn lệnh cho quan hai ty Thừa, Hiến bảo cử
các quan phủ, huyện thuộc hạt mình; cho phép cả ngƣời bảo cử và ngƣời đƣợc bảo
cử đều đến Kinh để tra xét bổ dụng [3,690].
Nhằm đơn giản hoá và thống nhất về thể lệ bảo cử, năm 1722 chúa Trịnh
cho ban hành lệnh dụ quy định rằng: các quan văn võ từ tam phẩm trở lên do vua
hoặc chúa đặc chỉ; còn quan từ tứ phẩm trở xuống, đều do triều thần bảo cử. Trình
tự bảo cử đƣợc quy định là: Phủ liêu kê khai dâng xin, Giám sát 13 đạo và sáu
Khoa bàn trƣớc, Lại bộ tuyên bố, sáu Tự khanh bình luận một lần, Tả hữu thị lang
bình luận lần nữa, Ngự sử đài chiết trung, Thƣợng thƣ Lục bộ và các quan Ngũ
phủ quyết định cùng suy cử, sau khi vua y chuẩn thì khải lên chúa, đợi phong bì
chúa ban xuống giao cho Triều đƣờng theo lệ thi hành. Các quan Hàn lâm và Đông
các tuy không trực tiếp bảo cử, nhƣng xét thấy trƣờng hợp bảo cử chƣa hợp lý thì
có quyền làm khải dâng lên [3,690]. Sau đó, vào các năm 1741, 1742, 1743, 1748,
1763, chế độ bảo cử thời Trung hƣng tiếp tục đƣợc bổ sung và hoàn thiện.

Mặc dù việc học hành không còn thịnh đạt, các khoa thi cũng đƣợc tổ chức
thƣờng xuyên và đều đặn nhƣ trƣớc, nhƣng khoa cử vẫn là phƣơng thức tuyển
dụng quan lại chủ yếu dƣới thời Lê - Trịnh. Chỉ tính riêng các kỳ đại khoa, từ khoa
thi Chế khoa năm Giáp dần, niên hiệu Thuận Bình thứ 6 (1554) đến khoa thi Hội
năm Đinh Mùi, niên hiệu Chiêu Thống 1 (1787), triều Trung hƣng đã tổ chức tổng
cộng 73 kỳ thi, trong đó có 3 kỳ chế khoa (vào các năm 1554, 1565, 1577) và 70
khoa thi Hội; lấy đỗ 774 Tiến sĩ các loại [155]1.

Đi vào thống kê cụ thể cho thấy, 774 Tiến sĩ thời Trung hƣng phần lớn vẫn
là những ngƣời xuất thân từ vùng đồng bằng Bắc Bộ, trong đó các địa phƣơng
thuộc địa phận Hà Nội, Hà Tây, Hải Dƣơng, Bắc Ninh ngày nay chiếm tỷ lệ lớn
nhất. Việc Kinh đô Thăng Long trở thành một trong những trung tâm khoa bảng
lớn nhất cả nƣớc thời kỳ này có thể giải thích rằng, với vị trí là trung tâm văn hiến
lâu đời, trải qua nhiều triều đại nơi đây đã quy tụ nhân tài từ mọi miền đến học tập,

1
Không rõ căn cứ vào nguồn tƣ liệu nào tác giả Nguyễn Đức Nhuệ trong nghiên cứu của mình đã
cho rằng từ năm 1554 đến 1787 triều Lê - Trịnh đã tổ chức đƣợc 72 khoa thi, trong đó có 4 khoa
Chế khoa (vào các năm 1554, 1565, 1577, 1587) và 62 (?) khoa thi Hội, lấy đỗ 740 ngƣời (Chế
khoa lấy đỗ 30 ngƣời, thi Hội lấy đỗ 710 ngƣời) [113,34].

153
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
thi cử, ra làm quan và định cƣ lâu dài. Rất nhiều danh gia vọng tộc, những “làng
khoa bảng” đã trở nên rất nổi tiếng ở đất kinh kỳ giai đoạn này nhƣ các họ Phan,
Phạm, Nguyễn, Ngô… ở các làng Đông Ngạc (Từ Liêm), Yên Quyết (Thanh
Xuân), Phú Thị (Gia Lâm), Tả Thanh Oai (Thanh Trì)… Một điểm đáng lƣu ý
khác là số Tiến sĩ xuất thân từ các tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh ngày nay
đặc biệt tăng vọt so với trƣớc. Điều này đƣợc giải thích bởi trong thời Nam - Bắc
triều, số Tiến sĩ do nhà Lê tuyển chọn phần lớn xuất thân từ vùng Thanh - Nghệ.
Từ sau khi trung hƣng, vùng đất này tiếp tục có nhiều ngƣời đỗ đạt. Vậy có thể
nói, thế kỷ XVI-XVIII chính là giai đoạn mở đầu cho truyền thống khoa cử thịnh
đạt của vùng Thanh - Nghệ trong các thời kỳ sau.
Bảng 34: Quê quán những ngƣời đỗ Tiến sĩ thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam [155])
Khu vực Địa phƣơng Số ngƣời đỗ Tỷ lệ (%)
Trung du miền núi Bắc Bộ 3 0,39
- Thái Nguyên 1
- Phú Thọ 2
Đồng bằng Bắc bộ 575 74,29
- Vĩnh Phúc 17
- Hà Nội 151
- Hà Tây 94
- Bắc Ninh 90
- Bắc Giang 7
- Hƣng Yên 63
- Hải Dƣơng 92
- Hải Phòng 7
- Hà Nam 8
- Thái Bình 26
- Nam Định 15
- Ninh Bình 5
Trung bộ 196 25,32
- Thanh Hoá 107
- Nghệ An 40
- Hà Tĩnh 46
- Quảng Bình 2
- Thừa Thiên - Huế 1
Cộng 774 100,0

Những Tiến sĩ kể trên, ngoại trừ 18 trƣờng hợp không rõ thông tin (chiếm
2,32%), còn lại 756 ngƣời khác đều giữ các chức vụ khác nhau trong bộ máy chính
quyền. Trong số này, có 4 ngƣời giữ chức cao nhất là Thái phó, 1 ngƣời giữ chức
Đô đốc (đều hàm 1a); phần lớn là các chức quan hàm từ nhị phẩm đến thất phẩm
làm việc chủ yếu tại Lục bộ, Hàn lâm viện, Ngự sử đài, Lục khoa…; có 3 ngƣời
sau khi đỗ giữ chức Đốc học dƣới triều Tây Sơn và Nguyễn. Hiệu suất sử dụng
quan lại là các Tiến sĩ xuất thân dƣới thời Trung hƣng nhƣ vậy là rất cao.

154
Bảng 35: Chức phẩm cao nhất của các Tiến sĩ thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam [155])
STT Chức quan cao nhất Phẩm hàm Số ngƣời
1 - Thái phó 1a 4
- Đô đốc 1
2 - Thiếu bảo 2a 12
3 - Thƣợng thƣ 2b 56
- Tả hiệu điểm 1
- Thái tử Thiếu phó 1
4 - Ngự sử đài Đô ngự sử 3a 10
5 - Tả thị lang 3b 74
6 - Hữu thị lang 62
7 - (?) Thị lang 1
8 - Thừa chính sứ 21
9 - Tả dụ đức 1
10 - Hàn lâm viện Thừa chỉ 4a 17
11 - Ngự sử đài Phó đô ngự sử 7
12 - Đông các Đại học sĩ 4b 18
13 - Quốc tử giám Tế tửu 8
14 - Tham chính sứ 50
15 - Hàn lâm viện Thị độc 5a 9
16 - Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử 13
17 - Tự khanh sáu Tự 44
18 - Phụng Thiên Phủ doãn 5
19 - Chỉ huy Thiêm sự 1
20 - Hàn lâm viện Thị giảng 5b 6
21 - Đông các Học sĩ 6
22 - Quốc tử giám Tƣ nghiệp 3
23 - Hàn lâm viện Thị thƣ 6a 8
24 - Đông các Hiệu thƣ 19
25 - Hiến sát sứ các đạo/xứ 65
26 - Hàn lâm viện Đãi chế 6b 24
27 - Hàn lâm viện Thị chế 7
28 - Viên ngoại lang 1
29 - Hàn lâm viện Hiệu lý 7a 8
30 - Đề hình Giám sát ngự sử 15
31 - Giám sát Ngự sử các đạo/xứ 58
32 - Đô cấp sự trung sáu Khoa 39
33 - Hàn lâm viện Hiệu thảo 7b 24
34 - Tƣ huấn 8a 3
35 - Cấp sự trung sáu Khoa 42
36 - Tham tri chính sự Không rõ phẩm hàm 1
37 - Tri phiên 1
38 - Thiêm sai các phiên 3
39 - Đốc đồng 2
40 - Hiệp trấn 2
41 - Đốc học (triều Nguyễn và Tây 3
Sơn)
Cộng 756

155
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Số ngƣời BiÓu ®å 6: PhÈm hµm cña c¸c quan xuÊt th©n khoa b¶ng thêi
180
Lª Trung h-ng
169

160
144
140
124

120
100
100
87

80 70

60
45

40

20 12
5

0
NhÊt NhÞ Tam Tø Ngò Lôc ThÊt B¸t Kh«ng
Phẩm hàm
phÈm phÈm phÈm ph¶m phÈm phÈm phÈm phÈm râ

Bảng 36: Nơi làm việc của các quan xuất thân khoa bảng thời Lê Trung hƣng
(Theo Ngô Đức Thọ, [155])
Loại quan Cơ quan Số ngƣời Tỷ lệ (%)
Nội nhiệm 609 80,55
Tam Thái, Tam Thiếu 17
Lục bộ 194
Lục phiên 5
Hàn lâm viện 106
Đông các 43
Ngự sử đài 103
Lục tự 44
Lục khoa 81
Quốc tử giám 11
Phủ Phụng Thiên 5
Ngoại nhiệm 143 18,92
Xứ/trấn 143
Võ quan đại thần 4 0,53
Cộng 756 100,0

156
BiÓu ®å 7: N¬i lµm viÖc cña c¸c quan xuÊt th©n khoa b¶ng
thêi Lª Trung h-ng
4

143

609

Quan néi nhiÖm


Quan ngo¹i nhiÖm
Vâ quan

Bên cạnh các khoa thi Tiến sĩ, nhà nƣớc đôi khi mở các khoa Sĩ vọng (cũng
gọi là Hoành từ) và khoa Đông các. Khoa Sĩ vọng đƣợc giành cho ngƣời đã đỗ thi
Hƣơng, trúng tuyển bắt đầu đƣợc bổ chức Tri huyện, ngoài ra tuỳ theo tƣ cách đã
có mà có thể đƣợc bổ các chức Tự thừa, Tri huyện, Hiến phó hoặc Tham nghị. Còn
khoa Đông các đƣợc giành cho các triều thần từ hàm tứ phẩm trở xuống, ngƣời
trúng cách theo thứ tự đƣợc bổ các chức Đại học sĩ, Học sĩ và Hiệu thƣ.

Thời Trung hƣng, bắt đầu từ năm Bảo Thái thứ 5 (1724) nhà nƣớc còn đặt
khoa bác cử cho võ quan, lấy đỗ Tạo sĩ và Đồng tạo sĩ xuất thân, thể lệ nhƣ với
Tiến sĩ. Ngƣời đỗ đầu khoa bác cử đƣợc trao chức Võ uý, ngƣời nào đã đƣợc dự
triều ban thì chiếu theo phẩm trật đều đƣợc thăng một bậc [6,129].

Ngoài các phƣơng thức tuyển chọn quan lại truyền thống bằng nhiệm tử,
bảo cử và khoa cử, thời Trung hƣng còn phổ biến phƣơng thức dùng tiền hoặc thóc
để mua quan tƣớc. Việc mua bán quan chức đƣợc nhà nƣớc đặt thành lệ, quy định
biểu mức rõ ràng, nhiều lần sửa đổi (theo hƣớng tăng mức thu) và ban bố rộng rãi
khắp thiên hạ. Chẳng hạn lệnh dụ năm 1742 định rõ: ngƣời đã có chức phẩm Tri
huyện, Tri châu dâng 250 quan thì thăng các chức Tự thừa, Điện tiền, dâng 600
quan thì thăng các chức Tri phủ và Tri huyện ở nha nhiều việc, dâng 700 quan thì
thăng các chức Điển thƣ và Tri phủ ở nha ít việc, dâng 900 quan thì thăng Tri
huyện ở nha rất nhiều việc, dâng 1.100 quan thì thăng Tri phủ ở nha rất nhiều
việc…; còn những ngƣời chƣa có chức phẩm, nếu dâng 250 quan thì đƣợc nhận

157
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
các chức Huấn đạo, Phó sở, Tri sự, dâng 300 quan đƣợc chức Điền bạ, Tri bạ, Sở
sứ…, dâng 1.300 quan đƣợc chức Phủ quan ở nha môn nhiều việc, dâng 1.500
quan đƣợc chức Phủ quan ở nha môn rất nhiều việc… … [3,685]. Việc dùng tiền
mua quan tƣớc ngày càng trở nên phổ biến. Đây đƣợc coi là một trong những
nguyên nhân căn bản dẫn đến sự yếu kém và tha hoá của đội ngũ quan chức triều
Lê Trung hƣng.

3.2.5.3. Chế độ bổ dụng


Buổi đầu trung hƣng, bên cạnh số quan lại do nhà Lê đào tạo và tuyển chọn
trong thời Nam - Bắc triều, còn có không ít vốn là những quan lại cũ nhà Mạc theo
về. Chỉ tính riêng số quan chức xuất thân khoa bảng, theo thống kê của chúng tôi
đã có 87/484 (chiếm 17,98%) Tiến sĩ thời Mạc làm quan cho triều Lê. Sau khi quy
thuận, các viên chức này đƣợc chính quyền Lê - Trịnh bổ dụng căn cứ theo tài
năng, công lao và chức vụ cũ từng giữ dƣới triều Mạc. Nhiều ngƣời trong số họ
đƣợc trọng dụng, trao bổ nhiều chức vụ quan trọng nhƣ Thƣợng thƣ, Thị lang Lục
bộ, hay quan Hàn lâm, Đông các, Khoa, Đài ở trong Kinh; hoặc Thừa chính, Tham
chính, Hiến sát các xứ/trấn.
Bảng 37: Quan chức của những Tiến sĩ thời Mạc làm quan triều Lê
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam, [155])
TT Chức quan Số lƣợng
1 Thƣợng thƣ, Thị lang Lục bộ 10
2 Quan Hàn lâm 1
3 Quan Đông các 1
4 Quan Lục khoa 12
5 Ngự sử đài 13
6 Phụng Thiên Phủ doãn 1
7 Thừa chính sứ 6
8 Tham chính sứ 17
9 Hiến sát sứ 7
10 Tham tri 1
11 Không rõ chức 18
Cộng 87

Tuy nhiên, chính quyền Lê - Trịnh vẫn dè đặt trong việc sử dụng những
viên chức lƣu dung này. Trong số 87 nhân vật kể trên, 11 trƣờng hợp có thể thu
thập đầy đủ thông tin về chức tƣớc mà họ giữ dƣới triều Lê và cả triều Mạc trƣớc
đó. Qua đối chiếu cho thấy chỉ có 3 ngƣời đƣợc giữ các chức có phẩm hàm cao
hơn (thăng chức), 2 ngƣời giữ nguyên, trong khi 6 ngƣời khác giữ các chức có
phẩm hàm thấp hơn (giáng chức). Cụ thể là các trƣờng hợp sau:

158
Bảng 38: Chức phẩm của một số viên chức lƣu dung triều Lê Trung hƣng1
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam, [155 ])
TT Số Nhân vật TS Chức quan triều Phẩm Chức quan Phẩm Thăng/
hiệu khoa Mạc hàm triều Lê hàm giáng
1 1417 Hoàng Bồi 1568 Thừa chính sứ 3b Thị lang 3b 0
2 1420 Trịnh Quang Tán 1568 Thƣợng thƣ 2b Thừa chính 3b G
sứ
3 1427 Hoa Hữu Mô 1571 Đông các Đhs 4b Thừa chính 3b T
sứ
4 1433 Nguyễn CôngPhụ 1571 Thị lang 3b Tham chính 4b G
5 1437 Ngô Vĩ 1571 Thị lang 3b Tả thị lang 3b 0
6 1445 Trần Thúc Bảo 1574 Đoán sự 6a Cấp sự trung 8a G
7 1452 Nguyễn Ích 1574 Thị lang 3b Đề hình Gsns 7a G
Trạch
8 1454 Đặng Hài 1574 Hữu thị lang 3b Phủ doãn 5a G
9 1472 Nguyễn Diễn 1577 Hữu thị lang 3b Tham chính 4b G
10 1503 Phạm Đức Mậu 1583 Cấp sự trung 8a Giám sát ns 7a T
11 1510 Phạm MinhNghĩa 1586 Đề hình Gsns 7a Tham chính 4b T

Đối với đội ngũ quan lại do triều Lê đào tạo và tuyển chọn, nhà nƣớc có
những chính sách bổ dụng tuỳ theo từng loại đối tƣợng, thậm chí từng chức quan
riêng biệt. Những chính sách này chủ yếu đƣợc ban hành dƣới dạng các lệnh chỉ
của chúa. Chẳng hạn nhƣ các lệnh chỉ: năm 1671 và 1720 về bổ dụng con cháu các
công thần và quan viên; năm 1720 về tuyển bổ các chức phó và thuộc viên; năm
1721 về bổ dụng tứ trọng (4 tháng trọng) và thăng bổ những ngƣời đỗ khoa Sĩ
vọng; năm 1727 về bổ dụng những ngƣời chi phái tôn thất; năm 1742 định lệ Lại
bộ tuyển bổ quan lại; năm 1765 chuẩn định 7 điều về thể lệ bổ dụng… [3,682-683;
6,157].

Mặc dù sử dụng nhiều hình thức khác nhau để tuyển chọn, trong đó bao
gồm việc cho phép dùng tiền, thóc để mua quan tƣớc, nhƣng khi bổ dụng chính
quyền Lê - Trịnh nhìn chung vẫn rất chú trọng đến đƣờng xuất thân. Một số chức
vụ quan trọng, đặc biệt là các chức quan Hàn lâm, Đông các, Lục bộ, Lục tự, Lục
khoa, Ngự sử đài… phần lớn vẫn do các Nho thần nắm giữ; trong khi đó các chức
ở Lục phiên, Ngũ phủ lại không đặt trọng vấn đề khoa mục. Điều này cho thấy sự
thay đổi đáng kể trong tỷ lệ thành phần các quan lại tham gia bộ máy chính quyền
dƣới triều Trung hƣng.
1
Một số chữ viết tắt trong bảng:
- Số hiệu: theo thứ tự trong Các nhà khoa bảng Việt Nam
- Đhs: Đại học sĩ, Gsns: Giám sát ngự sử
- T: thăng chức, 0: giữ nguyên, G: giáng chức.

159
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bảng 39: Tỷ lệ quan chức xuất thân khoa bảng và không khoa bảng
trong một số cơ quan ở trung ƣơng dƣới triều Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Đại Việt sử kỳ tục biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Tỷ lệ Trong đó
TT Cơ quan Tổng số (%) Có khoa Tỷ lệ Không Tỷ lệ
quan chức bảng (%) khoa (%)
bảng
1 Hàn lâm viện 139 100 131 94,24 8 5,76
2 Đông các 71 100 61 85,91 10 14,09
3 Lục Bộ 438 100 373 85,16 65 14,84
4 Lục Tự 78 100 61 78,20 17 21,80
5 Phủ liêu 126 100 105 83,33 21 16,67
6 Lục Phiên 34 100 23 67,65 11 32,35
7 Lục Khoa 162 100 154 95,06 8 4,94
8 Ngự sử đài 224 100 197 87,95 27 12,05
9 Ngũ phủ 83 100 1 1,20 82 98,80
Cộng 1355 100 1106 81,62 249 18,38

Cùng với chính sách bổ dụng các chức, triều Lê Trung hƣng tiếp tục thực
hiện, đồng thời có sự điều chỉnh, bổ sung về chế độ khảo khoá. Tính từ năm 1631
đến 1726, chính quyền Lê - Trịnh đã cho ban hành tất cả 12 sắc lệnh liên quan đến
nội dung này. Theo đó, phép khảo khoá thời Trung hƣng bao gồm các nội dung
chủ yếu sau: 1- Đối tượng thực hiện phép khảo khoá đƣợc chia làm hai hạng là
quan và lại, trong đó hạng quan chia làm ba bậc: Thƣợng, trung, hạ nhƣ trƣớc, còn
hạng lại thời kỳ đầu chia làm hai bậc trung và hạ, đến năm 1689 lại chia làm bốn
bậc là liêm cần, lƣời biếng, bình thƣờng, tham quệt để khảo xét. 2- Thời hạn khảo
khoá đƣợc thay đổi tuỳ từng giai đoạn, “theo chính sách đƣơng thời rộng hay
ngặt”. Trƣớc năm 1680, nhà nƣớc định lệ mỗi năm khảo xét một lần vào dịp cuối
năm, năm 1680 đổi thành 3 năm một khoá, đến 1685 lại theo lệ 9 năm nhƣ thời
Hồng Đức, từ thời Vĩnh Thịnh (1705-1719), Bảo Thái (1720-1729) lại đổi về 3
năm một lần. 3- Tiêu chuẩn định xét các quan khi khảo khoá đƣợc quy định trong
các lệnh dụ năm 1690, 1715, 1719, nhƣng đầy đủ nhất là trong lệnh dụ năm 1726.
Theo lệnh dụ này, ngoài các tiêu chuẩn chung là trông coi việc binh dân đƣợc bằng
lòng hay kêu ca, chầu hầu đủ hay thiếu, công việc sai làm đƣợc thƣởng hay bị phạt
thì mỗi hạng/loại quan còn có những tiêu chuẩn khác nhau để định xét. Những
ngƣời thân thuộc của chúa thì tiền kho công đủ hay thiếu, nhiều hay ít; quan võ và
Thị nội giám thì căn cứ số binh cai quản ít hay nhiều, tiền kho công đủ hay thiếu,
khảo thi trận tốt hay không; quan văn thì lấy thành tích hàng năm xử kiện. Đây là
một nét mới và tiến bộ hơn so với trƣớc. 4- Định mức thưởng phạt: quan viên ba
lần khảo xét đều ở bậc thƣợng thì đƣợc thăng chức 2 bậc, hai lần ở bậc thƣợng,
một lần bậc trung thì thăng chức một bậc, đều thƣởng thêm 50 quan tiền; năm đầu
bậc thƣợng, năm thứ hai bậc trung, năm thứ ba bậc hạ thì đổi đến nơi ít việc; hai

160
năm bậc trung, một năm bậc hạ thì giáng chức một 1 bậc; trong ba năm xét công
đủ cả ba bậc thƣợng, trung, hạ thì cho giữ nguyên chức cũ [3,697-701].
Nhìn chung, phép khảo khoá tuy đƣợc duy trì khá thƣờng xuyên dƣới thời
Trung hƣng nhƣng nhiều khi nặng tính hình thức, hiệu quả thực tế mang lại không
đáng kể. Bình luận về phép khảo khoá thời Lê, Phan Huy Chú viết: “Phép khảo
khóa của nhà Lê rất là tinh mật, từ khi khai quốc thì rất rõ ở đời Hồng Đức, từ khi
Trung hƣng về sau thì rất nghiêm ở khoảng Chính Hòa, Vĩnh Thịnh… Từ đời
Long Đức, Vĩnh Hựu về sau, phép khảo khóa bỏ lỏng, đến đời Cảnh Hƣng tuy
thƣờng sửa sang lệ cũ, mà quan Đài trƣởng Hiến ty xem phép khảo khóa làm hƣ
văn, không có thực sự khen thƣởng ngƣời hiền tài, trị tội ngƣời trái phép. Các quan
dông dài ngày tháng, ngƣời hay kẻ dở lẫn lộn, việc chính trị không thể so với ngày
trƣớc đƣợc” [3,701].
Đi liền với chế độ khảo khoá là các quy định liên quan đến việc thăng
giáng, thuyên chuyển các chức. Để góp phần hiểu rõ hơn nội dung này, chúng tôi
xin tiếp tục trở lại những trƣờng hợp cụ thể đƣợc ghi chép trong phần Quan chức
chí (thời Trung hƣng) sách Lịch triều hiến chương loại chí và những nhân vật giữ
chức Thƣợng thƣ Lục bộ qua thống kê trong chính sử và Các nhà khoa bảng Việt
Nam.
Thống kê 76 nhân vật thời Trung hƣng có đầy đủ các thông tin về quan
chức (từ 2 chức trở lên) trong Lịch triều hiến chương loại chí cho thấy, trong
đƣờng hoạn lộ của mình họ đã trải qua rất nhiều chức vụ khác nhau, trung bình
mỗi ngƣời từng giữ hơn 6 chức, bao gồm những chức đƣợc thăng bổ, chức sung,
chức đổi và cả những chức bị giáng (chi tiết xin xem bảng 45, phần phụ lục).
Bảng 40: Đƣờng hoạn lộ của một số quan chức tiêu biểu triều Lê Trung hƣng1
(Thống kê từ Lịch triều hiến chương loại chí)
Số chức quan
Số nhân vật Số lần Số lần Số lần Số lần Số lần Trung bình
thăng sung đổi giáng khởi ngƣời/chức
bổ chức chức chức phục
(1) (2) (3) (4) (5)
76 352 19 63 20 18 6,2

Tìm hiểu đƣờng thăng giáng của 76 vị Thƣợng thƣ thời Trung hƣng (bao
gồm 59 vị xuất thân khoa bảng và 17 vị không khoa bảng) chúng tôi rút ra một số

1
Thăng bổ (1): nhận các chức mới có phẩm hàm cao hơn; Đổi chức (3): các chức có phẩm hàm
tƣơng đƣơng; Giáng chức (4): các chức có phẩm hàm thấp hơn; Số lần “sung” (2), “khởi phục”
(5) các chức đƣợc căn cứ theo ghi chép trong sử cũ.

161
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
nhận xét sau: 1- Tiếp tục có sự khác biệt lớn giữa đƣờng tiến thân của các quan
Thƣợng thƣ có và không khoa mục. Trƣớc khi giữ chức Thƣợng thƣ, phần lớn
những văn thần khoa mục đã trải qua các chức Tả hữu thị lang (ở cùng hoặc khác
Bộ), làm quan ở Ngự sử đài, Tham tụng, Bồi tụng bên Phủ chúa, hoặc Thừa chính,
Tham chính, Hiến sát các xứ hay võ quan các vệ sở. Sau khi nhậm chức Thƣợng
thƣ, họ kiêm nhiệm hoặc đƣợc/bị thăng/giáng, thuyên chuyển sang làm Thƣợng
thƣ, Tả hữu thị lang Bộ khác, làm quan Phủ liêu, Đông các, Ngự sử đài; không ít
ngƣời đổi sang chức võ hoặc ra ngoài trấn trị các địa phƣơng. Trong khi đó, xuất
phát điểm của những quan Thƣợng thƣ không khoa trƣờng thƣờng là những viên
chức cấp thấp trong các Bộ, Phủ liêu, Lục phiên hoặc là võ quan các vệ sở. Vì
công lao (chủ yếu là chiến công), họ đƣợc thăng lên đứng đầu các Bộ. Sau khi
nhậm chức, có thể do công việc chƣa phù hợp, cũng có thể vì năng lực không đủ
mà nhiều lần họ phải thuyên chuyển hoặc bị giáng sang các Bộ khác; số còn lại
kiêm nhiệm hoặc chuyển sang chuyên trách ở Phủ liêu, Ngự sử đài hoặc các chức
quan ngoại nhiệm. Xét toàn diện, đƣờng hoạn lộ của các quan Thƣợng thƣ xuất
thân khoa bảng “phong phú” hơn nhiều so với các viên Thƣợng thƣ không khoa
bảng. 2- Những vị Thƣợng thƣ không khoa bảng chủ yếu đứng đầu các bộ Công
(7/28 trƣờng hợp), Binh (5/26), Hình (5/29); trong khi tỷ lệ này thấp hơn ở các Bộ
quan trọng: Lại (4/20), Lễ (2/17), Hộ (1/15). Sự sắp đặt nhƣ vậy giống với thời Lê
Sơ. 3- Qua những thông tin ghi chép về năm sinh, năm thi đỗ, năm giữ các chức
của những nhân vật trên đây cho thấy ngƣời đƣợc trao chức Thƣợng thƣ trẻ nhất là
Phạm Đình Trọng, 36 tuổi; ngƣời cao tuổi nhất là Trần Cảnh, 74 tuổi; trung bình là
55,6 tuổi. Họ đƣợc trao chức đó sau khi đã thi đỗ Tiến sĩ từ 3 năm (trƣờng hợp
Trịnh Tuệ) đến 44 năm (trƣờng hợp Nguyễn Đƣơng Bao), trung bình là 26,3 năm.
Tất cả các chỉ số trên đều cao hơn so với thời Lê Sơ (xin xem chi tiết ở bảng 46,
phần phụ lục).
Bảng 41: Những chức quan khác của các Thƣợng thƣ thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Đại Việt sử kỳ tục biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Trong đó

Số
Quan cùng Bộ
Quan Bộ khác
Hàn lâm viện
Quan ngoại

Loại Thƣợng Số chức quan1


Văn phòng
Ngự sử đài

Chức khác

nhân
Lục phiên
Lục Khoa

Đông Các
Võ quan

Phủ liêu
Lục Tự
nhiệm

thƣ vật
TW

Trƣớc khi làm 239 9 24 8 14 39 9 9 5 34 63 16 2 7


Khoa bảng 59 Thƣợng thƣ
Sau khi làm 166 10 15 0 0 8 9 4 3 44 49 3 4 17
Thƣợng thƣ
Trƣớc khi làm 35 6 2 3 1 4 1 0 4 6 7 0 0 1
Không khoa 17 Thƣợng thƣ
bảng Sau khi làm 22 1 2 0 0 1 0 0 0 4 13 0 0 1
Thƣợng thƣ

1
Số chức quan trên không bao gồm chức Thƣợng thƣ đầu tiên mà các nhân vật này nắm giữ.

162
Bảng 42: Đƣờng hoạn lộ của một số quan Thƣợng thƣ triều Lê Trung hƣng1
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Đại Việt sử kỳ tục biên, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Số chức quan
Số Số lần Số lần Số lần Số lần Số lần Tội đồ
Loại Thƣợng nhân thăng đổi chức giáng bãi chức khởi Cộng
thƣ vật bổ chức phục
(1) (2) (3) (4) (5) (6) (7)
Có khoa bảng 59 368 59 38 5 11 2 483
Không khoa 17 60 12 2 0 1 0 75
bảng
Cộng 76 428 71 40 5 12 2 558

3.2.5.4. Chế độ đãi ngộ


Gắn liền với mỗi chức vụ là những đặc quyền, đặc lợi mà ngƣời làm quan
đƣợc hƣởng. Bên cạnh việc đƣợc ban phong chức tƣớc, phẩm hàm, đƣợc truy
phong cho cho cha mẹ, tập ấm cho các đời con cháu, đội ngũ quan lại thời Trung
hƣng còn đƣợc hƣởng chế độ bổng lộc gồm ruộng đất, quyền thu tô thuế và các
quyền lợi kinh tế khác.

So với thời Lê Sơ, chế độ ban cấp ruộng đất cho quan lại của chính quyền
Lê - Trịnh giảm hơn rất nhiều. Trƣớc thực tế là quỹ ruộng công ngày càng bị thu
hẹp, nhà nƣớc đã phải tƣớc bớt số ruộng đất thế nghiệp của các công thần khai
quốc đƣợc ban cấp từ thời Lê Sơ (chỉ trừ trƣờng hợp của Lê Lai) để ban phong cho
số công thần trung hƣng và những quan chức mới. Tuy nhiên, số lƣợng đó cũng
không đáng là bao. Chế độ ban cấp lộc điền do đó cũng chỉ hạn chế trong một số
quan lại và với một mức độ nhất định, thƣờng chỉ vài chục mẫu. Với một diện tích
vốn không phải lớn, ngƣời đƣợc ban cấp chủ yếu cũng chỉ đƣợc hƣởng phần tô
thuế do thu đƣợc từ số ruộng đất ấy mà thôi. Nhƣ Lê Quý Đôn trong Kiến văn tiểu
lục đã từng nêu nhận xét: “Từ lúc trung hƣng trở về sau, những ân lộc ban cho
hoặc bằng tiền, hoặc bằng thóc, đều lĩnh ở kho công, ít khi cấp bằng ruộng công.
Các công thần đời khai quốc và đời trung hƣng, nếu ngƣời nào trƣớc kia đã đƣợc
cấp ruộng đất cũng có khi bàn định rút bớt đi” [6,148-149].
Tuy nhiên, bổng lộc chủ yếu của các quan lại thời kỳ này là các khoản tiền
và gạo mà họ đƣợc phép thu từ các xã dân, nhiều ít tuỳ theo phẩm tƣớc từng ngƣời.
Theo đó, quan võ tuỳ số binh quản lĩnh nhiều hay ít mà có thể đƣợc cấp từ 1 đến

1
Thăng bổ (1): nhận các chức mới có phẩm hàm cao hơn; Đổi chức (2): các chức có phẩm hàm
tƣơng đƣơng; Giáng chức (3): các chức có phẩm hàm thấp hơn; Số lần “bãi” (4), “khởi phục” (5)
các chức và “tội đồ” (6) đƣợc căn cứ theo ghi chép trong sử cũ. Số liệu tổng hợp ở cột (7) lớn hơn
số chức quan ở bảng 41 vì đã bao gồm chức Thƣợng thƣ và những lần sử chỉ chép “thăng/ giáng”
hoặc “bãi/ truất” nhƣng không cho biết rõ là chức gì.

163
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
16 xã dân, cho thu tiền lộc gọi là chế lộc xã dân (hay quản binh chế lộc). Quan văn
cũng tuỳ chức tƣớc và bằng cấp đƣợc ban một số dân hoặc xã dân nhất định làm
bổng lộc gọi là dân lộc. Bên cạnh đó, văn quan còn đƣợc cấp đinh suất theo số
lƣợng khác nhau gọi là tuỳ hành hộ suất (hay tuỳ hành dân hộ, tức là ngƣời đƣợc
cấp có quyền thu tiền dung mỗi suất 3 quan làm ngụ lộc mà đáng ra các đinh suất
này phải nộp cho nhà nƣớc). Đến năm 1741, chúa Trịnh Doanh thấy việc cấp tuỳ
hành hộ suất có nhiều phiền phức, gian lận, nên thay thế bằng việc cấp ruộng
dưỡng liêm (dƣỡng liêm điền) theo các định mức: quan lục, thất, bát phẩm đƣợc 20
mẫu, cho đến quan nhất phẩm đƣợc 45 mẫu; ngƣời nào đỗ Hoàng giáp cấp thêm 5
mẫu, đỗ Thám hoa và Bảng nhãn cấp thêm 15 mẫu, Trạng nguyên cấp thêm 20
mẫu. Ngoài ra, cả quan văn và võ đều đƣợc miễn thuế ruộng tƣ tuỳ theo chức
phẩm: quan nhất, nhị phẩm đƣợc miễn 50 mẫu, cho đến quan cửu phẩm đƣợc miễn
10 mẫu; số thừa ra đều phải nộp thuế; ngƣời có ít ruộng hơn mức quy định thì
đƣợc cấp thêm số tiền tƣơng đƣơng khoản thuế đƣợc miễn [6,134-135; 3,650-651].

Quan viên trí sĩ1 cũng tuỳ phẩm tƣớc mà hƣởng chế độ chính sách theo các
mức khác nhau. Họ đƣợc ban cấp ruộng làm lộc huệ dƣỡng theo định mức: quan
nhất phẩm từ 25-30 mẫu, cho đến quan lục phẩm đƣợc 10 mẫu, từ lục phẩm trở
xuống mỗi phẩm giảm xuống 1 mẫu. Quan viên trí sĩ từ tứ phẩm trở lên đƣợc miễn
thuế 1/2 số ruộng so với khi tại chức. Họ cũng đƣợc cấp huệ dưỡng dân lộc gồm số
xã và số tuỳ nhân nhiều ít theo phẩm hàm: nhất phẩm trở lên đƣợc cấp dân lộc 4-5
xã, mỗi xã nộp 400 quan sứ điền và 40 tuỳ nhân; cho đến quan ngũ phẩm đƣợc cấp
dân lộc 1 xã, mỗi xã nộp 100 quan sứ tiền, 10 tuỳ nhân; từ lục phẩm trở xuống
chƣa đƣợc dự triều ban, đƣợc cấp 60 quan cổ tiền, kém một phẩm thì giảm 10
quan, đều cho tuỳ nhân 8 ngƣời. Khi chết, các quan viên này còn đƣợc cấp tiền tuất
và tiền cúng tế với mức cao nhất dành cho quan chánh nhất phẩm là 500 quan tiền
tuất và 200 quan tiền cúng tế [6,142-43; 3,647-648].
Nhƣ vậy, tuy số lộc điền đƣợc ban cấp của quan lại, quý tộc thời Trung
hƣng ít hơn so với trƣớc; nhƣng bù lại số bổng lộc cấp bằng tiền hay bằng sự đóng
góp của nhân dân các làng xã mà họ đƣợc hƣởng vẫn rất nhiều. Chế độ ban cấp
bổng lộc ấy không nằm ngoài chính sách của nhà nƣớc nhằm khẳng định đặc
quyền và biệt đãi quan chức. Nhƣng cũng vì cái lợi ấy, ngƣời ta tranh nhau mua
quan, bán tƣớc; tìm mọi cách luồn lỏi, cầu cạnh để đƣợc làm quan, đƣợc thăng

1
Theo quy chế thời Trung hƣng, quan lại từ 65 đến 70 tuổi mới đƣợc về trí sĩ.

164
quan, tiến chức. Mọi sự nhũng tệ phần lớn từ đó mà ra. Mặt khác, trong điều kiện
kinh tế - xã hội Đàng ngoài thế kỷ XVII-XVIII, đây thực sự là một gánh nặng lớn
đè lên vai các tầng lớp nhân dân lao động.
3.3. Sự sụp đổ của thiết chế “Lƣỡng đầu”
Mùa hạ năm Bính Ngọ - 1786, với danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh” quân
Tây Sơn do Nguyễn Huệ dẫn đầu vƣợt sông Gianh tiến ra Bắc hà, tấn công vào
Thăng Long. Ngôi chúa sau gần hai trăm năm tồn tại vững chãi đã nhanh chóng bị
lật nhào. Hai năm sau đó (1789), ngai vàng vua Lê cũng vĩnh viễn tan biến cùng
gót quân xâm lƣợc sau kế hoạch “rƣớc voi dày mả tổ” chẳng thành, khép lại một
giai đoạn lịch sử đầy biến động.
Sự sụp đổ của thiết chế “lƣỡng đầu” thời Lê - Trịnh vào những năm cuối thế
kỷ XVIII là một kết cục tất yếu đƣợc dẫn đến từ nhiều nguyên nhân.
Bản thân thể chế chính trị, xã hội thời Lê - Trịnh đƣợc hình thành và suốt
gần hai trăm năm tồn tại vốn đã ngầm chứa đầy dẫy những mâu thuẫn - nguy cơ
của sự đỗ vỡ. Những mâu thuẫn đó đƣợc nảy sinh, tích đọng từ trong bản chất của
chế độ, tuy tạm thời lắng xuống trong thời nội chiến, nhƣng khi tạm yên nó đã
bùng phát mạnh mẽ, đẩy chính thể Lê - Trịnh lao nhanh vào bƣớc đƣờng khủng
hoảng không lối thoát. Vua Lê - chúa Trịnh, hai đại diện của hai tập đoàn phong
kiến vốn không cùng mục đích, chí hƣớng nhƣng phải chung nhau, chia sẻ về
quyền lợi. Bƣớc lấn quyền của chúa Trịnh cũng đồng nghĩa với quá trình suy giảm
quyền lực, vai trò của vua Lê. Bề ngoài, đó vẫn là mối quan hệ quân - thần gắn kết,
nhƣng bên trong những mâu thuẫn giữa hai dòng họ, hai tập đoàn ngày càng gia
tăng, lúc tiềm tàng, khi bộc phát. Xoanh quanh trục mâu thuẫn ấy là những toan
tính, tranh chấp giữa các phe phái, thế lực ủng hộ ngai vàng và ngôi chúa; là những
xung đột, diệt trừ lẫn nhau diễn ra trong nội bộ họ Trịnh…
Sự tan vỡ của thiết chế chính trị thời Lê - Trịnh còn bắt nguồn từ sự yếu
kém của bộ máy quản lý hành chính và đội ngũ quan lại các cấp. Tổ chức nhà nƣớc
thời Trung hƣng đƣợc hình thành trong thời chiến. Khi hoà bình đƣợc lập lại, trƣớc
những bất cập của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội đặt ra, cơ chế cũ tỏ ra
không còn thích ứng và phù hợp. Những cố gắng trong việc điều chỉnh nhiều khi
mang tính gƣợng gạo, gò ép hơn là hiệu quả thiết thực từ công cuộc cải tổ toàn
diện có thể mang lại. Thiết chế hành chính, chính trị vốn đã chắp vá, xộc xệnh lại
càng trở nên ọp ẹp, rệu rã trƣớc những thử thách khắc nghiệt của đời sống kinh tế,
xã hội đất nƣớc.

165
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Mặt khác, cũng là hệ quả tất yếu của thời hậu chiến, một đội ngũ đông đảo
những “công thần trung hƣng” xuất hiện với nhiều đặc ân đƣợc hƣởng thụ, luôn
sẵn sàng kể công, cậy quyền; con cháu họ nhờ đó cũng đƣợc “tập ấm”, ỷ thế cha
ông ra sức tác oai, tác quái. Phần lớn trong số họ là những ngƣời học thấp, chủ yếu
đƣợc chuyển sang từ ngạch võ, quen trận mạc chinh chiến hơn là nhiệm vụ coi sóc
dân. Trƣớc yêu cầu thực tế của công tác quản lý hành chính, dân sự, đội ngũ này
vốn rất đông đảo nhƣng lại tỏ ra thiếu và yếu so với nhu cầu. Đội ngũ quan liêu
mới hình thành nhƣng không đƣợc tinh lọc và nhìn chung chất lƣợng thấp kém.
Khoa cử Nho học không còn là phƣơng cách hiệu quả và công bằng để nhà nƣớc
“cầu hiền”. Học phong suy đồi, chất lƣợng giảm sút nghiêm trọng, kỷ luật chốn
trƣờng thi không còn đƣợc coi trọng, đến nỗi “ngƣời làm ruộng, ngƣời buôn bán,
ngƣời đồ tể đều hớn hở nạp quyển đi thi. Ngày vào trƣờng thi, học trò giày xéo lẫn
nhau đến nỗi có ngƣời chết. Trong trƣờng thi thì kẻ mang sách, kẻ mƣớn ngƣời gà,
hành động thả cửa, quan trƣờng cùng ngƣời gian trá làm nhƣ họp chợ” [26,605].
Sức mạnh của đồng tiền cũng len lỏi vào mọi chỗ thâm cùng chốn trƣờng quan.
Chức tƣớc, phẩm hàm trở thành hàng hoá đƣợc nhà nƣớc rao bán công khai; ngƣời
giàu, kẻ quyền quý coi đó là cơ hội chuộc lợi, gia tăng quyền lực. Thêm nữa, bọn
hoạn quan lấp sau triều chính, dựa dẫm ngôi chúa chuyên quyền, khiến cho “chính
lệnh phiền nhiễu, tế toái, thƣởng phạt lầm lẫn rối ren. Từ đấy trong nƣớc mới sinh ra
nhiều việc” [26,506]. Tất cả hợp thành một đội ngũ tham quan, ô lại hèn kém, bất
tài nhƣng “thạo” việc đục khoét của công và bóc lột, hà hiếp dân chúng. Thực tế
trên đã đƣợc chính quyền Lê - Trịnh sớm nhận biết, đã không ít lần những sắc dụ,
lệnh truyền đƣợc ban ra yêu cầu chấn chỉnh quan trƣờng, đổi mới lề lối làm việc và
nâng cao trách nhiệm, đạo đức của quan lại, song đó mãi chỉ là mong muốn từ phía
ngƣời cầm quyền.

Thêm vào đó, đội ngũ võ quan và binh sĩ chủ yếu sinh ra từ vùng Thanh -
Nghệ, từng bao phen theo ngôi chúa chiến chinh nơi xa trƣờng, không ít ngƣời đã
hy sinh, đổ máu để trung hƣng Lê nghiệp, nhƣng khi đƣợc an nhàn họ lại rất rễ trở
thành “kiêu binh”. Chƣa bao giờ quân đội đƣợc đề cao và hƣởng nhiều ân huệ nhƣ
thời Trung hƣng; nhƣng cũng chƣa bao giờ võ quan và binh sĩ lại hống hách, xấc
xƣợc nhƣ hồi thế kỷ XVII-XVIII. Nhƣ Phan Huy Chú đã từng nhận xét: “Ƣu binh

166
từ khoảng giữa đời Lê về sau, đƣợc an nhàn lâu ngày, sinh ra kiêu hống, cho nên
buổi đầu đời Cảnh Hƣng, có việc chinh chiến thì hốt hoảng sợ lùi, mà khi vô sự thì
cậy thế lăng loàn, không ngăn cản nổi. Bấy giờ chỉ ân cần dỗ bảo, không dám dùng
một chút nghiêm khắc nào để trị. Dẫu rằng có cứng có mềm, có đóng có mở, vẫn
có thể dùng đƣợc cả, nhƣng cái mầm mống láo xƣợc của ƣu binh, chính đã gây nên
từ đấy” [4,362].

Xét trên khía cạnh kinh tế, Đàng Ngoài thế kỷ XVII-XVIII có nhiều điều
kiện thuận lợi phát triển kinh tế hàng hoá, hoà nhập xu thế chung của thời đại.
Song do tính cố hữu, nền kinh tế ấy đã không vƣợt qua khỏi những rào cản và
khuôn khổ chật hẹp của chế độ phong kiến đƣơng thời. Bên trong đó, mâu thuẫn
giữa việc củng cố quyền lực nhà nƣớc, tăng cƣờng sở hữu công về ruộng đất với
xu thế bùng phát của chế độ sở hữu tƣ nhân đã vƣợt ra ngoài tầm kiểm soát của
chính quyền Lê - Trịnh. Chƣa bao giờ nạn ẩn lậu và kiêm tính ruộng đất lại diễn ra
phổ biến và mạnh mẽ nhƣ thời kỳ này. Chế độ quân điền buộc phải điều chỉnh để
thích ứng trong điều kiện mới. Quyền lực nhà nƣớc do đó không đƣợc thực thi có
hiệu quả nơi làng xã.

Mọi gánh nặng xã hội đều đổ dồn lên vai các tầng lớp nhân dân lao động,
nhất là những ngƣời nông dân nơi làng xóm. Sƣu cao, thuế nặng, chế độ binh lính,
lao dịch của nhà nƣớc; sự chèn ép, hà hiếp của đội ngũ cƣờng hào, lý dịch địa
phƣơng; bị cƣớp đoạt ruộng đất, nhà cửa, phải gán nợ, đợ con… là những nguy cơ
thƣờng trực đối với những ngƣời nông dân thấp cổ bé họng. Luỹ tre làng mong
manh không đủ bảo vệ họ khỏi nạn giặc cƣớp, loạn lạc diễn ra triền miên. Bên
trong đó, những tranh chấp, kiện tụng đã khiến không ít ngƣời phải khốn quẫn, tủi
hờn do oan án. Thêm vào đó, thiên tai, địch hoạ cũng thƣờng xuyên giáng xuống
đầu họ. Đọc lại biên niên sử thời kỳ này, những dữ kiện: động đất, hạn hán, lũ lụt,
thiên tai, mất mùa, đói kém, dịch bệnh, ngƣời chết… xuất hiện với một mật độ
ngày càng dày đặc. Hệ quả tất yếu là những ngƣời nông dân bị đẩy vào cảnh sống
khổ cực, cùng quẫn. Nhiều ngƣời chết đói, bỏ làng tha hƣơng, trở thành giặc cƣớp,
kẻ không chịu nổi thì vùng dậy đấu tranh… Phong trào nông dân nổi dậy nửa cuối
thế kỷ XVIII, mà đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn là kết cục tất yếu của một chuỗi
phản ứng xã hội mang tính dây truyền.

167
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Tiểu kết
Gần hai thế kỷ tồn tại, triều Trung hƣng là sự đồng trị của hai dòng họ, hai
tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh. Thực tế, đó là dựa dẫm, nƣơng tựa lẫn nhau giữa
một bên đã mất hết sinh khí, nhƣng vẫn đầy hào quang từ quá khứ, có uy tín và
đƣợc đƣợc dân chúng ủng hộ, với một bên nắm mọi thực lực, nhƣng vẫn phải khôn
khéo tự nguỵ trang cho mình bằng chiêu bài “phù Lê”. Nguyên tắc phân quyền trở
thành định chế lâu dài và tồn tại trong thế tƣơng đối bền vững. Dù kẻ nắm thực
quyền có lấn át đến đâu thì vẫn luôn trong khuôn khổ mà cả hai bên đều chấp nhận
đƣợc. Cơ chế đó đảm bảo mối “liên kết” không bị phá vỡ để có thể dẫn cơ nguy cơ
phong kiến phân quyền. Đó là đặc trƣng nổi trội của một thiết chế chính trị lần đầu
tiên xuất hiện và cũng là duy nhất trong lịch sử trung đại Việt Nam - thiết chế hai
chính quyền song hành tồn tại hay “lƣỡng đầu chế”.

Vua Lê yên vị lui về phía sau hƣởng cảnh sống an nhàn, nhƣờng mọi quyền
hành và làm “vì” cho Trịnh chúa. Các vua nhƣ Hy Tông (1675-1705), Dụ Tông
(1705-1729) chỉ cần “rủ áo khoanh tay mà nƣớc đƣợc trị, kỷ cƣơng đƣợc trấn
hƣng, thƣởng phạt nghiêm, các công khanh phần nhiều đều xứng chức, các quan
lại vâng theo pháp luật, dân chúng đƣợc yên ổn làm ăn” [26]. Tuy với danh nghĩa
thần tử, nhƣng chúa Trịnh lại toàn quyền định đoạt và điều hành mọi công việc
quốc gia.

Thừa hƣởng những thành tựu to lớn về lập pháp và hành pháp từ thời Lê Sơ,
hệ thống pháp luật và tổ chức hành chính, chính trị thời Trung hƣng chủ yếu là sự
điều chỉnh, bổ sung trên nền tảng cũ. Mọi cố gắng thay đổi suy cho cùng đều
không nằm ngoài mục đích của chúa Trịnh nhằm thâu tóm mọi quyền hành trong
tay. Tuy nhiên, sự đổi khác trong tổ chức chính quyền thời Lê - Trịnh, với việc lập
nên Ngũ phủ Phủ liêu và Lục phiên đã làm cho bộ máy hành chính vốn đã nặng nề
lại càng trở nên cồng kềnh, phức tạp. Trong khi đó, nhiều cơ quan bên Triều đình
thực tế không hoạt động nhƣng vẫn phải duy trì, nhiều chức quan cố giữ song chỉ
là “hƣ hàm”, “nhàn tản”. Sự bất hợp lý đó càng làm tăng tính quan liêu, sâu mọt
trong thiết chế chính trị đƣơng thời.
Xuất phát từ bối cảnh chính trị - xã hội, đất nƣớc liên tiếp phải trải qua xung
đột, nội chiến (Nam - Bắc triều, Đàng Trong - Đàng Ngoài) mà bộ máy quan chức
thời Lê - Trịnh có đặc điểm thiên về trọng võ. Đội ngũ võ quan đƣợc coi trọng và
thƣờng nắm giữ những trọng trách cao hơn quan văn. Binh sĩ, nhất là những ngƣời

168
quê ở vùng Thanh - Nghệ luôn là chủ lực trong quân đội và đƣợc triều đình hết sức
trọng đãi. Chính sách đó một mặt đáp ứng chủ trƣơng của nhà nƣớc và đòi hỏi của
tình hình thực tế, song vô hình chung nó trở thành gánh nặng cho ngân sách quốc
gia, đổ dồn lên vai những ngƣời dân lao động cực khổ. Đó là chƣa kể đến những
rối loạn, mất trật tự kỷ cƣơng, vi phạm phép nƣớc của một phận những binh sĩ do
đƣợc nuông chiều quá mức gây nên.

Nhìn rộng ra bên ngoài, sẽ là không thể nếu muốn tìm kiếm một phiên bản
thứ hai. So về hình thức “lƣỡng đầu chế” thời Lê - Trịnh có vẻ giống với chế độ
Mạc phủ (Backofu) ở Nhật Bản cùng thời kỳ, song xét tƣờng tận thì giữa chúng có
nhiều điểm khác biệt:

Thứ nhất, xét về niên điểm xuất hiện và thời gian tồn tại, thiết chế chính trị
gồm hai chính quyền song hành tồn tại (hệ thống Tenno - Shogun) trong lịch sử
phong kiến Nhật Bản ra đời sớm hơn chế độ vua Lê - chúa Trịnh hơn bốn thế kỷ và
cơ chế đó kéo dài sau Việt Nam 82 năm1.

Thứ hai, xét về thực chất việc xác lập chính quyền quân sự ở Nhật Bản là sự
khẳng định sức mạnh và ƣu thế của một thế lực phong kiến địa phƣơng đối với các
thế lực còn lại. Đó không phải là thiết chế tập quyền theo đúng nghĩa của nó.
Chính quyền Shogun chỉ khống chế các thế lực địa phƣơng khác bằng thực lực
quân sự mà không hề can thiệp vào các chính sách cai trị của họ. Trong khi đó, thể
chế Lê - Trịnh ở Việt Nam ra đời là sự tái lập thiết chế trung ƣơng tập quyền đã
đƣợc xác lập từ hơn nửa thiên niên kỷ trƣớc và đạt bƣớc phát triển đỉnh cao dƣới
thời Lê Sơ (1428-1527). Trong bối cảnh mới, thiết chế tập quyền phải dựa vào thế
lực quân sự. Do đó, “việc vƣơn lên nắm quyền của nhà Trịnh thực chất là một cuộc
giành đoạt quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến” [84,65-66].

Thứ ba, chế độ Tƣớng quân (Shogun) ở Nhật Bản có nền tảng kinh tế - xã
hội dựa trên các Đại chúa đất (Daimyo), do đó chính sách nhất quán của nhà nƣớc
là không can thiệp vào quá trình tích tụ ruộng đất, tài sản và sự phát triển của chế
độ tƣ hữu lớn về ruộng đất. Ở Việt Nam ngƣợc lại, với sự trợ giúp của chính quyền
quân sự, triều Lê tìm mọi cách phục hồi quyền lực nhà nƣớc, hạn chế sự phát triển
ngày càng mạnh mẽ của chế độ tƣ hữu ruộng đất. Tất nhiên, chính sách đó không
thể thực hiện bởi điều kiện đã khác trƣớc.

1
Chế độ Mạc phủ chính thức xuât hiện ở Nhật Bản từ năm 1185 kết thúc năm 1868, với ba giai
đoạn: Kamakura (1185-1333), Muromachi (1336-1590) và Tokugawa (1600-1868).

169
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Thứ tư, có sự khác biệt lớn trong cách thức tổ chức chính quyền và phân
chia quyền lực giữa thể chế vua Lê - chúa Trịnh và Thiên Hoàng - Mạc phủ. Ở
Nhật Bản, vua và tƣớng quân đều có triều đình riêng, đóng tại hai Kinh đô riêng
(Thiên hoàng ở Kyoto, Tƣớng quân Tokugawa ở Edo). Hai thực thể đó tồn tại
tƣơng đối độc lập, chính quyền Mạc phủ nắm việc điều hành mọi công việc đất
nƣớc, còn bộ máy hành chính bên triều đình chỉ là hƣ vị. Cũng là hai chính quyền,
nhƣng Triều đình vua Lê và Phủ đƣờng chúa Trịnh lại luôn có sự lồng ghép trong
nhau, phối hợp cùng nhau. Cùng đóng ở Thăng Long và không ít chức quan bên
Triều đình nhƣng kiêm nhiệm công việc bên Phủ chúa, ngƣợc lại nhiều công việc
nơi Phủ chúa lại đƣợc thực hiện thông qua các triều thần. Mặt khác, đội ngũ quan
lại ở Việt Nam đƣợc tuyển chọn và bổ dụng dựa trên uy thế của nhà vua và quyền
quyết định của các chúa Trịnh. Trong khi đó, các chức quan bên triều đình Thiên
hoàng thƣờng trao cho những ngƣời thuộc giới quý tộc (hoàng thân quốc thích, văn
thần lâu đời), còn các chức vụ bên Mạc phủ thƣờng do những ngƣời thuộc dòng
dõi võ quan từng theo họ Đức Xuyên khi mới khởi nghiệp nắm giữ. Cả hai hệ
thống quan chức này đều do thế tập tuyển dụng, không qua khoa cử. Đặc điểm này
quyết định đến quyền hạn và khả năng can thiệp của ngƣời đứng đầu của hai chính
quyền với đội ngũ quan lại không trực quyền quản lý.

Cuối cùng, xuất phát từ bối cảnh lịch sử khá tƣơng đồng giữa Việt Nam và
Nhật Bản đã đặt chính phủ hai nƣớc trƣớc những cơ hội và thách thức nhƣ nhau,
song năng lực thích ứng và khả năng vƣơn lên giành thời cơ của hai bên lại hoàn
toàn khác nhau. Thiết chế Thiên hoàng - Mạc phủ giai đoạn XVII-XVIII đã thiết
lập nên một cơ chế linh hoạt, mềm dẻo và mang lại hiệu quả cao trong quản lý, mở
mang phát triển kinh tế, hội nhập trào lƣu thời đại, tạo tiền đề vững chắc cho Nhật
Bản thời cận thế. Trong khi đó, chính quyền Lê - Trịnh vẫn mãi luẩn quẩn với
những chính sách kiềm toả, trong vòng trì trệ. Kết cục là, một thiết chế khi không
còn khả năng đứng vững đã bị phủ định bằng sự ra đời của một chính quyền mới
tiến bộ hơn; trong khi thiết chế kia đã tạo lập tiền đề vững chắc cho việc hình
thành một hình thái kinh tế - xã hội mới.

Nói tóm lại, thiết chế chính trị thời Lê - Trịnh là một sản phẩm độc đáo của
Việt Nam thời trung đại. Nó phản ánh tính thích ứng cao với bối cảnh kinh tế,
chính trị đất nƣớc và có những sắc thái, đặc trƣng riêng của xã hội Đại Việt đƣơng
thời.

170
KẾT LUẬN

1. Đầu thế kỷ XV, triều Lê Sơ khởi lập. Ra đời trên kết quả thắng lợi của
cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đƣợc sự ủng hộ nhiệt thành từ phía dân chúng, lại kế
thừa những thành tựu lập quốc bởi các triều đại trƣớc, nhà Lê hội đủ mọi điều kiện
tiến tới củng cố và tăng cƣờng thể chế quân chủ tập quyền. Mô hình mà triều Lê
Sơ xây dựng là thiết chế tập quyền quan liêu, tồn tại dựa trên bộ máy quản lý hành
chính và đội ngũ quan lại đƣợc tổ chức chặt chẽ, quy củ từ trung ƣơng đến các địa
phƣơng, hoạt động trong khuôn khổ hệ thống pháp luật hoàn bị, với nền tảng của
bệ đỡ tƣ tƣởng là ý thức hệ Nho giáo và ý thức tự tôn dân tộc. Thực tế, thiết chế
quân chủ theo hƣớng tập quyền cao liêu đã đƣợc nhà Hồ thiết kế và thử nghiệm từ
đầu thế kỷ XV, nhƣng công lớn của triều Lê Sơ là hiện thực hoá và đƣa nó tới đỉnh
cao cực thịnh. Khi nghiên cứu tổ chức bộ máy nhà nƣớc thời Lê Sơ, đã không ít
ngƣời cho rằng đó là sự sao chép từ nguyên mẫu Trung Hoa thời Đƣờng, Minh. Sự
tham bác, mô phỏng là điều không thể phủ nhận, song sẽ là sai lầm nếu cho rằng
chế độ chính trị thời Lê Sơ là sự rập khuôn từ mẫu hình có sẵn. Tiếp thu những giá
trị văn minh từ bên ngoài, kế thừa những tinh hoa của các triều đại trƣớc, đồng thời
dựa trên đặc điểm của lịch sử dân tộc và điều kiện thực tế của đất nƣớc để xây
dựng một thiết chế phù hợp không chỉ là thành tựu nổi bật của triều Lê Sơ, mà còn
là một đặc trƣng xuyên suốt trong lịch sử Việt Nam.

Cấu trúc chính trị - xã hội thời Lê Sơ đƣợc coi là hoàn bị nhất trong lịch sử
chế độ quân chủ tập quyền Việt Nam. Nó là nhân tố quan trọng hàng đầu giúp Đại
Việt cƣờng thịnh và trở nên quốc gia hùng mạnh nhất khu vực hồi thế kỷ XV. Bởi
lẽ đó, tác động và tầm ảnh hƣởng của mô hình Lê Sơ còn thể hiện đậm nét trong
đời sống chính trị, xã hội đất nƣớc nhiều thế kỷ tiếp sau. Bằng chứng là, dù điều
kiện kinh tế - xã hội đã khác trƣớc, song các triều Mạc và Lê Trung hƣng vẫn luôn
coi mẫu hình Lê Sơ là lý tƣởng, lấy đó làm “khuôn vàng thƣớc ngọc” trong cƣơng
lĩnh xây dựng đất nƣớc.

2. Tập quyền là khuynh hƣớng chủ đạo và hầu nhƣ xuyên suốt trong lịch sử
trung đại Việt Nam, tuy nhiên, ở mỗi thời kỳ kết cấu quyền lực và sự tác động của
nó tới sự phát triển kinh tế - xã hội đất nƣớc lại không giống nhau. Thế kỷ XV-

171
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
XVIII cũng vậy. Sau khi nhà nƣớc Lê Sơ xác lập quyền lực tối cao về quản lý kinh
tế, kiểm soát và tri phối mạnh mẽ mọi mặt đời sống xã hội, thì vai trò và quyền lực
đó mất dần trong các triều đại kế tiếp. Cùng xu hƣớng đó, mức độ phụ thuộc của
các cấp chính quyền địa phƣơng, đặc biệt là làng xã đối với chính quyền trung
ƣơng, cùng với sự ủng hộ của dân chúng cũng suy giảm theo thời gian, dù cho,
những biện pháp chuyên chế mà nhà nƣớc sử dụng càng càng quyết liệt. Biểu hiện
là, ngay khi nhà nƣớc Lê Sơ sụp đổ, đất nƣớc lập tức rơi vào tình trạng phân
quyền, cát cứ và khủng hoảng kéo dài nhiều thế kỷ. Ở phạm vi hẹp hơn, quyền lực
và vai trò của ngƣời đứng đầu chính quyền nhà nƣớc, tức Hoàng đế cũng ngày
càng suy giảm. Mô hình tập quyền, chuyên chế cao độ của các Hoàng đế Lê Sơ
không có điều kiện áp dụng trở lại trong các thiết chế chính trị tiếp sau. Dƣới thời
Mạc, quyền lực của Hoàng đế bị chia sẻ phần nào bởi ngôi Thƣợng hoàng và các
vị Phụ chính. Đặc biệt, trong thiết chế “lƣỡng đầu” thời Trung hƣng, vai trò và
quyền hành của vua Lê không còn đƣợc nguyên vẹn nhƣ trƣớc. Mâu thuẫn trên
cuối cùng đã đƣợc nhà Nguyễn “giải quyết” bằng quyết định tăng cƣờng thể chế
tập quyền theo hƣớng chuyên chế cao độ vào đầu thế kỷ XIX.

3. Qua các triều đại, từ Lê Sơ đến Lê Trung hƣng, tổ chức bộ máy nhà nƣớc
luôn vận hành và biến đổi tuỳ theo mức độ phát triển của chế độ quân chủ trung
ƣơng tập quyền và bối cảnh, điều kiện cụ thể ở những thời điểm nhất định. Từ thời
Lê Thánh Tông, xuất hiện một hệ thống quản lý hành chính đƣợc tổ chức chặt chẽ,
quy củ, đạt tới mức hoàn bị ở mọi cấp, mọi vị trí. Tính chuyên môn hoá cao và sự
ràng buộc chặt chẽ với nhau giữa cơ quan nhà nƣớc đã tạo nên sức mạnh và tính
hiệu quả của hệ thống. Để duy trì hoạt động của bộ máy, triều Lê Sơ đẩy mạnh đào
tạo và tuyển dụng quan lại các cấp. Sự thịnh đạt của chế độ giáo dục và khoa cử
Nho học triều Lê Sơ trƣớc hết là nhằm đáp ứng nhu cầu bổ sung cho đội ngũ quan
chức. Bên cạnh khoa cử, nhà nƣớc tiếp tục duy trì chế độ nhiệm tử, tập ấm coi nhƣ
một đặc quyền giành cho các quý tộc, quan lại cao cấp và mở rộng chế độ tiến cử
nhằm tránh bỏ xót những nhân tài còn ẩn khuất trong dân chúng. Theo phép công,
căn cứ vào tài năng, phẩm hạnh nhà nƣớc phần lớn đều bổ dụng đƣợc ngƣời xứng
chức. Đối với đội ngũ quan lại tại chức, nhà nƣớc thi hành chế độ khảo khoá nhằm
thƣờng xuyên kiểm tra, đánh giá năng lực và hạnh kiểm các quan, lấy đó làm cơ
sở, chuẩn tiêu để quyết định việc thăng giáng hay bãi miễn các chức. Để trả công

172
xứng đáng, khuyến khích tinh thần làm việc và hạn chế tình trạng tham ô, nhũng
lạm nhà nƣớc đã áp dụng chế độ đãi ngộ hậu hĩnh bằng bổng lộc và nhiều đặc
quyền khác…

Tất cả những chính sách đó của triều Lê Sơ đều hƣớng tới mục đích là xây
dựng một bộ máy hành chính và đội ngũ quan lại trong sạch, vững mạnh, có đủ
năng lực và phẩm chất chuyên môn đáp ứng yêu quản lý đất nƣớc. Hiệu quả hoạt
động của chính quyền nhà nƣớc đƣợc coi là nhân tố hàng đầu tạo lên những thành
tựu rực rỡ thời Lê Sơ. Tuy nhiên, tổ chức bộ máy đó cũng có những hạn chế nhất
định. Đó là xu hƣớng ngày càng phình to, tệ quan liêu khởi phát và nguy cơ xung
đột vì quyền lực. Khi trở nên không thể kiểm soát, hậu quả là khôn lƣờng. Thực tế
đó nhƣ đã diễn ra cuối thời Lê Sơ.

Từ thế kỷ XVI, phần vì nhận thức rõ hạn chế từ mô hình trƣớc, phần vì điều
kiện đã có nhiều đổi khác, triều Mạc và Lê Trung hƣng sau đó tuy vẫn dựa theo
mô hình tổ chức cũ, nhƣng đồng thời cũng có sự cải biến và hoàn thiện theo hƣớng
tinh gọn hơn và phù hợp hơn với cơ cấu quyền lực mới. Tuy nhiên, không vì thế
mà hiệu quả hoạt động của nó đƣợc nâng lên và làm giảm đi tính quan liêu, cồng
kềnh vốn có. Thêm vào đó, kỷ cƣơng quan trƣờng bị coi nhẹ, phép tuyển chọn
không còn đƣợc nhƣ trƣớc, ma lực của đồng tiền đã làm băng hoại các giá trị đạo
đức, lƣơng tâm của ngƣời làm quan ... Vô hình chung, sự rạn nứt và đổ vỡ của mô
hình đến từ sự yếu kém của đội ngũ quan lại các cấp.

4. Do sức ép có tính khách quan và phần nào do cả sự nhận thức chủ quan
mà các triều đại Lê Sơ, Mạc và Lê Trung hƣng đều đặc biệt coi trọng hệ thống
thanh tra, giám sát trong tổ chức chính quyền. Dƣới thời Lê Thánh Tông, hệ thống
giám sát đƣợc kiện toàn từ trung ƣơng tới các địa phƣơng. Ở trung ƣơng, Lục khoa
là cơ quan giám sát về hoạt động chuyên môn của sáu Bộ, Ngự sử đài là các chức
giữ việc can gián vua và củ hặc trăm quan. Ngoài các địa phƣơng, Giám sát ngự sử
(trực thuộc Ngự sử đài ở trung ƣơng) và Hiến sát sứ trở thành cơ quan giám sát
đứng đầu mỗi Thừa tuyên. Suốt triều Mạc và Lê Trung hƣng đều noi theo không
đổi.

Thực tế lịch sử cho thấy điều tƣởng nhƣ nghịch lý rằng khi thiết chế tập
quyền phát triển càng cao thì vai trò và quyền hạn của hệ thống các cơ quan thanh

173
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
tra, giám sát lại càng đƣợc tăng cƣờng. Xây dựng thiết chế tập quyền cao là một
yêu cầu mang tính khách quan. Hệ thống quản lý đất nƣớc thời Lê Sơ đã khắc phục
đƣợc nhiều hạn chế của mô hình tổ chức nhà nƣớc thời Lý - Trần. Sức mạnh của
chính quyền trung ƣơng tăng lên đáng kể và thành tựu đạt đƣợc trên mọi phƣơng
diện cũng bởi đó mà nên. Tuy nhiên, thiết chế tập quyền luôn tiềm ẩn nguy cơ cực
quyền; bộ máy hoàn bị dễ dẫn tới tệ quan liêu, nạn tham nhũng và sách nhiễu dân.
Từ thực tế ấy, việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức, tăng cƣờng vai trò, trách nhiệm của
các cơ quan giám sát không chỉ là ý muốn chủ quan của cá nhân Hoàng đế. Đó là
cơ chế điều tiết quyền lực, không những không làm phƣơng hại đến thiết chế tập
quyền, mà còn hạn chế nguy cơ tản quyền và xu hƣớng ly tâm, cát cứ địa phƣơng.

5. Cùng với việc củng cố và hoàn thiện bộ máy chính quyền, hệ thống luật
pháp cũng đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn trong các thế kỷ XV-XVIII. Thời Lê
Sơ, đặc biệt triều Hồng Đức đánh dấu bƣớc phát triển vƣợt bậc trên lĩnh vực lập
pháp của quốc gia Đại Việt với sự ra đời của Quốc triều hình luật (Luật Hồng
Đức). Bộ luật đó tiếp tục tồn tại và trở thành khuôn mẫu pháp luật của các triều đại
sau, cho đến tận cuối thế kỷ XVIII, tự thân đã nói lên sức sống và tính thời cập của
nó. Luật triều Lê cũng đƣợc coi là tiến bộ, hoàn thiện nhất trong lịch sử pháp luật
trung đại Việt Nam. Nó mang đậm tính dân tộc, tính thời đại và phản ánh sinh
động các giá trị văn hoá, đạo đức, xã hội, tôn giáo và truyền thống đất nƣớc. Ngoài
Quốc triều hình luật, thời Lê - Trịnh còn chứng kiến sự xuất hiện của rất nhiều hệ
thống văn bản pháp luật khác cho thấy hoạt động lập pháp sôi nổi và cố gắng của
nhà nƣớc trong việc tiếp tục cải tiến, hoàn thiện luật pháp. Một hệ thống pháp luật
hoàn bị không chỉ góp phần củng cố và tăng cƣờng sức mạnh của thiết chế chính
trị, mà còn là tiêu chí quan trọng khi đánh giá mức độ văn minh và trình độ phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.

6. Tuy nhiên, thực tế lịch sử Việt Nam giai đoạn XV-XVIII cũng chứng
minh rằng, một bộ máy chính quyền mạnh cùng một hệ thống luật pháp hoàn bị
vẫn là chƣa đủ để mang lại những kết quả nhƣ mong muốn và đảm bảo cho sức
mạnh của thiết chế. Một thiết chế chính trị đƣợc xác lập và tồn tại không đơn thuần
chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan của ngƣời cai trị, mà nó luôn chịu những áp lực
đƣợc tạo ra từ đám đông dân chúng bị trị. Bởi lẽ đó, một triều đại tồn tại dài hay
ngắn, quyền lực tạo ra mạnh hay yếu còn phụ thuộc vào độ tƣơng thích của nó với

174
tập quán và tâm lý chính trị của cƣ dân. Tính “vô kỷ luật”, tập quán “dân chủ làng
xã” của những cƣ dân nông nghiệp và sự nghiêm minh, kỷ luật chặt chẽ của luật
pháp nhà nƣớc luôn đối lập song lại đƣợc đòi hỏi phải dung hoà với nhau trong
cùng một thiết chế. Mâu thuẫn đó đã ngấm ngầm tạo ra những rạn nứt bên trong,
và khi đƣợc đẩy lên đỉnh điểm, cấu trúc đổ vỡ.

7. Sự thay đổi các triều đại là một tất yếu khách quan nằm trong chuỗi vận
động và phát triển của lịch sử. Bên cạnh những tác động bên ngoài từ các yếu tố
kinh tế, chính trị, xã hội thì sự vận động và biến đổi trong lòng cấu trúc là tác nhân
khác dẫn đến sự thay đổi. Khi mô hình cũ tỏ ra lỗi thời, không đủ đáp ứng những
yêu cầu mới đặt ra, tất yếu nó sẽ đƣợc điều chỉnh, thay thế bằng những thiết chế
mới phù hợp hơn. Lịch sử chế độ chính trị Việt Nam giai đoạn XV-XVIII cũng
không nằm ngoài qui luật trên.

175
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu thư tịch cổ


1. Đặng Xuân Bảng (1997), Sử học bị khảo, Viện Sử học và Nxb. Văn hoá thông tin,
Hà Nội.
2. Đặng Xuân Bảng (1997), Việt sử cương mục tiết yếu, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
3. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí (Tập 1), Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
4. Phan Huy Chú (2007), Lịch triều hiến chương loại chí (Tập 2), Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
5. Đại Việt sử ký tục biên (1991), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
6. Lê Quý Đôn (1977), Kiến văn tiểu lục, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
8. Hải Thƣợng Lãn Ông (1977), Ký sự lên kinh, Nxb. Hà Nội.
9. Hậu Lê thời sự ký lược - 4 tập, Bản dịch Viện Thông tin Khoa học xã hội.
10. Phạm Đình Hổ (2000), Vũ trung tuỳ bút, Nxb. Văn học, Hà Nội.
11. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (2000), Tang thương ngẫu lục, Nxb. Văn hoá thông
tin, Hà Nội.
12. Hồng Đức thiện chính thư (1959), Đại học viện Sài Gòn, Nam Hà ấn quán, Sài
Gòn.
13. Ngô Cao Lãng (1975), Lịch triều tạp kỷ (Tập 1), Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
14. Ngô Cao Lãng (1975), Lịch triều tạp kỷ (Tập 2), Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
15. Lê quý dật sử (1987), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Lê quý kỷ sự (1974), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
17. Lê triều chiếu lịnh thiện chính (1961), Đại học viện Sài Gòn, Nhà in Bình Minh,
Sài Gòn.
18. Lê triều cựu điển, Bản dịch đánh máy khoa Lịch sử, Ký hiệu LS - TL/00255.
19. Lê triều giáo hoá điều luật (1962), Bộ quốc gia giáo dục xuất bản, Sài Gòn.
20. Lê triều hình luật (1998), Nxb. Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
21. Lê triều quan chế (1997), Viện Sử học và Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.
22. Ngô gia văn phái (1998), Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb. Văn học, Hà Nội.
23. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 2), Nxb.
Khoa học xã hội Hà Nội.

176
24. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1993), Đại Việt sử ký toàn thư (Tập 3), Nxb.
Khoa học xã hội Hà Nội.
25. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục
(Tập 1), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
26. Quốc sử quán triều Nguyễn (1998), Khâm định Việt sử thông giám cương mục
(Tập 2), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
27. Quốc triều hình luật (1991), Viện sử học Việt Nam - Nxb. Pháp lý, Hà Nội.
28. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2006), Thiên Nam dư hạ tập //Một số văn bản pháp
luật Việt Nam thế kỷ XV - XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
29. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2006), Hồng Đức thiện chính thư //Một số văn bản
pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
30. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2006), Quốc triều chiếu lệnh thiện chính //Một số văn
bản pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
31. Viện Nghiên cứu Hán Nôm (2006), Quốc triều khám tụng điều lệ //Một số văn bản
pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
32. Viện Nhà nƣớc và pháp luật (1994), Lê triều hội điển //Một số văn bản pháp luật
Việt Nam thế kỷ XV - XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

II. Tài liệu nước ngoài


33. A.De Rhodes (1994), Lịch sử Vương quốc Đàng Ngoài, sách dịch, Uỷ ban Đoàn
kết Công giáo Tp. Hồ Chí Minh.
34. A.De Rhodes (1994), Hành trình và truyền giáo, sách dịch, Uỷ ban Đoàn kết Công
giáo Tp. Hồ Chí Minh.
35. C.B. Maybon (2006), Những người châu Âu ở nước An Nam, sách dịch, Nxb. Thế
giới, Hà Nội.
36. J.B. Tavernier (2005), Tập du ký mới và kỳ thú về Vương quốc Đàng Ngoài, sách
dịch, Nxb. Thế giới, Hà Nội.
37. Phan Đỉnh Khuê (1890), An Nam ký du (Relation d’un Voyage au Tonkin (1688)),
Translated by Vissiere BGHD Vol.IV, No.2, Paris.
38. S. Baron (1911), Description of the Kingdom of Tonqueen (1683)//Voyages and
Travels, London.
39. W. Dampier (2006), Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài năm 1688, sách dịch,
Nxb. Thế giời, Hà Nội.

III. Các công trình nghiên cứu


40. Đào Duy Anh (1956), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX (Quyển
thƣợng), Chuyên san ĐHSP, Hà Nội.

177
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
41. Đào Duy Anh (1956), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến cuối thế kỷ XIX (Quyển
hạ), Chuyên san ĐHSP, Hà Nội.
42. Phạm Đức Anh (2006), Hệ thống thanh tra, giám sát trong tổ chức chính quyền
triều Lê Thánh Tông (1460-1497) // Một chặng đƣờng nghiên cứu lịch sử (2001-
2006), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
43. Nguyễn Hoàng Anh (1997): Cải cách hệ thống quan lại địa phương dưới thời Lê
Thánh Tông // Lê Thánh Tông (1442-1497) - con ngƣời và sự nghiệp, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
44. Ban Nghiên cứu - Biên soạn lịch sử Thanh Hoá (1595), Chúa Trịnh - vị trí và vai
trò trong lịch sử, Thanh Hoá.
45. Nguyễn Đổng Chi (1967), “Chế độ nô tỳ thời Lê sơ và tác dụng của phong trào
quần chúng ở thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV (Trao đổi ý kiến với đồng chí Nguyễn
Đức Nghinh)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 99, tr.34-40.
46. Chu Phát Tăng, Trần Long Đào, Tề Cát Tƣờng (2001), Từ điển lịch sử chế độ
chính trị Trung Quốc, bản dịch của Nguyễn Văn Dƣơng, Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí
Minh.
47. Bình Di, Quang Vũ (2000), Họ Trịnh và Thăng Long, Nxb. Văn hoá dân tộc, Hà
Nội.
48. Phan Đại Doãn (1988), “Về nội các thời Lê-Trịnh (Nhân đọc Đại Việt Sử ký toàn
thƣ - Nội các quan bản)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5-6 (242-243), tr.52-55.
49. Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc (1994), Kinh nghiệm tổ chức quản lý nông
thôn Việt Nam trong lịch sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
50. Phan Đại Doãn (1997), “Vài suy nghĩ về cải cách của Lê Thánh Tông”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 6 (295), tr.57-66.
51. Phan Đại Doãn (1997), Lê Thánh Tông và Nho học - Nho giáo // Kỷ yếu Hội thảo
Lê Thánh Tông (1442-1497) - con ngƣời và Sự nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà
Nội, Hà Nội.
52. Nguyễn Khắc Đạm (1966), “Mấy ý kiến cùng ông Nguyễn Đổng Chi về phong
trào nông dân thế kỷ XVI và thế kỷ XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 87,
tr.38-44.
53. Bùi Xuân Đính (2002), “Lịch sử triều Mạc qua thƣ tịch và văn bia (Đọc sách)”,
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3 (322), tr.91-93.
54. Bùi Xuân Đính (2005), Nhà nước và pháp luật thời phong kiến Việt Nam, Nxb.
Pháp lý, Hà Nội.
55. Nguyễn Văn Động (1994), Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương thời vua Lê
chúa Trịnh (1599-1788)// Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV -
thế kỷ XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

178
56. Bùi Xuân Đức (1994), Pháp luật về tổ chức chính quyền địa phương triều Lê//
Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - thế kỷ XVIII, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
57. Vũ Minh Giang (1990), “Thử nhìn lại những cải cách kinh tế của Hồ Quý Ly”,
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.
58. Vũ Minh Giang (1993), “Lịch sử và hiện trạng hệ thống chính trị nƣớc ta - một số
vấn đề khoa học đang đặt ra”, Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 2,
tr.1-16.
59. Vũ Minh Giang (1993) “Xây dựng lối sống theo pháp luật - nhìn từ góc độ lịch sử
truyền thống”. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3.
60. Vũ Minh Giang (1993), “Những hệ luận rút ra từ những đặc trƣng của lịch sử hệ
thống chính trị Việt Nam”, Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 6.
61. Vũ Minh Giang (1993), “Quan hệ giữa các yếu tố truyền thống với hệ thống chính
trị trong thời kỳ quá độ lên CHXH ở nƣớc ta”, Tạp chí Thông tin lý luận, số 7.
62. Vũ Minh Giang (1994), Pháp luật với các yếu tố phi quan phương // Xã hội và
Pháp luật, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
63. Vũ Minh Giang (1994), Pháp luật với xã hội Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XVIII // Nghiên cứu hệ thống pháp luật Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
64. Vũ Minh Giang (1995), Lịch sử và hiện trạng hệ thống chính trị Việt Nam, Đề tài
Khoa học - công nghệ cấp nhà nƣớc, mã số KX.05.03.
65. Vũ Minh Giang (1995), Xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam (đồng tác giả),
Hà Nội.
66. Vũ Minh Giang (1999), Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XV-XVII // Kỷ
yếu Hội thảo quốc tế “Quan hệ Việt - Nhật qua giao lƣu gốm sứ", Hà Nội.
67. Vũ Minh Giang (2000), Đặc điểm của các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư
pháp trong lịch sử trung đại Việt Nam //Xây dựng nhà nƣớc pháp quyền Việt
Nam. Hà Nội,1995; cũng in trong Một chặng đƣờng nghiên cứu lịch sử (1995-
2000), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
68. Nguyễn Duy Hinh (1986), “Hệ tƣ tƣởng Lê”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6
(231), tr.45-52.
69. Trƣơng Thị Hoà (1997), Thể chế chính trị, hành chính và pháp quyền trong cải
cách Hồ Quý Ly, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
70. Thái Hoàng (1995), “Thanh tra, giám sát và khảo xét quan lại thời phong kiến ở
nƣớc ta”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (283), tr.26-31.
71. Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam - Sở Văn hoá Thông tin Hải Phòng (1996), Nhà
Mạc và dòng học Mạc trong lịch sử, Hải Phòng.
72. Hội Sử học Hải phòng (2000), Mạc Đăng Dung và vương triều Mạc, Hải Phòng.

179
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
73. Nguyễn Xuân Huyên (1995), Sự nghiệp các chúa Trịnh trong lịch sử nước Đại
Việt, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
74. Đỗ Đức Hùng (1993), “Trịnh Cƣơng và Nguyễn Công Hãng với cuộc cải cách tài
chính ở Đàng Ngoài đầu thế kỷ XVIII”, Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp Hà
Nội, số 3, tr.45-49.
75. Nguyễn Quốc Hùng (2007), Lịch sử Nhật Bản (chủ biên), Nxb. Thế giới, Hà Nội.
76. Hoàng Hƣng (1989), “Bối Khê trạng nguyên đình đối văn sách”, Tạp chí Hán
Nôm, số 1, tr.72.
77. Nguyễn Thừa Hỷ (1997), Về đường lối trị nước của Lê Thánh Tông // Lê Thánh
Tông - con ngƣời và sự nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
78. Insun Yu (1994): Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII - XVIII, Nxb. Khoa học xã
hội, Hà Nội.
79. Insun Yu (2006), “Sự thành lập triều Lê và sự xác lập lý luận Nho giáo từ ý niệm
Phật giáo đến ý niệm Nho giáo”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 (357), tr.18-33
và số 2 (358), tr.28-44.
80. John Kremers Whitmore (1968), The Development of Le Government in Fifteenth
Centery Vietnam, Cornell University, USA.
81. Nguyễn Hải Kế (2004), Nước Đại Việt thời Lê sơ - một vài đặc điểm căn bản của
nền tảng chính trị, kinh tế văn hóa, xã hội // Quốc triều hình luật - lịch sử hình
thành, nội dung và giá trị, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
82. Nguyễn Văn Kiệm (1995), “Nƣớc Việt Nam qua thƣ của các giáo sĩ phƣơng Tây
nửa sau thế kỷ XVIII (Tƣ liệu về lịch sử, văn hoá Đàng Ngoài)”, Tạp chí Xưa và
Nay, số 20, tr.29.
83. Nguyễn Văn Kiệm (1995), “Chính trị Đàng Ngoài”, Tạp chí Xưa và Nay, số 22,
tr.28-29 và số 23, tr.29.
84. Nguyễn Văn Kim (2003), “Về cơ chế hai chính quyền cùng song song tồn tại trong
lịch sử Việt Nam và Nhật Bản”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 (326), tr.62-74.
85. Trần Trọng Kim (2005), Việt Nam sử lược, Nxb. Tổng hợp Thành phố Hồ Chí
Minh.
86. Hoàng Văn Lân (1999), “Quan hệ giữa nhà nƣớc quân chủ tập quyền với làng xã
trong thế kỷ XV ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3 (304), tr.34-39.
87. Phan Huy Lê (1959), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Tập 2, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
88. Phan Huy Lê (1960), Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam, Tập 3, Nxb. Giáo dục,
Hà Nội.
89. Phan Huy Lê (1984), “Lê Lợi (1385-1433) - Sự nghiệp cứu nƣớc và dựng nƣớc”,
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (219), tr.1-12.

180
90. Phan Huy Lê (1991), Nguyễn Bỉnh Khiêm và thời đại của ông// Trạng Trình
Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hội Khoa học Lịch sử Hải Phòng, Viện Văn học, Hải Phòng.
91. Phan Huy Lê (1992), “Cải cách của Hồ Quý Ly và sự thất bại của triều Hồ", Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 9-10 (264), tr.2-8.
92. Phan Huy Lê (1993), “Thiết chế chính trị: di sản và kế thừa", Tạp chí Khoa học,
Đại học Tổng hợp Hà Nội, số 2.
93. Phan Huy Lê (1996) Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử: tổng kết hội thảo //
Nhà Mạc và dòng họ Mạc trong lịch sử, Hà Nội.
94. Phan Huy Lê (1997), Lê Thánh Tông (1442-1492) // Lê Thánh Tông (1442-1492),
con ngƣời và sự nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
95. Phan Huy Lê (1998), Lê Thánh Tông và sự nghiệp của ông trong bối cảnh lịch sử
đất nước thế kỷ XV // Lê Thánh Tông, thơ văn và cuộc đời, Nxb. Hội nhà văn, Hà
Nội.
96. Vũ Văn Mẫu (1972), Cổ luật Việt Nam thông khảo, Sài Gòn.
97. Vũ Văn Mẫu (1973), Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử (Quyển thứ nhất, Tập hai),
Sài Gòn.
98. Vũ Văn Mẫu (1974), Pháp luật thông khảo, Sài Gòn.
99. Vũ Văn Mẫu (1974), Cổ luật Việt Nam thông khảo và tư pháp sử (Quyển thứ nhất,
Tập nhất), Sài Gòn.
100. Vũ Văn Mẫu (1975), Cổ luật Việt Nam thông khảo và tư pháp sử (Quyển thứ
nhất, Tập hai), Sài Gòn.
101. Vũ Duy Mền (1991), “Một số vấn đề về làng xã thời Mạc”, Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử, số 6 (259), tr.22-27.
102. Dƣơng Minh (1978), “Lê Anh Tuấn và xã hội Đàng Ngoài hồi nửa đầu thế kỷ
XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 2 (179), tr.60-63.
103. Nguyễn Cảnh Minh (1992), “Vài ý kiến xung quanh vấn đề đánh giá Hồ Quý
Ly”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5, tr.23-26.
104. Lê Kim Ngân (1963), Tổ chức chính quyền trung ương dưới thời Lê Thánh Tông
(1460 - 1497), Bộ Quốc gia giáo dục, Sài Gòn.
105. Lê Kim Ngân (1974), Văn hoá chính trị Việt Nam - Chế độ chính trị Việt Nam
thế kỷ XVII-XVIII, Viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.
106. Đặng Phƣơng Nghi (1969), Les Institutions du Vietnam au XVIIIè Siècle (Paris,
Publications de ľ Ecole Franầaise ď Extrême-Orient, vol.LXIV, 141p) (Những
thể chế của Việt Nam thế kỷ 18) Nxb. Nhà xuất bản của Đại học Viễn đông Pháp,
Paris.

181
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
107. Lê Trong Ngoạn, Ngô Văn Ban, Nguyễn Công Lý (1997). Lược thảo và tra cứu
về học chế, quan chế ở Việt Nam từ 1945 về trước, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.
108. Đặng Kim Ngọc (1998), “Vấn đề tuyển dụng quan chức thời Lê sơ (1428-
1527)”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 (300), tr.49-58.
109. Nguyễn Quang Ngọc (2006), Quan hệ nhà nước - làng xã: quá trình lịch sử và
bài học kinh nghiệm // Một chặng đƣờng nghiên cứu lịch sử (2001-2006), Nxb.
Thế giới, Hà Nội.
110. Lê Nguyễn (2004), Xã hội Đàng Ngoài qua bút ký của người nước ngoài, Nxb.
Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
111. Nguyễn Đức Nhuệ (1997), “Tìm hiểu tổ chức Phiên trong bộ máy nhà nƣớc thời
Lê Trung hƣng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 5 (294), tr.46-51.
112. Nguyễn Đức Nhuệ (1997), Vài nét về sự thay đổi hành chính và tổ chức chính
quyền địa phương dưới thời Lê Thánh Tông // Lê Thánh Tông (1442-1497) - con
ngƣời và sự nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
113. Nguyễn Đức Nhuệ (2006), “Một số nét về khoa cử và thể lệ bổ dụng quan lại
thời Lê Trung hƣng”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 12 (368), tr.31-38.
114. Đỗ Văn Ninh (2002): Từ điển chức quan Việt Nam, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
115. Nguyễn Danh Phiệt (1984), “Lê Lợi trong sự nghiệp xây dựng đất nƣớc”, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (219), tr.21-29.
116. Nguyễn Danh Phiệt (1990), “Chế độ phong kiến trong lịch sử Việt Nam từ thế
kỷ X đến thế kỷ XV và những di sản của nó”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 3
(250), tr.21-37.
117. Nguyễn Danh Phiệt (1995), “Từ tục ngữ Phép vua thua lệ làng, suy nghĩ về chức
năng và quyền hạn của chính quyền làng xã Việt Nam thời trung đại”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 6 (283), tr.38-42.
118. Nguyễn Danh Phiệt (1997): Hồ Quý Ly, Nxb. Văn hoá thông tin, Hà Nội.
119. Nguyễn Danh Phiệt (2003), “Thời Lê sơ vào buổi suy tàn - Bi kịch và hệ quả”,
Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (331), tr.3-14.
120. Nguyễn Danh Phiệt (2004), “Việt Nam thời Mạc - Cuộc chiến không khoan
nhƣợng giữa hai tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh và Mạc”, Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử, Số 9 (340), tr.3-13.
121. Vũ Thị Phụng (1990), Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam (từ nguồn gốc
đến trước Cách mạng tháng Tám 1945), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
122. Vũ Thị Phụng (1993), Một vài khía cạnh cần kế thừa trong nền hành chính Việt
Nam trước cách mạng tháng Tám năm 1945 // Phƣơng thức tổ chức hoạt động
quản lý của bộ máy nhà nƣớc, Nxb. Khoa học kỹ thuật, Hà Nội.

182
123. Vũ Thị Phụng (1996), “Hệ thống văn bản quản lý nhà nƣớc Việt Nam thời phong
kiến”, Tạp chí Quản lý nhà nước”, số 2, tr.38-41.
124. Hà Thị Lan Phƣơng (2007), Pháp luật và thực tiễn tố tụng ở Việt Nam từ thế kỷ
XV đến thế kỷ XVIII, Luận văn thạc sĩ sử học, Tƣ liệu khoa Lịch sử, Trƣờng Đại
học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
125. Nguyễn Tƣờng Phƣợng (1950), Lược khảo binh chế Việt Nam qua các thời đại,
Hà Nội.
126. Nguyễn Phan Quang (viết chung) (1995), Mấy vấn đề về quản lý nhà nước và
củng cố pháp quyền trong lịch sử Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
127. Vũ Văn Quân (1998), Một số vấn đề về pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỷ XV
đến thời Pháp thuộc (viết chung), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
128. Vƣơng Đình Quyền (1993), “Thể chế về văn bản quản lý giấy tờ trong nền hành
chính dƣới triều Lê Thánh Tông”, Tạp chí Lưu trữ Việt Nam, số 3.
129. Trƣơng Hữu Quýnh (1992), “Nhìn lại vấn đề Hồ Quý Ly trong lịch sử”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 5,18-22.
130. Trƣơng Hữu Quýnh (1992), “Công cuộc cải tổ và xây dựng Nhà nƣớc pháp
quyền thời Lê Thánh Tông”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (265), tr.1-8.
131. Trƣơng Hữu Quýnh (1994), “Nhà nƣớc quân chủ Việt Nam thời xƣa: Ý thức về
quyền lực”, Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 4.
132. Trƣơng Hữu Quýnh (1994), “Tìm hiểu pháp luật về quan chức ở nƣớc ta thời
phong kiến”, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 5.
133. Trƣơng Hữu Quýnh (1995), “Hệ thống hành chính quốc gia ở nƣớc ta thời xƣa:
Một di sản cần nghiên cứu”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (283), tr.16-19.
134. Trƣơng Hữu Quýnh (1995), “Mấy suy nghĩ về hệ thống hành chính địa phƣơng ở
nƣớc ta thời phong kiến”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (283), tr.32-27.
135. Trƣơng Hữu Quýnh (1995), Chế độ đào tạo và tuyển chọn quan chức ở nƣớc ta
thời phong kiến” Tạp chí Tổ chức Nhà nước, số 1.
136. Trƣơng Hữu Quýnh (1995), Lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam // Một số
vấn đề về lịch sử Việt Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh - Phân viện Hà Nội,
Hà Nội.
137. Trƣơng Hữu Quýnh (1995), Chúa Trịnh Cương và những vấn đề kinh tế - chính
trị // Kỷ yếu hội thảo “Chúa Trịnh - vị trí, vai trò lịch sử”. Nxb. Thanh Hoá.
138. Trƣơng Hữu Quýnh (1997), Đại cương lịch sử Việt Nam, Tập 1 (chủ biên). Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
139. Trƣơng Hữu Quýnh (1997), Suy nghĩ về cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh
Tông // Lê Thánh Tông (1442-1497) - con ngƣời và sự nghiệp, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

183
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
140. Trƣơng Hữu Quýnh (1997), “Vua Lê Thánh Tông - Con ngƣời và sự nghiệp rạng
rỡ một thời”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (295), tr.52-56.
141. Lê Thị Sơn (chủ biên) (2004), Quốc triều hình luật: Lịch sử hình thành và nội
dung giá trị, NXB. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
142. Phạm Văn Sơn (1959-1960), Việt sử tân biên, 5 quyển, Sài Gòn.
143. Lê Đình Sỹ (1997), “Cải cách võ bị triều Lê Thánh Tông”, Tạp chí Lịch sử Quân
sự, số 6, tr.54-57.
144. Lê Ngọc Tạo (2000), “Những chính sách, biện pháp của Nhà nƣớc Lê sơ phòng
chống tệ nạn xã hội”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 4 (311), tr.79-82.
145. Văn Tạo (1991), “Pháp luật Việt Nam trong lịch sử và di sản của nó”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 3 (256), tr.14-41.
146. Văn Tạo (1996), “Nhà Mạc và vấn đề ngụy triều trong lịch sử Việt Nam”, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 2 (285), tr.28-32.
147. Văn Tạo (2000), Kinh nghiệm xây dựng và quản lý chính quyền các cấp trong
lịch sử, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội
148. . Vũ Minh Tâm (1997), Thơ Lê Thánh Tông - Đạo và Mỹ // Lê Thánh Tông
(1442-1497) - con ngƣời và sự nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
149. Văn Tân (1962), “Sự khác biệt về chất giữa xã hội thời Trần và xã hội thời Lê
sơ”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 45, tr.3-11.
150. Văn Tân (1963), “Thử căn cứ vào bộ luật Hồng Đức để tìm hiểu xã hội thời Lê
sơ”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 46, tr.22-29, 59.
151. Văn Tân (1968), “Chế độ quân chủ tập quyền trong lịch sử Việt Nam”, Tạp chí
Nghiên cứu lịch sử, số 110, tr.19-25.
152. Phan Đăng Thanh, Trƣơng Thị Hoà (1995), Lịch sử các định chế chính trị và
pháp quyền Việt Nam (tập 1: Từ thời đại Hùng Vương đến nhà Hồ), Nxb. Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
153. Phan Đăng Thanh, Trƣơng Thị Hoà (1996), Cải cách Hồ Quý Ly, Nxb. Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
154. Lƣơng Đức Thiệp (1940), Xã hội Việt Nam, Hà Nội.
155. Ngô Đức Thọ (2006), Các nhà khoa bảng Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.
156. Vũ Quốc Thông (1974), Pháp chế sử Việt Nam, Tủ sách Đại học Sài Gòn.
157. Đinh Khắc Thuân (1991), “Bia Mạc”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (259),
tr.51-59.
158. Đinh Khắc Thuân (1997), Văn bia thời Mạc, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
159. Đinh Khắc Thuân (2001), Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn bia, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.

184
160. Nguyễn Tài Thƣ (1997), Tư tưởng Lê Thánh Tông và triều đại thịnh trị của ông
// Lê Thánh Tông (1442- 1497) - con ngƣời và sự nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
161. Minh Tranh (1955), “Sự phát triển của chế độ phong kiến ở nƣớc ta và vai trò
của Hồ Quý Ly trong cuối thế kỷ XIV và đầu thế kỷ XV”, Tạp chí Văn Sử Địa,
số 11, tr.5-9.
162. Minh Tranh (1956), “Xã hội Việt Nam trong thế kỷ XVIII và những phong trào
nông dân khởi nghĩa”, Tạp chí Văn Sử Địa, 1956, số 14, tr. 15-29.
163. Hoàng Thúc Trâm (1940), Lịch sử xã hội Việt Nam, Hà Nội.
164. Đinh Gia Trinh (1968), Sơ thảo lịch sử Nhà nước và pháp quyền Việt Nam (tập
1): Thời đại trước phong kiến và thời đại phong kiến, Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
165. Vƣơng Hoàng Tuyên (1959), “Một vài ý kiến về nguyên nhân hình thành của
Nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng tập quyền ở Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử, số 4, tr.59-65.
166. Trần Thị Tuyết (1994), Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương thời kỳ Lê Sơ
(thế kỷ XV) qua các văn bản pháp luật // Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt
Nam thế kỷ XV - thế kỷ XVIII, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
167. Nguyễn Minh Tƣờng (1997), Sử học thời Lê Thánh Tông // Lê Thánh Tông
(1442-1497) - con ngƣời và sự nghiệp, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội,
tr.418-427.
168. Đào Trí Úc (1994), Những quan điểm và phương pháp tiếp cận chủ yếu khi
nghiên cứu về lịch sử pháp luật của nhà nước Việt Nam giai đoạn thế kỷ XV - thế
kỷ XVIII// Nghiên cứu về hệ thống pháp luật Việt Nam thế kỷ XV - thế kỷ XVIII,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
169. Đào Tố Uyên (1995), “Tìm hiểu tổ chức chính quyền Trung ƣơng ở nƣớc ta thời
phong kiến”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (283), tr.20-25.
170. Nguyễn Đình Ƣớc (1990), “Hồ Quý Ly và triều Hồ nhìn từ phía lịch sử quân
sự”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (253), tr.25-30.
171. Nguyễn Hoài Văn (2002), Tìm hiểu tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ Lê
Thánh Tông đến Minh Mệnh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội..
172. Nguyễn Thị Thanh Vân (1983), Tổ chức chính quyền Lê - Trịnh (thế kỷ XVI-
XVIII), Khoá luận tốt nghiệp, Tƣ liệu khoa Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học xã
hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
173. Viện Sử học (1996), Vương triều Mạc (1527-1592), Nxb. Khoa học xã hội, Hà
Nội.
174. Nguyễn Việt, Vũ Minh Giang, Nguyễn Mạnh Hùng (1983), Quân thuỷ trong lịch
sử chống ngoại xâm, Nxb. Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

185
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
175. Trần Thị Vinh (1988), “Tìm hiểu thiết chế và tổ chức Nhà nƣớc thời Trần”, Tạp
chí Nghiên cứu lịch sử, số 3-4 (240-241), tr.21-25, 84.
176. Trần Thị Vinh (1990), “Thiết chế chính trị ở Việt Nam cuối thế kỷ XIV - đầu thế
kỷ XV và những hoạt động chính trị của Hồ Quý Ly”, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, số 6 (259), tr.10-19.
177. Trần Thị Vinh (1991), “Thiết chế Nhà nƣớc thời Mạc”, Tạp chí Nghiên cứu lịch
sử, số 6 (259), tr.11-15.
178. Trần Thị Vinh (1992), “Nhà nƣớc thời Hồ (1400-1407)”, Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử, số 5 (264), tr.29-30, 42.
179. Trần Thị Vinh (1993), Thể chế chính trị đầu thời Lê Trung hưng và vị trí của
Phùng Khắc Khoan // Phùng Khắc Khoan cuộc đời và thời đại, Sở Văn hoá
Thông tin Hà Tây.
180. Trần Thị Vinh (1995), Chế độ quân chủ thời Mạc (1527-1592) và thể chế chính
trị đương thời // Vƣơng triều Mạc (1527-1592), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
181. Trần Thị Vinh (1995), Thể chế chính trị ở Việt Nam cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ
XVI và những hoạt động chính trị của Mạc Đăng Dung tiến tới thành lập vương
triều Mạc // Vƣơng triều Mạc (1527-1592), Nxb., Khoa học xã hội, Hà Nội.
182. Trần Thị Vinh (1995), Thiết chế bộ máy chính quyền thời vua chúa, sản phẩm
đặc biệt của lịch sử Việt Nam thế kỷ XVI-XVII // Chúa Trịnh vị trí và vai trò lịch
sử, Ban Nghiên cứu - Biên soạn lịch sử Thanh Hoá.
183. Trần Thị Vinh (2004), “Thể chế chính quyền Nhà nƣớc Lê - Trịnh: Sản phẩm
đặc biệt của lịch sử Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử,
Số 1 (332), tr.21-30.
184. Trần Thị Vinh (2006), “Phƣơng thức tuyển dụng quan lại cho bộ máy chính
quyền nhà nƣớc ở thế kỷ XVII-XVIII”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6 (362),
tr.9-18 và số 7 (363), tr.3-8.
185. Vụ Bảo tồn bảo tàng - Bộ Văn hoá Thông tin (1970), Niên biểu Việt Nam, Nxb.
Văn hoá, Hà Nội.
186. Trần Quốc Vƣợng (1991), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bối cảnh văn
hoá Việt Nam thế kỷ XVI// Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Hội Khoa học Lịch
sử Hải Phòng, Viện Văn học, Hải Phòng.
187. Trần Quốc Vƣợng (1993), Trạng Bùng (1528-1613) và đạo giáo dân gian Việt
Nam trong bối cảnh lịch sử - xã hội Đại Việt thế kỷ XVI - thế kỷ XVII// Phùng
Khắc Khoan cuộc đời và thời đại, Sở Văn hoá thông tin Thể thao Hà Tây.
188. Yao Ta Kao (1997), “Một vấn đề về chế độ hành chính của chính quyền nhà Lê
ở Việt Nam thế kỷ XV”, Tạp chí Khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, số 1,
tr.12-25.

186
PHỤ LỤC

187
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
PHỤ LỤC 1

SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY HÀNH CHÍNH CÁC TRIỀU


LÊ SƠ, MẠC, LÊ - TRỊNH

1. Sơ đồ Tổ chức bộ máy hành chính thời Lê Sơ

HOÀNG ĐẾ

VĂN CÁC CƠ
NGỰ
THƢ QUAN
LỤC LỤC LỤC SỬ
PHềNGT CHUYÊN
KHOA
W TỰ BỘ ĐÀI MÔN

ĐẠO/THỪA TUYÊN
Đô ty/Thừa ty/Hiến ty

PHỦ

HUYỆN CHÂU

XÃ/PHƢỜNG XÃ/TRANG/

SÁCH/ĐỘNG

188
2. Sơ đồ Tổ chức bộ máy hành chính thời Mạc

HOÀNG ĐẾ

PHỤ CHÍNH

VĂN CÁC CƠ
NGỰ
THƢ QUAN
LỤC LỤC LỤC SỬ
PHềNGT CHUYÊN
KHOA ĐÀI
W TỰ BỘ MÔN

ĐẠO/THỪA TUYÊN
Đô ty/Thừa ty/Hiến ty

PHỦ

HUYỆN CHÂU

TỔNG

XÃ/PHƢỜNG XÃ/SÁCH/

ĐỘNG/NGUỒN

189
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
3. Sơ đồ Tổ chức bộ máy hành chính thời Lê - Trịnh

VUA CHÚA

TRIỀU ĐÌNH PHỦ ĐƢỜNG

CÁC CƠ
CÁC
QUAN
VĂN
CHUYÊN NGỰ LỤC LỤC LỤC LỤC PHỦ NGŨ
THƢ
MÔN SỬ KHOA TỰ BỘ PHIấN LIấU PHỦ
PHềNG
ĐÀI
TW

ĐẠO/TRẤN

Trấn ty/Thừa ty/Hiến ty

PHỦ

HUYỆN CHÂU

TỔNG

XÃ/PHƢỜNG XÃ/SÁCH/

ĐỘNG/NGUỒN

190
PHỤ LỤC 2

DANH SÁCH CÁC CHỨC QUAN Ở TRIỀU ĐÌNH TRUNG ƢƠNG


THẾ KỶ XV-XVIII1

I. Thời Lê Sơ
Bảng 1: Các chức quan Hàn lâm viện đầu thời Lê Sơ
(Thống kê từ chính sử)
Chức Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Ghi chú Tài liệu dẫn
danh
HLV
Đại học Nguyễn Trãi 1427 Triều liệt đại phu, Nhập Thừa chỉ TT,2:263
sĩ/ Học nội hμnh khiển, Lại bộ học sĩ
sĩ/Thừa th−ợng th− kiêm hμnh
chỉ học Khu mật viện sự
sĩ/Thừa Nguyễn Đình Mỹ 1461 Quyền Lễ nghi viện Hμn lâm TT,2:394,39
chỉ th−ợng th−, thăng Binh viện học sĩ 9
bộ thượng thư (1463),
thăng quyền Lại bộ tả thị
lang kiêm Bí th− giám
học sĩ (1467)
Nguyễn Như Đổ 1463 Môn hạ sảnh ty tả gián Thừa chỉ TT,2:398,39
nghị đại phu tri Bắc đạo học sĩ 9
quân dân bạ tịch, thăng
Lại bộ thượng thư (1463)
Nguyễn Vĩnh Tích 1463 Tri Đông đạo quân dân, Thừa chỉ TT,2:398,39
thăng Binh bộ thượng thư học sĩ 9
(1463)
Trần Bàn 1465 Quyền Ngự sử đại phu, Hμn lâm TT,2:406
quyền Binh bộ tả thị lang viện đại học
kiêm bí th− giám học sĩ sĩ
(1467)
Vũ Vĩnh Trinh 1466 Hμnh Hải Tây đạo Tuyên Hμn lâm TT,2:409
chính sứ ty tham tri kiêm viện học sĩ
bí th− giám học sĩ, thăng
Hμn lâm viện đại học sĩ
quyền Lễ bộ hữu thị lang
kiêm Quang lộc tự khanh
bí th− giám học sĩ tri kinh
diên sự (1467)
Nguyễn Trực 1466 Thừa chỉ TT,2:409
Nguyễn Cư Đạo 1466 Hộ bộ hữu thị lang kiêm Thừa chỉ TT,2:409
Cẩn Đức điện đại học sĩ
nhập thị kinh diên tả xuân
ph−ờng thái tử tả dị đức
Thị độc Nguyễn Thiên Tích 1442 Tri ngự tiền học sinh cục TT,2:352
học sĩ cận thị chi hậu
Hoμng Thanh 1448 Tri ngự tiền học sinh cục TT,2:357
Trịnh Thiết Tr−ờng 1467 Lại khoa đô cấp sự trung TT,2:422
Phạm C− 1467 Binh khoa đô cấp sự trung Thự viện sự TT,2:422

1
Các chữ viết tắt trong bảng: Tr: Trước; SH, tức Số hiệu: theo số thứ tự trong sách Các nhà Khoa
bảng Việt Nam của Ngô Đức Thọ; TT:2, tức Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2; CM:1, tức Khâm định
Việt sử thông giám cương mục, tập 1; LC: Lịch triều hiến chương loại chí, TB: Đại Việt sử ký tục
biên.

191
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Đμo Tuấn Tr.14 Phó đô ngự sử, Đông các TT,2:426
67 hiệu thư (1482)

Thị giảng Lê Cảnh X−ớc 1437 Ngự tiền học sinh cục phó TT,2:344
Trần Phong 1448 Thị kinh diên TT,2:357
Nguyễn Khắc Hiếu 1448 Phụng thị kinh diên TT,2:360
Nguyễn Trực 1449 An phủ phó sứ lộ Nam TT,2:476
Sách Th−ợng
Trịnh Thiết Tr−ờng 1457 Công bộ hữu thị TT,2:383
lang(1467)
Trực học Nguyễn Khắc Hiếu 1443 TT,2:355
sĩ Trịnh Kiên 1448 TT,2:467
Nguyễn Như Đổ 1449 TT,2:376
Lương Như Hộc 1449 TT,2:376
Nguyễn Nghiêu Tư 1449 TT,2:376
Nguyễn Bá Ký 1452 TT,2:379
Lương Thế Vinh 1467 Công khoa cấp sự trung TT,2:418
Nguyễn Đức Trinh 1469 TT,2:436
Quách Đình Bảo 1469 TT,2:436
Đinh Thức Thông 1469 TT,2:438

Bảng 2: Các chức quan Hàn lâm viện từ thời Hồng Đức về sau
(Thống kê từ chính sử)
Chức Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Ghi chú Tài liệu dẫn
danh
HLV
Thừa chỉ Thân Nhân Trung 1477 Đông các đại học sĩ, kiêm TT,2:468
Quốc tử giám tế tửu
(1493)
Nguyễn Vũ 1516 Hình bộ th−ợng th− kiêm TT,3:75
Bảo Thiên điện Đông các
đại học sĩ
Nguyễn Hữu Nghiêm 1520 TT,3:93
Thị độc Thân Nhân Trung 1469 Đông các đại học sĩ TT,2:438
(1473)
Đào Cử 1482 Đông các hiệu th−, thăng TT,2:486
Đông các học sĩ Tu Thận
thiếu doãn (1488)
Nguyễn Xung Xác 1484 Tú lâm cục t− huấn TT,2:492
(1484)
Đỗ Nhuận 1484 Đông các đại học sĩ TT,2:492
L−u H−ng Hiếu 1495 Tham TT,2:513
ch−ởng viện
sự
Nguyễn Bảo 1502 Lễ bộ th−ợng th− Tham TT,3:29
ch−ởng viện
sự
Đỗ Nhân 1506 Lễ bộ hữu thị lang Tham TT,3:41
ch−ởng viện
sự
L−ơng Đắc Bằng 1509 Lễ bộ tả thị lang, thăng Tham TT,3:51

192
Lại bộ tả thị lang (1510) ch−ởng viện
sự
Đàm Thận Huy 1510 Hình bộ thượng thư Tham LC,1:484
ch−ởng viện
sự
Thị giảng L−u H−ng Hiếu 1489 Tham TT,2:506
ch−ởng viện
sự
Lê Ngạn Tuấn 1499 Tham TT,3:16
ch−ởng viện
sự
Thị thư Vũ Kiệt 1475 TT,2:465
Lương Thế Vinh 1480 Sùng văn quán, Tú lâm TT,2:483
cục t− huấn (1484)
Đμm Văn Lễ 1483 TT,2:488
Nguyễn Đôn Hậu 1484 Tú lâm cục t− huấn TT,2:492
Nguyễn Quang Bật 1495 TT,2:513
Nguyến Đức Huấn 1495 TT,2:513
Vũ D−ơng 1495 TT,2:512
Ngô Thầm 1495 TT,2:513
Trần Khắc Niệm 1496 Tú lâm cục t− huấn TT,2:514
Ngô Thầm 1496 TT,2:514
Đỗ Nhân 1500 Tú lâm cục t− huấn TT,3:23
Nguyễn Tôn Miệt 1500 TT,3:24
Đặng Minh Khiêm 1501 Tú lâm cục t− huấn TT,3:27
Vũ Cán 1510 TT,3:53
Hứa Tam Tỉnh 1513 TT,3:71
Đãi chế D−ơng Nh− Châu 1467 TT,2:430
Ngô Văn Cảnh 1495 TT,2:513
Phạm Trí Khiêm 1495 TT,2:513
L−u Th− Ngạn 1495 TT,2:513
Hiệu lý Dương Trực Nguyên 1492 TT,2:510
Đỗ Nhân 1493 TT,2:512
Nguyễn Nhân Bị 1495 TT,2:513
Nguyễn Tôn Miệt 1495 TT,2:513
Ngô Quyền 1495 TT,2:513
Nguyễn Bảo Khuê, 1495 TT,2:513
Bùi Phổ, 1495 TT,2:513
Chu Hoãn 1495 TT,2:513
Nguyễn Đức Thuận 1497 TT,2:526
Phan Tông 1497 TT,2:526
Phạm Khắc Thận 1497 TT,2:526
Nguyễn Đình Tuấn 1497 TT,2:526
Nguyễn Viên 1500 TT,3:25
Vũ Châu 1500 TT,3:25
Ngô Tuy 1507 TT,3:43
Kiểm thảo Lê Tuấn Ngạn 1480 TT,2:482
Phan Quý 1480 TT,2:482
Phạm Cẩn Trực 1495 TT,2:513

193
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Nguyễn ích Tốn 1495 TT,2:513
Đỗ Thuần Thứ 1495 TT,2:513
Phạm Nhu Huệ 1495 TT,2:513
L−u Dịch 1495 TT,2:513
Đμm Thận Huy 1495 TT,2:513
Phạm Đạo Phú 1495 TT,2:513
Nguyễn Mẫn 1500 TT,3:25
Khuất Quỳnh Cửu 1503 TT,3:36
Đinh Thuận 1507 TT,3:43
Doãn Mậu Khôi 1507 TT,3:43
Đinh Trinh 1507 TT,3:43
Nguyễn S− (tức 1513 TT,3:70
Nguyễn S− Truyền)
Nguyễn Mậu 1513 TT,3:71

Bảng 3: Các chức quan Hàn lâm viện từ đầu thời Lê Sơ


(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
STT Số Nhõn vật Khoa Hạng Chức Chức tƣớc khác
1
hiệu thi đỗ quan
Hàn lõm
1 83 Vũ Vĩnh Trinh 1429 Đại học sĩ Quyền Lễ bộ Hữu thị lang,
kiêm Bí thư giám, Tri Kinh
diên sự
2 93 Nguyễn Tử Tấn 1435 Học sĩ
3 99 Nguyễn Hộc 1442 4 Thượng thư bộ Binh
4 418 Đàm Đỡnh Phương 1481 5 Bí thư
5 84 Nguyễn Khắc Hiếu 1429 Trực học
6 89 Chu Tam Tỉnh 1431 sĩ
7 100 Vũ Lóm 1442 4 Ngự tiền học sinh
8 124 Lờ Hiển 1442 5
9 130 Trịnh Kiờn 1448 4
10 142 NguyễnNguyờn Chẩn 1448 5 Khu mật sứ
11 166 Bựi Siờu 1453 5
12 193 Vũ Như Nhuế 1463 4 Hàn lâm khởi cư trỳ

1
Hạng đỗ: 1. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh (Trạng nguyên); 2. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập
đệ đệ nhị danh (Bảng nhãn); 3. Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ tam danh (Thám hoa); 4. Đệ nhị giáp
tiến sĩ xuất thân (Hoàng giáp); 5. Đệ tam giáp đồng tiến sĩ xuất thân.

194
Bảng 4: Các chức quan Hàn lâm viện từ thời Hồng Đức về sau
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
STT Số Nhõn vật Khoa Hạng Chức Chức tƣớc khác
hiệu thi đỗ quan Hàn
lõm viện
1 80 Trỡnh Thuấn Du 1429 5 Thừa chỉ Tri tam quỏn sự, kiờm Khu
mật viện sự, Nhập thị kinh
diờn
2 94 Nguyễn Trực 1442 1 Tế tửu Quốc Tử giỏm
3 108 Nguyễn Đạt 1442 5 Thượng thư
4 132 Nguyễn Vĩnh Tớch 1448 4 Thượng thư bộ Binh
5 135 Đặng Tuyờn 1448 4
6 204 Đỗ Bá Lược 1463 5 Chuyển vận sứ
7 213 Lờ Nghĩa 1463 5 sử quan
8 474 Tống Phỳc Lõm 1484 5
9 619 Phạm Tiến 1493 4
10 87 Trỡnh Thanh 1431 5 Chưởng Hữu thị lang, Tham tri, Hải
Hàn lâm Tây đạo quân dân bạ tịch, Kỵ
viện sự đô uý
11 254 Thõn Nhõn Trung 1469 5 Lại bộ Thượng thư, Đông các
đại học sĩ, Tế tửu Quốc tử
giỏm, Nhập nội phụ chớnh
12 256 Nguyễn Xung Cỏc 1469 5 Lễ bộ Tả thị lang
13 273 Đàm Văn Lễ 1469 5 Lễ bộ Thượng thư
14 290 Nguyễn Thỏi 1472 5 Lễ bộ Thượng thư
15 294 Nguyễn Trung 1472 5 Lễ bộ Thượng thư, Nhập thị
kinh diên
16 297 Lờ Tuấn Ngạn 1472 5 Thượng thư
17 344 Lờ Quảng Chớ 1478 2 Đông các đại học sĩ, Tả thị
lang bộ Lễ
18 407 Lưu Hưng Hiếu 1481 2 Thượng thư, kiêm Đông các
đại học sĩ
19 487 Đặng Tũng Củ 1484 5 Đại học sĩ
20 685 Hoàng Trừng 1499 4 Lễ bộ Tả thị lang
21 711 Lờ í 1499 5 Đề lĩnh tứ thánh, tước Bảng
quận công
22 727 Nguyễn Như Thức 1499 5
23 752 Vũ Cỏn 1502 4 Thượng thư, Nhập thị kinh
diên, tước Lễ Độ bá
24 760 Nguyễn Tự 1502 4
25 840 Nguyễn Tử Mĩ 1505 5 tước Nghĩa Sơn bá
26 845 Nguyễn Văn Oỏnh 1505 5
27 855 Nguyễn Hữu Nghiờm 1508 3 Thượng thư
28 86 Nguyễn Tớch 1431 Thị độc Nội mật viện phó sứ, Binh bộ
Thiờn thượng thư
29 588 Đàm Thận Huy 1490 5 Kiêm Chưởng Hàn Lâm viện
sự, Thiếu bảo, Nhập thị kinh
diên, tước Lâm Xuyên bỏ
30 674 Nguyễn Kiện Hy 1496 5
31 181 Lương Thế Vinh 1463 1 Thị giảng Kiêm chưởng viện sự, Nhập
thị kinh diên, tri Sùng văn
quán
32 170 Trần Cảnh Mụ 1453 5 Thị thư
33 275 Nguyễn Kim An 1472 5
34 422 Nguyễn Tụn Miệt 1481 5

195
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
35 605 Ngụ Thầm 1493 5
36 799 Bựi Nguyờn 1505 5
37 853 Nguyễn Giản Thanh 1508 5 Đông các đại học sĩ
38 552 Lưu Thư Ngạn 1490 3 Thị chế
39 509 Nguyễn Lý Uyờn 1487 4 Hiệu lý
40 512 Bựi Phổ 1487 4
41 628 Nguyễn Hoỏn 1493 4
42 707 Vũ Chõu 1499 4
43 745 Hạ Ngọc Chỳc 1502 4
44 917 Nguyễn Dực 1511 4
45 918 Phạm Vĩnh Toỏn 1511 4
46 1067 Lưu Hịch 1526 5
47 240 Nguyễn Bỏ Dung 1466 5 Hiệu thảo
48 306 Ứng Ngạn Lượng 1475 4
49 328 Nguyễn Đạc 1475 5
50 402 Đặng Cung 1478 5
51 527 Vũ Phất 1487 5
52 547 Nguyễn Ngung 1487 5
53 573 Vũ Khắc Nhuy 1490 5
54 583 Lưu Dịch 1490 5
55 721 Nguyễn Văn Phạm 1499 5
56 734 Ngụ Tuy 1499 5
57 843 Vũ Nhất Chi 1505 5
58 897 Tụ Kim Bảng 1508 5
59 937 Ngô Đĩnh Trực 1511 5 Kiểm thảo
60 991 Nguyễn Cảnh Quýnh 1514 5
61 993 Nguyễn Danh Gia 1514 5
62 156 Nguyễn Phục 1453 4 Quan Hàn Vương phó
lõm?
63 258 Nguyễn Văn Bớnh 1469 5
64 288 Nguyễn Kớnh Tu 1472 5
65 304 Phạm Xỏn 1475 4
66 359 Quỏch Toản 1478 5
67 399 Đào Lõm 1478 5
68 458 Trần Thực 1484 4
69 462 Lờ Cảnh Trinh 1484 4
70 517 Trần Hoành 1487 4
71 522 Trần Kỳ 1487 4
72 548 Nguyễn Ích Ngõn 1487 5
73 751 Vũ Bỏ Dung 1502 4
74 792 Đào Thục Viện 1502 5
75 899 Nguyễn Sư Phú 1508 5
76 906 Lê Văn Biểu 5
77 914 Mai Bang 1511 4
78 915 Đào Khắc Cần 1511 4
79 950 Nguyễn Văn Đàm 1511 5
80 951 Lương Đức Mậu 1511 5
81 1014 Nguyễn Thỏi Bạt 1520 4
82 1066 Nguyễn Bỉnh Khuờ 1526 4
83 1077 Hoàng Viết Ái 1526 5

196
Bảng 5: Các chức quan Đông các thời Lê Sơ
(Thống kê từ chính sử)
Chức quan Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu dẫn
Đông các
Đại học sĩ Thân Nhân Trung 1473 Hμn lâm viện thị độc, thăng Thừa chỉ TT,2:463
(1477), Quốc tử giám tế tửu (1493)
Đỗ Nhuận 1493 Hμn lâm viện thị độc TT,2:512
Đμm Văn Lễ 1498 Lễ bộ th−ợng th− TT,3:8
Nguyễn Nhân Thiếp 1500 TT,3:24
Lê Ngạn Tuấn 1500 TT,3:24
Lê Mậu Th−ởng 1500 TT,3:24
Nguyễn Xung Xác 1500 TT,3:24
Đỗ Nhân (Nhạc) 1510 Phụng trực đại phu, Hộ bộ Th−ợng th− TT,3:54
Đông các đại học sĩ nhập thị Kinh diên,
thăng Ngự sử đài đô ngự sử (1518)
Lê Tung 1512 Thiếu bảo Lễ bộ th−ợng th− kiêm Quốc TT,3:64
tử giám tế tửu, Tri kinh diên sự, Đôn
Th− bá.
Nguyễn Vũ 1516 Hình bộ th−ợng th− kiêm Bảo Thiên TT,3:76
điện, Hμn lâm viện thừa chỉ nhập thị
kinh diên
Vũ Duệ 1520 Thiếu bảo, Lại bộ th−ợng th−, ban TT,3:93
phong Trinh Ý công thần.
Nguyễn Quýnh 1521 TT,3:96
Nguyễn Quý Nhã 1523 Lại bộ tả thị lang TT,3:103
Nguyễn Văn Thái 1527 Đạo Nguyên bá TT,3:108
Học sĩ Đỗ Nhuận 1484 Hμn lâm viện thị độc TT,2:492
Đào Cử 1488 Hμn lâm viện thị độc, Tu Thận thiếu TT,2:503
doãn, thăng Hμn lâm viện Thị giảng
(1496)
Lê Quảng Chí 1493 TT,2:512
Lưu Hưng Hiếu 1498 TT,3:8
Nguyễn Bảo 1499 TT,3:16
Lê Ngạn Tuấn 1502 Lễ bộ tả thị lang TT,3:29
Đỗ Nhân 1509 Triều liệt đại phu, thăng Hộ bộ tả thị TT,3:51
lang, đổi tên Nhân thμnh Nhạc (1510)
Lương Đắc Bằng 1510 Khởi phục Lại bộ tả thị lang TT,3:54
Nguyễn Quý Nhã 1519 Lại bộ tả thị lang TT,3:92
Hiệu thư Đỗ Nhuận 1471 TT,2:458
Quách Đình Bảo 1471 TT,2:458
Đào Cử 1476 Hμn lâm viện thị th−, thăng Thị độc TT,2:468
(1482)
Đμm Văn Lễ 1484 Hμn lâm viện thị độc TT,2:492
Ngô Luân 1484 Hμn lâm viện thị độc TT,2:492
Lê Tuấn Ngạn 1484 Hμn lâm viện thị độc TT,2:492
Ngô Luận 1493 Hμn lâm viện thị độc TT,2:512
Ngô Hoán 1494 TT,2:512
D−ơng Trực Nguyên 1497 TT,2:524
Phạm Trí Khiêm 1499 TT,3:21
Đặng Tòng Củ 1500 TT,3:24
Đặng Minh Khiêm 1500 TT,3:24
L−ơng Đắc Bằng 1500 TT,3:25
Đinh C−ơng 1501 TT,3:27
Đỗ Nhân 1502 Tú lâm cục t− huấn, Lễ bộ hữu thị lang TT,3:30
Trần Viết L−ơng 1503 TT,3:36
Vũ Châu 1503 TT,3:36
Chu Tống Văn 1507 TT,3:42
Nguyễn Văn Thái 1510 TT,3:53
Trần Dực 1510 TT,3:53

197
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Nguyễn Quý Nhã 1518 TT,3:91

Bảng 6: Các chức quan Đông các thời Lê Sơ


(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
STT Số Nhõn vật Khoa Hạng Chức quan Chức tƣớc khác
hiệu thi đỗ Đông các
1 117 Trần Bàn 1442 5 Đại học sĩ Ngự sử đại phu, quyền Tả thị
lang bộ Lại
2 230 Nguyễn Đôn Phục 1466 4 Tả thị lang
3 237 Đỗ Nhuận 1466 5 Thượng thư
4 238 Nguyễn Văn Thụng 1466 5 Thượng thư
5 254 Thõn Nhõn Trung 1469 5 Lại bộ Thượng thư, chưởng
Hàn lâm viện kiêm Tế tửu
Quốc tử giám, Nhập nội phụ
chính
6 269 Đoàn Hiếu Chõn 1469 5 Thượng thư
7 295 Ngụ Anh 1472 5
8 303 Cao Quýnh 1475 3
9 341 Ngụ Luõn 1475 5 Thượng thư
10 407 Lưu Hưng Hiếu 1481 2 Thượng thư, chưởng Hàn lâm
viện sự
11 452 Dương Bang Bản 1484 4 Thiếu bảo, Lễ bộ Thượng thư
kiêm Quốc tử giám Tế tửu, tri
kinh diên sự, tước Đôn Thư

12 471 Trần Khắc Minh 1484 5 Lễ bộ Thượng thư, tước
Lương Nhân hầu
13 487 Đặng Tũng Củ 1484 5 Tham chưởng Hàn lâm viện
sự
14 535 Phạm Chõn 1487 5
15 549 Trỡnh Chớ Sõm 1487 5 Công bộ Thượng thư, Thiếu
bảo chưởng lục bộ sự, tước
Từ Hồ bá
16 550 Vũ Duệ 1490 1 Trinh ý binh văn công thần,
Lại bộ Thượng thư, Nhập thị
kinh diên, Thiếu bảo, tước
Trỡnh Khờ hầu
17 578 Đỗ Công Cẩn 1490 5
18 612 Đỗ Nhõn 1493 4 Hộ bộ Thượng thư kiêm Đô
ngự sử, Nhập thị kinh diờn
19 624 Nguyễn Dõn 1493 4 Thượng thư
Trạch
20 654 Đinh Lưu 1496 3
21 683 Lương Đắc Bằng 1499 2 Lại bộ Thượng thư Tri kinh
diên
22 703 Chu Tụng Văn 1499 4
23 739 Nguyễn Văn Thỏi 1502 3 tước Đạo Xuyên bá
24 853 Nguyễn Giản Thanh 1508 5 Hàn lâm viện thị thư
25 867 Lê Đỡnh Vệ 1508 4
26 960 Đoàn Quảng Phu 1514 4
27 110 Phạm Như Trung 1442 5 Hiệu thư
28 188 Lê Đinh Tuấn 1463 4
29 281 Trần Đức Mậu 1472 4
30 461 Phạm Trớ Khiờm 1484 4

198
31 600 Nguyễn Minh Mệnh 1490 5
32 614 Kiều Phỳc 1493 4
33 709 Trần Bỏ Lương 1499 5
34 763 Lờ Nhõn Tế 1502 4
35 901 Lý Khắc Nạp 1508 5
36 274 Vũ Kiệt 1472 1 Quan Đông Thị lang
các?
37 278 Phạm Phỳc Chiờu 1472 4
38 345 Trần Bớch Hoành 1478 3
39 385 Nguyễn Kỳ 1478 5
Nghĩa
40 606 Lờ Hựng 1493 3
41 807 Lưu Hóng 1505 4
42 961 Nguyễn Tỏn 1514 4
Nguyờn
43 1027 Nguyễn Quỏn Đạo 1523 3

Bảng 7: Các chức quan Lục bộ thời Lê Sơ


(Thống kê từ chính sử)
Bộ Chức Năm Nhân vật Chức quan khác Tƣớc Tài liệu
quan dẫn
Lại Thượng 1427 Nguyễn Trãi Hàn lâm viện thừa chỉ, Á thượng TT:2,63
thư Triều liệt đại phu, Nhập hầu
nội hành khiển kiêm hành
khu mật viện sự
1431 Hà Lật TT:2,305
1460 Nguyễn Như Đổ Quốc tử giám tế tửu TT:2,392
1467 Phạm Văn Hiển Trung quân phủ đô đốc TT:2,416
đồng tri
1472 Trần Xác Thông chương đại phu Tả TT:2,459
xuân phường tả thứ tử
1474 Hoàng Nhân TT:2,464
Thiêm
1481 Nguyễn Bá Ký TT:2,485
1496 Lê Nhuận Quốc tử giám tế tửu TT:2,515
1499 Trần Cận TT:3,15
1509 Ngô Hoán Tán trị thừa tuyên sứ TT:3,51
Thanh Hoa
1510 Lê Tung Thừa tuyên sứ Thanh Hoa Đôn Thư TT:3,53

1511 Đàm Thận Huy Tri Chiêu văn quán tú lâm TT:3,61
cục
1517 Đỗ Nhạc Đông các đại học sĩ nhập TT:3,83
thị kinh diên, Ngự sử đài
Đô ngự sử
1518 Lê Sạn TT:3,89
1520 Vũ Duệ Thiếu bảo, Đông các đại TT:3,93
học sĩ nhập nội kinh diên
1520 Nguyễn Quý Nhã Bồi thị kinh diên TT:3,94
1527 Trương Phu Duyệt 108
Tả thị 1461 Nguyễn Thiện TT:2,393
lang
Tr.1467 Nguyễn Đình Mỹ Hàn lâm viện đại học sĩ TT:2,416
kiêm Bí thư giám học sĩ
1467 Trần Bàn Cung s− phủ tân khách TT:2,416
1501 Nguyễn Úc TT:3,27
1504 Đặng Tán TT:3,36

199
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
1510 Lương Đắc Bằng Hàn lâm viện thị độc TT:3,53
tham chưởng Hàn lâm
viện sự
1510 Đặng Minh Khiêm Triều liệt đại phu TT:3,57
1519 Nguyên Quý Nhã Đông các học sĩ TT:3,93
Hữu thị 1467 Phan Duy Trinh Tuyên uý sứ quyền Thiên TT:2,416
lang Trường sứ thừa tuyên
1515 Lê Tán Tương TT:3,74
Lễ Thượng 1427 Bùi Ư Đài Tri Đông đạo quân dân TT:2,265
thư tịch bạ
1435 Đào Công Soạn Thẩm hình viện sự TT:2,334
1449 Trình Dục TT:2,372
1467, Lê Hoằng Dục Tây quân phủ đô đốc TT:2,416,
1483 đồng tri kiêm Thái thường 483
tự khanh, Lâm Giang bá
(1483)
1467 Phạm Công Nghị TT:2,416
1484 Quách Đình Bảo TT:2,490
1485 Lê Năng Nhượng TT:2,497
1491 Nguyễn Xung Xác Hàn lâm viện thị độc TT:2,510
chưởng Hàn lâm viện sự
1498 Đàm Văn Lễ Tả xuân phường hữu dụ TT:3,8-9
đức kiêm Đông các đại
học sĩ
1498 Vũ Hữu TT:3,11
1510 Nguyễn Bá Tuấn Phụng trực đại phu, Thiếu Do lễ bá TT:3,57
(sau đổi thành bảo (1514)
Thuyên)
1512 Lê Tung Thiếu bảo, Đông các đại Đôn thư TT:3,64
học sĩ kiêm QTG tế tửu, bá
Tri kinh diên sự
1514 Nguyễn Trinh Chưởng bộ sự, Phò mã đô Hưng TT:3,73
uý quận công
1517 Đàm Thận Huy Thiếu bảo, Nhập thị kinh TT:3,81
diên
1520 Đặng Minh Khiêm Sử quan phó tổng tài tri TT:3,93
Chiêu Văn quán tú lâm
cục
1521 Phạm Khiêm Bính TT:3,94
1523 Đinh Trinh TT:3,103
Tả thị 1434 Trình Toàn Dương TT:2,315
lang
1463 Lương Như Hộc TT:2,400
1467 Nguyễn Đình Mỹ TT:2,427
1485 Lê Quảng Chi Hàn lâm viện chưởng TT:2,497
viện sự
1486 Vũ Hữu Kim quan môn đãi chiếu TT:2,501
1502 Lê Ngạn Tuấn Đông các học sĩ TT:2,502
1502 Dương Trực Kiêm việc Hàn lâm viện TT:3,30
Nguyên
1509 Lương Đắc Bằng Hàn lâm viện thị độc TT:3,51
chưởng Hàn lâm viện sự
1510 Nguyễn Quýnh TT:3,53
1513 Nguyễn Huệ Kim quang môn đãi TT:3,70
chiếu, Tri Thượng bảo
giám các cục
Hữu thị 1467 Vũ Vĩnh Trinh Hàn lâm viện đại học sĩ, TT:2,416
lang Qung Lộc tự khanh bí thư
giám kinh diên sự
1502 Đỗ Nhân (sau đổi Hàn lâm viện thị độc, TT:3,30

200
thành Nhạc) Tham chưởng Hàn lâm
viện sự
1504 Nguyễn Bảo Khuê TT:3,36
1513 Nguyễn Trang TT:3,70
Hộ Thượng 1463 Nguyễn Cư Pháp TT:2,399
thư
Tr.1467 Trần Phong Cung sư phủ thái tử tân TT:2,416
khách
1467 Nguyễn Cư Đạo Đô ngự sử đài, tri diên TT:2,416
kinh sự
1469 Lê Cảnh Diệu TT:2,438
1471, Lê Cảnh Huy Thái tử thái bảo TT:2,452,
1492 511
1478 Trịnh Công Ngô TT:2,473
1480 Lê Đoan Chi Tá quốc TT:2,480
hầu
1497 Ngạc Hối TT:2,526
1500 Trịnh Quý Tuân TT:3,23
1500 Đào Thuấn Tri Sùng văn quán tú lâm TT:3,23
cục
1502 Vũ Hữu TT:3,29
1509 Trịnh Duy Đại Văn quận TT:3,51-
công 52
1513 Nguyễn Mậu Tri Chiêu văn quán Tú Cẩn lễ TT:3,70
lâm cục nam
1513 Nguyễn Lữ Quỳnh TT:3,71
nham hầu
1514 Trần Sùng Dĩnh TT:3,73
1517 Lê Sạn TT:3,86
Tả thị 1467 Nguyễn Đình Mỹ Cung sư phủ Đại học sĩ TT:2,416
lang
1482 Lê Ninh TT:2,486
1496 Nguyễn Hoằng TT:2,514
Thạc
1500 Nguyễn Đức TT:3,24
Quảng
1505 Dương Trực Kiêm coi Chiêu văn quán TT:3,40
Nguyên
1510 Đỗ Nhạc Đông các Đại học sĩ, nhập TT:3,53-
thị kinh diên TT:3,54
1510 Phạm Hạo TT:3,57
Hữu thị 1466 Nguyễn Cư Đạo Hàn lâm viện thừa chỉ TT:2,409
lang kiêm Cẩn đức điện đhs
nhập thị kihn diên Tả
xuân phường thái tử tả dị
đức
1467 Lê Trung Thừa đức ty thừa đức đại TT:2,416
sứ
1499 Trần Sùng Dĩnh TT:3,21
1510 Lê Đĩnh Chi TT:3,57
1525 Phạm Khiêm Bính TT:3,106
Binh Thượng 1463 Nguyễn Vĩnh Tích TT:2,399
thư
1467 Lê Bá Trù Tả kiểm điểm TT:2,423
1472 Lê Cảnh Huy Thái tử thái bảo Kiến TT:2,459
Dương bá
1472 Đào Tuấn TT:2,460
1474 Trịnh Công Đán Định TT:2,465
Công bá
1485 Lê Đoan Chi TT:2,497
1499 Nguyễn Phùng Thì TT:3,18

201
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
1499 Lê Năng Nhượng Cống TT:3,21
xuyên bá
1501 Nguyễn Hoằng TT:3,27
Thạc
1503 Tăng Dật TT:3,32
1506 Nguyễn Quang Mỹ TT:3,41
1510 Vũ Quỳnh Triều liệt đại phu, Quốc TT:3,57
tử giám tư nghiệp kiêm sử
quan đo tổng tài
1521 Lê Thúc Hựu Thiếu bảo Cẩm Sơn TT:3,95
hầu
Tả thị 1464 Nguyễn Đình Mỹ TT:2,401
lang
Tr.1467 Trần Bàn HLV đhs, kiêm Bí thư TT:2,416
giám học sĩ
1477 Trần Trung Lập TT:2,469
1502 Dương Trực TT:3,28
Nguyên
Hữu thị 1504 Nguyễn Lân TT:3,36
lang
1513 Nguyễn Trọng Quỳ TT:3,71
Hình Thượng 1463 Trần Phong Thái tử tân khách TT:2,399
thư
Tr1467 Phạm Công Nghị TT:2,416
1485 Quách Đình Bảo TT:2,497
1490 Lê Năng Nhượng TT:2,508
1499 Đinh Bô Cương TT:3,16
1510 Đàm Thận Huy TT:3,53
Tả thị 1464 Nguyễn Mậu TT:2,402
lang
1467 Dương Chấp Trung Đại Lý tự khanh TT:2,422
1499 Nguyễn Khắc TT:3,21
Cung
1500 Nguyễn Duy Trinh TT:3,22
Hữu thị 1499 Bùi Nguyên Đạo TT:3,21
lang
1502 Dương Trực TT:3,28
Nguyên
1502 Nguyễn Quang TT:3,28
Hiền
Công Thượng Tr.1467 Bùi Quát Đông quân phủ đô đốc TT:2,416
thư thiêm sự
1467 Phạm Du Tuyên uý đại sứ TT:2,416
1499 Trần Bảo TT:3,18
1510 Trình Chí Sâm Phụng trực đại phu TT:3,57
1511 Nguyễn Bá Lâm Trưởng bộ sự, tri Hiển Uy Quốc TT:3,61
phúc điửn công
Hữu thị Tr.1467 Trịnh Công Đán TT:2,416
lang
1467 Trịnh Thiết Trường Hàn lâm thị giảng học sĩ TT:2,416
1495 Lê Hán Đình TT:2,512
1499 Lê Nhạc TT:3,21
1499 Nguyễn Giản TT:3,21
1501 Dương Trực TT:3,25
Nguyên
1507 Nguyễn Thọ TT:3,42
1511 Lê Tán Tương Quyền Lại bộ hữu thị lang TT:3,61

202
Bảng 8: Các chức quan Lục bộ thời Lê Sơ
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
STT Số Nhõn vật Khoa Hạng Chức quan Chức tƣớc khác
hiệu thi đỗ Lục bộ
1 95 Nguyễn Như Đổ 1442 2 Lại bộ Tế tửu Quốc Tử Giỏm, hàm
Thượng thư Thiếu bảo
2 97 Trần Văn Huy 1442 4
3 122 Bựi Lụi Phủ 1442 5
4 144 Nguyễn Thiện 1448 5
5 183 Quách Đỡnh Bảo 1463 3
6 192 Nguyễn Ký 1463 4
7 227 Quỏch Hữu Nghiờm 1466 4 Đô ngự sử
8 233 Nguyễn Nhõn Thiếp 1466 5
9 252 Phạm Bỏ 1469 4 Tế tửu Quốc tử giám, Nhập
thị kinh diên, tước Xuyên
quận công
10 253 Nguyễn Như Uyờn 1469 4 Tế tửu Quốc tử giỏm, Nhập
thị kinh diờn
11 254 Thõn Nhõn Trung 1469 5 Chưởng Hàn lâm viện kiêm
Đông các đại học sĩ, Tế tửu
Quốc tử giám, Nhập nội phụ
chính
12 255 Trần Cận 1469 5
13 504 Trịnh Quỳ 1487 4
14 519 Trần Bõn 1487 4 Đô ngự sử kiêm Quốc tử
giỏm Tế tửu
15 550 Vũ Duệ 1490 1 Đông các đại học sĩ, Nhập
thị kinh diên, thiếu bảo,
tước Trỡnh Khờ hầu
16 551 Ngụ Hoỏn 1490 2
17 655 Đinh Cương 1496 4 tước hầu
18 683 Lương Đắc Bằng 1499 2 Đông các đại học sĩ, Tri
kinh diên
19 808 Trương Phu Duyệt 1505 4
20 837 Chu Tất Thắng 1505 5 Nhập nội hành khiển, tước
Nghĩa quân công
21 76 Đào Công Soạn 1426 Hộ bộ Thượng Nhập nội hành khiển, Tri
thư tam quỏn sự, Nhập thị kinh
diờn
22 90 Trần Phong 1431 Thái Bảo, Ngự sử đài đô
ngự sử
23 106 Nguyễn Cư Đạo 1442 5 Ngự sử đài Đô ngự sử, tri
Kinh diên sự
24 194 Hoàng Bồi 1463 4 Tư nghiệp Quốc tử giám
25 219 Nguyễn Cụng Định 1463 5
26 250 Đào Cử 1466 5 Sùng văn quán Tú lâm cục
27 334 Đoàn Mậu 1475 5 Tri Chiêu văn quán, Tú lâm
cục, tước Cẩm Lễ nam
28 366 Nguyễn Thiệu Tri 1478 5
29 450 Nguyễn Hỏn Đỡnh 1484 4
30 490 Trần Sựng Dĩnh 1487 1
31 553 Lờ Tuấn Mậu 1490 4 Đô ngự sử
32 612 Đỗ Nhõn 1493 4 Đô ngự sử, Đông các đại
học sĩ, Nhập thị kinh diên
33 775 Đinh Trinh 1502 5 tước Thanh Xuyên bá
34 874 Nguyễn Kớnh Chỉ 1508 5 Thái bảo, tước quận công

203
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
35 196 Vũ Hữu 1463 4 Lễ bộ Thượng tước Tùng Dương hầu
thư
36 273 Đàm Văn Lễ 1469 5 Chưởng Hàn lâm viện sự
37 289 Nguyễn Bảo 1472 5
38 290 Nguyễn Thỏi 1472 5 Chưởng Hàn lâm viện sự
39 294 Nguyễn Trung 1472 5 Nhập thị kinh diên, kiêm
Chưởng Hàn lâm viện sự
40 452 Dương Bang Bản 1484 4 Thiếu bảo, Đông các đại học
sĩ, kiêm Quốc tử giám Tế
tửu, tri kinh diên sự, tước
Đôn Thư bá
41 466 Lờ Lan Hinh 1484 5
42 471 Trần Khắc Minh 1484 5 Đông các đại học sĩ, tước
Lương Nhân hầu
43 588 Đàm Thận Huy 1490 5 Hàn lâm viện thị độc,
Chưởng Hàn Lâm viện sự,
Thiếu bảo, Nhập thị kinh
diên, tước Lâm Xuyên bá
44 653 Nguyễn Huõn 1496 2
45 713 Khuất Quỳnh Cửu 1499 5 tước Thuần Khê bá
46 740 Nguyễn Cảnh Diễn 1502 4
47 757 Nguyễn Văn Hiến 1502 4
48 764 Phạm Khiờm Bớnh 1502 4 Đô ngự sử, tham dự triều
chính
49 793 Nguyễn Văn Đệ 1502 5
50 842 Nguyễn Đạt Minh 1505 5 tước bá
51 1037 Nguyễn Sư Hựu 1523 5
52 86 Nguyễn Thiờn Tớch 1431 5 Binh bộ Hàn lâm viện Thị độc, Nội
Thượng thư mật viện phó sứ
53 99 Nguyễn Hộc 1442 4 Hàn lõm viện học sĩ
54 132 Nguyễn Vĩnh Tớch 1448 4 Hàn lâm viện Thừa chỉ, tri
Đông đạo quân dân
55 145 Đào Tuấn 1448 5 Ngự sử đài thiêm Đô ngự
sử, tước Sùng Sơn bá
56 206 Phạm Bỏ Ký 1463 5
57 236 Nguyễn Nhõn Bị 1466 5
58 348 Vũ Quỳnh 1478 4 Nhập thị kinh diên, kiêm
Quốc tử giám Tư nghiệp, Sử
quán Tổng tài
59 423 Nguyễn Nhõn Bị 1481 5
60 128 Nguyễn Mậu 1448 4 Hỡnh bộ Đô ngự sử
Thượng thư
61 207 Trần Văn Thiện 1463 5
62 212 Đào Văn Hiển 1463 5
63 322 Hoàng Thiệu 1475 5
64 716 Lờ Tỏn Thiện 1499 5
65 738 Lờ Sạn 1502 2
66 819 Quỏch Điền 1505 5
67 228 Hà Cụng Trỡnh 1466 4 Công bộ Tế tửu Quốc tử giỏm,Nhập
Thượng thư thị kinh diờn
68 267 Trần Bảo 1469 5 Thiếu bảo, tước quận công
69 549 Trỡnh Chớ Sõm 1487 5 hiếu bảo chưởng lục bộ sự
kiêm Đông các đại học sĩ,
tước Từ Hồ bá
70 604 Vũ Dương 1493 1 tước hầu

204
71 698 Lờ Tỏn Tương 1499 4 Nhập thị kinh diên, tước
Văn Phú hầu
72 108 Nguyễn Đạt 1442 5 Thượng thư Hàn lõm viện Thừa chỉ
không rừ Bộ
73 115 Nguyễn Thiện Tớch 1442 5 Đô ngự sử
74 133 Nguyễn Bỏ Ký 1448 4 Quốc Tử Giám Tế tửu kiêm
Văn Minh điện đại học sĩ,
Nhập thị kinh diên
75 138 Nguyễn Văn Chất 1448 4
76 150 Vũ Đức Lõm 1448 5
77 174 Lờ Trực 1453 5 tước quận công
78 182 Nguyễn Đức Trinh 1463 2
79 189 Đào Bạt 1463 4
80 195 Đinh Thúc Thụng 1463 4
81 197 Nguyễn Đỡnh Liờu 1463 4
82 210 Đào Tuấn Khanh 1463 5
83 221 Như Văn Lan 1463 5
84 226 Bựi Viết Lương 1466 4
85 237 Đỗ Nhuận 1466 5 Đông các đại học sĩ
86 238 Nguyễn Văn Thụng 1466 5 Đông các đại học sĩ
87 249 Mạc Đức Tuấn 1466 5
88 269 Đoàn Hiếu Chõn 1469 5 Đông các đại học sĩ
89 287 Vũ Đức Trinh 1472 5
90 297 Lờ Tuấn Ngạn 1472 5 Tham chưởng Hàn lâm viện
sự
91 320 Nguyễn Ấu Miễn 1475 5
92 327 Nguyễn Cung 1475 5
93 341 Ngụ Luõn 1475 5 Đông các đại học sĩ
94 347 Nguyễn Địch Tõm 1478 4
95 361 Doón Hoành Tuấn 1478 5
96 363 Trần Quý Nghị 1478 5
97 370 Bùi Xương Trạch 1478 5 Chưởng Lục bộ sự, kiêm Đô
ngự sử, Quốc tử giám Tế
tửu
98 392 Trần Doón Hựu 1478 5
99 401 Đỗ Cận 1478 5
100 405 Hoàng Cụng Đảng 1478 5
101 407 Lưu Hưng Hiếu 1481 2 Đông các đại học sĩ, chưởng
Hàn lâm viện sự
102 434 Nguyễn Đỡnh Tuấn 1481 5
103 472 Đặng Minh Bớch 1484 5
104 480 Đặng Tử Nghi 1484 5
105 491 Nguyễn Đức Huấn 1487 2
106 493 Vũ Cảnh 1487 4 Đô ngự sử
107 496 Đinh Trung Thuần 1487 4
108 514 Phạm Hạo 1487 4
109 521 Đặng Minh Khiờm 1487 4 Sử quán Tổng tài, tri Chiêu
văn quán, Tứ lâm cục, Triều
liệt đại phu
110 532 Nguyễn Nho Tụng 1487 5
111 538 Phạm Thịnh 1487 5
112 545 Lưu Tỳc 1487 5
113 556 Nguyễn Đức Thận 1490 4

205
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
114 564 Vương Tỏo 1490 4 Đô ngự sử, tước Tu Lễ hầu
115 622 Đỗ Cảnh Lược 1493 4
116 624 Nguyễn Trạch Dõn 1493 4 Đông các đại học sĩ
117 626 Nguyễn Ưng 1493 4
118 644 Đỗ Hịch 1493 5
119 672 Đàm Tuỵ 1496 5
120 681 Nguyễn Kớnh 1496 5
121 695 Nguyễn Bỏ Tuấn 1499 4
122 710 Đinh Thuận 1499 5 tước Bỉnh Lễ Bá
123 752 Vũ Cỏn 1502 4 Chưởng hàn lâm viện sự,
Nhập thị kinh diên, tước Lễ
Độ bá
124 771 Lờ Dực 1502 5
125 796 Nguyễn Tử Kiến 1502 5
126 838 Nguyễn Phu Hựu 1505 5
127 841 Phạm Gia Mụ 1505 5 tước Hoành lễ hầu
128 855 Nguyễn Hữu Nghiờm 1508 3 Chưởng hàn lâm viện sự
129 882 Nguyễn Thỡ Phựng 1508 5
130 893 Ngụ Văn Thụng 1508 5
131 919 Trần Doón Minh 1511 5 tước Văn An bá
132 926 Đàm Sõm 1511 5
133 929 Nguyễn Quang 1511 5
134 955 Nguyễn Chiờu Huấn 1514 2
135 962 Phạm Thọ Chất 1514 4
136 966 Nguyễn Trọng Hiệu 1514 4
137 969 Chử Sư Đổng 1514 4
138 983 Bựi Cụng Phụ 1514 5
139 985 Vũ Tuõn 1514 5
140 988 Lờ Duy Lương 1514 5 tước bá
141 998 Nguyễn Mẫn Đốc 1518 2
142 1021 Nguyễn Hữu Du 1520 5
143 1075 Phạm Minh Lượng 1526 5 tước bá
144 1079 Phạm Vĩnh Truyền 1526 5 tước hầu
145 117 Trần Bàn 1442 5 Lại bộ Tả thị Đông các đại học sĩ, Ngự sử
lang đại phu
146 216 Cỏi Phựng 1463 5 quyền Binh bộ Thượng thư
147 260 Nguyễn Thạch Trụ 1469 5
148 463 Nguyễn Đỡnh Huống 1484 4
149 525 Nguyễn Úc 1487 5
150 571 Nguyễn Di Kiệt 1490 4
151 589 Trần Nguyờn Lễ 1490 5
152 613 Trần Năng 1493 4
153 667 Nguyễn Củng Thuận 1496 5
154 762 Bựi Dục Tài 1502 4
155 762 Bựi Dục Tài 5
156 908 Trần Bảo Tớn 1511 2
157 971 Nguyễn Doón Khõm 1514 4
158 112 Ngụ Thế Dụ 1442 5 Hộ bộ Tả thị
lang
159 346 Lờ Ninh 1478 3 Vương phó
160 352 Hoàng Đức Lương 1478 4

206
161 390 Nguyễn Tắc Dĩnh 1478 5
162 701 Đàm Thận Giản 1499 4
163 719 Lê Đĩnh Chi 1499 5
164 743 Trần Dực 1502 4
165 875 Nguyễn Đắc Lộ 1508 5
166 930 Nguyễn Thỡ Khắc 1511 5
167 119 Nguyễn Mỹ 1442 5 Lễ bộ Tả thị
lang
168 256 Nguyễn Xung Cỏc 1469 5 Chưởng Hàn lâm viện sự
169 344 Lờ Quảng Chớ 1478 2 Chưởng Hàn lâm viện sự
170 357 Đào Cảnh Huống 1478 5
171 373 Nguyễn Tõm Hoằng 1478 5
172 586 Nguyễn Trang 1490 5
173 650 Nguyễn Nghiễm 1493 5
174 685 Hoàng Trừng 1499 4 Tham chưởng Hàn lâm viện
sự
175 810 Trần Tụng Lỗ 1505 4
176 811 Trần Văn Bớnh 1505 4
177 954 Nguyễn Đức Lượng 1514 1
178 965 Ngụ Tũng Củ 1514 4
179 1069 Nguyễn Xưởng 1526 5
180 836 Lờ Doón Chấp 1505 5 Binh bộ Tả thị
lang
181 957 N guyễn Vũ 1514 4
182 187 Nguyễn Tường 1463 4 Hỡnh bộ Tả
thị lang
183 201 Phạm Tứ Nghi 1463 5
184 321 Nguyễn Quan Hiền 1475 5
185 412 Nguyễn Duy Trinh 1481 4
186 498 Nguyễn Bảo Khuờ 1487 4
187 502 Vũ Triệt Vừ 1487 4
188 584 Phạm Đạo Phỳ 1490 5
189 615 Vũ Tụ 1493 4
190 1016 Đặng Công Toản 5
191 364 Nguyễn Kỳ 1478 5 Cụng bộ Tả
thị lang
192 395 Dương Tĩnh 1478 5
193 902 Mạc Nhuận Lóng 5
194 121 Nguyễn Địch 1442 5 Tả thị lang
khụng rừ Bộ
195 131 Phạm Đức Khản 1448 4
196 190 Đỗ Hõn 1463 4
197 214 Phạm Nại 1463 5
198 230 Nguyễn Đôn Phục 1466 4 Đông các đai học sĩ
199 248 Phạm Doanh 1466 5
200 251 Hà Nghiễm 1466 5
201 257 Nguyễn Minh 1469 5
202 259 Nguyễn Khắc Cung 1469 5
203 262 Nguyễn Đạt Tế 1469 5
204 301 Vũ Tuấn Chiờu 1475 1
205 377 Vương Khắc Mại 1478 5
206 391 Tạ Hựng Kiệt 1478 5

207
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
207 406 Phạm Đôn Lễ 1481 1
208 411 Lưu Ngạn Quang 1481 4
209 447 Nguyễn Giỏc 1484 2
210 500 Nguyễn Cẩn Liờm 1487 4
211 528 Nguyễn Duy Minh 1487 5
212 593 Nguyễn Ngạn Quang 1490 5
213 737 Lờ Ích Mộc 1502 5
214 895 Lờ Trọng Bớch 1508 5
215 909 Vũ Duy Chu 1511 2
216 995 Trần Viờn 1514 5
217 1011 Nguyễn Hoà Trung 1518 5
218 784 Phạm Trỏng 1502 5 Lại bộ Hữu thị
lang
219 809 Thiều Quy Linh 1505 4
220 403 Lờ Giỏm 1478 5 Nhập thị kinh diờn
221 448 Mai Duy Tinh 1484 3
222 798 Lờ Nại 1505 5 Hộ bộ Hữu thị
lang
223 83 Vũ Vĩnh Trinh 1429 5 Lễ bộ Hữu thị Hàn lâm viện đại học sĩ,
lang kiêm Bí thư giám, Tri Kinh
diên sự
224 104 Ngụ Sĩ Liờn 1442 5 Đô ngự sử, Quốc Tử giám
tư nghiệp, kiêm Sử quan tu
soạn
225 441 Thang Nghĩa Phương 1481 5
226 479 Nguyễn Ích Tốn 1484 5
227 688 Nguyễn Trớ Tri 1499 4
228 942 Đoàn Văn Thụng 1511 5
229 113 Khỳc Hữu Thành 1442 5 Binh bộ Hữu
thị lang
230 726 Nguyễn Trọng Quỳ 1499 5
231 833 Nguyễn Quang Luận 1505 5
232 976 Trịnh Bỏ 1514 4
233 977 Nguyễn Bớnh Di 1514 5
234 1054 Đào Nghiễm 1523 5
235 184 Phạm Hổ 1463 4 Hènh bộ Hữu
thị lang
236 218 Dương Đức Nhan 1463 5 tước Dương Xuyên hầu
237 413 Phạm Hựng 1481 4
238 534 Nguyễn Tuyờn Cần 1487 5
239 779 Bựi Tõn 1502 5
240 839 Phạm Thuần Nhõn 1505 5
241 921 Thỏi Kinh 1511 5
242 999 Lưu Khải Chuyờn 1518 3
243 1003 Nguyễn Hồng Tiệm 1518 4
244 179 Dương Tứ Do 1458 5 Cụng bộ Hữu
thị lang
245 340 Đỗ Chính Lạc 1475 5
246 355 Nguyễn Giản 1478 4
247 579 Trần Di 1490 5
248 87 Trỡnh Thanh 1431 5 Hữu thị lang Tham tri, Hải Tây đạo quân
khụng rừ Bộ dân bạ tịch, kỵ đô uý
249 126 Trịnh Thiết Trường 1448 4 tước Nghi quốc công

208
250 199 Nguyễn Đỡnh Khụi 1463 5
251 246 Nguyễn Truõn 1466 5
252 264 Nguyễn Thiện Chương 1469 5
253 316 Nguyễn Tuấn 1475 4
254 324 Nguyễn Minh Khang 1475 5
255 408 Nguyễn Doón Địch 1481 3
256 419 Phạm Chuyết 1481 5
257 435 Nguyễn Nhõn Lễ 1481 5
258 539 Đặng Tỏn 1487 5
259 699 Nguyễn Vũ 1499 4 Quốc tử giám Tư nghiệp
260 777 Hoàng Nhạc 1502 5 Giỏm sỏt ngự sử
261 786 Phan Đỡnh Mục 1502 5
262 800 Trần Phi 1505 3 Thừa chớnh sứ xứ An Bang
263 816 Trần Lỗi 1505 4
264 824 Đỗ Hoảng 1505 5
265 862 Lê Văn Hiển 1508 4
266 890 Hoàng Doón Vũ 1508 5
267 987 Phan Doón Thụng 1514 5
268 109 Bựi Hựu 1442 5 ? Thị lang
269 134 Nguyễn Di Quyết 1448 4
270 149 Phạm Quốc Trinh 1448 5
271 153 Phạm Bỏ Khuờ 1453 4
272 202 Nguyễn Bỏ Kỳ 1463 5
273 274 Vũ Kiệt 1472 1 Đông các
274 326 Vũ Triệu Dung 1475 5
275 356 Nguyễn Hiến 1478 5
276 358 Nguyễn Kỳ 1478 5
Dương
277 371 Nguyễn Trớ Khoan 1478 5
278 397 Trần Đức Trinh 1478 5
279 449 Ngô Văn Phũng 1484 4
280 492 Thõn Cảnh Võn 1487 3
281 508 Nguyễn Lệ 1487 4
282 530 Nguyễn Hanh Phu 1487 5
283 533 Nguyễn Tựng Mục 1487 5
284 602 Bựi Hoàn Khỏnh 1490 5
285 603 Phạm Quảng Hiếu 1490 5
286 638 Đỗ Thọ 1493 5
287 677 Đỗ Toại 1496 5
288 678 Đỗ Hoằng 1496 5
289 851 Nguyễn Duy 1484 1505 5
Thốc
290 859 Nguyễn Chớ 1508 4
291 864 Lờ Khắc Chương 1508 4
292 883 Trần Thạch 1508 5
293 947 Lờ Vụ Cương 1511 5
294 968 Lại Gia Phỳc 1514 4
295 972 Đỗ Cảnh 1514 4
296 979 Đỗ Văn Hóng 1514 5
297 1017 Nguyễn Địch Huấn 5

209
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
298 1042 Hoàng Tảo 1523 5
299 1063 Lưu Doón Trung 1526 3

Bảng 9: Các chức quan Lục tự thời Lê Sơ


(Thống kê từ chính sử)
Cơ quan Chức quan Nhân vật Năm Chức quan khác Tài liệu dẫn
Đại Lý tự Tự khanh Nguyễn Ninh Tr.1467 TT,2:417
D−ơng Chấp Trung 1467 Quyền Hình bộ tả thị TT,2:422
lang
Lê Bá Đạt 1467 TT,2:422
Thiếu khanh L−u Túc 1499 TT,3:21
Thái Tự khanh Lê Hoằng Dục Tr.1467 Lễ bộ th−ợng th− TT,2:417
Thường tự Quách Hữu Nghiêm 1500 TT,3:23;
Nghiêm Lâm Tiến 1502 TT,3:29
Quang Lộc Tự khanh Vũ Vĩnh Trinh Tr.1467 Bí th− giám học sĩ TT,2:417
tự Vũ Vĩnh Ninh 1469 Hàn Lâm viện đại TT2:436
học sĩ thự viện sự
Thái bộc Tự khanh Lê Trung Tr.1467 Thông chính ty TT,2:417
thông chính sứ
Phạm C− 1467 Quyền Lạng Sơn TT,2:422
đẳng xứ tán trị thừa
tuyên tham chính
Đμo Tuấn 1467 Quyền An Bang đẳng TT,2:426
xứ tán trị thừa tuyên
sứ ty tham chính trị
bản vệ quân sự
Nguyễn Mậu 1517 TT,3:89
Thiếu khanh Lê Đình Tuấn 1466 Hμnh Th−ợng bảo tự TT,2:410;
thiếu khanh CM,1:1023
Hồng Lô Thiếu khanh Nguyễn Thuyên 1507 TT,3:43;
CM,2:37
Tự thừa D−ơng Nh− Châu 1467 TT,2:430;
CM,1:1063
Thượng Tự khanh D−ơng Tông Hải Tr.1467 Đô cấp sự trung TT,2:417
Bảo Nghiên Nhân Thọ 1467 Quyền Lại khoa đô TT,2:422
cấp sự trung
Thiếu khanh Nguyễn Nho Tông 1500 TT,3:23

210
Bảng 10: Các chức quan Lục tự thời Lê Sơ
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
STT Chức quan Lục tự Nhõn vật Khoa thi Hạng Tài liệu dẫn
đỗ
1 Đại lý Tự khanh Trần Khải 1472 4 SH 280
2 Thỏi bộc Tự khanh Phạm Cư 1442 4 SH 102
3 Thượng bảo Tự khanh Nguyễn Sĩ Nguyờn 1478 4 SH 351
4 Hồng lụ Tự khanh Dương NHư Chõu 1466 4 SH 225
5 Tự khanh khụng rừ Tự Nguyễn Như Ngu 1453 5 SH 167
6 Nguyễn Điện 1458 5 SH 180
7 Nguyễn Quang Lộc 1466 5 SH 234
8 Đỗ Trí Trung 1475 4 SH 311
9 Nghiờm Lõm 1478 4 SH 350
10 Nguyễn Cối 1478 5 SH 372
11 Nguyễn Thọ Kỡnh 1478 5 SH 388
12 Nguyễn Thuần Trung 1484 4 SH 454
13 Nguyễn Thừa Phủ 1487 4 SH 510
14 Nguyễn Thụng Doón 1487 5 SH 524
15 Nguyễn Hưng Nhượng 1490 4 SH 563
16 Bùi Đức Thiệu 1490 4 SH 565
17 Nguyễn Minh Điền 1490 5 SH 582
18 Hoàng Thuần Phỏc 1490 5 SH 592
19 Trịnh Văn Liờn 1490 5 SH 596
20 Nguyễn Dục 1490 5 SH 598
21 Ngụ Thỏi Đoan 1493 4 SH 616
22 Đặng Tảo Giỏm 1499 5 SH 715
23 Trần Nghĩa Lộ 1499 5 SH 717
24 Lê Văn Học 1502 4 SH 744
25 Ngô Văn Huy 1502 4 SH 753
26 Nguyễn Nghĩa Thọ 1508 5 SH 871
27 Nguyễn Cụn 1508 5 SH 881
28 Đào Xuân Vi 1511 5 SH 924
29 Nguyễn í 1511 5 SH 927
30 Nguyễn Hữu Quan 1511 5 SH 933
31 Đỗ Tam Cương 1523 5 SH 1047
32 Bựi Khắc Thầm 1523 5 SH 1049
33 Khổng Tư Trực 1526 5 SH 1074
34 Nguyễn Kớnh Trung 1526 5 SH 1080

211
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bảng 11: Các chức quan Lục khoa thời Lê Sơ
(Thống kê từ chính sử)
Khoa Chức quan Nhân vật Năm Chức quan khác Tài liệu dẫn
Lại Đô cấp sự trung Trịnh Thiết Trường 1467 Hμn lâm thị giảng học sĩ TT,1:420;
quyền Công bộ hữu thị CM,1:1040
lang
Nghiên Nhân Thọ 1467 Th−ợng bảo tự khanh TT,1:423
D−ơng Trực Nguyên 1498 TT,3:10
Lê Tung 1499 TT,3:19;
CM,1:1198
Nguyễn Tịnh 1506 TT,3:41
D−ơng Đức Giản 1509 TT,3:46;
CM,2:33
Phạm Trí Năng 1514 TT,3:73
Nguyễn Khắc Tuy 1522 TT,3:99
Cấp sự trung Ninh Thao 1467 TT,2:429
V−ơng Khắc Thuật 1474 TT,2:465
Hoàng Thiệu 1485 TT,2:496
Lễ Đô cấp sự trung Lê Lan Hinh 1500 TT,3:22
Cấp sự trung Nhữ Văn Lan 1467 TT,2:413
Tr−ơng Phu Duyệt 1513 TT,3:70
Hộ Đô cấp sự trung D−ơng Tông Hải 1467 Th−ợng bảo tự khanh TT,2:418
Phạm H−ng Văn 1497 TT,2:526
Vũ Lộc 1499 TT,3:17
L−u Quang Phụ 1504 TT,3:36
Cấp sự trung Đặng Thục Giáo 1467 TT,2:431
Vũ Đức Khang 1474 TT,2:465
Phạm H−ng Hiếu 1482 TT,2:486
Lê Đĩnh Chi 1507 TT,3:43
Binh Đô cấp sự trung Phạm C− 1467 Hμn lâm thị độc học sĩ TT,2:422
thự viện sự, Thái bộc tự
khanh quyền Lạng Sơn
đẳng xứ tán trị thừa
tuyên tham chính
Phí Bá Khang 1475 TT,2:465
Lê Thừa H−u 1510 TT,3:53;
CM,2:43
Nguyễn Văn Tuấn 1510 TT,3:53
Hình Đô cấp sự trung Nguyễn Bảo Khuê 1499 TT,3:21
Cấp sự trung Trần Khải 1474 TT,2:465
Công Cấp sự trung L−ơng Thế Vinh 1467 Hμn lâm viện trực học sĩ TT,2:418
Phạm Nhân Khiêm 1472 TT,2:460
Không Đô cấp sự trung Vũ Mộng Khang 1481 TT,2:483
rõ Cấp sự trung Lê Tông Vĩnh 1467 TT,2:418
Trần Mậu Tμi 1502 TT,3:30

Bảng 12: Các chức quan Lục khoa thời Lê Sơ

212
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Số Nhõn vật Khoa Hạng Chức quan lục Khoa Chức tƣớc
hiệu thi đỗ khác
1 378 Ngụ Kim Hỳc 1478 5 Lại khoa Đô cấp sự trung
2 631 Nguyễn Tinh 1493 5
3 812 Đỗ Bá Huõn 1505 4
4 1024 Vũ Nghi 1520 5
5 277 Vũ Ứng Khang 1472 4 Hộ khoa Đô cấp sự trung
6 1005 Lờ Vụ Địch 1518 4
7 1029 Nguyễn Trọng Tốn 1523 4
8 511 Ngụ Ngọc 1487 4 Lễ khoa Đô cấp sự trung
9 476 Đào Khắc Lõm 1484 5 Binh khoa Đô cấp sự trung
10 220 Hạ Cảnh Đức 1463 5 Hỡnh khoa Đô cấp sự trung
11 291 Nguyễn Lan 1472 5
12 464 Nguyễn Doón Tu 1484 4
13 666 Văn Vĩ 1496 5
14 1032 Trần Khả Tượng 1523 4
15 263 Nguyễn Nhõn Khiờm 1469 5 Công khoa Đô cấp sự trung
16 317 Đỗ Vinh 1475 5
17 649 Phạm Huy 1493 5
18 830 Nguyễn Văn Bớnh 1505 5
19 1019 Vũ Lõn Chỉ 1520 5
20 241 Nguyễn Chấn 1466 5 Đô cấp sự trung không rừ
21 242 Bựi Khản 1466 5 Khoa
22 285 Nguyễn Tắc Trung 1472 5
23 329 Nguyễn Tịnh 1475 5
24 379 Nguyễn Cẩn 1478 5
25 387 Nguyễn Giản Liờm 1478 5
26 393 Lờ Hanh Huyễn 1478 5
27 467 Phan Tụng Liễn 1484 5
28 591 Đào Sùng Nhạc 1490 5
29 608 Nguyễn Thuấn 1493 4
30 634 Lưu Thắng Ân 1493 5
31 692 Bựi Lệnh Tỏ 1499 4
32 697 Trần Xuõn Vinh 1499 4
33 728 Lờ Thừa Hưu 1499 5
34 814 Dương Đức Giản 1505 4
35 932 Trần Viết Thứ 1511 5
36 996 Nguyễn Kớnh Hoà 1514 5
37 832 Hoàng Trung 1505 5 Hộ khoa Cấp sự trung
38 400 Hoàng Hiền 1478 5 Lễ khoa Cấp sự trung Hiến sỏt sứ
39 374 Lương Vinh 1478 5 Binh khoa Cấp sự trung
40 404 Vũ Kiệt 1478 5 Cấp sự trung khụng rừ Khoa
41 618 Đinh Thuý 1493 4
42 772 Đỗ Văn Hiệu 1502 5
43 939 Tạ Vỡnh Huy 1511 5
44 953 Nguyễn Kiều 1511 5
45 978 Nguyễn Khắc Tuy 1514 5

213
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bảng 13: Các chức quan Ngự sử đài thời Lê Sơ
(Thống kê từ chính sử)
Chức quan Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu dẫn
Ngự sử đài
Đô ngự sử Ngô Sĩ Liên 1461 TT,2:364
Trần Bàn 1466 TT,2:409
Nguyễn Cư Đạo 1467 Hộ bộ th−ợng th− tri kinh TT,2:416
diên sự
Nguyễn Mậu 1472 TT,2:459
Trần Phong 1474 Thiếu bảo TT,2:463
Chử Phong 1475 TT,2:466
Quách Hữu Nghiêm 1493 TT,2:512
Nguyễn Quang Bật Tr.1505 TT,240
D−ơng Trực Nguyên 1509 TT,3:46
Nguyễn Thì Ung 1510 L−ơng Văn bá TT,3:53
Đỗ Nhạc 1518 Đông các đại học sĩ, nhập thị TT,3:89
kinh diên
Nguyễn Quý Nhã 1520 TT,3:93
Nguyễn Mậu 1526 TT,3:94
Phó đô ngự sử Nghiên Nhân Thọ 1461 TT,2:364
Trần Xác 1467 Cung s− phủ thái tử tân TT,2:416
khách kiêm Ngự sử đμi Đô
ngự sử
Đμo Tuấn 1467 TT,2:426
Nguyễn Duy Trinh 1474 TT,2:464
Quách Đình Bảo 1481 Tả xuân ph−ờng tá trung TT,2:485
doãn
Quách Hữu Nghiêm 1484 TT,2:491
Đμm Văn Lễ 1493 TT,2:512
Đỗ Nhân 1508 TT,3:44
Đỗ Lý Khiêm 1510 TT,3:56
Phí Vạn Toμn 1510 TT,3:56
Nguyễn Dự 1517 TT,3:83
Nguyễn Mậu 1520 TT,3:94
Nguyễn Quý Nhã 1524 TT,2:103
Thiêm đô ngự Nguyễn Thiện 1464 TT,2:403
sử Dương Tông Hải Tr.1467 TT,2:418
Nguyễn Đức Du 1467 TT,2:417
Hoμng Hãng 1499 TT,3:21
Bùi X−ơng Trạch 1502 TT,3:29
Phạm Khiêm Bính 1510 TT,3:57
Nguyễn Mậu 1518 Thái bộc tự khanh TT,3:89
Nguyễn Phi Hổ 1518 TT,3:91
Đề hình giám Chử Phong 1475 TT,2:466
sát ngự sử Nguyễn Tư Phụ 1485 TT,2:495
Nguyễn Quý Nhã 1506 TT,3:41
Nguyễn Trọng Quỳ 1506 TT,3:41
Nguyễn Đức Quang 1510 TT,3:56
Nguyễn Doãn Văn 1510 TT,3:53

214
Bảng 14: Các chức quan Ngự sử đài thời Lê Sơ
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
STT Số Nhõn vật Tiến sĩ hạng Chức quan Chức tƣớc khác
hiệu khoa đỗ Ngự sử
1 117 Trần Bàn 1442 5 Ngự sử đại Đông các đại học sĩ,
phu quyền Tả thị lang bộ Lại
2 79 Triệu Thỏi 1429 Thị ngự sử
3 85 Trỡnh Hiển 1429
4 91 Chu Xa 1433
5 96 Lương Như Hộc 1442 3 Đô ngự sử
6 106 Nguyễn Cư Đạo 1442 5 Hộ bộ Thượng thư, tri
Kinh diên sự
7 115 Nguyễn Thiện Tớch 1442 5 Thượng thư
8 168 Nguyễn Tụng Khiờm 1453 5 tước quận công
9 227 Quỏch Hữu Nghiờm 1466 4 Lại bộ Thượng thư
10 232 Phạm Thừa Nghiệp 1466 4
11 239 Nguyễn Chương 1466 5
12 244 Lờ Thỳc Chẩn 1466 5
13 310 Phạm Hưng Văn 1475 4
14 370 Bùi Xương Trạch 1478 5 Thượng thư, chưởng
Lục bộ sự, Quốc tử giám
Tế tửu
15 443 Nguyễn Oanh 1481 4
16 446 Nguyễn Quang Bật 1484 1
17 453 Lê Đức Toản 1484 4
18 473 Đặng Doón Tu 1484 5
19 493 Vũ Cảnh 1487 4 Thượng thư
20 499 Ngụ Hoan 1487 4
21 519 Trần Bõn 1487 4 Lại bộ Thượng thư kiêm
Quốc tử giám Tế tửu
22 553 Lờ Tuấn Mậu 1490 4 Hộ bộ Thượng thư
23 562 Dương Trực Nguyờn 1490 4
24 564 Vương Tỏo 1490 4 Thượng thư, tước Tu Lễ
hầu
25 572 Lê Đỡnh Quỏt 1490 4
26 590 Hoàng Chớnh Liờm 1490 5
27 612 Đỗ Nhõn 1493 4 Hộ bộ Thượng thư,
Đông các đại học sĩ,
Nhập thị kinh diên
28 621 Vũ Đạt 1493 4
29 684 Nguyễn Khắc Kiệm 1499 3
30 732 Lê Đỡnh Tấn 1499 5
31 746 Nguyễn Ngạn 1502 5
32 755 Nguyễn Chưởng 1502 4
33 764 Phạm Khiờm Bớnh 1502 4 Lễ bộ Thượng thư
34 769 Nguyễn Tử Trọng 1502 5
35 788 Trần Huyờn 1502 5
36 797 Nguyễn Mậu 1502 5
37 815 Đỗ Tựng 1505 4
38 865 Lờ Bỏ Giỏc 1508 4
39 907 Hoàng Nghĩa Phỳ 1511 1 ham tri chớnh sự

215
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
40 910 Bựi Doón Hiệp 1511 4
41 916 Phan Chớnh Nghị 1511 4
42 963 Nguyễn Đôn Cung 1514 4 tước bá
43 992 Nguyễn Chõu Mạo 1514 5
44 1000 Lại Kim Bảng 1518 4
45 151 Nguyễn Ngự 1448 5 Phó đô ngự
46 176 Nguyễn Tế 1453 5 sử tước Cẩm Linh hầu
47 302 ễng Nghĩa Đạt 1475 2
48 518 Phạm Bảo 1487 4
49 529 Nguyễn Diệu Huy 1487 5
50 625 Ngụ Kớnh Thần 1493 4
51 682 Đỗ Lý Khiờm 1499 1
52 693 Nguyễn Tứ Đô 1499 4
53 791 Lê Đỡnh Tưởng 1502 5
54 856 Trần Tụng 1508 4 Nhập thị kinh diờn
55 870 Nguyễn Tử Ký 1508 4
56 938 Phạm Nguyờn 1511 5
57 949 Vũ Phi Hổ 1511 5
58 155 Nguyễn Từ 1453 4 Thiêm đô
59 191 Phạm Ngữ 1463 4 ngự sử
60 339 Nguyễn Dương Hiến 1475 5
61 585 Phạm Trinh 1490 5
62 665 Phạm Thụng 1496 5
63 700 Phạm Nguyờn Chấn 1499 4
64 765 Nguyễn Văn Kiệt 1502 5
65 828 Nguyễn Phi Hổ 1505 5
66 857 Nguyễn Trọng Hổ 1508 4
67 877 Nguyễn Đỡnh Khụi 1508 5
68 885 Nguyễn Dự 1508 5
69 903 Lê Văn Hiểu 5
70 1002 Nguyễn Chấn Chi 1518 4
71 111 Trần Đương 1442 5 Đề hỡnh
72 284 Chử Phong 1472 5 giỏm sỏt ngự
sử
73 308 Nguyễn Tấn Vĩ 1475 4
74 389 Nguyễn Quýnh 1478 5

75 607 Lại Đức Du 1493 4


76 729 Nguyễn Quý Nhó 1499 5
77 754 Trương Đức Quang 1502 4
78 802 Nguyễn Doón Nguyờn 1505 4
79 821 Nguyễn Thuật 1505 5
80 834 Vũ Phỳc Kiờm 1505 5
81 1045 Nguyễn Thỡ Hanh 1523 5
82 1055 Phạm Quả Đoán 1523 5
83 1058 Nguyễn Hữu Phi 1523 5
84 114 Lờ Lõm 1442 5 Giỏm sỏt
85 309 Lờ Quảng Du 1475 4 ngự sử
86 342 Nguyễn Tư Phụ 1475 5
119 369 Nguyễn Hiếu Trung 1478 5

216
146 383 Trần Sảnh 1478 5

160 430 Lờ Cụng Truyền 1481 5


161 456 Phạm Văn Ngọc 1484 4
187 483 Nguyễn Hữu Huy 1484 5
214 501 Vũ Trật 1487 4
215 645 Vũ Thiệu 1493 5
217 669 Trần Tước 1496 5
278 706 Phựng Đốc 1499 4
284 712 Nguyễn Tứ 1499 5
312 740 Nguyễn Cảnh Diễn 1502 4
313 741 Nguyễn Đức Khõm 1502 4
319 747 Nguyễn Vĩnh Kiờn 1502 4
322 789 Lờ Hiếu Trung 1502 5 Quốc Tử giám Tư
nghiệp
335 822 Nguyễn Dương Cốc 1505 5
336 835 Nguyễn Huõn 1505 5
338 846 Đỗ Văn Trung 1505 5
359 848 Nguyễn Nhõn Hiếu 1505 5
379 869 Lê Đỡnh Trật 1508 4
388 889 Nguyễn Thỳc Tuynh 1508 5
409 898 Đinh Thao Ngọc 1508 5
410 922 Trần Bớch Hoành 1511 5
414 931 Ngọ Cương Trung 1511 5
480 935 Nguyễn Vụ Địch 1511 5
527 1001 Đặng Ất 1518 4
535 1048 Vương Dương 1523 5
538 1056 Vũ Tường 1523 5
539 1059 Đào Triết 1523 5
552 1060 Phạm Doón Chấp 1523 5
553 1073 Hoàng Thụng 1526 5

Bảng 15: Các quan Ngũ phủ thời Lê Sơ


(Thống kê từ chính sử)
Phủ Chức quan Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu
Trung Tả Đô đốc Lê Quyền 1484 Kinh D−ơng bá TT,2:494
quân phủ Lê Quảng Độ 1504 Bình Sơn hầu TT,3:37;
CM,2:18
Hữu Đô đốc Nguyễn Quán 1486 Mậu Kính tử TT,2:501
Đô đốc đồng tri Phạm Văn Hiển 1467 TT:2, 416
Đông Tả Đô đốc Trịnh Công Lộ 1467 TT,2:426, 465,
quân phủ Quang tiến trấn quốc 475;
th−ợng t−ớng quân CM:1,1048
phò mã đô uý, Đoan
Vũ bá (1475), Đoan
Vũ hầu (1479)
Đô đốc Thiêm sự Bùi Quát 1467 TT:2, 416

Tây quân Tả Đô đốc Lê Thiệt 1467 TT, 2:423;


phủ CM,1:1030
Lê Đình Ngạn 1485 Thanh T−ơng bá TT,2:494

217
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
kiêm Tông nhân phủ
Tả tông nhân chính
Lê Vĩnh 1497 Sùng Khê bá TT:2, 501;
CM,1189
Đô đốc đồng tri Lê Hoằng Dục 1467 TT:2, 416
Đô đốc Thiêm sự Khuất Đả 1467 TT:2,425;
CM,1:1045
Nam Tả Đô đốc Lê Chí 1485 Bình Thuần bá TT:2,497
quân phủ Lê Quyền 1487 Kinh D−ơng hầu TT,2:502
Lê Đạt Chiêu 1499 Phò mã đô uý Lâm TT:3,21; CM,2
Hoμi bá
Đô đốc đồng tri Nguyễn Đức Trung 1467 TT:2,425;
CM,1:1046
Bắc quân Tả Đô đốc Lê Vĩnh 1486 Đ−ờng Khê hầu TT:2,501
phủ Trịnh Tốn 1499 Hoa Lâm hầu TT:3:16
Trịnh Quý Thuật 1499 Hoa Lâm bá TT:3,21
Trần Thúc Mại 1508 TT:3,44
Đô đốc Thiêm sự Lê Giải 1467 TT:2,431

II. Thời Mạc

Bảng 16: Chức danh quan Hàn lâm thời Mạc so sánh với thời Lê Sơ1
(Theo Đinh Khắc Thuân [109-110]
Hàn lâm viện thời Mạc Hàn lâm viện thời Lê
Tài liệu Nhân vật Chức tước khác Chức danh Hàn Sau năm Phẩm
lâm viện 1471 hàm
ĐKL 29b Nguyễn Giản Thượng thư Chưởng Hàn
ĐKL 42a Phạm Đoan Lương Thị lang bộ Lại lâm viện Thừa chỉ 4a
ĐKL 33a Vũ Kính Thị lang bộ Lễ
ĐKL 26a Nguyễn Giản Thanh Thượng thư bộ Lễ
B 151 Đỗ Uông (1579) Thị lang bộ Lễ Thị độc Thị độc 5a
B 50 Mai Công Cẩn (1586) Thượng thư bộ Lễ
Thị giảng, 5b
? Tả Hữu
thuyết thư
B 40 Nguyễn Vĩnh Miên Thị lang bộ Lễ
ĐKL 26a Nguyễn Giản Thanh Đông các đhs Thị thư Thị thư 6a
ĐKL 34b Nguyễn Kì ?
ĐKL 65b Trần Toại ?
ĐKL 38b Đặng Thi Thố ? Đãi chế Đãi chế 6b
B 124 Lê Quang Bí (1528) Ty huấn Hiệu lý Hiệu lý 7a
B 98 Vũ Văn Chính Mậu lâm lang
B 121 Phạm Công (1570) Cẩn sự tá lang Kiểm thảo Kiểm thảo 7b
B9 Bùi Thuần Phu ?

1
Theo chú thích của tác giả, B tức là văn bia (xếp theo danh mục cuối sách), ĐKL tức Đăng khoa
lục, TS tức Đại Việt thông sử, sách dịch,1973 [Đinh Khắc Thuân: 159,119].

218
Bảng 17: Các chức quan Hàn lâm viện thời Mạc
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Số Nhân vật Đỗ Tiến sĩ Chức quan hàn Chức tƣớc khác
hiệu Khoa Hạng lõm
1 1183 Nguyễn Giản 1538 5 Chưởng Hàn lâm Thượng thư, tước Lâm
viện sự Khê hầu
2 1233 Vũ Kớnh 1544 4 Lễ bộ Tả thị lang, tước
Quân Xuyên hầu
3 1332 Phạm Đoan Lương 1556 4 Lại bộ Tả thị lang
4 1136 Bựi Doón Đốc 1535 2 Thị thư
5 1168 Trần Toại 1538 2
6 1203 Nguyễn Kỳ 1541 1
7 1479 Nguyễn Kỳ Phựng 1580 4
8 1351 Đặng Thỡ Thố 1559 3 Đói chế
9 1423 Nguyễn Cung 1571 3 Thị chế
10 1220 Viờm Nghĩa Lộ 1541 5 Hiệu thảo
11 1085 Trần Thuỵ 1529 4
12 1410 Giỏp Lễ 1568 5
13 1101 Chu Tam Dị 1529 5 Kiểm thảo
14 1103 Đinh Thuỵ 1529 5
15 1201 Phạm Khuông Đỉnh 1538 5
16 1206 Ngụ Quang 1541 4
17 1145 Nguyễn Trựng Quang 1535 5 Quan Hàn lõm ? Đông các đ.h.s, tước
quận công
18 1091 Nguyễn Chiờu 1529 4
Khỏnh
9 1154 Nguyễn Uyờn 1535 5
20 1211 Phạm Nguyện 1541 5
21 1257 Nguyễn Đôn Mục 1547 4
22 1259 Dương Trớ Tri 1547 4
23 1314 Nguyễn Cụng Tộc 1553 5
24 1539 Đặng Đức Thi 1589 5
25 1552 Nguyễn Hữu Đức 1592 5

Bảng 18: Chức danh Đông các thời Mạc1


(Theo Đinh Khắc Thuân [tr.116])
Chức danh Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu dẫn
Đại học sĩ Nguyễn Thanh 1529 Thượng thư bộ Lễ B 73
Nguyễn Thì Ung 1529 Thượng thư bộ Lễ B 73
Vũ Cán 1532 Thượng thư bộ Lễ B 133
Nguyễn Văn Thái 1534,1536 Thượng thư bộ Lễ B 23, B 94
Mạc Ninh Bang 1541 Thiếu bảo TS 145
Nguyễn Thiến 1550 Thượng thư bộ Lại TT 137, TS 197
Nguyễn Năng Nhuận 1581 Thị lang bộ Lại TS 266

1
Theo chú thích của tác giả, B tức là văn bia (xếp theo danh mục cuối sách), TT tức Đại Việt sử ký
toàn thư, bản dịch 1968, tập 4, TS tức Đại Việt thông sử, sách dịch,1973. Cũng theo tác giả, trong
Đăng khoa lục còn có rất nhiều nhân vật mang chức danh Đông các, nhưng là chức danh họ được
ban tặng sau khi mất nên không tính vào bảng này [Đinh Khắc Thuân 159,116].

219
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Giáp Trưng 1584 Đô ngự sử TT 174, TS 248
Đỗ Uông 1588 Thượng thư bộ Lại B 82
Học sĩ Đỗ Uông 1579,1580 Thị lang bộ Công, Lễ B 124, B 151, B
Đỗ Uông 1583 Thượng thư bộ Binh 154, B 55
Ngô Cung 1592 ? TS 304
Hiệu thư Nguyễn Cư Nhân 1529 Phụng trực đại phu B 73
Ngô Diễn 1557,1559 Triều liệt đại phu B 129, B 139
Phạm Quyết ? ? TT 150

Bảng 19: Các chức quan Đông các thời Mạc


(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Số Nhõn vật Đỗ tiến sĩ Chức danh Chức tƣớc khỏc
hiệu Năm Hạng Đông các
1 1108 Nguyễn Thiến 1532 1 Đại học sĩ Lại bộ Thượng thư, Ngự sử đài
đô ngự sử, Nhập thị kinh diên,
tước Thư quận công
2 1146 Đỗ Tấn 1535 5 Thượng thư, tước quận công

3 1145 Nguyễn Trựng Quang 1535 5 Hàn lâm viện, tước quận cụng

4 1167 Giỏp Hải 1538 1 Lục bộ Thượng thư Nhập thị


kinh diên, Thái bảo, tước Sách
quốc công
5 1252 Nguyễn Tế 1547 3
6 1291 Lờ Hiến 1550 5 Tả thị lang kiờm
7 1328 Đỗ Uông 1556 2 Lại bộ Thượng thư, tước Phúc
quận công
8 1360 Nguyễn Xuõn Quang 1559 5
9 1371 Phạm Duy Quyết 1559 5 Tả thị lang, Xỏc Khờ hầu
10 1372 Trương Lỗ 1562 2 Tả thị lang
11 1389 Phạm Quang Tiến 1565 3
1427 Hoa Hữu Mụ 1471 5 Hoà Khờ bỏ
12 1475 Đỗ Trực 1580 4 An Giang hầu
13 1494 Ngụ Cung 1583 4
14 1138 Nguyễn Dần Lượng 1535 4 Hiệu thư Hộ bộ Hữu thị lang
15 1208 Nguyễn Hoàng Diễn 1541 4 Lóo Tuyờn bỏ
16 1269 Phạm Kớnh 1547 5
17 1405 Vũ Hữu Chớnh 1568 3
18 1428 Hoàng Chõn Nam 1571 5
19 1443 Vũ Duy Hàn 1574 5
20 1474 Đỗ Cung 1580 3
21 1439 Vũ Văn Khuê 1574 3 Đông các

Bảng 20: Các chức quan Lục Bộ thời Mạc


(Theo Đinh Khắc Thuân)1

1
- Một số chữ viết tắt: QTG: Quốc tử giám; đ.h.s: Đại học sĩ, h.s: Học sĩ; HLV: Hàn lâm viện

220
Bộ Chức quan Năm Nhân vật Chức quan khác Tƣớc Tài liệu
dẫn
Lại Thượng thư 1529 Đinh Thận Tế tửu QTG Bỉnh Lễ bá B 73
1550 Nguyễn Thiến Đông các đ.h.s Thư Quận công TS 195
1557 Lê Quang Bí Tô Xuyên hầu B 124
1578 Trần Văn Nghi Kinh diên Nghĩa Sơn hầu TS 255
1581 Giáp Trừng Thiếu bảo Luân Quận công TT 174
1584 Đỗ Uông Đông các đ.h.s Phúc Quận công B 82
Tả thị lang 1588 Nguyễn Văn Luân Quận công B 54
Hữu thị lang 1542 Nguyễn Bỉnh Khiêm Trinh Thượng TS 179
hầu
1585 Vũ Tích Tây Khê bá TS 280
1592 Ngô Vĩ Vĩnh Sơn hầu TT 193
1456 Lê Quang Bí Thừa tuyên sứ Đoan Thận tử B 124
1581 Nguyễn Năng Đông các h.s Đạo Phái bá TS 266
Nhuận
Lễ Thượng thư 1529 Nguyễn Thanh Đông các đ.h.s Văn Đoàn bá B 73
1529 Nguyễn Thì Ung Đông các đ.h.s Thông Quận công B 73
1532 Vũ Cán Đông các đ.h.s Lễ Độ bá B 133
1534 Nguyễn Trí Thái Đông các đ.h.s Đạo Xuyên bá B 23, 94
1547 Trần Phỉ Đông Lai hầu TS 190
1575 Nguyễn Vĩnh Miên Thị thư HLV Thọ Khánh hầu B 40
1585 Nguyễn Triệt Đạm Xuyên hầu TS 280
1586 Mai Công Cẩn Thị độc HLV An Trường hầu B 50
Tả thị lang 1592 Nhữ Tông Hồng Khê hầu TT 193
1528 Hoàng Trưng Đông các h.s B 150
1558 Vũ Bang Kiệt Trụ quốc Tô Xuyên bá B 126
1579 Đỗ Uông Đông các h.s Phúc Khê bá B 151
1586 Trần Cự Công ? Xuân Sơn bá B 50
Hộ Thượng thư 1571 Nguyễn Đông ? Lâm Khê bá B 120
1581 Đặng Võ Cạnh Đô Ngự sử Miện Dương bá TS 258
1582 Hoàng Sĩ Khải Tế tửu QTG Vịnh Kiều bá TS 273
Tả thị lang 1542 Lê Quang Bí Thừa tuyên sứ Đoan Thần tử B 124
1571 Nguyễn Lượng Thái B 120
1592 Ngô Tạo TT 193
Hữu thị lang 1588 Đặng Hiển Tùng Lãnh bá B 140
1588 Vũ Sư Tích Mai Xuân bá B 140
Binh Thượng thư 1529 Mạc Ninh Chính ? Khánh Khê hầu B 73
1583 Đỗ Uông Đông các đ.h.s Phúc Khê bá B 56
Tả thị lang 1583 Vũ Thoát Dĩnh Minh Lễ bá B 90
Hữu thị lang 1540 Lê Quang Bí Đoan Thận tử B 124
Hình Thượng thư 1542 Trần Phỉ ? Đông ? bá TS 174
Tả thị lang 1592 Phạm Khắc Kiệm Gia hạnh đại phu ? B 41
Công Thượng thư 1592 Đồng Hãng ? ? TT 174
Tả thị lang 1579 Đỗ Uông Đông các h.s Phúc Khê bá B124,154

- Trong cột Tài liệu dẫn: B là văn bia xếp theo danh mục cuối sách của tác giả; TS là Đại Việt
Thông sử; TT là Đại Việt sử ký toàn thư.

221
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bảng 21: Cỏc chức quan Lục Bộ thời Mạc
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Số Nhõn vật Đỗ Tiến sĩ Chức Chức tƣớc khác
hiệu Năm Hạ quan lục
ng Bộ
1 729 Nguyễn Quý Nhó 1499 5 Lại bộ Đông các đại học sĩ, Nhập thị
Thượng kinh diên
2 800 Trần Phỉ 1505 3 thư Thiếu sư, tước Lại Quận công
3 854 Hứa Tam Tỉnh 1508 2 Thiếu bảo, tước Đôn Giáo bá
4 997 Ngụ Miễn Thiệu 1518 1 Đô ngự sử, Chưởng Hàn lâm
viện sự, Nhập thị kinh diên,
tước Lý Khờ bỏ
5 1064 Lờ Quang Bớ 1526 4 tước Tô Xuyên hầu
6 1089 Nguyễn Doón Địch 1529 4 Quốc tử giỏm Tế tửu
7 1095 Hoàng Khắc Thận 1529 5 tước Hoàng Trung hầu
8 1108 Nguyễn Thiến 1532 1 Ngự sử đài đô ngự sử, Đông
các đại học sĩ, Nhập thị kinh
diên, tước Thư quận công.
9 1328 Đỗ Uụng 1556 2 Đông các đại học sĩ, tước
Phúc quận công
10 656 Nguyễn Thanh 1496 4 Lễ bộ Đông các đại học sĩ, Nhập thị
Thượng kinh diên, tước Văn Đàm bá
11 687 Tăng Văn Xan 1499 4 thư
12 853 Nguyễn Giản Thanh 1508 5 Hàn lâm viện thị độc, Chưởng
viện sự, tước Trung Phụ bá
13 1083 Nguyễn Văn Huy 1529 3
14 1304 Ngụ Diễn 1550 5 Nhân Sơn bá
15 1453 Hà Nhậm Đại 1574 5
16 872 Trần Doón Minh 1508 5 Thượng tước Văn An hầu
17 1534 Trần Phi Chiờu 1589 5 thư bộ Hộ Tán trị đồng đức công thần,
Đô ngự sử, Nhập thị kinh diên,
Thiếu bảo
18 1133 Nguyễn Đĩnh Tỳ 1532 5 Thượng tước hầu
thư bộ
Binh
19 1090 Phớ Thạc 1529 4 Thượng
20 1100 Vũ Ngung 1529 5 thư bộ Trói Sơn hầu
Hỡnh
21 739 Nguyễn Văn Thỏi 1502 3 tước hầu
22 768 Doón Mậu Khụi 1502 5 Thượng Chưởng Hàn lâm viện, tước
thư không Tường An hầu
23 936 Nguyễn Bạt Tuỵ 1511 5 rừ Bộ Thái bảo, tước Quận công
24 946 Nguyễn Tuệ 1511 5 tước bá
25 948 Nguyễn Thu 1511 5 tước bá
26 959 Phạm Chớnh Nghị 1514 4 tước bá
27 964 Nguyễn Đốc Tớn 1514 4 tước hầu
28 970 Hà Cảnh Đạo 1514 4
29 975 Lờ Thỡ Bật 1514 4 tước hầu
30 980 Nguyễn Chuyờn Mỹ 1514 5 tước hầu
31 982 Nguyễn Bỉnh Đức 1514 5 Thiếu phó kiêm Đông các,
tước Liêm quận công
32 986 Phạm Điển Kớnh 1514 5 Văn Ninh hầu
33 990 Đoàn Sư Đức 1514 5 Hà Văn hầu
34 1006 Nguyễn Độ 1518 5 tước bá

222
35 1007 Nguyễn Cư Nhõn 1518 5 Chưởng Hàn lâm viện sự
36 1013 Nguyễn Tảo 1518 5 Thừa chính sứ Hải Dương
37 1020 Nguyễn Cụng Nghi 1520 5
38 1038 Ngụ Mậu Đôn 1523 5 tước hầu
39 1039 Vũ Đoan 1523 5
40 1061 Trần Tất Văn 1526 1 Hàn Xuyờn bỏ
41 1119 Vũ Hữu Dụng 1532 5 Nhập thị kinh diên, tước Từ
Xuyên hầu
42 1123 Tạ Đỡnh Quang 1532 5 tước bá
43 1125 Nguyễn Xõn 1532 5 tước hầu
44 1135 Nguyễn Bỉnh Khiờm 1535 1 Thái phó, tước Trỡnh quốc
cụng
45 1146 Đỗ Tấn 1535 5 Đông các đại học sĩ, tước quận
công
46 1167 Giỏp Hải 1538 1 Đông các, Nhập thị kinh diên,
Thái bảo, tước Sách quốc công
47 1172 Đàm Cư 1538 4 Thiếu phú, Thế quận cụng
48 1175 Nguyễn Đỡnh Tấn 1538 4 Đô ngự sử
49 1183 Nguyễn Giản 1538 5 chưởng Hàn lâm viện sự, tước
Lâm Khê hầu
50 1196 Vũ Thoỏt Dĩnh 1538 5
51 1205 Nguyễn Thế Lộc 1541 3 Đoan Phong bá
52 1209 Trương Hữu Phỉ 1541 4 Thiếu bảo, tước An quận công
53 1216 Lê Như Hổ 1541 5 Thiếu bảo, tước Tuấn quận
công
54 1217 Nguyễn Phục 1541 5 Thiều Xuyờn hầu
55 1229 An Đôn Phỏc 1541 5 Ninh Khờ hầu
56 1232 Nguyễn Đĩnh 1541 5 Từ quận cụng
57 1241 Hoàng Sĩ Khải 1544 5 Vịnh Kiều hầu
58 1247 Đỗ Phi Tỏn 1544 5 Thiếu bảo, tước Văn Trường

59 1256 Nguyễn Trọng Quýnh 1547 4
60 1268 Dương Văn An 1547 5
61 1273 Nguyễn Vĩnh Trinh 1547 5
62 1276 Phạm Trỏc 1547 5 Ninh Xuyờn bỏ
63 1280 Trần Văn Bảo 1550 1 Nghĩa Sơn bá
64 1281 Trần Văn 1550 2
65 1284 Nguyễn Ngạn Hoành 1550 4 Nhập thị kinh diên, tước Cổn
Dương bá
66 1309 Nguyễn Nghĩa Lập 1553 4 Dũng Xuyờn hầu
67 1310 Nguyễn Đoan Trung 1553 4 Thừa chính sứ Hải Dương
68 1313 Phạm Thiệu 1553 4 Chõu Khờ hầu
69 1315 Nguyễn Huy 1553 5 Nghĩa Giang bỏ
70 1316 Vũ Khắc Kế 1553 5
71 1317 Nguyễn Khắc Tuy 1553 5 Tựng Nham hầu
72 1318 Ngọ Đức Cơ 1553 5 Sơn Nam Thừa chính sứ
73 1320 Lương Phùng Thỡn 1553 5 Thiếu bảo, Lương Khê hầu
74 1322 Mai Cụng 1553 5 An Thưởng hầu
75 1336 Tống Hõn 1556 5 Lễ Khờ bỏ
76 1338 Nguyễn Uyờn 1556 5 Nham lang hầu
77 1340 Nguyễn Lượng 1556 5
78 1344 Đặng Vô Cạnh 1556 5 Miờn quận cụng

223
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
79 1346 Nhữ Tụng 1556 5 Vị Xuyờn hầu
80 1347 Vũ Cẩn 1556 5 Xuõn Giang hầu
81 1348 Vũ Cẩn 1556 5 Dũng quận cụng
82 1353 Nguyễn Doón Khõm 1559 4 Đô ngự sử
83 1359 Nguyễn Kớnh 1559 5 Hương Sơn hầu
84 1368 Lê Đĩnh Tỳ 1559 5 Đường quận công
85 1369 Nguyễn Vĩnh Phỳc 1559 5 tước hầu
86 1375 Nguyễn Năng Nhượng 1562 4 Đạo Phái hầu
87 1376 Nguyễn Minh Bớch 1562 4 Lõm Xuyờn bỏ
88 1377 Nguyễn Khắc Kớnh 1562 4 Thanh Lóng hầu
89 1379 Nguyễn Vĩnh Miờn 1562 5
90 1380 Nguyễn Vụ Thực 1562 5 Trà Sơn bá
91 1393 Lại Mẫn 1565 5 Đô ngự sử
92 1401 Đặng Hiển 1565 5 Tựng Lĩnh bỏ
93 1411 Nguyễn Đạt 1568 5
94 1420 Trịnh Quang Tỏn 1568 5
95 1425 Nguyễn Lễ 1571 4
96 1489 Phạm Khắc Minh 1580 5 tước hầu
97 750 Nguyễn Đốc 1502 4 Lại bộ Tả
98 801 Nguyễn Tiếu Tượng 1505 4 thị lang Nhập thị kinh diờn
99 1096 Lờ Tảo 1529 5
100 1109 Bựi Vĩnh 1532 2 Mai Lĩnh hầu
101 1111 Nguyễn Địch Khang 1532 4
102 1134 Nguyễn Hành 1532 5 Hoành Lương hầu
103 1214 Vũ Doón Tư 1541 5 Sơn Đông bá
104 1278 Nguyễn Nhõn Kiền 1547 5 Phong Lĩnh hầu
105 1299 Vũ Trỏng 1550 5 Đông Yên bá
106 1332 Phạm Đoan Lương 1556 4 Tham chưởng Hàn lâm viện sự
107 1335 Nguyễn Hựng Đoỏn 1556 5
108 1408 Vũ Sư Tớch 1568 4 Mai Khờ bỏ
109 1457 Nguyễn Nhõn Triờm 1577 2
110 866 Phan Tập 1508 4 Tả thị
111 1131 Nguyễn Nhĩ 1532 5 lang bộ
Hộ
112 1025 Hoàng Văn Tỏn 1523 1 Lễ bộ Tả
113 1076 Nhữ Mậu Tổ 1526 5 thị lang
114 1078 Lương Giản 1526 5
115 1163 Mai Khuyến 1535 5
116 1169 Hoàng Sầm 1538 3 Hoành Phỳc bỏ
117 1233 Vũ Kớnh 1544 4 Tham chưởng Hàn lâm viện
sự, Quân Xuyên hầu
118 1306 Nguyễn Lượng Thỏi 1553 1 Định Nham hầu
119 1412 Vương Văn Hội 1568 5
120 1413 Phạm Điển 1568 5
121 1434 Phạm Thọ Khảo 1571 5
122 1112 Hoàng Du 1532 4 Tả thị tước bá
123 1550 Nguyễn Dụng 1592 4 lang bộ tước bá
Binh
124 1040 Lờ Phu 1523 5 Tả thị

224
125 1081 Đỗ Tổng 1529 1 lang bộ
126 1088 Nguyễn Hoảng 1529 4 Hỡnh
127 1110 Ngô Sơn Khoỏi 1532 3
128 1128 Nguyễn Nhõn Chiờu 1532 5 tước bá
129 1391 Nguyễn Đĩnh Tỳ 1565 4
130 1072 Vũ Huyễn 1526 5 Tả thị
131 1122 Nguyễn Đỡnh Tộ 1532 5 lang
khụng rừ
132 1159 Bựi Trớ Vĩnh 1535 5 Mỹ Thạc bỏ
Bộ
133 1179 Nguyễn Hữu Du 1538 5 Ninh Khờ bỏ
134 1192 Dương Duy Nhất 1538 5 tước bá
135 1213 Nguyễn Cảnh 1541 5
136 1239 Nguyễn Sầm 1544 5 Văn Lâm bá
137 1251 Phạm Du 1547 2 Nghi Tuyờn bỏ
138 1270 Đỗ Trác Dị 1547 5
139 1291 Lờ Hiến 1550 5 Đông các đại học sĩ
140 1292 Ngụ Bật Lượng 1550 5
141 1312 Nguyễn Bỉnh Quõn 1553 4
142 1350 Trần Đạo Tiềm 1556 5 Hương Sơn bá
143 1354 Đồng Hóng 1559 4
144 1365 Trịnh Duy Thụng 1559 5 Vạn Tư bá
145 1373 Ngụ Khiờm 1562 3
146 1382 Vũ Tĩnh 1562 5 Tõy Khờ bỏ
147 1403 Nguyễn Hiển Tớch 1565 5
148 1253 Nguyễn Kớnh Chỉ 1547 4 Định Xuyên bá
149 1395 Nguyễn Thanh Tĩnh 1565 5 Hữu thị
150 1397 Vũ Đường 1565 5 lang bộ
Lại
151 764 Phạm Khiờm Bớnh 1502 4 Hữu thị
152 1138 Nguyễn Dần Lượng 1535 4 lang bộ Đông các hiệu thư
Hộ
153 1164 Hà Sĩ Vọng 1535 5 Hữu thị Tuy Lộc bỏ
154 1165 Dương Xõn 1535 5 lang bộ Lễ Diờn Hà bỏ
155 1260 Dương Đôn Cương 1547 4 Đạm Giang bá
156 1472 Nguyễn Diễn 1577 5 Hữu thị
lang bộ
Binh
157 1181 Nguyễn Niệm 1538 5 Hữu thị tước bá
158 1190 Bùi Văn Tảo 1538 5 lang bộ
Cụng
159 1127 Chu Địch Huấn 1532 5 Hữu thị Liờm Xuyờn hầu
160 1158 NguyễnKhuụng Lễ 1535 5 lang tước bá
khụng rừ
161 1406 Đỗ An 1568 4 Trỡnh Khờ bỏ
Bộ
162 1454 Đặng Hài 1574 5
163 1459 Lờ Viết Thảng 1577 4
164 1008 Nguyễn Củng 1518 5 ? Thị lang
165 1010 Vương Hoành 1518 5 khụng rừ
Bộ
166 1082 Nguyễn Hóng 1529 2
167 1094 Lờ Thực 1529 5 Văn Hợp bá
168 1099 An Khớ Sử 1529 5
169 1113 Dương Hạng 1532 4 Vị Thuỷ bỏ

225
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
170 1147 Dương Mậu 1535 5 tước bá
171 1148 Nguyễn Như Cương 1535 5
172 1149 Tạ Tuõn 1535 5 Ninh Xuyờn hầu
173 1161 Nguyễn Quang Huệ 1535 5 tước tử
174 1185 Nguyễn Trung Tớn 1538 5 Thuỵ Xuyờn bỏ
175 1212 Nguyễn Tựu 1541 5 Phỏn Lõm bỏ
176 1223 Nguyễn Đôn 1541 5 Tựng Lĩnh hầu
177 1263 Lờ Khắc Trạch 1547 5
178 1311 Phạm Lệnh Nhõn 1553 4
179 1324 Nguyễn Duệ 1553 5
180 1334 Nguyễn Nhõn An 1556 5 Phỳc Diễn hầu
181 1394 Nguyễn Chỉ Cụng 1565 5
182 1433 Nguyễn Cụng Phụ 1571 5
183 1437 Ngụ Vĩ 1571 5
184 1448 Nguyễn Nhữ Tiếp 1574 5
185 1452 Nguyễn Ích Trạch 1574 5
186 1455 Nguyễn Nhõn Chiờu 1574 5
187 1456 Vũ Giới 1577 1
188 1458 Phạm Gia Mụn 1577 3
189 1549 Nguyễn Tảo 1592 4

Bảng 22: Cỏc chức quan Lục tự thời Mạc


(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Số Đỗ Tiến sĩ
TT hiệu Nhõn vật Năm Hạng Chức quan lục Tự Chức tƣớc khác
1 994 Phan Kớnh Trung 1518 5 Đại lí tự khanh
2 1106 Nguyễn Dương 1529 5 Tự khanh
3 1197 Nguyễn Hiờn 1538 5 Đại lí tự khanh
4 1234 Lờ Thọ Khảo 1544 4 Tự khanh tước tử
5 1330 Nguyễn Viết Mậu 1556 4
6 1363 Trần Quang Tỏ 1559 5
7 1390 Phạm Hoành Tài 1565 4
8 1422 Nguyễn Miễn 1571 2
9 1441 Mạc Văn Tỳ 1574 4
10 1449 Phựng Trạm 1574 5
11 1476 Ngụ Trừng 1580 4
12 1482 Bựi Thế Vinh 1580 5

Bảng 23: Các chức quan Lục khoa thời Mạc


(Thống kê từ chính sử và Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Chức quan Nhõn vật Tiến sĩ Tài liệu dẫn
khoa
1 Đô cấp sự trung Lại khoa Dương Văn An 1547 SH 1268
2 Nguyễn Quang Tỏ 1565 SH 1404
3 Lờ Minh 1583 SH 1504

226
4 Binh khoa Nguyễn Thế Đốc 1538 SH 1188
5 Ngụ Uụng 1553 SH 1321
6 Nguyễn Đạt Thiện 1559 SH 1352
7 Hỡnh khoa Vương Thỡ Trung 1589 SH 1532
8 Cụng khoa Phạm Đại Đán 1538 SH 1199
9 Nguyễn Vựng 1544 SH 1240
10 Đỗ Lệ Trạch 1550 SH 1293
11 Khụng rừ Nguyễn Võn Quang 1529 SH 1084
12 Khoa Nguyễn Văn Thực 1532 SH 1126
13 Nguyễn Sơn Tăng 1535 SH 1140
14 Nguyễn Dụng Nghệ 1574 SH 1447
15 Nguyễn Phong (1581) TS 327
16 Nguyễn Tự Cường (1581) TS 327
17 Phạm Như Giao (1581) TS 327
18 Nguyễn Ích Trạch (1581) TS 327
19 Lờ Viết Thảng (1581) TS 327
20 Nguyễn Quang Lượng TS 327
(1581)
21 Ngụ Vỹ (1581) TS 327
22 Mạc Đỡnh Dự (1581) TS 327
23 Hoàng Kỳ (1593) TT 181
24 Nguyễn Tuấn Ngạn TT 181
(1593)
25 Nguyễn Hằng (1593) TT 181
26 Cấp sự trung Binh khoa Nguyễn Tự Cường (1581) TS 338
27 Khụng rừ Phạm Hoảng 1535 SH 1141
28 Khoa Nguyễn Hiếu Lễ 1538 SH 1186
29 Nguyễn Huệ Trạch 1538 SH 1194
30 Khuất Nhữ Lộc 1547 SH 1264
31 Lờ Khõm 1550 SH 1283
32 Lờ Dao 1559 SH 1355
33 Phạm Duy Tinh 1577 SH 1460
34 Đàm Công 1586 SH 1513
35 Tịnh Khắc Thận (1593) TT 181
36 Vương Thỡ Trung (1593) TT 181
37 Nguyễn Đỉnh (1593) TT 181
38 Doón Đàm (1593) TT 181
39 Trần Văn Tảo (1593) TT 181

Bảng 24: Cỏc chức quan Ngự sử đài thời Mạc1


(Thống kê của Đinh Khắc Thuân)
Mạc Lê
Tài liệu Nhân vật Chức tước khác Chức trong Chức trong Phẩm
dẫn Ngự sử đài Ngự sử đài hàm

1
Một số chữ viết tắt trong bảng: B tức văn bia; TS tức Đại Việt Thông sử, bản dịch, 1978; KL tức
Đăng khoa lục. Bảng này trong sách Đinh Khắc Thuân chỉ kê 23 người [ĐKT,1,134-135]. Hai
người cuối cùng được chúng tôi bổ sung từ cuốn sách khác của ông là Văn bia thời Mạc [ĐKT,2].

227
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
KL 33b Nguyễn Đình Tấn Thượng thư Đô ngự sử Đô Ngự sử 3a
KL 35a Phạm Phi Hiển Tước hầu -
TS 192 Trần Phỉ (1548) Thượng thư -
TS 197 Nguyễn Thiến Thượng thư -
KL 19b Nguyễn Lương ? -
KL 38a Nguyễn Bỉnh Di Tước hầu -
KL 38a Ngô Khánh Nùng ? -
TS 248 Giáp Trưng (1577) Thượng thư -
TS 258 Đặng Võ Cạnh Thượng thư -
B 142 Vũ Công ? -
KL 43a Trần Phi Chiêu Thượng thư -
B 60 Nguyễn Thiến (1544) Tước bá Phó đô Ngự sử Phó đô Ngự sử 4a
KL 35a Trần Diễm Tước bá Thiêm đô Ns Thiêm đô Ns 5a
TS 255 Lại Mẫn (1581) ? -
KL 32b Vũ Tri Viễn ? Đề hình Gsns Đề hình Gsns 7a
KL 31a Nguyễn Tiên Sạn ? -
KL 32b Phạm Khắc Hựu ? -
KL 34a Nguyễn Hoành Xước ? -
KL 41b Nguyễn Văn Tích ? -
KL 42b Trần Hữu Thành ? -
KL 43a Phạm Hiến ? -
B 78 Đặng Ất (1531) ? Giám sát Ns Giám sát Ns 7a
B 152 Đặng Hiển (1565) Mậu lâm lang -
B 33 Nguyễn Đồng Dần GS Quảng Nam
B 90 Đàm Văn Tiết GS Hải Dương

Bảng 25: Các chức quan Ngự sử đài thời Mạc


(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Số Nhõn vật Đỗ Tiến sĩ Chức quan Chức tƣớc khác
hiệu Năm Hạng Ngự sử đài
1 1108 Nguyễn Thiến 1532 1 Đô ngự sử Lại bộ Thượng thư,
Đông các đại học sĩ,
Nhập thị kinh diên,
tước Thư quận công
2 1175 Nguyễn Đỡnh Tấn 1538 4 Thượng thư
3 1219 Phạm Phi Hiển 1541 5 Tào Khờ hầu
4 1290 Nguyễn Lương 1550 5
5 1337 Nguyễn Bỉnh Di 1556 5 Đông Khê hầu
6 1342 Ngụ Khỏnh Nựng 1556 5
7 1353 Nguyễn Doón Khõm 1559 4 Thượng thư
8 1393 Lại Mẫn 1565 5 Thượng thư
9 1534 Trần Phi Chiờu 1589 5 Thiếu bảo, Hộ bộ
Thượng thư, Nhập thị
kinh diên
10 1235 Trần Diễm 1544 4 Thiêm đô Tụ Xuyờn bỏ
ngự sử
11 1118 Vũ Tri Viễn 1532 5 Đề hỡnh
12 1121 Nguyễn Quang Sạn 1532 5 giỏm sỏt ngự
13 1124 Phạm Khắc Hựu 1532 5 sử
14 1129 Ngụ Úc 1532 5
15 1193 Nguyễn Hoành Xước 1538 5
16 1451 Lờ Lý Thỏi 1574 5
17 1470 Nguyễn Văn Tĩnh 1577 5

228
18 1510 Phạm Minh Nghĩa 1586 4
19 1512 Trần Hữu Thành 1586 4
20 1517 Phạm Hiến 1586 5
21 1529 Nguyễn Doón 1586 5
22 1087 Đặng Lương Tỏ 1529 4 Giỏm sỏt ngự
23 1092 Nguyễn Hữu Hoỏn 1529 5 sử
24 1093 Nguyễn Địch Giỏo 1529 5
25 1104 Phạm Kinh Bang 1529 5
26 1107 Nguyễn Quang Tỏn 1529 5
27 1130 Vũ Trung 1532 5
28 1130 Vũ Trung 1532 5
29 1144 Lờ Cao 1535 4
30 1157 Nguyễn Văn Thụ 1535 5
31 1176 Đinh Soạn 1538 4 tước bá
32 1198 Nguyễn Đạc 1538 5
33 1230 Vũ Thạc 1541 5
34 1258 Bựi Hưng Tạo 1547 4
35 1266 Đinh Văn Diệm 1547 5
36 1286 Ngụ Thỏi Cẩn 1550 4
37 1295 Lờ Cỏn 1550 5 Đẩu Sơn bá
38 1301 Nguyễn Mậu Thụng 1550 5
39 1303 Nguyễn Hào 1550 5
40 1399 Ngụ Mậu Du 1565 5
41 1400 Lê Văn Đôn 1565 5
42 1409 Nguyễn Nghiễm 1568 4
43 1462 Bùi Đỡnh Kiờn 1577 4
44 1463 Phạm Thọ Chỉ 1577 4
45 1469 Trần Như Lõm 1577 5
46 1480 Nguyễn Tranh 1580 5
47 1483 Lờ Kim Quế 1580 5
48 1485 Vũ Cụng Đán 1580 5
49 1490 Nguyễn An 1580 5
50 1499 Lý Cụng Bật 1583 5
51 1518 Tụ Trớ Cốc 1586 5
52 1557 Nguyễn Nhõn Phức 1592 5
53 1558 Hoàng Tất Văn 1592 5
54 1561 Phạm Đại Khỏng 1592 5
55 1562 Đỗ Hoỏn 1592 5
III. Thời Lê - Trịnh

Bảng 26: Các chức quan Hàn lâm viện thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ chính sử)
Chức danh Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Ghi chú Tài liệu
HLV dẫn
Thừa chỉ Phạm Công Dung 1725 TB,99
Lê Hữu Kiều Tr.1737 TB,152
Lê Quý Đôn Tr.1765 TB,286
Phan Trọng Phiên Tr.1777 TB,430

229
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Thị độc Nguyễn Thực 1632 Lễ bộ th−ợng th−, Ch−ởng TT:3,233
Đông các học sĩ, Hμn lâm
quốc lão tham dự viện sự
triều chính, Thiếu uý
Lan Quận công
Nguyễn Duy Thì 1651 Lại bộ th−ợng th− Ch−ởng TT:3,241
ch−ởng lục bộ sự Hμn lâm
kiêm Quốc tử giám viện sự
tế tửu, Thái phó
Tuyền quận công
Nguyễn Quang 1668 Tuy Lộc bá TT:3,279
Nhạc
Nguyễn Lệnh Tân 1774 TB,372
Thị giảng Dương Trí Trạch 1661 Hộ bộ th−ợng th−, Ch−ởng TT:3,259
Thiếu bảo Bạt quận Hμn lâm
công viện sự
Đặng Công Chất 1665 Công bộ Hữu thị TT:3,271
lang
Nguyễn Bá Lân 1740 TB,167
Đào Xuân Lan 1765 TB,285
Nguyễn Lệ 1767 Tước bá TB,314
Thị thư Đào Công Chính 1665 TT:3,271
Lê Quý Đôn 1667 Dĩnh Thành bá TB,308
Phan Lê Phiên 1771 TB,342
Đãi chế Nguyễn Danh Thực 1662 TT:3,261
Hiệu lý Ngô Thì Sĩ 1775 TB,397
Hiệu thảo Nguyễn Danh Thế 1601 TT:3,212
Thân Khuê 1630 TT:3,234
Nguyễn Công Vọng 1676 TB,16
Nguyễn Danh Hiền 1745 TB,206
Phan Huy Cẩn 1765 TB,285
Mai Thế Uông 1767 TB,308
Phạm Nguyễn Du 1776 TB,410

Bảng 27: Các chức quan Hàn lâm viện thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
STT Số Nhõn vật Khoa Chức Chức tƣớc khác
hiệu thi quan Hàn
lõm viện
1 1954 Nguyễn Đỡnh Tuấn 1688 Thừa chỉ
2 1993 Nguyễn Y 1700
3 2027 Quản Danh Dương 1710
4 2031 Hoàng Cụng Bảo 1710
5 2035 Nguyễn Trớ Vị 1712
6 2061 Trần Ân Triờm 1715
7 2100 Vũ Nhõn Chiờu 1721
8 2119 Trần Văn Hoỏn 1724
9 2123 Chu Nguyễn Lõm 1724
10 2129 Nguyễn Thế Lập 1724
11 2135 Nguyễn Đỡnh Bỏ 1727
12 2157 Vũ Đỡnh Dung 1733
13 2168 Nguyễn Huy Thuật 1733

230
14 2188 Bựi Trọng Huyến 1739
15 2216 Lờ Quý Đôn 1752 Nhập thị Bồi tụng, Hộ bộ Tả
thị lang, tước Dĩnh Thành hầu,
sau làm Lễ bộ Thị lang, Tham
thị kiêm Trấn thủ xứ Thuận
Quảng, Hộ bộ Tả thị lang, hành
Đô ngự sử, Tả hiệu điểm, quyền
phủ sự, tước Nghĩa Phái hầu,
Hiệp trấn Nghệ An, Đô ngự sử,
tước Dĩnh Thành bá
16 2219 Nguyễn Xuõn Huyờn 1752
17 2285 Phan Huy Ích 1775 Tả thị lang bộ Hỡnh, Tham
chớnh xứ Sơn Nam, tước Thuỵ
Nham hầu, sau thăng Thị trung
ngự sử
18 2290 Lờ Duy Đản 1775 Hành tham chớnh Thanh Hoa
19 2329 Lờ Trọng Dĩnh 1787 Cấp sự trung, tước Đan Phong
bá, sau làm Đốc học xứ Sơn
Nam, Lại bộ Tả thị lang
20 1610 Nguyễn Thực 1592 Chưởng Tán trị công thần, Tham tụng,
Hàn lâm Lại bộ Thượng thư, kiêm Đông
viện các đại học sĩ, Quốc lóo, Thỏi
phú
21 1667 Dương Trí Trạch 1619 Lễ bộ Thượng thư, tước Bạt
quận công
22 1695 Nguyễn Kiều Nhạc 1631 Thị độc
23 1843 Lưu Danh Cụng 1670
24 2140 Trần Danh Ninh 1731 Tri lễ phiên, Nhập thị Bồi tụng,
sau thăng Tả thị lang, Thượng
thư bộ Lễ, tước hầu, kiêm sử
quán Tổng đài
25 2230 Bùi Đỡnh Dự 1757
26 2263 Nguyễn Đỡnh Tố 1769 Khu mật viện, tước Ngọ Khê tử
27 2278 Lưu Tiệp 1772 Đốc trấn Cao Bằng
28 2301 Lờ Huy Trõm 1779
29 2212 Trần Tiến 1748 Thị giảng
30 2229 Nguyễn Thưởng 1754 Binh bộ Hữu thị lang, Đốc thị
đạo Thuận Quảng, tước Khánh
Xuyên hầu
31 2255 Nguyễn Trọng Hoành 1766 Tri công phiên, Đông các đại
học sĩ
32 2264 Ngụ Duy Viờn 1769 Đô cấp sự trung, Nhập bồi tụng
33 2274 Vũ Huy Trỏc 1772 Lễ bộ tả thị lang kiêm Quốc Tử
giám Tư nghiệp
34 2308 Nguyễn Đỡnh Thạc 1779
35 2113 Trần Danh Đĩnh 1724 Thị thư
36 2184 Vũ Diệm 1739
37 2196 Phạm Sĩ Thuyờn 1743 tước bá
38 2252 Nguyễn Quýnh 1766 Đốc đồng Tuyên Quang
39 2271 Lờ Nguyễn Thường 1772 Tham chớnh Kinh Bắc
40 2280 Lờ Hữu Dung 1775 tước Hào Khê bá
41 2281 Nguyễn Huy Vượng 1775 Thiêm đô ngự sử
42 2318 Nguyễn Du 1785 Hàn lâm trực học sĩ, Thiêm đô

231
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
ngự sử
43 2052 Phựng Bỏ Kỳ 1715 Đói chế
44 2096 Nguyễn Đăng Giai 1721
45 2104 Trịnh Đồng Giai 1721
46 2107 Nguyễn Cụng Hoàn 1721
47 2108 Hồ Sĩ Tõn 1721
48 2128 Phạm Trọng Cụn 1724
49 2142 Quản Đỡnh Du 1731
50 2149 Trần Lờ Lõn 1731
51 2153 Nguyễn Hồ Hiệp 1733
52 2155 Trần Cụng Hõn 1733
53 2163 Trần Hiền 1733
54 2180 Nguyễn Bỏ Tuõn 1736
55 2183 Nguyễn Tụng Mại 1736
56 2190 Nguyễn Luõn 1739
57 2193 Trần Văn Trứ 1743
58 2208 Nguyễn Trọng Đột 1748
59 2214 Phan Nhuệ 1748
60 2218 Nghiờm Vũ Chiờu 1752
61 2248 Đặng Dụng Chu 1766
62 2279 Ngụ Thế Trị 1775
63 2298 Chu Nguyờn Mại 1778 Quốc Tử Giám Tuỳ giảng,
Đông các Hiệu thư
64 2304 Hoàng Quốc Trõn 1779 Thự Hiến sỏt sứ Kinh Bắc
65 2305 Nguyễn Huy Quõn 1779 Thự Hiến sỏt sứ
66 2306 Nguyễn Hàn 1779 Đốc đồng Sơn Tây
67 2317 Nguyễn Tõn 1781
68 2321 Nguyễn Bỏ Lan 1785 Thự phụng Thiờn Phủ doón,
tước Lâm Trạch bá
69 2253 Nguyễn Bỏ Dương 1766 Thị chế
70 2267 Nhữ Cụng Chõn 1772 Tri cụng phiờn, Thự Lễ bộ Hữu
thị lang
71 2270 Nguyễn Huy Quýnh 1772 Đốc thị Thuận Quảng
72 2273 Vũ Huy Diệm 1772 Thự Hiến sỏt sứ
73 2277 Nguyễn Quang Biểu 1772
74 2289 Nguyễn Nha 1775 Thừa chớnh sứ, Hành Cụng bộ
Hữu thị lang
75 2297 Nguyễn Duõn 1778 Đốc đồng Kinh Bắc
76 2299 Phạm Trọng Huyến 1778 Tri hộ phiên, Hàn lâm Thị thư
77 2307 Nguyễn Đỡnh Thiều 1779
78 2315 Phan Huy ễn 1779 Đốc đồng Sơn Tây, Tham đồng
đề lĩnh, Thiêm sai tri Công
phiên, tước Mỹ Xuyên bá
79 1622 Nguyễn Lễ 1562 Hiệu lý Tước nam
80 2147 Trần Danh Lõm 1731 Đốc đồng Cao Bằng, Hữu thị
lang bộ Công, Đốc thị Nghệ An,
thăng Thị lang bộ Binh, thăng
Bồi tụng Phó đô ngự sử, Tả thị
lang bộ Công và bộ Hộ kiêm
chức Ngự sử đài đô ngự sử,

232
Trục Nhạc bá
81 2181 Mai Nghĩa Chớnh 1736
82 2198 Lờ Doón Giai 1743
83 2223 Dương Trọng Khiờm 1754 Thiêm đô ngự sử
84 2241 Vũ Cơ 1763 Trấn thủ Lạng Sơn
85 2258 Phạm Cụng Chớ 1769 Đốc đồng Hưng hoá
86 2265 Nguyễn Trọng Đương 1769 Đốc trấn Lạng Sơn, tước Lạp
Sơn bá
87 2294 Hoàng Bỡnh Chớnh 1775
88 2326 Nguyễn Đăng Sở 1787 tước Hương Lĩnh bá
89 1640 Lờ Trất Dục 1607 Hiệu thảo
90 1645 Phạm Khuờ 1610
91 1729 Nguyễn Cụng Tạo 1640
92 1735 Trịnh Văn Tuấn 1640
93 1782 Nguyễn Văn Tớn 1652
94 1788 Nguyễn Đỡnh Trụ 1656 Đê Đường nam
95 1803 Đỗ Văn Luõn 1659
96 1810 Lê Văn Hy 1659
97 1854 Nugyễn Đăng Sĩ 1670
98 1953 Ngụ Tuấn Dị 1688
99 1988 Nguyễn Quốc Bảo 1700
100 2074 Nguyễn Danh Hiền 1718
101 2088 Trương Thỡ 1721
102 2121 Cao Nguyễn Phỏn 1724
103 2131 Phạm Cụng Thế 1727
104 2174 Đồng Doón Khuờ 1736 Đốc đồng Lạng Sơn
105 2242 Nguyễn Duy Thức 1763
106 2272 Đào Vũ Hương 1772 Đốc đồng xứ Sơn Nam
107 2275 Dương Nguyễn Huống 1772
108 2282 Đỗ Huy Cư 1775 Đi sứ sang nhà Thanh
109 2300 Ninh Tốn 1778 Tri Cụng phiờn, Tri Binh phiên,
phụng Tá quân hải lộ, Tri Binh
kiêm Toản tu Quốc sử, Quốc
luật, thăng Đông các đại học sĩ,
Thự Hỡnh bộ Hữu thị lang,
Hiệp trấn đạo Thuận Quảng,
Tham tri sự kiêm Bồi tụng,
Tham tán quân vụ
110 2311 Vũ Dần Lượng 1779 Đốc đồng Sơn Tây
111 2314 Nguyễn Đường 1779 Đi sứ sang nhà Thanh
112 2319 Ngụ Nho 1785
113 1563 Phạm Tũng Mệnh 1592 Quan Hàn
114 1827 Nguyễn Viết Thứ 1661 lõm?
115 2301 Lờ Huy Trõm 1779

Bảng 28: Các chức quan Đông các thời Lê Trung hƣng

233
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
(Thống kê từ chính sử)
Chức quan Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu dẫn
Đông các
Đại học sĩ Nguyễn Đăng Cảo 1659 TT:3,252
Phạm Công Trứ 1662 Tham tụng Lễ bộ th−ợng th−, TT:3,260
Thiếu bảo, Yên quận công
Hồ Sĩ Dương 1662 Tước tử TT:3,260
Phạm Duy Chất 1665 TT:3,271
Vũ Duy Hài 1674 Tước tử TT:3,296
Nguyễn Tông Nho 1676 TB,17
Đàm Công Hiệu 1718 TB,73
Nguyễn Đức Anh Tr.1736 TB,150
Trịnh Tuệ 1737 Thiêm sai phủ liêu TB,152
Nguyễn Lệ 1769 TB,332
Phan Lê Phiên 1771 TB,342
Học sĩ Đỗ Uông 1596 Hộ bộ Th−ợng th−, Thông quận TT:3,192
công
Nguyễn Lễ 1615 Hình bộ Th−ợng th−, Mỹ Khê TT:3,216
hầu
Hồ Sĩ Dương 1659 TT:3,252
Bùi Đình Viên 1665 TT:3,271
Nguyễn Viết Thứ 1676 TB,16
Hiệu thư Trương Luận Đạo 1668 Giám sát ngự sử Thái Nguyên, TT:3,278
tước Mai Lâm tử
L−ơng Thực 1674 TT:3,296
Nguyễn Đăng Long 1676 TB,17
Nguyễn Công 1676 TB,17
Vọng
Nguyễn Tiến Triều 1676 TB,17
Nguyễn Công Cẩn 1676 TB,17
Vũ Đình An 1726 TB,101
Nguyễn Vỹ Tr.1736 TB,149
Nguyễn Đình Duy 1768 TB,352
Quan Đông Nguyễn Danh Thế 1640 Tri kinh diên sự TT:3,236
các?

Bảng 29: Các chức quan Đông các thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Số Nhõn vật Khoa Chức quan Chức tƣớc khác
hiệu thi Đông các
1 1566 Nguyễn Văn Nghi 1554 Đại học sĩ Lại bộ Tả thị lang, Nhập thị kinh
diên, tước bá
2 1569 Đỗ Tất Đại 1554 tước Văn Hoành bá
3 1637 Trần Vĩ 1604 Lại bộ Tả thị lang, tước Hương

234
quận công
4 1679 Đặng Phi Hiển 1628
5 1688 Phạm Cụng Trứ 1628 Tham tụng, Lại bộ Thượng thư
kiêm Đông các đại học sĩ, chưởng
Lục bộ sự, hàm Thiếu bảo, được
ban Quốc lóo, tước Yên quận công
6 1754 Nguyễn Đăng Cảo 1646
7 1755 Nguyễn Viết Cử 1646 tước nam
8 1781 Hồ Sĩ Dương 1652 Tham tụng, Hỡnh bộ Thượng thư
Giám tu quốc sử, tước Duệ quận
công
9 1799 Phạm Duy Chất 1659
10 1878 Nguyễn Danh Nho 1670
11 1980 Nguyễn Cụng Cơ 1697 Binh bộ Thượng thư kiêm Tham
tụng Đông các đại học sĩ, Nhập thị
kinh diên. Sau chuyển sang chức
vừ, hàm Thiếu bảo, Thự phủ sự,
tước Cảo quận cụng
12 2012 Phạm Khiờm Ích 1710 Lại bộ thượng thư, kiêm Đốc phủ
Thanh Hoa, thăng Thái tể
13 2021 Nguyễn Quang Dương 1710
14 2040 Vũ Đỡnh Ân 1712
15 2072 Ninh Địch 1718
16 2116 Vũ Cụng Trấn 1724 Bồi tụng Tả thị lang bộ Binh,
Chỏnh chưởng Tả, Hữu pháp ty,
tước Thư Trạch hầu
17 2120 Trần Viờm 1724
18 2154 Nguyễn Kỳ Nhậm 1733
19 2166 Nghiờm Bỏ Đĩnh 1733 Khiêm Đường bá
20 2167 Trần Danh Tiờu 1733
21 2203 Nguyễn Huy Oỏnh 1748 Lại bộ Tả thị lang
22 2207 Nguyễn Kỳ 1748 Hành Quốc Tử Giỏm Tế tửu
23 2227 Nguyễn Bỏ Thủ 1754
24 2236 Ngụ Trần Thực 1760 Thự Thiêm đô ngự sử
25 2237 Nguyễn Khản 1760 Hữu thị lang bộ Lại, Nhập thị Bồi
tụng, tước Kiều Nhạc hầu. Sau đổi
sang vừ ban, lĩnh chức Đô đốc, tước
Hồng Lĩnh hầu, thăng Tham tụng
kiêm Trấn thủ trấn Sơn Tây và
Hưng Hoá.
26 2245 Nguyễn Lệnh Tõn 1763
27 2300 Ninh Tốn 1778 Thự Hỡnh bộ Hữu thị lang, sau làm
Hiệp trấn đạo Thuận Quảng, thăng
Tham tri chính sự kiêm Bồi tụng
28 2312 Trần Huy Liễn 1779 Tham chính Hải Dương
29 2171 Lờ Sĩ Bàng 1736 Học sĩ
30 2172 Lờ Sĩ Triờm 1736
31 2173 Vũ Phương Đề 1736
32 2204 Trịnh Xuõn Thụ 1748 tước bá
33 2244 Phạm Dương Ưng 1763 Phó Đốc thị đạo Thuận Quảng
34 1492 Đào Tụng 1583 Hiệu thư
35 1727 Trương Quang Tiền 1640
36 1882 Nguyễn Tiến Triều 1676 tước nam

235
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
37 2036 Lưu Thành 1712
38 2046 Vũ Huyờn 1712
39 2059 Nguyễn Tuyền 1715
40 2087 Ngụ Sỏch Hõn 1721 Đốc đồng Sơn Nam, Đốc đồng An
Quảng, Hộ bộ Thị lang, thăng Hành
Tham tụng, sau đổi sang vừ chức,
thăng đến Binh bộ Thượng thư,
Nhập thị Tham Tụng, hàm Thiếu
bảo, tước Huy Quận công.
41 2133 Nguyễn Quốc Ích 1727
42 2148 Phạm Nguyờn Ninh 1731
43 2165 Nguyễn Hành 1733
44 2194 Lờ Hoàng Vĩ 1743 Tham chớnh Kinh Bắc
45 2222 Nguyễn Tụng Trỡnh 1754
46 2298 Chu Nguyờn Mại 1778 Hàn lâm viện Đói chế, Quốc Tử
Giỏm Tuỳ giảng
47 2309 Lê Đăng Cử 1779 Đốc đồng Thái Nguyên
48 2310 Nguyễn Kiờm 1779 Đốc đồng Tuyên Quang
49 2313 Ngụ Tiờm 1779 Đốc đồng kiêm Đốc trấn Lạng Sơn
50 2316 Nguyễn Cầu 1781
51 1568 Phan Tất Thụng 1554 Quan Đông các? Thừa chớnh sứ

Bảng 30: Các chức quan Phủ liêu thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ chính sử)
STT Chức Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu
quan dẫn
1 Tham Lê Bật Tứ 1623 Binh bộ Th−ợng th− TT:3,223
2 tụng Nguyễn Danh Thế 1632 Thái bảo, dự tán quốc TT:3,233
chính
3 Đặng Thế Khoa Tr.1656 Binh bộ Thượng thư, tước TT:3,343
Liêm Quận công
4 D−ơng Trí Trạch 1660 TT:3,256
5 Phạm Công Trứ 1660, Thiếu bảo, Lễ bộ th−ợng TT:3,256,
1673 th−, Đông các đại học sĩ, 291
tước Yên quận công
6 Vũ Duy Chí 1669 Lễ bộ th−ợng th−, thăng TT:3,280
Thượng thư bộ Hộ Phương
Quận công
7 Trần Đăng Tuyển 1669 Binh bộ th−ợng th− TT:3,280
8 Lê Hiệu 1669 Hình bộ th−ợng th−, tước TT:3,280
Ph−ơng Quế hầu
9 Nguyễn Mậu Tài 1676 Thượng thư bộ Binh, tước TB,17,30

10 Hồ Sĩ Dương 1676 Thượng thư bộ Công TB,17
11 Đồng Tồn Trạch 1683 Thượng thư bộ Hộ, Nghĩa TB,23
Lĩnh hầu
12 Thân Toàn 1683 Thượng thư bộ Binh TB,26
13 Đặng Công Chất 1683 Thượng thư bộ Hình TB,26
14 Nguyễn Viết Thứ 1692 Thượng thư bộ Hình, Mai TB,39
Sơn nam

236
15 Nguyễn Danh Thực 1693 Thượng thư bộ Binh TB,40

16 Nguyễn Quán Nho 1693 Thượng thư bộ Binh, Trung TB,41,61


thư giám Hương Giang bá
17 Lê Hy 1693 Thượng thư bộ Hình, Lai TB,41,53
Sơn bá
18 Nguyễn Quý Đức 1708 Thượng thư bộ Hình TB,61
19 Nguyễn Thế Bá 1708 Thượng thư bộ Hình TB,66, 68
20 Nguyễn Đăng Liên 1717 TB,73
21 Đàm Công Hiệu 1720 Thượng thư bộ Công, tước TB,76
Quận công
22 Nguyễn Công Hãng 1720 Kiêm chức Đô ngự sử, Thế TB,78, 99
tử Thiếu phó
23 Nguyễn Công Cơ 1720 TB,78
24 Lê Anh Tuấn 1720 Thượng thư bộ Hộ, Điện TB,78,138
Quận công
25 Đoàn Bá Dung 1734 Đô ngự sử TB,143

26 Nguyễn Huy Nhuận 1734 Thượng thư bộ Lễ, thự TB,144


Thiếu phó
27 Phạm Khiêm ích 1734 Thượng thư bộ Lễ TB,145

28 Nguyễn Hiệu 1734 TB,146


29 Cao Dương Trạc 1736 Thượng thư bộ Binh TB,150
30 Phạm Đình Kính 1736 Thượng thư bộ Binh TB,150
31 Ngô Đình Thạc 1737 Thượng thư bộ Binh, Huy TB,152
Quận công
32 Trịnh Tuệ 1739 Thượng thư bộ Lại TB,156

33 Vũ Công Tể 1740 Thượng thư bộ Lại Lăng TB,164,


Quận công 187
34 Nguyễn Quý Kính 1740 TB,164
35 Nguyễn Công Thái 1740 TB,164
36 Trần Danh Ninh 1741 Thượng thư bộ Lễ, Bảo TB,183,
Huy hầu 298
37 Nguyễn Ngọc Huyễn 1742 Tả thị lang bộ Hộ TB,184

38 Trương Khuông 1742 Cổn Quận công TB,185


39 Đào Hoàng Thực 1742 Phượng Quận công TB,185
40 Lê Hữu Kiều 1742 TB,189
41 Trịnh Ngô Dung 1745 Thị lang, Nhuyễn Đình hầu TB,205
42 Hà Tông Huân 1745 Thượng thư bộ Binh Huy TB,205,
Xuyên hầu 265
43 Nhữ Đình Toản 1745 Thượng thư bộ Binh, Bá TB,205,
Trạch hầu 262
44 Vũ Khâm Lân 1745 TB,206
45 Nguyễn Nghiễm 1761 Thượng thư bộ Công, thăng TB,269
Đại tư không, Xuân Quận
công
46 Nguyễn Khản 1775 TB,403
47 Vũ Miên 1778 Liên Khê hầu TB,445

237
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
48 Phan Trọng Phiên 1778 Tứ Xuyên hầu TB,445
49 Bùi Huy Bích 1782 TB,459
50 Bồi Nguyễn Danh Thế 1602 TT:3,312
51 tụng Lê Bật Tứ 1623 Hộ bộ Tả thị lang, tước TT:3,223
Diễn Gia hầu
52 Lê Sĩ Triệt 1655 Lễ khoa đô cấp sự trung TT:3,245
Quế Hμi tử, sau thăng Binh
bộ Tả thị lang, Quế Hải hầu
53 Nguyễn Văn Trạc 1655 Lại bộ Tả thị lang Diễn TT:3,245
Thọ bá
54 Lê Đình Dự 1655 Thiêm đô ngự sử, tước TT:3,245
Phụng Trì nam
55 Phan H−ng Tạo 1655 Hộ khoa Đô cấp sự trung, TT:3,245
tước Thọ Lĩnh bá
56 Phan Kiêm Toμn 1655 Công khoa Cấp sự trung, TT:3,245
tước Thọ Quế nam
57 Nguyễn Năng Thiệu 1658 TT:3,252

58 Trịnh Thì Tế 1661 TT:3,258


59 Thân Toμn 1661 TT:3,258
60 Hồ Sĩ D−ơng 1661 TT:3,258
61 Ngô Tuấn 1664 Lễ bộ Tả thị lang, tước TT:3,270
Phong Lộc tử
62 Trần Đăng Tuyển 1664 Hộ bộ th−ợng th− TT:3,270
63 Lê Hiệu 1668 Công bộ Th−ợng th−, tước TT:3,278
Ph−ơng Quế hầu
64 Nguyễn Danh Thực 1672 Binh bộ Hữu thị lang, tước TT:3,290
Hải Sơn nam
65 Nguyễn Đễ Tr.1673 Binh bộ Th−ợng th−, Thiếu TT:3,292
bảo Dĩnh Quận công
66 Nguyễn Quốc Hôi Tr.1674 Lại bộ Tả thị lang, tước TT:3,293
Liên Trì tử
67 Trần Thế Vinh 1767 Giám sát ngự sử, thăng Tả TB,16,51
thị lang
68 Nguyễn Viết Đương 1682 Hữu thị lang bộ Hộ TB,23
69 Nguyễn Tông Quai 1683 TB,24
70 Nguyễn Công Vọng 1692 TB,39
71 Nguyễn Quý Đức 1694 TB,42
72 Nguyễn Đình Tài Tr.1697 TB,46
73 Nguyễn Đình Sách Tr.1697 Tả thị lang TB,46
74 Vũ Thạnh Tr.1697 Thiêm đô ngự sử, Hồng Lô TB,46, 49
Tự khanh
75 Nguyễn Danh Nho Tr.1699 TB,50
76 Đặng Đình Tướng 1704 Trấn thủ Sơn Nam TB,57
77 Trần Đình Gián 1707 Tả thị lang bộ Hình TB,60
78 Nguyễn Đương Bao 1707 TB,60
79 Nguyễn Hiệu 1714 Thiêm sai TB,70
80 Nhữ Đình Hiền 1716 Thượng thư bộ Hình TB,71
81 Nguyễn Công Đổng 1716 Đô ngự sử TB,71
82 Đàm Công Hiệu 1716 Tán thiện TB,72
83 Nguyễn Công Hãng 1717 TB,73

238
84 Nguyễn Bá Tông 1717 TB,73
85 Nguyễn Đình Toàn 1720 TB,78
86 Phạm Khiêm ích 1720 TB,78
87 Tô Thế Huy 1720 TB,78
88 Đinh Phụ ích 1721 TB,86
89 Nguyễn Đình Hoàn 1725 TB,98
90 Hồ Phi Tích 1725 TB,98
91 Vũ Công Tể 1725 TB,98
92 Phạm Đình Kính Tr.1736 Thượng thư bộ Hình TB,150
93 Lê Hữu Kiều 1742 TB,184
94 Ngô Đình Oánh 1742 TB,189
95 Nguyễn Vỹ 1742 TB,189
96 Phạm Đình Trọng 1749 Dao Lĩnh hầu TB,219
97 Dương Công Chú 1751 Tri Lại phiên TB,228
98 Nguyễn Bá Lân 1756 Thiêm đô ngự sử TB,253
99 Trần Danh Lâm 1767 Phó đô ngự sử TB,304,316
100 Nguyễn Hoản 1767 TB,304
101 Vũ Miên 1767 Phó đô ngự sử, tước bá TB,304,346
102 Nguyễn Khản 1773 TB,358
103 Lê Quý Đôn 1774 Đô ngự sử, Dĩnh Thành TB,360
hầu
104 Trần Công Xán 1782 Luyện Giáng bá TB,459
105 Ngô Trọng Khuê 1786 Tham tri chính sự TB,471
106 Ninh Tốn 1786 Tham tri chính sự TB,471

Bảng 31: Các chức quan Phủ liêu thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Số Nhõn vật Khoa Chức quan Chức tƣớc khác
hiệu thi Phủ liờu
1 1593 Nguyễn Văn Giai 1580 Tham tụng Lại bộ Thượng thư, Chưởng lục bộ
sự, Ngự sử đài Đô ngự sử, hàm
Thiếu bảo, tước Lễ quận công
2 1595 Phạm Văn Lan 1580 Thượng thư bộ Binh, Thiếu bảo,
tước Huy Quận công.
3 1610 Nguyễn Thực 1592 Tỏn trị cụng thần, Tham tụng, Lại
bộ Thượng thư, kiêm Đông các đại
học sĩ, Chưởng Hàn lâm viện,
Quốc lóo, Thỏi phú
4 1614 Nguyễn Danh Thế 1592 Lại bộ Thượng thư, Ngự sử đài Đô
ngự sử, Nhập thị kinh diên
5 1666 Nguyễn Nghi 1619 Thượng thư bộ Lại, sau thăng Thái
phó, tước Viện Quận cụng
6 1688 Phạm Cụng Trứ 1628 Lại bộ Thượng thư kiêm Đông các
đại học sĩ, chưởng Lục bộ sự, hàm
Thiếu bảo, được ban Quốc lóo,
tước Yên quận công
7 1764 Đồng Tồn Trạch 1646 Tỏ lý cụng thần, Thượng thư bộ
Hộ kiêm chưởng lục bộ sự, Thái
phó, tước Tuyền quận cụng

239
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
8 1765 Nguyễn Mậu Tài 1646 Thượng thư bộ Công, tước An
Lĩnh bá
9 1781 Hồ Sĩ Dương 1652 Thượng thư bộ Hỡnh, Đông các
Đại học sĩ, Qiám tu quốc sử, tước
Duệ quận công

10 1814 Đặng Công Chất 1661 Thượng thư bộ Hỡnh


11 1827 Nguyễn Viết Thứ 1661 Thượng thư bộ Hỡnh
12 1840 Nguyễn Quỏn Nho 1667 Tán trị công thần, Thượng thư bộ
Lại, chưởng Hàn lâm viện sự kiêm
Đông các đại học sĩ, Quốc lóo,
Thỏi phú
13 1898 Nguyễn Ngụ Chung 1676 Tỏ lý cụng thần, Thượng thư bộ
Hộ, Thiếu bảo, tước Lộc Quận
công
14 1980 Nguyễn Cụng Cơ 1697 Binh bộ Thượng thư, Đông các đại
học sĩ, Nhập thị kinh diên. Sau
chuyển sang chức vừ, hàm Thiếu
bảo, Thự phủ sự, tước Cảo quận
công
15 1987 Nguyễn Hiệu 1700 Thượng thư bộ Lại, phong Công
thần, tước Kiều quận công
16 1999 Ngô Đỡnh Thạc 1400 Thượng thư bộ Binh,
17 2002 Nguyễn Huy Nhuận 1703 Thượng thư bộ Hộ, Thiếu bảo,
tước hầu
18 2012 Phạm Khiờm Ích 1710 Thượng thư bộ Lễ, tước Viện Quận
công
19 2025 Phạm Đỡnh Kớnh 1710 Thượng thư, Nhập thị kinh diên,
tước Lai quận cụng
20 2028 Đoàn Quang Dung 1710 Thượng thư bộ Lễ,
21 2054 Cao Dương Trạc 1715 Thượng thư bộ Hộ, Tri Quốc Tử
giám, tước Mỹ Xuyên hầu
22 2058 Nguyễn Cụng Thỏi 1715 Thượng thư bộ Lại, Thiếu bảo
kiêm Đông các đại học sĩ, chưởng
Lục bộ sự,được ban Quốc lóo, tước
Yên Quận công
23 2070 Vũ Cụng Tể 1718 Thượng thư bộ Lại, kiêm hành Đô
ngự sử, Nhập thị kinh diên
24 2073 Lờ Hữu Kiều 1718 Thượng thư bộ Binh, Nhập thị kinh
diên, tước Quận công
25 2087 Ngụ Sỏch Hõn 1721 Thượng thư bộ Binh, Tri trung thư
giám, tước bá
26 2099 Ngô Đỡnh Chất 1721 Thượng thư bộ Binh, Xuyên Quận
công
27 2103 Trịnh Ngụ Dung 1721 Tả thị lang bộ Lại
28 2105 Nguyễn Ngọc Huyễn 1721 Ngự sử đài Đô ngự sử, tước Thái
Lĩnh hầu
29 2112 Hà Tụng Huõn 1721 Thượng thư bộ Binh,
30 2176 Trần Bỏ Tõn 1736 Thượng thư bộ Lại, Thiếu bảo,
Chưởng lục bộ sự, kiêm Đô ngự
sử, tước Lễ Quận công
31 2195 Nguyễn Hoản 1743 Thượng thư bộ Lại, tước Lóng
quận cụng

240
32 2234 Phan Lờ Phiờn 1757 Bỡnh chương sự, Thự Lại bộ Hữu
thị lang kiêm Tri Quốc tử giám Tư
nghiệp, tước Tứ Xuyên hầu
33 1579 Bựi Khắc Nhất 1565 Bồi tụng Thượng thư bộ Hộ, tước Lâm quận
công
34 1839 Lờ Hy 1664 Thượng thư bộ Binh, tước Nhuệ
Xuyên hầu
35 1863 Nguyễn Danh Nho 1670 Hữu thị lang, tước nam
36 1879 Nguyễn Quý Đức 1676 Tả thị lang bộ Lại, tước Liêm
Đường bá
37 1906 Nhữ Đỡnh Hiền 1680 Thượng thư bộ Hỡnh
38 1949 Nguyễn Đỡnh Hoàn 1688 Hữu thị lang bộ Binh, tước Ân Hải
hầu
39 1955 Hà Tụng Mục 1693 Tả thị lang bộ Hỡnh, Phủ doón phủ
Phụng Thiờn kiờm Biờn tu Quốc
sử quỏn, tước nam
40 2099 Ngô Đỡnh Chất 1721 Binh bộ Thượng thư, Ngự sử đài
Đô ngự sử, tước Nhuệ Xuyên hầu
41 2116 Vũ Cụng Trấn 1724 Tả thị lang bộ Binh, Đông các đại
học sĩ, Chánh chưởng Tả, Hữu
pháp ty, tước Thư Trạch hầu

42 2126 Lờ Phỳ Thứ 1724 Thượng thư bộ Hỡnh, Tả chỏnh


ngụn
43 2130 Nguyễn Đức Vĩ 1724 Thượng thư bộ Công kiêm công
việc bộ Lại, Tế tửu Quốc Tử Giám,
Nhập thị kinh diên, tước Nghĩa
Phương hầu
44 2138 Vũ Khõm Thận 1727 Ngự sử đài Đô ngự sử, tước Quận
công
45 2140 Trần Danh Ninh 1731 Tri lễ phiên, sau thăng Tả thị lang,
Thượng thư bộ Lễ, Hàn lâm viện
Thị độc, tước hầu, kiêm sử quán
Tổng đài
46 2143 Nguyễn Bỏ Lõn 1731 Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử, Quốc
Tử giám Tế tửu, Lễ Trạch hầu
47 2225 Phan Cận 1754 Hữu thị lang bộ Cụng, Quốc Tử
Giỏm giảng quan
48 2237 Nguyễn Khản 1760 Hữu thị lang bộ Lại, Đông các đại
học sĩ, tước Kiều Nhạc hầu. Sau
đổi sang vừ ban, lĩnh chức Đô đốc,
tước Hồng Lĩnh hầu, thăng Tham
tụng kiêm Trấn thủ trấn Sơn Tây
và Hưng Hoá.
49 2250 Uụng Sĩ Điển 1766 Lễ bộ Hữu thị lang, Đốc thị đạo
Thuận Quảng, Hỡnh bộ Hữu thị
lang, Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử,
Thao Đường bá
50 2268 Trần Cụng Xỏn 1772 Thượng thư bộ Hỡnh, Đồng bỡnh
chương sự, tước Phái Trạch hầu

Bảng 32: Các chức quan Ngũ phủ thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ chính sử)
Phủ Chức Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu dẫn
quan
Trung Tả đô đốc Nguyễn Hoμng 1593 Thái uý, Đoan quốc công TT:3,184
quân Trịnh Tr−ơng 1664 Thái phó Khê quận công TT:3,267

241
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
phủ Hoàng Phùng Cơ 1786 tước Thạc Vũ công TB,471
Đông Tả đô đốc Trịnh Đống 1664 Thái phó Lý quận công TT:3,267
quân Hữu đô Đinh Tích Nhưỡng 1786 Tước Liễn Quận công TB,471
phủ đốc
Tây Tả đô đốc Nguyễn Hữu Liêu 1582 TT:3,158
quân Hữu đô (không rõ tên) 1582 Diễn Quận công TT:3,158
phủ đốc
Nam Tả đô đốc Trịnh Đỗ 1582 TT:3,158
quân Trịnh Kiền 1664 Thiếu uý Vân quận công TT:3,267
phủ Đô đốc Trịnh Đống 1582 TT:3,158
Thiêm sự Trịnh Ninh 1582 TT:3,158
Bắc Tả đô đốc Trịnh Tạc 1631 Phó t−ớng Tây quận TT:3,232
quân công
phủ Trịnh ốc 1664 Thiếu phó Điện quận TT:3,267
công
Hữu đô Ngô Cảnh Hựu 1582 TT:3,158
đốc Trịnh Tùng 1593 Tiết chế, Thái bảo, Hoμ TT:3,182
quận công
Không Tả đô đốc Nguyễn Khải 1601 TT:3,311
rõ phủ Vũ Văn Thiêm 1655 Lũng quận công TT:3,244
Hoμng Nghĩa Giao 1661 Phó tướng TT:3,259
Trịnh Kiêm 1663 Trạc quận công TT:3,263
Trịnh Vĩnh 1674 Phó t−ớng, L−ơng quận TT:3,296
công
Vũ Tất Thận 1745 quản lĩnh Tôn nhân phủ, TB,205
chức Hữu tôn chính
Đỗ Thế Giai 1766 Đại tư đồ, Tán trị công TB,294
thần, Thự phủ sự Luyện
Quận công
Đặng Đình Tướng Tả thị lang bộ Lại SH 1849
Hữu đô Đμm Cảnh T−ờng 1623 Diên quận công TT:3,327
đốc Đμo Quang Hoa Tr.1642 Yên quận công TT:3,341
Vũ Văn Thêm 1655 TT:3,245
Trịnh Toμn 1655 Ninh quận công TT:3,245
Lê Thì Hiến 1657 TT:3,250
Đặng Thế Công 1657 TT:3,250
Lê Viết Đăng 1662 Thái giám, Bái Quận TT:3,260
công
Hoμng Sĩ Khoa 1663 Phổ quận công TT:3,263
Trịnh Bách Tr.1664 Lai quận công TT:3,267
Trịnh Đệ Tr.1664 Toμn quận công TT:3,267
Đμm Cảnh Kiên 1674 Vịnh quận công TT:3,296
Trịnh Sâm 1674 Toản quận công TT:3,296
Trịnh Liễu 1674 Yên quận công TT:3,296
Lê Đình Kiên 1683 TB,24
Đô đốc Nguyễn Miện 1597 Hμo quận công TT:3,198
đồng tri Bùi Văn Khuê 1597 Mỹ quận công TT:3,198
Phan Ngạn 1597 Kế quận công TT:3,198
Trịnh Trụ 1655 TT:3,246
Đμo Quang Nhiêu 1655 Đ−ơng quận công TT:3,242
Lê Thì Hiến 1656 TT:3,248

242
Hoμng Nghĩa Chẩn 1657 TT:3,250
Mai Văn Hiếu 1657 TT:3,250
Đinh Văn Tả 1659 TT:3,252
Đμm Cảnh Kiên 1659 TT:3,252
Đμo Thế Tiên 1659 TT:3,252
Lê Văn Đăng 1659 TT:3,252
Mai Văn Hiếu 1660 TT:3,255
Nguyễn Thụ 1663 C−ờng quận công TT:3,263
Trung Bệ 1663 Vệ quận công TT:3,263
Đinh Văn Tả 1663 Lộc quận công TT:3,263
Trịnh Bách 1664 Lai quận công TT:3,269
Trịnh Sâm Tr.1664 Toản quận công TT:3,269
Trịnh Vịnh 1667 Phó t−ớng, L−ơng quận TT:3,276
công
Đinh Văn Tả 1667 Lộc quận công TT:3,276
Lê Châu 1667 Lập quận công TT:3,276
Trịnh Sâm 1668 Toản quận công TT:3,278
Trịnh Liễu 1668 Yên quận công TT:3,278
Lê Châu 1669 TT:3,281
Trịnh Bệ Tr.1670 Phó t−ớng, Vệ quận công TT:3,288
Trịnh Du 1674 t−ớc Quận công TT:3,296
Trơng Hối 1776 Thự phủ sự Nhượng TB,410
Quận công
Đô đốc Lê Hữu Đức 1655 TT:3,245
Thiêm sự Hoμng Nghĩa Chẩn 1656 TT:3,248
Mẫn Văn Liên 1656 TT:3,248
Nguyễn Thụ 1657 TT:3,250
Cao Tμi 1657 TT:3,250
Lê Sĩ Hậu 1657 TT:3,250
Đặng Thế Công 1659 TT:3,252
Trịnh Doanh 1663 Giao quận công TT:3,263
Trịnh Sâm Tr.1664 Toản quận công TT:3,269
Phạm Viện 1667 Thự vệ sự, Lũng quận TT:3,276
công
Trịnh L−ơng Tr.1667 Dĩnh quận công TT:3,276
Đinh Văn Tả 1668 Lộc quận công TT:3,268
Lê Châu 1668 Lập quận công TT:3,268
Trịnh Cơ Tr.1668 TT:3,268
Nguyễn Đức Trung Tr.1668 Thụy quận công TT:3,268
Trịnh Kỳ 1670 Tấn quận công TT:3,288
Trịnh Duyên 1674 Phó t−ớng, Khiêm quận TT:3,296
công
Đặng Tiến Quyền 1681 Tần Quận công TB,21
Nguyễn Đình Thạch 1767 Quyền phủ sự Tuyên lực TB,315, 330
công thần Tào Quận
công

Bảng 33: Các chức quan Lục bộ thời Lê Trung hƣng


(Thống kê từ chính sử)
ST Cơ Chức Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu
T quan quan dẫn

243
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
1 Lại Thƣợng Tr−ơng Quốc Hoa 1567 Thiếu phó, Ngự sử TT:3,138
thƣ đμi đô ngự sử, tước
Văn Khê hầu
2 Nguyễn Đĩnh 1570 Từ quận công TT:3,141
3 Nguyễn Mậu Tuyên 1593 Thiếu phó, Quỳnh TT:3,184
quận công
4 Lê Trạc Tú 1601 Văn D−ơng hầu TT:3,312
5 Nguyễn Văn Giai 1617 Thiếu phó, Ngự sử TT:3,217
đμi đô ngự sử Lễ
quận công
6 Nguyễn Duy Thì Tr.1651 Quốc tử giám tế tửu, TT:3,241
Hμn lâm viện thị độc,
ch−ởng Hμn lâm viện
sự, Thái phó Tuyền
quận công
7 Nguyễn Nghi Tr.1657 Quốc tử giám tế tửu TT:3,250
Thiếu phó D−ơng
quận công
8 Phạm Công Trứ 1664 TT:3,270
9 Nguyễn Công Hãng 1730 Thái tử Thái phó TB,117
10 Nguyễn Hiệu 1734 Thiếu bảo, Nông TB,145,14
Quận công 8
11 Trịnh Tuệ 1739 Tham tụng TB,159
12 Vũ Công Tể Tr.1742 Tham tụng, Lăng TB,187
Quận công
13 Trần Huy Bật 1770 TB,340
14 Nguyễn Hoản 1774 Bồi tụng, Tri Hàn TB,361
lâm viện sự
15 Nguyễn Khản 1782 Toản Quận công, TB,459
Trấn thủ Sơn Tây
16 Tả thị Ngô Trí Hoμ 1594 Phú Xuân hầu TT:3,313
17 lang Phùng Khắc Khoan 1599 Mai Lĩnh hầu TT:3,205
18 Nguyễn Tuấn 1632 TT:3,336
19 Nguyễn Tiến Dụng 1632 Mai Khê hầu TT:3,233
20 Trần Vỹ 1632 TT:3,233
21 Trần Hữu Lễ 1638 TT:3,339
22 Nguyễn Văn Trạc 1655 Diễn Thọ bá TT:3,245
23 Nguyễn Năng Thiệu 1664 TT:3,269
24 Nguyễn Tông Lễ Tr.1665, Đạo Giang tử TT:3,272
1672
25 D−ơng Hạo 1668 TT:3,278
26 Phan Kiêm Toμn 1673 TT:3,292
27 Nguyễn Quốc Khôi 1673 TT:3,292
28 Đặng Công Chất 1675 TT:3,297
29 Nguyễn Viết Đương 1683 Bồi tụng TB,26
30 Nguyễn Quán Nho 1691 TB,36
31 Lê Hy 1692 TB,39
32 Nguyễn Quý Đức 1694, TB,42, 49
1698
33 Trương Công Khải 1724 TB,96
34 Đỗ Lệnh Danh 1733 TB,142
35 Cao Huy Trạc 1733 TB,142
36 Nguyễn Công Thái 1739 TB,157
37 Vũ Công Trấn Tr.1754 TB,242

244
38 Nguyễn Khản 1776 TB,423
39 Hữu thị Nguyễn Hoμnh Từ 1599 TT:3,205
40 lang L−ơng Chí 1602 Văn Thuần nam TT:3,312
41 Nguyễn Danh Thế 1607 Xuân D−ơng bá TT:3,314
42 L−u Đình Chất 1616 Nhân Lĩnh hầu TT:3,216
43 Nguyễn Tuấn Tr.1632 TT:3,336
44 Nguyễn Lại 1632 TT:3,233
45 Đỗ Khắc Kính 1632 TT:3,233
46 D−ơng Hồ 1655 Thọ Lâm nam TT:3,246
47 Phan Kiêm Toμn 1661 Thụy quận công TT:3,258
48 Đặng Công Chất 1669 TT:3,284
49 Hồ Sĩ D−ơng 1669 Nhuận Duệ hầu TT:3,284
50 Thân Toμn 1673 TT:3,292
51 Nguyễn Danh Thực 1675 TT:3,297
52 Đào Công Chính 1676 TB,16
53 Vũ Công Đạo 1692 TB,39
54 Nguyễn Đăng Đạo 1694 TB,42
55 Nguyễn Danh Nho 1698 TB,49
56 Hồ Phi Tích Tr.1724 TB,96
57 Hộ Thƣợng Đỗ Uông 1596 Đông các học sĩ, TT:3,203
thƣ Thông quận công
58 Bùi Khắc Nhất 1600 Văn Phú bá TT:3,308
59 Phùng Khắc Khoan 1602 Mai quận công TT:3,312
60 Ngô Trí Hoμ 1607 Phú Lộc bá TT:3,314
61 L−u Đình Chất Tr.1627 Thiếu phó Lộc quận TT:3,331
công
62 D−ơng Trí Trạch 1661 Hμn lâm viện Thị TT:3,259
giảng ch−ởng Hμn
lâm viện sự Thiếu,
bảo Bạt quận công
D−ơng
63 Trần Đăng Tuyển 1664 Bồi tụng TT:3,270
64 Vũ Duy Chí 1675 Tham tụng, Phương TT:3,297
Quận công
65 Đồng Tồn Trạch 1683 Tham tụng, Nghĩa TB,23
Lĩnh hầu
66 Lê Anh Tuấn 1730 Thái tử Thái bảo, TB,117,
Tham tụng Điện 138
Quận công
67 Cao Huy Trạc Tr.1739 Bồi tụng, Lam Quận TB,157
công
68 Tả thị Bùi Khắc Nhất Tr.1600 Bμng Phú tử TT:3,308
69 lang Lê Bật Tứ 1607 Diễn Gia hầu TT:3,314
70 Nguyễn Danh Thế 1616 Xuân D−ơng bá TT:3,216
71 L−u Đình Chất Tr.1623 Tước hầu TT:3,327
72 Nguyễn Duy Thì 1623 Tước hầu TT:3,327
73 Nguyễn Tiến Dụng Tr.1632 Mai Khê hầu TT:3,233
74 Doãn Hy 1643 Thiếu phó, Huy văn TT:3,237
viện thiêm sự, Nhân
quận công
75 Nguyễn Thọ Xuân 1647 TT:3,240
76 Trần Đăng Tuyển 1665 TT:3,272
77 Bùi Đĩnh 1667 Nghĩa quận công TT:3,267

245
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
78 Nguyễn Tông Lễ 1669 TT:3,290
79 Nguyễn Quốc Khôi 1673 TT:3,291
80 Lê Vinh 1675 TT:3,297
81 Thân Toàn 1676 TB,16
82 Nguyễn Mậu Tài 1682 TB,22
83 Phạm Khiêm ích 1726 Tước Thuật Quận TB,100
công
84 Phạm Đình Kính 1732 Lại Trạch hầu TB,134
85 Cao Huy Trạc 1733 TB,142
86 Nguyễn Ngọc Huyễn 1742 Hành Tham tụng phủ TB,184
liêu
87 Nguyễn Tông Quai 1750 tước hầu TB,221
88 Hữu thị Nguyễn Đăng 1616 Tước hầu TT:3,216
89 lang L−u Đình Chất 1616 Nhân Lĩnh hầu TT:3,216
90 Đồng Tồn Trạch 1664 Tước tử TT:3,270
91 Phan Kiêm Toμn 1665 TT:3,272
92 Nguyễn Mậu Tμi 1669 TT:3,290
93 Lê Vinh 1675 TT:3,297
94 Nguyễn Viết Đương 1682 Bồi tụng TB,22
95 Nguyễn 1734 TB,143
TrọngThường
96 Lê Quý Đôn 1770 TB,338
97 Lễ Thƣợng Phùng Khắc Khoan 1602 Mai Lĩnh hầu TT:3,312
98 thƣ Nguyễn Thực 1632 Thiếu uý Lan quận TT:3,233
công
99 Nguyễn Nghi 1647 Thiếu bảo D−ơng TT:3,240
quận công
100 Phạm Công Trứ 1660 Tham tụng, Đông các TT:3,258
đại học sĩ, Yên quận
công
101 Nguyễn Năng Thiệu 1664 TT:3,270
102 Vũ Duy Chí 1669 Tham tụng Tể tướng TT:3,290
103 Nguyễn Quán Nho 1707 Tham tụng, tri Trung TB,61
thư giám, Hương
Giang bá
104 Đàm Công Hiệu 1720 Tham tụng, tước TB,76
Quận công
105 Nguyễn Huy Nhuận 1734 thự Thiếu phó TB,144
106 Phạm Khiêm ích 1734 Tham tụng, Thiếu TB,145,
bảo Thuật Quận công 157
107 Cao Huy Trạc 1736 Tham tụng TB,150
108 Trần Cảnh Tr.1758 Diệu Quận công TB,258
109 Trần Danh Ninh Tr.1767 Bồi tụng Bảo Huy TB,298
hầu
110 Tả thị Nguyễn Lễ 1607 TT:3,314
111 lang Nguyễn Thực 1607, Ph−ơng Lan hầu TT:3,314
1617
112 Trần Hữu Lễ Tr.1638 TT:3,339
113 Ngô Tuấn 1664 Bồi tụng, Phong Lộc TT:3,270
tử
114 Nguyễn Khả Trạc 1665 Từ Liêm hầu TT:3,272
115 Nguyễn Năng Thiệu 1665 D−ơng quận công TT:3,272
116 Nguyễn Quốc Khôi 1669 Ngọc Trì tử TT:3,290

246
117 Nguyễn Công Bích 1675 TT:3,297
118 Lê Hy 1691 TB,36
119 Nguyễn Tuấn Tr.1737 TB,152
120 Dương Lệ 1739 TB,157
121 Lê Trọng Thứ 1770 TB,338
122 Hữu thị L−ơng Trí 1600 TT:3,308
123 lang Nguyễn Thực 1604 TT:3,313
124 Đỗ Khắc Kính Tr.1632 TT:3,233
125 Lê Hiệu Tr.1664 TT:3,270
126 Nguyễn Tông Lễ 1665 Đạo Giang tử TT:3,272
127 Nguyễn Đình Chính 1673 TT:3,291
128 Hoàng Công Chí 1698 TB,49
129 Hồ Phi Tích 1724 TB,96
130 Tạ Đăng Huân 1728 Tế tửu TB,107
131 Nguyễn Đình Cẩn 1737 Cẩn Thọ bá TB,152
132 Uông Sĩ Điển 1777 TB,436
133 Binh Thƣợng Phạm Đốc 1556 Thái bảo Quảng quận TT:3,127
thƣ công
134 Bùi Bỉnh Uyên Tr.1614 Văn Phong hầu TT:3,317
135 Lê Bật Tứ 1620 Thiếu phó Diễn Gia TT:3,324
hầu
136 Nguyễn Khải 1632 Thái phó, Đăng quận TT:3,336
công
137 Nguyễn Duy Thì 1642 TT:3,341
138 Vũ Duy Chí 1664 Ph−ơng Lĩnh hầu TT:3,270
139 Trần Đăng Tuyển 1669 Tham tụng Tể tớng TT:3,290
140 Nguyễn Đễ 1671 Dĩnh quận công TT:3,285
141 Nguyễn Mậu Tài 1675 Tham tụng TB,16

142 Thân Toàn 1683 Tham tụng TB,26


143 Nguyễn Danh Thực 1691 TB,31
144 Nguyễn Quán Nho 1693, Tham tụng TB,41, 54
1702
145 Lê Hy 1698 Tước bá TB,49
146 Nguyễn Hiệu 1730 Thiếu bảo TB,117
147 Phạm Đình Kính 1736 Tham tụng TB,150
148 Ngô Đình Thạc 1737 Tham tụng, Nhập thi TB,152,
kinh diên Huy Quận 156
công
149 Nguyễn Quý Kính 1741 Tham tụng TB,180
150 Phạm Đình Trọng 1754 Đốc suất Nghệ An, TB,240
Thái tử Thái phó
151 Nhữ Đình Toản 1759 Tham tụng, Bá Trạch TB,262,27
hầu 1
152 Hà Tông Huân 1761 Tham tụng, Huy TB,265
Xuyên hầu
153 Tả thị Lê Sĩ Triệt 1671 TT:3,285
154 lang Lê Hiệu 1674 TT:3,294
155 Đoàn Tuấn Khoa 1691 TB,36
156 Nguyễn Quán Nho 1696 TB,44
157 Nguyễn Quý Đức 1696 TB,44
158 Trần Thế Vĩnh 1700 TB,51
159 Nguyễn Tuấn 1737 TB,152
160 Nguyễn Quý Thân 1739 TB,157

247
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
161 Phan Lê Phiên 1779 Tham tụng, tước hầu TB,446
162 Hữu thị Nguyễn Vỹ 1598 TT:3,202
163 lang Nguyễn Trừng 1642 TT:3,237
164 Hồ Sĩ D−ơng 1665 Tước bá TT:3,273
165 Nguyên Danh Thực 1669 Bồi tụng, Hải Sơn TT:3,283
nam
166 Đồng Tồn Trạch 1673 TT:3,291
167 Vũ Duy Hμi 1675 TT:3,296
168 Nguyễn Công Hãng 1717 TB,72
169 Phạm Đình Kính 1726 Tước Lại Khê hầu TB,100
170 Lê Vỹ 1736 TB,150
171 Nguyễn Hoản 1769 TB,332
172 Vũ Thần Thiệu 1770 TB,338
173 Vũ Miên 1777 Tước hầu TB,430
174 Hình Thƣợng Nguyễn Lễ 1615 Đông các học sĩ Mỹ TT:3,317
thƣ Khê hầu
175 Nguyễn Thực 1618 TT:3,218
176 Nguyễn Danh Thế 1626 Thiếu phó TT:3,329
177 Phan Kiêm Toμn 1664 TT:3,270
178 Trịnh Thì Tế Tr.1665 Thụy Xuyên nam TT:3,273
179 Lê Hiệu 1669 Tham tụng Tể tướng TT:3,283
180 Nguyễn Mậu Tμi 1674 t−ớc tử TT:3,294
181 Đặng Công Chất 1683 Tham tụng TB,26
182 Nguyễn Viết Thứ 1691 Tham tụng, Mai Sơn TB,31
nam
183 Lê Hy 1693 Tham tụng TB,41
184 Nguyễn Quý Đức 1708 Tham tụng TB,61
185 Nguyễn Thế Bá Tr.1714 TB,68
186 Trơng Công Khải Tr.1724 TB,96
187 Nguyễn Hiệu 1734 thự Thiếu bảo TB,144
188 Đoàn Bá Dung 1736 Phụ Quận công TB,150
189 Trịnh Bá Tướng Tr.1740 Bồi tụng TB,171
190 Nguyễn Đương Hồ Tr.1740 Phúc Quận công TB,172
191 Trần Huy Bật Tr.1763 Bái Xuyên hầu TB,275
192 Nguyễn Hoản 1770 TB,340
193 Lê Trọng Phiên Tr.1773 TB,352
194 Tả thị Nguyễn Khắc Khoan 1616 Lễ Xuyên bá TT:3,216
195 lang Nguyễn Nhuận 1664 TT:3,270
196 Lê Sĩ Triệt 1665 Quế Hải hầu TT:3,273
197 Phan Kiêm Toμn 1669 TT:3,283
198 Phạm Công Chất 1675 TT:3,297
199 Đào Công Chính Tr.1676 TB,16
200 Lê Hy 1684 TB,28
201 Hoàng Công Chí 1707 TB,60
202 Trần Đình Gián 1707 Bồi tụng TB,60
203 Nguyễn Huy Nhuận 1726 Tước Triệu Quận TB,100
công
204 Nguyễn Minh Khiêm 1737 TB,152
205 Nguyễn Vỹ 1739 TB,157
206 Hữu thị Ngô Trí Hoμ Tr.1604 TT:3,313
207 lang Nguyễn Quốc Khôi 1664 TT:3,270
208 Nguyễn Công Bích 1669 Gia X−ơng nam TT:3,283
209 Vũ L−ơng 1673 TB,352

248
210 Đμo Công Chính 1674 t−ớc nam TT:3,291
211 Bùi Đình Viên 1675 TT:3,297
212 Vũ Công Đạo 1691 TB,35
213 Nguyễn Danh Nho 1694 TB,41
214 Nguyễn Trù 1728 Tư nghiệp TB,107
215 Nguyễn Công Thái 1734 TB,143
216 Nguyễn Vỹ 1736 TB,149
217 Nguyễn Đức Anh 1736 TB,150
218 Công Thƣợng Nguyễn Danh Thế 1623 Thụy D−ơng hầu TT:3,327
219 thƣ Nguyễn Duy Thì 1630 Tuyền quận công TT:3,229
220 Nguyễn Hậu Quyến 1659 Dĩnh Xuyên hầu TT:3,253
221 Lê Hiệu 1664 T−ớc hầu TT:3,270
222 Bùi Đĩnh 1669 TT:3,290
223 Nguyễn Đạo An 1670 Thái bảo, Phái quận TT:3,284
công
224 Nguyễn Hậu Quyến Tr.1672 Thiếu bảo Cẩm quận TT:3,288
công
225 Hồ Sĩ D−ơng 1674 t−ớc quận công TT:3,294
226 Vũ Duy Đoán Tr.1683 TB,24
227 Nguyễn Mậu Tài 1685 Tham tụng, tước bá TB,29
228 Trần Đăng Doanh 1691 Trấn thủ Sơn Tây, TB,31
Liêm Quận công
229 Đàm Công Hiệu Tr.1720 Tham tụng TB,76
230 Hồ Phi Tích 1730 TB,117
231 Nguyễn Huy Nhuận 1733 TB,142
232 Nguyễn Nghiễm 1761 hành Tham tụng TB,269
233 Dơng Công Trú 1767 Thiếu bảo, tước Quận TB,300
công
234 Nguyễn Hoản 1770 TB,339
235 Nguyễn Bá Lân 1770 TB,340
236 Trần Huy Bật 1772 TB,350
237 Trần Công Thước 1787 Đồng bình chương sự TB,474
238 Tả thị Phùng Khắc Khoan 1597 TT:3,196
239 lang D−ơng Hồ 1656 Thọ Lâm bá TT:3,247
240 D−ơng Hạo 1664 Tước bá TT:3,270
241 Đồng Tồn Trạch 1665, TT:3,272
1675
242 Lê Sĩ Triệt 1674 TT:3,294
243 Tô Thế Huy Tr.1725, Tước hầu, thăng Cảo TB,99, 134
1732 Quận công
244 Nguyễn Huy Thái 1733 TB,142
245 Vũ Duy Đôn 1734 TB,143
246 Vũ Huy 1734 TB,143
247 Phạm Công Dung Tr.1735 Nghĩa Phái hầu TB,146
248 Hữu thị Nguyễn Khắc Khoan 1607 Lễ Xuyên bá TT:3,314
249 lang Nguyễn Bình 1642 TT:3,341
250 Đặng Công Chất 1665 TT:3,297
251 Nguyễn Vỹ 1665 t−ớc hầu TT:3,272
252 Bùi Đình Viên 1673 TT:3,291
253 Vũ Công Đạo 1674 t−ớc nam TT:3,296
254 Ngô Sách Tuân 1692 TB,38
255 Nguyễn Công Cơ 1704 TB,56
256 Trương Công Giai 1707 TB,60

249
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
257 Tô Thế Huy 1725 TB,99
258 Lê Hữu Kiều 1737 TB,152
259 Lê Quý Đôn 1771 TB,343
260 Phan Trọng Phiên 1777 Tước hầu TB,430
261 Khôn Thƣợng Nguyễn Đăng Tiến 1714 TB,68
262 g rõ thƣ Nguyễn Đương Bao 1714 TB,68
263 Bộ Nhữ Đình Hiền 1714 Bồi tụng TB,68
264 Nguyễn Công Hãng 1720 TB,77
265 Nguyễn Công Cơ 1720 TB,77
266 Lê Anh Tuấn 1720 TB,77
267 Trương Công Giai 1720 TB,77
268 Tả thị Nguyễn Hành 1714 TB,68
269 lang Nguyễn Danh Dự 1714 TB,68
270 Nguyễn Mại Tr.1720 TB,77

Bảng 34: Các chức quan Lục bộ thời Lê Trung hƣng


(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Số Nhõn vật Tiến Chức Chức tƣớc khác
STT hiệu sĩ quan lục
khoa Bộ
1 1593 Nguyễn Văn Giai 1580 Thượng Thiếu bảo, tước quận công
2 1610 Nguyễn Thực 1592 thư bộ Lại Thiếu phó, Nhập thị kinh diên kiêm Quốc
tử giám Tế tửu, tước Dương quận công
3 1614 Nguyễn Danh Thế 1592 tước hầu
4 1666 Nguyễn Nghi 1619 Nhập thị Tham tụng, sau thăng Thái phó,
tước Viện Quận công

5 1688 Phạm Cụng Trứ 1628 Tỏ lý cụng thần, Thái phó, tước Nông
Quận công
6 1840 Nguyễn Quỏn Nho 1667 Tán trị công thần, Tham tụng, chưởng
Hàn lâm viện sự kiêm Đông các đại học
sĩ, Quốc lóo, Thỏi phú
7 1987 Nguyễn Hiệu 1700 Tham tụng phong Công thần, tước Kiều
quận công
8 2058 Nguyễn Cụng Thỏi 1715 Tham tụng, Thiếu bảo kiêm Đông các đại
học sĩ, chưởng Lục bộ sự,được ban Quốc
lóo, tước Yên Quận công
9 2070 Vũ Cụng Tể 1718 Tham tụng kiêm hành Đô ngự sử, Nhập
thị kinh diên
10 2176 Trần Bỏ Tõn 1736 Tham tụng, Thiếu bảo, Chưởng lục bộ sự,
kiêm Đô ngự sử, tước Lễ Quận công
11 2195 Nguyễn Hoản 1743 Tham tụng, tước Lóng quận cụng
12 1667 Dương Trí Trạch 1619 Thượng Đông các Đại học sĩ, sau thăng Lại bộ
thư bộ Lễ thượng thư, kiêm Đốc phủ Thanh Hoa,
thăng Thái tể
13 1745 Nguyễn Năng Thiệu 1643 Chưởng Hàn lâm viện sự, tước Bạt quận
công
14 1746 Lờ Hiệu 1643 tước Phụ quận công
15 1876 Nguyễn Bao 1670 tước quận công
Đương
16 2012 Phạm Khiờm Ích 1710 Tham tụng , tước Viện Quận công
17 2028 Đoàn Quang Dung 1710 Tham tụng
18 2086 Trần Cảnh 1718 tước hầu, kiêm Sử quán Tổng đài

250
19 2140 Trần Danh Ninh 1731 tước Thọ quận công
20 1579 Bựi Khắc Nhất 1565 Thượng Bồi tụng, tước Lâm quận công
21 1594 Phựng Khắc Khoan 1580 thư bộ Hộ Hiệp mưu tá lý cụng thần, kiờm Quốc tử
giỏm Tế tửu, Nhập thị kinh diờn
22 1604 Lương Chớ 1589 Hiệp mưu tá lý dực vận tỏn trị cụng thần,
kiờm Quốc tử giỏm Tế tửu
23 1608 Ngụ Trớ Hoà 1592 Quốc tử giám Tế tửu, tước Mai quận
công
24 1617 Nguyễn Duy Thỡ 1598 tước Khánh Sơn hầu
25 1638 Lưu Đỡnh Chất 1607 tước Văn Phỳ bỏ
26 1764 Đồng Tồn Trạch 1646 Tỏ lý cụng thần, Tham tụng, kiờm
chưởng lục bộ sự, Thái phó, tước Tuyền
quận công
27 1898 Nguyễn Ngụ Chung 1676 Tỏ lý cụng thần, Tham tụng, Thiếu bảo,
tước Lộc Quận công
28 1969 Lờ Anh Tuấn 1694 Thỏi tử Thỏi bảo
29 2002 Nguyễn Nhuận 1703 Tham tụng, Thiếu bảo, tước hầu
Quang
30 2054 Cao Dương Trạc 1715 Tham Tụng, Tri Quốc Tử giám, tước Mỹ
Xuyên hầu
31 1565 Đinh Bạt Tuỵ 1554 Thượng Thiếu bảo, Thự phủ sự, tước Cảo quận
thư bộ công
32 1595 Phạm Văn Lan 1580 Binh Nhập thị Tham Tụng, Thiếu bảo, tước
Huy Quận công.
33 1618 Lờ Bật Tứ 1598 Nhập thị kinh diên, tước tử
34 1741 Trần Đăng Tuyển 1640 Thiếu bảo, tước Diễn Gia hầu
35 1796 Nguyễn Văn Thực 1659 Thừa chính sứ, tước hầu
36 1839 Lờ Hy 1664 Bồi tụng, tước Nhuệ Xuyên hầu
37 1980 Nguyễn Cụng Cơ 1697 Tham tụng, Thiếu bảo, tước Huy Quận
công
38 1999 Ngô Đỡnh Thạc 1400 Tham tụng
39 2073 Lờ Hữu Kiều 1718 Tham tụng, Nhập thị kinh diên, tước
Quận công
40 2087 Ngụ Sỏch Hõn 1721 Tham tụng, Tri trung thư giám, tước bá
41 2099 Ngô Đỡnh Chất 1721 Tham tụng, Xuyờn Quận cụng
42 2112 Hà Tụng Huõn 1721 Tham Tụng
43 2177 Nhữ Đỡnh Toản 1736 tước Khê quận công
44 2191 Phạm Đỡnh Trọng 1739 Thái tử Thái phó, tước Hải Quận công
45 1577 Nguyễn Đức 1554 Thượng
46 1749 Phan Kiờm Toàn 1643 thư bộ tước Thuỵ quận công
Hỡnh
47 1781 Hồ Sĩ Dương 1652 Tham tụng, Đông các Đại học sĩ, Qiám tu
quốc sử, tước Duệ quận công
48 1814 Đặng Công Chất 1661 Tham tụng
49 1827 Nguyễn Viết Thứ 1661 Tham tụng
50 1906 Nhữ Đỡnh Hiền 1680 Bồi tụng
51 1921 Nguyễn Hồ 1683
Đương
52 1938 Trương Cụng 1685
53 1976 Đào Hoàng Thực 1697 tước Phượng quận công, về trí sĩ
54 1984 Hồ Phi Tớch 1700 tước Quỳnh Quận công
55 2094 Trịnh Bỏ Tương 1721 tước hầu

251
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
56 2126 Lờ Phỳ Thứ 1724 Bồi tụng, Tả chỏnh ngụn
57 2268 Trần Cụng Xỏn 1772 Bồi tụng, Đồng bỡnh chương sự, tước
Phái Trạch hầu
58 1606 Lê Đỡnh Tỳc 1589 Thượng Tỏ lý cụng thần
59 1687 Lờ Kớnh 1628 thư bộ tước Thạc Tung hầu
Công
60 1690 Nguyễn Bỡnh 1628 tước Cẩm Quận cụng
61 1693 Nguyễn Minh Triết 1631 Thiếu bảo
62 1697 Nguyễn Trạc 1631 tước Liêm quận công
63 1740 Ngụ Nhõn Tuấn 1640 tước bá, sau thăng Hộ bộ Thượng thư
64 1765 Nguyễn Mậu Tài 1646 Tham tụng, tước An Lĩnh bá
65 1829 Vũ Duy Đoán 1664 tước bỏ
66 1865 Hoàng Cụng Chớ 1670 Nhập thị kinh diên, tước Thi Khánh bá
67 2130 Nguyễn Đức Vĩ 1724 Bồi tụng, kiêm công việc bộ Lại, Tế tửu
Quốc Tử Giám, Nhập thị kinh diên, tước
Nghĩa Phương hầu
68 1415 Nguyễn Lễ 1568 Thượng tước Tuyền quận cụng
69 1586 Đỗ Cảnh 1565 thư không tước quận công
rừ Bộ
70 1998 Nguyễn Cụng Hóng 1700 tước Sóc quận công
71 2006 Phạm Minh 1703
72 2023 Đỗ Lệnh Danh 1710 tước Quận công
73 2025 Phạm Đỡnh Kớnh 1710 Tham tụng, Nhập thị kinh diên, tước Lai
quận công
74 1566 Nguyễn Văn Nghi 1554 Tả thị Đông các Đại học sĩ, Nhập thị kinh diên,
lang bộ tước bá
75 1582 Lờ Nghĩa Trạch 1565 Lại
76 1592 Nguyễn Từ 1577
Hoành
77 1619 Nguyễn Khắc Khoan 1598
78 1629 Nguyễn Chớnh 1562
79 1637 Trần Vĩ 1604 Đông các Đại học sĩ, tước Hương Quận
công
80 1644 Nguyễn Tiến Dụng 1610 Tỏ lý cụng thần, Thiếu bảo, tước Mai
Quận công
81 1665 Trần Hữu Lễ 1619 tước Thọ Hải hầu
82 1689 Nguyễn Minh 1628
Quang
83 1691 Nguyễn Tài Toàn 1628
84 1700 Nguyễn Nhõn Chớnh 1634 tước hầu
85 1703 Nguyễn Xuõn Chớnh 1637 Nhập thị kinh diên, tước Đạo Ngạn bá
86 1717 Nguyễn Nhuận 1637
87 1794 Nguyễn Quốc Trinh 1659 tước Liên Trỡ tử
88 1805 Vũ Bật Hài 1659 tước tử
89 1849 Đặng Đỡnh Tướng 1670 Tả đô đốc
90 1879 Nguyễn Quý Đức 1676 Nhập thị Bồi tụng, tước Liêm Đường bá
91 1951 Nguyễn Hành 1693 tước tử
92 2041 Đinh Phụ Ích 1712 tước Trù Quận công
93 2081 Nguyễn Lệnh Nghi 1718
94 2103 Trịnh Ngụ Dụng 1721 Hành Tham tụng

252
95 2150 Dương Công Chỳ 1731
96 2203 Nguyễn Huy Oỏnh 1748 Đông các Đại học sĩ
97 2205 Vũ Miờn 1748 Nhập bị Bồi tụng, Quốc Tử Giám tế tửu,
Quốc sử Tổng tài, thăng Hành tham tụng,
tước Liên Khê hầu
98 2331 Nguyễn Huy Lý 1787 Đốc học trấn Kinh Bắc
99 1432 Ngụ Thỏo 1571 Tả thị
100 1465 Vũ Đăng 1577 lang bộ tước bá
Lễ
101 1659 Trần Nghi 1616 Dực vận tán trị công thần, tước Thọ
Xuyên hầu
102 1795 Nguyễn Văn Bớch 1659 Nhập thị kinh diên, tước tử
103 1928 Trần Tiến Giỏn 1683
104 1957 Nguyễn Mại 1691 tước nam
105 2274 Vũ Huy Trỏc 1772 Hàn lâm viện Thị giảng, Quốc Tử Giám
Tư nghiệp
106 1580 Đỗ Tế Mỹ 1565 Tả thị
107 1621 Nguyễn Đăng 1562 lang bộ tước Phúc Nham hầu
Hộ
108 1683 Ló Thỡ Trung 1628
109 1714 Ngụ Triệt 1637
110 1756 Phạm Văn Đạt 1646 tước tử
111 1783 Thõn Toàn 1652 Đô ngự sử
112 2090 Nguyễn Tụng Khuờ 1721 tước Ngọ Đỡnh hầu
113 2185 Vũ Trần Tự 1739 tước bá
114 2266 Hồ Sĩ Đống 1772
115 1437 Ngụ Vĩ 1571 Tả thị
116 1581 Dương Trí Dụng 1565 lang bộ Thừa chính sứ trấn Sơn Nam.
Binh
117 1664 Hoàng Cụng Phụ 1619 tước Thọ Nham hầu
118 1724 Trần Ngọc Nguyờn 1640
119 1780 Phạm Chất 1652
120 1786 Nguyễn Đỡnh Chớnh 1652 Nhập thị kinh diên, tước hầu
121 1808 Bùi Văn Trinh 1659 tước bá
122 1826 Nguyễn Văn Phỳ 1661
123 1853 Nguyễn Tiến Sỏch 1670 tước nam
124 1871 Trần Thế Vinh 1670 tước nam
125 2033 Nguyễn Duy Đôn 1712
126 2065 Đinh Nguyên Hanh 1715
127 2068 Nguyễn Kiều 1715
128 2071 Nguyễn Tuyền 1718 Hữu tư giảng, tước hầu
129 2116 Vũ Cụng Trấn 1724 Bồi tụng, Đông các đại học sĩ, tước Thư
Trạch hầu
130 1732 Trịnh Lương Bật 1640 Tả thị tước bá
131 1733 Lờ Sĩ Triệt 1640 lang bộ tước Quế Hải hầu
Hỡnh
132 1747 Lê Đỡnh Dự 1643
133 1852 Nguyễn Khuờ 1670 Thái bộc Tự khanh, tước Diễn Phúc tử
134 1955 Hà Tụng Mục 1693 Bồi tụng, Phủ doón phủ Phụng Thiờn
kiờm Biờn tu Quốc sử quỏn, tước nam
135 1959 Đào Quốc Hiển 1691 tước tử

253
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
136 1960 Lờ Khả Tụng 1691 tước tử
137 2007 Phạm Quang Dung 1706 tước Lệ Phái hầu
138 2060 Nguyễn Đức Ánh 1715
139 2067 Nguyễn Thỡ 1715
Phựng
140 2078 Lê Như Kỳ 1718
141 1699 Nguyễn Nhõn Trứ 1634 Tả thị tước Hoàng Phái hầu
142 1710 Dương Hoàng 1637 lang bộ tước Thọ Lâm hầu
Cụng
143 1816 Ngụ Khuờ 1661 tước nam
144 2043 Dương Lệ 1712
145 2147 Trần Danh Lõm 1731 kiờm việc bộ Hộ, Ngự sử đài Đô ngự sử
146 2175 Đào Xuân Lan 1736 tước bá
147 1609 Ngụ Trớ Tri 1592 Tả thị
148 1704 Nguyễn Nghi 1637 lang Thừa chớnh sứ
khụng rừ
149 1706 Nguyễn Hữu Thường 1637 Bộ
150 1715 Trần Khỏi 1637
151 1975 Tụ Thế Huy 1697 tước Cảo quận công
152 2199 Đoàn Chỳ 1746 tước hầu
153 1632 Đỗ Khắc Kớnh 1604 Hữu thị tước Lễ quận công
154 1650 Nguyễn Tuấn 1613 lang bộ Tỏ lý cụng thần, tước Lại Phong hầu
Lại
155 1661 Nguyễn Lại 1619
156 1771 Khương Thế Hiền 1650 tước tử
157 1815 Đào Công Chớnh 1661 Nhập thị kinh diên, tước nam
158 1887 Ngụ Sỏch Tuõn 1676
159 1985 Đinh Nho Hoàn 1700
160 2039 Nguyễn Trọng Thường 1712
161 2287 Phạm Đỡnh Dư 1775 tước Quỳnh Phái hầu
162 1590 Lờ Phỳc Nhạc 1577 Hữu thị
163 1635 Nguyễn Tự Cường 1604 lang bộ tước Xuân quận công
Lễ
164 1702 Quách Đồng Dần 1634 Thừa chớnh sứ
165 1705 Nguyễn Thế Khanh 1637 tước Phong Lộc hầu
166 1728 Nguyễn Tớnh 1640 tước Nghĩa quận công
167 1835 Nguyễn Tiến Tài 1664
168 1885 Trịnh Đức Nhuận 1676
169 1919 Phạm Quang Trạch 1683
170 1983 Tạ Đăng Huõn 1700 tước tử
171 2091 Nguyễn Đức Đôn 1721 tước Ngạn Xuyên bá
172 2226 Vũ Huy Đĩnh 1754 Thừa chính sứ, tước Hồng Trạch hầu
173 2267 Nhữ Cụng Chõn 1772 Hàn lõm Thị chế, Tri cụng phiờn
174 1591 Hồ Bỉnh Quốc 1577 Hữu thị
175 1789 Lờ Vinh 1656 lang bộ
Hộ
176 2097 Đặng Công Mậu 1721
177 2234 Phan Lờ Phiờn 1757 Bỡnh chương sự, thăng Hành tham tụng,
Thự Lại bộ Hữu thị lang kiêm Tri Quốc
tử giám Tư nghiệp, tước Tứ Xuyên hầu

254
178 1709 Phạm Vĩnh Miờn 1637 Hữu thị
179 1836 Trần Lương Bật 1664 lang bộ tước nam
Binh
180 1892 Đoàn Tuấn Hoà 1676
181 1949 Nguyễn Đỡnh Hoàn 1688 Bồi tụng tước Ân Hải hầu
182 2015 Lờ Vỹ 1710 tước hầu
183 2229 Nguyễn Thưởng 1754 Hàn lâm viện Thị giảng, Đốc thị đạo
Thuận Quảng, tước Khánh Xuyên hầu
184 1424 Nguyễn Hoàng 1571 Hữu thị
185 1652 Nguyễn Kinh Tế 1613 lang bộ tước hầu
Hỡnh
186 1753 Vũ Lương 1643 tước tử
187 1973 Nguyễn Trự 1697
188 1991 Nguyễn Trung Quỏn 1700
189 2020 Hồng Hạo 1710
190 2182 Nguyễn Thế Khải 1736 Hiệp thống lĩnh, tước hầu
191 2250 Uụng Sĩ Điển 1766 Bồi tụng, Ngự sử đài Thiêm đô ngự sử,
Đốc thị đạo Thuận Quảng, tước Thao
Đường bá
192 1677 Đồng Nhân Phỏi 1628 Hữu thị
193 1696 Nguyễn Danh Thọ 1631 lang bộ
Cụng
194 1712 Phạm Liễn 1637
195 1784 Uụng Nhuệ 1652 tước tử
196 1798 Đỗ Thiện Chớnh 1659 tước tử
197 2022 Lờ Hữu Mưu 1770 Nhập thị kinh diờn
198 2092 Giang Sĩ Đoan 1721 tước Lam Đỡnh bỏ
199 2093 Trần Mại 1721
200 2111 Đỗ Hy Thiều 1721
201 2118 Lờ Hoàng Tuyờn 1724
202 2124 Phạm Hữu Du 1724
203 2187 Trương Đỡnh Tuyờn 1739
204 2197 Lờ Doón Giản 1743 Sơn Nam Thừa chính sứ
205 2225 Phan Cận 1754 Bồi tụng, Quốc Tử Giỏm giảng quan
206 2289 Nguyễn Nha 1775 Hàn lõm viện Thị chế, Thừa chớnh sứ
207 1551 Phạm Hồng Nho 1592 Hữu thị tước bá
208 1642 Nguyễn Trạm 1607 lang
khụng rừ
209 1663 Bựi Bỉnh Quõn 1619 Bộ
210 1686 Dương Thuần 1628 Thừa chớnh sứ
211 1863 Nguyễn Danh Nho 1670 Bồi tụng, tước nam
212 1940 Nguyễn Danh Dự 1685
213 2049 Vũ Huy 1712
214 2127 Phạm Đỉnh Chung 1724
215 2145 Mai Thế Chuẩn 1731
216 1414 Phạm Tri Chỉ 1568 ? Thị lang
217 1417 Hoàng Bồi 1568
218 1471 Lưu Úc 1577
219 1537 Dương Tụng 1589

255
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Bảng 35: Các chức quan Lục phiên thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ chính sử và Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Phiên Chức quan Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu dẫn
Lại Tri phiên Dương Công Chú 1751 Hành Bồi tụng TB,228
Nguyễn Xuân Huyên 1767 TB,304
Mai Thế Uông 1774 TB,372
Phan Huy ích 1776 TB,407
Lý Trần Quán 1786 TB,466
Thiêm sai Vũ Huy Đĩnh 1776 TB,407
Lý Trần Quán SH 2247
Hộ Tri phiên Nguyễn Quý Kính 1734 Tự khanh TB,143
Nguyễn Đình Tư Tr.1739 Tự Khanh TB,159
Phan Lê Phiên 1767 TB,304
Trương Hỗ 1767 TB,310
Uông Sĩ Lãng 1777 TB,437
Phó tri Nguyễn Trọng Đang 1767 TB,315
phiên
Thiêm sai Vũ Đài 1776 TB,407
Bùi Huy Bích 1777 TB,437
Lễ Tri phiên Trần Danh Ninh 1741 Bồi tụng TB,183
Nguyễn Quý Hiển Đốc đồng Kinh Bắc SH 2296
Thiêm sai Nguyễn Mậu Quán 1776 TB,417
Nguyễn Trọng Hàn 1775 TB,396
Binh Tri phiên Nguyễn Nghiễm Tr.1767 TB,313
Phó tri Bùi Phùng Hoán 1768 TB,325
Thiêm sai Lê Quý Đôn 1767 Hàn lâm Thị thư TB,313
Vũ Huy Đĩnh 1776 TB,417
Ngô Phúc Lâm 1777 TB,429
Hình Tri phiên Đào Duy Điển 1767 TB,304
Thiêm sai Nguyễn Gia Dung 1767 TB,301
Phạm Nguyễn Du 1776 Hàn lâm Hiệu thảo TB,410
Phan Huy ích 1776 TB,417
Công Tri phiên Vũ Công Trấn Tr.1733 Tế tửu Quốc tử TB,141
giám
Phạm Gia Huệ 1766 Trưng phủ phủ Bắc TB,296

Vũ Huy Đĩnh 1767 TB,304
Phó tri Phạm Nguyễn Du Tr.1776 TB,410
Thiêm sai Ninh Tốn 1777 TB,438
Phạm Quý Thích SH 2303

256
Bảng 36: Các chức quan lục Tự thời Lê Trung hƣng
(Nguồn: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên)
Cơ quan Chức Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu dẫn
quan
Đại lý tự Tự khanh Trần Phúc Hựu 1599 TT:3,205
Hoμng Vinh 1664 TT:3,268
Phạm Chất 1672 TT:3,288
Trần Thế Vinh 1691 TB,37
Thiếu Vũ Ph−ơng Tr−ợng 1664 H−ơng Trạch tử TT:3,270
khanh
Thái Tự khanh Nguyễn Nhân Thiêm 1597 TT:3,196
Thường tự Phạm Công Trứ 1641 TT:3,237
Nguyễn Công Bích 1665 TT:3,271
Phan Kiên Toμn 1673 TT:3,292
Bùi Vĩ Tiêm 1731 TB,120
Thiếu Trần Đăng Doanh 1664 Liêm Dũng tử TT:3,270
khanh
Quang Lộc Tự khanh Ngô Sĩ Vinh 1656 Lý Hải hầu TT:3,248
Thái Bộc tự Tự khanh Nguyễn Danh Thế 1604 TT:3,313
Nguyễn Chính 1616 Tước bá TT:3,216
Giang Văn Minh 1631 TT:3,232
Nguyễn Khắc Văn 1631 TT:3,334
Phan H−ng Tạo 1656 Thọ Lĩnh hầu TT:3,248
Vũ Ph−ơng Tr−ợng 1664 H−ơng Trạch tử TT:3,270
Vũ Vịnh Tiến 1665 Lệ Hải tử TT:3,272
Nguyễn Công Đổng 1698 TB,50
Hồng Lô tự Tự khanh L−ơng Trí 1600 TT:3,310
Nguyễn Thực 1602 TT:3,312
Trần Ngọc Hậu 1655 Quế Lâm nam TT:3,244
Trịnh Đăng Đệ 1659 TT:3,252
Trịnh Thì Tế 1665 Cảo Xuyên nam TT:3,271
Nguyễn Danh Thực 1666 TT:3,273
Vũ Thạnh Tr.1698 Bồi tụng TB,49
Nguyễn Mậu Thuật 1760 TB,264
Thượng Tự khanh Lê Phúc Lai 1623 Cống quận công TT:3,229
Bảo tự
Trần Ngọc Hậu 1655 TT:3,244
Trần Đăng Doanh 1664 Liêm Dũng tử TT:3,270
Không rõ Tự khanh L−u Đình Chất 1616 Nhân Lĩnh bá TT:3,318
Đỗ Khắc Kính 1631 TT:3,231
Nguyễn Lại 1631 TT:3,231
Nguyễn Khắc Văn 1631 TT:3,231
Nguyễn Danh Thọ 1643 TT:3,237
Nguyễn Tông Mục 1698 TB,50
Trương Công Giai 1707 TB,60
Nguyễn Quý Kính 1734 TB,143
Nguyễn Công Luân 1734 TB,143

257
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Nguyễn Đình Tư Tr.1739 TB,159
Nguyễn Mậu Đĩnh 1771 TB,349
Bảng 37: Các chức quan Lục tự thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
TT Chức quan lục Tự Nhõn vật Khoa thi Số hiệu
1 Đại lí Tự khanh Trần Phỳc Hựu 1583 1601
2 Hoàng Vinh 1640 1725
3 Dương Sử 1754 2224
4 Quang lộc tự khanh Nguyễn Khắc Văn 1628 1684
5 Nguyễn Văn Suyền 1640 1739
6 Nguyễn Văn Lễ 1650 1772
7 Nguyễn Trạc Dụng 1670 1851
8 Thỏi bộc Tự khanh Phan Hưng Tạo 1650 1778
9 Thái thường tự khanh Nguyễn Nhõn Thiệm 1583 1599
10 Nguyễn Phong 1583 1600
11 Quỏch Giai 1683 1920
12 Bựi Sĩ Tiờm 1715 2050
13 Tự khanh Nguyễn Bật Lượng 1577 1589
14 Nguyễn Đức Trạch 1592 1615
15 Nguyễn Nghiờu Thần 1562 1626
16 Nguyễn Thế Tiờu 1604 1631
17 Ngụ Nhõn Triệt 1607 1639
18 Bựi Tất Thắng 1613 1651
19 Phạm Phỳc Khỏnh 1623 1671
20 Giang Văn Minh 1628 1675
21 Nguyễn Trạch 1628 1692
22 Nguyễn Nhõn Đại 1637 1722
23 Phí Văn Thuật 1640 1723
24 Vũ Vinh Tiến 1640 1743
25 Ngụ Sĩ Vinh 1646 1762
26 Trịnh Cao Đệ 1650 1773
27 Nguyễn Quốc Cương 1688 1952
28 Phạm Quang Huõn 1697 1974
29 Nguyễn Xuõn Đài 1697 1978
30 Đỗ Viết Hồ 1697 1979
31 Trương Minh Lượng 1700 1995
32 Nguyễn Quốc Quang 1700 1997
33 Đặng Minh 1703 2004
34 Nguyễn Đăng Liờn 1706 2010
35 Nguyễn Đức Lóng 1710 2019
36 Nguyễn Cơ 1712 2037
37 Nguyễn Đỡnh Toản 1718 2083
38 Trần Đỡnh Thu 1721 2101
39 Nguyễn Huy Món 1721 2102
40 Đồng Hưu 1724 2117
41 Quản Dĩnh 1727 2134

258
42 Trần Trọng Liờu 1733 2152
43 Vũ Đỡnh Quyền 1736 2178
44 Nguyễn Huy Dận 1748 2206

Bảng 38: Các chức quan Lục khoa thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ chính sử)
Khoa Chức Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu
quan dẫn
Lại Đô cấp sự ? Đình Th−ởng 1607 TT:3,313
trung Nguyễn Duy Hiểu 1632 TT:3,233
Nguyễn Tính 1655 Nghĩa Giang nam TT:3,245
Ngô Sĩ Vinh 1656 TT:3,247
Nguyễn Viết Thứ 1673 TT:3,292
Thiều Sĩ Lâm 1675 TT:3,298
Trần Trọng Liêu 1753 TB,237
Cấp sự Nguyễn Duy Hiểu 1632 TT:3,337
trung Nguyễn Văn Quảng 1647 TT:3,240
Đỗ Thiện Chính 1666 TT:3,273
Lễ Đô cấp sự Lê Sĩ Triệt 1655 Bồi tụng, tước Quế TT:3,244
trung Hμi tử
Lê Công Triều 1670 TT:3,285
Cấp sự Vũ L−ơng 1655 Đông Hμ Nam TT:3,244
trung Trần Văn Tuyển 1656 Dũng Xuyên nam TT:3,248
Nguyễn Hưng Công 1702 TB,55

Hộ Đô cấp sự Nguyễn Thực 1602 TT:3,312


trung Nguyễn Danh Thế 1602 Bồi tụng TT:3,312
Nguyễn Nhân Trứ 1642 TT:3,237
Nguyễn Sách Hiển 1647 TT:3,240
Phan H−ng Tạo 1655 Bồi tụng, tước Thọ TT:3,244
Lĩnh bá
Vũ Vinh Tiến 1656 Lệ Hải tử TT:3,248
Đỗ Thiện Chính 1675 TT:3,298
Ngô Sách Tuân Tr.1696 TB,45
Nguyễn Công Đổng 1698 TB,50
Cấp sự Nguyễn Duy Thì 1608 TT:3,314
trung Phùng Viết Tu 1656 TT:3,248
Nguyễn Đình Chính 1662 Gia Thọ nam TT:3,262
Nguyễn Công Bạt 1668 Khánh Đ−ờng nam TT:3,279
Vũ Kiêm 1670 TT:3,284
Ngô Nho 1787 TB,474
Binh Đô cấp sự Giang Văn Minh 1630 TT:3,231
trung Phạm Lập Lễ 1663 TT:3,266
Cấp sự Lê Khả Trù 1630 TT:3,231
trung Vũ Vinh Tiến 1656 TT:3,247
Hình Đô cấp sự Nguyễn Hữu Tác 1614 TT:3,216
trung L−ơng Nghị 1656 TT:3,248
Nguyễn Danh Thực 1663 TT:3,266
Phạm Chất 1664 TT:3,269
Đồng Tồn Trạch 1664 Nghĩa Lĩnh nam TT:3,270

259
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Lê Nhâm Kiệt 1665 Lãng Khuê nam TT:3,271
Trần Xuân Bảng 1670 TT:3,283
Công Cấp sự Phan Kiêm Toμn 1655 Bồi tụng, Thọ Quế TT:3,244
trung nam
Vũ L−ơng 1655 Đông Hμ Nam TT:3,244
Lê Công Triều 1670 TT:3,284
Trần Trọng Liêu 1765 TB,285
Không Đô cấp sự Phạm Chất 1665 TT:3,271
rõ trung Lê Đắc Toμn 1665 TT:3,271
khoa Uông Nhuệ 1665 TT:3,271
L−ơng Nghị 1665 TT:3,271
Lê Vinh 1665 TT:3,271
Hoμng Đức Đôn 1665 TT:3,271
Đoàn Tuấn Khoa 1696 TB,44
Nguyễn Tông Mục 1698 TB,50
Nguyễn Hành 1698 TB,50
Hồ Phi Tích 1717 TB,72
Cấp sự Đỗ Thiện Chính 1665 TT:3,271
trung Nguyễn Công Bật 1665 TT:3,271
Vũ Cầu Hồi 1665 TT:3,271
Lê Chí Đạo 1665 TT:3,271
Lê Nhân Kiệt 1665 TT:3,271
Đμm Đặng Dụng 1665 TT:3,271
Trần Thế Vinh 1683 TB,23
Đặng Đình Tướng 1683 TB,23
Hồ Phi Tích 1708 TB,64
Nguyễn Hoản 1745 TB,205
Ngô Thì Sĩ 1766 TB,295
Nguyễn Quýnh 1775 TB,390

Bảng 39: Các chức quan Lục khoa thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
STT Số Nhõn vật Khoa Chức quan lục Khoa Chức tƣớc khác
hiệu thi
1 1493 Nghiờm Hoằng Đạt 1583 Lại khoa Đô cấp sự trung
2 1567 Nguyễn Sư Lộ 1554
3 1603 Lờ Nhữ Bật 1589
4 1611 Nguyễn Nhật Trỏng 1592
5 1613 Đặng Kính Chỉ 1592
6 1616 Nguyễn Thứ 1598
7 1643 Nguyễn Văn Khuờ 1610
8 1694 Lờ Biện 1631
9 1698 Vũ Bạt Tuỵ 1634
10 1719 Nguyễn Vi 1637
11 1807 Nguyễn Mậu Dị 1659 Lễ khoa Đô cấp sự trung
12 1873 Vũ Duy Khuụng 1670
13 1625 Nguyễn Dụng Triờm 1562 Hộ khoa đô cấp sự trung
14 1680 Lờ Khả Trự 1628

260
15 1713 Lê Hưng Nhõn 1637
16 1602 Nguyễn Văn Thụng 1583 Binh khoa Đô cấp sự trung
17 1630 Nguyễn Tự Cường 1562 tước tử
18 1669 Nguyễn Nhõn Trừng 1623 tước nam
19 1752 Nguyễn Văn Bảng 1643
20 1847 Lờ Hựng Xứng 1670
21 2291 Ngụ Duy Trừng 1775 Giỏm sỏt ngự sử
xứ Sơn Nam,
thăng Hàn lâm
viện Đói chế
22 1477 Nguyễn Cẩn 1580 Hỡnh khoa đô cấp sự trung
23 1554 Nguyễn Sư Khanh 1592
24 1556 Phạm Trõn 1592
25 1738 Phạm Đậu 1640
26 1793 Vũ Cụng Lượng 1656
27 1819 Lờ Nhõn Kiệt 1661
28 1842 Nguyễn Quang Trạch 1667
29 1896 Nguyễn Đăng Long 1676
30 1900 Nguyễn Cụng Thước 1680
31 1419 Đồng Đắc 1568 Công khoa đô cấp sự trung
32 1519 Nguyễn Khắc Cần 1586
33 1527 Trần Đỡnh Tuyờn 1586
34 1674 Nguyễn Trật 1623
35 1820 Phí Đăng Nhậm 1661
36 1850 Nguyễn Tạo 1670
37 1868 Nguyễn Cụng Nho 1670
38 2338 Phan Bảo Định 1787
39 1889 Nguyễn Trung Lượng 1676
40 1516 Lờ Thế Lộc 1586 Đô cấp sự trung không rừ
Khoa
41 1633 Đặng Duy Minh 1604
42 1649 Nguyễn Khuờ 1610
43 1722 Nguyễn Nhõn Đại 1637 Tự khanh
44 1880 Bựi Cụng Phụ 1676 tước nam
45 1913 Hà Cụng Luận 1680
46 2221 Nguyễn Xuõn Huy 1752
47 2261 Lý Trần Dự 1769
48 2264 Ngụ Duy Viờn 1769 Nhập thị Bồi
tụng, sau thăng
Hàn lâm thị giảng
49 2276 Trần Huy Vĩ 1772
50 1961 Trần Danh Đống 1691 Lại khoa Cấp sự trung
51 2013 Nguyễn Cụng Khuờ 1710
52 2044 Tần Lờ Thoan 1712
53 2323 Trần Bỏ Lóm 1779 Đốc đồng xứ Hải
Dương
54 2328 Nguyễn Quý Ban 1787 Đốc học Bắc

261
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Ninh, Lễ bộ Tả
thị lang, tước hầu
55 1605 Lương Khiêm Hanh 1589 Lễ khoa cấp sự trung
56 1833 Nhữ Tiến Dụng 1664
57 1846 Vũ Đỡnh Lõm 1670
58 1939 Đỗ Công Bật 1685 Đốc thị Nghệ An
59 1956 Ngụ Vi Thực 1691
60 1972 Nguyễn Quyền 1697
61 2238 Tạ Đăng Đạo 1760
62 2332 Đỗ Lệnh Thiện 1787
63 1737 Đặng Thuần Nhõn 1640 Hộ Khoa cấp sự trung,
tước nam
64 2286 Nguyễn Thế Lịch 1775 Vương phủ thiêm
sai Thị nội thư tả,
Hàn lâm Hiệu
thảo
65 2018 Lờ Khắc Thuần 1710 Hỡnh khoa Cấp sự trung
66 2029 Phạm Duy Cơ 1710
67 1486 Nguyễn Sỏch Hiển 1580 Cụng khoa cấp sự trung Giỏm sỏt ngự sử
68 1907 Nguyễn Cụng Phụ 1680
69 1916 Vũ Đỡnh Thiều 1680
70 1977 Nguyễn Vĩ 1697
71 2246 Ngụ Thỡ Sĩ 1766 Đốc đồng Thái
Nguyên
72 1445 Trần Thỳc Bảo 1574 Cấp sự trung khụng rừ
Khoa
73 1500 Trần Khỏnh Hưng 1583
74 1522 Nguyễn Lễ Cung 1586
75 1571 Nguyễn Chiờu 1554
76 1641 Đỗ Khắc Niệm 1607
77 1681 Nguyễn Thế Trõn 1628
78 1748 Lờ Trớ Trạch 1643
79 1785 Nguyễn Cụng Bật 1652
80 1838 Bựi Tụng 1664
81 1858 Đỗ Công Liờm 1670
82 1881 Phạm Quang Chiếu 1676
83 1903 Nguyễn Hưng Cụng 1680
84 1904 Phạm Cụng Phương 1680
85 1915 Phạm Hữu Dung 1680
86 1990 Bựi Hữu Nhẫm 1700
87 2001 Nguyễn Quang Luõn 1703
88 2005 Nguyễn Thường Thịnh 1703
89 2057 Ngụ Nhõn Hõn 1715
90 2200 Trần Danh Tố 1746
91 2220 Tạ Đỡnh Hoỏn 1752
92 2228 Nguyễn Điệu Huyễn 1754
93 2233 Phan Khiờm Thụ 1757

262
94 2243 Hoa Quý Khõm 1763
95 2288 Nguyễn Quốc Ngạn 1775
96 2322 Nguyễn Đỡnh Tứ 1785
97 2329 Lờ Trọng Dĩnh 1787

Bảng 40: Các chức quan Ngự sử đài thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ chính sử)
Chức Nhân vật Năm Chức tƣớc khác Tài liệu
quan Ngự dẫn
sử đài
Đô ngự sử Nguyễn Văn Giai 1596, 1617 Thăng Thiếu phó, Lại bộ TT:3,134
th−ợng th− ch−ởng lục bộ
sự, Lễ Quận công
Lê Trạc Tú Tr.1601 TT:3,312
Nguyễn Danh Thế 1618 TT:3,321
L−u Đình Chất 1623 TT:3,327
Trần Văn Tuyển 1661 Xuyên quận công TT:3,258
Lê Sĩ Triệt 1664 Quế Hải hầu TT:3,270
Đồng Tồn Trạch 1669 TT:3,280
D−ơng Hạo 1672 TT:3,288
Thân Toμn 1675 TB,16
Vũ Duy Hμi 1675 TB,16
Nguyễn Công Vọng 1678 TB,20
Vũ Công Đạo Tr.1683 TB,24
Nguyễn Danh Thực 1683 TB,26
Nguyễn Công Trực 1691 TB,36
Nguyễn Quán Nho 1692 TB,39
Nguyễn Tiến Tài 1693 TB,40
Nguyễn Quý Đức 1694 TB,43
Nguyễn Công Đổng 1714 TB,68
Nguyễn Dương Hồ 1720 Tước Quận công TB,77
Nguyễn Công Hãng 1724 TB,99
Nguyễn Hiệu 1727 TB,106
Phạm Khiêm ích 1730 TB,117
Phan Đình Kính 1733 TB,142
Đoàn Bá Dung 1734 TB,143
Nguyễn Ngọc Huyễn 1742 TB,186
Nguyễn Nghiễm 1761 TB,268
Trần Huy Bật 1763 Thượng thư bộ Hình, Bái TB,275
Xuyên hầu
Nguyễn Hoản 1770 TB,338
Lê Quý Đôn 1772, 1776 Thự Tế tửu Quốc tử giám TB,351,
422
Phó đô Nguyễn Duy Thì 1616 Ph−ơng Tuyền bá TT:3,214
ngự sử Trần Vĩ 1631 TT:3,231
NGuyễn Năng Thiệu 1661 TT:3,258

263
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Vũ Vinh Tiền 1664 Lệ Hải tử TT:3,269
Nguyễn Danh Thực 1669 TT:3,280
Nguyễn Mậu Tμi 1672 TT:3,288

Phạm Chất 1673 TT:3,291


Vũ Duy Hài 1676 TB,16
Nguyễn Quán Nho 1684 TB,28
Hoàng Công Trí 1691 TB,31
Trần Thọ 1693 TB,40
Ngô Hải 1694 TB,43
Nguyễn Đình Hiền 1698 TB,49
Trương Công Giai 1708 TB,64
Nguyễn Mại Tr.1715 TB,69
Nguyễn Mậu áng 1717 TB,74
Nguyễn Huy Nhuận 1720 tước hầu TB,77
Nguyễn Công Thái 1730 TB,117
Vũ Huy 1733 TB,142
Lê Hữu Kiều 1734 TB,143
Vũ Công Trấn 1745 TB,213
Trần Danh Lâm 1767 Bồi tụng TB,318
Lê Quý Đôn 1770 TB,338
Vũ Miên 1774 Bồi tụng TB,367
Vũ Trần Tự 1776 TB,410
Nguyễn Đình Giản 1787 TB,474
Thiêm đô Lê Nghĩa Trạch 1600 Gia Lộc tử TT:3,209
ngự sử Nguyễn Duy Thì 1608 Ph−ơng Tuyền bá TT:3,315
Trần Vĩ Tr.1631 TT:3,231
Nguyễn Duy Hiểu 1632 TT:3,233
Đồng Nhân Phái 1647 TT:3,240
Lê Đình Dự 1655 Bồi tụng, tước Phụng Trì TT:3,246
nam
Phùng Viết Tu Tr.1662 TT:3,259
Trịnh Thì Tế 1665 Cảo Xuyên nam TT:3,272
Ngô Khuê 1669 TT:3,280
Lê Đắc Toμn 1672 TT:3,288
Đỗ Thiện Chính Tr.1675 TT:3,298
Nguyễn Viết Thứ 1675 TT:3,298
Nguyễn Quý Đức 1686 TB,31
Trịnh Đức Nhuận 1691 TB,36
Lê Nho Công 1692 TB,39
Nguyễn Thế Bá 1694 TB,42
Phan Tự Cường 1696 TB,45
Vũ Thạnh 1697 TB,46
Nguyễn Công Đổng 1698 TB,49
Nguyễn Công Hãng Tr.1714 TB,70

264
Ngô Đình Thạc 1727 Kiêm quyền Phó Đô ngự sử TB,107
Vũ Công Tể 1730 TB,117
Nguyễn Kiều 1733 TB,142
Nguyễn Phùng Thì 1734 TB,143
Vũ Công Trấn 1742 TB,196
Nguyễn Bá Lân 1756 Bồi tụng TB,253
Đào Xuân Lan 1762 TB,271
Lê Doãn Giảng 1765 TB,285
Vũ Miên 1768 TB,324
Lê Quý Đôn 1769 TB,332
Nguyễn Thưởng 1775 TB,397
Đề hình Nguyễn Vinh Thịnh 1665 TT:3,271
Giám sát Vũ Bật Hμi 1665 t−ớc Th− Trạch nam TT:3,271
ngự sử
Giám sát Phạm Trân 1612 TT:3,214
ngự sử Bùi Bỉnh Di 1617 TT:3,217
Đỗ Thế Long 1617 TT:3,217
D−ơng Thuần 1630 TT:3,229
Trịnh Thế Tế 1655 TT:3,246
Lê Công Triều 1663 TT:3,265

Nguyễn Đình Trụ 1665 TT:3,271


Nguyễn Quang Thiện 1665 TT:3,271
Lê Thực 1665 TT:3,271
Nguyễn Sĩ Giáo 1665 TT:3,271
Nhữ Tiến Dụng 1665 TT:3,271
L−ơng Mậu Huân 1665 TT:3,271
Vũ Trác Lạc 1665 TT:3,271
Nguyễn Viết D−ơng 1665 TT:3,271
Nguyễn Tiến Tμi 1665 TT:3,271
Bùi Tông 1665 TT:3,271
Tr−ơng Luận Đạo 1665 TT:3,271
Lê Thuần Phi 1665 TT:3,271
Ninh Đạt 1665 TT:3,271
Lê Liêu 1665 TT:3,271
Nguyễn Cung 1665 TT:3,271
Lê Trí Bình 1670 TT:3,284
Trần Thế Vinh 1676 Bồi tụng TB,16
Lê Bạt Huân 1692 TB,38
Nguyễn Công Ban 1692 TB,38
Đỗ Công Bật 1700 TB,52
Trần Phú Dực 1700 TB,52
Nguyễn Quang Trù 1700 TB,52
Nguyễn Công Đĩnh 1726 TB,100
Nguyễn KHắc Trung 1726 TB,100

265
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Nguyễn Danh Quán 1726 TB,100
Nguyễn Đình Ngọc 1759 TB,262
Lý Trần Thản 1769 TB,332

Bảng 41: Các chức quan Ngự sử đài thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Các nhà khoa bảng Việt Nam)
STT Số Nhõn vật Tiến sĩ Chức quan Chức tƣớc khác
hiệu khoa Ngự sử đài
1 1588 Lờ Trạc Tỳ 1577 Đô ngự sử
2 1593 Nguyễn Văn Giai 1580 Tham tụng, Lại bộ Thượng thư,
Chưởng lục bộ sự, hàm Thiếu bảo,
tước Lễ quận công
3 1614 Nguyễn Danh Thế 1592 Tham tụng, Lại bộ Thượng thư, Nhập
thị kinh diên
4 1726 Dương Hạo 1640
5 1806 Vũ Cụng Đạo 1659 Nhập thị kinh diờn
6 1875 Nguyễn Đức Vọng 1670
7 1918 Nguyễn Đăng Đạo 1683 Nhập thị kinh diờn
8 1945 Nguyễn Cụng Đổng 1685 Thự Trung thư giám, tước tử
9 2099 Ngô Đỡnh Chất 1721 Bồi tụng, Binh bộ Thượng thư, tước
Nhuệ Xuyên hầu
10 2105 Nguyễn Ngọc Huyễn 1721 Tham tụng, tước Thái Lĩnh hầu
11 2115 Nguyễn Đức Hoành 1724
12 2138 Vũ Khõm Thận 1727 Bồi tụng, tước Quận công
13 2147 Trần Danh Lõm 1731 Tả thị lang bộ Cụng và bộ Hộ
14 1824 Hoàng Hiệp Tõm 1661 Phó đô
15 1837 NGụ Hải 1664 Ngự sử
16 1855 Trần Thọ 1670
17 1963 Nguyễn Mậu Thịnh 1691 tước nam
18 2009 Nguyễn Thẩm 1706
19 2089 Nguyễn Trỏc Luõn 1721
20 2217 Đoàn Duy Tĩnh 1752 tước bá
21 1678 Nguyễn Duy Hiểu 1628 Thiêm đô
22 1736 Đỗ Văn Tổng 1640 ngự sử tước Xuân Lĩnh bá
23 1779 Phựng Viết Tu 1652
24 1834 Nguyễn Sĩ Giỏo 1664
25 1867 Phan Tự Cường 1670
26 1894 Nguyễn Đỡnh Cổn 1676
27 1905 Nguyễn Quang Thành 1680
28 1936 Vũ Thạnh 1685
29 1971 Nguyễn Duy Viờn 1694
30 2047 Nguyễn Lõn 1712
31 2143 Nguyễn Bỏ Lõn 1731 Bồi tụng, Quốc Tử giỏm Tế tửu, Lễ
Trạch hầu
32 2223 Dương Trọng Khiờm 1754
33 2236 Ngụ Trần Thực 1760 Đông các đại học sĩ
34 2250 Uụng Sĩ Điển 1766 Bồi tụng,Lễ bộ Hữu thị lang, Đốc thị
đạo Thuận Quảng, Hỡnh bộ Hữu thị
lang, Thao Đường bá
35 2318 Nguyễn Du 1785 Hàn lâm viện Thị thư
36 1452 Nguyễn Ích Trạch 1574 Đề hỡnh
37 1517 Phạm Hiến 1586 giỏm sỏt
38 1624 Lờ Dực 1562 ngự sử

266
39 1636 Tạ Đỡnh Đương 1604
40 1662 Bựi Cầu 1619
41 1708 Nguyễn Cổn 1637
42 1734 Lờ Kiờm 1640
43 1841 Nguyễn Hữu Đăng 1667
44 1870 Trương Quang Trạch 1670
45 1884 Chu Danh Tể 1676 Đốc trấn Cao Bằng
46 2017 Nguyễn Quốc Tĩnh 1710
47 2051 Nguyễn Quý Ân 1715 Tả tư giảng
48 2137 Nguyễn Sĩ Lõm 1727
49 2164 Trương Nguyễn Điều 1733
50 2320 Lờ Danh Hiển 1785 Đốc đồng Thanh Hoa
51 1503 Phạm Đức Mậu 1583 Giỏm sỏt
52 1523 Nguyễn Thừa Vinh 1586 ngự sử các
53 1524 Nguyễn Dần 1586 đạo
54 1531 Phạm Y Tuyền 1589
55 1538 Hoàng Vụ Bản 1589
56 1543 Đoàn Kim Sơn 1589 Tri Xuyờn bỏ
57 1544 Phạm Viết Tuấn 1589
58 1546 Vũ Sõm 1589
59 1547 Nguyễn Bỉnh Trục 1589
60 1557 Nguyễn Nhõn Phức 1592
61 1564 Hoàng Đĩnh 1592
62 1570 Chu Quang Trứ 1554
63 1587 Lờ Danh Năng 1565
64 1682 Nguyễn Hoà 1628
65 1701 Trần Phủ 1634
66 1720 Nguyễn Đạt 1637
67 1757 Nguyễn Tỏ Tương 1646
68 1758 Lờ Khắc Kỉ 1646
69 1760 Phạm Hiển Danh 1646 tước nam
70 1763 Đinh Tất Hưng 1646
71 1766 Nguyễn Đắc Vinh 1646
72 1768 Cao Cử 1646
73 1770 Phạm Văn Tuấn 1646
74 1791 Vũ Đăng Long 1656
75 1812 Ninh Đạt 1659
76 1821 Đỗ Thạnh 1661
77 1822 Nguyễn Kớnh 1661
78 1825 Lờ Liờu 1661
79 1828 Lương Mậu Huõn 1661
80 1832 Nguyễn Quang Thiện 1664
81 1857 Phạm Viết Tuấn 1670
82 1859 Nguyễn Đỡnh Bảng 1670
83 1872 Nguyễn Sĩ 1670
84 1874 Bựi Quang Vận 1670
85 1886 Lê Đăng Cử 1676
86 1891 Trương Hữu Hiệu 1676
87 1897 Nguyễn Siờu Hải 1676
88 1917 Nguyễn Quang Lõn 1680
89 1927 Trịnh Đức Vận 1683
90 1931 Phớ Quốc Thể 1683
91 1933 Tạ Đăng Vọng 1683
92 1942 Đỗ Thờ 1685
93 1943 Đỗ Công Quỳnh 1685 Đốc đồng Cao Bằng

267
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
94 1944 Vũ Duy Dương 1685
95 1948 Phạm Đỡnh Chõu 1685
96 1970 Ngụ Vi Nho 1694
97 1981 Bùi Đăng Đạt 1697 Tham chính, Hiễn sát sứ xứ Sơn Nam
98 1992 Lờ Hữu Hỷ 1700
99 1994 Lại Duy Chớ 1700
100 1996 Nguyễn Đỡnh Tướng 1700 Đốc đồng xứ Tuyên Quang
101 2000 Nguyễn Phấn 1700
102 2003 Nguyễn Trớ Cung 1703
103 2016 Nguyễn Đồng Lõm 1710
104 2045 Đồng Công Viện 1712
105 2062 Lương Lõm 1715
106 2069 Lờ Cẩn 1715
107 2077 Trương Hữu Thiệu 1718
108 2079 Hà Sỏch Dự 1718
109 2080 Dương Quỏn 1718
110 2082 Nguyễn Đỡnh Bỏ 1718
111 2084 Lê Đăng Truyền 1718
112 2098 Từ Trọng Đĩnh 1721
113 2186 Nguyễn Lõm Thỏi 1739
114 2189 Nguyễn Huy Thục 1739
115 2202 Nguyễn Như Thức 1746
116 2210 Hoàng Phạm Dịch 1748
117 2211 Nguyễn Quốc Khuờ 1748
118 2215 Nguyễn Huy Ngọc 1748
119 2254 Ngụ Phỳc Lõm 1766
120 2283 Ngụ Thỡ Nhậm 1775 Hàn lâm viện Hiệu thảo, thăng Hữu
thị lang bộ Công

268
PHỤ LỤC 3
BIÊN NIÊN VỀ TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA LỤC BỘ THẾ KỶ XV-XVIII1

1. Thời Lê Sơ:
Năm Sự kiện Tài liệu
dẫn2
12/1426 Đặt chức viên ngoại lang của Lục bộ, lấy bọn Nguyễn Công Vĩ 6 TT:2,262
ng−ời lμm chức ấy.
1/1427 Lấy Hμn lâm viện thừa chỉ học sĩ Nguyễn Trãi lμm Triều liệt đại TT:2,263
phu, Nhập nội hμnh khiển, Lại bộ th−ợng th− kiêm hμnh Khu mật
viện sự.
3/1427 Lấy Bùi − Đμi lμm Lễ bộ th−ợng th− kiêm tri Đông đạo quân dân TT:2,265
tịch bạ.
3/1428 Sai sứ sang nhμ Minh. Bấy giờ bọn Lý Kỳ, La Nhữ Kính về n−ớc, TT:2,293
vua sai bọn Hộ bộ lang trung Lê Quốc Khí (cháu ruột Thái Tổ),
Phạm Thμnh sang tạ ơn…
1/1431 Vua sai bọn chánh sứ Lê Nhữ Lãm, phó sứ Lại bộ th−ợng th− Hμ TT:2,305
Lật vμ Lê Bính sang nhμ Minh cầu phong, đồng thời trần tình vμ
giải đáp về việc có dụ đòi trả chiến khí vμ tìm con cháu họ Trần.
5/1434 Đến ngμy ấy nghỉ chầu, lμm phép trấn yểm trong cung cấm, các TT:2,315
quan không một ai đ−ợc biết. Thì Hanh chỉ tâu cho Lễ bộ thị lang
Trình Toμn D−ơng, tr−ớc lμ đạo sĩ, cùng lμm phép với mình. Hai
ng−ời đều đ−ợc th−ởng rất hậu.
11/1435 Lấy tri Thẩm hình viện sự Đμo Công Soạn lμm Thẩm hình viện sự TT:2,334
kiêm Lễ bộ th−ợng th−. Công Soạn rất am hiểu điển cũ vμ phong tục
ng−ời Ngô. Bấy giờ sứ nhμ Minh sắp sang, vua muốn Công Soạn
giữ việc ứng tiếp, cho nên có lệnh nμy.
1/1436 Bμn sai Thẩm hình viện sự kiêm Lễ bộ th−ợng th− Đμo Công Soạn TT:2,335
vμ Nội mật viện phó sứ Nguyễn Thúc Huệ sang nhμ minh cầu
phong.
6/1436 Sai bọn Thẩm hình viện sử kiêm Lễ bộ th−ợng th− Đμo Công Soạn TT:2,35
vμ Nội mật viện phó s− Nguyễn Công Cứ sang nhμ Minh nộp cống
hằng năm.
7/1448 Xuống chiếu cho Lễ bộ treo bảng cấm dân chúng mặc mμu vμng, đi TT:2,363
giμy vμ dùng đồ chạm vẽ hình lân ph−ợng.
1/1449 Điện trung thị ngự sử hặc tội Tham dự triều chính Lê Bí nghi thức TT:2,368
trái lễ. Thiếu bảo Lê Sao lấn v−ợt sai thứ bậc, Lễ bộ th−ợng th− Đμo

1
Những đoạn xét thấy không cần thiết chúng tôi đã lược bớt và thay bằng dấu ba chấm (…)
2
TT:2: Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2; TB: Đại Việt sử ký tục biên.

269
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Công Soạn không chịu nêu ra, mỗi ng−ời đều phải nộp tiền theo thứ
bậc khác nhau.
4/1449 Sai Tham tri Bùi Cầm Hổ, Lễ bộ lang trung Nguyễn Cảnh đi cầu đảo TT:2,370
ở núi Tản Viên vμ Tam Đảo đều không ứng nghiệm.
5/1449 Thuyên chuyển các quan văn võ trong ngoμi. Lấy… Trình Dục lμm TT:2,372
Lễ bộ th−ợng th−…., Lễ bộ lang trung Nguyễn Cảnh lμm Chính sự
viện đồng tri tham nghị chính sự…
10/1452 Sai sứ sang nhμ minh. Chánh sứ Thẩm hình viện Phạm Du, phó sứ TT:2,379
Hμn lâm viện trực học sĩ Nguyễn Bá Ký vμ Lễ bộ viên ngoại lang
Chu Xa sang mừng việc lập Hoμng thái tử.
1460 Nghi Dân chia đặt các quan ở lục bộ, lục khoa vμ phủ, huyện, châu. TT:2,388
12/1460 Lấy Nguyễn Nh− Đổ lμm Lại bộ th−ợng th−. TT:2,392
7/1461 Sắc dụ quan Lại bộ lμ bọn Nguyễn Nh− Đổ vμ Nguyễn Thiện rằng: TT:2,393
"Năm ngoái các ng−ời nhận lời thỉnh thác của Đỗ Bất Một, tâu xin
cho hắn lμm Tổng tri vệ Bắc Bình, rồi lời bμn tán trong triều âm ỷ,
các ng−ơi lại tâu xin cho Bất Một lấy hμm Tổng binh vệ về nghỉ,
nh− vậy thực lμ gian ngoan quá lắm".
10/1462 Ra sắc chỉ cho cả n−ớc rằng: TT:2,397
Kể từ nay, các quan viên văn võ lμm việc đến 65 tuổi muốn nghỉ
việc, các lại điển, giám sinh, nho sinh, sinh đồ tuổi từ 60 trở lên
muốn về lμm dân, thì đều cho ng−ời đó nộp đơn ở Lại bộ rồi xếp
loại tâu lên để thi hμnh.
12/1463 Sắc dụ cho bọn Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ. Hình bộ th−ợng TT:2,399
th− Trần Phong, Binh bộ th−ợng th− Nguyễn Vĩnh Tích. Hộ bộ
th−ợng th− Nguyễn C− Pháp, Binh bộ th−ợng th− Nguyễn Đình Mỹ
rằng: "Ta nghe T− Mã Quang có nói: "Ng−ời quân tử lμ cội gốc để
tiến lên trị bình, kẻ tiểu nhân lμ thềm bậc để đi đến hoạ loạn". Ta vμ
các ng−ơi đã thề với trời đất dùng ng−ời quân tử, bỏ kẻ tiểu nhân,
ngμy đêm chăm chắm không lơi, các ng−ơi chớ có quên đấy!".
12/1463 Sắc dụ Lễ bộ tả thị lang L−ơng Nh− Hộc rằng: TT:2,400
"Mới rồi, Nguyễn Vĩnh Trinh không học thể thơ quốc ngữ, lμm thơ
không đúng phép. Ta t−ởng lμ ng−ơi biết, nên mới hỏi thử ng−ơi,
nh−ng ng−ơi cũng không biết nốt. Vả ta xem Hồng Châu quốc ngữ
thi tập của ng−ơi còn nhiều chỗ thất luận, ta chắc lμ ng−ơi ch−a biết
nên mới nói ra. Vũ Lãm th−ờng không muốn ta nói cho ng−ơi biết
đâu".
7/1464 Biếm chức Binh bộ tả thị lang Nguyễn Đình Mỹ. TT:2,401
8/1464 Sắc dụ Hình bộ tả thị lang Nguyễn Mậu rằng: "Ng−ơi chăm lo việc TT:2,402
n−ớc, điều gì hay thì quy về cho vua, không kém gì Nh− Hối, Huyền
Linh1 . Đến nh− Đái Trụ, xử việc phức tạp khó khăn , Ngạn Bác tâu
bμy rõ rằng, t−ờng tận , so với hai ng−ời đó cũng có khá hơn một
chút. Lμm bμy tôi nh− vậy thực đáng khen ngợi lắm, nên ban cho
bạc lạng. Khi nμo bạc ban đến nơi, ng−ơi cμng nên mãi giũa thêm
lòng son vốn có mong cho ta tới cõi trị bình. Ta có lỗi lầm gì hãy
thẳng thắn chỉ ra, hãy cứng cỏi nh− Đổng Tuyên4 , chớ nh− Tô Uy
quen thói giấu giếm".
12/1464 Sắc dụ Binh bộ th−ợng th− Nguyễn Vĩnh Tích rằng: "Nay D−ơng TT:2,403
Quốc Minh nói năm x−a có đem 34 lạng bạc đến đút lót cho mẹ
ng−ơi, dẫu không chứng cớ, nh−ng chả lẽ nó lại nói vu? Tuy có dụ
nμy, nh−ng ta cũng che giấu cho để ng−ơi tự sửa lỗi".

270
Lại dụ rằng: "Xem sớ của ng−ơi tâu bμy, rất lμ thiết thực, xác đáng,
dù họ V−ơng, họ Ngụy đời Đ−ờng3 cũng không hơn đ−ợc. Đáng
ban cho 10 lạng bạc để đáp lại lòng trung thμnh của ng−ơi. Vả lại,
lời bμn của ng−ơi rất hợp với ý của tiên nho, trẫm đã khen ngợi vμ
tiếp thu cả".
5/1465 Ra lệnh cho Lễ bộ yết bảng khuyên giữ phong hoá. TT:2,405
3/1466 Vua ngự ra điện Kính Thiên, thân hμnh ra đề bμi văn sách hỏi các đế TT:2,409
v−ơng trị thiên hạ. Sai… Hμn lâm viện thừa chỉ quyền Hộ bộ hữu
thị lang kiêm Cẩn Đức điện đại học sĩ nhập thị kinh diên tả xuân
ph−ờng thái tử tả dị đức Nguyễn C− Đạo…
4/1466 Bắt đầu đặt năm phủ, sáu bộ. Đổi đặt sáu viện thμnh sáu tự, đổi TT:2,410
Khâm hình viện thμnh Hình bộ, đều đặt chức Th−ợng th− ở các bộ
Lại, Hộ, Lễ, Binh, Hình, Công.
10/1466 Ban ấn cho các bộ. TT:2,412
1/1467 Cấm dùng diêm tiêu lμm trò chơi đốt pháo bông, đó lμ theo lời tâu TT:2,413
của Hộ bộ th−ợng th− Trần Phong.
1/1467 Ngμy mồng 10, sai Đô đốc 5 phủ lμ bọn Trịnh Văn Sá, Lê Hy Cát TT:2,413
cùng Binh bộ th−ợng th− Nguyễn Vĩnh Tích duyệt tuyển các Đại,
Tiểu tổng kỳ của các vệ trong 5 phủ để sung lμm quân của 5 vệ Điện
tiền.
2/1467 Sai Hộ bộ th−ợng th− Trần Phong cùng bọn quan Tuyên chính Phan TT:2,414
S− Tông đi khám đất công ở h−ơng Lam Sơn vμ thôn Dâm để cấp
cho các công thần từ nhất phẩm đến lục, thất phẩm theo thứ bậc
khác nhau.
3/1467 Lại bộ tâu về việc khảo thi các cận thị học sinh để bổ lμm giám sinh TT:2,416
các huyện, khảo thi Quốc tử giám giám sinh vμ lại viên các nha môn
bổ lμm giáo chức các phủ. Vua y theo.
3/1467 Công bộ hữu thị lang Trịnh Công Đán bị phạt 30 quan tiền vì bỏ TT:2,416
phơi m−a nắng những gỗ, lạt của công.
3/1467 Sai Lễ Bộ th−ơng th− Lê Hoằng Dục đãi yến sứ thần Chiêm Thμnh TT:2,416
ở quán Bắc Sứ.
3/1467 Lấy Hộ bộ th−ợng th− kiêm cung s− phủ thái tử tân khách Trần TT:2,416
Phong lμm Hình bộ th−ợng th− kiêm thái tử tân khách; Lại bộ
Th−ợng th− Phạm Văn Hiển lμm Trung quân phủ đô đốc đồng tri;
Lễ bộ th−ợng th− kiêm thái th−ờng tự khanh Lê Hoằng Dục lμm tây
quân phủ đô đốc đồng tri; Công bộ th−ợng th− Bùi Quát lμm Đông
quân phủ Đô đốc thiêm sự; Hình bộ th−ợng th− Phạm Công Nghị
lμm Lễ bộ th−ợng th−; Ngự sử đμi phó đô ngự sử kiêm Cần Chính
điện phụng thị kinh diên Nguyễn C− Đạo lμm Ngự sử đμi đô ngự sử
quyền Hộ bộ th−ợng th− tri kinh diên sự; Thiên Tr−ờng thừa tuyên
sứ Phạm Du lμm Tuyên uý đại sứ quyền Công bộ th−ợng th−; Ngự
sử đμi phó đô ngự sử Trần Xác lμm cung s− phủ thái tử tân khách
kiêm ngự sử đμi đô ngự sử; Hμn lâm viện đại học sĩ quyền Lại bộ tả
thị lang kiêm Bí th− giám học sĩ Nguyễn Đình Mỹ lμm Cung s− phủ
đại học sỹ quyền Hộ bộ tả thị lang; Hμn lâm viện đại học sĩ quyền
Binh bộ tả thị lang kiêm bí th− giám học sĩ Trần Bμn lμm Cung s−
phủ tân khách quyền Lại bộ tả thị lang; Thái bộc tự khanh hμnh
Thông chính ty thông chính sứ Lê Trung lμm Thừa đức ty thừa đức
đại sứ quyền Hộ bộ hữu thị lang; Quang lộc tự khanh kiêm bí th−
giám học sĩ Vũ Vĩnh Trinh lμm Hμn lâm viện đại học sĩ quyền Lễ

271
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
bộ hữu thị lang kiêm Quang lộc tự khanh bí th− giám học sĩ tri kinh
diên sự; đại lý tự khanh Nguyễn Ninh lμm Thiêm sự hμnh Đại lý tự
khanh; Hữu dụ đức quyền Lại bộ hữu thị lang Phan Duy Trinh lμm
Tuyên uý sứ quyền Thiên Tr−ờng xứ thừa tuyên sứ.
4/1467 Hạ lệnh cho quan Lại bộ rằng: Các chức quan văn võ, ng−ời nμo TT:2,419
chân trắng mới bổ vμ những ng−ời bị giáng chức hay đã nghỉ việc,
đều cho lμm bằng ban cấp cho.
4/1467 Bọn Đô cấp sự trung Trịnh Thiết Tr−ờng hặc tội bọn Hình bộ Đỗ TT:2,420
Tông Nam lμm quan ăn hối lộ, Lại bộ Nguyễn Nh− Đổ tiến cử
ng−ời xấu, cả hai đều xin giao cho pháp ty theo luật trị tội. Vua y
theo.
5/1467 Lễ bộ th−ợng th− Phạm Công Nghị tâu xin về việc đổi lại họ cho TT:2,420
những người được ban quốc tính. Vua y theo.
5/1467 Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ tâu rằng: Những ng−ời thi hội TT:2,421-
đỗ kỳ thi thứ hai vμ kỳ thứ ba, sung bổ lại viên các nha môn, nay thi 420
đỗ giáo chức, nên bổ các chức kinh lịch. Vua y tờ tâu.
5/1467 Lấy Hμn lâm viện thị độc học sĩ hμnh Lại khoa đô cấp sự trung TT:2,422
Trịnh Thiết Tr−ờng lμm Hμn lâm thị giảng học sĩ quyền Công bộ
hữu thị lang, quyền Quốc Oai đẳng xứ tán trị thừa tuyên sứ ty tham
chính D−ơng Chấp Trung lμm Đại lý tự khanh quyền Hình bộ tả thị
lang, Hμn lâm thị độc học sĩ thự viện sự kiêm Binh khoa đô cấp sự
trung Phạm C− lμm Thái bộc tự khanh quyền Lạng Sơn đẳng xứ tán
trị thừa tuyên tham chính.
6/1467 Vua quở trách Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ, Đông cung quan TT:2,423
Trần Phong vμ Đô ngự sử đμi Trần Xác về tội bảo cử bậy.
6/1467 Cho Binh bộ th−ợng th− Nguyễn Vĩnh Tích chơi không vì Vĩnh TT:2,423
Tích năm tr−ớc đã nhận bạc đút lót của ng−ời, nay ủy cho trọng
trách Binh tμo, lại xin bậy bổng lộc cho một viên Tổng tri, cho nên
thu lại thẻ bμi vẫn đeo vμ cho ở không.
6/1467 Lấy Lê Bá Trù lμm Binh bộ th−ợng th−. TT:2,423
8/1467 Sắc cho Hộ bộ khai m−ơng, đắp đập, không đ−ợc để đồng ruộng TT:2,426
úng ngập hay khô cạn. Sai Hộ bộ gửi công văn cho thừa tuyên các
xứ xét xem có ty Khuyến nông vμ Hμ đê xứ nμo để lúa má úng ngập
vμ còn ruộng bỏ hoang thì tâu lên.
8/1467 Lễ bộ thị lang L−ơng Nh− Hộc vμ Nguyễn Đình Mỹ cho lμ thời tiết TT:2,427
thuận hoμ, mùa mμng bội thu, dân chúng yên vui, muôn vật dồi dμo,
dâng biểu xin vua tiến tôn phong hiệu.
8/1467 Sai các Th−ợng th− Lại bộ vμ Lễ Bộ lμ bọn Nguyễn Nh− Đổ đi tế TT:2,427
các thần để trừ sâu lúa.
11/1467 Triệu Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ cho phục chức. Tr−ớc đó, TT:2,429
Nh− Đổ vì việc biên chép ng−ời đ−ợc thuyên bổ không rõ rμng, vệ
Cẩm Y bắt hỏi, bị mất chức, đến đây lại cho phục chức.
11/1467 Hình bộ th−ợng th− Trần Phong xét hỏi việc của Tổng binh Bắc TT:2,429
Bình Lê Hối án xong, định xử theo quân lệnh, vì thấy Hối có công,
xin cho theo luật bát nghị.
12/1467 Quyền Hộ bộ th−ợng th− Nguyễn C− Đạo nói: ấn của Hoμng đế lμ TT:2,430
ấn truyền quốc, nh−ng hai chữ "Thiên Nam" hình nh− hơi mới lạ,
không bằng dùng các chữ "Thuận thiên thừa vận chi bảo" rất hμm
súc, rất có ý nghĩa.
12/1467 Binh bộ th−ợng th− Lê Bá Trù lμm Tả kiểm điểm. TT:2,431

272
12/1467 Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ đ−a 8 ng−ời thế gia thân quen lμ TT:2,431
bọn Nguyễn Thế Mỹ ra để vua chọn. Vua cho rằng họ lμ bọn mới
lên, tμi năng bình th−ờng. Hôm sau lại sai cử 10 ng−ời đang giữ các
chức trong kinh. Thái bảo Lê Niệm cử L−ơng Thế Vinh, Đô đốc
Trịnh Văn Sái cử Hộ khoa cấp sự trung Đặng Thục Giáo, th−ợng
th− Trần Phong cử Th−ợng bảo tự khanh D−ơng Tông Hải, đều lμ
những ng−ời mình biết. Vua xem tờ tầu, phần nhiều lμ những ng−ời
có chức mμ không xứng chức, bèn loại bọ họ tên của bọn L−ơng
Thế Vinh, chỉ để lại Giáo thụ Nguyễn Nhân Tuỳ, Huyện quan Đinh
Bô C−ơng trong diện xét chọn vμ phê rằng:
"Lục bộ, Lục khoa vμ Ngự sử đμi mμ tiến cử bậy thì chịu tội giáng
hay bãi chức. Nếu tiến cử đ−ợc ng−ời giỏi thì nhất định sẽ đ−ợc
trọng th−ởng". Sai nội quan đ−a cho đình thần xem, không ai không
kinh hãi vì vua xét ng−ời rất sáng suốt.
12/1467 Dời Hình bộ vμ Đại Lý tự ra ngoμi thμnh. TT:2,431
12/1467 Cho Lang trung Nguyễn T−ờng, Lê Đình Tuấn, Tri huyện Nguyễn TT:2,432
Nhân Thiếp, Đμo Thuấn Cử, Viên ngoại lang Phạm Nh− Lam, Tấu
sứ Trần Quý Huyên đều đ−ợc vμo đọc sách tại Bí th− giám, vì thi đỗ
khoa Hoμnh từ.
12/1467 Vua sai Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ chọn lấy những ng−ời TT:2,432
nhân
hậu, khoan thứ, sáng suốt, công bằng ở các nha môn trong ngoμi, để
thay bọn Hình bộ lang trung, Viên ngoại Phạm Nại, Đμm Văn
Thông. Bấy giờ, hình án có nhiều vụ xử oan, th−ờng có đơn kêu lên
triều đình. Vua chán ghét bọn đó, cho nên có lệnh nμy.
6/1468 Ra sắc chỉ cho Lễ bộ bμn định quy cách giấy tờ trong dân gian để TT:2,434
ban hμnh trong cả n−ớc.
7/1468 Dụ Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ rằng: Khoảng năm Thái TT:2,434
Hoμ, cả một Hình bộ chỉ có hai viên đại phu, xét án kiện trong n−ớc,
nhiều vụ đề ứ đọng. Năm tr−ớc, ta đặt mỗi hình [ty] 3 hoặc 4 viên,
tại sao nay lại chỉ đặt mỗi hình [ty] 2 viên thôi? Lại bộ các ng−ời
phải chọn ngay lấy các quan viên nhμn rỗi trong hay ngoμi triều, ai
lμ ng−ời vừa cứng cỏi, vừa mềm dẻo, có tμi xử án xét kiện thì đặt
mỗi ty lấy 3 viên ngoại.
8/1468 Dụ bọn Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ rằng: "Bọn ng−ơi cố xin TT:2,434
lấy giáo thụ lμm quan huyện, thế lμ kế gian đã nảy sinh đó. Giáo thụ
phải giữ chức lâu năm để đμo tạo nhân tμi có hiệu quả, thế mμ dám
xin đổi lμm chức khác, tội ấy không nhỏ".
9/1468 Dụ Hộ bộ th−ợng th− Nguyễn C− Đạo rằng: "Ta khi còn ít tuổi lμm TT:2,435
bạn với ng−ơi, khi lên ngôi báu thì ng−ời lμm quan Kinh diên. Về
mặt thần hạ, ng−ơi với ta lμ ng−ời tri kỷ lμ bạn học thức. Về mặt
vua tôi, ng−ơi với ta lμ duyên cá n−ớc, lμ hội gió mây. Ng−ơi hãy
hết lòng hợp sức gắng gỏi lo báo đền ơn n−ớc, chí công vô t−, để
cho dứt hẳn tệ hối lộ. Đ−ợc nh− thế, thì ta đ−ợc tiếng lμ bậc vua
hiểu ng−ời, ng−ơi đ−ợc tiếng lμ bề tôi tận trung, cha mẹ vinh hiển,
danh tiếng vẻ vang, sáng ngời trong sử sách, nh− thế chẳng đáng vui
sao? Nếu không đ−ợc nh− vậy, thì ta lμ ông vua không biết ng−ời,
mμ ng−ơi lμ bề tôi để lμm vì, trong hai điều ấy, ng−ơi chọn đằng
nμo thì chọn".
1/1469 Ra sắc chỉ rằng quan viên có tội, nếu đã giμ thì bắt về lμm dân, theo TT:2,436

273
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
lời tâu của Hình bộ th−ợng th− Trần Phong.
2/1469 Vua ngự cửa Kính Thiên, thân hμnh ra đề văn sách, hỏi về đạo trị TT:2,436
n−ớc để lấy hiền sĩ. Sai… nguyên Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh−
Đổ lμm đề điệu; Đại lý tự khanh quyền Hình bộ hữu thị lang D−ơng
Chấp Trung lμm giám thị…
7/1469 Vua dụ Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ rằng: "Ng−ời nhiều lần TT:2,438
xin bảo lĩnh cho Lê Bốc lμm Tổng tri, nh−ng Bốc lại có bệnh trúng
phong, chậm chạp, yếu đuối, không kham nổi việc, ng−ơi thực lμ tên
gian lại".
12/1469 Lấy Lê Cảnh Diệu lμm Hộ bộ th−ợng th−. TT:2,438
11/1470 Sai Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Nh− Đổ tế đền Đinh Tiên Hoμng. TT:2,446
7/1471 Định lệ ban xuống thể thức bản đồ, văn khế. Ngμy thi hμnh bắt đầu TT:2,452
từ
mồng 10 tháng giêng năm nay. Sau ngμy ấy mμ ai ch−a tuân theo thì
cho lμ không hợp lệ, đó lμ theo lời tâu của Hộ bộ th−ợng th− kiêm
thái tử thái bảo Lê Cảnh Huy. Ban bố thể thức văn khế đã đ−ợc
chuẩn y.
7/1471 Sai Thái bảo Hộ bộ th−ợng th− kiêm thái tử thái bảo Lê Cảnh Huy TT:2,452
mang kim sách lập hoμng tử thứ 5 lμ Tân lμm Kiến V−ơng.
9/1471 Hiệu định Hoμng triều quan chế… Gọi lính, lấy quân, lμ việc của TT:2,453-
đốc phủ mμ Binh bộ phải năm chung; chi ra, thu vμo lμ chức của Hộ 454
bộ mμ Hộ khoa phri giúp đỡ. Lại bộ thăng bổ lầm ng−ời thì Lại
khoa đ−ợc phép bác bỏ. Lễ bộ nghi chế không hợp lệ thì Lễ khoa có
quyền hặc tâu. Hình khoa xem xét công việc xử án của Hình bộ phải
trái nh− thế nμo; công khoả kiểm điểm quá trình lμm việc của Công
bộ siêng năng hay l−ời biếng.
4/1472 Vua ngự ra hiên, tự mình ra đề văn sách hỏi về đế v−ơng trị thiên hạ. TT:2,459
Vua sai Thái bảo Binh bộ th−ợng th− kiêm thái tử thái bảo Kiến
D−ơng bá Lê Cảnh Huy vμ Thông ch−ơng đại phu tả xuân ph−ờng
tả thứ tử kiêm Lại bộ th−ợng th− Trần Xác lμm hai viên đề điệu…
9/1472 Ra sắc chỉ răn bảo các quan Đô đốc năm phủ vμ Th−ợng th− sáu bộ TT:2,460
rằng: Sau buổi chầu, đều phải đến nha môn của mình, coi xét hết
thảy việc công; các liêu thuộc d−ới quyền phải đến đủ để hầu bẩm
tr−ởng quan, không đ−ợc tự tiện bỏ về. Nếu cấp d−ới đến chậm hay
vắng thiếu thì tr−ởng quan phải nêu tên tâu lên.
12/1472 Lấy Đμo Tuấn lμm Binh bộ th−ợng th−. TT:2,460
2/1473 Có việc ở tẩm lăng, sai Công bộ th−ợng th− Phạm Du đến tế ở miếu TT:2,461
Hoằng Hữu. Đến tối, trời m−a gió to.
6/1474 Giết Hμ Nghiễm… Bấy giờ Lại bộ th−ợng th− Hoμng Nhân Thiêm, TT:2,464
Thị lang Hμ Nghiễm, Trần Tuân hay lấy ng−ời lμm quan nơi xa
chuyển bổ về chỗ gần gũi, thuận tiện, lấy ng−ời ở nơi n−ớc độc
chuyển bổ về nơi đất tốt, nên mới sai Vũ Nhân Hoμ đem bọn Hoμng
Nhân Thiêm, Hμ Nghiễm, Trần Tuân đến hỏi.
10/1474 Lấy Trịnh Công Đán lμm Binh bộ th−ợng th−. TT:2,465
11/1477 Vua sai Binh bộ tả thị lang Trần Trung Lập… sang nhμ Minh tiến TT:2,469
cống.
11/1478 Định lệnh tuyển bổ quan viên các ty ở Hình bộ. TT:2,472
11/1478 Ra sắc chỉ cho đ−ờng quan Hình bộ, Công bộ bằng xét kỹ quan các TT:2,472
ty, có quan viên d−ới quyền mình…
12/1478 Lấy Trịnh Công Ngô lμm Hộ bộ th−ợng th−. TT:2,473

274
9/1479 Ra sắc chỉ cho các đô đốc của năm phủ vμ th−ợng th− của sáu bộ TT:2,478
rằng: Khi tan chầu lui ra, tr−ởng quan vμ liêu thuộc bên d−ới nếu tự
tiện về nhμ thì xử tội giáng chức.
5/1480 Hộ bộ th−ợng th− Lê Đoan Chi dâng lời bμn: Các quan phủ huyện TT:2,480
tuy lμm xong việc thuế khoá, nh−ng nếu trông nom việc đắp đê lμm
đ−ờng không chăm, những lúc rỗi việc nông mμ ch−a hoμn thμnh,
để trở ngại tới thu hoạch, thì đến kỳ khảo khoá, sẽ không đ−ợc thực
chức vμ thăng cấp, để răn những kẻ coi th−ờng việc dân.
8/1480 Binh bộ tả thị lang Trung Lập, Hμn lâm kiểm thảo Lê Tuấn Ngạn, TT:2,482
Phan Quý vâng mệnh đi sứ nhμ Minh trở về, nhân tiện mang theo
sắc văn của vua Minh về.
10/1481 Lấy Nguyễn Bá Ký lμm Lại bộ th−ợng th−. (Nguyễn Bá Ký ng−ời TT:2,485
Chí Linh).
10/1482 Lấy Lê Ninh lμm Hộ bộ tả thị lang. TT:2,486
5/1483 Bọn Lễ bộ th−ợng th− Lâm Giang bá Lê Hoằng Dục tâu rằng: Có TT:2,487
sắc chỉ sai chiếu số học trò của Thừa tuyên sứ ty các xứ nhiều hay ít
mμ liệu định ngμy vμo thi.
4/1484 Lễ bộ th−ợng th− Quách Đình Bảo bμn rằng…. TT:2,490
5/1484 Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Bá Ký tâu rằng: Các quan viên có việc TT:2,491
mμ Hình bộ xét hỏi, có viên nμo can phạm phải trị tội, thì lập tức
phải vâng lệnh đòi lại sắc mệnh cũ vμ khám hợp rồi trao về Lại bộ
tâu nộp.
12/1485 Lấy Lê Đoan Chi lμm Binh bộ th−ợng th−; Lê Công Nh−ợng lμm TT:2,497
Lễ bộ th−ợng th−; Quách Đình Bảo lμm Hình bộ th−ợng th−…; Lê
Quảng Chi lμ Lễ bộ tả thị lang kiêm Hμn lâm viện ch−ởng viện sự.
9/1486 Ra sắc chỉ rằng: Ng−ời nμo dự khảo thi để miễn duyệt tuyển vμ các TT:2,501
hạng con cháu quan viên, quân sắc, th− toán do Xã tr−ởng bản xã
đến Lễ bộ lμm giấy cam đoan nhận mặt, đến ngμy thi, sáng sớm đ−a
đơn vμo cửa Bảo Khánh để chỉ dẫn rồi mới cho vμo tr−ờng thi. Đó
lμ theo lời tâu của Lễ bộ tả thị lang kiêm Kim quan môn đãi chiếu
Vũ Hữu.
10/1486 Sai bọn Lễ bộ th−ợng th− Lê Năng Nh−ợng, Phạm Phúc Chiến, TT:2,501
Quách Liễn sang tiến cống nhμ Minh.
11/1486 Lấy Lê Đoan Chi lμm Hộ bộ th−ợng th− Tá Quốc hầu, Nguyễn Nh− TT:2,501
Đổ lμm Lại bộ th−ợng th− kiêm Quốc tử giám tế tửu.
1/1489 Định lệ bảo cử ty quan của Hình bộ. Ra sắc chỉ rằng: Việc hình ngục TT:2,505-
quan hệ không nhỏ, quan xét xử phải chọn cẩn thận. Từ nay, chức 506
Lang
trung, Viên ngoại ở Hình bộ có khuyết viên nμo, thì Lại bộ lμm bản
tâu lên, trong kinh thì đ−ờng quan Lục bộ, Ngự sử đμi vμ Lục tự
khanh; bên ngoμi thì các quan hai ty Thừa, Hiến cùng nhau bảo cử
ng−ời mình quen biết vμ các quan phụ trách các nha môn đã trải qua
hai lần khảo khoá trở lên, lμ ng−ời liêm khiết, từng trải, am hiểu
hình danh thì Lục bộ lμm 1 bản, hai ty Thừa, Hiến bản xứ, mỗi ty
lμm 1 bản, khai ghi họ tên của ng−ời đ−ợc bảo cử cho rõ rμng, lμm
bản tâu lên, nếu đ−ợc chỉ chuẩn y thì giao cho Lại bộ thuyên bổ.
Ng−ời nμo dám vì tình riêng hay tiền bạc mμ bảo cử không đúng, thì
Lục khoa vμ Giám sát ngự sử điều tra sự thực, tâu hặc lên sẽ theo
đúng luật trị tội.
4/1490 Sai Binh bộ th−ợng th− Định Công bá Trịnh Công Đán vμ Hình bộ TT:2,508

275
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
th−ợng th− Lê Năng Nh−ợng lμm đề điệu… Lại bộ th−ợng th−
Nguyễn Bá Ký lμm độc quyển.
5/1490 Binh bộ th−ợng th− Định Công bá Trịnh Công Đán bμn rằng: Ty thị TT:2,508
vệ của vệ Cẩm y khi vμo sổ thì ở d−ới các ty Tráng sĩ, Canh phiên
vμ Xá nhân.
11/1491 Sai Đề hình giám sát ngự sử kiểm xét quan lại ở Hình bộ, ng−ời nμo TT:2,510
mắc tội l−ời biếng, gian tham, buông tuồng, phóng túng, thì lμm bản
tâu lên, theo luật mμ trị tội.
11/1491 Lấy Nguyễn Xung Xác lμm Hμn lâm viện thị độc ch−ởng Hμn lâm TT:2,510
viện sự kiêm Lễ bộ thượng thư.
12/1492 Lấy Lê Cảnh Huy lμm Hộ bộ th−ợng th−. TT:2,511
4/1493 Sai Binh bộ th−ợng th− Định Công bá Trịnh Công Đán vμ Ngự sử TT:2,512
đμi đô ngự sử Quách Hữu Nghiêm lμm đề điệu…
11/1495 Sai sứ sang nhμ Minh. Bọn Công bộ hữu thị lang Lê Hán Đình vμ TT:2,512
Hμn lâm viện thị th− Vũ D−ơng đi tuế cống…
3/1496 Sai…. Hộ bộ tả thị lang Nguyễn Hoằng Thạc… lμm giám thí… TT:2,514
5/1496 Bọn Lại bộ th−ợng th− kiêm Quốc tử giám tế tửu Lê Nhuận vμ TT:2,515
Nguyễn Nh− Đổ tâu đề bản rằng…
2/1497 Sai Hộ bộ nghị bμn tăng thêm thuế của các hộ lấy đồng để đủ dùng TT:2,524
việc quân.
10/1497 Bọn Hộ bộ th−ợng th− Ngạc Hối vâng theo nghị định mới, định lệ TT:2,526
cấp tiền l−ơng.
3/1498 Vua sai … Lễ bộ th−ợng th− kiêm Đông các đại học sĩ Đμm Văn Lễ TT:3,8-9
… soạn văn bia.
8/1498 Ra sắc dụ cho Hình bộ, Đình uý ty vμ các quan xét xử án kiện trong TT:3,10
ngoμi rằng: Việc dùng hình ngục quan hệ tới sinh mệnh của dân, xử
đúng đạo thì dân thoả lòng, xử trái đạo thì dân chịu hại… Kể từ nay
về sau, Hình bộ, Đình uý ty vμ các quan xét xử án kiện trong ngoμi,
hễ thấy những án nμo còn ngờ, khó xử, cũng đều phải theo đúng kỳ
hạn mμ xét xử cho xong. Nếu có ai dám để chậm trễ quá kỳ hạn, thì
đến cuối mỗi năm, quan phụ trách cùng Hình bộ, Đề hình giám sát
ngự sử, Thanh hình hiến sát sứ ty phải kiểm tra tâu hặc lên để trị tội
theo pháp luật. Nếu lấy tình riêng dung túng, không biết tra xét tâu
lên, thì cho ng−ời có việc kêu lên, đ−ờng quan ngự sử đμi vμ thể sát
xá nhân xét thực lμm bản tâu lên để trị tội. Các quan kể trên không
chịu lμm đúng lý thì cho ng−ời bị hại tâu rõ thực tình sẽ trị tội họ
theo luật pháp.
10/1498 Bọn Lễ bộ th−ợng th− Vũ Hữu tâu rằng… TT:3,11
6/1499 Sắc cho bọn Lại bộ th−ợng th− Trần Cận rằng: ỷ vμo phép n−ớc mμ TT:3,15
đục khoét lμ thói tệ của bọn lại, th−ờng xuyên sa thải lμ quy chế của
quốc gia. Tr−ớc đây, lựa chọn không công bằng, bọn lại quá nhiều,
rất nhũng tạp. Có kẻ ăn may, chỉ một nghề lμ đ−ợc bổ dụng, có kẻ
nhờ cậy nhiều ngón, mong đ−ợc chỗ hơn, hối lộ công khai, thăng
quan v−ợt cấp. Lại còn có kẻ không viết nổi bản thảo tờ tâu, phải bỏ
tiền thuê ng−ời viết hộ. Cũng có kẻ không chép nổi sách, chỉ mánh
khoé để kiếm miếng. Bệnh trong tim óc, năm tháng đã lâu. Muốn
cho trị giáo trở lại thuần hậu, mμ cứ để lũ tiểu nhân đầy đ−ờng, tắc
lối thì không thể lμm đ−ợc. Ng−ơi phải gửi công văn cho các nha
môn trong ngoμi các xứ trong n−ớc, hạn trong ba tháng, các quan
phụ trách phải lμm bản tâu rõ ng−ời nμo thanh liêm, chính trực, kẻ

276
nμo gian tham, ngu dốt, cùng những ng−ời giμ ốm, hèn yếu, thì cho
về hết thảy, theo nh−
lệnh mμ thải ra. Lại chọn con em nhμ l−ơng thiện, có xã tr−ởng bảo
đảm, nếu khai gian thì trị tội chết mới cho vμo thi mμ bổ dụng.
7/1499 Sai … Lại bộ th−ợng th− Trần Cận lμm đề điệu; Hình bộ th−ợng th− TT:3,16
Đinh Bô C−ơng lμm giám thí…
8/1499 Công bộ th−ợng th− Trần Bảo dâng bản tâu. Có thánh chỉ rằng bản TT:3,18
tâu của các nha môn vμ của dân chúng đều quỳ dâng ở ngoμi cửa
Nam Huân vμ đ−ợc tiếp nhận nh− tr−ớc.
8/1499 Công bộ th−ợng th− Trần bảo tâu bμn lại việc xoá bỏ thói tệ của lại TT:3,18
điển ở các quân sở.
9/1499 Bọn Binh bộ th−ợng th− Nguyễn Phùng Thì tâu bμn về việc các tội TT:3,18
tù ở biệt sở Tuyên Quang.
9/1499 Lễ bộ tâu về việc th−ờng triều phục… TT:3,18
9/1499 Binh bộ th−ợng th− Nguyễn Phùng Thì tâu rằng: Từ nay trở đi, các TT:3,18-
lực sĩ, dũng sĩ, võ sĩ, ng−ời nμo bị ốm nặng về quê điều trị 10 ngμy, 19
khi khỏi bệnh phải lμm đơn nộp ở Binh bộ, rồi trao cho trung quan
vμ các quan ở khoa, đμi hiệp đồng xét nghiệm, nếu đúng lμ sức vóc
còn tráng kiện thì tâu cho trở lại chân lực sĩ, dũng sĩ, võ sĩ ở vệ ty
cũ, nếu không thì sung vμo quân Điện tiền. Vua theo lời tâu.
10/1499 Định lệ khảo khoá. Ra sắc dụ bọn Lại bộ th−ợng th− Trần Cận, Lại TT:3,19
khoa đô cấp sự trung Lê Tung rằng…
12/1499 Vua sai Binh bộ th−ợng th− Cống Xuyên bá Lê Năng Nh−ợng…, TT:3,21
Hình bộ tả thị lang Nguyễn Khắc Cung…, Hình bộ hữu thị lang Bùi
Nguyên Đạo…, Công bộ hữu thị lang Lê Nhạc…, Công bộ hữu thị
lang Nguyễn Giản…, Hộ bộ hữu thị lang Trần Sùng Dĩnh… ứng tiếp
bọn L−ơng Trừ, Từ Ngọc theo nh− lệ cũ.
1/1500 Vua sai sứ sang nhμ Minh. Hình bộ tả thị lang Nguyễn Duy Trinh… TT:3,22
1/1500 Hộ bộ th−ợng th− Trịnh Quý Tuân tâu lời nghị bμn rằng: Tiền sai d− TT:3,23
về kỳ đại tập quân lính trong tháng ấy phải nộp đủ.
1/1500 Lấy Đμo Thuấn lμm Hộ bộ th−ợng th− kiêm tri Sùng Văn quán Tú TT:3,23
Lâm cục.
4/1500 Hộ bộ tả thị lang Nguyễn Đức Quảng dâng lời tâu rằng… TT:3,24
1/1501 Lấy Dương Trực Nguyên lμm Công bộ hữu thị lang. TT:3,25
11/1501 Vua sai Lại bộ tả thị lang Nguyễn Úc sang tuế cống nhμ Minh. TT:3,27
11/1501 Binh bộ th−ợng th− Nguyễn Hoằng Thạc tâu rằng… Các tráng sĩ coi TT:3,27
việc đi bắt, nếu không đ−ợc thăng bổ thì th−ởng t− cho ngang với lại
viên ở các nha môn không kém. Vua y theo.
1/1502 Lấy Hình bộ hữu thị lang D−ơng Trực Nguyên lμm Binh bộ tả thị TT:3,28
lang, Nguyễn Quan Hiền lμm hình bộ hữu thị lang.
2/1502 Vua sai…Hộ bộ th−ợng th− Vũ Hữu lμm đề điệu; Binh bộ tả thị TT:3,29
lang D−ơng Trực Nguyên…; Lễ bộ th−ợng th− Tả Xuân ph−ờng
hữu dụ đức kiêm Đông các đại học sĩ Đμm Văn Lễ…, Lễ bộ tả thị
lang kiêm Đông các học sĩ Lê Ngạn Tuấn đọc quyển thi.
4/1502 Hình bộ tả thị lang Nguyễn Quang Hiền dâng lời tâu rằng: "Thần TT:3,29
kính vâng sắc chỉ nói rằng: kể từ nay, các hạng lính vμ thợ, theo lệ
đ−ợc cho
về lμm mùa, thì cứ đến phiên tháng 5, tháng 6 vμ tháng 10, tháng
11, đều đ−ợc chia một nửa cho về lμm ruộng, không đ−ợc chia xen
kẽ mùa thu, mùa hạ. Nh− thế, thần Nguyễn Quan Hiền trộm xét:

277
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Năm tr−ớc, phiên tháng 6, tháng 10, ngục tốt ở ty Ngũ hình đều
đ−ợc ngừng việc đòi bắt án ngục, phiên tháng 5, tháng 11 năm nay,
các hạng lính vμ thợ đã chia về lμm ruộng, mμ ngục tốt các sở ngục
của ty Ngũ hình vẫn tạm phải ở lại đi đòi bắt án ngục, ch−a đ−ợc xét
đến. Thần kính cẩn tâu lên, cúi mong thánh th−ợng dạy bảo". Vua y
theo.
8/1502 Lấy Đỗ Nhân lμm Lễ bộ hữu thị lang. TT:3,30
11/1502 Lấy D−ơng Trực Nguyên lμm Lễ bộ tả thị lang. TT:3,30
1/1503 Lại sai Binh bộ th−ợng th− Tăng Dật phụng sao thánh chỉ cấp riêng TT:3,32
cho Quách Hữu Nghiêm một chiếc thuyền đi nhanh, kính theo lệnh
nμy.
2/1503 Lễ bộ th−ợng th− Vũ Hữu tâu rằng: Hμng năm, cứ đến kỳ đại tập TT:3,33
quân sĩ, khi nộp tiền sai d− vμ tiền giμ ốm, thì phải khai đầy đủ họ
tên những ng−ời phải nộp các khoản tiền nói trên vμ số tiền thực đã
nộp, số ng−ời đã nộp giao cho Hộ bộ theo đó mμ thu nhận.
4/1503 Lễ bộ tả thị lang D−ơng Trực Nguyên tâu xin đắp dê bên sông Tô TT:3,33
Lịch, trên từ xã Trát Kiều xuống đến xã Cống Xuyên để phòng lụt,
hạn, lμm lợi cho nghề nông, lại xin đμo cừ Yên Phúc xuống đến cừ
Th−ợng Phúc để t−ới n−ớc cho ruộng dân.
12/1503 Lấy Lễ bộ tả thị lang D−ơng Trực Nguyên kiêm việc Hμn lâm viện. TT:3,34
11/1504 Sai sứ sang nhμ Minh. Bọn Lại bộ tả thị lang Đặng Tán… đi tuế TT:3,36
cống; bọn Binh bộ hữu thị lang Nguyễn Lân… đi báo tang; bọn Lễ
bộ hữu thị lang Nguyễn Bảo Khuê… đi cầu phong.
5/1505 Lấy D−ơng Trực Nguyên lμm Hộ bộ tả thị lang kiêm coi Chiêu Văn TT:3,40
quán.
6/1505 Biếm bọn Lễ bộ th−ợng th− Đμm Văn Lễ, Ngự sử đμi đô ngự sử TT:3,40
Nguyễn Quang Bật vμo Quảng Nam, rồi giết đi.
4/1506 Khởi phục Đỗ Nhân lμm Lễ bộ hữu thị lang, Hμn lâm viện thị độc, TT:3,41
Tham ch−ởng Hμn lâm viện sự, vì Nhân về nghỉ tang mẹ vừa hết
trở.
12/1506 Sai Binh bộ th−ợng th− Nguyễn Quang Mỹ… lμm đề điệu… TT:3,41
11/1507 Sai sứ sang nhμ Minh. Bọn Hộ bộ tả thị lang D−ơng Trực Nguyên TT:3,42-
mừng Vũ Tông lên ngôi; bọn Công bộ hữu thị lang Nguyễn Thọ…, 43
tạ ơn sang viếng…
6/1508 Hộ bộ tả thị lang D−ơng Trực Nguyên từ nhμ Minh trở về, vua ban TT:3,44
hốt ngμ vμ đai bạc cho ông.
12/1509 Truy tôn mẹ lμ Trịnh thị lμm Huy Từ Trang Huệ Kiến Hoμng thái TT:3,51
hậu. Sai Điện tiền đô kiểm điểm Thụy D−ơng hậu Trịnh Hựu lμm
Sơn lăng sứ, Hộ bộ th−ợng th− Trịnh Duy Đại lμm phó… Sai Lễ bộ
tả thị lang Hμn lâm viện thị độc ch−ởng Hμn lâm viện sự L−ơng
Đắc Bằng soạn bi ký.
12/1509 Lấy Ngô Hoán lμm Tán trị thừa tuyên sứ ty thừa tuyên sứ Thanh TT:3,51
Hoa, ít lâu sau, trao chức Lại bộ th−ợng th−.
1/1510 Lấy… Hộ bộ Th−ợng th− Trịnh Duy Đại lμm Văn quận công…, TT:3,52-
Tổng binh thiêm sự Thanh Hoa Nguyễn Bá Tuấn (đổi tên lμ Bá 53
Thuyên) lμm Lễ bộ th−ợng th−, Do Lễ bá; Thừa tuyên sứ Thanh
Hoa Lê Tung lμm Lại bộ th−ợng th−, Đôn Th− bá; Đμm Thận Huy
lμm Hình bộ th−ợng th−; Hμn lâm viện thị độc tham ch−ởng Hμn
lâm viện sự L−ơng Đắc Bằng lμm Lại bộ tả thị lang.
2/1510 Vua sai sang nhμ Minh. Hình bộ th−ợng th− Đμm Thận Huy…, TT:3,53

278
sang tâu việc; Lễ bộ tả thị lang Nguyễn Quýnh… sang cầu phong.
2/1510 Lấy Đông các học sĩ Đỗ Nhân lμm Hộ bộ tả thị lang, đổi tên Nhân TT:3,53
thμnh Nhạc, để tránh tên hiệu của vua lμ Nhân Hải.
10/1510 Lấy Hộ bộ tả thị lang Đỗ Nhạc lμm Đông các đại học sĩ, nhập thị TT:3,54
kinh diên. Khởi phục Lại bộ tả thị lang L−ơng Đắc Bằng kiêm Đông
các học sĩ, nhập thị kinh diên [nh−ng Đắc Bằng] cố từ chối không
nhận. Nhân đó, Đắc Bằng dâng lên 14 kế sách trị bình… … Vua
nghe theo.
12/1510 Do Lễ bá Nguyễn Thuyên lμm phụng trực đại phu, Lễ bộ th−ợng TT:3,57
th−; Trình Chí Sâm lμm phụng trực đại phu, Công bộ th−ợng th−;
Vũ Quỳnh lμm Triều liệt đại phu, Binh bộ th−ợng th−; Phạm Hạo
lμm gia hμnh đại phu, Hộ bộ tả thị lang; Đặng Minh Khiêm lμm
Triều liệt đại phu, Lại bộ tả thị lang; Lê Đĩnh Chi lμm Hộ bộ hữu thị
lang.
3/1511 Sai … Công bộ th−ợng th− Trình Chí Sâm lμm tri cống cử; Hộ bộ tả TT:3,58
thị lang Phạm Hạo vμ Lại bộ tả thị lang Đặng Minh Khiêm lμm
giám thí; Lễ bộ th−ợng th− Nguyễn Bá Thuyên; Th−ợng th− Đông
các đại học sĩ nhập thị kinh diên Đỗ Nhạc lμm độc quyển.
4/1511 Binh bộ th−ợng th−, Quốc tử giám t− nghiệp kiêm sử quan đô tổng TT:3,58
tμi Vũ Quỳnh (ng−ời xã Mộ Trạch, huyện Đ−ờng Yên) dâng bộ Đại
Việt thông giám thông khảo…
5/1511 Gia phong… Uy quốc công Nguyễn Bá Lâm lμm Công bộ th−ợng TT:3,61
th− tr−ởng bộ sự, tri Hiển Phúc điện; Đμm Thuận Huy lμm Lại bộ
th−ợng th−, tri Chiêu Văn quán Tú lâm cục; Lê Tán T−ơng lμm
Công bộ hữu thị lang.
11/1511 Vua sai Hộ bộ hữu thị lang Lê Đĩnh Chi, cùng các quan khoa, đμi đi TT:3,61
khám xét các phố xá hμng chợ.
3/1512 Gia phong Lê Tung lμm Thiếu bảo Lễ bộ th−ợng th−, Đông các đại TT:3,64
học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu, Tri kinh diên sự, Đôn Th− bá.
1/1513 Gia phong Nguyễn Mậu lμm Hộ bộ th−ợng th− tri Chiêu Văn quán TT:3,70
Tú lâm cục, Cẩn Lễ nam.
2/1513 Vua sai Lễ bộ hữu thị lang Nguyễn Trang…, sang nhμ Minh tạ ơn TT:3,70
sách phong vμ tạ ơn ban mũ áo.
2/1513 Lấy Tiền kim quang môn đãi chiếu Nguyễn Huệ lμm Lễ bộ tả thị TT:3,70
lang hμnh Kim quang môn đãi chiếu, tri Th−ợng bảo giám các cục.
9/1513 Sai Công bộ th−ợng th− ch−ởng bộ sự, tri Hiển Phúc điện Uy quận TT:3,71
công Nguyễn Bá Lân trông coi việc dựng bia, Thiếu bảo Lễ bộ
th−ợng th−, Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu tri kinh
diên sự Đôn Th− bá Lê Tung soạn bi ký…
10/1513 Sai Binh bộ hữu thị lang Nguyễn Trọng Quỳ…, sang tuế cống nhμ TT:3,71
Minh.
10/1513 Gia phong Nguyễn Lữ lμm Hộ bộ th−ợng th− Quỳnh Nham hầu. TT:3,71
4/1514 Sai … Lại bộ th−ợng th− tri Chiêu Văn quán Tú lâm cục Đμm Thận TT:3,72
Huy, Công bộ hữu thị lang Lê Tán T−ơng, Thiếu bảo Lễ bộ th−ợng
th− Do Lễ bá Nguyễn Bá Thuyên, Hộ bộ th−ợng th− tri Chiêu Văn
quán Tú lâm cục Cẩn Lễ nam Đoμn Mậu, Thiếu bảo Lễ bộ th−ợng
th− Đông các đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu tri kinh diên sự
Đôn Th− bá Lê Tung, Hộ bộ th−ợng th− Đông các đại học sĩ nhập
thị kinh diên Đỗ Nhạc chia nhau trông coi việc thi.
9/1514 Sai thiếu bảo Lễ bộ th−ợng th− kiêm Đông các đại học sĩ, kiêm TT:3,73

279
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Quốc tử giám tế tửu tri kinh diên sự Đôn Th− bá Lê Tung soạn bμi
Đại Việt thông giám tổng luận.
12/1514 Bọn Lễ bộ th−ợng th− ch−ởng bộ sự, Phò mã đô uý H−ng quận công TT:3,73
Nguyễn Trinh tâu rằng: Bản kê sách lễ tập viết vμ sách vở cùng một
thoi mực cho Phúc quốc tr−ởng công chúa có nên do Ngự dụng
giám lμm danh sách hay không, vμ xin chiếu phát thêm lễ vật để
bμy bμn thờ bảy chục vị học trò [của Khổng Tử]. (Dùng 80 bμn độc,
18 vòng h−ơng đen, 18 bó bạch mộc h−ơng nhỏ, 20 cây nến, 20 lạng
chè, 1 cân dầu, 1 lạng thảo vong, thịt h−ơu muối, thịt h−ơu khô, d−a
muối, lúa sớm, quả táo, rau cần, đậu xanh mỗi thứ 8 mâm, 2 chĩnh
r−ợu, 36 bó củi, đến ngμy thì lμm lễ. Vở thì dùng thứ giấy ph−ơng
chỉ nh− giấy viết châm).
12/1514 Lấy Trần Sùng Dĩnh lμm Hộ bộ th−ợng th−. TT:3,73
2/1515 Lấy Công bộ hữu thị lang Lê Tán T−ơng lμm quyền Lại bộ hữu thị TT:3,74
lang.
1/1517 Sai Lễ bộ th−ợng th− Đμm Thận Huy hiệu định miếu huý vμ ngự TT:3,81
danh (miếu huý 20 chữ, ngự danh lμ hai chữ ỷ vμ Huệ ). Những khi
lμm văn hay viết sách để khắc in sách đều không cấm, nh−ng khi
đọc thì đều phải tránh, hai chữ liền nhau nh− loại "Tr−ng Tại"3 đều
không đ−ợc viết.
11/1517 Lấy Đỗ Nhạc lμm Lại bộ th−ợng th− kiêm Đông các đại học sĩ nhập TT:3,83
thị kinh diên.
12/1517 Lấy Lê Sạn lμm Hộ bộ th−ợng thư. TT:3,86
7/1518 Lấy Lại bộ th−ợng th− Đỗ Nhạc lμm Ngự sử đμi đô ngự sử kiêm TT:3,89
Đông các đại học sĩ, nhập thị kinh diên.
7/1518 Lấy Lê Sạn lμm Lại bộ th−ợng th−. TT:3,89
10/1518 Lấy Đμm Thận Huy lμm Thiếu bảo, Lễ bộ th−ợng th− nhập thị kinh TT:3,91
diên.
10/1518 Sai Lại bộ th−ợng th− Lê Sạn dụ tế cố Đô ngự sử Đỗ Nhạc, vμ ban TT:3,91
100 quan tiền điếu viếng.
9/1519 Lấy Đông các học sĩ Nguyễn Quý Nhã lμm Lại bộ tả thị lang. TT:3,93
1/1520 Lấy Vũ Duệ lμm thiếu bảo, Lại bộ th−ợng th− kiêm Đông các đại TT:3,93
học sĩ nhập thị kinh diên.
1/1520 Lấy Lại bộ tả thị lang Nguyễn Quý Nhã lμm Ngự sử đài đô ngự sử. TT:3,93
4/1520 Sai Lễ bộ Th−ợng th− kiêm sử quan phó tổng tμi tri Chiêu Văn quán TT:3,93
Tú lâm cục Đặng Minh Khiêm biên soạn Đại Việt lịch đại sử ký.
4/1520 Ban phong Thiếu bảo Lại bộ th−ợng th− kiêm Đông các đại học sĩ TT:3,93
nhập thị kinh diên, Vũ Duệ lμm Trinh ý công thần.
8/1520 Lấy Nguyễn Quý Nhã lμm Lại bộ th−ợng th− bồi thị kinh diên. TT:3,94
1/1521 Lấy Phạm Khiêm Bính lμm Lễ bộ th−ợng th− tham dự triều chính. TT:3,94
4/1521 Dựng bia tiến sĩ khoa Giáp Tuất năm Hồng Thuận thứ 6. Sai Thiếu TT:3,94
bảo Lại bộ th−ợng th− Đông các đại học sĩ nhập thị kinh diên Vũ
Duệ soạn bμi ký…
9/1421 Đặc cách sai thiếu bảo Binh bộ th−ợng th− Cẩm Sơn hầu Lê Thúc TT:3,95-
Hựu, t− lễ giám tổng thái giám kiêm tμi dụng khố sự Ngô Khoái, tả 96
thị lang Đông các đại học sĩ Nguyễn Quýnh mang sắc dụ đến uý lạo
khanh vμ t−ớng sĩ các doanh, lại có 100 lạng bạc giao cho khanh,
tuỳ nghi ban th−ởng cho những ng−ời có công.
3/1523 Lễ bộ th−ợng th− Đinh Trinh tâu xin ban dụ tế vμ gia phong các đền TT:3,103
thờ thần ở các nơi đã đ−ợc ghi ở Tự điển gồm 113 đền.

280
8/1523 Lấy Đông các đại học sĩ Nguyễn Quý Nhã lμm Lại bộ tả thị lang. TT:3,103
12/1525 Duy có Phạm Khiêm Bính ra yết kiến (Mạc Đăng Dung) tr−ớc, bị TT:3,105
truất lμm Hộ bộ hữu thị lang.
8/1526 Ngμy mồng 6, lấy Ngự sử đμi phó đô ngự sử Nguyễn Quý Nhã lμm TT:3,106
Lại bộ th−ơng th− bồi thị kinh diên.
6/1527 Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai vμo Kinh, bắt vua phải nh−ờng ngôi. TT:3,108
Bấy giờ, thần dân trong Kinh đều theo Mạc Đăng Dung vμ đều đón
Đăng Dung vμo Kinh. Ngμy 15, các quan đã đứng vμo ban chầu vẫn
ch−a có chiếu nh−ờng ngôi. Các quan bảo Lại bộ th−ợng th−
Tr−ơng Phu Duyệt khởi thảo. Phu Duyệt trừng mắt mắng rằng: "Thế
lμ nghĩa gì?".

1. Thời Lê - Trịnh:
Năm Sự kiện Tài liệu
dẫn
1/1556 Lấy Thái bảo Quảng quận công Phạm Đốc lμm Binh bộ thượng th− TT:3,127
ch−ởng bộ sự
1/1567 Lấy Lại bộ th−ợng th− kiêm Ngự sử đμi đô ngự sử Tr−ơng Quốc TT:3,138
Hoa lμm Thiếu phó Văn Khê hầu.
8/1570 Bọn Lại bộ th−ợng th− Từ quận công Nguyễn Đĩnh… TT:3,141
4/1593 Lại bộ th−ợng th− Nguyễn Mậu Tuyên lμm thiếu phó Quỳnh quận TT:3,184
công
1/1596 Hộ bộ th−ợng th− kiêm Đông các học sĩ Thông quận công Đỗ TT:3,194
Uông…
4/1597 Sai Công bộ Tả thị lang Phùng Khắc Khoan lμm chánh sứ sang nhà TT:3,196
Thanh
10/1598 Sai Binh bộ hữu thị lang Nguyễn Vỹ lμm quan đốc thị TT:3,202
12/1598 Lấy Hộ bộ th−ợng th− Thông quận công Đỗ Uông lμm thiếu bảo TT:3,203
2/1599 Lại bộ hữu thị lang Nguyễn Hoμnh Từ…. Công bộ tả thị lang Phùng TT:3,205
Khắc Khoan lμm Lại bộ tả thị lang, phong Mai Lĩnh hầu.
5/1600 Xa giá đến Thanh Hoa… Quan Thái bảo, Th−ợng th− bộ Hộ lμ Đỗ TT:3,308
Uông can ngăn, xin l−u lại ở kinh đô. Khi xa giá đã đi rồi, ông bị
loạn binh giết chết.
5/1600 Cho Tả thị lang bộ Hộ, t−ớc Bμng Phú tử Bùi Khắc Nhất lμm TT:3,308
Th−ợng th− bộ hộ, t−ớc Văn Phú bá, gia phong lμ Hiệp m− tán lý
công thần
5/1600 Vì thấy Hồng lô tự khanh L−ơng Trí lμ ng−ời có học vấn, đạo đức, TT:3,308
cân nhắc lên lμm Hữu thị lang bộ Lễ
12/1601 Thăng cho Đô ngự sử Văn Trinh bá Lê Trạc Tú lμm Th−ợng th− bộ TT:3,312
Lại, t−ớc Văn D−ơng hầu, phong lμm Hiệp m−u tá lý công thần
2/1602 Thăng Th−ợng th− bộ Lễ, t−ớc Mai Lĩnh hầu lμ Phùng Khắc Khoan TT:3,312
lμm Th−ợng th− bộ Hộ, t−ớc Mai quận công
4/1602 Cho Hữu thị lang bộ Lại t−ớc Văn Thuần nam lμ L−ơng Chí bồi hầu TT:3,312
kinh diên
2/1604 Gọi Ký lục trấn Thanh Hoa, Hữu thị lang bộ Hình lμ Ngô Trí Hoμ TT:3,313
về, cho lμm Tả thị lang bộ Lại. Cho Tự khanh Nguyễn Thực lμm
Hữu thị lang bộ Lễ
11/1607 Đồng bình ch−ơng sự tham dự triều chính thái tể Vinh quốc công TT:3,314

281
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
Hoμng Đình ái mất…. Sai Tả thị lang bộ Lễ lμ Nguyễn Lễ soạn bμi
bia thần đạo để ghi lại công lao của ông
12/1608 Bμn công đi sứ, cho Phú Lộc bá Ngô Trí Hoμ lμm Th−ợng th− bộ TT:3,314
Hộ, Diễn Gia hầu Lê Bật Tứ lμm Tả thị lang bộ Hộ. Cho Nguyễn
Thực lμm Tả thị lang bộ Lễ. Nguyễn Danh Thế lμm Hữu thị lang bộ
Lại, Nguyễn Khắc Khoan lμm Hữu thị lang bộ Công. Họ đều đ−ợc
t−ớc tử
10/1610 Hộ bộ tả thị lang Diễn Gia hầu Lê Bật Tứ TT:3,214
9/1613 Th−ợng th− bộ Hộ lμ Mai quận công Phùng Khắc Khoan mất. Khắc TT:3,316
Khoan tính ng−ời c−ơng nghị, tinh anh, hầu trong mμn tr−ờng lâu
dμi, có tμi tổng hợp chọn lựa, từ ch−ơng sâu rộng thanh cao. Có thi
tập l−u hμnh ở đời. Mất năm 86 tuổi, tặng hμm Thái phó
1/1614 Th−ợng th− bộ Binh trí sĩ lại gọi ra lμm việc t−ớc Văn Phong hầu TT:3,317
Bùi Bỉnh Uyên mất, thọ 95 tuổi, tặng Thiếu bảo, ban thụy lμ Cung ý
2/1615 Các quan triều đ−ờng lμ bọn Th−ợng th− bộ Hình Mỹ Khê hầu TT:3,317
Nguyễn Lễ dâng khải trình bμy các việc tệ hại đ−ơng thời gồm 8
điều. Chúa khen ngợi vμ chấp nhận, đặc biệt ban th−ởng rất hậu.
8/1615 Hình bộ th−ợng th− kiêm Đông các học sĩ Mỹ Khê hầu Nguyễn Lễ… TT:3,216
2/1616 Lấy Lại bộ hữu thị lang Xuân D−ơng bá Nguyễn Danh Thế lμm Hộ TT:3,216
bộ tả thị lang; Công bộ hữu thị lang Lễ Xuyên bá Nguyễn Khắc
Khoan lμm Hình bộ tả thị lang; Lại bμn công đi sứ, thăng tự khanh
Nhân Lĩnh bá L−u Đình Chất lμm Lại bộ hữu thị lang; Phúc Nham
bá Nguyễn Đăng lμm Hộ bộ hữu thị lang, đều gia t−ớc hầu.
9/1616 Hộ bộ tả thị lang Diễn Gia hầu Lê Bật Tứ vμ Lại bộ hữu thị lang TT:3,217
Nhân Lĩnh hầu L−u Đình Chất…
7/1617 Gia phong Lại bộ th−ợng th− ch−ởng lục bộ sự kiêm Ngự sử đμi đô TT:3,217
ngự sử Lễ quận công Nguyễn Văn Giai lμm thiếu phó.
2/1618 Đốc thị Lễ bộ tả thị lang Ph−ơng Lan hầu Nguyễn Thực TT:3,218
3/1618 Lấy Hình bộ tả thị lang Lễ Xuyên bá Nguyễn Khắc Khoan lμm đốc TT:3,218
thị
10/1618 Lại bộ tả thị lang Phú Xuân hầu Ngô Trí Hoμ, Hộ bộ tả thị lang Diễn TT:3,219
Gia hầu Lê Bật Tứ…. Lại bộ hữu thị lang Nhân Lĩnh hầu L−u Đình
Chất
12/1618 Cho Tả thị lang bộ Binh lμ Nguyễn Danh Thế lμ Đô ngự sử, Tả thị TT:3,321
lang bộ Lễ Nguyễn Thực lμm Th−ợng th− bộ Hình
7/1620 Cho Lê Bật Tứ lμm Th−ợng th− bộ Binh TT:3,324
8/1623 Sai Tham tụng th−ợng th− bộ Binh lμ Lê Bật Tứ vμ Thái bảo Bùi Sĩ TT:3,327
Lâm đi Thanh Hoa r−ớc xe vua
10/1623 Lấy Đô ngự sử Nguyễn Danh Thế lμm Th−ợng th− bộ Công, gia TT:3,327
hμm lμ Dực vận tán trị công thần, phong lμ Thụy D−ơng hầu. Cho
Tả thị lang bộ Hộ L−u Đình Chất lμm Đô ngự sử, Hữu thị lang bộ
Hộ lμ Nguyễn Duy Thì lμm Tả thị lang bộ Hộ, đều t−ớc hầu
11/1624 Đặc sai Th−ợng th− bộ Lại ch−ởng lục bộ sự, kiêm Ngự sử đμi đô TT:3,328
ngự sử thiếu phó Lễ quận công Nguyễn Văn Giai mang kim sách tiến
phong mμ Nguyên soái thống quốc chính Thanh Đô V−ơng
11/1625 Thiếu bảo Th−ợng th− bộ Hộ Phú Xuân hầu Ngô Trí Hoμ mất, tặng TT:3,329
t−ớc Xuân quận công.
1/1626 Thăng Nguyễn Danh Thế lên Thiếu phó, Th−ợng th− bộ Hình, sai TT:3,329
ông cùng Thái bảo Lỵ quận công khám xử các việc kiện cáo trong
n−ớc

282
4/1627 Th−ợng th− bộ Hộ, Thiếu phó Lộc quận công L−u Đình Chất mất, TT:3,331
tặng hμm Thiếu s−
10/1627 Binh bộ th−ợng th−, Thiếu phó Diễn Gia hầu Lê Bật Tứ chết TT:3,227
1/1628 Lại bộ th−ợng th− kiêm ch−ởng các bộ sự, kiêm Ngự sử đμi đô ngự TT:3,228
sử, thái phó, Lễ quận công Nguyễn Văn Giai chết
10/1630 Công bộ th−ợng th− Tuyền quận công Nguyễn Duy Thì TT:3,229
2/1632 Sai bọn Lễ bộ th−ợng th−, Thiếu uý Lan quận công Nguyễn Thực TT:3,232
cầm phù tiết, mang sách vμng…
2/1632 Nguyễn Hắc, Nguyễn Khải đều lμm Thái phó. Lúc đó Khải đã đổi TT:3,336
sang chức Th−ợng th− bộ Binh
3/1632 Cho bọn Lễ bộ Th−ợng Th− Lan quận công Nguyễn Thực, Binh bộ TT:3,232
th−ợng th− Nguyễn Khải đều lấy danh nghĩa quốc lão tham dự triều
chính
4/1632 Tả, Hữu thị lang bộ Lại lμ Nguyễn Tuấn, Nguyễn Lại bị bãi (Lại lμ TT:3,336
ng−ời xã Bột Th−ợng, huyện Hoằng Hoá). Bọn Tuấn tuyển bổ các
chức phần nhiều nhũng lạm. Nguyễn Lại thì nhận nhiều của đút. Có
câu ca dao rằng: "Các chức bị viên, l−ỡng Bột tận điền" (nghĩa lμ:
các chức mμ bổ cho đủ ng−ời thì hai lμng Bột hết ruộng).
4/1632 Thăng Lễ bộ th−ợng th− kiêm Hμn lâm viện thị độc ch−ởng Hμn lâm TT:3,233
viện sự, Đông các học sĩ, quốc lão tham dự triều chính, Thiếu uý Lan
quận công Nguyễn Thực lμm thái bảo; Công bộ th−ợng th− kiêm
Quốc tử giám t− nghiệp Tuyền quận công Nguyễn Duy Thì lμm
thiếu phó
5/1632 Bảo cử Hộ bộ tả thị lang Mai Khê hầu Nguyễn Tiến Dụng lμm Lại TT:3,233
bộ tả thị lang.. Bèn cho Phó đô ngự sử Trần Vỹ lμm Lại bộ tả thị
lang; Lễ bộ hữu thị lang Đỗ Khắc Kính lμm Lại bộ hữu thị lang; Lại
khoa đô cấp sự trung Nguyễn Duy Hiểu lμm thiêm đô ngự sử.
3/1634 Thăng Lễ bộ th−ợng th− kiêm hμn lâm viện thị độc, ch−ởng hμn lâm TT:3,235
viện sự, Đông các học sĩ quốc lão tham dự triều chính; Thái bảo
Lang quận công Nguyễn Thực thăng Hộ bộ th−ợng th− thái phó, trí
sĩ.
8/1634 Gia thăng Nguyễn Thực hμm Thái phó chức Th−ợng th− bộ Hộ về TT:3,338
trí sĩ. Bấy giờ ông đã 80 tuổi. Từ khi Trung H−ng đến nay, mang
chức Th−ợng th− về trí sĩ bắt đầu từ Nguyễn Thực.
3/1638 Cho Tả thị lang bộ Lễ lμ Trần Hữu Lễ lμm Tả thị lang bộ Lại TT:3,339
4/1639 Sai Công bộ th−ợng th−, Thiếu phó Tuyền quận công Nguyễn Duy TT:3,236
Thì…
5/1642 Tả thị lang bộ Hộ kiêm Huy Văn viện thiêm sự Nhân quận công TT:3,341
Doãn Hy về trí sĩ, thăng Thiếu bảo. Sau Hy mất, tặng lμ Th−ợng th−
bộ Công (Hy ng−ời xã Cổ Định huyện Nông Cống)
9/1642 Binh bộ hữu thị lang Nguyễn Trừng lμm tán lý;, Công bộ hữu thị TT:3,237
lang Nguyễn Bình lμm tán lý
9/1642 Cho Nguyễn Duy Thì lμm Th−ợng th− bộ Binh TT:3,341
9/1643 Cho Hộ bộ thị tả thị lang kiêm Huy văn viện thiêm sự Thiếu phó TT:3,237
Nhân quận công Doãn Hy về trí sĩ
5/1647 Sai Lễ bộ Th−ợng th− Thiếu bảo D−ơng quận công Nguyễn Nghi TT:3,240
cùng với bọn Hộ bộ tả thị lang Nguyễn Thọ Xuân…
9/1651 Lại bộ th−ợng th− ch−ởng lục bộ sự kiêm Quốc tử giám tế tửu, Hμn TT:3,241
lâm viện thị độc, ch−ởng Hμn lâm viện sự, Thái phó Tuyền quận
công Nguyễn Duy Thì chết, tặng Thái tể, ban thụy hiệu lμ Hμnh Độ.

283
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
8/1652 Đặc sai Lễ bộ th−ợng th− tri kinh diên s−, kiêm Quốc tử giám tế tửu, TT:3,243
Thiếu bảo D−ơng quận công Nguyễn Nghi, cầm phù tiết…
6/1655 Bồi tụng Lại bộ tả thị lang Diễn Thọ bá Nguyễn Văn Trạc lμm đốc TT:3,245
thị
10/1655 Lấy Lại bộ hữu thị lang Thọ Lâm nam D−ơng Hồ lμm đốc thị.. TT:3,246
2/1656 Tham tụng th−ợng th− bộ Binh lμ Liêm quân công Đặng Thế Khoa TT:3,343
mất. Thế Khoa có văn học, m−u trí, giữ mình thanh liêm kiệm −ớc,
cửa nhμ không mảy may... (mất một chữ). Thọ 64 tuổi tặng Thiếu
bảo, gia phong lμ Phúc thần
5/1656 Đốc thị D−ơng Hồ lμm Công bộ tả thị lang Thọ Lâm bá TT:3,247
9/1657 Lại bộ th−ợng th− tri kinh diên sự kiêm Quốc tử giám tế tửu Thiếu TT:3,250
phó D−ơng quận công Nguyễn Nghi chết, tặng thái phó, ban thụy
hiệu lμ Cung ý.
9/1659 Đặc sai đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Công bộ th−ợng th− Dĩnh TT:3,253
Xuyên hầu Nguyễn Hậu Quyến cầm phù tiết mang sách vàng…
12/1660 Đặc sai Tham tụng Lễ bộ th−ợng th− Yên quận công Phạm Công Trứ TT:3,258
cầm phù tiết, mang sách vμng
4/1661 Phan Kiêm Toμn lμm Lại bộ hữu thị lang Thụy quận công TT:3,258
6/1661 Gia phong Hộ bộ th−ợng th− kiêm Hμn lâm viện thị giảng ch−ởng TT:3,259
Hμn lâm viện sự Thiếu bảo Bạt quận công D−ơng Trí Trạch lμm Lại
bộ th−ợng th− quốc lão thái bảo cho về trí sĩ.
5/1662 Sai Tham tụng Lễ bộ th−ợng th− kiêm Đông các đại học sĩ thiếu bảo TT:3,260
Yên quận công Phạm Công Trứ trông coi dân tạo lệ của Quốc tử
giám để phục dịch
3/1664 Lấy Nguyễn Nhuận lμm Hình bộ tả thị lang, Nguyễn Quốc Khôi lμm TT:3,268
Hình bộ Hữu thị lang
4/1664 Bồi tụng Lễ bộ tả thị lang Phong Lộc tử Ngô Tuấn TT:3,268
6/1664 Lấy Nguyễn Năng Thiệu lμm Lại bộ tả thị lan TT:3,269
11/1664 Đặt đủ viên số th−ợng th− sáu bộ. Lấy Tham tụng Phạm Công trứ TT:3,270
lμm Lại bộ th−ợng th−, Bồi tụng Trần Đăng Tuyển lμm Hộ bộ
th−ợng th−, Nguyễn Năng Thiệu lμm Lễ bộ th−ợng th−, Vũ Duy Chí
lμm Binh bộ th−ợng th−, Phan Kiêm Toμn lμm Hình bộ th−ợng
th−…. Lấy Lễ bộ hữu thị lang Ph−ơng Quế bá Lê Hiệu lμm Công bộ
th−ợng th−, thăng t−ớc hầu; Quốc tử giám t− nghiệp Diên Lộc tử
D−ơng Hạo lμm Công bộ tả thị lang, thăng t−ớc bá; Hình khoa đô
cấp sự trung Nghĩa Lĩnh nam Đồng Tồn Trạch lμm Hộ bộ hữu thị
lang, thăng t−ớc tử. Lại thấy Nguyễn Thế Tân, thông hiểu tiếng
ph−ơng Bắc, theo sứ thần lμm đ−ợc việc, thăng lμm tham chính xứ
Kinh Bắc, t−ớc bá.
3/1665 Lấy Hμn lâm viện thị giảng Đặng Công Chất lμm Công bộ hữu thị TT:3,271
lang
4/1665 Lễ bộ tả thị lang Từ Liêm hầu Nguyễn Khả Trạc vì tuổi giμ xin trí sĩ TT:3,272
vua y cho. Gia thăng Công bộ th−ợng th− Từ quận công , lại cấp cho
điều lộc để d−ỡng giμ
7/1665 Lễ bộ tả thị lang Phong Lộc tử Ngô Tuấn tuổi 70, xin về trí sĩ. TT:3,272
11/1665 Giáng Hộ bộ th−ợng th− Xuyên quận công Trần Đăng Tuyển lμm TT:3,272
Hộ bộ tả thị lang; Lễ bộ th−ợng th− D−ơng quận công Nguyễn Năng
Thiệu lμm Lễ bộ tả thị lang; Lại bộ tả thị lang Đạo Giang tử Nguyễn
Tông Lễ lμm Lễ bộ hữu thị lang; Đô ngự sử Quế Hải hầu Lê Sĩ Triệt
lμm Hình bộ tả thị lang; Phó đô ngự sử Lệ Hải tử Vũ Vịnh Tiến lμm

284
thái bộc tự khanh; Thiêm đô ngự sử Cảo Xuyên nam Trịnh Thì Tế
lμm Hồng lô tự khanh; Hình bộ th−ợng th− Thụy Xuyên nam Trịnh
Thì Tế lμm Hồng lô tự khanh; Hình bộ th−ợng th− Thụy quận công
Phan Kiêm Toμn lμm hộ bộ hữu thị lang, vì bọn Đăng Tuyển lμm
ngự sử khi tr−ớc vμ bọn sĩ triệt đ−ơng lμm ngự sử xét việc kiện tụng
bỏ chậm quá kỳ hạn, mμ Kiêm Toμn giữ bộ lại tr−ớc đã thuyên bổ
v−ợt cấp. Tr−ớc đó, Công Kiêm con Lại bộ th−ợng th− Phạm Công
Trứ từ chức tham nghị đ−ợc tham chính, triều thần cho lμ không
đ−ợc, rủ nhau cố ngăn. V−ơng không bằng lòng, lập tức sai Công trứ
vμ Lê Hiệu tra xét công việc các ty đã lμm, cho nên đều bị giáng
truất.
12/1665 Gia thăng Binh bộ hữu thị lang Nhuận Duệ tử Hồ Sĩ D−ơng t−ớc bá, TT:3,273
vì nhiều lần lên cửa quan đợi mệnh tiếp sứ thần đ−ợc việc… Lấy Hộ
bộ hữu thị lang Nghĩa Lĩnh tử Đồng Tồn Trạch lμm Công bộ tả thị
lang.
12/1666 Cho Thừa chính sử xứ Yên Quảng Thuần Lễ bá Nguyễn Vỹ thăng TT:3,275
Công bộ hữu thị lang, t−ớc hầu, về trí sĩ
4/1667 Gia phong Binh bộ th−ợng th− Ph−ơng Lĩnh hầu Vũ Duy Chí t−ớc TT:3,267
Ph−ơng quận công, Hộ bộ tả thị lang Nghĩa Xá hầu Bùi Đĩnh t−ớc
Nghĩa quận công, vì hai ng−ời theo hầu lâu ngμy từ khi V−ơng còn ở
tiềm để nhiều lần đi đánh dẹp có công.
5/1667 Sai Binh bộ hữu thị lang Nhuận Duệ bá Hồ Sĩ D−ơng, Đông các học TT:3,267
sĩ Bùi Đình Viên lên cửa quan đợi mệnh.
9/1667 Lấy bọn Lễ bộ tả thị lang D−ơng quận công Nguyễn Năng Thiệu, TT:3,277
Hình bộ tả thị lang Quế Hải hầu Lê Sĩ Triệt, Công bộ tả thị lang Diên
Lộc bá D−ơng Hạo, Binh bộ hữu thị lang Nhuận Duệ bá Hồ Sĩ
D−ơng
4/1668 Đặc sai đặc tiến kim tứ Vinh lộc đại phu bồi tụng Công bộ th−ợng TT:3,278
th− Ph−ơng Quế hầu Lê Hiệu mang sách vμng tấn tôn lμm Đại
nguyên soái ch−ởng quốc chính Th−ợng s− Thái phụ đức công nhân
uy minh thánh Tây V−ơng
6/1668 Binh bộ tả thị lang Diên Lộc bá D−ơng Hạo lμm Lại bộ tả thị lang TT:3,278
8/1668 Lễ bộ tả thị lang D−ơng quận công Nguyễn Năng Thiệu chết TT:3,279
12/1668 Tham tụng lại bộ th−ợng th− kiêm Đông các đại học sĩ Thiếu bảo TT:3,279
Yên quận công Phạm Công Trứ tuổi giμ xin nghĩ việc. V−ơng
th−ợng uý lạo, dụ ở lại. Công Trứ khẩn thiết cố xin, V−ơng mới cho,
gia thăng quốc lão thái bảo tham dự triều chính trí sĩ.
5/1669 Lấy Vũ Duy Chí lμm lễ bộ th−ợng th−, Trần Đăng Tuyển lμm binh TT:3,290
bộ th−ợng th−, Lê Hiệu lμm hình bộ th−ợng th−, đều gia thăng tham
tụng tể t−ớng… Lấy Bùi Đĩnh lμm Công bộ th−ợng th−… Nguyễn
Tông Lễ lμm Hộ bộ tả thị lang, Phan Kiêm Toμn lμm Hình bộ tả thị
lang, Đặng Công Chấp lμm Lại bộ hữu thị lang, Nguyễn Mậu Tμi
lμm Hộ bộ hữu thị lang… Xét công đi sứ. Lấy Nguyễn Quốc Khôi
lμm Lễ bộ tả thị lang Ngọc Trì tử, Nguyễn Công Bích lμm Hình bộ
hữu thị lang Gia X−ơng nam
8/1669 Lấy Hồ Sĩ D−ơng lμm Lại bộ hữu thị lang TT:3,281
11/1669 Lấy Nguyên Danh Thực lμm Binh bộ hữu thị lang. TT:3,283
4/1670 Sai bọn Lễ bộ tả thị lang Nguyễn Quốc Khôi, Lại bộ hữu thị lang TT:3,284
Đặng Công Chất vμo hầu kinh diên.
6/1670 Sai thiếu uý Hμo quận công Lê Thì Hiến lμm thống suất, Lại bộ hữu TT:3,284

285
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
thị lang Nhuận Duệ hầu Hồ Sĩ D−ơng lμm đốc thị đem quân đi dẹp
miền Tuyên Quang
7/1670 Tặng Công bộ th−ợng th− Phái quận công Nguyễn Đạo An lμm thiếu TT:3,284
bảo, để nhớ lại công chầu hầu giảng học khi V−ơng còn ở tiềm để
4/1671 Binh bộ th−ợng th− Dĩnh quận công Nguyễn Đễ về trí sĩ, gia thăng TT:3,285
thiếu bảo. Khi ấy Dĩnh đã 78 tuổi.
9/1771 Sai bọn Binh bộ tả thị lang Lê Sĩ Triệt vμ lại bộ Hữu thị lang Đặng TT:3,286
Công Chất khảo xét các nha môn trong ngoμi. Bấy giờ Đồng Tồn
Trách một mình lμm đô ngự sử khám xét kiện tụng có nhiều án để
quá kỳ hạn vì thế bị bãi chức.
3/1672 Lấy D−ơng Hạo lμm Ngự sử đμi đô ngự sử, Nguyễn Tông Lễ lμm TT:3,288
Lại bộ tả thị lang
6/1672 Công bộ th−ợng th− Thiếu bảo Cẩm quận công trí sĩ Nguyễn Hậu TT:3,288
Quyến chết, thọ 95 tuổi, gia tặng Hộ bộ th−ợng th−, ban thụy hiệu lμ
Văn Đẩu
12/1672 Sai… Bồi tụng Binh bộ tả thị lang Quế Hải hầu Lê Sĩ Triệt lμm đốc TT:3,290
thị, Bồi tụng binh bộ hữu thị lang Hải Sơn nam Nguyễn Danh Thực
lμm phó đốc thị, khống chế biên thuỳ, giữ yên dân một ph−ơng.
3/1673 Lấy Phan Kiêm Toμn lμm Lại bộ tả thị lang, Nguyễn Quốc Khôi lμm TT:3,291
Hộ bộ tả thị lang, Phạm Chất lμm phó đô ngự sử. Thân Toμn lμm Lại
bộ hữu thị lang, Lê Vinh lμm Hộ bộ hữu thị lang, Nguyễn Đình
Chính lμm Lễ bộ hữu thị lang, Vũ L−ơng lμm Hình bộ hữu thị lang,
Bùi Đình Viên lμ Công bộ hữu thị lang… Lấy Đồng Tồn Trạch lμm
Binh bộ hữu thị lang. Tr−ớc đó, Tồn Trạch giữ Ngự sử đμi, xét kiện
để chậm quá hạn, bị bãi chức, đến đây lại dùng.
7/1673 Khởi phục Tham tụng Lại bộ th−ợng th− kiêm Đông các đại học sĩ TT:3,291
quốc lão tham dự triều chính Thái bảo Yên quận công trí sĩ Phạm
Công Trứ vμo triều giữ việc sáu bộ, tham tán cơ vụ.
12/1673 Bãi chức t−ớc của bọn tham tụng tể t−ớng Hình bộ th−ợng th− TT:3,292
Ph−ơng Quế hầu Lê Hiệu vμ Đông các hiệu th− Mai Lâm tử Tr−ơng
Luận Đạo. Giáng Lại bộ tả thị lang Thụy quân công Phan Kiên Toμn
lμm Thái th−ờng tự khanh, t−ớc hầu, Binh bộ tả thị lang Quế Hải hầu
Lê Sĩ Triệt lμm Hiến sát sứ xứ Lạng Sơn, t−ớc bá, vì bọn họ tự tiện
cho sắc chỉ vμ cấp bằng phê cho lại điển các nha môn lμm việc có
chỗ thêm bớt.
12/1673 Lấy Nguyễn Quốc Khôi lμm Lại bổ tả thị lang, Nguyễn Viết Thứ TT:3,292
lμm Lại khoa đô cấp sự trung.
12/1673 Tham tụng tể t−ớng Binh bộ th−ợng th− Xuyên quận công Trần TT:3,292
Đăng Tuyển chết.
12/1673 Bồi tụng Binh bộ th−ợng th− Thiếu bảo Dĩnh quận công trí sĩ TT:3,292
Nguyễn Đễ chết, tặng Hộ bộ th−ợng th−, thiếu phó, ban thụy hiệu lμ
Huệ Ngu (Đễ ng−ời Hoμ Tr−ờng huyện Ngọc Sơn).
5/1674 Bồi tụng Lại bộ tả thị lang Liên Trì tử Nguyễn Quốc Hôi chết TT:3,294
5/1674 Lấy Lê Hiệu lμm Binh bộ tả thị lang. Phan Kiêm Toμn lμm Hình bộ TT:3,294
tả thị lang, Lê Sĩ Triệt lμm Công bộ tả thị lang. Tr−ớc đó, bọn Hiệu
vì can việc phải giáng bãi. Đến đây đ−ợc dùng.
7/1674 Đặc sai đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu tham tụng Lại bộ th−ợng TT:3,294
th− kiêm Đông các đại học sĩ quốc lão tham dự triều chính ch−ởng
Lục bộ sự Thái bảo Yên quận công Phạm Công Trứ mang sách vμng
ấn ngọc tấn phong lμm Nguyên soái điển quốc chính Định Nam

286
V−ơng, vinh ban ngọc báu, mở rộng ấp phong.
12/1674 bọn Lại bộ hữu thị lang Thân Toμn bổ nhiệm các chức trong ngoμi TT:3,296
đến 1.239 viên danh.
12/1674 Quy định công việc của sáu bộ: Bộ Lại giữ các việc quan t−ớc, TT:3,296
phong tặng, tuyển bổ khảo xét, thăng giáng vμ các việc bổ sung, chu
cấp. Bộ Hội giữ các việc đất đai, nhân dân, kho tμng, tiền tệ, l−ơng
thực, vận chuyển vμ các việc bổng lộc, thuế khoá, cống nộp, muối
mắm, gang sắt. Bộ Lễ giữ các việc lễ nghi, cũng tế chúc tụng, yến
ẩm, học đ−ờng, các nghi thức về áo mục, ấn phù, ch−ơng biểu, cống
sứ, triều cận, kiêm coi các việc về thiên văn, thuốc men, bói toán, vμ
tăng đạo, giáo ph−ờng, đồng văn, nhã nhạc. Bộ Binh giữ các việc
binh nhung, cấm vệ, xe ngựa, nghi tr−ợng, khí giới vμ các việc về
biên c−ơng, trấn thủ, nhμ trạm, nơi hiểm yếu, việc khẩn cấp. Bộ
Hình giữ các việc luật lệnh, hình pháp, xét xử ngục tụng, xử tội về
ngũ hình1. Bộ Công giữ các việc về thμnh trì, cấu cống, đ−ờng sá,
việc thổ mộc, thuyền thợ vμ các công việc về xây dựng, sửa chữa,
các điều cấm về núi rừng, v−ờn t−ợc, sông chằm.
4/1675 Lấy Nguyễn Mậu Tμi lμm Hình bộ th−ợng th−, t−ớc tử, Hồ Sĩ TT:3,296
D−ơng lμm Công bộ th−ợng th−, t−ớc quận công; Đμo Công Chính
lμm Hình bộ hữu thị lang, Vũ Công Đạo lμm Công bộ hữu thị lang,
đều t−ớc nam; Vũ Duy Hμi lμm Đông các đại học sĩ, t−ớc tử.
7/1675 Lấy Vũ Duy Chí lμm Hộ bộ th−ợng th−, Nguyễn Mậu Tμi lμm Binh TT:3,297
bộ th−ợng th−, Thân Toμn lμm Ngự sử đμi đô ngự sử, Đặng Công
Chất lμm Lại bộ tả thị lang, Lê Vinh lμm Hộ bộ tả thị lang, Nguyễn
Công Bích lμm Lễ bộ tả thị lang, Đồng Tồn Trạch lμm Công bộ tả
thị lang, Nguyễn Danh Thực lμm Lại bộ hữu thị lang, Vũ Duy Hμi
lμm Binh bộ hữu thị lang, Bùi Đình Viên lμm Hình bộ hữu thị lang.
12/1675 Lại bộ th−ợng th− kiêm Đông các đại học sĩ quốc lão tham dự triều TT:3,298
chính Ch−ởng Lục bộ sự thái bảo Yên quận công Phạm Công Trứ
chết
12/1675 Lấy Phạm Chất lμm Hình bộ tả thị lang TT:3,298
7/1676 Sai Thượng thư bộ Công Hồ Sĩ Dương coi việc soạn (giám tu) quốc TB,16
sử.
7/1676 Khảo xét thành tích các quan trong kinh ngoài trấn. Đô ngự sử Thân TB,16
Toàn vì khảo xét không đúng sự thực, nên bị biếm xuống làm Tả thị
lang bộ Hộ …
7/1676 Cho Tả thị lang bộ Hình Đào Công Chính làm Hữu thị lang bộ Lại. TB,16
9/1676 Tham tụng Thượng thư bộ Hộ Phương Quận công Vũ Duy Chí về TB,16
hưu (bấy giờ 72 tuổi) được thăng Thượng thư bộ Lại, quốc lão, Thái
phó.
10/1676 Cho Thượng thư bộ Binh Nguyễn Mậu Tài, Thượng thư bộ Công Hồ TB,17
Sĩ Dương đều giữ chức Tham tụng.
1/1681 Tham tụng Thượng thư bộ Hộ Hồ Sĩ Dương chết, được truy tặng TB,21
Thượng thư bộ Hộ, Thiếu Bảo.
8/1682 Biếm Tham tụng Thượng thư Nguyễn Mậu Tài xuống Tả thị lang bộ TB,22-
Hộ. Bấy giờ Tham chính Thanh Hoa Nguyễn Viết Đương dâng khải 23
nói: … Chúa vốn biết Mậu Tài là người thuần cẩn, không phạm lỗi gì
lớn, nhưng Viết Dương là người dám nói, có ý muốn khích lệ trăm
quan, bèn biếm truất Mậu Tài, cất Viết Đương làm làm Bồi tụng Hữu
thị lang bộ Hộ.

287
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
1683 Cho Thượng thư bộ Hộ Đồng Tồn Trạch làm Tham tụng. TB,23
1683 Bãi chức của Thượng thư bộ Công Vũ Duy Đoán và Đô ngự sử Vũ TB,24
Công Đạo
6/1683 Cho Nguyễn Viết Đương làm Tả thị lang bộ Lại TB,26
6/1683 Cho Thượng thư bộ Binh Thân Toàn và Thượng thư bộ Hình Đặng TB,26
Công Chất đều làm Tham tụng
10/1684 Cho Lê Hy làm Tả thị lang bộ Hình TB,28
7/1685 Cho Nguyễn Mậu Tài làm Thượng thư bộ Công TB,29
1/1686 Bồi tụng Hữu thị lang bộ Lại Nguyễn Viết Đương được về hưu với TB,30
chức Tả thị lang bộ Binh.
1686 - Tham tụng Thượng thư bộ Công Nguyễn Mậu Tài lại xin hưu. TB,32
Chúa ưng cho…
1/1691 Lại dùng Cựu Đô ngự sử Vũ Công Đạo, cho làm Hữu thị lang bộ TB,35
Hình. Trước kia Công Đạo vì trái ý chúa, bị bãi chức về. Đến nay
chúa nghĩ đến sự thẳng thắn của [Coong Đạo] lại sai khởi dụng.
1/1691 Cho Nguyễn Danh Thực làm Thượng thư bộ Binh; Nguyễn Viết Thứ TB,36
làm Thượng thư bộ Hình; Trần Đăng Doanh làm Thượng thư bộ
Công; Nguyễn Công Trực làm Đô ngự sử; Nguyễn Quán Nho làm Tả
thị lang bộ Lại; Lê Hy làm Tả thị lang bộ Lễ; Hoàng Công Trí làm
Phó đô ngự sử; Đoàn Tuấn Khoa làm Tả thị lang bộ Binh.
3/1691 Tham tụng Thượng thư bộ Hộ là Nghĩa Lĩnh hầu Đồng Tồn Trạch, TB,36
75 tuổi xin về hưu, ưng cho, gia thăng Thiếu bảo
3/1691 Biếm chức Tả thị lang bộ Lại Trần Thế Vinh làm Đại lý Tự khanh TB,37
4/1691 Trấn thủ Sơn Tây là Thượng thư bộ Công Liêm Quận công Trần TB,37
Đăng Doanh chết, được tặng Thượng thư bộ Hộ, Thiếu Phó…
6/1692 - Ngô Sách Tuân làm Hữu thị lang bộ Công; Giám hộ Lê Bạt Huân, TB,38
Nguyễn Công Ban làm Giám sát ngự sử
6/1692 Cho Vũ Công Đạo làm Hữu thị lang bộ Lại. TB,39
6/1692 Tham tụng Thượng thư bộ Hình là Mai Sơn nam Nguyễn Viết Thứ TB,39
chết, thặng Thượng thư bộ Lại…
12/1692 Cho Nguyễn Quán Nho làm Đô ngự sử, Lê Hy làm Tả thị lang bộ TB,39
Lại.
1693 Tham tụng Thượng thư bộ Binh Nguyễn Danh Thực chết, tặng TB,40
Thượng thư bộ Lại tước Hải Quận công.
12/1693 Cho Thượng thư bộ Binh Nguyễn Quán Nho; Thượng thư bộ Hình TB,41
Lê Hy đều làm Tham tụng.
7/1694 Biếm chức Tả thị lang bộ Lại Nguyễn Danh Nho làm Hữu thị lang TB,41-
bộ Hình; Hữu thị lang bộ Lại Ngô Sách Tuân làm Tham chính Lạng 42
Sơn… Sách Tuân lại tố cáo rằng Tham tụng Lê Hy, khi ở bộ Lại có
tư vị cho con mình là Lê Thuyên và học trò là Tô Hinh, lại cùng Bồi
tụng Nguyễn Quý Đức ngầm làm việc cầu cạnh gửi gắm. Việc đó
đưa xuống các quan văn võ xét bàn, những lời của [Sách Tuân] đều
không đúng sự thực, nên [Sách Tuân] lại bị giáng xuống làm Đô cấp
sự trung.
7/1694 Cho Nguyễn Quý Đức làm Tả thị lang bộ Lại; Nguyễn Đăng Đạo TB,42
làm Hữu thị lang bộ Lại.
8/1696 Biếm Tham tụng Thượng thư bộ Binh Nguyễn Quán Nho xuống Tả TB,44
thị lang bộ Binh. Sau đó lại cho làm Đô ngự sử…
8/1696 Biếm chức Đô ngự sử Nguyễn Quý Đức làm Tả thị lang bộ Binh. TB,44
Quý Đức khi giữ chức Bồi tụng, con em có kẻ nhận hối lộ của người

288
đi kiện, Quý Đức phát giác ra đã đem giải đến và tự trình bày. Nhưng
đình nghị cho rằng Quý Đức xử kiện không thoả đáng, và trình bày
tang vật không đúng thực số, nên biếm xuống ba cấp.
7/1697 Bồi tụng Hữu thị lang Nguyễn Đình Tài chết, tặng Tả thị lang. TB,46
7/1698 Cho Lê Hy làm Thượng thư bộ Binh, tước bá. Biếm truất Hoàng TB,49
Công Chí xuống làm Hữu thị lang bộ Lễ…
12/1698 Cho… Nguyễn Quý Đức làm Tả thị lang bộ Lại, Nguyễn Danh Nho TB,49
làm Hữu thị lang
9/1699 Bồi tụng Hữu thị lang Nguyễn Danh Nho chết, truy tặng Tả thị lang. TB,50
5/1700 Lệnh cho Bồi tụng Tả thị lang bộ Binh Trần Thế Vĩnh vào hầu ở toà TB,51
Kinh diên.
7/1702 Tham tụng Thượng thư bộ Binh Lai Sơn bá Lê Hy chết…, truy tặng TB,53-
Thượng thư bộ Lại, tước Lai Quận công. 54
7/1702 Khôi phục Nguyễn Quán Nho làm Thượng thư bộ Binh. [Trước kia] TB,54
Quán Nho ở địa vị đứng đầu trăm quan bị Lê Hy đưa xuống làm Đài
trưởng 7 năm, đến đây mới được khôi phục chức cũ.
3/1704 Cất nhắc Nguyễn Công Cơ lên làm Hữu thị lang bộ Công. TB,56
3/1707 Cho Tả thị lang bộ Công Hoàng Công Chí làm Tả thị lang bộ Hình; TB,60
Tự khanh Trương Công Giai làm Hữu thị lang bộ Công.
4/1707 Cho Tả thị lang bộ Hình Trần Đình Gián, Nguyễn Đương Bao làm TB,60
Thiêm sai Bồi tụng.
12/1707 Tham tụng Thượng thư bộ Lễ tri Trung thư giám Hương Giang bá TB,61
Nguyễn Quán Nho, 70 tuổi xin trí sĩ. Chúa ưng thuận…
1/1708 Cho Nguyễn Quý Đức làm Thượng thư bộ Hình, tước Tham tụng. TB,61
1/1714 Tham tụng Thượng thư bộ Hình Nguyễn Thế Bá về trí sĩ. TB,68
10/1714 Ban ơn cho các quan văn võ… Đặng Đình Tướng, Nguyễn Quý Đức TB,68
làm Thiếu phó; Nguyễn Đăng Tiến, Nguyễn Đương Bao, Nhữ Đình
Hiền làm Thượng thư; Nguyễn Công Đổng làm Đô ngự sử; bọn
Nguyễn Hành, Nguyễn Danh Dự làm Tả hữu thị lang. Ngoài ra các
người khác đều được thăng chức hơn kém có khác nhau.
3/1716 Bồi tụng Thượng thư bộ Hình Nhữ Đình Hiền chết. Đình Hiền từng TB,71
làm quan ở đài sảnh, có tiếng tốt về chinh sự, dược truy tặng Thượng
thư bộ Lễ.
10/1717 Vời Đốc trấn Cao Bằng là Nguyễn Công Hãng về triều, cho làm Hữu TB,72
thị lang bộ Binh
4/1720 Tham tụng Thượng thư bộ Công Đàm Công Hiệu được thăng lên TB,76
Thượng thư bộ Lễ, tước Quận công, tham dự triều chính trong khi về
trí sĩ. Công Hiệu nắm việc triều chính đã lâu ngày, lại có công giúp
rập vương tử, cho nên được ban ân điển ngang với Quý Đức và Đình
Tướng.
6/1720 Trấn thủ Sơn Tây là Tả thị lang Nguyễn Mại chết. TB,77
6/1720 Ban ân cho các quan văn võ… Thượng thư Nguyễn Công Hãng, TB,77
Nguyễn Công Cơ, Lê Anh Tuấn, Trương Công Giai và Đô ngự sử
Nguyễn Dương Hồ đều được ban tước Quận công. Tả thị lang
Nguyễn Hiệu, Hồ Phi Tích, Phạm Khiêm ích, Tô Thế Huy, Phó đô
ngự sử Nguyễn Huy Nhuận đều được thăng tước hầu…
4/1724 Biếm Thượng thư bộ Hình là Trương Công Khải xuống làm Tả thị TB,96
lang bộ Lại. Và Hữu thị lang bộ Lại Hồ Phi Tích xuống làm Hữu thị
lang bộ Lễ.
11/1725 Biếm Tả thị lang bộ Công là Tô Thế Huy làm Hữu thị lang bộ Công, TB,99

289
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
và Phạm Công Dung làm Thừa chỉ Viện Hàn lâm
4/1726 Thăng sứ thần Phạm Khiêm ích lên làm Tả thị lang bộ Hộ, tước TB,100
Thuật Quận công; Nguyễn Huy Nhuận làm Tả thị lang bộ Hình, tước
Triệu Quận công; Phạm Đình Kính làm Hữu thị lang bộ Binh, tước
Lại Khê hầu.
3/1728 Cho Hữu thị lang bộ Lễ Tạ Đăng Huân kiêm chức Tế tửu, Hữu thị TB,107
lang bộ Hình Nguyễn Trù kiêm chức Tư nghiệp, đều làm học quan
trường Quốc tử giám
1730 Ban ơn cho bách quan:… Nguyễn Công Hãng vẫn làm Thượng thư TB,117
bộ Lại gia Thái tử Thái phó, Lê Anh Tuấn làm Thượng thư bộ Hộ gia
Thái tử Thái bảo, Nguyễn Hiệu làm Thượng thư bộ Binh gia Thiếu
bảo; Hồ Phi Tích làm Thượng thư bộ Công; Phạm Khiêm ích làm Đô
ngự sử, Nguyễn Công Thái làm Phó đô ngự sử, Vũ Công Tể làm
Thiêm đô ngự sử; ngoài ra ai nấy đều được thăng cấp bậc có khác
nhau.
12/1730 Cho Nguyễn Hiệu làm Thượng thư bộ Binh Thiếu bảo, mở doanh TB,119
Trung Tiệp.
1/1732 Thăng Lại Trạch hầu Phạm Đình Kính làm Tả thị lang bộ Hộ. Cảo TB,134
Quận công Tô Thế Huy làm Tả thị lang bộ Công.
5/1732 Biếm chức Tả thị lang bộ Lễ Cảo Quận công là Tô Thế Huy làm TB,136
Thừa chánh sứ An Quảng. Bấy giờ vua đang cư tang, nết xấu ngày
càng rõ. Các bậc đại thần bàn bỏ vua, lập vua khác. Huy vốn giỏi về
chiêm tinh, khi còn ở toà Kinh diên thường dâng sách âm dương cho
vua. Các đại thần bàn rằng Huy là bầy tôi giảng dạy vua mà dựa dẫm
phụ hoạ, không biết giúp vua về đạo đức. Bèn bãi chức.
10/1732 Cho Thượng thư bộ Hộ Tham tụng Điện Quận công Lê Anh Tuấn ra TB,138
làm Đốc trấn hai trấn Lạng Sơn, Thái Nguyên.
4/1733 Thượng thư bộ Binh kiêm Đông các Đại học sĩ Nhập thị Kinh diên, TB,141
đổi chức Đề đốc Thiểu bảo, Thự phủ sự.
8/1733 Thăng Nguyễn Huy Nhuận làm Thượng thư bộ Công; Phan Đình TB,142
Kính làm Đô ngự sử; Đỗ Lệnh Danh làm Tả thị lang bộ Lại; Cao
Huy Trạc làm Tả thị lang bộ Hộ; Nguyễn Huy Thái làm Tả thị lang
bộ Công; Vũ Huy làm Phó đô ngự sử, Nguyễn Kiều làm Thiêm đô
ngự sử.
11/1733 Cho Cao Huy Trạc làm Tả thị lang bộ Lại. TB,142
4/1734 Cho Đoàn Bá Dung làm Đô ngự sử, Nhập thị Bồi tụng; Cao Huy TB,143
Trạc làm Tả thị lang bộ Lại; Nguyễn Trọng Thường làm Hữu thị
lang bộ Hộ; Nguyễn Công Thái làm Hữu thị lang bộ Hình; Vũ Duy
Đôn, Vũ Huy làm Tả thị lang bộ Công, Lê Hữu Kiều làm Phó đô ngự
sử, Nguyễn Phùng Thì làm Thiêm đô ngự sử.
7/1734 Giáng Nguyễn Hiệu làm Thượng thư bộ Hình, thự Thiếu bảo, miễn TB,144
chức Tham tụng…
7/1734 Cho Nguyễn Huy Nhuận làm Thượng thư bộ Lễ, thự Thiếu phó, làm TB,144
Tham tụng phủ liêu.

11/1734 Ban ơn cho văn võ bách quan, gia cho Nguyễn Hiệu làm Thượng thư TB,145
bộ Lại, hàm Thiếu bảo, Phạm Khiêm ích Thượng thư bộ Lễ, Tham
tụng, còn nữa đều thăng chức có bậc.
3/1735 Cho… Tả thị lang bộ Công, Nghĩa Phái hầu Phạm Công Dung làm TB,146
Đốc trấn Lạng Sơn.

290
4/1735 Thượng thư bộ Lại Thiếu bảo Nông Quận công Nguyễn Hiệu chết… TB,148
Sau truy tặng Đại tư đồ, gia phong phúc thần.
2/1736 Thăng Đông các Hiệu thư Nguyễn Vỹ làm Hữu thị lang bộ Hình. Đó TB,149
là cái công cáo hặc Nguyễn Công Hãng.
4/1736 Cho Tham tụng Thượng thư bộ Binh Cao Huy Trạc làm Thượng thư TB,150
bộ Lễ; Bồi tụng Thượng thư bộ Hình Phạm Đình Kính làm Thượng
thư bộ Binh; Đô ngự sử Đoàn Bá Dung làm Thượng thư bộ Hình;
Hữu thị lang bộ Hình Nguyễn Vỹ làm Hữu thị lang bộ Binh; Đông
các Đại học sĩ Nguyễn Đức Anh làm Hữu thị lang bộ Hình.
4/1736 Cho Thượng thư Phạm Đình Kính làm nhập thị Tham tụng. TB,150
1/1737 Đổi bổ Chỉ huy sứ Nguyễn Minh Khiêm làm Tả thị lang bộ Hình, TB,152
Cẩn Thọ bá Nguyễn Đình Cẩn làm Hữu thị lang bộ Lễ…
5/1737 Cho Tả thị lang bộ Lễ Nguyễn Tuấn làm Tả thị lang bộ Binh, Hàn TB,152
lâm Thừa chỉ Lê Hữu Kiều làm Hữu thị lang bộ Công.
5/1737 Cho Huy Quận công Ngô Đình Thạc làm Thượng thư bộ Binh (cùng TB,152
Phạm Khiêm ích đều làm Tham tụng)
5/1737 Tả thị lang kiêm Hữu tư giảng Viêm Lĩnh hầu Nguyễn Tuấn chết, TB,152
truy phong phúc thần.
9/1738 Thượng thư bộ Lại Phạm Khiêm ích từ chức Tham tụng, chỉ còn một TB,153
mình Ngô Đình Thạc làm tướng.
6/1739 Cho Tham tụng Thượng thư bộ Lễ Nhập thi kinh diên Huy Quận TB,156
công Ngô Đình Thạc ra làm Tổng phủ Lạng Sơn.
6/1739 Cho Trịnh Tuệ làm Thượng thư bộ Lại, Tham tụng. Tuệ nóng lòng TB,156
nhoi len về đường sĩ hoạn, Hoàng Công Phụ bày mưu cho đỗ cao.
Không ngờ sau vài năm từ Thượng thư vào làm Tể tướng. Khi đã
nắm chính quyền, thì trong xướng ngoài hoạ, lũ tiểu nhân không còn
né sợ gì nữa, chính quyền phiền toái, thưởng phạt sai trái, trong nước
từ đấy sinh ra lắm chuyện.
7/1739 Cho Nguyễn Công Thái làm Tả thị lang bộ Lại; Dương Lệ làm Tả thị TB,157
lang bộ Lễ; Nguyễn Vỹ làm Tả thị lang bộ Hình, Nguyễn Quý Thân
làm Tả thị lang bộ Binh.
8/1739 Cho Thượng thư bộ Lại (Lễ) Thiếu bảo Thuật Quận công Phạm TB,157
Khiêm ích ra làm Đốc phủ Thanh Hoa. Bồi tụng Thượng thư bộ Hộ
Lam Quận công Cao Huy Trạc làm Đốc đồng.
6/1740 Bồi tụng Thượng thư bộ Hình Trịnh Bá Tướng chết, tặng Thiếu bảo TB,171
7/1740 Thượng thư bộ Hình trí sĩ là Phúc Quận công Nguyễn Đương Hồ TB,172
mất, tặng Thiếu bảo
7/1740 Thượng thư bộ Lễ (Hình) là Phụ Quận công Đoàn Bá Dung mất TB,172
7/1741 Ban bố 6 điều về binh chính. Sai Thượng thư bộ Binh Tham tụng TB,180
Nguyễn Quý Kính làm việc bộ Lại, Kính xin từ, chúa không nghe.
7/1741 Giáng Thượng thư cũ Trịnh Tuệ làm Tế tửu Quốc tử giám, tòng tứ TB,180
phẩm, đoạt tước Quận công…
2/1742 Cho Đốc trấn Cao Bằng Nguyễn Ngọc Huyễn làm Tả thị lang bộ Hộ, TB,187
Hành Tham tụng phủ liêu. Huyễn ở Cao Bằng 7 năm, khéo vỗ về chế
ngự dân, địa phương yên ổn, chúa rất coi trọng, đặc cách phong tước
hầu. Đến đây lại triệu về, bèn vào chính phủ. 184

8/1742 Tham tụng Thượng thư bộ Lại Lăng Quận công Vũ Công Tể mất. TB,190
Tặng Thiếu bảo…
12/1744 Tả thị lang Nguyễn Ngọc Huyễn chết, tặng Thượng thư bộ Công, TB,200

291
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
tước Quận công
2/1745 Cho Thị lang Nhuyễn Đình hầu Trịnh Ngô Dung cùng Hà Tông TB,205
Huân, Nhữ Đình Toản đều giữ chức Hành Tham tụng ở phủ liêu.
6/1745 Thượng thư Đào Hoàng Thực lấy cớ tuổi già, xin từ các ban thứ của TB,205
triều đình, chỉ lấy đạ vị Ngũ Lão giữ việc chầu trực. Chúa ưng cho.
8/1750 Sứ thần Nguyễn Tông Quai từ nước Thanh về thăng Quai làm Tả thị TB,221
lang bộ Hộ, phong tước hầu…
1/1754 Đốc suất Nghệ An, Thượng thư bộ Binh, Thái tử Thái phó Phạm TB,240
Đình Trọng mất…
4/1756 Ra lệnh cho bộ Lại: đến kỳ tuyển bổ quan, thì dẫn người được tuyển TB,253
bổ ấy đến sân chính phủ đợi chỉ để đối diện hỏi về chính thuật, ai
giỏi mới trao chức. Việc này định làm lệ thường.
4/1758 Thượng thư bộ Hộ Đại tư không đã về hưu là Triệu Quận công TB,258
Nguyễn Huy Nhuận mất, thọ 81 tuổi, tặng Đại Tư mã…
6/1758 Thượng thư bộ Lễ đã về hưu là Diệu Quận công Trần Cảnh mất… TB,258
10/1758 Thượng thư bộ Lại trí sí là Kiều Quận công Nguyễn Công Thái mất, TB,260
tặng Thái tử Thái bảo
9/1759 Thăng Nhữ Đình Toản làm Thượng thư bộ Binh hành Tham tụng TB,262
phủ liêu
8/1760 Thượng thư bộ Lễ hưu trí là Liêu Đình hầu Lê Hữu Kiều mất… TB,264
1/1761 Tham tụng Thượng thư bộ Binh Huy Xuyên hầu Hà Tông Huân về TB,265
hưu, thăng Thiếu bảo, cho tước Huy Quận công…
7/1761 Thăng Nguyễn Nghiễm làm Thượng thư bộ Công, hành Tham tụng. TB,269
4/1762 Tham tụng Thượng thư bộ Binh Bá Trạch hầu Nhữ Đình Toản xin TB,271
đổi sang chức võ, chúa ưng cho, trao cho làm Hữu hiệu điểm, quản
đội Nghiêm Hữu hầu nội.
8/1763 Lấy Thượng thư bộ Hình là Bái Xuyên hầu Trần Huy Bật làm Đô TB,275
ngự sử
1/1766 Thượng thư bộ Binh Thiếu bảo phụng nghị ngũ lão Huy Quận công TB,294
Hà Tông Huân mất…
12/1766 Tham tụng Thượng thư bộ Lại, Đại tư mã hưu trí là Kính Quận công TB,296
Nguyễn Kính mất…
3/1767 Thượng thư bộ Lễ, Bồi tụng Bảo Huy hầu Trần Danh Ninh mất tặng TB,298
Thiếu bảo.
3/1768 Cho Thượng thư bộ Binh Bái Xuyên hầu Trần Huy Bật vào chầu hầu TB,323
kinh diên (giảng sách).
8/1769 Chúa cho Nguyễn Hoản làm Hữu thị lang bộ Binh. TB,332
5/1770 Cho Lê Trọng Thứ làm Thự Tả thị lang bộ Lễ, Vũ Thần Thiệu làm TB,338
Hữu thị lang bộ Binh (thị lang hàm tòng tam phẩm). Trọng Thứ lại
nhờ ấm của con là Lê Quý Đôn được thăng Tả thị lang bộ Công.
6/1770 Đài phó Lê Quý Đôn vì nhiều lần đem số tiền của người bị kiện đút TB,338
lót nộp vào quỹ công, nên được đặc cách thăng lên Hữu thị lang bộ
Hộ.
9/1770 Cho Nguyễn Hoản làm Thượng thư bộ Công. TB,339
9/1770 Cho Nguyễn Nghiễm làm Thái tể, Trương Khuông làm Thái bảo, TB,340
Trần Huy Bật làm Thượng thư bộ Lại, Nguyễn Hoản làm Thượng
thư bộ Hình, Nguyễn Bá Lân làm Thượng thư bộ Công, Vũ Thần
Thiệu, Vũ Miên làm Thị lang còn đâu thăng thụ có từng cấp bậc.
Đây là kết quả bình công người đi hầu chúa, người ở nhà giữ kinh
thành.

292
10/1771 Thượng thư bộ Hộ, Đại tư không Tham tụng Xuân Quận công TB,342
Nguyễn Nghiễm xin hưu trí. Chúa ưng cho, lại cho thăng Đại tư đồ.
10/1771 Lê Quý Đôn đi khám Thanh Hoa về, đệ nộp lên chúa 100 nén bạc TB,343
của dân hối lộ. Bèn được thăng từ Hữu thị lang bộ Lại lên Hữu thị
lang bộ Công.
6/1772 Giáng Thượng thư bộ Lại Trần Huy Bật làm Thượng thư bộ Công TB,350
1/1773 Thượng thư bộ Hình Lê Trọng Phiên lại hưu trí… Từ Trung hưng TB,352
đến đấy, chỉ có hai người là Đặng Đình Tướng và Lê Trọng Thứ là
hai lần hưu trí. Đám văn thần đều cho là vinh hạnh.
5/1774 Chúa cho Thượng thư bộ Lại, Bồi tụng Nguyễn Hoản làm Tri Hàn TB,361
lâm viện sự.
7/1775 Thượng thư bộ Công, Thái tử Thái phó Kế Thiện hầu hưu trí là TB,398
Nguyễn Vỹ mất, tặng hàm Thái bảo.
11/1775 Thượng thư bộ Hộ, Đại tư đồ, Tham tụng, Trung tiệp dinh Tả tướng TB,402
đã về hưu trí lại khởi phục làm Hiệp tán Thuận Quảng quân vụ, tước
Xuân QUận công Nguyễn Nghiễm mất…
12/1776 Chúa Trịnh Sâm bàn công theo hầu xe chúa và công đốc vận lương, TB,423
cho mỗi người đều thăng chức môt cấp. Cho Hữu thị lang bộ Hình là
Nguyễn Khản làm Tả thị lang bộ Lại…
3/1777 Thăng Hữu thị lang bộ Hình là Vũ Miên làm Hữu thị lang bộ Binh, TB,430
Hàn lâm Thừa chỉ Phan Trọng Phiên làm Hữu thị lang bộ Công, đều
phong tước hầu.
5/1777 Cho Uông Sĩ Điển làm Hữu thị lang bộ Lễ TB,436
2/1779 Chúa cho Hành Tham tụng Phan Lê Phiên làm Nhập thị Tham tụng, TB,446
thăng Tả thị lang bộ Binh, phong tước hầu
6/1782 Hành Tham tụng Tả thị lang bộ Binh, Liên Khê hầu Vũ Miên mất. TB,454
Truy tặng hàm Thượng thư, ban thuỵ là Ôn Cẩn.
1785 Chúa Trịnh Tông lại mời Nguyễn Khản hồi ban, thăng chức Thượng TB,459
thư bộ Lại phong tước là Toản Quận công, ra làm Trấn thủ Sơn Tây.

4/1787 Vua sai Thượng thư bộ Công, Đồng bình chương sự Trần Công TB,474
Thước, Hộ khoa Cấp sự trung Ngô Nho cùng với Hoàng thân Nghị
Quận công vào thành Phú Xuân đem quốc thư lễ vật xin đất Nghệ
An… Đến nơi, Huệ thấy thư giận quá giam bọn Thước cùng Nho lại
rồi cho đem vứt xuống sông, mà tuyên cáo trong ngoài rằng: bọn ấy
về thuyền chết đuối.

293
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi

PHỤ LỤC 4
QUÁ TRÌNH THĂNG GIÁNG CỦA MỘT SỐ QUAN CHỨC
THẾ KỶ XV-XVIII

Bảng 42: Đƣờng hoạn lộ của một số quan chức tiêu biểu triều Lê Sơ1
(Thống kê từ Lịch triều hiến chương loại chí)

TT Nhân vật Xuất Thời Chức Số lần Số Số Số Số Tội Kết cục cuối đời
thân gian tƣớc ban thăng lần lần lần lần đồ
làm đầu bổ sung đổi giáng khởi
quan các chức chức chức phục
(năm) chức
1 Nguyễn Trãi Đố Thái 15 Chánh 2 1 1
(1427- 1442) học sinh trưởng
thời Hồ Ngự sử đài
thời Hồ
2 Lê Văn Linh Tham 20 Nhập nội 2 1 1 1
(1427-1447) gia khởi Thiếu phó
nghĩa
Lam Sơn
3 Đào Công Soạn Đỗ Giáp 29 Tham tri 5 1 1
(1427-1456) đẳng Đông đạo
năm
1426
4 Bùi Cầm Hổ Đợc tiến Ngự sử 2 1 1
(1434- ?) cử vì có Trung
Nho học thừa
5 Nguyễn Thiên Đỗ Bồi thần 3 1 1 2 2
Tích Hoành từ tiếp sứ
(1431- ?)
6 Phan Thiên Tước Bề tôi cũ Quan ở 3
(1434- ?) của vua Ngự sử đài
Lê Thái
Tổ
7 Nguyễn Trực Trạng 51 HLV Trực 6
(1442-1473) nguyên học sĩ
8 Nguyễn Như Đổ Bảng 38 Hàn lâm 4 1 1 1 1
(1442- 1480) nhãn viện Tri
chế cáo
9 Lơng Thế Vinh Trạng HLV Trực 3
(1463- ?) nguyên học sĩ
10 Quách Đình Bảo Đỗ Hàn lâm 3 2
(1463- ?) Thám viện Trực
Hoa học sĩ
11 Quách Hữu Hoàng 3 1 1
Nghiêm giáp
(1466- ?)
12 Đỗ Nhuận Đồng 4
(1469-?) Tiến sĩ
13 Thân Nhân Trung Đồng HLV Thị 5
(1469-?) Tiến sĩ độc
14 Đào Cử Đào Cử Bí thư 7
(1466- ?) giám Độc
thư
15 Nguyễn Cư Đạo Đồng Ngự tiền 5 1 1 1
(1442- ?) Tiến sĩ học sinh
16 Đàm Văn Lễ Đồng 36 Hàn lâm 5 1 1

1
Thăng bổ (1): nhận các chức mới có phẩm hàm cao hơn; Đổi chức (2): các chức có phẩm hàm
tương đương; Giáng chức (4): các chức có phẩm hàm thấp hơn; Số lần “sung” (2), “bãi” (3), “khởi
phục” (6) các chức và “tội đồ” (7) được căn cứ theo ghi chép trong chính sử. Số liệu tổng hợp ở cột
(8) lớn hơn số chức quan ở bảng 13 vì đã bao gồm chức Thượng thư và những lần sử chỉ chép
“thăng/ giáng” hoặc “bãi/ truất” nhưng không cho biết rõ là chức gì.

294
(1469- 1505) Tiến sĩ viện Hiệu

17 Nguyễn Bảo Đồng Đông các 3
(1472- ?) Tiến sĩ Tả thị
giảng
18 Bùi Xương Trạch Đồng 42 Quan ở 3 1
(1478- 1520) Tiến sĩ Hàn lâm
viện
19 Lương Đắc Bằng Bảng 22 4
(1499- 1521) nhãn
20 Lê Liệt Tham 34 Coi quân ở 7 1 1 1 Truy phong Mục
(1428-1462) gia khởi đội Thiết (bị vương
nghĩa đột bắt)
Lam Sơn
21 Nguyễn Xí Làm gia 37 9 Tặng Thái phó
(1428-1465) thần cho Cương quốc
Lê Thái công
Tổ
22 Trần Nguyên Hãn Tham T đồ 3 1 Bị vua bắt, tự
(1442- ?) gia khởi vẫn
nghĩa
Lam Sơn
23 Lê Sát Tham 6 Thiếu uý 3 1 Cách hết chức, bị
(1428- 1434) gia khởi bắt chết ở nhà
nghĩa
Lam Sơn
24 Lê Ngân Tham 9 Nhập nội 3 1 Bị bắt phải chết
(1428-1437) gia khởi Tư mã
nghĩa
Lam Sơn
25 Lê Nhân Thụ Tham 5 Thứ thủ ở 3 Bị đánh thuốc
(1428-1433) gia khởi Vệ độc chết
nghĩa
Lam Sơn
26 Trịnh Khả Tham 23 Làm thứ 10 Bị kẻ giàm pha
(1428-1451) gia khởi thủ ở Vệ nên bị hại
nghĩa Thiết đột
Lam Sơn
27 Phạm Vấn Tham 7 Thượng 6 Được truy tặng
(1428- 1435) gia khởi tướng Thái phó
nghĩa quân
Lam Sơn
28 Lê Khôi Tham 19 Thượng 5 1 1 Truy tặng Nhập
(1427-1446) gia khởi tướng nội kiểm hiệu Tư
nghĩa quân, không
Lam Sơn Nhập nội
Thiếu uý
29 Lê Niệm Được tập 37 Chánh 10 2 2 Truy tặng Thái
(1438- 1475) ấm chưởng uý
cục Cận
thị
30 Trình Thanh Đỗ khoa 32 Ngự tiền 4 2
(1431-1463) Hoành từ học sinh
31 Nguyễn Bá Ký Đỗ 17 Hàn lâm 4 1
(1448-1465) Hoàng viện Tri
giáp chế cáo
32 Nguyễn Nhân Đồng Bí thư 3
Thiếp Tiến sĩ giám Độc
(1466-?) thư
33 Đặng Minh Đỗ nhị 2 1 1
Khiêm giáp
(1487-?) Tiến sĩ
34 Vũ Quỳnh Đỗ Tiến 3
(1487- ?) sĩ
35 Vũ Duệ Đỗ 32 2 Chết theo vua
(1490-1522) Trạng
nguyên
36 Ngô Hoán Đỗ Bảng 2
(1490- ?) nhãn
37 Dương Trực Đồng 17 6 3 1 1
Nguyên Tiến sĩ
(1490-1507)
38 Đàm Thận Huy Đỗ Đồng Hàn lâm 3 1
(1490- ?) Tiến sĩ viện Hiệu
thảo

295
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
39 Đỗ Nhân Đồng 25 4 Bị Mạc Đăng
(1493-1518) Tiến sĩ Dung giết
40 Lê Sạn Đỗ Bảng 3
(1502- ?) nhãn
Cộng 167 15 13 10 10 3

Quá trình thăng/giáng các chức của một số quan Thƣợng thƣ
xuất thân khoa bảng thời Lê Sơ
(Nguồn: Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Lịch triều
hiến chương loại chí, Các nhà khoa bảng Việt Nam)

TT Nhân vật Xuất thân Quá trình tiến thân


1 Nguyễn Trãi 21 tuổi Đỗ - 1418 tham gia khởi nghĩa Lam Sơn
(1380-1442) Thái học sinh - 1427 Hμn lâm viện thừa chỉ học sĩ, Triều liệt đại phu,
năm 1400 Nhập nội hμnh khiển, Lại bộ th−ợng th− kiêm hμnh Khu
mật viện sự.
- 1428 Quan phục hầu
- 1429 phong tước Á hầu
- 1442 bị giết hại
2 Nguyễn Như Đổ 19 tuổi đỗ - 1443 Hμm lâm viện tri chế cáo, sang sứ Minh
(1423-1525) Bảng nhãn - Trước 1449 An phủ sứ lộ Quy Hoá
năm 1442 - 1449 Hμn lâm trực học sĩ
- 1661 Lại bộ thượng thư
- 1463 Môn hạ sảnh ty tả gián nghị đại phu tri Bắc đạo
quân dân bạ tịch kiêm Hμn lâm viện thừa chỉ học sĩ
- 1466 quyền Chính sự viện th−ợng th− kiêm Cẩn Đức
điện đại học sĩ thái tử tân khách
- 1467 được phục chức sau khi phạm tội biên chép ng−ời
đ−ợc thuyên bổ không rõ rμng.
- 1486 Thiếu bảo, Lại bộ th−ợng th− kiêm Quốc tử giám
tế tửu
3 Trần Cận 28 tuổi đỗ Tiến - 1499 Lại bộ th−ợng th−
(1442-?) sĩ năm 1470
4 Ngô Hoán - 31 tuổi đỗ - 1494 Đông các hiệu th−
(1460-1522) Bảng nhãn - 1500 biếm chức, sung lμm quân ở bản phủ vì tội đem
năm 1490 việc trong triều nói với ng−ời ngoμi
- Đỗ sinh đồ - 1505 khởi phục lμm Hiến sát sứ Thanh Hoa
năm 1051 - 1509 Tán trị thừa tuyên sứ ty Thừa tuyên sứ Thanh
Hoa, ít lâu sau, trao chức Lại bộ th−ợng th−.
5 Lê Tung 33 tuổi đỗ Tiến - 1499 Lại khoa đô cấp sự trung
(Dương Ban Bản) sĩ năm 1484 - 1505 Thừa tuyên sứ Thanh Hoa
(1452-1514) - 1512 gia phong Thiếu bảo Lễ bộ th−ợng th−, Đông các
Đại học sĩ kiêm Quốc tử giám tế tửu, Tri kinh diên sự,
Đôn Th− bá.
6 Đàm Thận Huy 28 tuổi đỗ - 1490 Hàn lâm viện Hiệu thảo
(1463-1526) Tiến năm 1490 - 1510 Hình bộ th−ợng th−, Hàn lâm viện Thị độc
chưởng viện sự
- 1511 Lại bộ th−ợng th−, tri Chiêu Văn quán Tú lâm

296
cục
- 1518 Thiếu bảo, Lễ bộ th−ợng th− nhập thị kinh diên
- 1522 Lâm Xuyên bá
7 Đỗ Nhân (Nhạc) 20 tuổi đỗ - 1493 Hμn lâm viện Hiệu lý
(1474-1518) Hoàng giáp - 1500 Hμn lâm viện Thị th− kiêm Tú lâm cục t− huấn
năm 1493 - 1501 Đông các Hiệu th− kiêm Tú lâm cục t− huấn
- 1501 Lễ bộ hữu thị lang
- 1506 Hàn lâm viện Thị độc, tham ch−ởng Hμn lâm
viện sự
- 1508 Ngự sử đμi Phó đô ngự sử
- 1509 Đông các học sĩ, thăng Triều liệt đại phu
- 1510 Hộ bộ tả thị lang, đổi tên Nhân thμnh Nhạc, để
tránh tên hiệu của vua lμ Nhân Hải.
- 1510 Phụng trực đại phu, Hộ bộ Th−ợng th− Đông các
Đại học sĩ nhập thị Kinh diên
- 1513 gia phong Quang Nghiệp đại phu, Th−ợng th−
Đông các Đại học sĩ nhập thị kinh diên.
- 1514 Lại bộ th−ợng th− kiêm Đông các Đại học sĩ
nhập thị kinh diên.
- 1518 Ngự sử đμi đô ngự sử kiêm Đông các Đại học sĩ,
nhập thị kinh diên.
- 1518 bị Mạc Đăng Dung giết.
8 Lê Sạn 27 tuổi đỗ - 1516 Đề sát
(1476-?) Bảng nhãn - 1517 Hộ bộ th−ợng th−
năm 1502 - 1518 Lại bộ th−ợng th−, tước Trung Huân bá.
9 Vũ Duệ 23 tuổi đỗ - 1498 Tán trị Thừa tuyên sứ ty, Tham chính các xứ Hải
(1467-1522) Trạng nguyên D−ơng
năm 1490 - 1520 Thiếu bảo, Lại bộ th−ợng th− kiêm Đông các Đại
học sĩ nhập thị kinh diên, ban phong Trinh Ý công thần,
tước Trình Khê bá.
10 Nguyễn Quý Nhã 34 tuổi đỗ Tiến - 1499 do thi Đình lμm lạc vần, phải ra lμm tri huyện
(1466-?) sĩ năm 1499 huyện Phụ Dực
- 1506 Đề hình giám sát ngự sử
- 1518 Sau khi đi sứ Minh về làm Đông các Hiệu th−.
- 1519 Lại bộ Tả thị lang
- 1520 Ngự sử đài Đô ngự sử
- 1520 Lại bộ Th−ợng th− Bồi thị kinh diên
- 1523 Lại bộ Tả thị lang
- 1524 Ngự sử đμi Phó đô ngự sử
- 1526 Lại bộ Th−ơng th− bồi thị kinh diên.
11 Trương Phu Duyệt 30 tuổi đỗ - 1513 Lễ khoa Cấp sự trung
(1476-?) Hoàng giáp - 1527 Lại bộ Th−ợng th−
năm 1505
12 Đào Công Soạn Đỗ thứ nhất - 1426 An phủ sứ
(Giáp đẳng) - 1435 Tham tri Đông đạo
năm 1426 - 1435 Thẩm hình viện sự bộ th−ợng th−
- Trước 1437 Tri tả hữu ban sự
- 1437 Môn hạ tả ty thị lang tham tri Bắc đạo bạ tịch

297
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
- 1444 Tả thị lang
- 1448 Hữu ty thị lang
- 1449 Lễ bộ Th−ợng th−
- 1449 Nhập thị kinh diên
- 1456 Nhập nội đại hμnh khiển tri tam quán sự nhập thị
kinh diên
13 Quách Đình Bảo 24 tuổi đỗ - 1469 Hμn lâm viện Trực học sĩ
(1440-?) Thám hoa năm - 1471 Đông các Hiệu th−
1463 - 1481 Phó đô ngự sử kiêm Tả xuân ph−ờng tả trung
doãn
- 1484 Lễ bộ Th−ợng th− kiêm Tả xuân ph−ờng tá trung
doãn
- 1485 Hình bộ Th−ợng th−
14 Đàm Văn Lễ 18 tuổi đỗ - Trước1483 Hàn lâm viện Hiệu lý
(1451-1505) đồng tiến sĩ - 1483 Hμn lâm Thị th−
xuất thân năm - 1484 Hμn lâm viện Thị độc Đông các Hiệu thư
1469 - 1493 Ngự sử đμi Phó đô ngự sử
- 1498 Lễ bộ th−ợng th− kiêm Đông các Đại học sĩ
- 1502 Lễ bộ Th−ợng th− Tả Xuân ph−ờng hữu dụ đức
kiêm Đông các Đại học sĩ
- 1505 Bị Uy Mục biếm chức, đưa vμo Quảng Nam giết.
15 Vũ Hữu 20 tuổi đỗ - 1467 Khâm hình viện Lang trung
(1444-1530) Hoàng giáp - 1486 Lễ bộ Tả thị lang kiêm Kim quan môn đãi chiếu
năm 1463 - 1498 Lễ bộ Th−ợng th−
- 1502 Hộ bộ Th−ợng th−
- 1503 Lễ bộ Th−ợng th−
16 Nguyễn Bá Tuấn Đỗ Hoàng giáp - 1508 Tổng binh Thiêm sự Thanh Hoa
(Bá Thuyên) năm 1499 - 1510 Lễ bộ Th−ợng th−
17 Đặng Minh Khiêm Đỗ Hoàng giáp - 1500 Đông các Hiệu th−
năm 1487 - 1501 Hμn lâm viện Thị th− kiêm Tú lâm cục T− huấn
- 1510 Triều liệt đại phu, Lại bộ Tả thị lang
- 1520 Lễ bộ Th−ợng th− kiêm sử quan Phó Tổng tμi tri
Chiêu Văn quán Tú lâm cục
18 Phạm Khiêm Bính Đỗ đệ - 1506 truất lμm Hiến sát sứ Hải D−ơng
tam giáp đồng - 1510 Thiêm đô Ngự sử
tiền sĩ xuất - 1511 Lại bộ Tả thị lang
thân năm 1502 - 1511 Hiến sát sứ Hải D−ơng
- 1518 Thừa chính sứ Kinh Bắc
- 1518 Thừa chính sứ Nghệ An
- 1520 Thuận Hoá Thừa tuyên sứ
- 1521 Lễ bộTth−ợng th−
- 1525 bị (Mạc Đăng Dung) truất lμm Hộ bộ Hữu thị
lang
19 Đinh Trinh Đỗ Tiến sĩ năm - 1507 Hμn lâm viện kKểm thảo
1502 - 1523 Lễ bộ Th−ợng th−
20 Trần Phong Đỗ Tiến sĩ năm - 1434 Ngự tiền học sinh Cục phó
(?- 1485) 1431 - 1437 Hữu hình viện Đại phu
- Trước 1448 Hμn lâm viện Thị giảng

298
- 1448 Thị kinh diên
- 1463 Hình bộ Th−ợng th−
- 1465 đổi ra lμm Tuyên chính sứ Tây đạo
- 1467 Hộ bộ Th−ợng th− kiêm Thái tử tân khách
- 1467 Hình bộ Th−ợng th− kiêm thái tử tân khách
- 1474 gia phong Thiếu bảo Ngự sử đμi Đô ngự sử
- 1485 bị vua giết
21 Nguyễn Mậu Đỗ Tiến sĩ năm - 1513 Hộ bộ Th−ợng th− tri Chiêu Văn quán Tú lâm
1502 cục, Cẩn Lễ nam.
22 Trần Sùng Dĩnh 23 tuổi đỗ - 1499 Hộ bộ Hữu thị lang
(1465-?) Trạng nguyên - 1514 Hộ bộ Th−ợng th−
năm 1487
23 Nguyễn Cư Đạo Đỗ đồng tiến sĩ - Trước 1449 Ngự tiền học sinh
năm 1442 - 1449 Giám sát ngự sử
- 1449 bị giáng làm Quốc tử giám Trực giảng vì hặc tội
các viên Tham nghị ở viện Chính sự
- 1466 Hμn lâm viện Thừa chỉ quyền Hộ bộ Hữu thị lang
kiêm Cẩn Đức điện Đại học sĩ nhập thị kinh diên Tả
xuân ph−ờng Thái tử tả dị đức
- 1467 Ngự sử đμi Đô ngự sử quyền Hộ bộ th−ợng th−
tri kinh diên sự
24 Nguyễn Vĩnh Tích Đỗ Hoàng giáp - 1437 Thị ngự sử
năm 1448 - 1463 Hμn lâm viện Thừa chỉ học sĩ tri Đông đạo quân
dân
- 1463 Binh bộ Th−ợng th−
- 1467 bị thu thẻ bài và nghỉ không làm việc vì nhận hối
lộ
25 Đào Tuấn 30 tuổi đỗ Tiến - 1466 Thiêm đô ngự sử
(1419-?) sĩ - Trước 1467 Hμn lâm viện Thị độc học sĩ quyền Ngự sử
đμi Phó đô ngự sử
- 1467 Thái bộc Tự khanh quyền An Bang đẳng xứ tán
trị Thừa tuyên sứ ty Tham chính trị bản vệ quân sự
- 1472 Binh bộ Th−ợng th−, tước Tùng Sơn bá
26 Vũ Quỳnh 26 tuổi đỗ - 1510 Triều liệt đại phu, Binh bộ Th−ợng th−
(1453-1497) Hoàng giáp - 1511 Binh bộ Th−ợng th−, Quốc tử giám T− nghiệp
năm 1478 kiêm sử quan Đô tổng tμi
27 Trần Bảo Đỗ Tiến sĩ năm - 1479 Phó đoán sự vệ Cẩm y
1469 - 1499 Công bộ Th−ợng th−, Thiếu bảo, tước Quận công
28 Trình Chí Sâm Đỗ Tiến sĩ năm - 1510 Phụng trực đại phu, Công bộ Th−ợng th−, Thiếu
1487 bảo chưởng lục Bộ kiêm Đông các Đại học sĩ, tước Từ
Hồ bá
Quá trình thăng/giáng các chức của một số quan Thƣợng thƣ
xuất thân không khoa bảng thời Lê Sơ
(Nguồn: Đại Việt sử ký toàn thư, Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Lịch triều
hiến chương loại chí, Các nhà khoa bảng Việt Nam)

TT Nhân vật Quá trình tiến thân


1 Hà Lật - 1427 Thiêm tri khu mật

299
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
- 1429 phong Đình thượng hầu
- 1431 Lại bộ th−ợng th−
- 1435 Hữu hình viện đại phu
- 1448 Ngự sử Trung thừa
- 1449 Tây đạo Tham tri bạ tịch
2 Phạm Văn Hiển - 1462 Bồi thần sang sứ nhà Minh
- Trước 1467 Lại bộ thượng thư
- 1467 Trung quân phủ Đô đốc đồng tri
3 Trần Xác - 1457 Giám sát ngự sử
- Trước 1467 Ngự sử đμi Phó đô ngự sử
- 1467 Cung s− phủ thái tử tân khách kiêm Ngự sử đμi Đô ngự sử
- 1472 Thông ch−ơng đại phu Tả xuân ph−ờng tả thứ tử kiêm Lại bộ
th−ợng th−
4 Hoàng Nhân Thiêm - 1472 Tả du kích t−ớng quân
- 1474 Lại bộ thượng thư
5 Nguyễn Bá Ký - 1481 Lại bộ Thượng thư
6 Lê Nhuận - 1496 Lại bộ th−ợng th− kiêm Quốc tử giám tế tửu
- 1497 Tứ vệ Đề đốc Dung Hồ bá
7 Bùi Ư Đài - 1427 Lễ bộ Th−ợng th− kiêm tri Đông đạo quân dân tịch bạ
- 1434 Đồng tri bạ tịch Bắc đạo
- 1437 phục chức Đồng tri môn hạ tả ty sự, t−ớc Trí tự, Tham tri Tây đạo
quân dân bạ tịch
8 Trình Dục - 1443 Tham tri bạ tịch
- 1448 Đông đạo Tham tri
- 1448 Tây đạo Đồng tri
- 1449 Lễ bộ th−ợng th−
9 Lê Hoằng Dục - 1459 Chỉ huy sứ
- 1467 Lễ Bộ Thượng th− kiêm Thái th−ờng Tự khanh
- 1467 Tây quân phủ Đô đốc Đồng tri
- 1483 Lâm Giang bá
10 Phạm Công Nghị - Trước 1467 Hình bộ Th−ợng th−
- 1467 Lễ bộ Th−ợng th−
11 Lê Năng Nhượng - 1486 Lễ bộ Th−ợng th−
- 1490 Hình bộ Th−ợng th−
- 1497 Điện tiền Đô kiểm điểm, Cống Xuyên bá
- 1499 Cống Xuyên hầu
- 1504 Tông nhân lệnh Tự ân sứ
12 Nguyễn Xung Xác - 1483 Hμn lâm Thị độc ch−ởng viện sự
- 1484 Hμn lâm viện Thị độc kiêm Tú lâm cục T− huấn
-1491 Hμn lâm viện Thị độc ch−ởng Hμn lâm viện sự kiêm Lễ bộ
Thượng thư
- 1500 Đông các Đại học sĩ
13 Nguyễn Trinh - 1514 Lễ bộ Th−ợng th− ch−ởng bộ sự, Phò mã đô uý H−ng quận công
14 Nguyễn Cư Pháp - 1463 Hộ bộ Th−ợng th−
15 Lê Cảnh Diệu - 1469 Hộ bộ Th−ợng th−
16 Lê Cảnh Huy - 1456 Bắc đạo hμnh khiển
- 1464 ch−ởng Hình bộ
- 1465 Nhập nội Đại hμnh khiển Tả bộc xạ tham tri chính sự ch−ởng Nội

300
mật viện sự
- 1466 Sùng tiến nhập nội Tả Đô đốc kiêm thái tử Thiếu bảo
- 1467 Hữu Đô đốc
- 1471 Hộ bộ Th−ợng th− kiêm Thái tử Thái bảo
- 1472 Thái bảo Kiến D−ơng bá, trông coi sáu Khoa.
- 1475 Thái bảo Kiến D−ơng hầu
- 1492 Hộ bộ th−ợng th−
17 Trịnh Công Ngô - 1478 Hộ bộ Th−ợng th−.
18 Lê Đoan Chi - 1480 Hộ bộ Th−ợng th−
- 1485 Binh bộ Th−ợng th−
- 1486 Hộ bộ Th−ợng th− Tá Quốc hầu
19 Ngạc Hối - 1497 Hộ bộ Th−ợng th−
20 Trịnh Quý Tuân - 1500 Hộ bộ Th−ợng th−
21 Đào Thuấn - 1500 Hộ bộ Th−ợng th− kiêm tri Sùng Văn quán Tú Lâm cục
22 Trịnh Duy Đại - 1509 Hộ bộ Th−ợng th−, Sơn lăng Phó sứ
- 1510 phong Văn quận công
- 1514 bị vua giết
23 Nguyễn Lữ - 1513 Hộ bộ Th−ợng th−, Quỳnh Nham hầu
24 Lê Bá Trù - 1467 Binh bộ Th−ợng th−
- 1467 Tả kiểm điểm
25 Trịnh Công Đán - Trước1467 Công bộ Hữu thị lang
- 1474 Binh bộ Th−ợng th−
- 1490 Định Công bá
- 1499 Thiếu bảo
26 Nguyễn Phùng Thì - 1499 Binh bộ Th−ợng th−
27 Nguyễn Hoằng Thạc - 1496 Hộ bộ Tả thị lang
- 1501 Binh bộ Th−ợng th−
28 Tăng Dật - 1503 Binh bộ Th−ợng th−
29 Nguyễn Quang Mỹ - 1506 Binh bộ Th−ợng th−
30 Lê Thúc Hựu - 1521 Thiếu bảo Binh bộ Th−ợng th− Cẩm Sơn hầu
31 Đinh Bô Cương - 1467 Huyện thừa
- 1499 Hình bộ Th−ợng th−
32 Bùi Quát - Trước 1467 Công bộ Th−ợng th−
- 1467 Đông quân phủ Đô đốc thiêm sự
33 Phạm Du - 1452 Thẩm hình viện
- 1456 Ngự sử Trung thừa
- 1467 Thừa tuyên sứ Thiên Tr−ờng
- 1473 Công bộ Th−ợng th−
34 Nguyễn Bá Lâm - 1511 Công bộ Th−ợng th− tr−ởng bộ sự, Uy quốc công

301
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi

Bảng 43: Quá trình thăng/ giáng chức của các Thƣợng thƣ xuất thân khoa bảng thời Lê Sơ
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Các nhà khoa bảng Việt Nam)

Chức quan giữ trớc khi làm Thƣợng thƣ Chức Thƣợng Chức giữ/ kiêm nhiệm sau khi làm Thƣợng thƣ Tƣớc cao Tổng
thƣ nhất đƣợc số
phong chức

Tuổi khi giữ


Lại viên các

Quan ngoại

Quan ngoại
Nhân vật

Quan cùng

Văn phòng

Văn phòng

Quan cùng
Ngự sử đài

Ngự sử đài
Chức khác

Chức khác
(năm) sau
Đông Các

khi đỗ TS
Thời gian

Đông các
Quan Bộ

Quan Bộ
nha môn

Hàn lâm

Hàn lâm
Võ quan

Võ quan
Quốc tử
nhiệm

nhiệm
Khác

giám
chức
khác
viện

viện
TW

TW
Bộ

Bộ
1. Nguyễn Trãi 47 26 1 1 1 Á hầu 4
2. Nguyễn Như Đổ 1 2 38 19 2 1 1 1 1 10
3. Ngô Hoán 1 2 1 49 18 5
4. Lê Tung (Dương Ban 1 1 60 27 1 1 Đôn Thư bá 5
Bảng)
5. Đàm Thận Huy 1 57 29 1 2 1 Lâm Xuyên 6

6. Đỗ Nhân (Nhạc) 1 2 3 1 1 1 36 16 2 1 1 14
7. Lê Sạn 1 41 14 1 Trung Huân 3

8. Vũ Duệ 2 53 30 1 Trình Khê bá 4

9. Nguyễn Quý Nhã 1 2 1 1 54 20 2 1 9

10. Trương Phu Duyệt 1 51 21 2

11. Đào Công Soạn 3 1 1 3 23 1 1 11

12. Quách Đình Bảo 1 1 1 1 44 20 1 1 7

13. Đàm Văn Lễ 1 1 3 47 29 1 1 8


14. Vũ Hữu 1 1 1 54 34 1 1 6
15. Nguyễn Bá Tuấn (Bá 1 10 2
Thuyên)
16. Đặng Minh Khiêm 1 2 1 33 1 1 7

17. Phạm Khiêm Bính 5 1 1 19 1 9

302
18. Đinh Trinh 1 21 2
19. Trần Phong 1 1 1 1 32 1 1 1 1 9
20. Nguyễn Cư Đạo 1 2 1 2 1 1 1 10

21. Nguyễn Mậu 11 1 Cẩn Lễ nam 2

22. Trần Sũng Dĩnh 1 39 16 2

23. Nguyễn Vĩnh Tích 1 1 1 15 4

24. Đào Tuấn 1 2 1 53 23 Tùng Sơn bá 5

25. Vũ Quỳnh 57 31 1 1 3
26. Trần Bảo 1 30 Quận công 2
27. Trình Chí Sâm 1 Từ Hổ bá 2
Tổng 2 4 17 11 8 18 2 6 6 9 48,8 22,7 6 4 9 6 6 3 3 2 4 153

Bảng 44: Quá trình thăng/ giáng chức của các Thƣợng thƣ không xuất thân khoa bảng thời Lê Sơ
(Thống kê từ Toàn thư, Cương mục, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Chức quan giữ trớc khi làm Thƣợng thƣ Chức Thƣợng Chức giữ/ kiêm nhiệm sau khi làm Thƣợng thƣ Tƣớc cao Tổng
thƣ nhất đƣợc số
phong chức

Tuổi khi giữ


Lại viên các

Quan ngoại

Quan ngoại
Nhân vật

Quan cùng
Quan cùng

Văn phòng

Văn phòng
Ngự sử đài

Ngự sử đài
Chức khác

Chức khác
Viện Đông

(năm) sau
khi đỗ TS
Thời gian

Đông các
Quan Bộ

Quan Bộ
nha môn

Hàn lâm

Hàn lâm
Võ quan

Võ quan
Quốc tử
nhiệm

nhiệm
Khác

giám
chức
khác
viện

viện
TW

TW
Các

Bộ

Bộ
1. Hà Lật 1 1 1 1 Đình thượng 5
hầu
2. Phạm Văn Hiển 1 1 3
3. Trần Xác 3 1 1 6
4. Hoàng Nhân Thiêm 1 2
5 Lê Nhuận 1 1 Dung Hồ bá 3

6. Bùi Ư Đài 1 3 5

303
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
7. Trình Dục 3 4

8. Lê Hoằng Dục 1 1 1 Lâm Giang 4



9. Phạm Công Nghị 1 2

10. Lê Năng Nhượng 1 1 1 Cống Xuyên 4


hầu
11. Nguyễn Xung Xác 2 1 4

12. Lê Cảnh Huy 2 1 1 1 1 1 Kiến Dương 8


hầu
13. Lê Đoan Chi 1 1 Tá Quốc hầu 3
14. Đào Thuấn 1 2
15. Trịnh Duy Đại 1 Văn Quận 2
công
16. Lê Bá Trù 1 2

17. Trịnh Công Đán 1 Định Công 2



18. Nguyễn Hoằng Thạc 1 2
19. Đinh Bô Cương 1 2
20. Bùi Quát 1 2

21. Phạm Du 1 1 1 4

Tổng 1 4 6 4 0 2 3 0 3 1 2 2 3 1 1 1 1 5 5 5 71

304
Bảng 45: Đƣờng hoạn lộ của một số quan chức tiêu biểu triều Lê Trung hƣng
(Thống kê từ Lịch triều hiến chương loại chí)

TT Nhân vật Xuất thân Thời Chức Số lần Số Số Số Số Tội Kết cục cuối
gian tƣớc thăng lần lần lần lần đồ đời
làm ban bổ sung đổi giáng khởi
quan đầu cácchức chức chức chức phục
(năm)
1 Nguyễn Mậu Tự tiến cử Làm 4 3
Tuyên với Trịnh tham
Kiểm mưu ở
màn
trướng
2 Phùng Khắc Quy thuận Ký lục 6 3 1 1 Truy tặng Thái
Khoan nhà Lê ở ngự phó
dinh,
coi
quân
bốn vệ
3 Bùi Bỉnh Uyên Thi đỗ tam 13 4 Truy tặng Thiếu
(1491-1604) trường bảo
thi Hương
4 Lơng Hữu Theo về nhà Thị 2
Khánh Lê lang
5 Lê Trạc Tú Thi đỗ Chế 3 Truy tặng Thiếu
(1577- ?) khoa bảo
được ra làm
quan
6 Nguyễn Văn Thi đỗ Bảng 48 Án sát 6 Truy tặng Đại tư
Giai nhãn Thanh đồ
(1580-1628) Hoa
7 Ngô Trí Hoà Đỗ Tiến sĩ 33 Án sát 6 1 Truy tặng Xuân
(1592-1625) Sơn quận công
Tây
8 Nguyễn Danh Đỗ Đồng 50 Hàn 8 1 5
Thế Tiến sĩ lâm
(1595-1645) viện
Hiệu
thảo
9 Nguyễn Thực Thi đỗ Bảng 39 Hộ 6 1
(1595-1634) nhãn khoa
Đô cấp
sự
trung
10 Nguyễn Duy Thì Thi đỗ 54 Cấp sự 5 1 3 Truy tặng Thái
(1598- 1552) Hoàng giáp trung tể
11 Lê Bật Tứ Thi đỗ 29 4 Truy tặng Thái
(1598-1627) Hoàng giáp bảo
12 Lu Đình Chất Đỗ Đình 20 Cấp sự 5 1 Truy tặng thiếu
(1607-1627) nguyên trung sư
13 Nguyễn Nghi Thi đỗ Đồng 38 2 1 1
(1619-1657) Tiến sĩ
14 Dương Trí Trạch Đồng Tiến sĩ 42 4 2 Tặng Thái bảo
(1619-1661)
15 Đặng Thế Khoa Được tập ấm 27 2 2 Tặng Thiếu phó
(1629-1656)
16 Phạm Công Trứ Đồng Tiến sĩ 47 Thái 7 2 Tặng Thái tể
(1628-1675) Thờng
Tự
khanh
17 Trần Đăng Đồng Tiến sĩ 33 4 1 1 Tặng Thiếu bảo
Tuyển
(1640-1673)
18 Vũ Duy Chí Đi theo hầu 3 Tặng Thiếu phó
(?- 1678) Chúa
có công
19 Nguyễn Mậu Tài Đồng Tiến sĩ 42 5 1 1 Tặng Thiếu bảo
(1646-1688)
20 Đồng Tôn Trạch Đồng Tiến sĩ 45 Đô cấp 4 2 Tặng Thái bảo
(1646-1691) sự
trung
21 Nguyễn Viết Bảng nhãn 28 3 Tặng Lại bộ
Thứ thượng thư

305
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
(1664-1692)
22 Nguyễn Quán Đồng Tiến sĩ 40 5 1 1 1 Tặng Lại bộ
Nho thượng thư
(1667-1707)
23 Đặng Đình Đồng Tiến sĩ 48 3 1 1 Tặng Đại tư mã
Tướng
(1670-1728)
24 Nguyễn Quý Đỗ Thám 44 4 1 1 1 1 Tặng Thái tể,
Đức hoa truy phong Đại
(1676-1720) vương
25 Lê Anh Tuấn Đồng 40 6 1 1 Chúa bắt phải
(1694-1736) Tiến sĩ chết
26 Nguyễn Công Đồng 32 10 1 1 Chúa bắt phải
Hãng Tiến sĩ chết
(1700- 1732)
27 Nguyễn Công Đồng 36 Hàn 3 1 Tặng Thiếu phó
Cơ Tiến sĩ lâm
(1697- 1733) viện
Hiệu
thảo
28 Nguyễn Hiệu Đồng 35 5 2 1 1 Tặng Thái bảo,
(1700-1735) Tiến sĩ Đại tư đồ
29 Nguyễn Khiêm Thám hoa 30 8 1 3 2 2 Tặng Đại tư
Ích không
(1710- 1740)
30 Nguyễn Quang Thi đỗ Đồng 55 7 1 1 Tặng Đại tư mã
Nhuận Tiến sĩ
(1703-1758)
31 Nguyễn Công Đồng 43 5 3 Tặng Thái phó
Thái Tiến sĩ
(1715- 1758)
32 Nguyễn Quý Được tập ấm Làm 4 Tặng Đại t mã
Cảnh quan ở
(? -1743) phiên
33 Lê Hữu Kiều Đỗ Hoành 40 chức 8 1 8 Tặng Thiếu phó
(1715-1755) từ, sau đỗ văn
Tiến sĩ trong
Kinh
34 Ngô Đình Chất Thi đỗ Đồng 29 Viện 4 Tặng Thái bảo
(1721-1750) Tiến sĩ Hàn
lâm
35 Hà Tông Huân Bảng nhãn 36 7 1 Tặng Thiếu bảo
(1724-1760) tước Huy quận
công
36 Nguyễn Đức Vĩ Đỗ Đồng 48 5 1 Tặng Thái bảo
(1727-1775) Tiến sĩ
37 Nguyễn Nghiễm Đỗ Hoàng 43 16 2 1 1 Truy phong
(1731- 1774) giáp phúc thần
38 Trần Danh Ninh Đỗ Hoàng 36 14 2 2 Truy tặng thiếu
(1731-1767) giáp bảo
39 Trần Danh Lâm Đồng 45 12
(1731-1776) Tiến sĩ
40 Nguyễn Bá Lân Thi đõ Hội 44 làm 10 Truy tặng Thái
(1731-1775) nguyên quan ở tể
Tiến sĩ phiên
41 Nhữ Đình Toàn Cho tập ấm 37 5 1 Tặng Thái bảo
(1736- 1773) làm
cbức Tự
thừa
42 Phạm Đình Thi đỗ Đồng 15 4 Chết ở quân
Trọng Tiến sĩ doanh
(1739-1754)
43 Trịnh Duy Đợc tập ấm 1
Thuân
44 Vũ Văn Uyên Theo về nhà 1 Quy phục nhà
Lê Lê
45 Phạm Đốc Theo về nhà 3 1

46 Hoàng Đình Ái 6 1
47 Nguyễn Hữu Theo Lê Bá Phù Đô 6
Liêu Ly quy thuận hầu
(?- 1596) nhà Lê
48 Đặng Huấn Theo Lê Bá Khổng 3 Truy tặng Nam
(?- 1583) Ly quy thuận Lý hầu quân hữu đô đốc

306
nhà Lê
49 Hà Thọ Lộc Quy thuận 4 Truy tặng Thái
(?- 1597) nhà Lê uý
50 Lại Thế Theo Lượng 2 Truy tặng
Khanh(?- 1578) Quốc công Khiêm quốc
đánh giặc công
51 Vũ Sư Thước Theo việc 2
binh, lập
nhiều chiến
công
52 Ngô Cảnh Hựu Quy thuận 3
nhà Lê
53 Đào Quang Quy thuận trông 4
Nhiêu nhà Lê coi việc
(? -1672) quân
54 Hoàng Nghĩa Tập ấm 3
Giao
(?- 1662)
55 Lê Thì Hiến Làm thuộc t- 8 1 1
(1653-1675) ớng
ở dinh
trấn Kỳ Hoa
56 Đinh Văn Tả Có công tố Tham 3
(?- 1686) cáo nguỵ đốc
đảng
57 Nguyễn Đình Coi 3
Hoàn quân
(1740-1765) thị vệ
trong
phủ
chúa
58 Hoàng Ngũ Phúc Thái giám 36 Tả 5
(1740-1776) Thiếu
giám
59 Nguyễn Phan Xuất thân từ 44 6
(1740-1784) lính
60 Bùi Thế Đạt 38 Cai đội 6 6
(1740- 1778)
61 Nguyễn Đức Thay cha 2 1769, chết trận
Thân làm tướng
62 Hoàng Đình Thể 48 3 Chết trận ở
(1740-1786) Thuận Hoá năm
1786
63 Hoàng Phùng Xuất thân là 2 2 Chết trận khi
Cơ kẻ đánh nhau với
cướp Tây Sơn
64 Nguyễn Văn Đỗ Nhất giáp 3 2 Tặng Thượng
Nghi Chế thư Bộ công,
(1554-? ) khoa hàm Thái bảo
65 Nguyễn Đăng Đỗ Hoàng 1 1
(1602- ?) giáp
66 Nguyễn Minh Đỗ Thám 2
Triết Hoa
(1631- ?)
67 Vũ Công Đạo Đỗ Tiến sĩ 2 1 1 1
(1658- ?)
68 Vũ Duy Đoán Đỗ Tiến sĩ 1
(1664- ?)
69 Nguyễn Đình Đỗ Tiến sĩ 1 1 1
Trụ
(1656- ?)
70 Vũ Thạnh Đỗ Thám 2 1 1 Truy tặng tham
Hoa chính
71 Bùi Sĩ Tiêm Đỗ Hoàng 1 1
(1715- ?) giáp
72 Vũ Công Trấn Đỗ Đồng 3 1 1 Truy tặng
(1724- ?) Tiến sĩ Thượng thư
73 Lê Quý Đôn Đỗ Bảng 31 8 1 2 1 1
(1752-1783) nhãn
74 Đoàn Duy Tĩnh Đỗ nhị giáp 22 5
(1752-1774) Tiến sĩ
75 Phan Huy Cẩn Đỗ Đồng 32 5 1 1
(1754-1786) Tiến sĩ
76 Ngô Thì Sĩ Đợc tiến 15 Cấp sự 4 2 1 1

307
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
(1763- 1778) triều trung
Công
khoa
Cộng 352 19 63 20 18 1

Quá trình thăng/giáng các chức của một số quan Thƣợng thƣ
có xuất thân khoa bảng thời Lê Trung hƣng
(Nguồn: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên,
Lịch triều hiến chương loại chí, Các nhà khoa bảng Việt Nam)

TT Nhân vật Xuất thân Quá trình tiến thân

1 Lê Trạc Tú 43 tuổi đỗ Đệ - Trước 1601 Đô ngự sử Văn Trinh bá


(1534-1609) nhất giáp chế - 1601 Th−ợng th− bộ Lại, t−ớc Văn D−ơng hầu,
khoa xuất thân phong lμm Hiệp m−u tá lý công thần.
năm 1577
2 Nguyễn Văn Giai 26 tuổi đỗ - Buổi đầu làm án sát Thanh Hoa
(1554-1628) Hoàng giáp - 1608 Đô ngự sử
năm 1580 - Trước 1617 Lại bộ th−ợng th− ch−ởng lục bộ
sự kiêm Ngự sử đμi Đô ngự sử Lễ quận công
- 1617 Thiếu phó
- 1623 Thiếu uý, Dực vận tán trị công thần,
thăng Thái Bảo
- 1628 chết, Tặng T− đồ, ban thụy hiệu lμ Cẩn
Độ
3 Nguyễn Duy Thì 27 tuổi đỗ - 1606 Cấp sự trung
(1572-1652) Hoàng giáp - Sau làm Thiêm đô ngự sử, tước Phương Tuyền
năm 1598 bá
- 1616 Đô ngự sử, đổi sang làm Tả thị lang bộ
Lễ
- Đầu thời Thần Tông đổi làm Tả thị lang bộ Lại,
tước hầu
- 1626 Công bộ th−ợng th− Tuyền quận công
- 1631 Công bộ th−ợng th− kiêm Quốc tử giám
T− nghiệp Tuyền quận công
- 1632 Thiếu phó
- Trước 1651 Lại bộ th−ợng th− ch−ởng lục bộ
sự kiêm Quốc tử giám tế tửu, Hμn lâm viện thị
độc, ch−ởng Hμn lâm viện sự, Thái phó Tuyền
quận công
- 1651 chết, tặng Thái tể, ban thụy hiệu lμ Hμnh
Độ.
4 Nguyễn Nghi 32 tuổi đỗ - 1645 Lễ bộ Th−ợng th− Thiếu bảo D−ơng quận
(1588-1657) Tiến sĩ năm công
1619 - Trước 1653 Lại bộ th−ợng th− tri kinh diên sự
kiêm Đông các Đại học sĩ, kiêm Quốc tử giám tế
Tửu, Thiếu phó D−ơng quận công
- 1653 Thượng thư bộ Lại, gia Thiếu phó, Tham
tụng
- 1657 chết, tặng Thái phó, ban thụy hiệu lμ
Cung ý

308
5 Phạm Công Trứ 27 tuổi đỗ - Trước 1642 Thái th−ờng tự khanh
(1602-1675) Tiến sĩ năm - 1642 Tán lý đạo Sơn Nam
1628 - Đầu thời Phúc Thái làm Phó đô ngự sử, tước
bá, thăng Đô ngự sử
- 1657 Tham tụng Lễ bộ th−ợng th− Yên quận
công
- 1662 Tham tụng Lễ bộ th−ợng th− kiêm Đông
các đại học sĩ Thiếu bảo Yên quận công, trông
coi Quốc Tử giám
- 1664 Lại bộ th−ợng th−
- 1668 trí sĩ
- 1673 khởi phục làm Tham tụng Lại bộ th−ợng
th− kiêm Đông các đại học sĩ quốc lão tham dự
triều chính Thái bảo Yên quận công, tham tán cơ
vụ.
- 1675 chết
6 Nguyễn Công Hãng 21 tuổi đỗ - 1711 Đề hình
(1680-1732) Tiến sĩ năm - Trước 1714 Thiêm đô ngự sử
1700 - 1714 Đốc trấn Cao Bằng
- 1717 về triều, làm Hữu thị lang bộ Binh
- 1717 Bồi tụng
- 1720 Thượng thư, Sóc Quận công
- 1720 Tham tụng
- 1725 kiêm chức Đô ngự sử
- 1725 Thế tử Thiếu phó
- 1726 Thiếu bảo
- 1727 Thiếu phó
- 1730 Thượng thư bộ Lại gia Thái tử Thái phó,
sau thăng Thái bảo, hạng Tá lý công thần
- 1732 Giáng làm Thừa chính sứ Tuyên Quang,
rồi bắt phải chết
7 Nguyễn Hiệu 27 tuổi đỗ - 1715 Thiêm sai Bồi tụng
(1674-1735) Tiên sĩ năm - 1717 Tả tư giảng, đổi làm Tả thị lang, tước hầu
1700 - 1722 Nông Quận công
- 1726 Bồi tụng
- 1727 Đô ngự sử
- 1730 Thượng thư bộ Binh gia Thiếu bảo, mở
doanh Trung Tiệp
- Đổi làm Thượng thư bộ Lễ coi Viện Hàn lâm
- 1734 Giáng làm Thượng thư bộ Hình, thự
Thiếu bảo, miễn chức Tham tụng
- 1734 Thượng thư bộ Lại, hàm Thiếu bảo
- 1734 Tham tụng, tước Nông Quận công
- 1735 chết
8 Trịnh Tuệ 33 tuổi đỗ - 1737 Đông các Đại học sĩ Thiêm sai phủ liêu
(1704-?) Tiến sĩ năm - 1739 Thượng thư bộ Lại, Tham tụng
1736 - 1741 Giáng làm Tế tửu Quốc tử giám, đoạt
tước Quận công
9 Vũ Công Tể 32 tuổi đỗ - 1724 Bồi tụng
(1687-1745) Tiến sĩ năm - 1730 Thiêm đô ngự sử
1718 - 1740 Tham tụng
- Trước 1742 Tham tụng Thượng thư bộ Lại
Lăng Quận công

309
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
- 1742 mất, tặng Thiếu bảo
10 Nguyễn Hoản 31 tuổi đỗ - 1745 Cấp sự trung
(1713-1792) Tiến sĩ năm - 1767 Bồi tụng
1743 - 1769 Hữu thị lang bộ Binh
- 1769 Đô ngự sử
- 1770 Thượng thư bộ Công
- 1770 Thượng thư bộ Hình
- 1773 kiêm Đô ngự sử
- 1774 Thượng thư bộ Lại, Bồi tụng Tri Hàn lâm
viện sự, Tri Quốc tử giám, Tri Trung thư giám,
Tri Đông các kiêm Quốc sử Tổng tài
- 1777 về trí sĩ (65 tuổi), thăng hàm Thiếu phó,
tước Viện Quận công
11 Nguyễn Khản 27 tuổi đỗ - Lúc đầu làm Hàn lâm viện (Đông các?) Học sĩ,
(1734-1786) Tiến sĩ năm sau thăng Đại học sĩ
1760 - 1773 Hữu thị lang bộ Lại, Nhập thị Bồi tụng,
tước Kiều Nhạc hầu
- 1775 Hành Tham tụng
- 1776 Cho Hữu thị lang bộ Hình
- 1776 Tả thị lang bộ Lại
- 1778 đổi sang chức võ, chức Đô đốc, tước
Hồng Lĩnh hầu
- 1779 Tham tụng kiêm Trấn thủ Sơn Tây và
Hưng Hoá
- 1780 bị bắt giam, giáng làm Đình uý
- 1782 được hồi ban, thăng chức Thượng thư bộ
Lại, Nhập thị Tham tụng, tước Toản Quận công
- 1786 mất, thọ 53 tuổi, tặng Thái tử Thái bảo,
thuỵ là Hoàn Mẫn
12 Đỗ Uông 34 tuổi đỗ - 1792 Lại bộ th−ợng th− Phúc quận công nhà
(1523-1600) Tiến sĩ thời Mạc
Mạc, năm - 1596 Hộ bộ th−ợng th− kiêm Đông các học sĩ
1556 Thông quận công
- 1598 Thiếu bảo
- 1600 Thái bảo, Th−ợng th− bộ Hộ
13 Bùi Khắc Nhất 22 tuổi đỗ Chế - Trước 1600 Tả thị lang bộ Hộ, t−ớc Bμng Phú
(1544-?) khoa xuất thân tử
năm 1565 - 1600 Th−ợng th− bộ Hộ, t−ớc Văn Phú bá, gia
phong lμ Hiệp m−u tán lý công thần
14 Phùng Khắc Khoan 53 tuổi đỗ - Trước 1580 Cấp sự trung Binh khoa và Lễ
(1528-1613) Tiến sĩ năm khoa
1580 - 1580 đỗ Tiến sĩ, thăng Đô cấp sự trung
- 1582 từ quan về quê
- 1583 được vời ra làm Hồng Lô Tự khanh
- 1585 Hữu thị lang bộ Công, đổi Thừa chính sứ
Thanh Hoa
- 1596 Công bộ Tả thị lang
- 1599 Lại bộ tả thị lang, phong Mai Lĩnh hầu
- 1600 Thượng thư bộ Công
- 1602 Th−ợng th− bộ Hộ, t−ớc Mai quận công
- 1613 mất, thọ 86 tuổi, tặng Thái phó
15 Ngô Trí Hoμ 28 tuổi đỗ - Buổi đầu làm án sát sứ Sơn Tây
(1565-1626) Hoàng giáp - Đô cấp sự trung Lại khoa
năm 1592 - Trước 1604 Hữu thị lang bộ Hình, ra làm ký

310
lục ở trấn Thanh Hoa
- 1604 Tả thị lang bộ Lại, Phú Lộc bá
- 1608 Th−ợng th− bộ Hộ. Sau lại kiêm chức Tế
tửu Quốc tử giám
- 1610 Phú Xuân hầu
- 1618 Lại bộ Tả thị lang Phú Xuân hầu
- 1625 mất, tặng t−ớc Xuân quận công
16 L−u Đình Chất 42 tuổi đỗ - Trước 1607 Cấp sự trung Lại khoa
(1566-?) Hoàng giáp - 1607 đỗ Tiến sĩ, thăng Đô cấp sự trung
năm 1607 - 1613 Tự khanh Nhân Lĩnh bá
- 1614 Lại bộ hữu thị lang, Nhân Lĩnh hầu
- Trước 1623 Tả thị lang bộ Hộ
- 1623 Đô ngự sử
- Trước 1627 Th−ợng th− bộ Hộ, Thiếu phó Lộc
quận công
- 1627 mất, tặng hμm Thiếu s−
17 D−ơng Trí Trạch 34 tuổi đỗ - 1630 Bồi tụng
(1586-1662) Tiến sĩ năm - 1644 Đốc thị
1619 - 1660 Tham tụng
- Trước 1661 Hộ bộ Th−ợng th− kiêm Hμn lâm
viện Thị giảng ch−ởng Hμn lâm viện sự, Thiếu
bảo, Bạt quận công
- 1661 Lại bộ Th−ợng th− quốc lão thái bảo cho
về trí sĩ
- 1662 chết, tặng thái tể
18 Trần Đăng Tuyển 27 tuổi đỗ - 1657 Đốc thị đi đánh Đàng Trong
(1614-1673) Tiến sĩ 1640 - 1661 Hữu thị lang bộ Binh, thăng Đô ngự sử,
tức tử
- Trước 1664 Bồi tụng
- 1664 Hộ bộ th−ợng th−, Xuyên quận công
- 1665 Giáng lμm Hộ bộ tả thị lang
- 1669 Binh bộ th−ợng th−, Tham tụng
- 1673 chết, tặng Hộ bộ th−ợng th−, thiếu bảo,
ban thụy hiệu lμ Nhã L−ợng
19 Đồng Tồn Trạch 30 tuổi đỗ - Trước 1664 Hình khoa Đô cấp sự trung Nghĩa
(1617-1692) Tiến sĩ năm Lĩnh nam
1646 - 1664 Hộ bộ hữu thị lang, thăng t−ớc tử.
- 1665 Công bộ tả thị lang
- 1669 Đô ngự sử, rồi bãi chức
- 1673 Khởi phục Binh bộ hữu thị lang
- 1675 Công bộ tả thị lang
- 1683 Thượng thư bộ Hộ, Tham tụng, tước
Nghĩa Trạch hầu
- 1691 xin về hưu (khi ấy 75 tuổi), gia thăng
Thiếu bảo
20 Lê Anh Tuấn 24 tuổi đỗ - 1715 Tả thị lang bộ Hộ, Bồi tụng
(1671-1734) Tiến sĩ năm - 1717 Tri Trung thư giám
1694 - 1718 Tả thị lang bộ Hộ, nhập thị kinh diên
- 1720 Thượng thư bộ Hình, tước Điện Quận
công
- 1720 Tham tụng
- 1726 Thiếu bảo, kiêm Đại học sĩ Đông các
- 1730 Thượng thư bộ Hộ gia Thái tử Thái bảo
- 1732 Đốc trấn Lạng Sơn và Thái Nguyên

311
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
- 1734 Thừa chính Lạng Sơn, phải tự tử

21 Cao Huy Trạc 35 tuổi đỗ - 1733 Tả thị lang bộ Hộ


(1681-?) Tiến sĩ năm - 1733 Tả thị lang bộ Lại
1715 - Trước 1736 Tham tụng, Thượng thư bộ Binh
- 1736 Thượng thư bộ Lễ, Lam Quận công
- 1739 Đốc đồng Thanh Hoá
22 Nguyễn Thực 41 tuổi đỗ - Trước 1602 Đô cấp sự trung Hộ khoa
(1555-167) Hoàng giáp - 1602 Hồng lô Tự khanh
năm 1592 - 1604 Hữu thị lang bộ Lễ
- 1608 Tả thị lang bộ Lễ, tước tử
- 1610 t−ớc Ph−ơng Lan hầu
- 1614 Thiếu uý
- Trước 1618 Tả thị lang bộ Lễ
- 1617 Th−ợng th− bộ Hình
- 1618 Đốc thị Lễ bộ tả thị lang Ph−ơng Lan hầu
- 1627 Tiến phong lμm Thiếu phó, t−ớc Lan
quận công
- 1731 Thiếu uý, Lễ bộ Th−ợng Th− Lan quận
công
- 1732 Thái bảo
- 1734 thăng Hộ bộ th−ợng th− Thái phó, trí sĩ
- 1637 chết, tặng thái tể, ban thụy hiệu lμ Trung
Thuần, thọ 83 tuổi
23 Nguyễn Năng Thiệu 33 tuổi đỗ - 1658 Bồi tụng, lμm tham thị ở dinh Tá quốc
(1611-1668) Hoàng giáp - 1661 Phó đô ngự sử, D−ơng quận công
năm 1643 - 1664 Lại bộ tả thị lang
- 1664 Lễ bộ th−ợng th−
- 1665 Giáng làm Lễ bộ tả thị lang
- 1668 chết, tặng Lễ bộ th−ợng th−, ban thụy
hiệu lμ Trung Túc
24 Nguyễn Quán Nho 30 tuổi đỗ - 1684 Phó đô ngự sử
(1638-1709) Tiến sĩ năm - 1691 Tả thị lang bộ Lại
1667 - 1692 Đô ngự sử
- 1693 Thượng thư bộ Binh, Tham tụng
- 1696 Biếm làm Tả thị lang bộ Binh. Sau đó lại
cho làm Đô ngự sử
- 1702 Phục chức Thượng thư bộ Binh, thăng bộ
Lễ, coi toà Trung thư, tước Hương Giang bá
- 1707 xin trí sĩ
- 1708 mất, tặng Lại bộ Thượng thư, tước Quận
công
25 Nguyễn Huy Nhuận 26 tuổi đỗ - 1708 Phó đô ngự sử, tước Nghĩa Xuyên hầu
(1678-1758) Tiến sĩ năm - 1726 Tả thị lang bộ Hình, tước Triệu Quận
1703 công
- 1726 chuyển sang Tả thị lang bộ Binh
- 1733 Thượng thư bộ Công
- 1734 Thượng thư bộ Lễ, thự Thiếu phó, làm
Tham tụng phủ liêu
- 1741 kiêm chức Đốc đồng Kinh Bắc
- 1741 thăng Thượng thư bộ Hộ, hàm Thái bảo,
vào hầu Kinh diên, Tri Quốc tử giám
- 1742 xin trí sĩ
- Thời Trịnh Doanh lại ra làm quan, thăng Đại tư

312
không
- 1756 kiêm giữ tri Quốc tử giám
- 1758 mất, thọ 81 tuổi, tặng Đại Tư mã
26 Phạm Khiêm Ích 32 tuổi đỗ - 1720 Tả thị lang, tước hầu
(1679-1741) Trạng nguyên - 1720 Hữu thị lang bộ Lại, Bồi tụng, tước Thuật
năm 1710 Phương hầu
- 1726 Tả thị lang bộ Hộ, tước Thuật Quận công,
sau đổi sang Tả thị lang bộ Lại
- 1728 Lễ bộ Thượng thư, Đông các Đại học sĩ
- 1730 Đô ngự sử
- 1732 Thượng thư bộ Binh, gia hàm Thiếu bảo
, Tham tụng
- 1734 Thượng thư bộ Lễ, Tham tụng
- 1736 Thượng thư bộ Lại
- 1738 bãi chức Tham tụng
- 1739 Đốc phủ Thanh Hoa
- 1740 mất, tặng Đại Tư không, ban hiệu là
Thuần Đạo
27 Trần Cảnh 35 tuổi đỗ - 1749 Tể tướng
(1684-1758) Tiến sĩ năm - Trước 1758 Thượng thư bộ Lễ, Diệu Quận
1718 công
- 1758 mất
28 Trần Danh Ninh 29 tuổi đỗ - 1740 Thị giảng viện Hàn lâm, vào làm Bồi
(1703-1766) Tiến sĩ năm tụng, tước Bảo Huy bá
1731 - 1741 Khởi phục làm Tri Lễ phiên nhập thị Bồi
tụng
- 1743 thăng Tế tửu Quốc tử giám, có lỗi bị thôi
chức Bồi tụng, làm việc ở viện Khu mật
- Thăng Đại học sĩ Đông các, Bồi tụng
- 1745 thăng Thiêm đô ngự sử
- 1746 Hữu thị lang bộ Công
- 1747 thăng Hữu thị lang bộ Lại, Bồi tụng
- 1753 Hữu thị lang bộ Công
- 1756 bị tội, thôi chức Bồi tụng, giáng 1 tư
- 1758 thăng làm việc ở bộ Lại và chính phủ
- 1760 phục chức Bồi tụng
- 1761 Tả thị lang bộ Lễ, phục lại các chức cũ,
thăng Tả thị lang bộ Hình, kiêm Tổng tài sử
quán
- Thăng Tả thị lang bộ Lễ
- Trước 1766 Thượng thư bộ Lễ, Bồi tụng Bảo
Huy hầu, kiêm Sử quán Tổng tài
- 1766 mất, tặng Thiếu bảo
29 Lê Bật Tứ 36 tuổi đỗ - 1600 phong Diễn Gia hầu
(1563-1627) Hoàng Giáp - 1608 Hộ bộ tả thị lang Diễn Gia hầu
năm 1598 - 1621 Tham tụng, Binh bộ th−ợng th−, Thiếu
phó Diễn Gia hầu
- 1627 chết, tặng t−ớc Quận công, ban thụy hiệu
lμ Hoμ Nghĩa
30 Nguyễn Mậu Tài 31 tuổi đỗ - Thời Dương Đức làm Đô ngự sử, tước An Lĩnh
(1616-1688) Tiến sĩ năm nam
1646 - Đi sứ về thăng Thượng thư bộ Hình, tước tử
- 1676 Thượng thư bộ Binh, Tham tụng
- Đổi làm Thượng thư bộ Lễ

313
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
- 1682 Biếm làm Tả thị lang bộ Hộ
- 1685 Thượng thư bộ Công, Tham tụng gia
phong tước bá
- 1696 xin trí sĩ, mất, tặng Lễ bộ Thượng thư,
hàm Thiếu bảo
31 Thân Toàn 32 tuổi đỗ - 1676 Đô ngự sử
(1621-?) Tiến sĩ năm - 1683 Thượng thư bộ Binh, thăng Tham tụng
1652
32 Nguyễn Danh Thực 29 tuổi đỗ - 1663 thăng t−ớc nam
(1631-1694) Tiến sĩ năm - 1663 Hình khoa Đô cấp sự trung
1659 - 1664 Tham chính xứ Thanh Hoa
- 1666 Hồng lô Tự khanh
- 1669 Phó đô ngự sử
- 1669 Binh bộ hữu thị lang
- 1675 Lại bộ hữu thị lang
- 1683 Đô ngự sử
- 1691 Thượng thư bộ Binh
- 1693 Tham tụng
- 1693 chết, tặng Thượng thư bộ Lại tước Hải
Quận công
33 Lê Hy 19 tuổi đỗ - 1684 Tả thị lang bộ Hình
(1646-1702) Tiến sĩ năm - 1691 Tả thị lang bộ Lễ
1664 - 1692 Tả thị lang bộ Lại
- 1693 Thượng thư bộ Hình, Tham tụng
- 1698 Thượng thư bộ Binh, tước bá
- 1702 chết, truy tặng Thượng thư bộ Lại, tước
Lai Quận công
34 Phạm Đình Kính 42 tuổi đỗ - 1726 Hữu thị lang bộ Binh, tước Lại Khê hầu
(1669-?) Tiến sĩ năm - 1732 Tả thị lang bộ Hộ
1710 - 1733 Đô ngự sử
- Trước 1736 Bồi tụng Thượng thư bộ Hình
- 1736 Thượng thư bộ Binh
- 1736 Nhập thị Tham tụng
35 Ngô Đình Thạc 23 tuổi đỗ - 1727 Thiêm đô ngự sử kiêm quyền Phó đô ngự
(1678-1740) Tiến sĩ năm sử
1700 - Trước 1737 Thượng thư bộ Binh, Tham tụng,
tước Huy Quận công
- 1939 Thượng thư bộ Hộ, Tham tụng
- 1739 Tổng phủ Lạng Sơn
36 Phạm Đình Trọng 26 tuổi đỗ - 1740 Phó đô ngự sử
(1714-1754) Tiến sĩ 1739 - 1749 Bồi tụng, Dao Lĩnh hầu
- Sau làm Hiệp trấn ba đạo Đông, Nam, Bắc
- 1750 Thượng thư bộ Binh, hàm Thái tử Thái
bảo, tước Hải Quận công
- Trước 1754 Đốc suất Nghệ An, Thượng thư bộ
Binh, Thái tử Thái phó
- 1754 mất, tặng tước Đại vương
37 Nhữ Đình Toản 34 tuổi đỗ - 1728 đỗ Hương cống, giữ chức Tự thừa
(1703-1774) Tiến sĩ năm - 1736 đỗ Tiến sĩ thăng Tự khanh
1736 - 1740 Tham tụng
- 1742 Thái phỏng sứ Sơn Nam hạ lộ
- 1742 thăng Thượng thư bộ Binh, Tham tụng,
tước Bá Trạch hầu
- 1756 Bồi tụng kiêm Tư nghiệp Quốc tử giám

314
- 1759 Thượng thư bộ Binh hành Tham tụng phủ
liêu
- 1762 xin đổi sang chức võ, làm Hữu hiệu điểm,
quản đội Nghiêm Hữu hầu nội, thăng Tả đô đốc,
tước Trung Phái hầu
- 1773 chết, tặng Thái bảo
38 Hà Tông Huân 28 tuổi đỗ - Hàn lâm viện Thị thư
(1697-1766) Bảng nhãn - Đốc đồng Sơn Nam
năm 1721 - Đốc trấn An Quảng
- 1740 Tả thị lang bộ Hộ
- 1745 Hành Tham tụng
- 1745 Tham tụng, tước Kim Khê bá
- Đổi chức võ làm Tham đốc, Tham tụng
- Trước 1760 Tham tụng, Thượng thư bộ Binh,
coi việc ở Quốc tử giám, Huy Xuyên hầu
- 1761 xin trí sĩ, thăng Thiếu bảo, tước Huy
Quận công
- 1766 mất
39 Nguyễn Lễ 39 tuổi đỗ - 1607 Tả thị lang bộ Lễ
(1564-1625) Hoàng giáp - 1615 Hình bộ th−ợng th− kiêm Đông các học
năm 1602 sĩ, Mỹ Khê hầu
- 1625 mất, thọ 83 tuổi, tặng Thiếu bảo
40 Nguyễn Danh Thế 24 tuổi đỗ - 1601 Hàn lâm Hiệu thảo
(1572-1645) Tiến sĩ năm - 1602 Đô cấp sự trung Hộ khoa, Bồi tụng
1592 - 1604 Thái bộc Tự khanh
- 1608 Hữu thị lang bộ Lại, Xuân D−ơng bá
- 1616 Tả thị lang bộ Hộ
- 1718 Đô ngự sử
- 1621 Đốc thị
- 1623 Th−ợng th− bộ Công, gia hμm Dực vận
tán trị công thần, phong Thụy D−ơng hầu
- 1625 gia phong Thiếu bảo
- 1626 Thăng Thiếu phó, Th−ợng th− bộ Hình
- 1627 kiêm chức Đô ngự sử
- 1629 phong ĐƯờng Quận công
- 1632 Tham tụng, dự tán quốc chính, gia hμm
Thái bảo
- 1641 giữ chức Đông các tri Kinh diên sự kiêm
Thượng thư bộ Lễ
- 1645 chết, thọ 73 tuổi
41 Phan Kiêm Toμn 29 tuổi đỗ - 1655 Công khoa Cấp sự trung, Thọ Quế nam
(1615-?) Tiến sĩ năm - 1661 Lại bộ Hữu thị lang, Thụy quận
1643 công
- 1664 Hình bộ Th−ợng th−
- 1665 giáng làm Hộ bộ Hữu thị lang
- 1669 Hình bộ tả thị lang
- 1673 Lại bộ tả thị lang
- 1674 Hình bộ tả thị lang
- 1674 Phế lμm dân th−ờng, đ−a về ở tại trấn
Thanh Hoa
42 Lê Hiệu 27 tuổi đỗ - Trước 1664 Lễ bộ Hữu thị lang Ph−ơng Quế bá
(1617-?) Hoàng giáp - 1664 Công bộ th−ợng th−, thăng t−ớc hầu
năm 1643 - 1668 Đặc tiến kim tử Vinh lộc đại phu, Bồi
tụng Công bộ th−ợng th−, Ph−ơng Quế hầu

315
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
- 1669 Hình bộ th−ợng th−, thăng Tham tụng tể
t−ớng
- 1674 Binh bộ Tả thị lang
- 1674 giáng lμm Tham chính xứ H−ng Hoá
43 Đặng Công Chất 40 tuổi đỗ - Trước 1665 Hàn lâm viện Thị giảng
(1622-1683) Trạng nguyên - 1665 Công bộ Hữu thị lang
năm 1661 - 1683 Thượng thư bộ Hình, Tham tụng
- 1683 mất
44 Nguyễn Viết Thứ 21 tuổi đỗ - 1673 Lại khoa Đô cấp sự trung
(1644-?) Hoàng giáp - 1675 Thiêm đô ngự sử
năm 1664 - 1676 Đông các Học sĩ
- 1691 Thượng thư bộ Hình, Tham tụng, Mai
Sơn nam
- 1692 chết, thặng Thượng thư bộ Lại
45 Nguyễn Quý Đức 29 tuổi đỗ - 1686 Thiêm đô ngự sử
(1648-1720) Thám hoa năm - 1694 Bồi tụng
1676 - 1694 Tả thị lang bộ Lại, tước Liêm Đường bá
- 1694 Đô ngự sử
- 1696 giáng làm Tả thị lang bộ Binh vẫn kiêm
Bồi tụng
- 1698 Tả thị lang bộ Lại
- 1708 Thượng thư bộ Hình, Tham tụng
- 1714 Thiếu phó, tước Liêm Quận công
- 1717 thăng Thái phó, Quốc lão, vinh phong Tá
lý công thần
- 1719 xin trí sĩ
- 1720 chết, thọ 73 tuổi
46 Trịnh Bá Tướng 31 tuổi đỗ - Trước 1740 Bồi tụng, Thượng thư bộ Hình
(1691-1740) Tiến sĩ năm - 1740 chết, tặng Thiếu bảo
1731
47 Nguyễn Đương Hồ 27 tuổi đỗ - Trước 1740 Thượng thư bộ Hình, Phúc Quận
(1657-1740) Hoàng giáp công
năm 1763 - 1740 mất, tặng Thiếu bảo
48 Hồ Sĩ D−ơng 31 tuổi đỗ - 1676 Thượng thư bộ Công, coi việc soạn (giám
(1622-1681) Tiến sĩ năm tu) quốc sử
1652 - 1676 Tham tụng
- 1681 chết, được truy tặng Thượng thư bộ Hộ,
Thiếu Bảo
49 Vũ Duy Đoán 41 tuổi đỗ - 1658 đỗ Tiến sĩ
(1621-?) Tiến sĩ năm - 1683 Bãi chức Thượng thư bộ Công
1664
50 Hồ Phi Tích 26 tuổi đỗ - 1708 Cấp sự trung
(1675-1744) Tiến sĩ năm - 1720 Tả thị lang, tước hầu
1700 - 1724 biếm làm Hữu thị lang bộ Lễ
- 1724 Bồi tụng
- 1730 Thượng thư bộ Công

316
51 Nguyễn Nghiễm 24 tuổi đỗ - Sau khi đỗ làm Tham nhung hiệp đồng tán lý
(1708-1775) Tiến sĩ năm - 1741 Tham chính sứ Sơn Nam, sau triệu về
1731 kinh làm Tế tửu Quốc Tử giám
- 1743 Hàn lâm Thừa chỉ, tước Xuân Lĩnh bá
- 1746 thăng Hữu tham tri bộ Công, tước Xuân
Lĩnh hầu, đặc cách thăng Bồi tụng
- 1748 Nghệ An Tuyên phủ đại sứ kiêm Tán lý
quân vụ
- 1749 về kinh làm Tả thị lang, lĩnh chức Hiệp
trấn sứ Thanh Hoa
- 1750 giáng làm Đông các Đại học sĩ
- 1751 Thiêm đô ngự sử
- 1753 Đô ngự sử, kiêm Đốc trấn Thanh Hoa
- 1755 Hiệp trấn Nghệ An
- 1757 Tả thị lang bộ Hình
- 1759 Tả thị lang bộ Lễ
- 1761 Thượng thư bộ Công, hành Tham tụng,
Đô ngự sử, đứng đầu Quốc Tử giám
- 1764 thăng Thiếu bảo, Xuân Quận công
- 1767 Tham tụng
- 1767 Thăng Thái Thái bảo, tước Xuân Quận
công, gia Đại tư không, xin từ việc Tri Binh
phiên
- 1770 Thái tể
- 1771 xin hưu trí, thăng Thượng thư bộ Hộ, Đại
tư đồ, Tham tụng, Xuân Quận công
- 1771 được vời ra làm Tể tướng, đổi Thượng
thư bộ Hộ
- 1774 Tả tướng quân, tham tán quân cơ dinh
Trung Tiệp ở Thanh Hoa
- 1775 mất, thọ 68 tuổi
52 Nguyễn Bá Lân 31 tuổi đỗ - Lúc đầu giữ chức Phiên tào
(1701-1786) Tiến sĩ năm - 1740 Tả hữu chấp chánh, thăng Hàn lâm viện
1731 Thị giảng
- 1744 Lưu thủ trấn Hưng Hoá, sau làm Đốc trấn
Cao Bằng
- 1756 Thiêm đô ngự sử, nhập thị Bồi tụng, kiêm
Tế tửu Quốc tử giám, tước Lễ Trạch hầu
- 1756 Quốc tử giám Tế tửu
- 1760 Thượng thư bộ Công
- 1766 xin trí sĩ
- Lại ra làm quan, kiêm coi việc từ tụng
- 1767 cai quản cơ Tả Nhuệ và làm Tuyên phủ
sứ đạo Hưng Hoá
- 1770 lại xin trí sĩ
- 1786 mất, tặng Thái tể, tước Quận công
53 Nguyễn Đương Bao 24 tuổi đỗ - 1707 Thiêm sai Bồi tụng
(1647-1727) Tiến sĩ năm - 1714 Thượng thư
1670
54 Nhữ Đình Hiền 22 tuổi đỗ - 1704 Phó đô ngự sử
(1659-?) Tiến sĩ năm - 1714 Thượng thư, Bồi tụng
1680 - 1716 chết
55 Nguyễn Công Cơ 22 tuổi đỗ - Ban đầu làm Hàn lâm viện Hiệu thảo
(1676-?) Tiến sĩ năm - 1704 Hữu thị lang bộ Công

317
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
1697 - 1716 Thượng thư bộ Binh
- 1720 Tham tụng, tước Cảo Quận công
- 1726 Thự phủ sự
- 1733 chết, thọ 59 tuổi, tặng Thiếu phó
56 Lê Hữu Kiều 28 tuổi đỗ - Trước 1737 làm Tư vụ bộ Hộ, quyền HIến sát
(1691-1760) Tiến sĩ năm sứ Kinh Bắc, Hàn lâm viện Thừa chỉ, kiêm Tả
1718 thị lang bộ Công
- 1737 Tả thị lang bộ Công, Liêu Đình bá
- 1740 Đô ngự sử, Bồi tụng
- 1742 Thượng thư bộ Công
- 1742 Lưu thủ Thanh Hoa
- 1743 về kinh đô, thăng Tham tụng
- 1744 Đốc trấn Thái Nguyên
- 1746 Tham thị Nghệ An
- 1748 về kinh làm Thượng thư bộ Lễ
- 1749 Tham tụng
- 1752 thăng Thượng thư bộ Binh
- 1755 xin trí sĩ, thăng Thượng thư bộ Lễ, tước
Liêu Đình hầu
- 1760 mất, thọ 70 tuổi
57 Ngô Sách Hân 32 tuổi đỗ - Sau khi đỗ làm Đông các Hiệu thư, thăng Đốc
(1690-?) Thám hoa năm đồng Sơn Nam, đổi làm Đốc đồng An Quảng
1721 - 1740 Hộ bộ Tả thị lang
- Thời Trịnh Doanh làm Hành Tham tụng
- Sau đổi sang chức võ, làm Binh bộ Thượng
thư, Nhập thị Tham tụng, hàm Thiếu bảo, tước
Huy Quận công
- 1754 xin trí sĩ (65 tuổi)
58 Lê Phú Thứ 31 tuổi đỗ - Trước 1730 Làm giám quan, sau bị bãi chức
(1694-1782) Tiến sĩ năm cho về quê
1724 - Sau được vời ra làm quan, nhưng vì tranh luận
việc tố tụng, bị biếm hai bậc, không được dự bàn
việc cơ mật
- 1758 xin trí sĩ (65 tuổi), được được thăng Tả
thị lang bộ Hộ, tước Diên Phượng bá
- Sau lại khởi phục làm Bồi tụng kiêm Tả chánh
ngôn, thăng Thượng thư bộ Hình
- 1770 xin trí sĩ lần 2
1782 mất, thọ 89 tuổi, tặng Thái bảo, Hà Quận
công
59 Nguyễn Đức Vĩ 28 tuổi đỗ - 1736 Đông các Hiệu thư, thăng Hữu thị lang bộ
(1700-1775) Tiến sĩ năm Hình
1727 - 1739 giáng làm Hữu thị lang bộ Binh, thăng Tả
thị lang bộ Lại
- 1743 Bồi tụng, Thượng thư bộ Công kiêm việc
bộ Lại, Tế tửu Quốc tử giám, Nhập thị kinh diên,
tước Nghĩa Phương hầu
- 1753 Đô ngự sử, thăng Hữu thị lang bộ Lại
- 1763 xin trí sĩ, tặng Công bộ Thượng thư, Thái
tử Thái phó, tước Kế Thiện hầu
- Sau lại được vời ra làm Thượng thư bộ Binh
nhưng làm việc ở bộ Lại
- 1775 mất, tặng hàm Thái bảo
60 Nguyễn Công Thái 32 tuổi đỗ - 1728 Tế tửu Quốc tử giám, coi Binh phiên

318
(1684-?) Tiến sĩ năm - Đông các Hiệu thư
1715 - 1733 Tả thị lang bộ Công, thăng Hữu thị lang
bộ Hình
- Thời Vĩnh Hữu làm Tả thị lang bộ Lại, tước
ứng Quận công
- 1740 Tham tụng
- Thăng Thượng thư bộ Lễ
- Có tội ra coi trấn Thanh Hoa, sau lại làm Tham
tụng
- Trí sĩ, gia Thiếu bảo
- Lại ra làm quan, thăng Thượng thư bộ Lại, hàm
Thái tử Thái phó, Tham tụng
61 Ngô Đình Chất 36 tuổi đỗ - Lúc đầu làm việc ở Viện Hàn lâm
(1686-?) Tiến sĩ năm - Hiến sát Thanh Hoa
1721 - Thiêm sai kiêm Phó đô ngự sử
- 1740 Bồi tụng, Thượng thư bộ Binh, tước
Phương Lĩnh hầu
- 1750 xin trí sĩ

Quá trình thăng/giáng các chức của mố số quan Thƣợng thƣ


không xuất thân khoa bảng thời Lê Trung hƣng
(Nguồn: Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên,
Lịch triều hiến chương loại chí, Các nhà khoa bảng Việt Nam)

STT Nhân vật Quá trình tiến thân

1 Tr−ơng Quốc Hoa - Trước 1567 Lại bộ th−ợng th− kiêm Ngự sử đμi đô ngự sử
- 1567 Thiếu phó, Văn Khê hầu
- 1570 hàng nhà Mạc
2 Nguyễn Đĩnh - 1570 Lại bộ th−ợng th− Từ quận công
3 Nguyễn Mậu Tuyên - Hữu thị lang bộ Lại, tước Nhan Nghĩa bá
- Hữu thị lang bộ Binh, tước Tường Lân bá
- Đầu thời Gia Thái làm Đô ngự sử
- 1580 Thượng thư bộ Công
- 1582 Thượng thư bộ Hộ
- Trước 1593 Lại bộ th−ợng th−
- 1593 Thiếu phó Quỳnh quận công
- 1599 chết, thọ 82 tuổi
4 Trần Huy Bật - Trước 1763 Thượng thư bộ Hình, Bái Xuyên hầu
- 1763 Đô ngự sử
- Trước 1768 Thượng thư bộ Binh Bái Xuyên hầu
- 1770 Thượng thư bộ Lại
- 1772 Giáng làm Thượng thư bộ Công
5 Vũ Duy Chí - 1664 Binh bộ Th−ợng th−, Ph−ơng Lĩnh hầu
- 1667 Gia phong t−ớc Ph−ơng quận công
- 1669 Lễ bộ Th−ợng th−
- 1775 Hộ bộ th−ợng th−
- 1676 về hưu (bấy giờ 72 tuổi) được thăng Thượng thư bộ
Lại, quốc lão, Thái phó.
6 Đàm Công Hiệu - Trước 1716 Bồi tụng
- 1716 Tán thiện
- 1717 Đông các Đại học sĩ

319
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi
- Trước 1720 Tham tụng Thượng thư bộ Công
- 1720 thăng Thượng thư bộ Lễ, tước Quận công, tham dự
triều chính trong khi về trí sĩ
7 Phạm Đốc - Được phong Dương Nghĩa hầu
- 1549 Kim ngô vệ ch−ởng vệ sự, phong Quảng quận công
- 1554 Thái bảo
- 1556 Binh bộ thượng th− ch−ởng bộ sự
- 1557 Thái phó, Đức Quận công
8 Bùi Bỉnh Uyên - Theo Lê Bá Ly quy thuận nhà Lê
- 1592 Phủ doãn Phụng Thiên, Thị lang bộ Hình, bộ Hộ
- 1594 Thượng thư bộ Lễ
- Trước 1614 Th−ợng th− bộ Binh, xin trí sĩ
- 1614 phục chức, gia t−ớc Văn Phong
hầu
- 1614 mất, thọ 95 tuổi, tặng Thiếu bảo, ban thụy lμ Cung ý
9 Nguyễn Khải - 1600 Tả đô đốc, phong lμm Hiệp m−u d−ơng vũ công thần
- 1601 Trấn thủ Sơn Nam
- 1603 tước Đăng quận công
- 1627 Tiền Nhuệ doanh Thiếu uý
- 1632 Thượng thư bộ Binh, Thái bảo Đăng quận công
- 1632 Thái phó, quốc lão tham dự triều chính.
10 Nguyễn Đễ - Trước 1671 Binh bộ th−ợng th− Dĩnh quận công

- 1671 xin về trí sĩ, gia thăng thiếu bảo.


11 Nguyễn Quý Kính - 1734 Tự khanh, Tri Hộ phiên
- 1740 Tham tụng
- 1741 Thượng thư bộ Binh, Tham tụng kiêm việc ở bộ Lại
12 Nguyễn Thế Bá - 1694 Thiêm đô ngự sử
- 1708 Tham tụng
- Trước 1714 Tham tụng Thượng thư bộ Hình
- 1714 xin về trí sĩ
13 Trương Công Khải - Trước 1724 Thượng thư bộ Hình
- 1724 Biếm làm Tả thị lang bộ Lại
14 Đoàn Bá Dung - 1734 Đô ngự sử, Nhập thị Bồi tụng
- 1736 Thượng thư bộ Hình
- 1740 Thượng thư bộ Lễ, Phụ Quận công
- 1740 mất
15 Lê Trọng Phiên - Trước 1773 Thượng thư bộ Hình
- 1773 xin hưu trí
15 Nguyễn Hậu Quyến - 1659 Đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu Công bộ th−ợng th−,
Dĩnh Xuyên hầu
- Trước 1672 Công bộ Th−ợng th−, Thiếu bảo Cẩm quận
công, xin trí sĩ
- 1672 chết, thọ 95 tuổi, gia tặng Hộ bộ Th−ợng th−, ban
thụy hiệu lμ Văn Đẩu
16 Bùi Đĩnh - Trước 1667 Hộ bộ tả thị lang, Nghĩa Xá hầu
- 1667 thăng Nghĩa quận công
- 1669 Công bộ Th−ợng th−
17 Nguyễn Đạo An - Trước 1670 Công bộ Th−ợng th−, Phái quận công
- 1670 Thiếu bảo
18 Trần Đăng Doanh - Trước 1664 Thái th−ờng Thiếu khanh, Liêm Dũng tử
- 1664 Th−ợng bảo Tự khanh
- 1691 Thượng thư bộ Công, Trấn thủ Sơn Tây, Liêm Quận
công

320
- 1691 chết, tặng Thượng thư bộ Hộ, Thiếu Phó
19 Dương Công Trú - Trước 1767 Tả tư giảng, Thượng thư bộ Công, Đạo phái
hầu
- 1767 Thiếu bảo, tước Quận công, gia phong phúc thần
20 Trần Công Thước - 1787 Thượng thư bộ Công, Đồng bình chương sự
21 Nguyễn Đăng Tiến - 1714 Thượng thư
22 Trương Công Giai - 1707 Hữu thị lang bộ Công
- 1708 Phó đô ngự sử
- 1720 Thượng thư
23 Đặng Thế Khoa - Đầu thời Long Đức được phong Liêm Quận công
- 1644 kiêm trấn hai xứ Sơn Tây và Sơn Nam
- 1645 Tả Đô đốc
- 1647 Tả thị lang bộ Hộ, Bồi tụng
- Đầu thời Thịnh Đức thăng Thượng thư bộ Binh, Tham tụng
- 1656 chết, thọ 64 tuổi
24 Nguyễn Quý Cảnh - Coi việc ở phiên
- Thời Long Đức làm Tự khanh, coi việc Hộ phiên
- 1740 Tham tụng, Thượng thư bộ Binh, Thống Quận công
- 1741 kiêm chức Đốc phủ Sơn Tây, thống lĩnh việc quân
- 1743 Tham tụng, thăng Thượng thư bộ Hộ, hàm Thái tử
Thái phó, gia Đại tư mã, cho về hưu

321
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi

Bảng 46: Quá trình thăng/giáng chức của các Thƣợng thƣ xuất thân khoa bảng thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ: Toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên, Cương mục, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Chức quan giữ trƣớc khi làm Thƣợng thƣ Chức Thƣợng Chức giữ/ kiêm nhiệm sau khi làm Thƣợng thƣ
thƣ
Tƣớc cao nhất đƣợc Tổng

Quan Bộ Khác
số chức

Viện Đông các


Quan cùng Bộ

Quan cùng Bộ
Quan Bộ khác

(năm) sau khi


phong

Quốc tử giám
Hàn lâm viện

Hàn lâm viện


Tuổi khi giữ
Quan ngoại

Quan ngoại
Văn phòng

Văn phòng
Ngự sử đài

Ngự sử đài
Chức khác

Chức khác
Lục phiên

Lục phiên
Lục Khoa

Đông Các

Thời gian
Võ quan

Võ quan
Phủ liêu

Phủ liêu
Lục Tự
nhiệm

nhiệm
đỗ TS
chức
Nhân vật

TW

TW
1. Lê Trạc Tú 1 56 24 Văn Dương hầu 2
2. Nguyễn Văn Giai 1 1 63 37 1 1 Lễ Quận công 5
3. Nguyễn Duy Thì 1 2 2 54 28 1 1 2 Tuyền Quận công 10
4. Nguyễn Nghi 57 26 1 1 1 1 Dơng Quận công 5
5. Phạm Công Trứ 1 1 2 55 29 1 1 1 2 1 1 Yên Quận công 12
6. Nguyễn Công Hãng 1 1 1 1 1 40 20 1 1 1 1 Sóc Quận công 10
7. Nguyễn Hiệu 1 2 1 56 30 3 1 1 Nông Quận công 10
8. Trịnh Tuệ 1 1 35 3 1 1 Quận công 5
9. Vũ Công Tể 1 2 55 24 1 Lăng Quận công 5
10. Nguyễn Hoản 1 1 1 1 57 27 1 2 1 1 1 1 1 1 Viện Quận công 14
11. Nguyễn Khản 1 2 2 3 1 2 1 48 22 1 Toản Quận công 14
12. Đỗ Uông 69 36 1 1 Thông Quận công 3
13. Bùi Khắc Nhất 1 56 35 2
14. Phùng Khắc Khoan 1 1 3 1 2 72 20 1 Mai Quận công 10
15. Ngô Trí Hoà 2 1 2 43 16 1 1 Phú Xuyên hầu 8
16. Lu Đình Chất 2 1 1 1 1 61 20 Lộc Quận công 7
17. Dơng Trí Trạch 1 2 76 41 1 1 Bạt Quận công 6
18. Trần Đăng Tuyển 1 1 1 50 24 2 1 Xuyên Quận công 7
19. Đồng Tồn Trach 1 1 3 1 66 37 1 Nghĩa Trạch hầu 8
20. Lê Anh Tuấn 1 2 1 1 1 1 2 Điện Quận công 10
21. Cao Huy Trạc 1 2 55 21 1 1 1 Lam QUận công 7
22. Nguyễn Thực 1 1 1 3 62 25 3 2 Lan Quận công 12
23. Nguyễn Năng Thiệu 1 1 1 1 53 21 1 Dương Quận công 6
24. Nguyễn Quán Nho 2 1 55 26 1 2 1 1 1 Hương giang bá 10
25. Nguyễn Huy Nhuận 1 2 55 30 2 1 2 1 1 Triệu Quận công 11
26. Phạm Khiêm ích 1 3 1 49 18 3 1 1 1 1 Thuật Quận công 13

322
27. Trần Cảnh 1 74 40 Diệu Quận công 2
28. Trần Danh Ninh 1 1 1 1 3 5 2 1 1 63 33 1 1 Bảo Huy hầu 19
29. Lê Bật Tứ 1 1 58 23 Diễn Gia hầu 3
30. Nguyễn Mậu Tài 1 60 30 4 1 Tước bá 7
31. Thân Toàn 1 62 31 1 3
32. NGuyễn Danh Thực 1 1 1 2 1 1 60 32 1 Tước hầu 9
33. Lê Hy 2 1 47 29 1 1 Tước bá 6
34. Phạm Đình Kính 1 1 1 1 67 26 1 1 7
35. Ngô Đình Thạc 2 59 37 1 1 1 Huy Quận công 6
36. Phạm Đình Trọng 1 1 1 36 11 1 Hải Quận công 5
37. Nhữ Đình Toản 1 1 1 1 3 1 2 Trung Phái hầu 11
38. Hà Tông Huân 1 2 1 2 1 63 39 1 1 10
39. Nguyễn Lễ 1 51 13 1 Mỹ Khê hầu 3
40. Nguyễn Danh Thế 1 1 1 1 1 1 3 51 31 1 2 1 1 1 Đường Quận công 16
41. Phan Kiêm Toàn 1 1 49 21 3 Thuỵ Quận công 6
42. Lê Hiệu 1 2 2 1 Phương Quế hầu 7
43. Đặng Công Chất 1 1 61 22 1 4
44. Nguyễn Viết Thứ 1 1 1 47 27 1 Mai Sơn nam 5
45. Nguyễn Quý Đức 2 1 3 60 32 1 Liêm Quận công 8
46. Trịnh Bá Tướng 1 49 9 2
47. Hồ Sĩ Dương 54 24 1 1 3
48. Hồ Phi Tích 1 1 1 1 55 30 5
49. Nguyễn Nghiễm 2 5 2 1 1 1 4 1 1 53 30 1 1 3 1 1 1 1 2 Xuân Quận công 30
50. Nguyễn Bá Lân 2 1 1 1 1 1 59 29 1 1 1 Lễ Trạch hầu 11
51. Nguyễn Đương Bao 1 67 44 2
52. Nhữ Đình HIền 1 54 34 1 3
53. Nguyễn Công Cơ 1 1 40 19 2 Cảo Quận công 5
54. Lê Hữu Kiều 1 1 1 1 1 1 51 24 2 2 3 Liêu Đình hầu 14
55. Ngô Sách Hân 2 1 1 1 50 19 1 Huy QUận công 7
56. Lê Phú Thứ 1 64 34 1 Diên Phượng bá 3
57. Nguyễn Đức Vĩ 1 3 43 16 4 1 1 1 Nghĩa Phương hầu 12
58. Nguyễn Công Thái 1 1 1 1 3 1 56 25 1 1 1 ứng Quận công 12
59. Ngô Đình Chất 1 2 1 54 19 1 Phương Lĩnh hầu 6
Tổng 9 24 8 14 39 9 9 5 34 63 16 2 7 55,6 26,3 4 3 49 44 3 4 9 8 13 15 10 4 464

323
Ket-noi.com kho tai lieu mien phi

Bảng 47: Quá trình thăng/giáng chức của các Thƣợng thƣ xuất thân không khoa bảng thời Lê Trung hƣng
(Thống kê từ: Toàn thư, Đại Việt sử ký tục biên, Cương mục, Các nhà khoa bảng Việt Nam)
Chức quan giữ trƣớc khi làm Thƣợng thƣ Chức Thƣợng Chức giữ/ kiêm nhiệm sau khi làm Thƣợng thƣ
thƣ
Tƣớc cao nhất Tổng số

Viện Đông Các

Quan Bộ Khác
đƣợc phong chức

Viện Đông các


Quan cùng Bộ

Quan cùng Bộ
Quan Bộ khác

(năm) sau khi

Quốc tử giám
Hàn lâm viện

Hàn lâm viện


Tuổi khi giữ
Quan ngoại

Quan ngoại
Văn phòng

Văn phòng
Ngự sử đài

Ngự sử đài
Chức khác

Chức khác
Lục phiên

Lục phiên
Lục Khoa

Thời gian
Nhân vật
Võ quan

Võ quan
Phủ liêu

Phủ liêu
Lục Tự
nhiệm

nhiệm
đỗ TS
chức
TW

TW
1. Trương Quốc Hoa 1 Văn Khê hầu 2
2. Nguyễn Mậu Tuyên 1 2 2 Quỳnh Quận 6
công
3. TRần Huy Bật 3 1 Bái Xuyên hầu 5
4. Vũ Duy Trí 2 Phơng Quận công 3
5. Đàm Công Hiệu 1 1 2 1 Quận công 6
6. Phạm Đốc 1 Đức Quận công 2
7. Bùi Bỉnh Uyên 2 1 1 Văn phong hầu 5
8. NGuyễn Khải 2 1 Đăng Quận công 4
9. Nguyễn Quý Kính 1 1 1 1 1 6
10. Nguyễn Thế Bá 1 1 1 4
11. Trương Công Khải 1 2
12. Đoàn Bá Dung 1 1 1 Phụ Quận công 4
13. Bùi Đĩnh 1 Nghĩa Quận công 2
14. Trần Đăng Doanh 2 1 Liêm Quận công 4
15. Trương Công Giai 1 1 3
16. Đặng Thế Khoa 2 1 1 1 1 Liêm Quận công 7
17. Nguyễn Quý Cảnh 1 2 1 1 1 1 1 9
Tổng 6 2 3 1 4 1 0 4 6 7 0 0 1 13 4 1 1 2 1 74

324

You might also like