You are on page 1of 23

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.

HCM
------------------------------------
KHOA: QUẢN TRỊ
LỚP: QTL45B2
MÔN HỌC: LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

CHỨNG MINH TÍNH DÂN TỘC TRONG BỘ LUẬT HỒNG ĐỨC


Nhóm phản biện

STT Họ và tên Lớp MSSV


1 Đặng Bảo Trân QTL45B 2053401020229
2 Hồ Huyền Trân QTL45B 2053401020230
3 Đinh Thị Thùy Trang QTL45B 2053401020233
4 Hoàng Thùy Trang QTL45B 2053401020234
5 Nguyễn Phạm Thị Hiền Trang QTL45B 2053401020235
6 Phan Phương Uyên QTL45B 2053401020266
7 Trần Lê Khánh Uyên QTL45B 2053401020267
8 Đặng Thị Yến Vy QTL45B 2053401020273
9 Nguyễn Triệu Vy QTL45B 2053401020276
10 Nguyễn Thị Ngọc Xuyến QTL45B 2053401020278
11 Nguyễn Nguyên Gia Hân DS45 2053801012081

NĂM 2023
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt Ý nghĩa
BLHĐ Bộ luật Hồng Đức
BLHS Bộ luật Hình sự
HNGĐ Hôn nhân và gia đình
QTHL Quốc triều hình luật
MỤC LỤC
I. Khái quát về BLHD .....................................................................................................................1
1.1. Sự ra đời và nội dung chính:............................................................................................1
1.2. Những đặc trưng cơ bản của “Quốc triều hình luật”......................................................1
1.2.1. “Quốc triều hình luật” là sự kế thừa và sáng tạo độc đáo các thành tựu luật pháp
trước đó để đạt đến đỉnh cao nhất của thành tựu luật pháp phong kiến Việt Nam...........1
1.2.2. “Quốc triều hình luật” là một bộ luật rất sâu sắc và có sức bao quát lớn................3
1.2.3. “Quốc triều hình luật” đạt một trình độ cao về kỹ thuật luật pháp.........................4
II. Tính dân tộc trong BLHD...........................................................................................................5
2.1. Khái quát về tính dân tộc.................................................................................................5
2.2. Chứng minh tính dân tộc trong BLHD..............................................................................6
2.2.1. Phương pháp làm Luật..............................................................................................6
2.2.2. Nội dung pháp luật....................................................................................................6
2.2.2.1. Truyền thống yêu nước......................................................................................6
2.2.2.2. Về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình..........................................8
2.2.2.3. Về chế định hôn nhân........................................................................................9
2.2.2.4. Tôn trọng phong tục và văn hóa của các tộc người người thiểu số; thừa nhận
tập quán tốt đẹp, loại trừ tập quán tập tục cổ hữu..........................................................9
2.2.2.5. Tinh thần tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm......................................11
2.2.2.6. Tính nhân đạo, khoan dung.............................................................................11
III. Liên hệ Bộ luật Hồng Đức với pháp luật ngày nay.................................................................12
1

I. Khái quát về BLHD 1


1.1. Sự ra đời và nội dung chính:
“Quốc triều hình luật” ra đời trong triều đại nhà Hậu Lê (sơ kỳ) – thời kỳ đất nước ta đạt
đến đỉnh cao của chế độ phong kiến tập quyền. Do nhu cầu phát triển của chế độ Trung ương
tập quyền, các hoạt động lập pháp của nhà Lê được đẩy mạnh nhằm xác lập sự thống trị của
nhà Lê. Các vua đầu triều đã sớm có ý thức xây dựng những quy định và luật lệ để quản lý các
vấn đề trong nước. Lê Lợi đã huy động một số đại thần soạn luật lệ về kiện tụng, về phân chia
ruộng đất, về hình phạt, ân xá, … Đến thời Lê Thái Tông đã xây dựng những nguyên tắc xử các
vụ án kiện cáo, hối lộ và về những hành động giao thiệp với người nước ngoài. Đời Lê Nhân
Tông đã ban hành 14 điều luật về quyền tư hữu ruộng đất. Và đỉnh cao của quá trình xây dựng
hệ thống luật pháp của nhà Lê chính là việc ban hành “Quốc triều hình luật” (còn gọi là “Bộ
luật Hồng Đức” hoặc “Lê triều hình luật”) dưới triều Lê Thánh Tông năm 1483. Văn bản gốc
của Bộ luật này hiện nay không còn. Bản “Quốc triều hình luật” được giữ lại cho đến ngày nay
đã được các vua thời Lê mạt bổ sung ít nhiều, ban hành năm 1777 (Cảnh Hưng thứ 38). Bộ
Quốc triều hình luật bao gồm 6 quyển, 722 điều:
+ Quyển 1 có 2 chương: Danh lệ (49 điều), Cấm vệ (47 điều);
+ Quyển 2 có 2 chương: Vi chế (144 điều), Quân chính (43 điều);
+ Quyển 3 có 6 chương: Hộ hôn (58 điều), Điền sản (59 điều), Thông gian (10 điều);
+ Quyển 4 có 2 chương: Đạo tặc (54 điều), Đấu tụng (50 điều);
+ Quyển 5 có 2 chương: Trá nguỵ (38 điều), Tạp luật (92 điều);
+ Quyển 6 có 2 chương: Bộ vong (13 điều), Đoản ngục (65 điều).
“Quốc triều hình luật” là một bộ luật có tính chất tổng hợp, phạm vi điều chỉnh rất rộng
và được xây dựng dưới dạng hình sự, áp dụng chế tài hình luật. Các nhà nghiên cứu thường
chia nội dung của nó thành: luật Hình, luật Dân sự, luật Hôn nhân gia đình và luật Tố tụng.
1.2. Những đặc trưng cơ bản của “Quốc triều hình luật”
1.2.1. “Quốc triều hình luật” là sự kế thừa và sáng tạo độc đáo các thành tựu luật pháp
trước đó để đạt đến đỉnh cao nhất của thành tựu luật pháp phong kiến Việt Nam.
Năm 1428, “Quốc triều hình luật” được ban hành với vai trò nổi bật của vị vua anh minh
sáng suốt Lê Thánh Tông. Bộ “Quốc triều hình luật” ngày nay chúng ta còn giữ được cho thấy
đây không chỉ là thành quả lớn lao ngành lập pháp đời Lê Thánh Tông mà nó được sinh ra trên

1
“Quốc triều Hình luật” đỉnh cao của thành tựu luật pháp Việt Nam thời phong kiến, [https://lsvn.vn/quoc-
trieu-hinh-luat-dinh-cao-cua-thanh-tuu-luat-phap-viet-nam-thoi-phong-kien.html] (truy cập ngày 25/10/2023).
2

cơ sở kế thừa nhiều thành tựu lập pháp của các triều đại trước, của Trung Quốc và của các
vua đầu triều Lê.
Ngay sau khi lên ngôi, Lê Thái Tổ đã ban hành nhiều những quy định về hình phạt và luật
lệ kiện tụng, về chức tước các quan văn võ, về phân cấp hệ thống chính quyền địa phương,…
Lê Thái Tổ tỏ ra đặc biệt quan tâm đến những vấn đề thời hậu chiến như hạn chế thế lực và
quyền hạn của các quan đại thần, tướng hiệu, việc lập sổ điền, sổ hộ, việc cấm bỏ hoang
ruộng đất… nhằm nhanh chóng thiết lập lại kỷ cương nhà nước, trật tự xã hội, củng cố địa vị
của Vua, kiểm soát chặt chẽ đất đai, thuế khoá, … Hầu hết các điều khoản ở chương I được
ban hành dưới triều đại Thái Tổ – làm cơ sở cho việc áp dụng pháp luật của triều đại mới ngay
từ những ngày đầu lên nắm chính quyền. “So sánh hệ thống các hình phạt được quy định tại
chương I “Quốc triều hình luật” với những ghi chép về hình phạt dưới thời Thái Tổ trong chính
sử, chúng ta thấy có sự trùng khớp hầu như hoàn toàn”.
Theo “Hồng Đức thiện chính thư” – một cuốn sách chép tay, sưu tập những luật lệ dưới
thời Hậu Lê (xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XVI) thì có 5 điều khoản trong “Quốc triều hình
luật” là những quy định của vua Lê Thái Tông đặt ra và được đưa vào bộ luật này. Đó là các
điều khoản: 310, 502, 507, 513, 527 quy định các lĩnh vực khác nhau. Ngoài ra, năm 1434, Lê
Thái Tông đã ra một lệnh chỉ quy định về thẩm quyền và trình tự xét xử có đề cao đến chức
danh xã quan và lộ quan. Lệnh này hoàn toàn phù hợp với điều 672 của “Quốc triều hình
luật”.
Dưới thời Nhân Tông, hiện tượng mua bán, chuyển nhượng ruộng đất trở nên phổ biến
và thường gây ra những cuộc tranh chấp đòi hỏi phải có quy định rõ ràng để giải quyết. Năm
1449, Lê Nhân Tông ban hành 14 điều luật, bổ sung vào Hình luật chương Điền sản. Và trong
“Quốc triều hình luật”, 14 điều này được xếp vào một phần riêng thuộc chương VI với tiêu đề
“Điền sản mới tăng thêm” (từ điều 374 đến điều 387).
Ngoài ra, “Quốc triều hình luật” còn thừa kế trực tiếp thành tựu từ các bộ luật của triều
đại trước như Hình thư đời Lý và Hình thư nhà Trần. Chủ yếu là “Quốc triều hình luật” trên cơ
sở những quy định của hai bộ luật này và bổ sung thêm những yếu tố phù hợp. Ví dụ như bổ
sung thêm hai hình phạt đồ, lưu để hoàn chỉnh hệ thống hình phạt. Điều đó được thể hiện ở
các điều 9, 24, 26, 51, 411, 412, … Điều 22, 27, 46 hoàn thiện hơn hình phạt biếm được đưa ra
từ thời nhà Hồ (1406).
Trên cơ sở kế thừa những thành tựu luật pháp từ các đời trước ở trong và ngoài nước
như thế, Lê Thánh Tông đã có sự sáng tạo và đóng góp lớn lao để hoàn thiện cơ bản bộ “Quốc
triều hình luật”. Phần lớn các luật lệ ban hành dưới thời Lê Thánh Tông được tập hợp trong
3

hai tập tư liệu là Thiên hạ nam dư hạ tập và Hồng Đức thiện chính thư. Khi so sánh hai tập tư
liệu này với “Quốc triều hình luật” ta thấy có 83 điều khoản được Lê Thánh Tông đưa thêm
“Quốc triều hình luật”. Ngoài ra, có nhiều điều khoản Thánh Tông sử dụng của pháp luật thời
trước nhưng đã có sửa chữa, bổ sung cho phù hợp với điều kiện đất nước khi đó. Lê Thánh
Tông cũng tham khảo và tiếp thu chọn lọc pháp luật Trung Hoa. Đầu tiên là học tập về cấu
trúc, mô phỏng theo bộ luật nhà Đường (các chương về cơ bản rất giống nhau về tên gọi và
phạm vi điều chỉnh). Tuy nhiên, “Quốc triều hình luật” có 4 chương khác là chương 3, 4, 6, 7
và 9, thể hiện sự độc lập tương đối của các nhà làm luật triều Hậu Lê. Những điều khoản vua
Lê Thánh Tông bổ thêm chủ yếu nhằm củng cố chặt chẽ hơn nữa quan hệ vua – tôi và lễ nghi
Nho giáo trong gia đình. Đồng thời, những điều khoản đó cũng nhằm hướng tới điều chỉnh
những quan hệ xã hội liên quan đến đời sống của nhân dân, trong đó luôn có sự kết hợp hài
hoà giữa luật tục, lễ nghi và tư tưởng Nho giáo. Qua đó, cho chúng ta thấy tư duy cởi mở của
tập đoàn phong kiến Lê Sơ, không bị hạn chế bởi tư tưởng tự tôn cực đoan thường thấy ở các
triều đại phong kiến khác mà sẵn sàng tiếp thu và chủ động sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể
nước ta thời kỳ đó.
1.2.2. “Quốc triều hình luật” là một bộ luật rất sâu sắc và có sức bao quát lớn
Về nội dung, “Quốc triều hình luật” là một bộ “tổng luật”. Nếu xét theo khoa học pháp lý
hiện đại, bộ luật này sẽ bao gồm các quy phạm pháp luật ở nhiều ngành luật khác nhau: luật
hôn nhân – gia đình, luật dân sự, luật hành chính, luật hình sự, luật tố tụng. Tìm hiểu bộ luật,
chúng ta thấy phạm vi điều chỉnh và sự can thiệp của nó rất rộng, bao quát lên toàn bộ các
mặt đời sống xã hội, từ những quan hệ trong gia đình đến những quan hệ trong làng xã, từ
quan hệ vua tôi đến quan hệ vợ chồng cha con, mẹ con, từ các lĩnh vực kinh tế đến các lĩnh
vực quản lý hành chính, ngoại giao, quân sự trong nước…
Về hình thức, các điều khoản được quy định ở đây rất cụ thể, chi tiết, tinh vi, thậm chí
đôi chỗ còn rơi vào sự vụn vặt, liệt kê. Bộ luật xây dựng trên cơ sở có một sự nghiên cứu rất
sâu sắc của các nhà làm luật, nghiêng về các vấn đề mà nó hướng tới việc điều chỉnh. Ví dụ,
trong lĩnh vực hôn nhân gia đình, các nhà làm luật nghiên cứu và đưa ra rất nhiều trường hợp
khác nhau để đưa ra các xử lý. Bộ luật quan tâm nhiều đến vấn đề kết hôn, li hôn, các điều
kiện, và thủ tục hình thức, hậu quả pháp lý… Trong vấn đề kết hôn, bộ luật còn chỉ ra rõ các
trường hợp cấm kết hôn như đang có tang cha, mẹ, chồng, khi ông bà cha mẹ đang bị giam
tù… hoặc trong vấn đề về quyền thừa kế tài sản, chế độ tài sản gia đình, chế độ tài sản giữa vợ
và chồng… Luật quy định rất rõ, từng trường hợp được đưa ra rất cụ thể và minh bạch, rõ
ràng.
4

Bộ luật Hồng Đức đã có những quy định điều chỉnh khá toàn diện và mang những sắc
thái riêng biệt, độc đáo, phù hợp với phong tục tập quán của dân tộc Việt Nam (có 53/722
điều luật, chiếm 7% tổng số điều). Ngoài những đặc điểm chung mang tính lịch sử của quan hệ
hôn nhân gia đình trong thời kỳ phong kiến (như chịu sự chi phối nặng nề của hệ tư tưởng
Nho giáo, duy trì chế độ đẳng cấp, bảo vệ chế độ đa thê, gia trưởng…) trong chế định về hôn
nhân gia đình, Bộ luật Hồng Đức đã chứa đựng những giá trị nhân văn to lớn, đã tiếp thu
phong tục truyền thống tốt đẹp của dân tộc, bảo vệ quyền lợi của phụ nữ trong quan hệ hôn
nhân gia đình. Nhìn một cách tổng thể, Bộ luật Hồng Đức là một bộ tổng luật bao quát tất cả
các lĩnh vực cơ bản của xã hội Đại Việt: từ quan chế, trách nhiệm quan lại đối với việc thực thi
nhiệm vụ, đối với đời sống, quyền lợi của người dân; bảo vệ nhóm xã hội yếu thế; hôn nhân -
gia đình; dân sự; thủ tục tố tụng, kỹ thuật pháp lý.
Như vậy, tính bao quát và tỉ mỉ của “Quốc triều hình luật” thể hiện rất rõ. Nó thể hiện
một khả năng làm luật rất đặc sắc và chu toàn của các nhà Lê vào thế kỷ XV. Sự bao quát tỉ mỉ
đó vừa tạo ra cho bộ luật một sự chặt chẽ, vừa tạo cho nó một tầm vóc tương đối toàn diện
bởi “toàn bộ kỷ cương phép nước của quốc gia Đại Việt đều được đúc kết lại trong 722 điều
cụ thể”.
1.2.3. “Quốc triều hình luật” đạt một trình độ cao về kỹ thuật luật pháp
Điều tiến bộ lớn nhất của bộ luật này là đã chú ý đến tính hệ thống trong nội dung các
điều luật. Các nhà làm luật đã ghép tương đối hợp lý các điều gần nhau về tính chất vào một
chương và các chương có liên quan đến nhau được để trong một quyển. Hơn thế nữa, trong
hoàn cảnh và trình độ pháp lý của thế kỷ XV, sự hoàn thiện và phong phú của các tình tiết cụ
thể khiến cho nhiều nhà nghiên cứu và chúng ta ngày nay phải ngạc nhiên và thán phục. Hầu
hết tất cả những vấn đề lớn nhỏ trong xã hội đều được nêu ra trong bộ luật. Thậm chí, cả
những quy định dành riêng cho binh lính cũng được tập hợp một cách có hệ thống. Một số
điều đã đạt tới trình độ tiếp cận với kỹ thuật lập pháp hiện đại: ý chí phạm tội, tình tiết làm
nặng hoặc giảm nhẹ tội. Các điều luật trong “Quốc triều hình luật” không có tên gọi mà chỉ
đánh số điều, vì vậy, trong rất nhiều điều luật, nhà làm luật không chỉ quy định một hành vi
phạm vi tội mà còn quy định cả cách xử lý đối với những người có liên quan trong trường hợp
phạm tội đó. Một số quy phạm pháp luật có cách trình bày tương đối độc đáo và dễ hiểu, mô
tả những tình huống cụ thể đến chi tiết. Thậm chí, trong bộ luật còn cụ thể hoá tới mức giả
định cả tên người trong hành vi hoặc quan hệ pháp luật (điều 397). Cách diễn đạt như vậy
đảm bảo cho các quy phạm pháp luật phức tạp có thể được mọi người hiểu một cách dễ dàng.
5

Phần chế tài trong các quy phạm pháp luật của “Quốc triều hình luật” được quy định
dưới dạng chế tài cố định. Ở “Quốc triều hình luật” thì các mức chế tài nặng hay nhẹ, tăng
nạng hay giảm nhẹ tội được ấn định rõ ràng cho mối hành vi vi phạm cụ thể (điều 466). Điều
đó đảm bảo tính chính xác cao nhất trong việc áp dụng pháp luật để quản lí đất nước của
chính quyền Hậu Lê.
Cách diễn đạt các quy phạm pháp luật dân chiếu được sử phổ biến trong “Quốc triều
hình luật”. Khi cần xác định nội dung pháp lý hoặc hành vi pháp lý nào đó cần phải được xử lý
theo điều luật khác. Trong bộ luật cũng có một số điều nêu lên một số khái niệm pháp lý đáng
lưu ý: khái niệm “bất hiếu” (điều 2), “lầm lỡ” (điều 499), …thậm chí điều 642 còn nêu lên như
một nguyên tắc, một công thức pháp lý để vận dụng vào thực tế trước những điều luật không
có điều luật cụ thể nào tương ứng.
Có thể nói, “Quốc triều hình luật” là “văn bản quy phạm pháp luật chứa đựng những giá
trị rất quý báu về tư tưởng và kỹ thuật lập pháp”. Các nhà làm luật triều Hậu Lê và vua Lê
Thánh Tông đã thực sự xây dựng được một trình độ kỹ thuật tiến bộ so với thời đại.
II. Tính dân tộc trong BLHD
2.1. Khái quát về tính dân tộc
Tính dân tộc có thể được hiểu là những đặc điểm nổi bật của cộng đồng người có chung
lãnh thổ, ngôn ngữ, phương thức và chế độ chính trị trải qua một thời kỳ lịch sử lâu dài 2. Tính
dân tộc không bộc lộ một cách rõ ràng, cụ thể thành yếu tố hữu hình mà nó thấm vào trong
cảm xúc, trong cách nhìn và phương thức thể hiện của các tác phẩm thời kỳ đó.
Bộ luật Hồng Đức hay còn gọi là Quốc Triều Hình Luật là một thành tựu tự hào, là cột
mốc của vua Lê Thánh Tông trong việc cải cách, xây dựng đất nước, đặt nền móng cho tư
tưởng về nhà nước pháp quyền, những quy định điều chỉnh hành vi chuẩn mực xã hội. Đồng
thời, thể hiện được yếu tố đặc trưng về hoàn cảnh thời bấy giờ, khắc họa được đời sống
người dân, những phẩm chất truyền thống tốt đẹp từ bao đời, sự phát triển tiến bộ của đất
nước. Những điều này tạo ra nét đặc trưng của dân tộc ta, riêng biệt hoàn toàn so với các
quốc gia khác cùng giai đoạn. Bộ luật Hồng Đức không chỉ là tác phẩm kinh điển chứng minh
trình độ văn minh, văn hóa pháp lý của dân tộc Việt trong quá khứ mà còn để lại nhiều giá trị,
kinh nghiệm có thể nghiên cứu tiếp thu, kế thừa trong hoạt động lập pháp hiện nay. Cụ thể,
tính dân tộc trong BLHĐ được thể hiện qua một số chi tiết như sau 3:

2
Bùi Tuấn An, “Tính dân tộc là gì và tính dân tộc trong văn học”, [h ttps://luatminhkhue.vn/tinh-dan-toc-la-gi-
bieu-hien-va-suc-manh.aspx] (truy cập ngày 25/10/2023).
3
Trường Đại học Luật TP. HCM (2008), Tập bài giảng Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, tr. 146 -147.
6

- Truyền thống yêu nước, quy định về các vấn đề an ninh quân sự chặt chẽ, có trong “thập
đại tội ác”, một phần do hoàn cảnh ra đời nhà Lê Sơ là từ chiến tranh (khởi nghĩa Lam Sơn).
- Coi trọng trật tự ngôi thứ giữa các thành viên trong gia đình, đặc biệt chú trọng tới người
phụ nữ trong pháp luật về hôn nhân gia đình.
- Truyền thống coi trọng việc thờ cúng tổ tiên, nghĩa vụ tang chế, bảo vệ chữ hiếu trong
mối quan hệ giữa cha mẹ với con cái, ông bà và cháu; Coi trọng chữ hòa trong mối quan hệ
anh em như cấm tranh giành di sản hay có hành vi bất hòa khác. Pháp luật hình sự cho phép 1
số trường hợp những người thân thích có thể chịu tội cho nhau được phép che dấu 1 số loại
tội trừ nhóm thập ác.
- Thừa nhận tập quán tốt đẹp, loại trừ tập quán tập tục cổ hữu. Pháp luật hình sự nghiêm
trị những hành vi đồng bóng, bói toán có tính mê hoặc (Điều 332); trong hôn nhân thì nghiêm
cấm hành vi tảo hôn hay kết hôn giữa người có mối quan hệ huyết thống.
- Trong quan hệ sản xuất đời sống kinh tế thì đề cao tinh thần tương thân tương ái, tình
làng nghĩa xóm...
Theo tư liệu lịch sử, trước nhà Lê các chính quyền Nhà nước Việt tự chủ trước đó như
Đinh, Lý, Trần…ra đời là sự kế thừa, chuyển giao chính quyền từ tập đoàn dòng họ này sang
tập đoàn dòng họ khác. Nhà Lê sơ được thành lập hoàn toàn khác. Đó là kết quả của cuộc
kháng chiến chống Minh lâu dài, anh dũng, vẻ vang của dân tộc. Ý thức về độc lập, về toàn vẹn
lãnh thổ núi sông từ lâu đã hình thành tiềm tàng trong nhận thức của mỗi người dân đất Việt,
nên ý thức dân tộc càng được nêu cao và trở thành niềm tự hào dân tộc, ý thức tự tôn dân
tộc đã ảnh hưởng và chi phối cả lĩnh vực lập pháp. Bộ QTHL – tinh hoa của luật pháp thời Lê
sơ đã tiếp thu tư tưởng truyền thống dân tộc, ý thức tự tôn dân tộc về một nền văn hoá phát
triển không thua kém Trung hoa.
2.2. Chứng minh tính dân tộc trong BLHD
2.2.1. Phương pháp làm Luật
Bộ luật Hồng Đức là thành tựu lập pháp của nhiều triều vua hậu Lê, trong đó vua Lê Thái
Tổ là người khởi xướng cho ban hành đầu tiên và người có công lao lớn nhất hoàn thiện và bổ
sung thuộc về Lê Thánh Tông. Dưới thời Lê Thánh Tông, bộ Bộ luật Hồng Đức được chỉnh lý,
bổ sung và trở thành một bộ luật hoàn chỉnh và có giá trị đặc biệt trong lịch sử lập pháp của
Việt Nam. Vua Lê Thánh Tông với sự anh minh, sáng suốt của mình đã duyệt chỉnh và đưa
thêm vào Bộ luật Hồng Đức nhiều điều luật mới bao gồm: Chương Vi chế 10 điều, Quân chính
2 điều, Vệ cấm 1 điều, Hộ hôn 9 điều, Điền sản 21 điều, Thông gian 5 điều, Đạo tặc 16 điều,
Đấu tụng 6 điều, Trá ngụy 2 điều, Tạp luật 7 điều và Đoán ngục 1 điều.
7

Chương Điền Sản gồm 32 điều có nội dung điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ chế độ
sở hữu Nhà Nước về ruộng đất được ban hành dưới triều Vua Lê Thái Tổ. Chương điền sản
mới tăng thêm gồm 14 điều, điều chỉnh các quan hệ phát sinh từ chế độ tư hữu ruộng đất
được ban hành dưới triều Vua Lê Nhân Tông. Chương Tăng bổ tham chước hiệu đính hương
hỏa gồm 9 điều được Lê Thánh Tông bổ sung điều chỉnh quan hệ thừa kế ruộng hương hỏa.
Như vậy, bộ luật thể hiện rõ nét sự phát triển kinh tế - xã hội nội tại của chế độ phong kiến
Việt Nam.
2.2.2. Nội dung pháp luật
2.2.2.1. Truyền thống yêu nước
- Truyền thống yêu nước là một trong những biểu hiện quan trọng của tính dân tộc trong
pháp luật thời Lê sơ vì sự ảnh hưởng từ tư tưởng Nho giáo. Quan niệm trung hiếu của Nho
giáo đã đi sâu vào pháp luật thời kì này vì sự trung hiếu của thần tử đối với quốc gia, đối với
vua là điều hết sức quan trọng. Vì vậy, Bộ Luật Hồng Đức liệt vấn đề này vào tội “Thập ác” (10
tội nguy hiểm nhất và không được ân xá) là tội liên quan đến vương quyền như Tội mưu phản
(phản bội tổ quốc - điều 412), đại bất kính (430, 431). Ngoài ra, Bộ Luật Hồng Đức quy định rõ
trách nhiệm bảo vệ đường biên, vùng biển, cửa quan. Các hành vi xâm phạm an ninh và toàn
vẹn lãnh thổ bị trừng trị nghiêm khắc như Điều 71 Bộ luật này quy định: “Người trốn qua cửa
quan ra khỏi biên giới đi sang nước khác thì bị chém”; “Người giữ cửa ải (coi xét cửa biển
cũng vậy) không biết thì bị lưu đày châu sa” hoặc “Những người bán ruộng đất ở bờ cõi cho
người nước ngoài thì bị chém” (Điều 74). Quan phường xã biết mà không tố giác thì giảm một
bực tội. Quan lộ, huyện trấn dung túng thì tội giống việc kẻ bán kia. Vô tình không biết thì xử
tội biếm, phạt…buộc các quan đại thần phải tuyệt đối trung thành và tận tụy với nhà vua ( các
điều 234, 236, 624, 625); Bên cạnh đó, đề phòng nguy cơ tái xâm lược của nhà Minh, Bộ luật
Hồng Đức có những quy định nghiêm khắc trừng trị những kẻ thông đồng hoặc tiết lộ công
việc triều đình trong nước cho người nước ngoài (các điều 71, 612, 613), cấm không được tự
tiện qua biên giới, kiểm soát chặt chẽ việc thông thương…
- Nhóm tội phạm nguy hiểm này không được hưởng chế độ nhân đạo, mà thường được
nhắc đến là “Thập ác bất xá”. Tội thập ác là những tội xâm hại đến vương quyền của nhà vua,
đến trật tự xã hội của Nho giáo. Bởi vậy, dưới cái nhìn của nhà làm luật phong kiến, thập ác là
những trọng tội nguy hiểm nhất, và luôn đi kèm với đó là những hình phạt nghiêm khắc và tàn
bạo nhất. Do đặc điểm này mà pháp luật phong kiến quy định các tội thập ác không được
hưởng nghị giảm theo chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được hưởng
chế độ đặc xá, đại xá. Những người phạm tội này sẽ bị trừng phạt bằng những hình phạt
8

nghiêm khắc nhất (cao nhất là tội tử, giảo, hoặc trảm còn có cả lăng trì). Biện pháp trừng phạt
được áp dụng không chỉ khi đã có hành vi phạm tội gây ra hậu quả mà còn cả khi chỉ có ý định
mưu phản. Ngoài những hình phạt nghiêm khắc nhất, người phạm tội còn phải chịu những
hạn chế bất lợi khác như không được hưởng các chế độ bát nghị (tám trường hợp được miễn
giảm khi phạm tội), không được chuộc tội bằng tiền, không được miễn chịu hình phạt khi có
dịp đại xá, ân xá của vua hay khi người đó tự thú. Các quy định trong nhóm tội Thập ác nhằm
bảo vệ nền thống trị của các triều đại phong kiến, quyền và lợi ích của nhà vua và họ hàng
thân thuộc của nhà vua cũng như trật tự đạo đức xã hội phong kiến nói cách khác là nhằm đề
cao đức trung quân, bảo vệ tuyệt đối quan hệ vua tôi, đề cao đạo hiếu đễ, bảo vệ trật tự gia
đình gia trưởng phong kiến. Điển hình là mưu phản, mưu đại nghịch, mưu bạn, đại bất kính.
Điều này được thể hiện ở Điều 411 Quốc triều hình luật quy định “những kẻ mưu làm phản,
mưu làm việc đại nghịch, thì xử tội chém bêu đầu; kẻ tòng phạm và thân đảng biết việc ấy đều
phải tội chém; vợ con điền sản đều bị tịch thu làm của công; thưởng cho người cáo giác tước
và một phần ba số điền sản tịch thu. Quan sở tại không biết phát giác và truy bắt thì phải tội
tùy theo việc nặng nhẹ. Cố tình dung túng hay giấu giếm thì xử như kẻ phạm tội”. Quy định
này đã cho thấy sự đề cao lòng trung thành với đất nước, cũng như nhấn mạnh tầm quan
trọng của việc giữ vững lòng trung thành ấy từ những người có chức vụ tới người dân bình
thường.
- Sự hưng vong của một triều đại gắn liền với việc bảo vệ an ninh quốc phòng. Chính vì
thấy được tầm quan trọng đó nên các vua nhà Lê sơ rất quan tâm và đã có những biện pháp
hữu hiệu để nâng cao hoạt động của quân đội, giúp nhà Lê sơ trị vì 100 năm mà không có bất
ổn chính trị nào đáng kể, đưa xã hội hội Lê sơ đạt đến sự phát triển thịnh vượng nhất trong
lịch sử phong kiến Việt Nam. Đồng thời, sức mạnh trong quân đội thể hiện thông qua sức
mạnh kỷ luật hết sức nghiêm minh, các biện pháp xử lý hành vi vi phạm rất nặng nề, hà khắc,
thể hiện tính trừng trị cao. Vì vậy, quy định về vấn đề này rất được chú trọng, như: Nhóm tội
phạm về quân sự: được quy định tại Chương Quân chính. Chương Quân chính có 43 điều luật,
trong đó có 32 điều quy định hình phạt kèm theo. Chủ thể chủ yếu của nhóm tội này là quan,
quân làm việc trong quân đội hay còn gọi là Ban võ. Ngoài ra, còn có chủ thể là dân thường
hay một số quan lại khác làm việc ở địa phương đã không tuân thủ luật lệnh trong binh lính
như bắt lính những đối tượng phải đi lính, dân thường không chịu đi lính khi có lệnh gọi, hay
những hành vi trộm cắp vũ khí quân dụng... Xuất phát từ chức năng của quan võ là giúp nhà
vua trông coi việc quân, cung cấp và quản lý sức người, sức của cho triều đình trung ương.
Đây là những công việc hết sức khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy quốc gia, biên
9

cương. bờ cõi. Nhìn chung, nhóm tội này thể hiện sự nguy hiểm cho xã hội phong kiến rất cao,
ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của giai cấp thống trị phong kiến. 4
2.2.2.2. Về mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình
Trong lịch sử pháp luật Việt Nam, chữ hiếu đã sớm được điều chỉnh trong những bộ cổ
luật và vẫn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành. Nói đến chữ hiếu
trong luật pháp là nói đến quyền và nghĩa vụ (chủ yếu là nghĩa vụ) của con cháu đối với cha
mẹ, ông bà và chế tài đối với những hành vi vi phạm nghĩa vụ đó do luật định. Trong đời sống
xã hội, “hiếu” và “nghĩa” là những khái niệm thuần túy đạo đức, tuy nhiên để có được những
quy định cụ thể trong việc điều chỉnh những quan hệ xã hội liên quan đến những vấn đề này,
Bộ luật Hồng Đức đã đưa ra được những khái niệm cụ thể.
Ngay Điều 2, Chương đầu tiên của Quốc triều hình luật (Chương Danh lệ Quyển I) đã quy
định bất hiếu là một “thập ác” (mười tội ác). “Bất hiếu là tố cáo, rủa mắng ông bà, cha mẹ,
trái lời cha mẹ dạy bảo; nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn
mặc như thường; có tang ông bà, cha mẹ mà giấu, không cử ai (không tổ chức tang lễ); nói
dối là ông bà, cha mẹ chết”.
Theo đó, khi ông bà, cha mẹ còn sống, con cháu phải tôn kính, phụng dưỡng, vâng lời,
bảo vệ ông bà, cha mẹ, nếu vi phạm sẽ bị xử phạt, cụ thể:
- Nếu con cháu trái lời dạy bảo và không phụng dưỡng bề trên mà bị ông bà, cha mẹ trình
lên quan thì xử tội đồ làm khao đinh (phục dịch quân đội); con nuôi, con kế mà thất hiếu với
cha nuôi, cha kế thì xử phạm tội trên một bậc và mất những tài sản đã chia. Lăng mạ ông bà,
cha mẹ thì xử tội lưu châu ngoài (đánh 90 trượng, thích vào mặt 8 chữ, bắt đeo xiềng hai
vòng, đày đi làm việc ở xứ Bố Chính – nay thuộc Quảng Bình); đánh thì xử lưu châu sa (đánh
100 trượng, thích vào mặt 10 chữ, bắt đeo xiềng 3 vòng, đày đi làm việc ở các xứ Cao Bằng);
đánh bị thương thì xử thắt cổ; vì lầm lỡ mà làm chết thì xử tội lưu châu ngoài; bị thương thì
xử tội đồ làm chủng điền binh (Điều 11 Chương Đấu tụng quyển IV- Điều 475).
- Con cháu không được kiện cáo ông bà, cha mẹ, trừ một số trường hợp được luật cho
phép: Con cháu kiện nhau với ông bà, cha mẹ, ông bà ngoại đều phải biếm một tư; nếu lý lẽ
trái thì xử thêm tội một bậc (Điều 47 chương Đấu tụng Quyển IV- Điều 511).
- Con cháu tố cáo ông bà, cha mẹ có tội lỗi gì, đều xử tội lưu đi châu xa…; nếu là tội mưu
phản, đại nghịch hay là mẹ đích, mẹ kế mà giết cha, cha mẹ nuôi giết con thì cho phép tố cáo.

4
Trường đại học Luật TPHCM(2021),Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam,Nxb.Hồng Đức-Hội Luật gia Việt
Nam, tr233,234
10

Nếu xâm phạm đến mình, mà đi kiện cáo để được minh oan thì được; nếu vu cáo thì xử theo
tội đã vu mà lại tăng thêm một bậc (Điều 40 chương Đấu tụng Quyển IV- Điều 504).
- Nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ: trách nhiệm của con cái đối với cha mẹ là phụng dưỡng
khi cha mẹ tuổi cao sức yếu. Hành vi vi phạm nghĩa vụ này sẽ cấu thành tội bất hiếu trong
nhóm thập ác tội Điều 506 Bộ luật hồng đức con cháu không phụng dưỡng ông bà, cha mẹ bị
xử đồ.
- Bên cạnh đó, pháp luật hình sự cho phép một số trường hợp những người thân thích có
thể chịu tội cho nhau được phép che giấu một số loại tội trừ nhóm thập ác.
Do sự kết hợp các phong tục tập quán lâu đời của Việt Nam với đạo đức Nho giáo, hoà
nhập chúng vào hệ thống pháp luật của triều đình mà mối quan hệ cha mẹ và con cái trong
QTHL không có tính chất tuyệt đối phục tùng, tuyệt đối định đoạt như Nho Giáo.
2.2.2.3. Về chế định hôn nhân
a) Về mối quan hệ giữa vợ và chồng
Việt Nam thời Hồng Đức chịu ảnh hưởng sâu sắc của hệ tư tưởng Nho giáo, mặc dù tuân
thủ khá nghiêm ngặt những quan điểm của Nho giáo là địa vị, vai trò của người phụ nữ, người
vợ bị coi thường và bị hạ thấp so với người đàn ông, người chồng. Nhưng trong Bộ luật Hồng
Đức, có nhiều điều thể hiện sự nới lỏng những ràng buộc đối với người phụ nữ, người vợ
trong gia đình. Nhân phẩm con người và các quyền cơ bản của người phụ nữ được thừa nhận,
bảo vệ và thể hiện cụ thể trong Bộ luật Hồng Đức. Đây là sự kế thừa những giá trị truyền
thống tốt đẹp, kế thừa những thuần phong, mỹ tục của dân tộc và con người Việt Nam.
Tại Điều 308 Bộ luật Hồng Đức chỉ rõ: “Phàm chồng bỏ lững vợ 5 tháng không đi lại (vợ
được trình quan sở tại, quan xã làm chứng) thì chồng đó mất vợ. Nếu đã có con thì gia hạn 1
năm. Nếu đã thôi vợ mà cản trở người khác cưới vợ cũ thì xử biếm”. Điều 309 quy định:
“Người nào mà quá say đắm với nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì bị xử tội biếm”. Bên cạnh đó,
tất cả những hành vi gian dâm đều bị nghiêm trị với khung hình phạt rất nặng.
Ngoài ra, BLHĐ còn tiếp thu truyền thống tôn trọng người phụ nữ của dân tộc ta. BLHĐ
thừa nhận quyền ly hôn của người vợ trong một số trường hợp nhất định, ví dụ trong trường
hợp chồng không làm tròn nghĩa vụ với vợ thì vợ được quyền ly hôn (Điều 308 - 333).
b) Về thủ tục, điều kiện kết hôn:
Điều 314 quy định việc kết hôn rất phù hợp với phong tục tập quán của nước ta. Điều
kiện kết hôn duy nhất là phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc của những bậc bề trên khác
trưởng họ trong trường hợp cha mẹ đã chết. Về hình thức kết hôn: Sự đính hôn chỉ coi là có
hiệu lực về mặt pháp lý khi nhà người gái nhân đã sinh lễ mà nhà trai mang sang, đó là hình
11

thức hứa hôn. Lễ trao và nhận nhẫn cưới phải thực hiện một cách trọng thế với sự có mặt của
cha mẹ.
Do sự kết hợp các phong tục tập quán lâu đời của Việt Nam với đạo đức Nho giáo hòa
nhập chúng vào hệ thống pháp luật của triều đình mà mối quan hệ cha mẹ và con cái trong
BLHD không có tính chất tuyệt đối phục tùng tuyệt đối sinh đoạt như Nho Giáo. Như vậy, tính
dân tộc độc dẫn và đặc sắc đã làm cho QTHL không chỉ là công cụ thống trị của riêng giai cấp
thống trị mà thực sự thể hiện ý chí nguyện vọng của nhân dân thông qua các phong tục tập
quán truyền thống.
2.2.2.4. Tôn trọng phong tục và văn hóa của các tộc người người thiểu số; thừa nhận tập
quán tốt đẹp, loại trừ tập quán tập tục cổ hữu.
- Pháp luật hình sự nghiêm trị những hành vi đồng bóng, bói toán có tính mê hoặc (Điều
332); trong hôn nhân thì nghiêm cấm hành vi tảo hôn hay kết hôn giữa người có mối quan hệ
huyết thống.
- Quốc triều hình luật đã thể hiện rõ nét tính dân tộc, truyền thống văn hóa đạo đức,
trong đó có các yếu tố phong tục, tập quán bản địa. Theo đó, nguyên tắc áp dụng tập quán
trong những trường hợp pháp lý nhất định cũng đã được quy định trong nhiều điều luật.
Chẳng hạn, Điều 388 quy định về thừa kế tài sản và ruộng đất hương hỏa: 1/20 tài sản để thờ
cúng tổ tiên, phần còn lại chia đều cho các con bất kể trai hay gái. 5
- Luật Hồng Đức vừa tiếp thu có chọn lọc tư tưởng của Nho giáo vừa phát huy những
phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Có thể thấy rằng bộ luật không chỉ có bước đổi mới
về địa vị, mà còn chú trọng đến vấn đề tôn giáo, nội thị tộc. Ví dụ: Điều 40: “Những người
miền thượng du (miền núi, miền đồng bào dân tộc ít người cư trú) cùng phạm tội với nhau thì
theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung châu
(miền trung du và miền đồng bằng) thì theo luật mà định tội”. Quy định này thể hiện sự tôn
trọng của nhà nước đối với phong tục tập quán của các tộc người thiểu số. Theo quy định này,
khi xét xử các vụ án hình sự xảy ra giữa những người dân tộc thiểu số, thì phải căn cứ vào
phong tục tập quán của họ để định tội. 6 Trong trường hợp “người Man Liêu cướp, giết lẫn
nhau thì xử nhẹ hơn tội cướp, giết người thường một bậc. Nếu hoà giải được với nhau thì
cũng cho” (Điều 451); trường hợp “quan quản giám các dân Man Liêu tự ý trông coi các vụ
kiện trong hạt riêng, sai người đem tráp đi bắt người hoặc ức hiếp dân thì xử phạt 40 trượng
5
Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học Luật (2023), Giáo trình lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam,
Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, tr.154-155.
6
“Luật Hồng Đức”, [https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_H%E1%BB%93ng_%C4%90%E1%BB%A9c]
(truy cập ngày 26/10/2023).
12

biếm 2 tư” (Điều 164); còn khi bắt tội phạm là người thiểu số mà không trình quan quản giám
người Man Liêu thì bị xử biếm một tư (Điều 703).7 Những quy định về tôn trọng phong tục và
văn hóa của các tộc người thiểu số trong Bộ luật Hồng Đức thể hiện tinh thần nhân đạo,
khoan hồng của nhà nước Đại Việt thời Lê sơ. Những quy định này đã góp phần củng cố khối
đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo điều kiện cho các tộc người thiểu số phát triển toàn diện. Việc
đưa phong tục tập quán vào pháp luật cũng là một sự cần thiết khách quan, nhà làm luật đã
biết “hy sinh” khi cần thiết nếu có sự xung đột giữa tư tưởng đạo đức Nho giáo với những
phong tục tập quán bản địa để đổi lấy một lợi ích quan trọng hơn là phù hợp với ý nguyện của
nhân dân. Một nhà nghiên cứu nước ngoài đã coi đây là một trong những đặc điểm nổi bật
của pháp luật triều Lê, “rất Việt Nam”, thể hiện sự khôn ngoan về chính trị và pháp lý, thuận
lợi cho việc duy trì quyền lực nhà nước, nhà vua.
Tương tự như ngày nay có quyền dân tộc tự quyết. Mục đích của việc thực hiện quyền
dân tộc tự quyết là nhằm bảo đảm bình đẳng dân tộc. Bởi lẽ, quyền này chỉ được nói đến khi
có áp bức bằng dân tộc không thể nào chấp nhận được, do đó việc thực hiện quyền dân tộc tự
quyết là để xóa bỏ tình trạng áp bức dân tộc đang hiện hữu, thực hiện bình đẳng dân tộc. Có
thể nói đây là một trong những điều luật thể hiện rõ nhất tính sáng tạo của nhà làm luật.
Điểm thú vị của quy định này ở chỗ luật pháp dù có hoàn bị đến đâu cũng không thể phủ nhận
hoặc thay thế hoàn toàn vai trò của phong tục tập quán vốn dĩ đã tồn tại lâu dài trước cả khi
có luật, đó là điều không thể thay đổi. 8
2.2.2.5. Tinh thần tương thân tương ái, tình làng nghĩa xóm
- Trong Bộ luật Hồng Đức còn có những điều đặt ra với mục đích để bảo vệ thuần phong
mỹ tục. Ví dụ: Để khuyến khích tình thương yêu đồng loại, đồng tộc, đồng bào trong Bộ luật
Hồng Đức có quy định các điều luật như: Thôn, phường phải giúp đỡ kẻ ốm đau không nơi
nương tựa, phải chôn cất những người chết đường (Điều 294); Phải chăm sóc người cô quả
tàn tật không nơi nương tựa (Điều 295), bắt được trẻ lạc phải báo quan (Điều 604), có người
chết đường, dân sở tại phải chôn cất (Điều 607).
2.2.2.6. Tính nhân đạo, khoan dung

7
Phạm Thị Hồng Đào, “Tính nhân đạo của Bộ luật Hồng Đức với sự hoàn thiện Bộ luật hình sự năm 2015”,
[https://kiemsat.vn/tinh-nhan-dao-cua-bo-luat-hong-duc-voi-su-hoan-thien-bo-luat-hinh-su-nam-2015-
46745.html] (truy cập ngày 30/10/2023).
8
Hà Thị Thùy Dương, “Tư tưởng của V.I.Lênin về quyền dân tộc tự quyết và ý nghĩa đối với Việt Nam hiện nay”,
[http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3165-tu-tuong-cua-vilenin-ve-quyen-dan-
toc-tu-quyet-va-y-nghia-doi-voi-viet-nam-hien-nay.html] (truy cập ngày 30/10/2023).
13

- Tinh thần nhân đạo ở thời Lê sơ nho giáo và đã được thể hiện rất rõ. Tư tưởng lấy dân
làm gốc tạo nên một thời kỳ đỉnh cao của chế độ phong kiến. Từ các thời kỳ trước, có thể kể
đến bộ luật Hình thư thời Lý và pháp luật thời Trần cũng có những chính sách khoan hồng rất
rõ rệt đối với tù nhân. Điều này nguyên nhân là do chính trị nước ta bấy giờ rất phức tạp. Các
cuộc chiến tranh trong và ngoài nước có thể nổ ra bất cứ lúc nào cùng với sự đe dọa của nhà
nước phong kiến Trung quốc thời kỳ này. Tù binh là lực lượng tối ưu phục vụ cho chiến tranh
nên nhận được sự khoan hồng để đáp ứng mục đích đó là hoàn toàn hợp lý. Ta thấy vấn đề
này thể hiện rất rõ trong pháp luật Lê sơ - Bộ luật Hồng Đức. Với những trường hợp nhất định,
pháp luật nghiêm cấm việc đối xử bạo ngược với tù nhân, như trường hợp người tù bị mắc
bệnh thì không được tiến hành tra khảo, cụ thể, Điều 669, quy định: “…Nếu tù có bệnh ung
nhọt, không chờ lành lại tra khảo thì người ra lệnh bị xử biếm. Nếu tù bệnh ấy mà đánh roi,
trượng thì phạt 30 quan tiền, nhân đó tù chết thì bị biếm 2 tư…”. Theo Điều 697, trường hợp
phải nộp tiền ứng với tang vật bị tịch thu nhưng với hoàn cảnh của tội nhân nghèo khổ cùng
cực không nộp nổi thì thuộc lại được phép trình bản ty, để nơi đây tâu lên vua định đoạt. Bên
cạnh đó, để tránh việc lạm dụng bạo lực với tù nhân và bảo vệ quyền lợi thiết yếu của họ,
Điều 707 quy định: “Ngục giám vô cớ hành hạ tù nhân đến bị thương thì xử theo luật đánh
người bị thương. Nếu xén bớt áo quần, cơm, đồ ăn của tù nhân thì căn cứ vào việc bớt xén đó
kết tội ăn trộm; hoặc bởi đánh đập, bớt cơm mà tù nhân chết thì bị xử đồ hay lưu. Ngục quan
và giám ngục quan biết sự việc không tố giác thì cũng bị tội trên, nhưng được giảm một bậc”.
- Tính khoan dung độ lượng còn được thể hiện qua việc khoan hồng đối với những người
phạm tội đã già, tàn tật hay còn ấu thơ (Điều 16) và để áp dụng hình phạt giảm nhẹ, có lợi cho
tội nhân (Điều 17) và cho miễn các hình phạt nghiêm khắc nhưng phải chuộc bằng tiền hoặc
thu bằng nếu tội nhân không phạm vào các tội thập ác, phản nghịch hay giết người; tha tội
cho những người tự thủ nếu không phạm tội thập ác, giết người (Điều 18). Vấn đề tự thủ
được giảm nhẹ tội không chỉ đặt ra khi người tự thủ đến cửa quan mà còn được đặt ra khi
người phạm tội tự nhận lỗi với người bị thiệt hại (Điều 19). Trong áp dụng giải thích hình luật,
tính khoan dung độ lượng còn thể hiện ở việc nếu điều luật có thể giải thích theo các chiều
hướng khác nhau thì cho phép áp dụng sự giải thích có lợi cho phạm nhân và áp dụng hình
phạt có lợi nhất (Điều 708).
- Tính nhân đạo còn được thể hiện qua quy định về hình phạt đối với tội nhân là phụ nữ.
Phạt gậy không áp dụng đối với nữ giới phạm tội mà chỉ áp dụng cho đàn ông. Cùng phạm tội
như nhau nhưng khi áp dụng hình phạt có sự ưu ái hơn đối với phụ nữ (Điều 1): “Đàn ông
phạm tội nhẹ thì đánh 80 trượng. Đàn bà phạm tội nhẹ thì đánh 50 roi”. Án tử hình được hoãn
14

thi hành đối với phụ nữ phạm tội mà đang mang thai và nuôi con nhỏ dưới 100 ngày: “Đàn bà
phạm tội tử hình trở xuống, nếu đang có thai, thì phải để sinh đẻ sau một trăm ngày mới đem
hành hình...” (Điều 680). Đối với phụ nữ phạm tội trộm cắp và giết người đều được pháp luật
giảm nhẹ tội (Điều 429): “Ăn trộm có cầm khí giới thì phải khớp vào tội ăn cướp, nếu giết
người thì bị khép vào tội giết người. Đàn bà được giảm nhẹ tội”. Đây chính là một trong
những đặc điểm nổi bật của BLHĐ, một điều ít thấy trong pháp luật phong kiến. Quan điểm
tiến bộ và nhân đạo của nhà làm luật chính là sự ghi nhận một thực tế lịch sử về vai trò của
người phụ nữ. Trong quan niệm Nho giáo, người phụ nữ bao giờ cũng rơi vào địa vị rất thấp
kém, song BLHĐ lại quy định một số quyền lợi nhất định trên đây cho họ. Điều này thể hiện sự
ghi nhận của pháp luật đối với phong tục tập quán truyền thống dân tộc trong việc tôn vinh
vai trò người phụ nữ.
III. Liên hệ Bộ luật Hồng Đức với pháp luật ngày nay
Bộ luật Hồng Đức (hay còn gọi là bộ Quốc triều hình luật) được coi là bộ luật nổi bật
nhất, có vai trò rất đặc biệt trong lịch sử lập pháp của nền phong kiến Việt Nam. Cho đến nay
mặc dù đã trải qua hơn 500 năm lịch sử. Tuy nhiên, các quy định pháp luật của Bộ luật Hồng
Đức vẫn còn nguyên giá trị thời sự cho nền lập pháp của nước ta hiện nay 9. Bộ luật chứa đựng
nhiều nội dung tiến bộ, nhân văn và có những điểm tiếp cận gần với kỹ thuật lập pháp hiện
đại. Đặc biệt là những quy định nhân đạo, tiến bộ đối với phụ nữ. Cái mà các bộ luật khác thời
phong kiến thường không chú trọng đến với thân phận của người phụ nữ. Đối với phụ nữ
quyền lợi của người phụ nữ được đề cập chủ yếu trong hai chương là “Hộ hôn” và “Điền sản”.
Cụ thể, lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp thời phong kiến nhà nước quy định con gái có
quyền thừa kế ngang bằng với người con trai trong trường hợp người con trai trưởng mất
hoặc chết.
- Về các mối quan hệ trong gia đình và tôn trọng phụ nữ:
Nội dung Bộ Luật Hồng Đức Pháp luật hiện hành
Độ tuổi Bộ luật Hồng Đức không quy định rõ CSPL: Điểm a Khoản 1 Điều 8 Luật
kết hôn ràng về độ tuổi kết hôn, tuy nhiên theo HNGĐ 2014.
“Hồng Đức giá nghi lễ” có chỉ rõ con gái Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ
từ 16 tuổi trở lên, con trai từ 18 tuổi đủ 18 tuổi trở lên
trở lên mới được dựng vợ gã chồng.

9
Lê Thái Dũng, “Tính nhân đạo và tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức”,
[https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/6813/tinh-nhan-djao-va-tien-bo-cua-bo-luat-hong-djuc.html] (truy
cập ngày 27/10/2023).
15

Những Không được kết hôn giữa những người CSPL: Khoản 2 Điều 5 Luật HNGĐ
trường trong họ hàng thân thích (điều 319), 2014
hợp cấm kết hôn khi đang có tang cha, mẹ a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;
không hay chồng (điều 317), cấm kết hôn khi b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn,
được ông, bà, cha hay mẹ đang bị giam cầm, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;
kết hôn tù tội (điều 318), cấm anh (em) lấy vợ c) Người đang có vợ, có chồng
góa của em (anh), trò lấy vợ góa của mà kết hôn hoặc chung sống như
thầy (điều 324) vợ chồng với người khác hoặc
chưa có vợ, chưa có chồng mà
kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người đang có chồng,
có vợ;
Đăng ký Điều 314 BLHĐ quy định Việc kết hôn Điều 9. Đăng ký kết hôn
kết hôn chỉ được coi là hợp pháp khi được sự 1. Việc kết hôn phải được đăng
đồng ý của 2 bên cha mẹ, có việc trao ký và do cơ quan nhà nước có
đổi sính lễ trước sự có mặt của họ hàng thẩm quyền thực hiện theo quy
hai bên. (“cha mẹ đặt đâu con ngồi đó”) định của Luật này và pháp luật về
Luật Hồng Đức cho thấy cuộc hôn nhân hộ tịch.
có giá trị pháp lý từ sau lễ đính hôn.
(quy định tại Điều 315)
Ly hôn Ly hôn do nguyên nhân một phía: Điều 51 Luật Hôn nhân và gia
Ly hôn do lỗi của người chồng: Các điều đình 2014 quy định về quyền yêu
308 - 333 quy định người vợ có quyền cầu giải quyết ly hôn
trình quan xin ly hôn khi: chồng đã bỏ Vợ, chồng hoặc cả hai người có
lửng vợ 5 tháng không đi lại (có quan xã quyền yêu cầu Tòa án giải quyết
làm chứng), trừ khi chồng có việc phải ly hôn.
đi xa hay nếu con rể lấy điều thị phi Điều 55 Luật Hôn nhân và gia
mắng nhiếc cha mẹ vợ. đình quy định về thuận tình ly
hôn
Phân Bộ luật Hồng Đức không thể hiện rõ về Điều 28. Áp dụng chế độ tài sản
chia tài việc phân chia tài sản giữa vợ và chồng của vợ chồng
sản sau sau khi ly hôn. 1. Vợ chồng có quyền lựa chọn
khi ly áp dụng chế độ tài sản theo luật
16

hôn định hoặc chế độ tài sản theo


thỏa thuận.
Một số Các tội liên quan đến quan hệ hôn nhân Tội bất hiếu, bất nghĩa được quy
tội liên - gia đình như tội: tội bất hiếu, tội bất định chung tại Điều 185 BLHS
quan nghĩa. Bất hiếu: là tố cáo, rủa mắng ông 2015: Tội ngược đãi hoặc hành
đến bà, cha mẹ, trái lời cha mẹ dạy bảo, hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng,
quan hệ nuôi nấng thiếu thốn, có tang cha mẹ con, cháu hoặc người có công
hôn mà lấy vợ lấy chồng, vui chơi ăn mặc nuôi dưỡng mình.
nhân – như thường, nghe thấy tang ông bà cha Nghĩa vụ của con cháu đối với
gia đình mẹ mà giấu, không cứ ai, nói dối là ông ông bà, cha mẹ được quy định tại
bà cha mẹ chết. BLHĐ đề cao phong tục các điều trong LHNGĐ 2014:
tập quán là hiếu kính với cha mẹ, ông - Điều 70: Quyền và nghĩa vụ
bà. của con
Nghĩa vụ phụng dưỡng cha mẹ: quy - Điều 71: Nghĩa vụ và quyền
định trong nhóm thập ác tội Điều 506 chăm sóc, nuôi dưỡng
Bộ luật hồng đức con cháu không
phụng dưỡng ông bà, cha mẹ bị xử đồ.
Như vậy, về hôn nhân gia đình thì cơ bản BLHĐ các quy định quan trọng đã cụ thể hoá
bằng các điều khoản, đã có sự bảo vệ nhất định đối với người phụ nữ (địa vị và sức khỏe), sự
sáng tạo giữa việc học hỏi trong pháp luật trung hoa nặng nề nho giáo: “Tại gia tòng phụ xuất
giá tòng phu”. Trong hôn nhân, nghĩa vụ đồng cư không chỉ bắt buộc với người vợ mà còn bắt
buộc với người chồng.
Tuy nhiên, chưa có sự nghiêm khắc đối với hành vi bạo hành vợ của người chồng thể
hiện ở Điều 482 “Nếu chồng đánh vợ bị thương thì xử như tội đánh người bị thương nhưng
nhẹ hơn 3 bậc. Nếu đánh chết thì xử như tội đánh chết người nhưng nhẹ hơn 3 bậc, tiền đền
mạng bớt 3 phần. Cố ý giết vợ thì giảm một bậc tội; nếu có tội bị chồng đánh, không may chết
thì xử riêng”. Việc phân biệt trong trường hợp này cho thấy tính gia trưởng chịu sự ảnh hưởng
của nho giáo. Vì vậy, pháp luật hiện hành đã có sự tiến bộ hơn so với pháp luật thời kỳ này.
Bên cạnh đó, bộ luật cũng phân định về nguồn gốc tài sản của vợ chồng bao gồm: tài sản
riêng của mỗi người và tài sản chung của cả hai vợ chồng. Việc phân định này góp phần xác
định việc phân chia thừa kế cho các con khi cha mẹ đã chết hoặc chia tài sản cho Bên còn sống
nếu một trong hai vợ chồng chết trước. Có thể nói đây là một điểm mới tiến bộ của Bộ luật
17

Hồng Đức mà đến ngày hôm nay tại Điều 28, 38 Luật hôn nhân và gia đình 2014 đã kế thừa
về việc phân chia tài sản chung và tài sản riêng của vợ và chồng. 10
Có thể nhận thấy, việc sở hữu về tài sản của người phụ nữ trong Bộ luật Hồng Đức chỉ ở
mức tương đối, chưa có điều khoản quy định về quyền quyết định tài sản chung trong thời kỳ
hôn nhân chưa có chế định cụ thể. Từ Điều 374, 375, 376 Bộ luật Hồng Đức chưa có quy định
cụ thể. Hiện nay, việc sở hữu về tài sản không phân biệt về giới mà mọi công dân đều bình
đẳng như nhau về quyền sở hữu tài sản được quy định chi tiết trong BLDS và khoản 1 Điều 32
Hiến pháp 2013.
Pháp luật hiện hành duy trì và mở rộng thêm cơ sở quy định về vấn đề: ly hôn, không
được kết hôn giữa những người trong họ hàng thân thích.
Qua những căn cứ và lập luận trên, có thể thấy những điểm tiến bộ trong luật Hồng Đức
là một bước tiến khá căn bản trong việc cải thiện địa vị của người phụ nữ trong xã hội phong
kiến thể được giá trị thời sự và cách lập pháp tiến tiến của nền lập pháp nước ta để lại kế thừa
cho Luật hôn nhân gia đình hiện đại.
- Về tinh thần bảo vệ đối tượng yếu thế: Trong BLHS hiện nay chưa có quy định cụ thể nào
có ý nghĩa tương tự Điều 294 và 295 BLHĐ mặc dù ngày nay trách nhiệm đối với các đối tượng
yếu thế: ốm đau, bệnh tật, nghèo khổ là chương trình hành động nhân văn thường trực của
nhà nước ta. Điều đó được thể hiện qua việc thực hiện các chính sách nhân đạo xã hội (trợ
giúp kinh tế, khám chữa bệnh miễn phí …)
- Về tinh thần yêu nước: Đối chiếu với tính dân tộc yêu nước được thể hiện tại Điều 74,
76, 77 BLHĐ cụ thể hơn, nghiêm khắc hơn trong việc giữ gìn an ninh tổ quốc, bảo vệ chủ
quyền quốc gia so với Điều 111 BLHS 2015 quy định về Tội xâm phạm an ninh lãnh thổ. Trong
bối cảnh nước ta vẫn duy trì hình phạt tử hình thì các tội phạm về an ninh quốc gia phải được
đặt lên hàng đầu và xử phạt nghiêm khắc nhất. Từ xưa đến nay, bảo vệ con người ở nước ta
luôn luôn được đặt trong mối tương quan với bảo vệ đất nước, nước yên thì dân mới yên, có
độc lập dân tộc mới có cuộc sống tự do (tự do sống theo văn hóa của dân tộc). 11
- Về vấn đề thừa kế, xét trên phương diện phong tục tập quán, di chúc miệng được quy
định tại Điều 388 BLHĐ thể hiện quan điểm về tôn ti trật tự trong gia đình, ở đó quyền của
ông bà cha mẹ về tài sản đồng nghĩa với quyền quản lý gia đình nên con cháu cần phải tuân
thủ nghiêm túc mọi di ngôn của bề trên. Gia đình là tế bào nhỏ nhất của xã hội, là nơi nuôi

10
Luật Hồng Đức, [https://legalzone.vn/luat-hong-duc/] (truy cập ngày 28/10/2023).
11
Lương Văn Tuấn (2018), Luật Hình Triều Lê - Những giá trị trong thời đại ngày nay, Nxb. Hồng Đức, tr. 206-
207.
18

dưỡng và hình thành nhân cách của cá nhân và cũng là nơi lưu giữ bền vững nhất những
phong tục tập quán sống của cộng đồng dân cư nên việc sử dụng rộng rãi hình thức miệng
trong quan hệ dân sự cộng đồng cũng là một biện pháp lưu giữ những phong tục tập quán
truyền thống và quan trọng là nó phù hợp với lối sống, nếp suy nghĩ của người dân trong nền
nông nghiệp tiểu nông12. Trong pháp luật hiện nay, di chúc miệng được công nhận tại Điều
627 BLDS 2015.
- Về tiếp thu chính sách trọng nông của triều Lê. Bộ luật Hồng Đức trừng phạt rất nặng các
tội như phá hoại đê điều (Điều 596), chặt phá cây cối và lúa má của người khác (Điều 601), tự
tiện giết trâu ngựa (Điều 580)... Những điều luật trong Quốc Triều Hình Luật đã xác định trách
nhiệm của nhà nước thông qua trách nhiệm của hệ thống quan lại nhằm đảm bảo cuộc sống
tối thiểu của người nghèo khổ trong xã hội (Điều 294; Điều 9). Luật hiện hành của Nhà nước
cũng đã kế thừa, phát huy chính sách của BLHĐ nhằm đảm bảo cuộc sống của những người
làm nông, ruộng… (Điều 243 BLHS 2015: tội hủy hoại rừng)
- Về việc phát huy những phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc. Ví dụ: Điều 40: “Những
người miền thượng du (miền núi, miền đồng bào dân tộc ít người cư trú) cùng phạm tội với
nhau thì theo phong tục xứ ấy mà định tội. Những người thượng du phạm tội với người trung
châu (miền trung du và miền đồng bằng) thì theo luật mà định tội.”. Để khuyến khích tình
thương yêu đồng loại, đồng tộc, đồng bào trong Bộ luật Hồng Đức có quy định các điều luật
như: Thôn, phường phải giúp đỡ kẻ ốm đau không nơi nương tựa, phải chôn cất những người
chết đường (Điều 294); Phải chăm sóc người cô quả tàn tật không nơi nương tựa (Điều 295),
bắt được trẻ lạc phải báo quan (Điều 604), có người chết đường, dân sở tại phải chôn cất
(Điều 607). Để phát huy phong tục tập quán tốt đẹp của dân tộc, yêu thương đồng bào, các
Nhà làm luật hiện hành đã quy định một số điều luật về vấn đề này như Điều 132 BLHS 2015:
Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng sẽ bị xử phạt tùy
theo mức độ, trường hợp; Điều 260 BLHS 2015: Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ “Bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn;”...
Pháp luật không chỉ là công cụ quản lý xã hội của Nhà nước, quản trị quốc gia mà còn là
công cụ để nhân dân làm chủ, giám sát, kiểm soát việc thực hiện quyền lực nhà nước… Do đó,
cần tiếp tục phát huy vai trò và giá trị truyền thống, tốt đẹp của đạo đức trong quản trị quốc
gia. Trước tiên cần xác định một phương hướng căn bản để phát huy vai trò của đạo đức
trong quản trị quốc gia ở Việt Nam là tập trung vào các giá trị đạo đức nhân bản của dân tộc,
của lối sống có nghĩa có tình, thủy chung, nhân ái, bao dung có vai trò thúc đẩy phát triển xã
12
Lương Văn Tuấn (2018), Luật Hình Triều Lê - Những giá trị trong thời đại ngày nay, Nxb. Hồng Đức, tr. 158.
19

hội. Pháp luật hiện đại phải đáp ứng nhu cầu đổi mới, xây dựng đất nước, kiến tạo xu thế hội
nhập với bên ngoài.13

13
Thái Trung, "Cải cách pháp luật từ kế thừa những giá trị lịch sử", [https://nhandan.vn/cai-cach-phap-luat-tu-
ke-thua-nhung-gia-tri-lich-su-post290958.html] (truy cập ngày 30/10/2023).
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. “Quốc triều Hình luật” đỉnh cao của thành tựu luật pháp Việt Nam thời phong kiến,
[https://lsvn.vn/quoc-trieu-hinh-luat-dinh-cao-cua-thanh-tuu-luat-phap-viet-nam-thoi-phong-
kien.html].
2. Bùi Tuấn An, “Tính dân tộc là gì và tính dân tộc trong văn học”,
[https://luatminhkhue.vn/tinh-dan-toc-la-gi-bieu-hien-va-suc-manh.aspx].
3. Trường Đại học Luật TP. HCM (2008), Tập bài giảng Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt
Nam, tr. 146 -147.
4. Đại học Quốc gia Hà Nội, trường Đại học Luật (2023), Giáo trình lịch sử nhà nước và
pháp luật Việt Nam, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội, tr.154-155.
5. Trường đại học Luật TPHCM(2021),Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt
Nam,Nxb.Hồng Đức-Hội Luật gia Việt Nam, tr233,234
6. “Luật Hồng Đức”, [https://vi.wikipedia.org/wiki/Lu%E1%BA%ADt_H%E1%BB%93ng_
%C4%90%E1%BB%A9c].
7. Phạm Thị Hồng Đào, “Tính nhân đạo của Bộ luật Hồng Đức với sự hoàn thiện Bộ luật
hình sự năm 2015”, [https://kiemsat.vn/tinh-nhan-dao-cua-bo-luat-hong-duc-voi-su-hoan-thien-
bo-luat-hinh-su-nam-2015-46745.html].
8. Hà Thị Thùy Dương, “Tư tưởng của V.I.Lênin về quyền dân tộc tự quyết và ý nghĩa đối
với Việt Nam hiện nay”,
[http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/nguyen-cuu-ly-luan/item/3165-tu-tuong-cua-vilenin-
ve-quyen-dan-toc-tu-quyet-va-y-nghia-doi-voi-viet-nam-hien-nay.html].
9. Lê Thái Dũng, “Tính nhân đạo và tiến bộ của Bộ luật Hồng Đức”,
[https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/6813/tinh-nhan-djao-va-tien-bo-cua-bo-luat-hong-
djuc.html].
10. Luật Hồng Đức, [https://legalzone.vn/luat-hong-duc/] (truy cập ngày 28/10/2023).
11. Lương Văn Tuấn (2018), Luật Hình Triều Lê - Những giá trị trong thời đại ngày nay,
Nxb. Hồng Đức, tr. 158, 206-207.
12. Thái Trung, "Cải cách pháp luật từ kế thừa những giá trị lịch sử", [https://nhandan.vn/cai-
cach-phap-luat-tu-ke-thua-nhung-gia-tri-lich-su-post290958.html].

You might also like