You are on page 1of 107

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN HUY HOÀNG

CHẾ ĐỊNH LẬP VI BẰNG CỦA THỪA PHÁT LẠI


THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN HUY HOÀNG

CHẾ ĐỊNH LẬP VI BẰNG CỦA THỪA PHÁT LẠI


THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự


Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học:PGS.TS. Trần Anh Tuấn

HÀ NỘI –
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết
quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.

Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Luận văn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày … tháng … năm 2020


NGƢỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Huy Hoàng


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục biểu đồ
MỞ ĐẦU 1
1 Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu 1
2 Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của Luận văn 7
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn 7
2.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn 7
3 Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn 8
4 Phương pháp nghiên cứu 8
5 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn 9
6 Cấu trúc của Luận văn 10
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI BẰNG VÀ
LẬP VI BẰNG CỦA THỪA PHÁT LẠI 11
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò vi bằng của Thừa phát lại 11
1.1.1. Khái niệm vi bằng của Thừa phát lại 11
1.1.2. Đặc điểm vi bằng của Thừa phát lại 13
1.1.3. Phân biệt vi bằng với một số với văn bản có giá trị pháp lý khác 17
1.1.4. Vai trò của vi bằng của Thừa phát lại 23
1.2. Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại 26
1.2.1. Khái niệm hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại 26
1.2.2. Đặc điểm hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại 26
1.2.3. Yêu cầu của hoạt động lập vi bằng 27
1.3. Khái quát sự phát triển chế định lập vi bằng của Thừa phát lại 29
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1975 29
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2009 31
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay 35
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 39
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LẬP VI BẰNG
CỦA THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 40
2.1. Chủ thể lập vi bằng 40
2.2. Thẩm quyền lập vi bằng 43
2.2.1. Thẩm quyền về mặt nội dung 43
2.2.2. Thẩm quyền lập vi bằng theo địa bàn 48
2.3. Trình tự thủ tục lập vi bằng 50
2.4. Vấn đề quản lý nhà nước về lập vi bằng 57
2.5. Trách nhiệm pháp lý của Thừa phát lại trong việc lập và sử dụng vi bằng 58
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 60
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ
LẬP VI BẰNG CỦA THỪA PHÁT LẠI TẠI MỘT SỐ
TỈNH/THÀNH PHỐ VÀ KIẾN NGHỊ 61
3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về lập vi bằng của Thừa phát lại 61
3.1.1. Thực tiễn lập vi bằng tại một số tỉnh/thành phố 61
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân từ thực tiễn lập vi bằng ở một số tỉnh/thành phố
72
3.2. Một số kiến nghị từ thực tiễn thực hiện pháp luật về lập vi bằng của
Thừa phát lại 81
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động lập vi bằng của
Thừa phát lại 81
3.2.2. Một số kiến nghị thực hiện pháp luật về lập vi bằng của Thừa phát lại 87
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3 91
KẾT LUẬN CHUNG 92
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BLDS Bộ luật Dân sự

BLTTDS Bộ luật Tố tụng dân sự

BTP Bộ Tư pháp

Nghị định 61/2009/NĐ-CP Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009


đư c sửa đ i, b sung bởi Nghị định số
135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của Chính
phủ về t chức và hoạt động của Thừa phát lại
thực hiện thí điểm tại một số tỉnh/thành phố
trực thuộc Trung ương

ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị

TPL Thừa phát lại

UBND Ủy ban nhân dân

UDHR Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền 1948

VP TPL Văn phòng Thừa phát lại


DANH MỤC BẢNG

Nội dung Trang

Bảng 1 Phân biệt vi bằng và văn bản công chứng 19

Bảng Kết quả hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại trên phạm 62
3.1 vi cả nước

Kết quả lập vi bằng tại các địa bàn tỉnh/thành phố qua từng 65
Bảng
năm sau khi t chức thực hiện chính thức chế định Thừa phát
3.2
lại
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Nội dung Trang

Biểu đồ Kết quả hoạt động của Văn phòng Thừa phát lại 62
3.1

Biểu đồ Số lư ng vi bằng và doanh thu trong thời gian thí điểm và 64


3.2 thực hiện trên phạm vi cả nước

Biểu đồ So sánh số lư ng vi bằng và doanh thu qua từng năm thực hiện 66
3.3 chế định Thừa phát lại trên phạm vi cả nước

Biểu đồ Tỷ lệ vi bằng đư c lập tại một số địa bàn 67


3.4

Biểu đồ Tỷ lệ doanh thu từ vi bằng tại một số địa bàn 67


3.5

Biểu đồ So sánh số lư ng vi bằng và doanh thu qua từng năm thực hiện 68
3.6 chế định Thừa phát lại trên phạm vi cả nước của Thành phố
Hồ Chí Minh
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, sự phát triển của nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội
và các mối quan hệ cơ bản đư c pháp luật dân sự điều chỉnh dân sự, thương
mại, lao động, hôn nhân và gia đình,... theo đó phát triển đa chiều và phức
tạp, tuy nhiên, dễ nảy sinh những mâu thuẫn, tranh chấp về l i ích của các chủ
thể tham gia quan hệ, điều này dẫn đến nhu cầu tất yếu đó là các dịch vụ pháp
lý như Luật sư, Công chứng, Trọng tài thương mại, Giám định tư pháp,… có
cơ hội phát triển mạnh mẽ.
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị “Về một
số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới” và Nghị quyết số
49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị “Về chiến lược cải cách tư pháp
đến năm 2020” đặt ra nhiều nhiệm vụ quan trọng nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật, trong đó, nhấn mạnh: “… hoàn thiện các thủ tục tố tụng tư pháp,
bảo đảm tính đồng bộ, dân chủ, công khai, minh bạch, tôn trọng và bảo vệ
quyền con người”, đặc biệt “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự.
Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ từ phía nhà nước để
tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ chứng minh, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”.
Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII, Hiến pháp năm 2013 đã đư c
thông qua, trong đó, lần đầu tiên trong lịch sử lập Hiến có sự ghi nhận
“nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được đảm bảo” khoản 5 Điều 103 Hiến
pháp 2013 , cho thấy hoạt động tranh tụng đã đư c nhận thức dưới góc độ mở
rộng, không chỉ là những hoạt động diễn ra tại phiên tòa mà còn bao gồm tại
các giai đoạn tố tụng khác. Mặc dù vậy, pháp luật hiện hành vẫn chưa có một
cơ chế hữu hiệu, cụ thể để cá nhân, t chức thu thập, xác lập đư c các chứng

1
cứ nhằm chủ động bảo vệ quyền l i của mình, góp phần đảm bảo nguyên tắc
tranh tụng trong xét xử. Việc các cá nhân t chức tự mình thu thập chứng cứ
còn gặp nhiều khó khăn, ngoài ra, văn bản ghi nhận giữa các cá nhân, t chức
tự xác lập đôi khi không đủ giá trị pháp lý và độ tin cậy. Sự tái thiết lập cơ
chế, t chức hoạt động của Thừa phát lại (TPL) với chức năng lập vi bằng có
giá trị là nguồn chứng cứ là nhu cầu cần thiết của xã hội, giúp các bên đương
sự bảo vệ quyền và l i ích h p pháp của mình, tránh xảy ra các tranh chấp
trong tương lai, trong trường h p có xảy ra tranh chấp thì vi bằng của TPL sẽ
là căn cứ để các cơ quan tài phán xem xét, giải quyết vụ việc một cách khách
quan, đúng pháp luật, từ đó góp phần tạo môi trường pháp lý lành mạnh, đảm
bảo các giao dịch dân sự, kinh tế đúng pháp luật, thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển.
Thể chế hóa chủ trương Nghị quyết 49-NQ/TW, ngày 14/11/2008 Quốc
hội khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi
hành án dân sự, trong đó quy định: “Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội
hóa một số công việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ
quy định và tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành
viên) tại một số địa phương…”.
Thực hiện Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi hành án
dân sự, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm chế định
Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh” tại Quyết định số 224/QĐ-TTg
ngày 19/02/2009. Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội và Đề án đã đư c phê
duyệt, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009
về t chức và hoạt động của Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nghị
định quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ, mô hình t chức, trình tự, thủ
tục thực hiện công việc của TPL đồng thời xác định các quy định của Nghị
định này cũng đư c áp dụng khi thực hiện thí điểm tại các tỉnh/thành phố

2
khác. Qua đánh giá kết quả thực hiện thí điểm chế định TPL tại Thành phố
Hồ Chí Minh, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án “Tiếp tục thực hiện thí
điểm chế định Thừa phát lại” tại Quyết định số 510/QĐ-TTg ngày 25/3/2013,
chọn 12 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện thí điểm TPL, gồm:
Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình
Định, Đồng Nai, Bình Dương, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long.
Nghị quyết số 107/2015/QH13 về Thực hiện chế định Thừa phát lại đã
“Ghi nhận kết quả đạt được trong việc thực hiện thí điểm chế định Thừa phát
lại theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 và Nghị quyết số 36/2012/QH13 của
Quốc hội. Chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định Thừa phát lại
trong phạm vi cả nước”. Từ khi chế định TPL đư c thừa nhận và t chức
rộng rãi trong phạm vi cả nước cho đến nay vẫn đang đư c điều chỉnh bằng
các Nghị định liên quan, chưa ban hành Luật Thừa phát lại để đảm bảo hiệu
lực pháp lý cao, đồng bộ với các bộ luật, luật có liên quan. Theo đó, trong Bộ
luật Tố tụng dân sự BLTTDS năm 2015 có thể hiểu vi bằng là một loại
nguồn chứng cứ dưới dạng “Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do
người có chức năng lập” [40; Đ94] khi đư c tiến hành xác lập theo đúng thủ
tục do pháp luật quy định [40; Đ95], nhưng để hiểu rõ ràng và cụ thể hơn về
vi bằng thì Nghị định số 61/2009/NĐ-CP có quy định “Vi bằng là văn bản do
Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong
xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác” khoản 2 Điều 2 Nghị định số
61/2009/NĐ-CP); “Vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải
quyết vụ án”, “Vi bằng là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác
theo quy định của pháp luật” Điều 28 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ;…
Tuy nhiên, thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về việc lập
vi bằng của TPL còn một số hạn chế, sai sót nhất định như: i còn tồn tại
nhiều cách hiểu khác nhau về nội dung vi bằng; ii trình tự, thủ tục lập vi bằng

3
của TPL chưa thống nhất; iii nhận định của TPL trong vi bằng còn thiếu căn
cứ, sai thẩm quyền.v.v… Từ thực tiễn như vậy, việc nghiên cứu những vấn đề
thuộc bản chất pháp lý của vi bằng với ý nghĩa là một nguồn chứng cứ chứng
minh trong tố tụng và căn cứ trong các giao dịch khác có ý nghĩa rất quan
trọng để đưa ra đư c những giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý với hoạt động
lập vi bằng, khắc phục những bất cập, góp phần thực hiện các quy định của
Hiến pháp năm 2013 và các bộ luật, luật về bảo vệ quyền con người, đảm bảo
nguyên tắc tranh tụng trong hoạt động xét xử của Tòa án phù h p với chủ
trương cải cách tư pháp trong tình hình mới.
Với điểm khá đặc biệt, vi bằng đã đư c sử dụng với vai trò là nguồn
chứng cứ và căn cứ trong các giao dịch ở miền Nam từ trước giải phóng Việt
Nam năm 1975, đư c t chức thực hiện thí điểm lại mô hình TPL tại Thành
phố Hồ Chí Minh năm 2010, mới đư c t chức thực hiện trong phạm vi cả
nước từ năm 2016 do đó chế định lập vi bằng của TPL còn khá mới mẻ.
Những công trình nghiên cứu, tài liệu về hoạt động lập vi bằng của TPL một
cách đầy đủ và toàn diện còn khá khiêm tốn, tuy nhiên, qua tìm hiểu đã có
một số công trình nghiên cứu trực tiếp hoặc lồng ghép về vi bằng có thể kể
đến như: Phan Thông Anh 2002 , “Suy nghĩ về chế định Thừa phát lại”, Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp, (4), tr. 17 – 20; Bộ Tư pháp (2009), Thực hiện thí
điểm chế định Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh, Đề án, Bộ Tư pháp,
Hà Nội; Bộ Tư pháp 2013 , Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát
lại, Đề án, Bộ Tư pháp, Hà Nội; Nguyễn Đức Chính 1995 , Những cơ sở lý
luận và thực tiễn về Chế định Thừa phát lại, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư
pháp, Hà Nội; Nguyễn Đức Chính chủ biên 2006 , Tổ chức Thừa phát lại,
NXB Tư pháp, Hà Nội; Hà Hùng Cường 2012 , “Thừa phát lại bước đầu đã
đi vào lòng dân và xã hội, là người tr thủ đắc lực cho công tác thi hành án
dân sự và công tác tư pháp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (10), tr. 2 – 6;

4
Bùi Thị Hà 2016 , “Những khó khăn vướng mắc trong triển khai thực hiện
chế định Thừa phát lại tại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số
chuyên đề 2), tr. 29 – 32; Lê Thu Hà 2011 , “Đào tạo Thừa phát lại – nhu cầu
khách quan của công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam”, Tạp chí Nghề luật,
(6), tr. 15 – 17; Võ Trung Hậu 2017 , “Đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp - Một
trong những thủ tục lập vi bằng của Thừa phát lại”, Tạp chí Nghề Luật, (3), tr.
76 – 80; Nguyễn Văn Hiển 2016 , Khảo sát, đánh giá tác động kinh tế - xã
hội của việc thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số tỉnh/thành phố, Đề án,
Viện Khoa học pháp lý, Hà Nội; Lê Xuân Hồng 2015 , “Những khó khăn
vướng mắc trong thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại và hướng giải
quyết”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (1), tr.60 – 64; Bùi Thị Huyền 2011 ,
“Thí điểm mô hình Thừa phát lại Thành phố Hồ Chí Minh – Những vấn đề
đặt ra”, Tạp chí Luật học, (7), tr. 32 – 37; Nguyễn Vinh Hưng 2018 , “Cần
nghiên cứu, đ i mới cơ chế hoạt động của Thừa phát lại ở nước ta hiện nay”,
Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (1), tr.24-30; Nguyễn Vinh Hưng 2019 ,
“Lịch sử chế định pháp luật về Thừa phát lại tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học
và Công nghệ Việt Nam, (4), tr. 31 – 35; Nguyễn Vinh Hưng 2019 , “Một số
bất cập trong hoạt động lập vi bằng của thừa phát lại”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, (3), tr. 48 – 52; Dương Thị Thanh Mai 2018 , Xác định những
định hướng chính sách lớn phục vụ cho việc xây dựng Luật Thừa phát lại, Đề
tài khoa học cấp Bộ, Viện Khoa học pháp lý, Hà Nội; Vũ Hoài Nam chủ
biên) (2013), Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, Nxb Tư pháp, Hà Nội;
Vũ Hoài Nam 2012 , “Một số vấn đề về t chức và hoạt động của Thừa phát
lại ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nghề luật, (6), tr. 26 – 28; Nguyễn Văn
Nghĩa 2006 , “Chế định “Thừa phát lại”: Lịch sử ra đời và yêu cầu đ i mới
theo tinh thần cải cách tư pháp”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, (5), tr.39 –
43; Đinh Công Tuấn 2017 , Vi bằng – Những vấn đề lý luận và thực tiễn

5
trong tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Viện
Khoa học pháp lý, Hà Nội; Nguyễn Thị Tuyền 2017 , “Chế định Thừa phát
lại ở Việt Nam và kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới”, Tạp chí
Tòa án nhân dân, (20), tr.42-47; Nguyễn Tiến Pháp 2014 , “Thẩm quyền lập
vi bằng của Thừa phát lại và thủ tục đăng ký vi bằng”, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật, Số chuyên đề 2 , tr.5-13; Tạp chí Dân chủ và Pháp luật 11/2014 ,
Số chuyên đề về Thừa phát lại, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Hà Nội; Thông
tin khoa học pháp lý 10/2014 , Thí điểm Thừa phát lại ở Việt Nam, những
thuận lợi và khó khăn, Viện Khoa học pháp lý, Hà Nội; Thông tin khoa học
pháp lý (7/2015), Kết quả khảo sát, đánh giá việc thí điểm Thừa phát lại tại
một số tỉnh, thành phố, Viện Khoa học pháp lý, Hà Nội;…
Các công trình nghiên cứu kể trên chủ yếu nghiên cứu về chế định vi
bằng và lập vi bằng với góc độ là một trong bốn công việc TPL đư c làm, bởi
vậy, kết quả nghiên cứu về chế định này của các công trình còn mờ nhạt, chưa
thực sự chi tiết và đầy đủ. Ngoài ra, một số công trình nghiên cứu riêng biệt
về vi bằng và hoạt động lập vi bằng của TPL nhưng chỉ tập trung vào một số
khía cạnh cụ thể như: cơ sở lý luận, thực tiễn thi hành, bất cập của hoạt
động,... do đó, kết quả nghiên cứu của các công trình trên chưa đặt trong góc
nhìn t ng thể, toàn diện về chế định vi bằng và hoạt động lập vi bằng.
Tiếp thu những kết quả nghiên cứu của các công trình trên, đồng thời, với
mong muốn đóng góp thêm những cơ sở lý luận về vi bằng và lập vi bằng của
TPL, qua đó làm cơ sở để đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn nữa
các quy định của pháp luật hiện hành và các biện pháp đảm bảo thực hiện đối
với vi bằng và việc lập vi bằng trong bối cảnh cải cách tư pháp và bảo đảm
quyền con người ở Việt Nam hiện nay. Do đó tôi lựa chọn đề tài “Chế định
lập vi bằng của Thừa phát lại theo pháp luật Việt Nam hiện hành” làm đề
tài nghiên cứu Luận văn thạc sĩ luật học.

6
2. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu của Luận văn
2.1. Mục tiêu nghiên cứu của Luận văn
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Nghiên cứu làm rõ một số vấn đề về lý luận, thực tiễn về vi bằng và lập
vi bằng của TPL. Từ đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về
vi bằng và việc lập vi bằng trong bối cảnh cải cách tư pháp và bảo đảm quyền
con người ở Việt Nam hiện nay.
2.1.2 Mục tiêu cụ thể
i Làm rõ một số vấn đề lý luận về nguồn gốc, khái niệm, bản chất, giá trị
pháp lý của vi bằng; nghiên cứu việc lập và sử dụng vi bằng ở Việt Nam; kinh
nghiệm một số quốc gia trong việc quy định việc xác lập vi bằng của TPL; ii
Đánh giá thực trạng pháp luật về vi bằng và việc lập vi bằng của
TPL trong thời gian thí điểm và áp dụng chính thức ở Việt Nam;
iii Kiến nghị những giải pháp hoàn thiện thể chế và biện pháp bảo đảm
thực hiện đối với vi bằng và việc lập vi bằng trong bối cảnh cải cách tư pháp
và bảo vệ quyền con người trong giai đoạn hiện nay.
2.2. Phạm vi nghiên cứu của Luận văn
2.2.1. Phạm vi đối tượng
Đối tư ng nghiên cứu của Luận văn: nghiên cứu lý luận, quy định của
pháp luật về lập vi bằng và thực tiễn thực hiện các quy định về lập vi bằng
của TPL.
2.2.2. Phạm vi không gian
Tập trung nghiên cứu thực tiễn tại 02 thành phố lớn: Thành phố Hồ Chí
Minh và thành phố Hà Nội.
Ngoài ra Luận văn kết h p nghiên cứu kinh nghiệm, lý luận cũng như
thực tiễn hoạt động lập vi bằng của TPL tại một số quốc gia trên thế giới như:
Cộng hòa Pháp, Liên bang Đức, Hoa Kỳ…

7
2.2.3. Phạm vi thời gian
Luận văn tập trung nghiên cứu về chế định lập vi bằng của TPL từ thời
điểm Chính phủ phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại
tại Thành phố Hồ Chí Minh” đến nay đã đư c t chức thực hiện chính thức
trên phạm vi cả nước và chia làm 02 giai đoạn chính:
Giai đoạn t chức thí điểm: từ năm 2010 – 2015;
Giai đoạn t chức thực hiện chính thức: từ năm 2016 – nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu Luận văn
Nhằm đạt đư c mục đích đặt ra khi lựa chọn nghiên cứu Đề tài, đòi hỏi
Luận văn phải giải quyết một số vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất, làm rõ đư c một số vấn đề lý luận về vi bằng: 1 khái niệm;
2 đặc điểm; 3 vai trò của vi bằng; 4 phân biệt vi bằng với các loại văn
bản khác văn bản công chứng, chứng thực và các loại giấy tờ khác và 5
khái quát sự phát triển của chế định vi bằng.
Thứ hai, thực trạng pháp luật về lập vi bằng: 1 trình tự, thủ tục lập vi
bằng; 2 chủ thể; 3 hình thức lập vi bằng; 4 phạm vi thẩm quyền và 5
nội dung của vi bằng.
Thứ ba, thực tiễn hoạt động lập vi bằng, hoạt động đăng ký nhà nước
có thẩm quyền tại một số tỉnh/thành phố ở Việt Nam hiện nay kết quả đạt
đư c, tồn tại, nguyên nhân .
Thứ tư, đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lư ng,
hiệu quả việc lập vi bằng.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
1 Phương pháp nghiên cứu tại chỗ: Nghiên cứu, phân tích các tài liệu
khoa học, đánh giá hệ thống văn bản pháp luật hiện hành quy định về chế
định lập vi bằng của TPL; nghiên cứu lý luận và thực tiễn về nguồn chứng cứ
trong tố tụng, lịch sử hình thành và giá trị pháp lý của vi bằng do TPL lập ở

8
Việt Nam trước năm 1975, những kết quả đạt đư c trong thực tiễn hoạt động
TPL thời gian qua và kinh nghiệm ở một số nước trên thế giới.
2 Phương pháp so sánh: Nghiên cứu so sánh điểm tương đồng/khác
biệt/đối lập của pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế về chế định lập vi
bằng của TPL; vi bằng do TPL lập hiện nay và các loại văn bản, giấy tờ có giá
trị pháp lý khác.
3 Phân tích, t ng h p: Phân tích, t ng h p đánh giá thông tin thu
đư c từ hoạt động nghiên cứu để đưa ra các đề xuất, kiến nghị hoàn thiện
pháp luật và nâng cao chất lư ng, hiệu quả việc lập vi bằng.
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
Thứ nhất, tiếp tục làm rõ những cơ sở lý luận về vi bằng và lập vi bằng
của TPL như khái niệm, đặc điểm, vai trò của vi bằng, khái quát sự phát triển
của lập vi bằng … góp phần thống nhất trong nhận thức và áp dụng thực tiễn.
Thứ hai, làm rõ, phân tích quy định pháp luật về lập vi bằng trình tự,
thủ tục, chủ thể, hình thức lập vi bằng; phạm vi thẩm quyền và nội dung của
vi bằng… .
Thứ ba, đánh giá thực trạng lập vi bằng trong thời gian qua, trong đó,
làm rõ kết quả đạt đư c, cũng như những hạn chế, vướng mắc còn tồn tại, từ
đó, đề xuất những giải pháp có tính khả thi hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả hoạt động này.
Với những đóng góp trên hy vọng Luận văn sẽ là cơ sở quan trọng để
các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đ i, b sung,
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tương ứng. Bên cạnh đó, Luận văn sẽ là
tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn
có giá trị đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây
dựng pháp luật trong bối cảnh cải cách tư pháp và bảo đảm quyền con người
như hiện nay.

9
6. Cấu trúc của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
Luận văn gồm 03 chương, cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về vi bằng và lập vi bằng của Thừa
phát lại
Chương 2: Thực trạng pháp luật về lập vi bằng của Thừa phát lại ở Việt
Nam hiện nay
Chương 3: Thực tiễn thực hiện các quy định về lập vi bằng của Thừa
phát lại tại một số tỉnh/thành phố và kiến nghị

1
CHƢƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VI BẰNG VÀ LẬP VI BẰNG CỦA
THỪA PHÁT LẠI

1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò vi bằng của Thừa phát lại
1.1.1. Khái niệm vi bằng của Thừa phát lại
Qua nghiên cứu, tìm kiếm tại các từ điển tiếng Việt [61] và từ điển
chuyên môn về pháp luật [25],[56],[62] đư c xuất bản những năm gần đây
đều không thấy đề cập đến thuật ngữ “vi bằng”. Bởi vậy, để hiểu thế nào là vi
bằng buộc phải tra cứu các từ điển ngoại ngữ khác. Theo Từ điển Hán Nôm
[30] thì thuật ngữ “vi bằng” có gốc là từ chữ Trung Quốc 爲 憑 trong đó 爲 )
có nghĩa là hành vi và ( 憑 có nghĩa là bằng chứng, ghép 2 từ trên có nghĩa là
làm chứng cứ để tin.
Tuy trong các từ điển tiếng Việt và từ điển chuyên môn về pháp luật
không có sự giải thích thế nào là “vi bằng”, nhưng trong quá trình tái lập hoạt
động của TPL thì thuật ngữ này đã đư c sử dụng rộng rãi ở miền Nam trước
năm 1975 với tên gọi là “chứng thư” và có cùng nội hàm với thuật ngữ “vi
bằng”. Theo đó đư c hiểu là các giấy tờ văn bản, biên bản do TPL lập ra
trong khi thực hiện nhiệm vụ của mình theo thể thức luật định, nhằm ghi nhận
những sự kiện xảy ra trong đời sống xã hội và có giá trị chứng cứ, công chứng
thư nghĩa là có giá trị về tất cả những sự kiện nêu trong đó như về ngày
tháng, chứng thư không thể bị bác bỏ bằng một chứng thư khác mà chỉ có thể
bị coi là giả mạo sau khi cơ quan có thẩm quyền điều tra và kết luận theo thủ
tục do luật định).
Như vậy, trước năm 1975, thuật ngữ “vi bằng” xuất hiện cùng với
thuật ngữ “Thừa phát lại” và đư c ghi nhận trong: “Bộ dân sự tố tụng Nam
Việt”, ban hành kèm Nghị định ngày 16/3/1910 (Nam Kỳ ; “Bộ dân luật

1
Trung năm 1936 - 1939”, ban hành kèm Bộ hộ sự, thương sự tố tụng Trung
Việt năm 1942 Trung Kỳ); “Bộ dân luật Bắc năm 1931”, ban hành kèm Bộ
dân sự tố tụng Bắc năm 1917 Bắc Kỳ); Nghị định 111/BTP-NĐ ngày
04/02/1950 của Bộ Tư pháp; Bộ luật Dân sự và thương sự tố tụng năm 1972
(thay thế Bộ dân sự tố tụng Nam Việt ngày 16/3/1972) [4]. Với ý nghĩa là
một trong những công việc đư c giao cho TPL thực hiện theo yêu cầu của
Tòa án (lục tống về tư pháp hoặc theo yêu cầu của cá nhân, t chức xã hội,
công ty hoặc đơn vị hành chính (lục tống không thuộc tư pháp nhằm thông
báo, đốc thúc, sưu tầm, lập vi bằng) công chứng các hành vi xâm phạm đến
quyền l i để xác định các sự kiện thực tế, các sự biểu lộ ý chí của đương
tụng hoặc cá nhân trong các mối quan hệ xã hội để xác lập các chứng cứ
dùng làm cơ sở để giải quyết các tranh chấp… Theo nội dung các văn bản
trên, vi bằng đư c lập có thể do yêu cầu của Tòa án nhằm giải quyết các vụ
việc hoặc đư c lập theo yêu cầu của các t chức và cá nhân nhằm phòng
ngừa, hoặc dùng để giải quyết các tranh chấp trong tương lai nếu xảy ra).
Như vậy phạm vi lập vi bằng rất đa dạng và có tầm quan trọng đặc biệt trong
việc cung cấp chứng cứ. Ví dụ:
- Trong trường h p vi bằng đư c lập theo yêu cầu của t chức, cá nhân:
trường h p hai chủ nhà lân cận đang sử dụng bức tường chung mà một bên đã
tự ý đập phá bức tường thì vi bằng công chứng (biên bản) của TPL lập theo
yêu cầu của phía bên kia sẽ xác định mức độ đập phá và thiệt hại đã đư c
công chứng ngay vào ngày xảy ra sự kiện, thì khi vụ việc đư c đưa ra Tòa án
để xét xử, bên có lỗi sẽ không thể phủ nhận đư c mức độ thiệt hại đã đư c
vi chứng.
- Trong trường h p vi bằng đư c lập theo yêu cầu của Tòa án, ph biến
là yêu cầu lập vi bằng để thực hiện các yêu cầu liên quan đến thi hành các bản
án của Tòa án như TPL giao việc trông giữ các tài sản thi hành án cho con n ,

1
hay nếu người này vắng mặt hoặc từ chối, cho một người nào khác do TPL lại
lựa chọn. Người giữ đồ sẽ ký tên vào bản chính và bản sao; nếu không biết
ký, sự kiện này sẽ đư c ghi trong vi bằng.
Tiếp tục kế thừa những quy định về “vi bằng” trong những văn bản
pháp lý trước năm 1975, Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 đư c
sửa đ i, b sung bởi Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 của
Chính phủ về t chức và hoạt động của Thừa phát lại thực hiện thí điểm tại
một số tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương sau đây gọi chung là Nghị định
số 61/2009/NĐ-CP), tại khoản 1 Điều 2 quy định: “Vi bằng là văn bản do
Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ trong
xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác”.
Như vậy, có thể hiểu vi bằng là tài liệu bằng văn bản [15; Đ27] (kèm
theo vi bằng có thể có hình ảnh, bằng hình và các tài liệu chứng minh khác
[15; Đ27] . Trong đó, TPL sẽ mô tả, ghi nhận lại những hành vi, sự kiện mà
do chính TPL chứng kiến một cách trung thực, khách quan. Đồng thời, có giá
trị nguồn chứng cứ trước Tòa án nếu các bên có phát sinh tranh chấp liên
quan đến sự kiện, hành vi đã đư c lập vi bằng hoặc làm bằng chứng cho các
quan hệ pháp lý khác.
Có thể đưa ra định nghĩa vi bằng như sau: Vi bằng là văn bản do Thừa
phát lại lập theo thẩm quyền, trình tự, thủ tục và hình thức pháp luật quy định
để ghi nhận những sự kiện, hành vi có thật nhằm tạo lập chứng cứ dùng trong
hoạt động xét xử của Tòa án và trong các quan hệ pháp lý khác của tổ chức
và cá nhân.
1.1.2. Đặc điểm vi bằng của Thừa phát lại
Từ định nghĩa về vi bằng nêu trên, có thể đưa ra một số đặc điểm chính
như sau:
Thứ nhất, vi bằng do Thừa phát lại lập

1
Qua rà soát, tìm hiểu quy định của pháp luật hiện hành, chủ thể có thẩm
quyền lập vi bằng duy nhất chỉ có Thừa phát lại – người có các tiêu chuẩn,
đư c Nhà nước b nhiệm và trao quyền để làm các công việc theo quy định
của pháp luật.
Hiện nay, tồn tại một số văn bản mang bản chất là một loại biên bản ghi
nhận sự kiện, hành vi như: văn bản chứng thực của tư pháp xã, phường; văn
bản công chứng của công chứng viên; biên bản ghi nhận hành vi vi phạm của
cơ quan, cá nhân có thẩm quyển xử lý vi phạm hành chính;… Tuy nhiên, mục
đích của việc lập các loại văn bản trên khác nhau và đư c giao cho các chủ
thể khác nhau để thực hiện nên không thể coi đó là vi bằng mà có những tên
gọi cụ thể riêng biệt.
Đặc điểm về chủ thể có thẩm quyền lập vi bằng là đặc điểm quan trọng
giúp phân biệt vi bằng với các loại văn bản, giấy tờ pháp lý khác. TPL là
người đư c Nhà nước b nhiệm theo những điều kiện, tiêu chuẩn chặt chẽ
liên quan đến trình độ chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp nhằm đảm bảo
khả năng ghi nhận các sự kiện, hành vi một cách khách quan và trung thực.
Nếu loại bỏ dấu hiệu chủ thể thì vi bằng về bản chất là một loại biên bản ghi
nhận sự kiện, hành vi giống như nhiều loại biên bản khác.
Thứ hai, vi bằng có giá trị chứng cứ
Vi bằng là văn bản do TPL lập, ghi nhận sự kiện, hành vi đư c dùng
làm chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác. Với mục đích
sử dụng vi bằng làm chứng cứ trong xét xử và các quan hệ pháp lý khác thì vi
bằng cũng phải thỏa mãn các thuộc tính của chứng cứ theo quy định của pháp
luật tố tụng.
Theo quy định tại Điều 93, BLTTDS năm 2015:
“Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương
sự và cơ quan, tổ chức cá nhân khác giao nộp, xuất trình cho Tòa án

1
trong quá trình tố tụng hoặc do Tòa án thu thập được theo trình tự, thủ
tục do Bộ luật này quy định và được Tòa án sử dụng làm căn cứ để xác
định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác định yêu cầu hay
sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”.
Theo đó, để đư c coi là chứng cứ, vi bằng phải bao gồm các thuộc tính
bao gồm: tính khách quan, tính liên quan và tính h p pháp [57]. Cụ thể:
Tính khách quan, đư c thể hiện trong nội dung của vi bằng ghi nhận sự
kiện, hành vi phải có thật, tồn tại ngoài ý muốn của những người tiến hành tố
tụng và những người tham gia tố tụng. Các chủ thể tiến hành tố tụng và tham
gia tố tụng có thể thu thập, nghiên cứu, đánh giá và sử dụng chứng cứ nhưng
không thể tạo ra chứng cứ. Việc nghiên cứu, xem xét tính khách quan của vi
bằng dưới góc độ là chứng cứ giúp quá trình giải quyết vụ việc đư c nhanh
chóng, chính xác dựa trên phân tích đúng đắn về bản chất sự của thật khách
quan đã diễn ra.
Về tính liên quan, vi bằng đư c coi là chứng cứ khi vi bằng và vụ việc
có mối liên hệ nhất định. Qua đó, Tòa án có thể xác định đư c những thông
tin, tình tiết, sự kiện liên quan, có ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ việc đồng
thời sàng lọc, loại bỏ những thông tin, tình tiết, sự kiện không liên quan,
không có ý nghĩa. Việc xem xét tính liên quan của chứng cứ sẽ hạn chế việc
tốn thời gian khi xem chứng cứ, đánh giá không có giá trị, đảm bảo việc giải
quyết vụ việc đư c nhanh chóng và đúng đắn.
Về tính hợp pháp, vi bằng chỉ đư c coi là chứng cứ khi đảm bảo đư c
tính h p pháp của chứng cứ, tức đư c lập và thu thập một cách h p pháp.
Theo đó, quá trình nhận định, ghi nhận các sự kiện, hành vi của TPL phải
đảm bảo theo đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thủ tục và hình thức do
pháp luật quy định. Trường h p vi phạm các yêu cầu nói trên của pháp luật
thì vi bằng sẽ không đảm bảo tính h p pháp và không đư c coi là chứng cứ để

1
giải quyết các vụ việc tại Tòa án và làm bằng chứng cho các quan hệ pháp lý
khác. Trường h p vi bằng ngụy tạo, không h p pháp sẽ tạo ra những hậu quả
pháp lý bất l i cho người lập và TPL phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và
trước cá nhân, cơ quan, t chức yêu cầu lập vi bằng.
Theo quy định của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì vi bằng “là văn
bản do Thừa phát lại lập, ghi nhận sự kiện, hành vi được dùng làm chứng cứ
trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác”. Điều 7 Thông tư liên tịch số
09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 của Bộ Tư
pháp, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính
hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định TPL theo Nghị quyết số
36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội về giá trị pháp lý của vi bằng
như sau: “Vi bằng do Thừa phát lại lập là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét
khi giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp theo
quy định của pháp luật”.
TPL là người đư c Nhà nước b nhiệm theo một trình tự, thủ tục luật
định khi đã hội đủ các yếu tố về chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp, đồng thời,
có trách nhiệm đảm bảo tính trung thực, khách quan khi thực hiện công việc
của mình nên nội dung của vi bằng do TPL lập và ghi nhận đương nhiên đư c
Tòa án tin tưởng đó là những sự kiện, hành vi có thật, đư c sử dụng như là
một nguồn chứng cứ trong xét xử (trừ trường h p bị cơ quan có thẩm quyền
điều tra và kết luận theo thủ tục do luật định . Trong quá trình đánh giá, xem
xét giá trị chứng cứ của vi bằng, nếu xét thấy cần thiết, Tòa án, Viện Kiểm sát
nhân dân có thể triệu tập TPL để làm rõ tính xác thực của vi bằng. Ngoài giá
trị sử dụng làm chứng cứ trong xét xử, vi bằng còn có thể đư c sử dụng làm
căn cứ để thực hiện các giao dịch h p pháp khác theo quy định của pháp luật.
Việc sử dụng làm căn cứ trong các quan hệ pháp lý khác của vi bằng không

1
có giá trị thay thế đối với các giấy tờ hay thủ tục pháp lý khác do pháp luật
quy định (công chứng, chứng thực, giấy phép,… .
Thứ ba, vi bằng được lập dưới dạng văn bản tiếng Việt
Theo Điều 27 Nghị định 61/2009/NĐ-CP quy định về hình thức và nội
dung chủ yếu của vi bằng thì vi bằng phải lập thành văn bản viết bằng tiếng
Việt trong đó nội dung vi bằng ghi nhận những sự kiện, hành vi đã xảy ra mà
TPL trực tiếp chứng kiến. Kèm theo vi bằng có thể là hình ảnh, băng ghi hình
và các tài liệu chứng minh khác để giúp mô tả rõ ràng, chân thực những sự
kiện, hành vi mà TPL đã chứng kiến.
Thứ tư, vi bằng được lập theo thủ tục do pháp luật quy định và phải
đăng ký tại cơ quan nhà nước
Theo quy định hiện hành, vi bằng đư c lập thành 03 bản chính, trong đó
có 01 bản giao cho người yêu cầu, 01 bản lưu trữ tại Văn phòng Thừa phát lại
(VP TPL) và 01 bản gửi Sở Tư pháp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương quản
lý VP TPL để đăng ký trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày lập vi bằng.
Trong thời 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận đư c vi bằng, Sở Tư pháp
vào s đăng ký vi bằng TPL, chính thức vi bằng đư c coi là h p lệ. Đồng
thời, Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký vi bằng nếu phát hiện việc lập vi
bằng không đúng thẩm quyền, không đúng phạm vi lập vi bằng hoặc không
đư c gửi đúng thời hạn để đăng ký theo quy định.
Việc quy định vi bằng phải đư c lập theo trình tự, thủ tục và đăng ký
tại cơ quan tư pháp nhằm đảm bảo vai trò quản lý, kiểm soát của nhà nước đối
với việc lập vi bằng, đảm bảo tính đúng đắn và h p pháp của vi bằng.
1.1.3. Phân biệt bản chất, giá trị pháp lý của vi bằng và văn bản công
chứng, chứng thực và các loại biên bản
Vi bằng là một loại văn bản pháp lý dùng để ghi nhận sự kiện, hành vi
có một số dấu hiệu dễ gây nhầm lẫn với một số loại văn bản, giấy tờ pháp lý

1
khác đã tồn tại trong quy định của pháp luật hiện nay. Việc phân biệt vi bằng
với một số loại văn bản có giá trị pháp lý của một số chức danh tư pháp khác
có ý nghĩa trong việc giúp cơ quan nhà nước, t chức và cá nhân có thể quản
lý, sử dụng vi bằng hiệu quả quả và thiết thực, tránh những hậu quả pháp lý
bất l i khi sử dụng vi bằng nhầm lẫn, sai mục đích.
a) Phân biệt vi bằng và văn bản công chứng
Công chứng là việc công chứng viên của một t chức hành nghề công
chứng chứng nhận tính xác thực, h p pháp của h p đồng, giao dịch dân sự
khác bằng văn bản sau đây gọi là h p đồng, giao dịch), tính chính xác, h p
pháp, không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt
sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt mà theo quy
định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, t chức tự nguyện yêu cầu
công chứng [38; Đ2].
Như vậy, vi bằng và công chứng đều là loại văn bản pháp lý đư c lập
bởi chức danh tư pháp cụ thể, thực hiện công việc mang tính chất b tr hoạt
động tư pháp khi có yêu cầu của t chức, cá nhân nhằm mục đích chủ động
đảm bảo quyền và l i ích h p pháp của mình theo trình tự, thủ tục chặt chẽ do
pháp luật quy định. Tuy nhiên, vi bằng của TPL chỉ ghi nhận hành vi trao đ i,
giao dịch tiền, giao nhận giấy tờ chứ không chứng nhận tính xác thực, h p
pháp của h p đồng, giao dịch khác như các văn bản công chứng của công
chứng viên.
Vi bằng và công chứng đều là loại văn bản pháp lý mang tính chất b
tr hoạt động tư pháp liên quan đến h p đồng, giao dịch dân sự nên còn tồn
tại nhầm lẫn bản chất của hai loại văn bản này. Do đó, việc nhận biết và
phân biệt vi bằng và văn bản công chứng dựa trên các tiêu chí cụ thể là vô
cùng cần thiết.

1
Bảng 1: Phân biệt vi bằng và văn bản công chứng
Tiêu
Vi bằng Văn bản công chứng
chí
Chủ thể Thừa phát lại Công chứng viên
lập
Ghi nhận sự kiện, hành vi theo Chứng nhận tính xác thực, h p pháp
yêu cầu của người yêu cầu lập của h p đồng, giao dịch dân sự
vi bằng. Nội dung của vi bằng khác bằng văn bản, tính chính xác,
Nội
không đánh giá hay thừa nhận h p pháp, không trái đạo đức xã hội
dung
tính h p pháp của các sự kiện, của bản dịch giấy tờ, văn bản theo
hành vi. quy định của pháp luật hoặc theo
yêu cầu của cá nhân, t chức.
TPL có quyền lập vi bằng đối Công chứng viên chứng nhận tính
với các sự kiện, hành vi theo xác thực, tính h p pháp của h p
yêu cầu của đương sự, trừ các đồng, giao dịch, bản dịch giấy tờ,
trường h p vi phạm quy định văn bản từ tiếng Việt sang tiếng
về bảo đảm an ninh, quốc nước ngoài và ngư c lại mà theo
phòng; vi phạm bí mật đời tư, quy định pháp luật phải công chứng
Phạm
các trường h p thuộc thẩm hoặc cá nhân, t chức tự nguyện
vi
quyền công chứng của t chức yêu cầu công chứng.
hành nghề công chứng hoặc
thuộc thẩm quyền chứng thực
của Ủy ban nhân dân (UBND)
các cấp và các trường h p khác
theo quy định của pháp luật.
Giá trị Vi bằng là nguồn chứng cứ để H p đồng, giao dịch đư c công
pháp lý chứng minh sự kiện, hành vi có chứng có giá trị chứng cứ; những

1
diễn ra trong thực tế để bảo vệ tình tiết, sự kiện trong h p đồng,
cho người yêu cầu lập vi bằng giao dịch đư c công chứng không
trước Tòa án và trong các quan phải chứng minh, trừ trường h p bị
hệ pháp luật khác. Tòa án tuyên bố là vô hiệu. Bản
dịch đư c công chứng có giá trị sử
dụng
như giấy tờ, văn bản đư c dịch.
Đư c coi là h p lệ kể từ thời Có hiệu lực từ thời điểm công
điểm đăng ký ở Sở Tư pháp. chứng viên ký và đóng dấu của t
Hiệu chức hành nghề công chứng. H p
lực đồng, giao dịch đư c công chứng có
hiệu lực thi hành đối với các bên
liên quan.
b) Phân biệt vi bằng và văn bản chứng thực
Tại Điều 2 Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015, về cấp bản
sao từ s gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng
thực h p đồng, giao dịch, văn bản chứng thực hiện nay có 03 loại:
- “Chứng thực bản sao từ bản chính” là việc cơ quan, t chức có thẩm
quyền theo quy định tại Nghị định này căn cứ vào bản chính để chứng thực
bản sao là đúng với bản chính.
- “Chứng thực chữ ký” là việc cơ quan, t chức có thẩm quyền theo
quy định tại Nghị định này chứng thực chữ ký trong giấy tờ, văn bản là chữ
ký của người yêu cầu chứng thực.
- “Chứng thực hợp đồng, giao dịch” là việc cơ quan có thẩm quyền
theo quy định tại Nghị định này chứng thực về thời gian, địa điểm giao kết
h p đồng, giao dịch; năng lực hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc
dấu điểm chỉ của các bên tham gia h p đồng, giao dịch.

2
Như vậy, bản chất của vi bằng và văn bản chứng thực có sự khác nhau
ở một số đặc điểm sau:
- Về chủ thể có thẩm quyền chứng thực: Phòng Tư pháp; UBND xã,
phường; cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan
khác đư c ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài;
công chứng viên.
- Về nội dung của văn bản chứng thực: Chứng nhận sự việc, bảo đảm,
xác nhận về tính chính xác, giống nhau giữa bản sao – bản chính; bảo đảm,
xác nhận cá nhân đúng chữ ký trong văn bản; xác nhận năng lực hành vi dân
sự, ý chí và sự tự nguyện… khi tham gia một số giao dịch luật định.
- Về giá trị pháp lý của văn bản chứng thực: Bản sao đư c chứng thực
từ bản chính có giá trị sử dụng thay cho bản chính đã dùng để đối chiếu chứng
thực trong các giao dịch, trừ trường h p pháp luật có quy định khác; chữ ký
đư c chứng thực có giá trị chứng minh người yêu cầu chứng thực đã ký chữ
ký đó, là căn cứ để xác định trách nhiệm của người ký về nội dung của giấy
tờ, văn bản; h p đồng, giao dịch đư c chứng thực có giá trị chứng cứ chứng
minh về thời gian, địa điểm các bên đã ký kết h p đồng, giao dịch; năng lực
hành vi dân sự, ý chí tự nguyện, chữ ký hoặc dấu điểm chỉ của các bên tham
gia h p đồng, giao dịch.
c) Phân biệt vi bằng và các loại biên bản
Biên bản là một loại giấy tờ có giá trị pháp lý mô tả lại các sự việc hiện
tư ng một cách kịp thời, tại chỗ với đầy đủ, chi tiết mọi tình tiết khách quan,
các ý kiến của các bên liên quan có vai trò cung cấp thông tin để làm cơ sở
cho các quyết định xử lý, hoặc minh chứng cho các nhận định kết luận khác.
Biên bản đư c dùng ph biến trong hoạt động của cơ quan nhà nước, hoạt
động thực thi công vụ của cán bộ, công chức nhà nước và cũng đư c các t

2
chức, cá nhân sử dụng cho mục đích quản lý nhà nước và nhiều mục đích
khác nhau.
Về bản chất, vi bằng và các loại biên bản khác đều là giấy tờ ghi nhận
trung thực sự kiện, hành vi đã xảy ra trên thực tế do người lập chứng kiến và
đư c người lập đảm bảo nội dung biên bản đúng với thực tế về mặt nội dung
sự kiện, hành vi, thời gian, địa điểm và nội dung ghi nhận. Tuy nhiên, có sự
khác nhau ở một số đặc điểm sau:
- Về chủ thể có thẩm quyền lập: Biên bản là văn bản do t chức, cá
nhân đư c nhà nước trao quyền lập ra nhằm sử dụng cho mục đích quản lý
nhà nước và nhiều mục đích khác nhau. Như vậy, chủ thể lập biên bản có
phạm vi rộng hơn so với vi bằng, có thể là bất kỳ t chức, cá nhân nào đư c
nhà nước trao quyền.
- Về giá trị pháp lý: Biên bản không có hiệu lực pháp lý để thi hành mà
chủ yếu đư c dùng làm chứng cứ minh chứng các sự kiện thực tế đã xảy ra,
có vai trò cung cấp thông tin để làm cơ sở cho các quyết định xử lý, hoặc
minh chứng cho các nhận định kết luận khác.
- Về trình tự, thủ tục lập và đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước: Bởi
biên bản là văn bản đư c lập ra nhằm mục đích phục vụ cho chính hoạt động
của của t chức, cá nhân lập ra nên có trình tự, thủ tục đơn giản hơn so với vi
bằng. Theo đó, không phải trải qua các bước tiếp nhận yêu cầu, thỏa thuận về
việc lập văn bản và đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước.
Như vậy, việc Nhà nước quy định chặt chẽ, cụ thể về chủ thể, trình tự,
thủ tục lập vi bằng và việc đăng ký tại cơ quan quản lý nhà nước,… là căn cứ
tạo trách nhiệm của TPL trong việc đảm bảo tính khách quan, chính xác khi
lập vi bằng. Qua đó, vi bằng có giá trị chứng minh cao hơn so với các loại
biên bản khác, đư c sử dụng trực tiếp để làm nguồn chứng cứ trước Tòa án và
trong các quan hệ pháp luật khác.

2
1.1.4. Vai trò của vi bằng của Thừa phát lại
Điều 28 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 quy định:
“1. Vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án.
2. Vi bằng là căn cứ để thực hiện các giao dịch hợp pháp khác theo quy
định của pháp luật.”
Việc lập vi bằng của TPL không chỉ có vai trò quan trọng khi Tòa án
giải quyết vụ án và để thực hiện các giao dịch h p pháp khác theo quy định
của pháp luật, ngoài ra, hoạt động lập vi bằng còn có giá trị đa dạng hóa
nguồn cung cấp dịch vụ pháp lý, giúp t chức, cá nhân chủ động tạo lập
chứng cứ để bảo vệ quyền và l i ích h p pháp. Cụ thể:
a) Vi bằng có giá trị chứng cứ trong xét xử
Trong hoạt động tố tụng dân sự chứng cứ là cơ sở để Tòa án quyết định
việc áp dụng pháp luật trong một quan hệ pháp luật cụ thể nhằm xác định
trách nhiệm pháp lý của bên tham gia tố tụng, từ đó xác định hậu quả pháp lý,
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
Vi bằng là văn bản do TPL lập ra bắt buộc phải tuân thủ các quy định
chặt chẽ của pháp luật về thẩm quyền, trình tự, thủ tục, hình thức pháp lý và
phải cam kết chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính chính xác, khách quan
của sự kiện, hành vi đư c ghi nhận. Do đó, vi bằng có độ tin cậy cao hơn
những chứng cứ khác do đương sự tự lập ra hoặc lời khai của đương sự và
những người làm chứng.
Vi bằng khi đư c lập theo yêu cầu của cá nhân, t chức là nguồn chứng
cứ quan trọng, giúp các bên đương sự thu thập, củng cố chứng cứ để cung cấp
cho Tòa án, giúp Tòa án thu thập đư c những chứng cứ quan trọng có giá trị
chứng minh, b sung cho nguồn chứng cứ hiện hành, phục vụ công tác xét xử
của Tòa án và các cơ quan trong giai đoạn điều tra.

2
b) Vi bằng là căn cứ thực hiện các giao dịch hợp pháp khác
Vi bằng do TPL lập có vai trò là căn cứ chứng minh yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ của một bên trong giao dịch h p pháp, ví dụ:
- Đối với các quy định về nghĩa vụ phải thông báo: Trong Bộ luật Dân
sự (BLDS), Bộ luật Lao động, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại,… có rất
nhiều điều, khoản quy định về trách nhiệm phải thông báo khi tham gia quan
hệ pháp luật cụ thể ví dụ: thông báo về địa điểm thực hiện nghĩa vụ; thông
báo về thời gian thực hiện nghĩa vụ; thông báo về đơn phương chấm dứt thực
hiện h p đồng;… . Khi lập vi bằng về việc thông báo thì bên thông báo có cơ
sở pháp lý chứng minh đã thực hiện nghĩa vụ và không phải chịu hậu quả
pháp lý về việc không thông báo, đồng thời, sẽ có căn cứ yêu cầu bên còn lại
thực hiện nghĩa vụ mà không thể viện lý do không nhận đư c thông báo để
trốn trách thực hiện nghĩa vụ phải thực hiện.
- Đối với việc yêu cầu bồi thường thiệt hại: Trong các hình thức trách
nhiệm dân sự, bồi thường thiệt hại là một hình thức trách nhiệm thông dụng,
nhằm buộc bên có hành vi gây ra thiệt hại phải khắc phục hậu quả bằng cách
bù đắp, đền bù t n thất về vật chất và t n thất về tinh thần cho bên bị thiệt hại.
Mặc dù BLDS đã có những quy định khá cụ thể, tuy nhiên, trong thực
tế việc xác định thiệt hại và thống nhất về giá trị thiệt hại giữa các bên trong
quan hệ bồi thường thiệt hại là không dễ dàng. Chính vì vậy việc có một bên
thứ ba khách quan, có nghiệp vụ và trách nhiệm pháp lý tham gia xác nhận
tình trạng thiệt hại có ý nghĩa rất lớn giúp các bên dễ dàng đạt đư c sự đồng
thuận trong quan hệ bồi thường thiệt hại. Vi bằng trong trường h p này giúp
cho việc giải quyết các vụ việc liên quan đến bồi thường thiệt hại đư c đảm
bảo giải quyết nhanh chóng, chính xác, khách quan và có tính khả thi cao.

2
Như vậy, vi bằng có vai trò là căn cứ thực hiện các giao dịch h p pháp
khác, góp phần hạn chế tranh chấp giữa các bên liên quan, giúp n định và
phát triển các quan hệ pháp luật như: thương mại, dân sự, kinh tế, lao động,…
c) Vi bằng có giá trị đa dạng hóa nguồn cung cấp dịch vụ pháp lý
Trong ngành Tư pháp hiện nay, các dịch vụ sự nghiệp công chủ yếu là
các dịch vụ b tr tư pháp như: luật sư, tư vấn pháp luật, giám định tư pháp,
công chứng, bán đấu giá,… với những chức năng cụ thể nhằm tr giúp, tạo
điều kiện cho hoạt động tư pháp tiến hành thuận l i, nhanh chóng, chính xác.
Tuy nhiên, trước khi chế định lập vi bằng của TPL ra đời, chưa tồn tại cơ chế
nào giúp người dân chủ động tạo lập chứng cứ để bảo vệ quyền và l i ích h p
pháp của mình. Sự ra đời của chế định lập vi bằng đã góp phần đa dạng hóa
nguồn cung cấp dịch vụ pháp lý, b sung thêm sự lựa chọn cho người dân khi
có nhu cầu tạo lập chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và căn cứ
để thực hiện các giao dịch h p pháp khác theo quy định của pháp luật.
Việc các chủ thể trong xã hội chủ động yêu cầu lập vi bằng chính là
biện pháp pháp lý đảm bảo an toàn, hạn chế tối đa những tranh chấp có thể
phát sinh trong tương lai. Trên thực tế, nhiều trường h p, không có một hệ
thống cơ quan, t chức có thẩm quyền nào giúp người dân, t chức có thể xác
lập chứng cứ theo yêu cầu của họ một cách kịp thời và thuận l i, đơn giản,
nhanh chóng và không hạn chế về thời gian như TPL. Việc lập vi bằng trong
những trường h p này của TPL giúp đảm bảo các quyền và l i ích chính
đáng của người dân, doanh nghiệp, góp phần hạn chế các tranh chấp pháp lý
nảy sinh.

2
1.2. Khái niệm, đặc điểm và yêu cầu hoạt động lập vi bằng của
Thừa phát lại
1.2.1. Khái niệm hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại
Từ khái niệm vi bằng của TPL và các nội hàm của khái niệm, có thể
xây dựng khái niệm về lập vi bằng của TPL như sau: Lập vi bằng là hoạt
động của VP TPL, được TPL thực hiện theo trình tự, thủ tục do pháp luật quy
định nhằm tạo lập chứng cứ dùng trong hoạt động xét xử của Tòa án và trong
các quan hệ pháp lý khác của tổ chức và cá nhân. Hoạt động lập vi bằng của
TPL phải đảm bảo tuân theo các quy định của pháp luật về phạm vi, hình
thức, nội dung và tuyệt đối tuân thủ những việc TPL không được làm.
Như vậy, pháp luật đã quy định rõ trách nhiệm của TPL khi lập vi bằng
là phải trực tiếp chứng kiến sự kiện, hành vi và phải tự chịu trách nhiệm về
việc đó. Trách nhiệm trực tiếp chứng kiến sự kiện, hành vi của TPL trong
trường h p này cũng tương tự như trách nhiệm của công chứng viên là phải
chứng kiến người yêu cầu công chứng ký vào h p đồng, giao dịch. Trong quá
trình thực hiện quản lý nhà nước về TPL tại địa phương, nếu có căn cứ cho
rằng TPL đã không trực tiếp thực hiện chứng kiến sự kiện, hành vi lập vi bằng
thì Sở Tư pháp căn cứ theo quy định của pháp luật để xem xét, xử lý theo
thẩm quyền [11].
1.2.2. Đặc điểm hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại
Thứ nhất, chủ thể của hoạt động lập vi bằng
Lập vi bằng là hoạt động của VP TPL, đư c thực hiện trực tiếp bởi
TPL. Ngoài TPL là chủ thể trực tiếp thực hiện hoạt động này thì pháp luật
cũng quy định một chủ thể khác tham gia hoạt động lập vi bằng đó là thư ký
nghiệp vụ TPL.
Các thư ký nghiệp vụ TPL có trách nhiệm giúp TPL trong thực hiện
nghiệp vụ như tư vấn về một số quy định pháp luật có liên quan đến vi bằng

2
cho đương sự có nhu cầu lập vi bằng; trách nhiệm kiểm tra tính h p pháp của
nội dung yêu cầu lập Vi bằng và trình TPL đư c phân công theo dõi vụ việc
quyết định; hỗ tr TPL trong một số việc như lập biên bản về sự việc dưới sự
chứng kiến của TPL; in sao, thu thập tài liệu liên quan đến việc lập vi bằng;…
Mặc dù công việc chính của thư ký nghiệp vụ TPL là hỗ tr TPL lập vi
bằng tuy nhiên TPL phải chịu trách nhiệm về vi bằng do mình thực hiện.
Thứ hai, thẩm quyền lập vi bằng
Thẩm quyền lập vi bằng của TPL hiện nay đư c quy định tại Nghị định
số 61/2009/NĐ-CP, nhìn chung, thẩm quyền lập vi bằng tương đối rộng đối
với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự và chỉ bị giới hạn trong
một số trường h p cụ thể liên quan đến mặt nội dung như:
- Các trường h p quy định những việc TPL không đư c làm Điều 6
Nghị định 61/2009/NĐ-CP);
- Các trường h p vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng,
đời tư, đạo đức xã hội;
- Các trường h p thuộc thẩm quyền công chứng của t chức hành nghề
công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của UBND các cấp
- Các trường h p khác theo quy định của pháp luật.
Ngoài giới hạn về mặt nội dung thì thẩm quyền lập vi bằng về mặt
không gian hiện cũng đang đư c giới hạn trong phạm vi địa bàn tỉnh/thành
phố trực thuộc Trung ương nơi đặt VP TPL
1.2.3. Yêu cầu của hoạt động lập vi bằng
Lập vi bằng của TPL quá trình tạo lập vi bằng theo quy trình, cách thức
cụ thể để ghi nhận sự kiện, hành vi xảy ra trên thực tế một cách trung thực,
khách quan và có một số yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại phải đảm bảo sự
chính xác, trung thực và khách quan

2
Vi bằng là nguồn chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và
căn cứ để thực hiện các giao dịch h p pháp theo quy định của pháp luật, do
TPL lập – người có các tiêu chuẩn, đư c Nhà nước b nhiệm và trao quyền để
làm các công việc theo quy định của pháp luật. Do đó nội dung của vi bằng
phải đảm bảo sự chính xác, trung thực và khách quan.
Nhằm đảm bảo tính sự chính xác, trung thực và khách quan trong quá
trình tạo lập vi bằng, hệ thống pháp luật đã có quy định và kiểm soát chặt chẽ
quá trình lập vi bằng như: quy định về trình tự, thủ tục; các trường h p pháp
luật cấm lập vi bằng; đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp; công khai khung giá về
chi phí lập vi bằng;… Tuy nhiên, ý thức và đạo đức nghề nghiệp của TPL là
yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo sự chính xác, trung thực, khách quan.
Nếu ý thức và đạo đức nghề nghiệp của TPL bị xem nhẹ sẽ dễ dẫn đến việc
phá vỡ các quy tắc, không đảm bảo sự chính xác, trung thực và khách quan để
tranh thủ đoạt l i trong hoạt động lập vi bằng và dẫn đến những hậu quả pháp
lý bất l i khi sử dụng vi bằng.
Thứ hai,hoạt động lập vi bằng phải tuân thủ phạm vi về mặt nội dung
Với tính chất là văn bản do TPL lập, nhằm ghi nhận những sự kiện,
hành vi làm chứng cứ, căn cứ thực hiện các giao dịch dân sự khác, theo đó,
phạm vi nội dung vi bằng rất đa dạng, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Nhằm mục đích tạo cơ chế để đảm bảo sự chính xác, trung thực và khách
quan khi TPL lập vi bằng đối với các sự kiện, hành vi liên quan đến quyền,
l i ích của bản thân và những người thân thích; thống nhất giữa việc lập vi
bằng và các nội dung cấm, hạn chế khác theo quy định của pháp luật và tránh
việc ghi nhận sai nội dung dẫn đến sử dụng vi bằng không chính xác pháp luật
đã quy định một số trường h p không đư c lập vi bằng buộc TPL phải tuân
thủ như:

2
- TPL không đư c nhận làm những việc liên quan đến quyền, l i ích
của bản thân và những người là người thân thích của mình;
- Các trường h p vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng;
- Vi phạm bí mật đời tư theo quy định của BLDS;
- Các trường h p thuộc thẩm quyền công chứng của t chức hành nghề
công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của UBND các cấp.
1.3. Khái quát sự phát triển chế định lập vi bằng của Thừa phát lại
1.3.1. Giai đoạn trước năm 1975
TPL với tính chất là một nghề chuyên môn pháp lý để thực hiện các
công việc hành chính – pháp lý liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án,
bắt đầu xuất hiện ở Việt Nam từ khi Vua Tự Đức ký Hòa ước ngày 05/6/1862
dựa trên cơ sở kế thừa, học hỏi kinh nghiệm về TPL của Pháp và có những
nhiệm vụ cơ bản sau:
- Thông báo tòa khai mạc và bế mạc, gọi các đương sự, nhân chứng, thi
hành lệnh giữ trật tự tại tòa;
- Tống đạt các giấy tờ theo yêu cầu của Tòa án;
- Lập các vi bằng theo quy định của pháp luật;
- Phát mại động sản hay bất động sản và trực tiếp thi hành các bản án,
quyết định của tòa án. [4]
Như vậy, trong giai đoạn này, lập vi bằng là một nhiệm của TPL và
đư c ghi nhận cụ thể trong: “Bộ dân sự tố tụng Nam Việt”, ban hành kèm
Nghị định ngày 16/3/1910 (Nam Kỳ ; “Bộ dân luật Trung năm 1936 -
1939”, ban hành kèm Bộ hộ sự, thương sự tố tụng Trung Việt năm 1942
(Trung Kỳ); “Bộ dân luật Bắc năm 1931”, ban hành kèm Bộ dân sự tố tụng
Bắc năm 1917 Bắc Kỳ); Nghị định 111/BTP-NĐ ngày 04/02/1950 của Bộ
Tư pháp; Bộ luật Dân sự và thương sự tố tụng năm 1972 thay thế Bộ dân sự

2
tố tụng Nam Việt ngày 16/3/1972) [6]. TPL tồn tại ở Việt Nam từ thời kỳ
Pháp thuộc cho đến năm 1950 ở miền Bắc và năm 1975 ở miền Nam. Cụ thể:
- Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời, theo Sắc lệnh 130/SL ngày 19/7/1946, chế định lập vi bằng
của TPL tồn tại cùng với chế định TPL và do Bộ Tư pháp (BTP) quản lý.
Điều 1 của Sắc lệnh trên quy định:
Các bản sao hoặc trích lục bản án do các phòng lục sự phát cho
các đương sự để thi hành các án, hoặc mệnh lệnh các tòa án hộ đều
phải có thể thức thi hành, ấn định như sau: “Vậy, Chủ tịch Chính phủ
Việt Nam dân chủ cộng hòa truyền cho các Thừa phát lại theo yêu cầu
của đương sự thi hành bản án này, các ông chưởng lý và biện lý kiểm
sát việc thi hành án, cai trị chỉ huy binh lực giúp đỡ mỗi khi đương sự
chiếu luật yêu cầu…”.
Như vậy, Sắc lệnh 130/SL ngày 19/7/1946 chính là văn bản pháp lý
đầu tiên đánh dấu sự ra đời (thừa nhận) về t chức của TPL và hoạt động lập
vi bằng trong chế độ mới.
- Cho đến năm 1950, ở miền Bắc chấm dứt sự tồn tại của chế định TPL
thông qua việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL ngày 22/5/1950
về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng”, theo đó, chế định lập vi bằng
của TPL cũng chấm dứt [22; Đ19].
- Ở miền Nam, chế định lập vi bằng của TPL tiếp tục đư c duy trì dưới
chính quyền Sài Gòn dựa trên Nghị định 111 ngày 08/3/1949, Bộ luật Dân sự,
Thương sự tố tụng và Bộ luật Hình sự tố tụng năm 1972, cho đến năm 1975,
sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam thành công, thống
nhất đất nước.
Trước năm 1975, một trong những chức năng quan trọng của TPL là
lập vi bằng. Về việc lập vi bằng của TPL thời gian này, Điều 86 Bộ Dân luật

3
năm 1972 “Người được doãn chấp phải xin chức dịch xã hoặc nhờ Thừa phát
lại hay chưởng khế làm bản kê khai và trị giá những động sản và bất động
sản được doãn chấp, trước khi bắt đầu chấp hữu”. Đây là công việc TPL làm
theo yêu cầu của Tòa án hoặc theo yêu cầu của các cá nhân, t chức. Công
việc này rất đa dạng và có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc cung cấp
chứng cứ, có thể phân tích t ng thể làm 03 loại công việc như sau:
Thứ nhất, cáo tri thông cáo các ý định và các hành vi đã đư c thực
hiện đối với một đối tư ng như thông báo cho người thuê nhà biết ý định
chấm dứt h p đồng khi hết hạn, thông báo cho người thuê biết ý định của chủ
nhà để người thuê sử dụng quyền tiên mãi ưu tiên hoặc đốc thúc con n phải
trả n .
Thứ hai, sưu tầm xác định các sự kiện, bằng chứng để đối chứng trước
tòa, như sưu tầm tài liệu tại các cơ quan, chất vấn lấy lời khai của nhân chứng,...
Thứ ba, vi chứng các sự kiện thực tế như làm vi bằng công chứng về
các thiệt hại về tài sản, vi bằng công chứng về việc lấn chiếm đất đai, vi bằng
công chứng về tình trạng ngoại tình,... [29]
Tuy nhiên, trong các công việc này, có việc chỉ thi hành khi có lệnh của
Tòa án cho phép, chẳng hạn như sưu tầm tài liệu tại các cơ quan, nhưng cũng
có những công việc mà TPL đư c làm theo triệu dụng của cá nhân như lập vi
bằng công chứng các thiệt hại về hiện trạng tài sản,...
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 2009
Từ năm 1975, chế định TPL chấm dứt thi hành ở Việt Nam, cụ thể, ở
miền Bắc thông qua việc Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 85/SL ngày
22/5/1950 về “Cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng” và chấm dứt hoàn
toàn ở miền Nam vào năm 1975, sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ giải
phóng miền Nam thành công, thống nhất đất nước.

3
Cho đến những năm đầu của thế kỷ XXI, theo quan điểm truyền thống
trong lĩnh vực luật công Luật Hiến pháp, Luật Hình sự,… để bảo vệ l i ích
công, Nhà nước phải dùng các nguồn lực công công chức nhà nước, ngân
sách nhà nước,… còn trong lĩnh vực luật tư Luật Dân sự, Luật Hôn nhân và
gia đình thì cá nhân, t chức phải dùng các nguồn lực của mình để tự mình
hoặc thuê những người có hiểu biết, kỹ năng bảo vệ các quyền và l i ích h p
pháp của mình. Nhà nước có trách nhiệm tạo điều kiện phát triển đội ngũ và
các t chức nghề nghiệp chuyên cung cấp các dịch vụ pháp lý để hỗ tr cá
nhân, t chức trong việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình.
Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lư c cải cách tư
pháp đến năm 2020 xác định Tòa án với nhiệm vụ xét xử là trọng tâm của
công cuộc cải cách tư pháp và tranh tụng dân chủ, bình đẳng là khâu đột phá
của cải cách tư pháp. Thực tiễn xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp trong
thời gian vừa qua cho thấy việc áp dụng mô hình tố tụng tại phiên tòa theo
hướng thẩm vấn kết h p với tranh tụng, đã bước đầu có những tác động tích
cực: Những người tham gia tố tụng – các đương sự và luật sư, người đại diện,
bảo vệ của các đương sự – đã thu thập các chứng cứ, tình tiết của vụ án và đã
sử dụng chúng để tranh tụng tại phiên tòa; trên cơ sở đó, Hội đồng xét xử đã
ra các phán quyết chính xác, khách quan hơn. Vì vậy, chất lư ng xét xử của
Tòa án các cấp đã đư c nâng lên một bước, giảm các vụ, việc oan, sai.
Thể chế hóa Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lư c
cải cách tư pháp đến năm 2020, Quốc hội đã ban hành BLDS năm 2005,
BLTTDS năm 2004 và các văn bản pháp luật khác đã quy định những nguyên
tắc cơ bản trong việc điều chỉnh các quan hệ dân sự. Một trong những nguyên
tắc đó là việc đương sự có quyền và trách nhiệm cung cấp chứng cứ, chứng
minh để bảo vệ quyền và l i ích h p pháp của mình.

3
Tuy nhiên, pháp luật lại chưa quy định cơ chế hữu hiệu để các cá nhân,
t chức thực hiện việc tạo lập, thu thập các chứng cứ nhằm chủ động bảo vệ
quyền và l i ích h p pháp của mình. Việc thu thập chứng cứ đòi hỏi những kỹ
năng và sự tuân thủ các trình tự, thủ tục nhất định nên trong nhiều trường h p
các t chức, cá nhân rất khó tự mình thu thập chứng cứ hoặc nếu có, thu thập
đư c nhưng không theo đúng quy định của pháp luật thì vẫn không đư c coi
là có giá trị pháp lý.
Do đó, Nghị quyết 49-NQ/TW đã định hướng: “Tiếp tục hoàn thiện thủ
tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại hình dịch vụ
từ Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu thập chứng cứ
chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình…”. Một trong những
loại hình dịch vụ hỗ tr các cá nhân, t chức tạo lập, thu thập chứng cứ chính
là hoạt động lập vi bằng chứng thư do TPL – người có thẩm quyền, có đủ
tiêu chuẩn, kỹ năng nghiệp vụ đư c Nhà nước b nhiệm – thực hiện theo yêu
cầu của cá nhân, t chức. Các chứng cứ này sẽ giúp cho các đương sự, kể cả
giúp cho luật sư của họ, có cơ sở bảo vệ quyền và l i ích của mình, giúp cho
Tòa án, cơ quan nhà nước khác giải quyết những việc liên quan đến người dân
đư c khách quan, chính xác, kịp thời, phù h p với pháp luật. Đồng thời, TPL
ra đời còn góp phần giảm thiểu việc Thẩm phán phải tự mình xác minh, thu
thập chứng cứ theo yêu cầu của đương sự, hạn chế việc tiếp xúc của Thẩm
phán với đương sự ngoài Tòa án. Khi cần xác minh một vụ việc, một sự kiện
nào đó Tòa có thể triệu tập TPL để làm việc và có thể yên tâm về độ chính
xác của vi bằng do TPL lập theo quy định của pháp luật tố tụng.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, ngày 14/11/2008 Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong
đó có quy định:

3
“Để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công
việc có liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và
tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại
một số địa phương. Việc thí điểm được thực hiện từ ngày Luật này có
hiệu lực thi hành (01/7/2009) đến ngày 01/7/2012. Chính phủ tổng
kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm và báo cáo Quốc hội xem xét,
quyết định”.
Thực hiện Nghị quyết số 24/2008/QH12 về Thi hành Luật Thi hành án
dân sự, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 224/QĐ-TTg ngày
19/02/2009 phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại
Thành phố Hồ Chí Minh”. Đề án đư c xây dựng dựa trên việc nghiên cứu
tiếp thu các yếu tố h p lý của chế định TPL đã từng tồn tại ở Việt Nam thời
kỳ trước năm 1950 và tiếp tục ở miền Nam cho đến năm 1975, đồng thời có
sự điều chỉnh, b sung các nội dung mới phù h p với tình hình kinh tế – xã
hội và yêu cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính. Theo đó, TPL là người
có đủ các tiêu chuẩn do pháp luật quy định, đư c Nhà nước b nhiệm để làm
các công việc về: i Xác minh điều kiện thi hành án và trực tiếp thi hành bản
án, quyết định theo yêu cầu của đương sự; ii Tống đạt giấy tờ của Tòa án và
của cơ quan thi hành án dân sự cho đương sự; iii Lập vi bằng có giá trị chứng
cứ chứng minh trong xét xử và iv Các công việc khác theo quy định của pháp
luật. Chế định TPL đư c nghiên cứu, t chức thực hiện với mục tiêu tạo lập
một cơ chế hỗ tr , giảm tải công việc cho Tòa án và các cơ quan thi hành án
dân sự nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động xét xử và thi hành án dân sự phù
h p với chủ trương cải cách tư pháp và cải cách hành chính. Hỗ tr người dân
chủ động thực hiện đúng đắn các quyền, nghĩa vụ vả bảo vệ các quyền, l i ích
h p pháp của mình trong quá trình tố tụng nói riêng và trong quan hệ với các
cơ quan nhà nước và các quan hệ dân sự khác nói chung, đồng thời tạo ra một

3
nghề mới trong xã hội, mở rộng khả năng lựa chọn dịch vụ pháp lý trong
lĩnh vực tư pháp nhằm đảm bảo tốt nhất quyền, l i ích h p pháp của mình.
Trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội và Đề án đã đư c phê duyệt,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về t
chức và hoạt động của Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh. Nghị định
này quy định về TPL, VP TPL; phạm vi, thủ tục thực hiện công việc của
TPL; giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiểm sát đối với hoạt động của TPL
thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh.
1.3.3. Giai đoạn từ năm 2009 đến nay
Sau gần 3 năm thực hiện thí điểm chế định TPL tại Thành phố Hồ Chí
Minh, trên cơ sở xem xét báo cáo của Chính Phủ về t ng kết thực hiện thí
điểm chế định TPL theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 của
Quốc hội về thi hành Luật Thi hành án dân sự và Tờ trình số 298/TTr-CP
ngày 23/10/2012 của Chính phủ về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định
Thừa phát lại; Báo cáo thẩm tra số 928/BC-UBTP13 ngày 24/10/2012 của Ủy
ban Tư pháp của Quốc hội và ý kiến của các vị Đại biểu, Quốc hội đã ban
hành Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 giao Chính phủ tiếp tục
t chức thực hiện thí điểm chế định TPL tại một số tỉnh/thành phố trực thuộc
Trung ương theo Nghị quyết số 24/2008/QH12 đến hết ngày 31/12/2015 và
tiến hành t ng kết, đánh giá kết quả thực hiện thí điểm để báo cáo Quốc hội
tại kỳ họp cuối năm 2015.
Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại” tại Quyết định số
510/QĐ-TTg ngày 25/3/2013, trên cơ sở Đề án, Bộ trưởng BTP đã ban hành
Quyết định 1531/QĐ-BTP ngày 24/6/2013 sau khi thống nhất ý kiến với Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tài chính, chọn 12
tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện thí điểm TPL bao gồm: Hà

3
Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Nghệ An, Bình Định,
Đồng Nai, Bình Dương, Tiền Giang, An Giang, Vĩnh Long. Riêng đối với
Thành phố Hồ Chí Minh, mở rộng thực hiện thí điểm chế định TPL tại một số
quận, huyện trên địa bàn Thành phố có nhu cầu nhưng chưa thực hiện thí
điểm ở giai đoạn 2009 – 2012.
Nhằm đảm bảo chuẩn bị các điều kiện cần thiết để thực hiện Đề án
“Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại”, BTP đã ban hành nhiều
văn bản nhằm hướng dẫn, đôn đốc và đề nghị các tỉnh ủy/thành ủy, UBND và
Sở Tư pháp các địa phương quan tâm, tăng cường chỉ đạo các cơ quan, t
chức tại địa phương có giải pháp thực hiện hiệu quả việc triển khai thực hiện
mở rộng thí điểm chế định TPL. Đồng thời, chỉ đạo Sở Tư pháp, các cơ quan
thi hành án tại các địa phương có t chức thực hiện thí điểm chế định TPL
thường xuyên làm việc với các văn phòng trên địa bàn để cùng quán triệt
nhận thức, thống nhất hành động nhằm đẩy mạnh toàn diện kết quả hoạt động
của các VP TPL, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho các VP TPL …
Cùng với việc quán triệt triển khai thực hiện các chủ trương, quy định
về chế định TPL, BTP và UBND Thành phố Hồ Chí Minh đã mở nhiều đ t
tuyên truyền, ph biến rộng rãi với nhiều hình thức đa dạng khác nhau, nâng
cao nhận thức của người dân, xã hội đối với chế định TPL. Đặc biệt, giúp cá
nhân, t chức tiếp cận, hiểu rõ hơn về công việc lập vi bằng của TPL, thông
qua đó tạo cơ chế tăng cường tính chủ động, tích cực của các đương sự trong
các quan hệ dân sự, tố tụng dân sự, tạo thêm một công cụ pháp lý để người
dân tự bảo vệ quyền, l i ích h p pháp của mình trong thực hiện các giao dịch
dân sự và trong các quá trình tố tụng.
Trên cơ sở xem xét Báo cáo số 538/BC-CP ngày 19/10/2015 của Chính
phủ về t ng kết việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo
Nghị quyết số 36/2012/QH13 của Quốc hội và Tờ trình số 584/TTr-CP ngày

3
27/10/ 2015 của Chính phủ về dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện
chế định Thừa phát lại, Báo cáo thẩm tra số 2974/BC-UBTP13 ngày
14/9/2015, Báo cáo thẩm tra số 3085/BC-UBTP13 ngày 08/11/2015 của Ủy
ban tư pháp của Quốc hội và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Quốc hội đã
ban hành Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế
định Thừa phát lại, theo đó ghi nhận kết quả đạt đư c trong việc thực hiện thí
điểm chế định TPL về t chức, hoạt động của TPL và những tác động đối với
kinh tế – xã hội, qua đó khẳng định việc thí điểm chế định TPL là một chủ
trương đúng đắn, phù h p với bối cảnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính
hiện nay, chính thức chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định TPL
trong phạm vi cả nước kể từ ngày 01/01/2016. Giao cho Chính phủ căn cứ căn
cứ tình hình thực tế ở địa phương t chức thực hiện chế định TPL trong phạm
vi nghề nghiệp theo quy định hiện hành, có sự sửa đ i, b sung cần thiết để
khắc phục những tồn tại, hạn chế trong hoạt động TPL và chịu trách nhiệm t
chức đào tạo nghề TPL, đồng thời, phối h p với Tòa án nhân dân tối cao,
Viện kiểm sát nhân dân tối cao triển khai thực hiện Nghị quyết và chuẩn bị dự
án Luật Thừa phát lại, báo cáo Quốc hội xem xét đưa vào chương trình xây
dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội khóa XIV.
Thời gian qua, triển khai thực hiện chính thức chế định TPL theo Nghị
quyết số 107/2015/QH12, đã có 21 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương xây
dựng Đề án thực hiện chế định Thừa phát lại gửi BTP phê duyệt theo quy
định trong đó có 5 địa phương đã thực hiện chế định TPL đề nghị phát triển
thêm các Văn phòng . Ngày 25/8/2017, Bộ Tư pháp đã thực hiện phê duyệt
Đề án/Đề án mở rộng thực hiện chế định TPL của 8 địa phương, cho phép
thành lập thêm t ng cộng 21 VP TPL tại Bắc Ninh, Bình Dương, Bình Thuận,
Cần Thơ, Đà Nẵng, Đồng Tháp, Long An và Thành phố Hồ Chí Minh. Còn

3
lại 10 địa phương đã đư c phê duyệt Đề án hiện đang triển khai thành lập các
VP TPL.
Tuy nhiên, trong giai đoạn thực hiện thí điểm tại một số tỉnh/thành phố
và thực hiện chế định TPL trên phạm vi cả nước cho đến nay, hoạt động và t
chức của TPL vẫn đang đư c điều chỉnh bởi Nghị định số 61/2009/NĐ-CP
mà chưa có Luật Thừa phát lại, dẫn đến những bất cập nhất định về mặt thể
chế, băn khoăn, lo ngại về tính pháp lý trong hoạt động của TPL nói chung và
hoạt động lập vi bằng nói riêng.

3
KẾT LUẬN CHƢƠNG 1

TPL với tính chất là một nghề chuyên môn pháp lý, thực hiện các công
việc hành chính – pháp lý liên quan đến hoạt động xét xử của Tòa án, bắt đầu
xuất hiện và tồn tại ở Việt Nam từ thời kỳ Pháp thuộc cho đến năm 1950 ở
miền Bắc và năm 1975 ở miền Nam.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của TPL trong thời gian này là
lập vi bằng theo yêu cầu của Tòa án hoặc theo yêu cầu của các cá nhân, t
chức. Công việc lập vi bằng của TPL rất đa dạng và có tầm quan trọng đặc
biệt đối với việc cung cấp chứng cứ.
Theo tiến trình lịch sử, sự cần thiết tái lập chế định TPL phù h p với
bối cảnh cải cách tư pháp và cải cách hành chính, đòi đòi hỏi một thiết chế
có thể hỗ tr người dân chủ động thực hiện đúng đắn các quyền, nghĩa vụ
và bảo vệ các quyền, l i ích h p pháp của mình, qua đó hỗ tr , giảm tải
công việc cho Tòa án và các cơ quan thi hành án dân sự nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động xét xử, Thi hành án dân sự.
Với chức năng lập vi bằng vi bằng của TPL không chỉ có vai trò là
chứng cứ để Tòa án xem xét khi giải quyết vụ án và là căn cứ để thực hiện các
giao dịch h p pháp khác theo quy định của pháp luật, mà còn có giá trị đa
dạng hóa nguồn cung cấp dịch vụ pháp lý, giúp các chủ thể chủ động bảo vệ
quyền và l i ích h p pháp của mình.

3
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ LẬP VI BẰNG CỦA
THỪA PHÁT LẠI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

2.1. Chủ thể lập vi bằng


Theo khoản 1 Điều 2 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP, “Vi bằng là văn
bản do Thừa phát lại lập”, tức chủ thể có quyền lập vi bằng theo quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành chỉ có thể là TPL.
TPL ở Việt Nam cũng tương tự ở hầu hết các nước, đều thực hiện chức
năng b tr cho hoạt động tư pháp và hỗ tr người dân tiếp cận pháp luật, tư
pháp, gọi chung là chức năng b tr tư pháp. Để thực hiện chức năng này,
TPL có hai nhóm nhiệm vụ: Các nhiệm vụ độc quyền chỉ do TPL thực hiện và
các nhiệm vụ không phải là độc quyền của TPL. [34]
Các nhiệm vụ độc quyền của TPL bao gồm 2 nhiệm vụ mang tính chất
truyền thống là dịch vụ về tống đạt văn bản và thi hành các bản án, quyết định
theo yêu cầu của Tòa án. Đây là các nhiệm vụ mà TPL đư c nhà nước ủy
quyền đại diện cho quyền lực công khi thi hành.
Các nhiệm vụ không độc quyền của TPL bao gồm các nhiệm vụ khác
không mang tính chất độc quyền trên cơ sở thỏa thuận giữa TPL với t chức,
cá nhân. Các hoạt động này khá đa dạng, trong đó, ph biến là lập vi bằng và
một số nhiệm vụ khác đảm nhận việc đại diện cho các bên ở một số Tòa án
hoặc thực hiện tư vấn pháp lý; thực hiện một số hoạt động mang tính chất phụ
tr khác nhằm đảm bảo nguồn thu cho hoạt động của VP TPL, chẳng hạn thu
hồi các khoản n theo thỏa thuận cá nhân; soạn thảo các văn bản, tài liệu;
quản lý bất động sản; làm đại lý bảo hiểm; dịch vụ hòa giải theo yêu cầu;… .
Để đảm bảo vi bằng đư c lập theo đúng thẩm quyền và thủ tục quy định,
một trong các vấn đề mà các quốc gia có áp dụng chế định TPL nói chung và

4
Việt Nam nói riêng quan tâm đó là quy định tiêu chuẩn đối với TPL – chủ thể
có thẩm quyền lập vi bằng. Về tiêu chuẩn đối với người hành nghề TPL, nhìn
chung các quốc gia đư c nghiên cứu quy định theo 03 nhóm tiêu chuẩn: Tiêu
chuẩn chung (về tư cách công dân, độ tu i, lý lịch và khả năng phù h p nghề
nghiệp), tiêu chuẩn về chuyên môn trình độ chuyên môn nghề nghiệp, đào tạo,
bằng cấp, chứng chỉ) và tiêu chuẩn về đạo đức (tiền sử không có các vi phạm
pháp luật và đạo đức..). Những tiêu chuẩn này nhằm đảm bảo các hoạt động
của TPL đáp ứng đư c mục tiêu hỗ tr hoạt động tư pháp và tuân thủ các quy
định của luật pháp.
- Ở Pháp, quốc gia có lịch sử phát triển lâu đời nghề TPL quy định,
người nào muốn trở thành TPL phải đáp ứng các tiêu chuẩn chung và tiêu
chuẩn về chuyên môn. [54]
i) Các tiêu chuẩn chung: Là công dân Pháp theo Bộ luật quốc tịch;
chưa từng bị kết án hình sự hoặc bị áp dụng biện pháp kỷ luật; chưa từng thực
hiện hành vi trái danh dự, vi phạm nguyên tắc trung thực hoặc thuần phong
mỹ tục và chưa từng bị phá sản cá nhân.
ii) Các tiêu chuẩn về chuyên môn: Người muốn hành nghề TPL đã đáp
ứng các điều kiện chung còn phải có bằng đại học theo quy định, tiến hành
thực tập và thi đỗ kỳ thi sát hạch chuyên môn, trừ các trường h p đư c miễn
toàn bộ hoặc một phần các điều kiện này. Cụ thể:
Có bằng Master 1 về luật hoặc bằng tương đương và phải có bằng này
trước khi bắt đầu thực tập. Thời gian thực tập hành nghề TPL là 02 năm và ít
nhất một nửa thời gian thực tập đư c tiến hành tại một VP TPL và nửa còn lại
tại một văn phòng công chứng, nhân viên bán đấu giá, luật sư tại Tòa án phúc
thẩm, luật sư, kế toán, cơ quan hành chính nhà nước, bộ phận pháp chế và
thuế của doanh nghiệp, có thể ở nước ngoài hoặc bên cạnh một t chức hành
nghề pháp luật hoặc tư pháp chịu sự quản lý của Nhà nước. Khóa thực tập bao

4
gồm hoạt động thực hành nghề nghiệp và các bu i học do Hội đồng TPL quốc
gia t chức.
Thi đỗ kỳ thi sát hạch chuyên môn. Chỉ đư c tham gia kỳ thi sát hạch
chuyên môn này nhiều nhất là 04 lần và nếu không thi đỗ ở lần thứ tư thì
không đư c tiếp tục nộp hồ sơ nữa.
Quy chế nghề TPL quy định một số trường h p đư c miễn một phần
hoặc toàn bộ thời gian thực tập và kỳ thi sát hạch chuyên môn, thậm chí đư c
miễn cả điều kiện về bằng cấp.
- Ở Hoa Kỳ, để trở thành một TPL thì phải đáp ứng đầy đủ những điều
kiện về tiêu chuẩn chung, tiêu chuẩn về chuyên môn và tiêu chuẩn về đạo
đức. [54]
i) Tiêu chuẩn chung: Là công dân Hoa Kỳ, trên 21 tu i (tùy từng bang)
ii) Tiêu chuẩn về chuyên môn: Phải có ít nhất một bằng tốt nghiệp trung
học hoặc tương đương. Đư c đào tao chuyên môn tại trường cao đẳng từ 02
đến 04 năm, trường dạy nghề hoặc học viện cảnh sát. Các môn học trong quá
trình đào tạo liên quan đến các lĩnh vực như công lý, hình sự, thực thi pháp
luật hoặc quyền công dân; các kỹ năng trong thực thi pháp luật và quản lý.
Nếu làm việc làm ở cấp liên bang đòi hỏi bằng cử nhân cũng như kinh
nghiệm làm việc liên quan.
Bên cạnh đó, vì làm việc liên quan đến hoạt động giữ an toàn trong
phòng xử án, các TPL phải yêu cầu đào tạo kỹ năng sơ cứu, kỹ năng sử dụng
súng và một số công cụ hỗ tr an ninh.
iii) Tiêu chuẩn về đạo đức: Có tinh thần và thể chất phù h p với người
làm nghề thực thi pháp luật. Không có tiền án, tiền sự. TPL phải duy trì các
chuẩn mực cao nhất về sự liêm chính cá nhân và không bao giờ nói dối người
khác về khả năng của mình.

4
TPL phải vư t qua một bài kiểm tra sát hạch theo quy định của liên
bang và từng bang.
- Ở Việt Nam, chế định TPL đư c nghiên cứu dựa trên cơ sở kế thừa,
học hỏi kinh nghiệm quốc tế về TPL. Theo đó, tiêu chuẩn của TPL cũng có
sự học hỏi nhất định đồng thời có sự điều chỉnh cho phù h p với thực tiễn
Việt Nam, cụ thể về tiêu chuẩn đối với TPL phải đáp ứng đủ những điều
kiện về tiêu chuẩn chung và tiêu chuẩn về chuyên môn [15; Đ10]:
i) Tiêu chuẩn chung: Là công dân Việt Nam, có sức khỏe, có phẩm
chất đạo đức tốt; không có tiền án;
ii) Tiêu chuẩn về chuyên môn: Có bằng cử nhân luật; đã công tác trong
ngành pháp luật trên 05 năm hoặc đã từng làm Thẩm phán, Kiểm sát viên,
Luật sư, Chấp hành viên, Công chứng viên, Điều tra viên từ Trung cấp trở
lên; có chứng chỉ hoàn thành lớp tập huấn về nghề TPL do BTP t chức;
không kiêm nhiệm hành nghề Công chứng, Luật sư và những công việc khác
theo quy định của pháp luật.
TPL ở Việt Nam đư c Bộ trưởng BTP b nhiệm dựa trên cơ sở đề nghị
của Giám đốc Sở Tư pháp khi thấy người muốn đư c b nhiệm làm TPL có
đầy đủ hồ sơ và điều kiện yêu cầu.
2.2. Thẩm quyền lập vi bằng
Theo quy định tại Nghị định số 61/2009/NĐ-CP, thẩm quyền lập vi
bằng của TPL đư c quy định như sau:
2.2.1. Thẩm quyền về mặt nội dung
Lập vi bằng là một lĩnh vực rất quan trọng, cho phép TPL tạo lập chứng
cứ về một sự việc thực tế đã xảy ra theo yêu cầu trực tiếp của một cá nhân
hoặc đư c Tòa án chỉ định tiến hành lập vi bằng nhằm cung cấp chứng cứ về
một sự việc thực tế. Về nội dung của vi bằng, nhiều nước quy định theo

4
hướng g i mở, tức TPL đư c ghi nhận tất cả những nội dung mà không thuộc
phạm vi cấm của pháp luật và đạo đức xã hội.
Theo khoản 1 Điều 25 Nghị định số 61/2009/NĐ-CP, TPL có quyền lập
vi bằng đối với các sự kiện, hành vi theo yêu cầu của đương sự, trừ những
trường h p sau: i) các trường h p quy định những việc TPL không đư c làm
Điều 6 Nghị định 61/2009/NĐ-CP ; ii các trường h p vi phạm quy định về
bảo đảm an ninh, quốc phòng, đời tư, đạo đức xã hội; iii các trường h p
thuộc thẩm quyền công chứng của t chức hành nghề công chứng hoặc thuộc
thẩm quyền chứng thực của UBND các cấp và iv các trường h p khác theo
quy định của pháp luật.
Như vậy, việc lập vi bằng của TPL có phạm vi về mặt nội dung rất
rộng. Bao gồm tất cả các sự kiện, hành vi đều có thể đư c lập vi bằng. Trừ
các trường h p cụ thể sau:
Một là, TPL không đư c nhận làm những việc liên quan đến quyền, l i
ích của bản thân và những người là người thân thích của mình, bao gồm: V ,
chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội,
ông ngoại, bà ngoại, bác, chú, cậu, cô, dì và anh, chị, em ruột của TPL, của v
hoặc chồng của TPL; cháu ruột mà TPL là ông, bà, bác, chú, cậu, cô, dì.
Việc pháp luật quy định trường h p trên nhằm đảm bảo sự chính xác,
trung thực và khách quan của TPL khi lập vi bằng, tránh trường h p TPL vì
có quyền, l i ích liên quan đến bản thân và những người thân thích mà lập vi
bằng ghi nhận sự kiện, hành vi sai sự thật, thiếu khách quan và trung thực.
Hai là, các trường hợp vi phạm quy định về bảo đảm an ninh, quốc phòng
An ninh, quốc phòng đư c hiểu là sự n định, phát triển bền vững của
chế độ xã hội chủ nghĩa và Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
sự bất khả xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh th của
T quốc. Bảo vệ an ninh, quốc phòng là sự nghiệp của toàn dân. Cơ quan, t

4
chức, công dân có trách nhiệm, nghĩa vụ bảo vệ an ninh, quốc phòng theo quy
định của pháp luật.
Để hướng dẫn TPL thực hiện quy định trên, BTP đã ban hành Công văn
số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 hướng dẫn một số nội dung liên
quan đến hoạt động lập vi bằng của TPL. Theo đó, khi lập vi bằng TPL lưu ý:
Không lập vi bằng các trường h p vi phạm các quy định về bảo đảm an
ninh, quốc phòng theo quy định của pháp luật về an ninh, quốc phòng, như:
Việc lập vi bằng xâm phạm mục tiêu về an ninh, quốc phòng; làm lộ bí mật
nhà nước, phát tán tin tức, tài liệu, vật phẩm thuộc bí mật nhà nước; vi phạm
quy định ra, vào, đi lại trong khu vực cấm, khu vực bảo vệ, vành đai an toàn
của công trình quốc phòng và khu vực quân sự; vi phạm quy định về bảo vệ
bí mật, bảo vệ công trình quốc phòng và khu quân sự.
Các nội dung trên đư c các văn bản luật chuyên ngành quy định cụ thể
về việc các t chức và cá nhân phải có trách nhiệm thực hiện, việc vi phạm
các quy định trong các lĩnh vực này sẽ phải chịu các chế tài theo quy định của
pháp luật.
Ba là, việc lập vi phạm của Thừa phát lại phải đảm bảo nguyên tắc tôn
trọng bí mật đời tư của cá nhân theo quy định của Bộ luật Dân sự
Về quyền đối với bí đời tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình đư c tôn
trọng và pháp luật bảo vệ. Theo quy định tại Điều 38 BLDS năm 2015 Quyền
về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình đã khẳng định “Đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình là bất khả xâm phạm và được pháp
luật bảo vệ”, “Thư tín, điện thoại, điện tín, cơ sở dữ liệu điện tử và các hình
thức trao đổi thông tin riêng tư khác của cá nhân được bảo đảm an toàn và bí
mật” và “Các bên trong hợp đồng không được tiết lộ thông tin về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình của nhau mà mình đã biết được
trong quá trình xác lập, thực hiện hợp đồng”.

4
Căn cứ quy định của BLDS, TPL trong khi thực hiện việc lập vi bằng
phải tôn trọng và bảo đảm quyền đối với đời sống riêng tư, bí mật cá nhân,
bí mật gia đình của cá nhân theo quy định. Cụ thể đư c chia thành 06 nhóm
cơ bản sau:
Nhóm 1: Các hành vi tự ý bóc, mở, đọc, nghe trộm các thông tin bí
mật đời tư của người khác như: thư tín, điện tín, điện thoại, nhật ký, cuộc
hẹn, di chúc…
Nhóm 2: Các hành vi sử dụng các phương tiện điện tử để quay phim,
chụp ảnh, ghi âm… nhằm khai thác thông tin cá nhân của người khác khi
không đư c họ đồng ý.
Nhóm 3: Các hành vi tiết lộ thông tin của người khác trên các
phương tiện thông tin đại chúng như: tivi, báo, mạng internet…
Nhóm 4: Các hành vi tự ý lưu giữ, sao chép các thông tin bí mật đời
tư của người khác.
Nhóm 5: Các hành vi mua bán, trao đ i những thông tin, tư liệu đời
tư của người khác.
Nhóm 6: Các hành vi xâm nhập và lấy cắp những thông tin cá nhân
của người khác. [53]
Việc vi phạm quy định về bảo vệ bí mật đời tư trong lập vi bằng khi
chưa đư c cá nhân cho phép có thể gây t n hại về mặt tinh thần hay vật
chất của người khác trong hiện tại hoặc tương lai. Do đó, pháp luật đã quy
định đây là một trong những trường h p TPL không đư c lập vi bằng,
nhằm bảo vệ quyền và l i ích chính đáng của cá nhân. Nếu TPL lập vi bằng
đối với những sự kiện, hành vi vi phạm bí mật dời tư sẽ dẫn đến hậu quả vi
bằng không có hiệu lực pháp lý và người lập vi bằng sẽ phải chịu trách
nhiệm trước pháp luật.

4
Ngoài đư c quy định tại BLDS, bảo đảm bí mật đời tư hay quyền
riêng tư của cá nhân còn đư c các công ước quốc tế và pháp luật của nhiều
một số quốc gia quy định. Trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm
1948 UDHR , Điều 12 ghi nhận: “Không ai phải chịu sự can thiệp một cách
tùy tiện vào cuộc sống riêng tư, gia đình, nơi ở hoặc thư tín, cũng như bị xúc
phạm danh dự hoặc uy tín cá nhân; mọi người đều có quyền được pháp luật
bảo vệ chống lại sự can thiệp và xâm phạm như vậy”.
Trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR),
Điều 17 nêu rằng: “Không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp
pháp vào đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất
hợp pháp đến danh dự và uy tín. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo
vệ chống lại những can thiệp hoặc xâm phạm như vậy”.
Như vậy, về cơ bản, Tuyên ngôn UDHR và Công ước ICCPR đều ghi
nhận mỗi người đều đư c bảo vệ về những điều riêng tư trong đời sống cá
nhân, gia đình, nơi ở và thư tín. Cả hai văn bản này đều có hiệu lực trên lãnh
th Việt Nam, mỗi cá nhân đều đư c Nhà nước Việt Nam bảo vệ quyền riêng
tư này.
Nội luật hóa Tuyên ngôn UDHR và Công ước ICCPR, tại Điều 21 Hiến
pháp 2013 ghi nhận “1. Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về đời sống
riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; có quyền bảo vệ danh dự, uy tín
của mình” và “2. Mọi người có quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và
các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác”.
Bốn là, các trường h p thuộc thẩm quyền công chứng của t chức hành
nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền chứng thực của UBND các cấp
Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 có nhiều nội dung thay
đ i quan trọng liên quan đến hoạt động lập vi bằng, đáng chú ý là phạm vi
thẩm quyền lập vi bằng bị thu hẹp hơn so với Nghị định 61/2009/NĐ-CP, tức

4
là b sung quy định TPL không đư c lập vi bằng “các trường hợp thuộc thẩm
quyền công chứng của tổ chức hành nghề công chứng hoặc thuộc thẩm quyền
chứng thực của Ủy ban nhân dân các cấp”.
Để hướng dẫn TPL thực hiện quy định trên, BTP đã ban hành Công văn
số 1128/BTP-TCTHADS ngày 18/01/2014 và Công văn số 4003/BTP-
TCTHADS ngày 19/9/2014 hướng dẫn một số nội dung liên quan đến hoạt
động lập vi bằng của TPL. Theo đó, để việc lập vi bằng không chồng chéo với
hoạt động công chứng chứng thực, l i dụng việc lập vi bằng để thực hiện các
giao dịch mà pháp luật không cho phép, TPL cần chú ý:
- Không lập vi bằng để chứng nhận tính xác thực, tính h p pháp của
h p đồng, giao dịch; không xác nhận chữ ký, bản sao từ bản chính (là những
việc thuộc thẩm quyền công chứng của t chức hành nghề công chứng hoặc
thuộc thẩm quyền chứng thực của UBND các cấp).
- Không lập vi bằng các sự kiện, hành vi nhằm thực hiện các giao dịch
trái pháp luật của người yêu cầu lập vi bằng trừ trường h p sự kiện, hành vi
trái pháp luật do người khác thực hiện ảnh hưởng đến quyền, l i ích h p pháp
của người yêu cầu lập vi bằng.
2.2.2. Thẩm quyền lập vi bằng theo địa bàn
Trên thế giới hiện t chức thẩm quyền lập vi bằng về mặt không gian
theo 03 mô hình chủ yếu [54], gồm:
Thứ nhất, mô hình quy định hoạt động Thừa phát lại chỉ trong một
phạm vi địa hạt nhất định. TPL chỉ đư c phép tiến hành hoạt động trong
phạm vi địa hạt là nơi đăng ký và đặt trụ sở của TPL. Địa hạt của TPL thường
đư c tính theo thẩm quyền xét xử của Tòa án. Theo mô hình này có nhiều
nước như: Ba lan, Estonia, Latvia, Tây Ban Nha, Pháp, Hungary, Hy Lạp. Ở
các nước này, thẩm quyền của t chức TPL đư c tính theo thẩm quyền của

4
Tòa án nơi đăng ký hoạt động của TPL nhằm hỗ tr hoạt động của cơ quan
Tòa án.
Thứ hai, mô hình quy định hoạt động Thừa phát lại có hiệu lực trên
phạm vi toàn quốc. TPL có thẩm quyền tiến hành các hoạt động của mình trên
phạm vi toàn lãnh th quốc gia mà không phụ thuộc vào nơi đăng ký hành
nghề hay thẩm quyền của cơ quan Tòa án. Theo mô hình này có một số quốc
gia như: Cộng hòa Séc, Slovakia, Hà lan.
Thứ ba, mô hình hỗn hợp. Có 02 loại TPL với 02 loại thẩm quyền khác
nhau. TPL của Tòa án cấp cao thì có thẩm quyền hoạt động trên phạm vi lãnh
th cả nước. Còn TPL của Tòa án cấp quận thì theo thẩm quyền địa hạt của
Tòa án. Theo mô hình này có các nước như: Anh Quốc và Xứ Wales. Ví dụ
như Vương quốc Anh, các TPL của Tòa cấp cao (High court enforcement
officers) có thẩm quyền trên phạm vi toàn quốc còn các TPL thuộc Tòa án
quận (County court bailiff) thì hạn chế theo thẩm quyền của Tòa án quận
(County Court) chủ quản.
Tương tự như mô hình thứ nhất, TPL ở Việt Nam đư c t chức theo
mô hình trong một phạm vi địa hạt nhất định, theo đó, TPL đư c lập vi bằng
các sự kiện, hành vi xảy ra trên địa bàn tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương
nơi đặt VP TPL. Việc quy định về phạm vi lập vi bằng tại tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương, nơi đặt VP TPL với những lý do sau:
Một là, trong thời gian thí điểm TPL, đội ngũ TPL còn mỏng, trình độ
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp còn hạn chế. Trong khi đó, việc tập huấn,
đào tạo kỹ năng nghề nghiệp còn chưa đầy đủ do vậy, việc mở rộng phạm vi
lập vi bằng ra ngoài địa bàn tỉnh/thành phố chưa đư c tính đến với mong
muốn các TPL dần dần hoàn thiện kỹ năng và hiểu biết, vận dụng đúng đắn
các quy định về thẩm quyền.

4
Hai là, kinh nghiệm nhiều nước cho thấy hoạt động của TPL thường
đư c quy định theo địa hạt thẩm quyền nhất định do TPL ở hầu hết các nước
gắn với việc hỗ tr hoạt động của Tòa án nên thường đư c quy định theo
thẩm quyền địa hạt của Tòa án.
2.3. Trình tự thủ tục lập vi bằng
Việc lập vi bằng của TPL đư c tiến hành thông qua các bước cơ bản
sau đây [54]:

Bƣớc 1. Tiếp nhận yêu cầu • Tiếp nhận thông tin về khách hàng và vi bằng
lập vi bằng cần lập.

Bƣớc 2.Thỏa thuận về việc • Thỏa thuận các nội dung quan trọng: Nội dung
lập vi bằng vi bằng; địa điểm, thời gian lập vi bằng; chi phí lập vi bằng; thỏa

Bƣớc 3. Tiến hành lập bằngvi • Thừa phát lại mô tả cụ thể sự kiện, hành vi cần
ghi nhận vào trong vi bằng.

Tiến hành thủ tục đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp theo thời hạn qu
Bƣớc 4. Đăng ký vi bằng

Bƣớc 5. Thanh lý thỏa thuận • Bàn giao vi bằng và thanh lý thỏa thuận lập vi
lập vi bằng, cấp bản sao vi bằngbằng, thực hiện cấp bản sao vi bằng nếu khách hàng có yêu cầu .

Bước 1. Tiếp nhận yêu cầu lập vi bằng


Thông thường khi có nhu cầu lập vi bằng, khách hàng sẽ phải đến VP
TPL. Tại đây họ trình bày các yêu cầu của mình và có thể đư c TPL hoặc thư
ký nghiệp vụ TPL tư vấn về một số quy định pháp luật có liên quan đến vi
bằng mà khách hàng muốn lập. Sau đó, khách hàng điền nội dung yêu cầu lập
vi bằng vào Phiếu yêu cầu lập vi bằng (theo mẫu). Thư ký nghiệp vụ có trách
nhiệm kiểm tra tính h p pháp của nội dung yêu cầu lập Vi bằng và trình TPL
đư c phân công theo dõi vụ việc quyết định.

5
Thư ký nghiệp vụ đề nghị khách hàng điền vào Phiếu cung cấp thông
tin (theo mẫu) những thông tin cần thiết liên quan đến việc lập vi bằng.
Trường h p khách hàng yêu cầu lập vi bằng thông qua các phương tiện
thông tin khác thì Phiếu yêu cầu lập vi bằng, Phiếu cung cấp thông tin sẽ đư c
thực hiện tại nơi khách hàng yêu cầu.
Trường h p có nhiều t chức, cá nhân yêu cầu một VP TPL lập vi bằng
về một sự kiện hoặc hành vi (Ví dụ: Các thành viên Hội đồng quản trị đều có
yêu cầu lập vi bằng xác nhận việc t chức cuộc họp của Đại hội c đông công
ty c phần) thì theo tinh thần chung, VP TPL làm các thủ tục tiếp nhận yêu
cầu, ký h p đồng với từng t chức, cá nhân có yêu cầu đồng thời thực hiện
việc lập và cung cấp vi bằng theo quy trình chung.
Bước 2. Thỏa thuận về việc lập vi bằng
Cá nhân, t chức muốn lập vi bằng về các sự kiện, hành vi phải thỏa
thuận với Trưởng VP TPL về việc lập vi bằng. Thỏa thuận đư c lập thành
biên bản với các nội dung chủ yếu sau:
- Nội dung cần lập vi bằng: Đó là các sự kiện, hành vi hay chuỗi hành
vi liên quan đến sự kiện nào đó mà TPL phải tiến hành lập vi bằng.
- Địa điểm, thời gian lập vi bằng: Là không gian, địa điểm, thời gian
nơi xảy ra sự kiện, hành vi mà TPL thực hiện việc lập vi bằng.
Hiện pháp luật không có quy định cụ thể về việc TPL đư c lập vi bằng
trong một số trường h p đặc biệt như: lập vào ban đêm, lập tại nhà của người
khác,... quá trình hoàn thiện chế định TPL có thể sẽ cho phép việc lập vi bằng
trong một số trường h p đặc biệt nếu như không lập vi bằng thì có thể bị xóa
chứng cứ, dấu vết làm mất chứng cứ,... tuy nhiên, nên hạn chế tối đa việc lập
vi bằng trong một số trường h p trên.
- Chi phí lập vi bằng: Là phần kinh phí mà người đề nghị lập vi bằng
phải thanh toán cho TPL. Mức kinh phí này theo thỏa thuận giữa TPL và

5
người đề nghị nhưng không vư t quá mức mà pháp luật quy định đối với từng
công việc cụ thể. Ngoài ra thì TPL có thể thỏa thuận với người đề nghị hỗ tr
một số chi phí h p lý khác như chi phí vận chuyển, chi phí đi lại, chi phí bồi
dưỡng cho người làm chứng,...
Theo quy định tại khoản 1 điều 16 Thông tư liên tịch số
09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 hướng
dẫn thực hiện thí điểm chế định TPL theo Nghi quyết số 36/2012/QH13 ngày
23/11/2012 của Quốc hội thì: VP TPL quy định và niêm yết công khai khung
giá về chi phí lập vi bằng và xác minh điều kiện thi hành án, trong đó xác
định rõ mức tối đa, mức tối thiểu, nguyên tắc tính. Trên cơ sở khung giá đã
niêm yết, người yêu cầu và VP TPL thỏa thuận về chi phí thực hiện theo công
việc hoặc theo giờ làm việc và các khoản chi phí thực tế phát sinh gồm: chi
phí đi lại; phí dịch vụ cho các cơ quan cung cấp thông tin; chi phí cho người
làm chứng, người tham gia hoặc chi phí khác (nếu có).
- Các thỏa thuận khác (nếu có): Các bên có thể thỏa thuận thêm về một
số nội dung như trường h p đơn phương chấm dứt h p đồng, tình trạng bất
khả kháng, quyền l i của người thứ ba có liên quan,...
Văn bản về việc thỏa thuận lập vi bằng đư c lập thành 02 bản, mỗi bên
giữ 01 bản. Người yêu cầu phải cung cấp các thông tin và các tài liệu liên
quan đến việc lập vi bằng (nếu có để đảm bảo việc lập vi bằng đư c khách
quan, chính xác. Nếu thông tin và tài liệu cung cấp không đầy đủ, không
chính xác như xác định sai ranh giới đất), dẫn đến việc lập vi bằng của TPL
không đúng thì người yêu cầu phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về những sai
sót đó.
Hiện nay trên thực tế có một vấn đề phát sinh đó là việc lập vi bằng đối
với những sự kiện, hành vi xảy ra “đột xuất, bất ngờ”. Theo quy định thì
quyền lập vi bằng phát sinh khi VP TPL và đương sự có thỏa thuận về việc

5
lập vi bằng. Hình thức thỏa thuận đư c thể hiện bằng văn bản dưới dạng h p
đồng ký kết giữa Trưởng VP TPL và đương sự. Tuy nhiên, nếu quy định cứng
như vậy thì việc lập vi bằng đối với những sự kiện, hành vi “đột xuất, bất
ngờ” gặp khó khăn. Khi đó nếu cứ phải đ i thống nhất về các điều khoản
h p đồng thì việc lập vi bằng sẽ khó đáp ứng đư c tính kịp thời. Ví dụ như
lập vi bằng về hành vi vi phạm luật giao thông; lập vi bằng về một vụ tai nạn
giao thông. [54]
Trong trường h p trên pháp luật nên cho phép và công nhận “thỏa
thuận miệng” giữa hai bên. Tức là khi phát sinh tình huống khẩn cấp cần lập
vi bằng, đương sự có thể đề nghị TPL đến lập vi bằng ngay mà chưa cần phải
ký biên bản thỏa thuận. Việc ký biên bản thỏa thuận (h p đồng) sẽ đư c hoàn
tất ngay sau khi lập vi bằng. Nếu sau đó hai bên không thống nhất đư c các
điều khoản cơ bản của h p đồng thì TPL có thể hủy kết quả lập vi bằng.
Bước 3. Tiến hành lập vi bằng
Vi bằng (theo mẫu) có thể đư c lập tại VP TPL hoặc tại nơi mà khách
hàng yêu cầu đối với các sự kiện, hành vi mà TPL trực tiếp chứng kiến. Trong
trường h p cần thiết hoặc theo yêu cầu của khách hàng, TPL có quyền mời
người làm chứng, chứng kiến việc lập vi bằng hoặc yêu cầu nhà chuyên môn
tham gia vào việc lập vi bằng.
TPL sẽ mô tả cụ thể sự kiện, hành vi cần ghi nhận; tiến hành đo đạc,
chụp ảnh, quay phim,… trung thực, khách quan trong vi bằng.
Do vi bằng chỉ ghi nhận những sự kiện, hành vi mà TPL trực tiếp
chứng kiến. Do vậy, việc lập vi bằng phải do chính TPL thực hiện. Thư ký
nghiệp vụ TPL có thể giúp TPL thực hiện việc lập vi bằng, nhưng TPL phải
chịu trách nhiệm về vi bằng do mình thực hiện.
Ở đây cũng cần lưu ý là trong trường h p Thư ký nghiệp vụ giúp TPL
lập vi bằng phải đư c hiểu đây là sự hỗ tr TPL trong một số việc như lập

5
biên bản về sự việc dưới sự chứng kiến của TPL, in sao, thu thập tài liệu liên
quan đến việc lập vi bằng. TPL chỉ đư c lập và ký vào vi bằng về những sự
kiện, hành vi mà họ chứng kiến chứ không phải những sự kiện, hành vi mà
chỉ có Thư ký nghiệp vụ chứng kiến, TPL chỉ nghe kể lại hoặc mô tả lại.
Vi bằng lập thành 03 bản chính: 01 bản giao người yêu cầu; 01 bản gửi
Sở Tư pháp tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương để đăng ký trong thời hạn
03 ngày làm việc, kể từ ngày lập vi bằng; 01 bản lưu trữ tại VP TPL theo quy
định của pháp luật về chế độ lưu trữ đối với văn bản công chứng. Trong
trường h p có sai sót về kỹ thuật trong khi ghi chép, đánh máy, in ấn vi bằng
mà việc sửa chữa không làm ảnh hưởng đến tính xác thực của vi bằng thì TPL
đư c sửa lỗi đó. Việc sửa chữa lỗi kỹ thuật của vi bằng phải đư c thực hiện
bằng văn bản, do TPL lập, ký và đóng dấu của VP TPL.
Trong trường h p vi bằng đã đư c giao cho người yêu cầu và đăng ký
tại Sở Tư pháp thì TPL phải thông báo bằng văn bản việc sửa chữa lỗi kỹ
thuật cho người yêu cầu và Sở Tư pháp biết. Sở Tư pháp phải có văn bản
thông báo việc chấp nhận hoặc không chấp nhận việc sửa đ i, b sung cho
TPL và người yêu cầu biết.
Trước khi ký vào vi bằng, TPL tự mình kiểm tra lại giấy tờ tùy thân
của khách hàng, người tham gia trong vi bằng, người làm chứng,… và yêu
cầu những người tham gia, chứng kiến, người yêu cầu lập vi bằng ký tên vào
vi bằng.
Vi bằng đư c cấp số theo thứ tự thời gian, ghi vào s theo dõi vi bằng
và đư c lập thành 03 bản chính. Trong thời hạn không quá 02 ngày làm việc
kể từ ngày nhận đư c vi bằng, Sở Tư pháp phải vào s đăng ký vi bằng TPL.
Vi bằng phải đảm bảo các yêu cầu sau:
- Vi bằng lập thành văn bản viết bằng tiếng Việt và có các nội dung chủ
yếu như: Tên, địa chỉ VP TPL; Họ, tên TPL lập vi bằng; Địa điểm, giờ, ngày,

5
tháng, năm lập vi bằng; Người tham gia khác (nếu có); Họ, tên, địa chỉ người
yêu cầu lập vi bằng và nội dung yêu cầu lập vi bằng; Nội dung cụ thể của sự
kiện, hành vi đư c ghi nhận; Lời cam đoan của TPL về tính trung thực và
khách quan trong việc lập vi bằng; Chữ ký của TPL lập vi bằng và đóng dấu
VP TPL; Chữ ký của những người tham gia, chứng kiến (nếu có) và có thể có
chữ ký của những người có hành vi bị lập vi bằng.
- Kèm theo vi bằng có thể có hình ảnh, băng hình và các tài liệu chứng
minh khác. Những tài liệu này về nguyên tắc cũng phải đư c thu thập một
cách h p pháp và đảm bảo các yêu cầu về mặt nội dung, hình thức. Việc lưu
trữ, bảo quản các tài liệu này do VP TPL thực hiện theo các quy định hiện
hành về lưu trữ hồ sơ, tài liệu và chứng cứ.
Bước 4. Đăng ký vi bằng
Theo quy định hiện hành, vi bằng của TPL sau khi lập xong phải thực
hiện thủ tục đăng ký tại Sở Tư pháp trong thời hạn 02 ngày làm việc kể từ
ngày lập. Trước đây, khi chế định TPL chỉ mới đang thực hiện thí điểm tại
Thành phố Hồ Chí minh trên cơ sở Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì thủ tục
đăng ký vi bằng khá đơn giản. Các VP TPL khi đã lập vi bằng xong thì chỉ
cần nộp 01 bản chính vi bằng lên Sở Tư pháp để xác nhận đã đăng ký đúng
hạn. Tuy nhiên, khi mà Chính phủ quyết định mở rộng phạm vi thí điểm ra
thêm 12 tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương khác trên cả nước và ban hành
Nghị định 135/2013/NĐ-CP sửa đ i, b sung Nghị định 61/2009/NĐ-CP về
TPL thì việc đăng ký vi bằng có sự thay đ i theo hướng chặt chẽ hơn. Theo
đó, Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký vi bằng của TPL nếu phát hiện thấy
việc lập vi bằng không đúng thẩm quyền, không thuộc phạm vi lập vi bằng
theo quy định hoặc vi bằng đăng ký không đúng hạn.
Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 sửa đ i Nghị định
61/2009/NĐ-CP quy định rõ hơn:

5
“Trong thời hạn không quá 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận
được vi bằng, Sở Tư pháp phải vào sổ đăng ký vi bằng Thừa phát lại.
Sở Tư pháp có quyền từ chối đăng ký nếu phát hiện thấy việc lập vi
bằng không đúng thẩm quyền, không thuộc phạm vi lập vi bằng theo
quy định tại Điều 25 của Nghị định này; vi bằng không được gửi đúng
thời hạn để đăng ký theo quy định tại khoản 4, Điều 26 của Nghị định
này. Việc từ chối phải được thông báo ngay bằng văn bản cho Văn
phòng Thừa phát lại và người yêu cầu lập vi bằng trong đó nêu rõ lý do
từ chối đăng ký.
Vi bằng được coi là hợp lệ khi được đăng ký tại Sở Tư pháp”.
Bước 5. Thanh lý thỏa thuận lập vi bằng, cấp bản sao vi bằng
Sau khi hoàn thành việc lập vi bằng, TPL phải giao cho người yêu cầu
01 bản chính. Khi giao vi bằng, TPL hoặc thư ký nghiệp vụ đề nghị khách
hàng ký vào s bàn giao vi bằng và thanh lý thỏa thuận lập vi bằng.
Trường h p VP TPL giải thể thì VP TPL phải thanh lý các h p đồng đã
ký kết. Đối với những vi bằng đã đư c lập thì VP TPL phải tiếp tục hoàn
thành việc đăng ký với Sở Tư pháp trước khi hoàn tất hồ sơ về việc giải thể.
Theo công văn số 247/BTTP-TPL ngày 28/3/2017 của Cục B tr tư
pháp, BTP gửi Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh hướng dẫn về việc cấp
bản sao vi bằng thì trong thời gian chờ Nghị định thay thế Nghị định số
61/2009/NĐ-CP và Nghị định số 135/2013/NĐ-CP, trước mắt, để đáp ứng
yêu cầu của cá nhân, t chức, việc cấp bản sao vi bằng của VP TPL sẽ đư c
thực hiện theo quy định của Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015
của Chính phủ về cấp bản sao từ s gốc, chức thực bản sao từ bản chính,
chứng thực chữ ký và chứng thực h p đồng giao dịch. Theo đó, việc cấp bản
sao vi bằng do VP TPL đang lưu trữ bản chính vi bằng đó có thẩm quyền và

5
trách nhiệm cấp bản sao từ s gốc. Việc cấp bản sao từ s gốc đư c thực hiện
đồng thời với việc cấp bản chính hoặc sau thời điểm cấp bản chính.
2.4. Vấn đề quản lý nhà nƣớc về lập vi bằng
Theo quy định, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về TPL. BTP
giúp Chính phủ quản lý nhà nước về TPL và có các nhiệm vụ, quyền hạn
sau đây [15; Đ8]:
- Ban hành theo thẩm quyền và đề nghị cơ quan có thẩm quyền ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về TPL;
- Hướng dẫn nghiệp vụ, kiểm tra, thanh tra hoạt động TPL;
- Bồi dưỡng, đào tạo TPL;
- B nhiệm, miễn nhiệm TPL; cấp, thu hồi thẻ TPL;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo về hoạt động của TPL theo quy định của
pháp luật.
Ở địa phương, UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương quản lý
nhà nước về TPL tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Quy hoạch, phát triển nghề TPL ở địa phương; tuyên truyền, ph biến
pháp luật về TPL;
- Cho phép thành lập, giải thể VP TPL;
- Chỉ đạo kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm và giải quyết khiếu nại, tố
cáo đối với hoạt động của TPL.
Sở Tư pháp giúp UBND tỉnh/thành phố trực thuộc Trung ương quản lý
nhà nước về TPL tại địa phương và có các nhiệm vụ, quyền hạn sau đây:
- Tiếp nhận hồ sơ, thực hiện các thủ tục trình Bộ trưởng BTP b nhiệm,
miễn nhiệm TPL;
- Tiếp nhận hồ sơ, thực hiện thủ tục trình UBND tỉnh/thành phố trực
thuộc Trung ương cho phép thành lập, giải thể VP TPL;
- Cấp, thu hồi giấy đăng ký hoạt động của VP TPL;

5
- Kiểm tra, thanh tra hoạt động của TPL;
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo đối với hoạt động của TPL theo quy định
của pháp luật.
Để đảm bảo chất lư ng của vi bằng và trật tự quản lý nhà nước đối với
hoạt động lập vi bằng, vai trò quản lý của Nhà nước thể hiện rõ nét ở việc
kiểm soát thông qua hoạt động đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp.
2.5. Trách nhiệm pháp lý của Thừa phát lại trong việc lập và sử
dụng vi bằng
Theo quy định tại Điều 28 của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP quy định
về hoạt động t chức Thừa phát lại, vi bằng có giá trị chứng cứ để Tòa án xem
xét khi giải quyết vụ án và vi bằng là căn cứ để thực hiện các giao dịch h p
pháp khác theo quy định của pháp luật.
Theo quy định này, vi bằng của TPL ghi nhận hành vi trao đ i, giao
dịch tiền, giao nhận giấy tờ, đồng thời, vi bằng có giá trị là nguồn chứng cứ
trong giải quyết các vụ án dân sự khi có tranh chấp xảy ra hoặc là căn cứ để
thực hiện các giao dịch h p pháp khác. Vi bằng không có giá trị thay thế cho
công chứng hoặc chứng thực.
Trong thời gian vừa qua, có một số trường h p người dân hiểu nhầm về
giá trị của vi bằng do TPL lập dẫn đến tình trạng sử dụng vi bằng để thực hiện
các giao dịch pháp lý không đúng theo trình tự, thủ tục do quy định của pháp
luật đối với các giao dịch đó như: mua bán nhà, chuyển như ng quyền sử
dụng đất...). Do vậy, trong những trường h p này, trách nhiệm của TPL là
phải giải thích đầy đủ cho các đương sự khi đến lập vi bằng để họ hiểu rõ
đư c giá trị pháp lý của vi bằng.
Thực tế, việc lập vi bằng ở một số địa phương cũng còn có những bất
cập, trong đó tại một số địa phương có tình trạng lập vi bằng không đúng
phạm vi, thẩm quyền, vi phạm hoạt động công chứng, chứng thực, còn có

5
trường h p chạy theo l i nhuận. Đây cũng là lý do trong thời gian thí điểm t
chức TPL, khiến Sở Tư pháp ở một số địa phương phải từ chối đăng ký đối
với một số vi bằng khi phát hiện vi bằng đư c lập có nội dung thuộc phạm vi
công chứng, chứng thực hoặc những trường h p lập vi bằng nhưng TPL
không trực tiếp chứng kiến vụ việc hay hành vi [29].
Trong trường h p vi bằng do TPL lập không đúng sự thật khách quan,
không đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định, kể cả do lỗi chủ quan hoặc
khách quan thì vi bằng đó không có giá trị pháp lý. Khi có sự tranh chấp, kiện
tụng đối với vi bằng do TPL lập thì Tòa án có thẩm quyền xem xét, nếu phát
hiện thấy nội dung vi bằng có vi phạm pháp luật, hoặc không đúng sự thật
khách quan thì Tòa án có quyền tuyên bố bác bỏ một phần hoặc toàn bộ nội
dung vi bằng mà TPL đã lập. Việc lập vi bằng vi phạm thẩm quyền và gây
thiệt hại cho nhà nước hoặc khách hàng thì TPL phải chịu trách nhiệm trước
pháp luật và phải bồi thường thiệt hại (nếu có theo quy định tại khoản 2 Điều
20 Nghị định 61/2009/NĐ-CP.

5
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2

Theo pháp luật Việt Nam hiện hành, căn cứ Nghị định số 61/2009/NĐ-
CP ngày 24/7/2009 của Chính phủ về t chức và hoạt động của Thừa phát lại
thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh đư c sửa đ i, b sung bởi
Nghị định 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013, chủ thể có thẩm quyền lập vi
bằng hiện nay duy nhất chỉ có TPL – người có đủ tiêu chuẩn, kỹ năng nghiệp
vụ đư c Nhà nước b nhiệm.
Khi thực hiện công việc lập vi bằng, TPL phải tuân thủ đúng quy định
về phạm vi thẩm quyền, cụ thể phải đảm bảo các yêu cầu về mặt nội dung và
theo địa bàn hoạt động của TPL. Để đảm bảo chất lư ng của vi bằng, TPL
phải có trách nhiệm tuân thủ trách nhiệm nghề nghiệp, không lập các vi bằng
vi phạm quy định của pháp luật, đồng thời, có nhiệm vụ giải thích, hướng dẫn
người dân nói chung và khách hàng của mình nói riêng để họ hiểu rõ đư c giá
trị pháp lý của vi bằng, góp phần nâng cao nhận thức, đưa chế định vi bằng
gần với người dân.

6
CHƢƠNG 3
THỰC TIỄN THỰC HIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ LẬP VI BẰNG CỦA
THỪA PHÁT LẠI TẠI MỘT SỐ TỈNH/THÀNH PHỐ VÀ KIẾN NGHỊ

3.1. Thực tiễn thực hiện các quy định về lập vi bằng của Thừa phát lại
3.1.1. Thực tiễn lập vi bằng tại một số tỉnh/thành phố
Lập vi bằng của TPL là một trong 04 công việc của TPL đư c làm. Có
thể thấy, việc lập vi bằng mang lại hiệu quả tốt nhất, đã đáp ứng đư c nhu cầu
rất lớn, phong phú, đa dạng trên nhiều lĩnh vực khác nhau của người dân và
đã dần trở thành một nhu cầu trong các hoạt động dân sự, sản xuất, kinh
doanh, thương mại với nhiều chủng loại như:
- Vi bằng công ty: Ghi nhận cuộc họp công ty; ghi nhận cuộc đình công
trái pháp luật; ghi nhận thỏa thuận với nhân viên; ghi nhận tài sản công ty; ghi
nhận kiểm kê tài sản;...
- Vi bằng internet: Ghi nhận bài viết không đúng sự thật; ghi nhận vi
phạm bản quyền trên mạng; ghi nhận thông tin của trang website; ghi nhận
việc nói xấu trên blog, mạng xã hội; ghi nhận thông tin trên email;...
- Vi bằng hiện trạng: Hiện trạng nhà bị nứt; hiện trạng nhà trước và sau
khi thi công; hiện trạng nhà bàn giao; hiện trạng công trình xây dựng dang dở;
hiện trạng chiếm giữ trái pháp luật;...
- Vi bằng thông báo: Thông báo đòi nhà; thông báo mời họp; thông báo
đòi n ; thông báo hủy bỏ, chấm dứt h p đồng; thông báo xác nhận sự việc
xảy ra trong quá khứ; giao văn bản tố tụng từ nước ngoài về cho đương sự;...
- Vi bằng giao nhận: Giao nhận tiền; giao nhận nhà; giao nhận s sách;
giao nhận giấy tờ; giao nhận con dấu;...
- Vi bằng nhà đất: Vi bằng đòi nhà cho thuê; vi bằng đặt cọc; vi bằng
bàn giao nhà; vi bằng hiện trạng nhà đất; vi bằng kiểm kê tài sản trong nhà;...

6
Tại các địa phương, loại vi bằng đư c lập chủ yếu về ghi nhận hiện
trạng nhà, đất, ghi nhận về giao nhận tiền để thực hiện hoạt động mua bán tài
sản,... Ngoài ra, còn một số vi bằng đư c lập trong các lĩnh vực khác như:
Xác nhận tài sản v chồng; xác nhận ô nhiễm môi trường; xác nhận tình trạng
thiệt hại do người khác gây ra; xác nhận từ chối thực hiện nghĩa vụ;... trong
phạm vi tỉnh/thành phố nơi đặt VP TPL. Theo đánh giá, hoạt động lập vi bằng
đư c người dân ủng hộ, đón nhận nhanh và tích cực, thể hiện qua các mặt:
3.1.1.1. Doanh thu từ hoạt động lập vi bằng là nguồn thu chủ yếu của
các VP TPL
Trong thời gian qua, hoạt động của các VP TPL đã chứng tỏ đư c tính
đúng đắn của chế định TPL và đư c xã hội chấp nhận. Thể hiện qua bảng số
liệu kết quả hoạt động của các VP TPL sau:
Bảng 3.1: Kết quả hoạt động của các Văn phòng Thừa phát lại
trên phạm vi cả nƣớc
Đơn vi tính: Nghìn đồng
Xác minh
Tổ chức Tổng
Lập vi bằng Tống đạt điều kiện
TT Thời gian THADS doanh thu
THA
(DT)
SL DT DT DT DT
1 Thí điểm 42.911 58,828,768 52,770,995 2,853,158 3,760,638 118,213,559
(2010 -
30/9/2015)
2 Thực hiện 188.085 162,291,611 123,072,060 237,500 3,232,976 288,834,147
chính thức
(01/01/2016
- 30/9/2018)
Tổng số 230.996 221,120,379 175,843,055 3,090,658 6,993,614 407,047,706
(Số liệu thiếu tháng 10, 11, 12 năm 2015)
(Nguồn: Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố)

6
Theo đó, hoạt động lập vi bằng là hoạt động chính của các VP TPL,
doanh thu từ này chiếm tỷ lệ lớn t ng doanh thu từ các hoạt động của TPL
(bao gồm: Thực hiện việc tống đạt, lập vi bằng, xác minh điều kiện thi hành
án, trực tiếp t chức thi hành án dân sự), cụ thể: Doanh thu từ hoạt động lập vi
bằng của TPL chiếm 54,32% t ng doanh thu của các VP TPL trong đó:
doanh thu từ hoạt động tống đạt chiếm 43,2%; doanh thu từ hoạt động xác
minh điều kiện thi hành án chiếm 0,76%; doanh thu từ hoạt động t chức thi
hành án dân sự chiếm 1,72%).

Biểu đồ 3.1. Kết quả hoạt động của Văn


phòng Thừa phát lại
Xác minh điều kiện THA, 0.76% T chức THADS, 1.72%

Tống đạt, 43.20%


Lập vi bằng, 54.32%

Hoạt động lập vi bằng với vai trò là dịch vụ pháp lý giúp người dân chủ
động tạo lập chứng cứ trước tòa, chủ động trong việc bảo vệ quyền và l i ích
của mình khi tham gia các giao dịch h p pháp khác đã đư c người dân đón
nhận và tin tưởng sử dụng dịch vụ này, thể hiện qua tỷ lệ phần trăm doanh thu
từ hoạt động lập vi bằng. Qua đó, góp phần không nhỏ trong quá trình giải
quyết tranh chấp tại cơ quan Tòa án và góp phần bảo vệ quyền và l i ích h p
pháp của t chức, cá nhân, đồng thời, phòng ngừa rủi ro trong giao dịch, bảo
vệ quyền l i của cá nhân, t chức.

6
3.1.1.2. Số lượng và doanh thu từ hoạt động lập vi bằng tăng qua từng
năm Thứ nhất, số lượng và doanh thu từ hoạt động lập vi bằng trên
phạm vi
cả nước tăng qua từng năm
Đến nay, sau gần 10 năm thực hiện chế định TPL, hoạt động lập vi
bằng của TPL từ giai đoạn thí điểm (2010 – 30/9/2015 đến giai đoạn t chức
thực hiện trên phạm vi cả nước (01/01/2016 – 30/9/2018 ngày càng đạt đư c
nhiều con số ấn tư ng, số lư ng vi bằng và doanh thu từ hoạt động lập vi
bằng luôn tăng, năm sau nhiều hơn năm trước, giai đoạn sau nhiều hơn giai
đoạn trước. Cụ thể:
- Trên cơ sở Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại
Thành phố Hồ Chí Minh” và Đề án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định
Thừa phát lại”. Từ năm 2010 đến ngày 30/9/2015, tại 13 tỉnh/thành phố thực
hiện thí điểm đã thành lập 53 VP TPL lập 42.911 vi bằng, đạt doanh thu 58 tỷ
828 triệu 768 nghìn đồng (nguồn: Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố).
- Sau khi chấm dứt việc thí điểm và cho thực hiện chế định TPL trên
phạm vi cả nước theo Nghị quyết số 107/2015/QH12 đã có 21 tỉnh/thành phố
trực thuộc Trung ương xây dựng Đề án thực hiện chế định TPL gửi BTP phê
duyệt theo quy định. Trong khoảng 03 năm từ ngày 01/01/2016 đến ngày
30/9/2018, số lư ng vi bằng đư c lập có sự gia tăng tích cực, các VP TPL đã
lập 188.085 vi bằng, đạt doanh thu 162 tỷ 291 triệu 611 ngàn đồng. Gấp
khoảng 4,4 lần số lư ng vi bằng đư c lập và gấp khoảng 2,7 lần doanh thu
đạt đư c từ việc lập vi bằng so với thời gian t chức thực hiện thí điểm chế
định TPL (nguồn: Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố).

6
Biểu đồ 3.2: Số lƣợng vi bằng và doanh thu trong thời gian thí điểm v
Đơn vị: nghìn đồng
180,000,000
160,000,000
200000
188,085 140,000,000
180000
120,000,000
160000
100,000,000
140000
80,000,000
120000
60,000,000
100000
40,000,000
80000
20,000,000
60000
0
40000
20000
42911
0

58,828,768 162,291,611

Thời gian thí điểmThời gian chính thức thực hiện trên (2010 - 30/9/2015)phạm vi cả nước
(01/01/2016 - 30/9/2018)

Doanh thu Vi bằng

Theo Biểu đồ 3.2, kết quả hoạt động lập vi bằng của các VP TPL trên
phạm vi cả nước có sự tăng mạnh sau khi chấm dứt việc thí điểm chế định
TPL và t chức thực hiện trên phạm vi cả nước, bởi lẽ, sau khi Quốc hội
quyết định t chức thực hiện chế định TPL trên phạm vi cả nước đã tạo cơ sở
vững chắc để người dân thêm tin tưởng vào hoạt động của TPL nói chung và
lập vi bằng nói riêng, đồng thời các VP TPL cũng tự tin để mở rộng quy mô
hoạt động của mình, đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất nhằm phục vụ tốt nhu
cầu lập vi bằng của người dân. Theo đó, từng năm sau khi t chức thực hiện
chế định TPL trên phạm vi cả nước cũng có sự gia tăng về số lư ng vi bằng,
doanh thu từ hoạt động lập vi bằng và quy mô, số lư ng VP TPL.
Kết quả lập vi bằng tại các địa bàn tỉnh/thành phố trực thuộc Trung
ương qua từng năm sau khi t chức thực hiện chính thức chế định TPL đư c
tính từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/9/2018, bởi lẽ, năm 2019 chưa thực hiện
t ng kết, đánh giá hoạt động của TPL nên kết quả hoạt động lập vi bằng của
TPL trong năm 2019 chưa đư c thống kê đầy đủ. Cụ thể:

6
Bảng 3.2: Kết quả lập vi bằng tại các địa bàn tỉnh/thành phố qua từng
năm sau khi tổ chức thực hiện chính thức chế định Thừa phát lại
Đơn vi tính: Nghìn đồng
Từ 01/01/2016 - Từ 01/10/2016 - Từ 01/10/2017 –
Tỉnh/thành
TT 30/9/2016 30/9/2017 30/9/2018
phố Vi Doanh Vi Doanh Vi Doanh
bằng thu bằng thu bằng thu
1 An Giang 166 162,900 201 348,700 201 343,175
2 Bình Định 6 26,700 1 3,000 2 5,000
3 Bình Dương 959 608,600 5.070 9,114,767 6.242 8,418,456
4 Hải Phòng 219 241,500 395 298,600 587 402,636
5 Nghệ An 35 79,500 64 125,500 67 154,200
6 Hà Nội 1.660 7,784,650 6.271 11,532,943 7.668 17,379,878
7 Quảng Ninh 371 876,999 457 1,496,001 364 957,939
8 Thanh Hóa 18 45,500 49 273,538 88 261,000
9 Tiền Giang 36 127,950 37 131,500 28 70,500
10 TP.Hồ Chí Minh 20.250 14,712,706 49.631 27,147,310 71.811 45,266,795
11 Vĩnh Long 13 28,200 22 48,605 30 61,000
12 Vĩnh Phúc 40 48,000 46 52,900 90 102,000
13 Đồng Nai 1.715 2,201,800 4.799 4,140,468 7.162 5,727,840
14 Bắc Ninh 158 218,900
15 Đà Nẵng 72 52,505
16 Khánh Hòa 181 358,300
17 Cần Thơ 476 452,000
18 Long An 225 190,650
19 Đồng Tháp 57 122,500
20 Cà Mau 45 87,500
Tổng 25.488 26,945,005 67.043 54,713,832 95.554 80,632,774
Vi bằng: 188.085
Tổng chung
Doanh thu: 162,291,611
(Nguồn: Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố)

6
- Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 30/9/2016, 53 VP TPL tại 13 tỉnh/thành
phố đã lập 25.488 vi bằng, đạt doanh thu 26 tỷ 945 triệu 5 nghìn đồng. Từ
ngày 01/10/2016 đến ngày 30/9/2017, đã có 67.043 vi bằng đư c lập, đạt
doanh thu 54 tỷ 713 triệu 832 nghìn đồng. So với cùng kỳ năm 2016, số lư ng
và doanh thu đạt đư c từ vi bằng của 53 VP TPL có sự gia tăng đáng kể tăng
41.555 vi bằng và 27 tỷ 768 triệu 827 nghìn đồng .
- Từ ngày 01/10/2017 đến ngày 30/9/2018, ngoài 13 tỉnh/thành phố đã
thực hiện chế định TPL từ thời kỳ thí điểm, BTP phê duyệt thêm 18 Đề án tại
các địa phương khác, như vậy, đã có 31 Đề án/63 địa phương đư c phê duyệt
và có 68 VP TPL đang hoạt động tăng 15 VP TPL). Theo đó, kết quả hoạt
động lập vi bằng của các VP TPL như sau: 95.554 vi bằng, đạt doanh thu 80
tỷ 632 triệu 774 nghìn đồng. So với cùng kỳ năm 2017, tăng 28.511 vi bằng
và 25 tỷ 918 triệu 943 nghìn đồng.

Biểu đồ 3.3: So sánh số lƣợng vi bằng và doanh


thu qua từng năm thực hiện chế định Thừa phát
lại
Đơn vị:
nghìn đồng trên phạm vi cả nƣớc
90,000,000 120000

80,000,000
95554 100000
70,000,000

60,000,000 80000

50,000,000 67043
60000
40,000,000

30,000,000 40000

20,000,000 25488
20000
10,000,000
26,945,005 54,713,832 80,632,774
0 0
Từ ngày 01/01/2016 - Từ ngày 01/10/2016 - Từ ngày 01/10/2017 –
30/9/2016 30/9/2017 30/9/2018

Doanh thu Vi bằng

6
Thứ hai, số lượng và doanh thu từ hoạt động lập vi bằng tập trung tại
các tỉnh/thành phố lớn, có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển
Vi bằng của TPL đư c lập dựa trên cơ sở yêu cầu của đương sự khi có
nhu cầu tạo lập chứng cứ trong xét xử và căn cứ khi tham gia các quan hệ
pháp lý khác. Theo đó, tại những địa bàn tỉnh/thành phố lớn, nơi có hoạt động
thương mại, dân sự, kinh tế,… diễn ra thường xuyên và hiệu quả hoạt động
tuyên truyền, ph biến của cơ quan, t chức, cá nhân về chức năng, nhiệm vụ,
vai trò của vi bằng đã giúp người dân nhận thức đư c sự cần thiết của vi bằng
trong việc tự chủ động bảo vệ quyền, l i ích h p pháp của mình và tin tưởng
yêu cầu TPL lập vi bằng khi tham gia các quan hệ trên. Ví dụ từ Bảng 3.2 có
thể thấy tại Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội: Từ ngày 01/01/2016 đến
ngày 30/9/2018, các VP TPL tại Thành phố Hồ Chí Minh đã lập 141.692 vi
bằng (chiếm tỷ lệ 75,33% so với cả nước và đạt doanh thu 87 tỷ 126 triệu
811 nghìn đồng (chiếm tỷ lệ 53,69% so với cả nước); tại Hà Nội đã lập
15.599 vi bằng (chiếm tỷ lệ 8,29% so với cả nước và đạt doanh thu 36 tỷ 697
triệu 471 nghìn đồng (chiếm tỷ lệ 22,61% so với cả nước).

Biểu đồ 3.4: Biểu đồ 3.5:


Tỷ lệ vi bằng đƣợc lập tại một sốTỷđịa
lệ bàn
doanh thu từ vi bằng tại một số địa bàn

8.29%
16.38%
23.7% 22.61%

75.33% 53.69%
Hà NộiTP. Hồ Chí MinhCòn lại Hà NộiTP. Hồ Chí MinhCòn lại

6
Riêng tại Thành phố Hồ Chí Minh có số lư ng vi bằng đư c lập nhiều
và gia tăng nhanh hơn so với các địa phương khác bởi đây là địa phương đư c
t chức thực hiện thí điểm đầu tiên tại Việt Nam, có thời gian thực hiện công
tác tuyên truyền, ph biến về vai trò của vi bằng hơn so với các địa phương
khác. Theo Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh, từ ngày 01/01/2016 đến
30/9/2016 có 20.250 vi bằng đư c lập thì đến ngày 30/9/2017, số lư ng vi
bằng là 49.631 tăng khoảng 2,45 lần . Đến ngày 30/9/2018, số lư ng vi bằng
đư c lập đạt 71.811 tăng khoảng 1,45 lần so với năm 2017 và khoảng 3,35
lần so với năm 2016 . Bên cạnh sự gia tăng về số lư ng vi bằng đư c lập,
doanh thu từ hoạt động lập vi bằng theo đó cũng tăng mạnh mẽ.

lƣợng vi bằng và doanh thu qua từng năm thực hiện chế định Thừa phát lại trên phạm vi cả n
Đơn vị: nghìn đồng
50,000,000
45,000,000
80000
40,000,000
35,000,000 71811
70000
30,000,000
25,000,000 60000
20,000,000
15,000,000 50000
49631
10,000,000
5,000,000 40000
0
30000

20250 20000

10000
14,712,706 27,147,310 45,266,795
0
Từ ngày 01/01/2016 -Từ ngày 01/10/2016 -Từ ngày 01/10/2017 – 30/9/201630/9/201730/9/2018

Doanh thu Vi bằng

3.1.1.3. Những tác động thực tiễn của hoạt động lập vi bằng
Kết quả của hoạt động lập vi bằng tại không chỉ thể hiện ở sự tăng
mạnh về mặt hình thức như số lư ng vi bằng và doanh thu từ hoạt động lập vi
bằng mà còn thể hiện qua sự quan tâm, đón nhận của người dân, đư c dư luận

6
ủng hộ với những tác động thực tiễn cụ thể trong đời sống. Những tác động
thực tiễn của hoạt động lập vi bằng có thể kể đến như:
i) Hoạt động lập vi bằng của Thừa phát lại là công cụ pháp lý cần thiết
giúp người dân chủ động bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Hoạt động lập vi bằng của TPL đã thạo thêm công cụ pháp lý và là một
cơ chế hữu hiệu, đáng tin cậy giúp người dân tạo lập nguồn chứng cứ cần
thiết, tăng cường tính chủ động, tích cực bảo vệ quyền và l i ích h p pháp
của công dân trong các quan hệ dân sự, tố tụng dân sự.v.v… Qua đó, giúp
người dân thực hiện các quyền con người, quyền công dân của mình theo quy
định của pháp luật.
Với số lư ng, chất lư ng và tính chất đa dạng của vi bằng đã lập trong
thời gian vừa qua, có thể thấy hoạt động lập vi bằng của TPL đã đáp ứng một
nhu cầu lớn của xã hội mà trước đó chưa có cơ quan, t chức nào cung cấp.
Sau khi đư c giải thích rõ về hoạt động vi bằng, người dân cho rằng đây là
dịch vụ pháp lý rất cần thiết. Ở các địa phương, có 60 - 70% những người
chưa hiểu và sau đó đư c giải thích về dịch vụ lập vi bằng cho rằng cần và rất
cần sử dụng dịch vụ. Đối với những người đã sử dụng dịch vụ này thì tỷ lệ lên
đến 90 – 95% [29].
ii) Hoạt động lập vi bằng có tác động phòng ngừa tranh chấp, hòa giải
tranh chấp nếu đã xảy ra
Vi bằng là nguồn chứng cứ có độ tin cậy cao khi đư c sử dụng, các bên
đương sự không thể phủ nhận giá trị của vi bằng khi đã đư c lập. Trong nhiều
trường h p sau khi đương sự yêu cầu TPL lập vi bằng hoặc vi bằng vừa đư c
lập, các bên đương sự có những phân tích về điểm có l i, bất l i đối với mình,
qua đó chủ động, tự nguyện hòa giải tranh chấp, góp phần n định trật tự xã
hội. Ví dụ:

7
Vi bằng số 33/VB-TPL ngày 10/01/2015: ghi nhận bu i làm việc giữa
ông Đoàn Tiến Hưng đại diên gia đình bà Hoàng Thị Hồng Hà) với bà
Hoàng Thị Ánh Hồng đại diện cơ sở Hoàng Gia Phúc) về việc bà Hoàng Thị
Hồng Hà đã đến Công ty TNHH Thiên Ngọc Minh Uy – hệ thống Hoàng Gia
Phúc để yêu cầu hoàn trả số tiền hơn 3,3 tỷ đồng do bị lừa gia nhập mạng lưới
bán hàng đa cấp. Sau khi vi bằng đư c lập vài ngày, gia đình bà Hoàng Thị
Hồng Hà nhận đư c số tiền trên 3 tỷ đã nộp do Công ty TNHH Thiên Ngọc
Minh Uy hoàn trả.
iii) Hoạt động lập vi bằng hỗ trợ các cơ quan nhà nước trong quá trình
thực hiện công vụ
Đối với các cơ quan nhà nước, vi bằng của TPL cung cấp chứng cứ,
thông tin chính xác về những sự kiện, hành vi đã xảy ra giúp các cơ quan có
thẩm quyền giảm thời gian, công sức, tài chính trong việc thu thập, xác minh,
tìm kiếm thông tin, tài liệu khi giải quyết tranh chấp, xem xét yêu cầu của các
chủ thể khác nhau trong xã hội. Trong thực tiễn, trong nhiều mối quan hệ
pháp lý giữa cơ quan nhà nước với người dân, t chức, việc không có cơ chế
tạo lập chứng cứ độc lập có thể dẫn đến những khiếu nại, khiếu kiện khi giải
quyết các vụ việc.
Ví dụ: Khi nhà nước cần thu hồi đất để phục vụ cho các mục đích quốc
phòng an ninh, l i ích công cộng hay phát triển kinh tế. Trong nhiều trường
h p, khi có thông tin về dự án, người dân cố ý xây dựng những công trình
hoặc tiến hành trồng cây để với mục đích nhận tiền đền bù, giải tỏa,... Trong
những trường h p này, cơ quan nhà nước có thể yêu cầu lập vi bằng ghi nhận
hiện trạng trước khi tiến hành dự án, đồng thời công khai thông tin về việc
xác nhận hiện trạng khu đất dự kiến thu hồi, từ đó, người dân sẽ không thể
trục l i từ việc xây dựng, trồng cây để nhận tiền đền bù.

7
Theo VP TPL Hai Bà Trưng, tính từ năm 2014, số lư ng vi bằng mà cơ
quan hành chính nhà nước sử dụng như: UBND xã Tả Thanh Oai, huyện
Thanh Trì, Thành phố Hà Nội là cơ quan yêu cầu lập vi bằng) sử dụng 55 vi
bằng liên quan đến việc giải phóng mặt bằng; UBND xã Liên Châu, huyện
Thanh Oai, Thành phố Hà Nội yêu cầu lập 24 vi bằng liên quan đến việc tự
nguyện hiến đất của người dân [46].
Như vậy, việc các cơ quan nhà nước sử dụng dịch vụ lập vi bằng của
TPL cho thấy vi bằng không chỉ là nhu cầu của người dân, doanh nghiệp mà
còn là nhu cầu của cơ quan nhà nước trong việc bảo vệ quyền, l i ích của nhà
nước và đảm bảo tính đúng đắn, h p pháp khi thực hiện công vụ.
3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân từ thực tiễn lập vi bằng ở một số
tỉnh/thành phố
3.1.2.1. Hạn chế, bất cập về thể chế
i) Bất cập, hạn chế liên quan đến giá trị pháp lý của vi bằng
Theo quy định của BLTTDS năm 2015, chứng cứ đư c thu thập từ
nhiều nguồn khác nhau, trong đó có quy định chứng cứ đư c thu thập từ
nguồn “Văn bản ghi nhận sự kiện, hành vi pháp lý do người có chức năng
lập” [40; Đ94], với sự ghi nhận nguồn chứng cứ như trên, có thể hiểu đây là
sự gián tiếp quy định vi bằng của TPL là một nguồn chứng cứ. Tuy nhiên, với
quy định này, vi bằng chưa thể đư c coi là chính thức ghi nhận trong Bộ luật.
Bên cạnh đó, BLTTDS năm 2015 quy định về những tình tiết, sự
kiện không cần phải chứng minh, trong đó, ghi nhận sự kiện, hành vi
đư c ghi nhận trong văn bản công chứng, chứng thực đư c coi là có giá
trị chứng cứ đương nhiên và không phải chứng minh. Chỉ trường h p có
dấu hiệu nghi ngờ tính khách quan của những tình tiết, sự kiện này hoặc
tính khách quan của văn bản công chứng, chứng thực thì Thẩm phán có
thể yêu cầu đương sự, cơ quan, t chức công chứng, chứng thực xuất trình

7
bản gốc, bản chính [40; Đ92]. Trong khi đó, văn bản ghi nhận sự kiện,
hành vi pháp lý do người có chức năng lập thì không thuộc phạm vi
những tình tiết, sự kiện không phải chứng minh.
ii) Về thẩm quyền lập vi bằng của Thừa phát lại
Một là, thẩm quyền lập vi bằng đối với các trường h p TPL không trực
tiếp chứng kiến nội dung sự kiện, hành vi
Tương tự các quốc gia có quy định về thẩm quyền lập vi bằng của TPL,
nhằm mục đích đảm bảo tính khách quan, tính xác thực của hành vi, sự kiện
đư c ghi nhận trong vi bằng, tại khoản 2 Điều 26 Nghị định số 61/2009/NĐ-
CP “Vi bằng chỉ ghi nhận những sự kiện, hành vi mà Thừa phát lại trực tiếp
chứng kiến; việc ghi nhận phải trung thực, khách quan”; Công văn số
415/BTP-TCTHA ngày 28/01/2011 về việc hướng dẫn một số nội dung lập vi
bằng quy định “Thừa phát lại không được lập vi bằng để ghi nhận sự kiện,
hành vi mà mình không trực tiếp chứng kiến hoặc những sự kiện, hành vi chỉ
thông qua lời kể của người khác” và Công văn số 201/BTP-TPL ngày
15/3/2017 về việc lập vi bằng cũng hướng dẫn quy định này theo hướng
không cho phép Thừa phát lại lập vi bằng để ghi nhận những sự kiện, hành vi
mà mình không trực tiếp chứng kiến hoặc những sự kiện, hành vi mà chỉ
thông qua lời kể của người khác.
Tuy nhiên, cách hiểu về những trường h p này cũng không có sự thống
nhất dẫn đến phát sinh những vướng mắc trong quá trình lập vi bằng. Ví dụ:
Vi bằng số 719/VB-TPLBH ngày 30/11/2015: “Chứng kiến ghi nhận
ông Hoàng Ngọc T với ông Trần Xuân H1, bà Nguyễn Thị H xác nhận về
việc cùng nhau chuyển như ng các thửa đất 84, 87, 89, 168, tờ bản đồ số 5;
diện tích 1858,3m2 tọa lạc tại phường Q, thành phố B, tỉnh Đồng Nai theo
trích đo vẽ hiện trạng khu đất số 1178/2015; tỷ lệ: 1/1000 do Văn phòng đăng
ký đất đai tỉnh Đồng Nai – chi nhánh B lập ngày 10/4/2015”.

7
Nội dung của vi bằng trên đư c TPL lập nhằm ghi nhận lời trình bày
của đương sự đối với việc xác nhận sẽ cùng nhau góp tiền chuyển như ng các
thửa đất, mặc dù, TPL không trực tiếp chứng kiến việc các bên cùng nhau góp
tiền để mua đất. Như vậy, vi bằng số 719/VB-TPLBH ngày 30/11/2015 ghi
nhận sự kiện, hành vi thông qua lời kể của đương sự về việc góp tiền chuyển
như ng và không có giá trị về việc các bên đã góp tiền chuyển như ng hay
chưa mà chỉ có giá trị về việc các bên đã thỏa thuận như vậy.
Vi bằng số 719/VB-TPLBH ngày 30/11/2015 đã bị hủy bằng Bản án số
67/2018/DS-PT ngày 13/4/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai vì vi
phạm quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị định 61/2009/NĐ-CP ngày
24/7/2009 của Chính phủ về t chức và hoạt động của Thừa phát lại. Theo đó,
nhận định của Tòa án cho rằng trong trường h p này TPL chỉ ghi nhận trình
bày của đương sự chứ không trực tiếp chứng kiến việc hai bên cùng nhau góp
tiền để mua đất là chưa phù h p quy định nêu trên.
Với những trường h p TPL không trực tiếp chứng kiến sự kiện, hành vi
nhưng trực tiếp chứng kiến và ghi nhận sự kiện, hành vi thông qua lời kể lại,
tường thuật lại của một cá nhân về nội dung sự kiện, hành vi đã xảy ra trên
thực tế, thì việc ghi nhận này của TPL sẽ đảm bảo tính trung thực, khách quan
rằng cá nhân đó đã kể, tường thuật lại, còn về nội dung sự kiện, hành vi trong
lời kể, lời tường thuật thì do chính cá nhân đó tự chịu trách nhiệm. Việc thừa
nhận vi bằng về hành vi, sự kiện do người khác kể lại có thể đư c sử dụng
trong công tác thu thập lời khai, lời trình bày,… của các đương sự.
Hai là, về việc lập vi bằng đối với sự kiện, hành vi của cán bộ, công
chức đang thi hành công vụ
Về việc lập vi bằng đối với sự kiện, hành vi của cán bộ, công chức
đang thi hành công vụ, các TPL cho rằng việc lập vi bằng đối với hành vi cán
bộ, công chức đang thi hành công vụ góp phần giúp người dân, t chức giám

7
sát hoạt động của cơ quan nhà nước, lực lư ng vũ trang, nâng cao ý thức trách
nhiệm của người thi hành công vụ. Vi bằng đư c lập trong các trường h p
này có ý nghĩa trong việc làm cơ sở thực hiện các quyền khiếu nại, tố cáo hay
bảo vệ quyền l i người yêu cầu lập vi bằng. Ví dụ các trường h p: lập vi bằng
ghi nhận việc từ chối đơn khiếu nại công dân, lập vi bằng ghi nhận hành vi
cưỡng chế của cơ quan nhà nước đối với vi phạm của cá nhân, t chức,...
Trong khi đó, các cơ quan nhà nước cho rằng việc lập vi bằng đối với sự kiện,
hành vi của cán bộ công chức đang thi hành công vụ cần phải xem xét lại.
Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 giải quyết vấn đề
trên bằng quy định không cho phép Thừa phát lại lập Vi bằng ghi nhận các sự
kiện, hành vi của cán bộ, công chức đang thi hành công vụ, trừ trường h p sự
kiện, hành vi đó rõ ràng trái pháp luật, xâm phạm đến quyền và l i ích của
người yêu cầu lập vi bằng.
Như vậy, TPL vẫn có thể lập vi bằng ghi nhận các sự kiện, hành vi của
cán bộ, công chức đang thi hành công vụ khi sự kiện, hành vi đó rõ ràng trái
pháp luật, xâm phạm đến quyền và l i ích của người yêu cầu lập vi bằng. Tuy
nhiên, việc nhận định hành vi, sự kiện đó rõ ràng trái pháp luật, xâm phạm
đến quyền và l i ích của người yêu cầu lập vi bằng hay không chỉ là đánh giá
mang tính chủ quan của TPL, để xác định chính xác sự kiện, hành vi đó trái
pháp luật, xâm phạm đến quyền và l i ích của người yêu cầu lập vi bằng là
thẩm quyền của cơ quan giải quyết khiếu nại, tố cáo hoặc Tòa hành chính các
cấp. Do vậy, hiện nay TPL không thể lập vi bằng khi có sự xuất hiện của cán
bộ, công chức thi hành công vụ.
Ba là, về việc TPL không lập vi bằng các trường h p vi phạm bí mật
đời tư
Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 không cho phép
TPL lập vi bằng các trường h p vi phạm bí mật đời tư theo quy định tại Điều

7
38 của BLDS. Tuy nhiên, những quy định về bí mật đời tư không chỉ quy
định trong BLDS mà còn đề cập ở Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền năm
1948 UDHR , Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR),
đặc biệt đư c ghi nhận tại Điều 21 Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp
luật chuyên ngành khác. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng trong việc đảm bảo
quyền bí mật đời tư của cá nhân, việc quy định phạm vi bí mật đời tư chỉ quy
định theo BLDS là chưa đầy đủ.
iii) Trình tự, thủ tục lập vi bằng
Một là, trình tự thủ tục lập vi bằng đối với những trường h p đột xuất,
bất ngờ
Theo Nghị định 61/2009/NĐ-CP thì TPL lập vi bằng sau khi có thỏa
thuận bằng văn bản giữa Trưởng VP TPL với cá nhân, t chức muốn lập vi
bằng. Trong điều kiện bình thường thì quy định thỏa thuận bằng văn bản là
phù h p, tạo căn cứ vững chắc để các bên tham gia thỏa thuận thực hiện. Tuy
nhiên, đối với việc lập vi bằng về những sự kiện, hành vi xảy ra đột xuất, bất
ngờ mà các dấu vết chỉ tồn tại trong thời gian ngắn ví dụ: hiện trạng trong
nhà ở có khói do hàng xóm đốt rác và cố tình quạt khói sang, gây ô nhiễm và
ảnh hưởng đến sức khỏe , trong trường h p này, việc thỏa thuận bằng văn
bản trước khi tiến hành lập vi bằng có thể dẫn đến chậm trễ trong việc ghi
nhận hiện trạng, các bên có thể xóa dấu vết dẫn đến việc lập vi bằng không
còn ý nghĩa.
Hai là, về việc hỗ tr TPL trong hoạt động lập vi bằng
Theo Điều 4 Nghị định 61/2009/NĐ-CP về đảm bảo hiệu lực hoạt động
của Thừa phát lại, theo đó, để góp phần hỗ tr , nâng cao hiệu quả hoạt động
của TPL các cơ quan nhà nước, t chức chính trị, t chức chính trị - xã hội, t
chức xã hội, t chức xã hội – nghề nghiệp, t chức kinh tế, đơn vị vũ trang

7
nhân dân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm thực
hiện yêu cầu của TPL theo quy định.
Tuy nhiên, hiện chưa có cơ chế phối h p cụ thể nên trong hoạt động
của TPL nói chung và lập vi bằng nói riêng còn gặp nhiều vướng mắc, gây
khó khăn trong quá trình TPL thực hiện nhiệm vụ như trong việc lập vi bằng
liên quan đến những tranh chấp có thể dẫn đến xung đột giữa các bên chiếm
giữ trái phép tài sản, đòi tài sản,… . Trong những trường h p như vậy rất cần
sự hỗ tr của chính quyền địa phương và các lực lư ng chức năng nhằm đảm
bảo an ninh, trật tự trong quá trình lập vi bằng, tạo điều kiện giúp TPL thực
hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình.
Thứ ba, về số lư ng bản chính vi bằng đư c lập
Tại khoản 4 Điều 26 Nghị định 61/2009/NĐ-CP vi bằng đư c lập thành
03 bản chính, trong đó giao người yêu cầu 01 bản. Tuy nhiên, trong một số
trường h p việc tham gia lập vi bằng có thể có nhiều t chức, cá nhân tham
gia và mỗi bên đều có yêu cầu cung cấp bản chính để làm cơ sở bảo vệ quyền
và l i ích của mình. Đối với trường h p như vậy, theo Công văn số 247/BTTP-
TPL ngày 28/3/2017 của Cục B tr tư pháp - BTP, TPL sẽ thực hiện việc cấp
bản sao khi đương sự có yêu cầu, tuy nhiên, nếu các đương sự vẫn yêu cầu có
bản chính thì TPL sẽ ký kết thỏa thuận lập với từng đương sự có yêu cầu để
có đủ số lư ng bản chính. Điều này dẫn đến việc tốn kém chi phí hơn cho các
đương sự khi có yêu cầu.
iv) Hoạt động đăng ký vi bằng
Theo quy định tại khoản 9 Điều 2 Nghị định 135/2013/NĐ-CP sửa đ i
khoản 5 Điều 26 Nghị định 61/2009/NĐ-CP, theo đó Sở Tư pháp có quyền từ
chối đăng ký nếu phát hiện thấy việc lập vi bằng không đúng thẩm quyền,
không thuộc phạm vi lập vi bằng theo quy định; vi bằng không đư c gửi đúng

7
thời hạn để đăng ký. Việc từ chối phải đư c thông báo ngay bằng văn bản cho
VP TPL và người yêu cầu lập vi bằng trong đó nêu rõ lý do từ chối đăng ký.
Việc vi bằng đư c coi là h p lệ khi đư c đăng ký tại Sở Tư pháp giúp
nhà nước kiểm soát chặt chẽ chất lư ng của vi bằng, góp phần hạn chế những
tác động do vi bằng vi phạm những quy định của pháp luật đư c sử dụng làm
chứng cứ và căn chứ giao dịch khác có chứa tiềm ẩn rủi ro pháp lý đối với
người sử dụng và người lập vi bằng. Tuy nhiên, về mặt lý luận còn một số vấn
đề sau:
Thứ nhất, vi bằng là văn bản do TPL lập, ghi nhận về sự kiện, hành vi
khách quan, có thật theo đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục, hình thức pháp lý
theo luật định và TPL phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện
công việc của mình. Việc đăng ký tại Sở Tư pháp không làm thay đ i bản
chất, nội dung sự kiện, hành vi đư c ghi nhận của vi bằng, đồng thời, nếu có
tranh chấp trong việc lập vi bằng của TPL thì cơ quan có quyền phán quyết là
Tòa án [28]. TPL cần đư c tôn trọng chức năng và trách nhiệm nghề nghiệp
của mình, việc quản lý Nhà nước trong hoạt động lập vi bằng cần thực hiện
thông qua thanh tra, kiểm tra t ng thể hoạt động lập vi bằng chứ không nên
kiểm soát cụ thể về mặt phạm vi, nội dung, hình thức của từng vi bằng cụ thể.
Thứ hai, việc quy định đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp sẽ làm phát sinh
trách nhiệm liên đới khi vi bằng dư c coi là h p lệ khi đư c sử dụng làm
chứng cứ trong xét xử và trong các quan hệ pháp lý khác. Hiện nay, nếu vi
bằng đã đăng ký nhưng bị Tòa án bác bỏ vì vi bằng đó lập không đúng quy
định pháp luật thì trách nhiệm chủ yếu phát sinh đối với TPL, vấn đề trách
nhiệm liên đới của Sở Tư pháp hiện vẫn chưa rõ ràng [27].
Thứ ba, thực hiện việc đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp sẽ phát sinh
thêm công việc, phải đầu tư nhân lực và nguồn lực để thực hiện công việc

7
này. Như vậy, không phù h p với chủ trương xã hội hóa hoạt động b tr tư
pháp và tinh giản biên chế hiện nay.
Như vậy, để khắc phục đư c một số vấn đề lý luận về hoạt động đăng
ký vi bằng kể trên, đồng thời, đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt
động lập vi bằng cần có một cơ chế phù h p nhằm đảm bảo trách nhiệm trong
hoạt động nghề nghiệp của TPL và phù h p với chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội, chính sách pháp luật của Nhà
nước hiện nay.
v) Về phí lập vi bằng
Theo quy định, VP TPL quy định và niêm yết công khai khung giá về
chi phí lập vi bằng, trong đó xác định rõ mức tối đa, mức tối thiểu và nguyên
tắc tính. Trên cơ sở khung giá đã niêm yết, người yêu cầu và VP TPL thỏa
thuận về chi phí thực hiện theo công việc hoặc theo giờ làm việc và các khoản
chi phí thực tế phát sinh gồm: chi phí đi lại; phí dịch vụ cho các cơ quan cung
cấp thông tin; chi phí cho người làm chứng, người tham gia hoặc chi phí khác,
nếu có [8; Đ16].
Tuy nhiên, việc quy định khung giá về chi phí lập vi bằng của các VP
TPL có sự chênh lệch, khác nhau theo từng địa phương, dao động khoảng từ 1
– 4 triệu đồng. Theo Sở Tư pháp các tỉnh/thành phố mức phí trung bình tại
một số địa phương như sau: Vĩnh Phúc khoảng 1,5 triệu đồng/1 vi bằng; Hà
Nội, Đồng Nai, Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 2,5 triệu đồng - 3,5 triệu
đồng/1 vi bằng. Như vậy, việc không thống nhất như trên dẫn đến sự chênh
lệch về chi phí trong việc lập vi bằng tại các VP TPL khác nhau.
vi) Về chế tài xử lý vi phạm đối với Thừa phát lại trong hoạt động lập
vi bằng
Trong thời gian vừa qua, hoạt động lập vi bằng của TPL đã xuất hiện
một số sai phạm liên quan đến phạm vi, thẩm quyền lập vi bằng và vi phạm

7
những việc TPL không đư c làm như: TPL lập vi bằng liên quan đến l i
ích những người thân thích của mình v , chồng, con đẻ, con nuôi; cha đẻ,
mẹ đẻ, cha nuôi;… ; lập vi bằng ghi nhận giao dịch bất động sản hoặc các
giao dịch khác, lập vi bằng xác nhận bản sao h p đồng hoặc giấy tờ,... Các
vi phạm này hiện chưa có biện pháp chế tài để xử lý. Quy định về xử phạt
hành chính trong lĩnh vực tư pháp còn bỏ trống các hành vi vi phạm của
hoạt động lập vi bằng.
3.1.2.2. Hạn chế, bất cập trong tổ chức thi hành
i) Trên cơ sở quy định của pháp luật và các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước, các điều kiện đảm bảo thực hiện chế định
TPL đã nhận đư c nhiều sự quan tâm của các địa phương. Tuy nhiên,
chính sách hỗ tr và tạo điều kiện chủ yếu ở việc hỗ tr về thể chế và
tuyên truyền, vận động, chưa có cơ chế hỗ tr cụ thể, thiết thực về vật
chất cho hoạt động của các Văn phòng như: hỗ tr thuê trụ sở, trang
thiết bị làm việc,…
ii) Về chế độ trách nhiệm nghề nghiệp, theo quy định tại điểm b khoản
1 Điều 18 của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP thì một trong những điều kiện để
đăng ký hoạt động VP TPL là “phải ký quỹ 100 triệu đồng cho mỗi Thừa phát
lại hoặc có bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp”. Như vậy, Trưởng VP TPL có
thể hoặc ký quỹ hoặc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp cho mỗi TPL.
Tuy nhiên, trên thực tế hiện nay, việc mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp
cho TPL còn gặp vướng mắc do TPL là một nghề mới trong xã hội nên ngoài
trách nhiệm cá nhân các t chức bảo hiểm chưa cung cấp dịch vụ này.
Đây cũng là một vấn đề dẫn đến tâm lý không yên tâm khi thực hiện
các công việc nghề nghiệp của TPL so với các hoạt động nghề nghiệp trong
lĩnh vực pháp lý khác, bởi khi TPL thực hiện nhiệm vụ đư c quy định nếu
gây ra thiệt hại thì có thể bị xử lý hành chính, nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường thiệt hại.

8
3.2. Một số kiến nghị từ thực tiễn thực hiện pháp luật về lập vi
bằng của Thừa phát lại
3.2.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về hoạt động lập vi bằng
của Thừa phát lại
i) Lập vi bằng đối với các trường hợp Thừa phát lại không trực tiếp
chứng kiến nội dung sự kiện, hành vi
Nhằm thống nhất cách hiểu về những trường h p TPL không trực tiếp
chứng kiến sự kiện, hành vi mà lập vi bằng thông qua lời kể người khác.
Đồng thời, đảm bảo việc tạo nguồn chứng cứ trong công tác thu thập lời khai,
lời trình bày,… của các đương sự. Đề nghị sửa đ i, b sung quy định “Thừa
phát lại không được lập vi bằng để ghi nhận sự kiện, hành vi mà mình không
trực tiếp chứng kiến hoặc những sự kiện, hành vi chỉ thông qua lời kể của
người khác” theo hướng đối với những hành vi, sự kiện chỉ thông qua lời kể
của người khác về một sự kiện, hành vi mà TPL không trực tiếp chứng kiến,
TPL đư c phép lập vi bằng đối với hành vi kể lại. Tuy nhiên, trong vi bằng
cần phải nêu rõ phạm vi trách nhiệm của TPL trong việc lập vi bằng. Nội
dung sự kiện, hành vi trong lời kể, lời tường thuật thì do cá nhân kể lại chịu
trách nhiệm.
ii) Lập vi bằng đối với sự kiện, hành vi của cán bộ, công chức khi thi
hành công vụ
Về vấn đề phạm vi thẩm quyền lập vi bằng đối với sự kiện, hành vi của
cán bộ, công chức khi thi hành công vụ, cần nhận thức rõ hoạt động thi hành
công vụ của cán bộ, công chức có tính chất đặc biệt, nhằm thực thi quyền lực
nhà nước, đòi hỏi mọi cơ quan, t chức, cá nhân tôn trọng và tuân thủ yêu cầu
của người thi hành công vụ. Việc cho phép TPL lập vi bằng sẽ dẫn đến việc
gây cản trở, ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, cán

8
bộ công chức, thậm chí có thể gây ra tình trạng phức tạp tại các địa điểm cơ
quan nhà nước hay địa điểm đang đư c thực thi công vụ.
Bên cạnh đó, chế định TPL đư c tạo ra với mục tiêu xã hội hóa hoạt
động b tr tư pháp, giúp giảm tải công việc cho Tòa án, cơ quan thi hành án
dân sự và tạo cơ chế để người dân, t chức tạo lập chứng cứ, chủ động bảo
vệ quyền và l i ích của mình khi tham gia quan hệ tố tụng và các quan hệ
pháp luật khác. Nếu cho phép TPL lập vi bằng đối với sự kiện, hành vi
của cán bộ công chức khi thực thi công vụ tức đã chuyển từ chế định hỗ tr
người dân và cơ quan nhà nước thành chế định mang chức năng giúp
người dân giám sát cơ quan nhà nước. Việc giám sát hoạt động của cơ
quan nhà nước hiện đã có nhiều cơ chế và đư c pháp luật quy định như
hoạt động theo dõi, giám sát của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp,
Mặt trận T quốc Việt Nam, các t chức thành viên của Mặt trận và nhân
dân thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo,

Đồng thời, qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước có hoạt động
TPL, việc kiểm soát hoạt động của cán bộ, công chức khi thi hành công vụ
cũng đư c thực hiện theo những cơ chế khác nhau mà không trao quyền này
cho TPL.
Vì vậy, đề nghị không nên quy định thẩm quyền lập vi bằng của TPL
đối với sự kiện, hành vi của cán bộ, công chức khi thực thi công vụ.
iii) Về phạm vi bí mật đời tư thuộc phạm vi cấm trong hoạt động lập vi
bằng của Thừa phát lại
Đời tư và bí mật đời tư của cá nhân là quyền nhân thân gắn liền với mỗi
công dân, đư c pháp luật bảo vệ và bất khả xâm phạm. Đư c ghi nhận trong
các công ước quốc tế và đư c pháp luật Việt Nam bảo vệ bằng Hiến pháp và
các văn bản pháp luật chuyên ngành khác. Vì vậy, trong hoạt động lập vi

8
bằng, TPL không chỉ tuân thủ theo quy định của BLDS mà còn phải tuân thủ
đầy đủ quy định của Hiến pháp và các văn bản liên quan.
Theo quy định của Nghị định 61/2009/NĐ-CP đư c sửa đ i, b sung
bởi Nghị định 135/2013/NĐ-CP, TPL khi lập vi bằng phải tuân thủ theo quy
định tại Điều 38 của BLDS về quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí
mật gia đình. Về quy định trên, đề nghị mở rộng phạm vi bí mật đời tư TPL
phải tuân thủ theo tinh thần của Hiến pháp 2013, và các văn bản liên quan.
iv) Về phạm vi địa hạt lập vi bằng của Thừa phát lại
Việc quy định TPL đư c thực hiện các công việc của mình trong phạm
vi tỉnh/thành phố nơi đặt VP TPL như hiện nay xuất phát từ mục đích tạo điều
kiện thuận l i cho hoạt động của TPL và hoạt động quản lý, hướng dẫn hoạt
động TPL của các cơ quan nhà nước. Đồng thời, theo kinh nghiệm các nước
đang t chức thực hiện chế định TPL, hoạt động của TPL gắn chặt với việc hỗ
tr hoạt động của Tòa án nên nhiều nước quy định thẩm quyền địa hạt TPL
theo thẩm quyền của tòa án nơi TPL đăng ký hoạt động.
Đối với hoạt động tống đạt, thi hành án dân sự, việc quy định như hiện
nay là h p lý, bởi hoạt động trên gắn chặt với hoạt động của Tòa án và hiện
thẩm quyền của Tòa án cũng đư c t chức theo địa hạt. Đối với hoạt động lập
vi bằng, với tính chất là văn bản ghi nhận tính xác thực của sự kiện, hành vi
do người có năng lực, trình độ đư c nhà nước b nhiệm thì trong thời gian
tới, cân nhắc quy định theo hướng mở rộng thẩm quyền hoạt động lập vi bằng
ra ngoài phạm vi tỉnh/thành phố nơi đặt VP TPL. Tuy nhiên, việc mở rộng
phạm vi cũng phải tính đến các yếu tố quy hoạch t chức hành nghề TPL tại
các địa phương, tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các TPL tại
các địa bàn khác nhau.
v) Trình tự thủ tục đối với trường hợp lập vi bằng trong những tình
huống đột xuất, khẩn cấp

8
Một số trường h p có hành vi, sự kiện có các dấu vết dễ biến mất, cần
đòi hỏi phải tiến hành việc lập vi bằng ngay lập tức để kịp thời ghi nhận chính
xác sự kiện, hành vi đề nghị pháp luật cho phép và công nhận hình thức “thỏa
thuận miệng” giữa các bên. Tức là khi phát sinh tình huống khẩn cấp cần lập
vi bằng, đương sự có thể đề nghị TPL đến lập vi bằng ngay mà chưa cần phải
ký biên bản thỏa thuận. Việc ký biên bản thỏa thuận h p đồng sẽ đư c hoàn
tất ngay sau khi lập vi bằng. Nếu sau đó hai bên không thống nhất đư c các
điều khoản cơ bản của h p đồng thì TPL có thể hủy kết quả lập vi bằng.
vi) Về quy định đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp
Theo quy định tại khoản 9 Điều 2 Nghị định 135/2013/NĐ-CP sửa đ i
khoản 5 Điều 26 Nghị định 61/2009/NĐ-CP, theo đó Sở Tư pháp có quyền từ
chối đăng ký nếu phát hiện thấy việc lập vi bằng không đúng thẩm quyền,
không thuộc phạm vi lập vi bằng theo quy định; vi bằng không đư c gửi đúng
thời hạn để đăng ký. Việc từ chối phải đư c thông báo ngay bằng văn bản cho
VP TPL và người yêu cầu lập vi bằng trong đó nêu rõ lý do từ chối đăng ký.
Tuy nhiên, bởi còn nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn của việc đăng
ký vi bằng tại Sở Tư pháp, vì vậy, để góp phần nâng cao hiệu quả và đảm bảo
sự quản lý của nhà nước đối với hoạt động này, đề nghị áp dụng hình thức
đăng ký vi bằng sẽ chỉ đăng ký về mặt thủ tục. Vi bằng sau khi đư c lập thì
VP TPL có trách nhiệm đăng ký 01 bản chính tại Sở Tư pháp để lưu trữ, Sở
Tư pháp không có quyền từ chối đăng ký vi bằng. Đồng thời, b sung trách
nhiệm công khai thông tin đăng ký vi bằng trên c ng thông tin đăng ký vi
bằng của Sở Tư pháp và trang thông tin điện tử của VP TPL.
Việc đăng ký vi bằng về mặt thủ tục sẽ giúp Nhà nước thực hiện việc
thống nhất theo dõi tình hình hoạt động của các VP TPL và quản lý hoạt động
lập vi bằng TPL thông qua hoạt động thanh tra, kiểm tra khi phát hiện quá
trình lập vi bằng của TPL có nhiều sai sót về phạm vi, thẩm quyền. Tăng tính

8
chủ động trong hoạt động lập vi bằng và nâng cao trách nhiệm của TPL trong
hoạt động chuyên môn này. Đồng thời, vi bằng có giá trị ngay sẽ phục vụ
người có yêu cầu lập vi bằng nhanh chóng, kịp thời.
vii) Thành lập quỹ bảo hiểm nghề nghiệp Thừa phát lại
Để đảm bảo tâm lý cho TPL khi thực hiện các công việc nghề nghiệp
của mình. Cần nghiên cứu hình thành quỹ bảo hiểm nghề nghiệp đối với các
TPL nhằm đảm bảo phòng rủi ro cho khách hàng và bản thân TPL trong
trường h p gây ra thiệt hại lớn.
Theo kinh nghiệm của Cộng hòa Pháp, quỹ bảo hiểm trách nhiệm của
TPL do Hội đồng TPL Quốc gia lập ra và quản lý, đư c hình thành bởi đóng
góp của chính các TPL, dùng để bảo đảm trách nhiệm về mặt tài chính của
TPL đối với các sai sót gây thiệt hại cho khách hàng trong quá trình thực hiện
cung cấp dịch vụ. Nếu có thiệt hại xảy ra quỹ này sẽ trả trực tiếp cho đối
tư ng chịu thiệt hại và mua bảo hiểm cho khoản bồi thường lớn. Mức đóng
góp cho quỹ này đư c tính theo doanh thu của các TPL. [54]
viii) Nghiên cứu ban hành Luật về Thừa phát lại tạo cơ sở pháp lý cần
thiết cho hoạt động lập vi bằng và các hoạt động khác của Thừa phát lại
Với những tác động tích cực đối với kinh tế - xã hội trong thời gian
qua, chế định TPL đã đư c khẳng định là một chủ trương đúng đắn, phù h p
với bối cảnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính ở nước ta hiện nay. Tuy
nhiên, trong thời gian qua, đã có những bất cập xuất phát từ sự không đồng
bộ, chưa hoàn thiện của thể chế về TPL. Cụ thể là t chức và hoạt động của
TPL chỉ đư c điều chỉnh bằng Nghị định của Chính phủ, trong khi đó, các
lĩnh vực hoạt động chính của TPL liên quan đến quyền con người, quyền
công dân đều đư c điều chỉnh bằng Luật Luật Thi hành án dân sự,
BLTTDS,... . Chính bất cập về thể chế này ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động

8
của TPL, chưa phù h p với quy định của Hiến pháp và tạo ra sự xung đột về
pháp luật.
Những bất cập này đòi hỏi cần ban hành Luật về TPL nhằm đảm bảo sự
đồng bộ của pháp luật, giải quyết những bất cập, đảm bảo sự phát triển n
định, lâu dài của TPL trong bối cảnh cải cách tư pháp, cải cách hành chính
hiện nay.
ix) Bổ sung các hành vi vi phạm trong hoạt động của Thừa phát lại và
lập vi bằng trong Nghị định của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp
Nghị định 110/2013/ NĐ-CP và Nghị định 67/2015/NĐ-CP về xử phạt
hành chính trong lĩnh vực b tr tư pháp, thi hành án dân sự, hôn nhân gia đình,
… hiện còn bỏ trống những hành vi vi phạm trong lĩnh vực TPL. Trên cơ sở
nghiên cứu đề tài, để đảm bảo trật tự quản lý nhà nước đề nghị b sung những
nội dung cơ bản về vi phạm trong việc lập vi bằng vào trong Nghị định
110/2013/ NĐ-CP và Nghị định 67/2015/NĐ-CP về xử phạt hành chính trong
lĩnh vực b tr tư pháp, thi hành án dân sự, hôn nhân gia đình,… Cụ thể:
- B sung đối tư ng bị xử phạt vi phạm hành chính:
+ Cá nhân, t chức vi phạm hành chính trong lĩnh vực lập vi bằng;
+ TPL, Thư ký TPL, VP TPL vi phạm hành chính trong hoạt động lập
vi bằng.
- B sung các hành vi bị xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động
lập vi bằng, bao gồm các nhóm hành vi chính như: gian dối, không trung thực
khi cung cấp thông tin yêu cầu lập vi bằng; ngụy tạo hiện trường, bằng chứng
để yêu cầu lập vi bằng; sửa chữa, tẩy xóa vi bằng,…
- Đối với hành vi vi phạm của VP TPL, TPL, Thư ký TPL, tập trung
vào các nhóm hành vi sau: vi phạm về thẩm quyền, phạm vi lập vi bằng; vi
phạm về trình tự, thủ tục lập vi bằng; vi phạm về công tác lưu trữ, sửa chữa,

8
tẩy xóa làm sai lệch nội dung vi bằng; lập vi bằng khi không trực tiếp chứng
kiến sự việc, hành vi; lừa dối khách hàng trong quá trình lập vi bằng; không
thực hiện chế độ báo cáo, thống kê theo quy định của nhà nước; cung cấp
thông tin sai lệch cho khách hàng về giá trị vi bằng…
Ngoài xử phạt vi phạm hành chính, các chủ thể có hành vi vi phạm phải
khắc phục thiệt hại, bồi thường thiệt hại nếu có , bị truy cứu trách nhiệm
hình sự nếu hành vi vi phạm đủ cấu thành tội phạm.
3.2.2. Một số kiến nghị thực hiện pháp luật về lập vi bằng của Thừa
phát lại
i) Tăng cường công tác tuyên truyền về vi bằng và giá trị pháp lý của
vi bằng
Trong thời gian qua, chế định TPL đã có những tác động tích cực đối
với kinh tế - xã hội, thể hiện đây là chế định tiến bộ, phù h p với chủ trương
cải cách tư pháp, cải cách hành chính hiện nay. Tuy nhiên, công tác tuyên
truyền, ph biến về công việc của TPL nói chung, vi bằng nói riêng còn nhiều
hạn chế dẫn đến việc đại đa số người dân chưa hiểu đư c ý nghĩa của việc lập
vi bằng, quyền của họ trong việc yêu đư c lập vi bằng để bảo vệ quyền và l i
ích h p pháp của mình.
Cần triển khai việc tuyên truyền, giới thiệu chế định TPL đến với người
dân thông qua các hình thức đa dạng, nhằm giúp người dân dễ dàng tiếp cận
và hiểu về vai trò của các VP TPL, trong đó nhấn mạnh vai trò của TPL khi
thực hiện công việc của mình, đặc biệt chú ý tuyên truyền về chế định lập vi
bằng bởi chế định này còn khá mới mẻ đối với người dân.
ii) Quy định cụ thể về cơ chế hỗ trợ của các cơ quan tổ chức đối với
hoạt động lập vi bằng
VP TPL đư c thành lập với mục tiêu giảm tải công việc cho cơ quan
nhà nước, giúp người dân, doanh nghiệp, cơ quan nhà nước tạo lập chứng cứ

8
khi tham gia quan hệ tố tụng, bảo vệ các quyền và l i ích của mình khi tham
gia các giao dịch khác. Tuy nhiên, hiện các VP TPL đang đư c t chức hoạt
động dưới hình thức pháp lý doanh nghiệp tư nhân hoặc công ty h p danh
(mục tiêu chung là hoạt động vì l i nhuận), mặc dù VP TPL đư c phép có
nguồn thu từ hoạt động nhằm đảm bảo chi phí, hoạt động của bộ máy t chức,
nhưng không mang bản chất của một doanh nghiệp nên VP TPL không đư c
thực hiện các công việc mà pháp luật không quy định thẩm quyền.
Do đó, còn tồn tại những hiểu biết sai lệch về bản chất về công việc và
hoạt động của VP TPL, nhiều ý kiến cho rằng đây là “công ty đòi nợ thuê”,
“dịch vụ chuyển phát tư nhân”,…Từ hiểu biết sai lệch về bản chất của TPL
nên nhiều cơ quan, t chức, cá nhân trong mối quan hệ phối h p, giúp đỡ TPL
thực hiện nhiệm vụ chưa tạo điều kiện thuận l i, thậm chí gây khó khăn cho
hoạt động của TPL khi có công việc liên quan. [54]
Theo đó, cần quán triệt, xác định đây là t chức hành nghề độc lập,
chuyên nghiệp, là các chức danh tư pháp do Nhà nước b nhiệm hoạt động
trong lĩnh vực thi hành án và hỗ tr cơ quan tư pháp, không sử dụng chi phí từ
ngân sách nhà nước mà ngư c lại còn đóng thuế cho nhà nước, cung cấp các
dịch vụ pháp lý theo yêu cầu của cá nhân, t chức theo quy định của pháp
luật, góp phần tạo công ăn việc làm trong xã hội. Tạo môi trường pháp lý đảm
bảo tính độc lập trong hoạt động của TPL nói riêng và hoạt động tư pháp nói
chung. Các cơ quan, t chức và cá nhân, đặc biệt là chính quyền địa phương,
lực lư ng cảnh sát cần tạo điều kiện thuận l i, thực hiện các yêu cầu của TPL
trong việc đảm bảo an ninh trật tự trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của
TPL. Tránh tình trạng cho rằng TPL là hoạt động dịch vụ của tư nhân nên các
cơ quan công quyền không có trách nhiệm phối h p hoặc phải trả tiền để hỗ
tr , đảm bảo an ninh trật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.

8
iii) Nâng cao chất lượng chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất đạo đức
của Thừa phát lại
Theo quy định hiện hành, về mặt chuyên môn cần đáp ứng đủ một số
tiêu chuẩn như: Có bằng cử nhân luật; Đã công tác trong ngành pháp luật trên
05 năm hoặc đã từng là Thẩm phán, Kiểm sát viên, Luật sư; Chấp hành viên,
Công chứng viên, Điều tra viên từ Trung cấp trở lên; Có chứng chỉ hoàn
thành lớp tập huấn về nghề TPL do BTP t chức;…Những tiêu chuẩn này phù
h p với thời gian đầu thực hiện chế định TPL và góp phần đáp ứng số lư ng
TPL cần thiết để thực hiện chế định. Tuy nhiên, nhiều trường h p TPL đư c
b nhiệm còn lúng túng trong việc triển khai thực hiện các nhiệm vụ đư c
giao vì chưa đư c đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản.
Vì vậy, cần b sung tiêu chuẩn để đư c b nhiệm TPL theo hướng tăng
tiêu chuẩn về mặt chuyên môn, nghiệp vụ. Theo đó, người muốn đư c b
nhiệm TPL ngoài các điều kiện nêu trên thì phải qua lớp đào tạo nghề TPL
(kéo dài ít nhất 06 tháng đến 01 năm , trong đó, chú trọng đào tạo chuyên sâu
về nghiệp vụ thi hành án, lập vi bằng; đồng thời, sau khi đã trải qua lớp đào
tạo nghề cần phải thực tập một thời gian tại VP TPL.
Bên cạnh nâng cao yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ, cần có quy chế
đạo đức nghề nghiệp đối với TPL. Việc ban hành quy chế, tiêu chuẩn đạo đức
nghề nghiệp đảm bảo người đư c b nhiệm, hành nghề TPL phải có uy tín,
đạo đức tốt, nghiêm chỉnh chấp hành đường lối chính sách của Đảng và pháp
luật của Nhà nước.
iv) Tăng cường quản lý nhà nước đối với hoạt động lập vi bằng
Các cơ quan quản lý nhà nước cần tăng cường vai trò lãnh đạo, đặc biệt
vai trò của Tỉnh ủy/Thành ủy trong việc quán triệt, chỉ đạo các ngành hữu
quan t chức thực hiện tốt hoạt động TPL tại địa phương, có thêm chính sách

8
hỗ tr giúp các VP TPL đảm bảo về mặt cơ sở vật chất như: tạo điều kiện
thuê trụ sở, trang thiết bị làm việc,…
Đồng thời, các cơ quan tư pháp địa phương cần tăng cường việc thẩm
định hồ sơ, nâng cao chất lư ng khi b nhiệm TPL; theo dõi chặt chẽ tình hình
lập vi bằng tại địa phương, chú trọng công tác kiểm tra, thanh tra để kịp thời
phát hiện, chấn chỉnh, xử lý các vi phạm của TPL trong hoạt động lập vi bằng.
Đề xuất trong thời gian tới nghiên cứu thành lập t chức xã hội - nghề
nghiệp của TPL (Hội TPL, Hiệp hội TPL), nhằm phát huy vai trò và tính tự
quản của t chức này. Góp phần kiện toàn, củng cố và phát triển các t chức
hành nghề TPL; giúp các cơ quan có thẩm quyền trong quản lý t chức và
hoạt động TPL thực hiện tốt chức năng làm đầu mối thống nhất đại diện, bảo
vệ quyền và l i ích h p pháp cho TPL; tăng cường trao đ i nghiệp vụ chuyên
môn TPL.

9
KẾT LUẬN CHƢƠNG 3

Sau thời gian thực hiện chế định TPL ở nước ta, chế định TPL đã
chứng tỏ đư c tính đúng đắn và đư c xã hội chấp nhận, đặc biệt là ở các địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển. Thể hiện như sau:
- Đối với người dân và xã hội, chế định lập vi bằng của TPL đã tạo một
công cụ pháp lý để tăng cường tính chủ động, tích cực giúp người dân tự bảo
vệ quyền, l i ích h p pháp của mình trong thực hiện các giao dịch dân sự và
tố tụng.
- Đối với hoạt động tư pháp và liên quan, hoạt động lập vi bằng của
TPL giúp tạo lập nguồn chứng cứ góp phần bảo đảm cho việc xét xử khách
quan, kịp thời và chính xác, hỗ tr hoạt động tư pháp nhanh chóng, hiệu quả,
góp phần giảm tải công việc của các cơ quan tư pháp.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đư c, còn tồn tại những hạn
chế, bất cập xuất phát từ sự không đồng bộ, chưa hoàn thiện thể chế về TPL,
nhận thức về chế định TPL của một số cơ quan, t chức, cá nhân còn chưa
đúng đắn, chính xác gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của TPL.
Theo đó, để khắc phục những hạn chế, bất cập trên, cần có những giải
pháp cụ thể, chú trọng vào giải quyết những nguyên nhân căn bản về mặt thể
chế, nhận thức về chế định của cơ quan, t chức, cá nhân. Góp phần nâng cao
hiệu quả hoạt động lập vi bằng của TPL trong thời gian tới.

9
KẾT LUẬN CHUNG

Chế định lập vi bằng chứng thư của TPL là một công việc gắn liền
với hoạt động của chế định TPL ở Việt Nam, sự xuất hiện và tồn tại của chế
định này bắt đầu và tồn tại từ thời kỳ Pháp thuộc cho đến năm 1950 ở miền
Bắc và năm 1975 ở miền Nam. Trong những năm vừa qua, Việt Nam đã hội
nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ, sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, dân chủ hóa đời sống xã hội và các mối quan hệ cơ bản
đư c pháp luật dân sự điều chỉnh theo đó phát triển đa chiều và phức tạp, tuy
nhiên, dễ nảy sinh những mâu thuẫn, tranh chấp về l i ích của các chủ thể
tham gia quan hệ, điều này dẫn đến nhu cầu tất yếu đó là các dịch vụ pháp lý
có cơ hội phát triển mạnh mẽ.
Với bối cảnh như vậy, Nghị quyết 49-NQ/TW định hướng: “Tiếp tục
hoàn thiện thủ tục tố tụng dân sự. Nghiên cứu thực hiện và phát triển các loại
hình dịch vụ từ Nhà nước để tạo điều kiện cho các đương sự chủ động thu
thập chứng cứ chứng minh, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình…”.
Thể chế hóa chủ trương trên, ngày 14/11/2008 Quốc hội đã ban hành Nghị
quyết số 24/2008/QH12 về thi hành Luật Thi hành án dân sự, trong đó có quy
định: “để triển khai thực hiện chủ trương xã hội hóa một số công việc có liên
quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức thực hiện
thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại một số địa phương”.
Theo đó, chế định TPL chính thức đư c t chức thí điểm và một trong những
loại hình dịch vụ hỗ tr các cá nhân, t chức tạo lập, thu thập chứng cứ chính
là hoạt động lập vi bằng của TPL.
Trải qua thời gian thí điểm, mở rộng phạm vi thí điểm và hiện đang
đư c t chức thực hiện trên phạm vi cả nước, chế định lập vi bằng của TPL
đã thể hiện vai trò của mình qua những tác động cụ thể trên phương diện kinh

9
tế - xã hội, cụ thể: Tạo công cụ pháp lý giúp tăng cường tính chủ động, tích
cực giúp người dân tự bảo vệ quyền, l i ích h p pháp của mình trong thực
hiện các giao dịch; tạo lập nguồn chứng cứ góp phần bảo đảm cho việc xét xử
khách quan, kịp thời và chính xác, hỗ tr hoạt động tư pháp nhanh chóng,
hiệu quả, góp phần giảm tải công việc của các cơ quan tư pháp…
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt đư c, còn tồn tại những hạn chế,
bất cập xuất phát từ sự không đồng bộ, chưa hoàn thiện thể chế về TPL. Bên
cạnh đó, nhận thức về chế định TPL của một số cơ quan, t chức, cá nhân còn
chưa đúng đắn, chính xác gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của TPL.
Từ kết quả nghiên cứu các vấn đề thực tiễn và lý luận về chế định lập vi
bằng của TPL, Luận văn đã đưa ra một số đề xuất, kiến nghị nhằm góp phần
khắc phục những bất cập của pháp luật hiện hành, đảm bảo tính thống nhất,
đồng bộ giữa các quy định về TPL và những văn bản pháp luật có liên quan;
từ đó hình thành nên cơ chế phù h p để chế định lập vi bằng của TPL hoạt
động hiệu quả. Đồng thời, pháp luật về TPL sẽ ngày càng toàn diện, h p lý,
tiến bộ và những người thực hiện công việc này sẽ đư c hoạt động và phát
triển nghề nghiệp trong một hành lang pháp lý an toàn, tin cậy, yên tâm đóng
góp mọi năng lực, công sức cho việc nâng cao chất lư ng và hiệu quả con
đường cải cách của Đảng, Nhà nước vì mục tiêu ích nước, l i dân.

9
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Chính trị 2002 , Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 Về một số


nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới, Hà Nội.
2. Bộ Chính trị 2005 , Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 Về chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, Hà Nội.
3. Bộ Tư pháp 1950 , Nghị định số 111/BTP-NĐ ngày 04/02/1950 về ấn
định pháp quy Thừa phát lại, Hà Nội.
4. Bộ Tư pháp 2009 , Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại Thành
phố Hồ Chí Minh, Đề án, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
5. Bộ Tư pháp 2011 , Công văn số 415/BTP-TCTHA ngày 28/01/2011 của
Bộ Tư pháp về việc hướng dẫn một số nội dung lập vi bằng, Hà Nội
6. Bộ Tư pháp 2013 , Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, Đề
án, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
7. Bộ Tư pháp 2013 , Quyết định số 1531/QĐ-BTP ngày 24/6/2013 về việc
chọn địa phương thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, Hà Nội.
8. Bộ Tư pháp 2014 , Thông tư liên tịch số 09/2014/TTLT-BTP-TANDTC-
VKSNDTC-BTC ngày 28/02/2014 hướng dẫn thực hiện thí điểm chế định
Thừa phát lại theo Nghi quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc
hội, Hà Nội
9. Bộ Tư pháp 2014 , Công văn số 1128/BTP-TCTHADS ngày 18/01/2014 về
việc tổ chức thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, Hà Nội.
10. Bộ Tư pháp 2014 , Công văn số 4003/BTP-TCTHADS ngày 19/9/2014 về
việc hướng dẫn một số nội dung liên quan đến hoạt động lập vi bằng của
Thừa phát lại, Hà Nội.
11. Bộ Tư pháp 2017 , Công văn số 201/BTTP-TPL ngày 15/3/2017 về việc
lập vi bằng, Hà Nội.
12. Bộ Tư pháp 2017 , Công văn số 247/BTTP-TPL ngày 28/3/2017 về cấp
bản sao vi bằng, Hà Nội.
13. Nguyễn Đức Chính 1995 , Những cơ sở lý luận và thực tiễn về Chế định
Thừa phát lại, Đề tài khoa học cấp Bộ, Bộ Tư pháp, Hà Nội.
14. Nguyễn Đức Chính chủ biên 2006 , Tổ chức Thừa phát lại, NXB Tư
pháp, Hà Nội.
15. Chính phủ 2009 , Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24/7/2009 về tổ
chức và hoạt động của Thừa phát lại tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
16. Chính phủ 2012 , Tờ trình số 298/TTr-CP ngày 23/10/2012 về việc tiếp
tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, Hà Nội.
17. Chính phủ (2013), Nghị định số 135/2013/NĐ-CP ngày 18/10/2013 Sửa
đổi, bổ sung tên gọi và một số điều của Nghị định số 61/2009/NĐ-CP ngày 24
tháng 7 năm 2009 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại
thực hiện thí điểm tại Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.
18. Chính phủ (2015), Nghị định số 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 của
Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng thực bản sao từ bản chính, chứng
thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao dịch, Hà Nội.
19. Chính phủ 2015 , Báo cáo số 538/BC-CP ngày 19/10/2015 về tổng kết
việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại theo Nghị quyết số
36/2012/QH13 của Quốc hội, Hà Nội.
20. Chính phủ 2015 , Tờ trình số 584/TTr-CP ngày 27/10/2015 về dự thảo
Nghị quyết của Quốc hội về thực hiện chế định Thừa phát lại, Hà Nội.
21. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1946), Sắc lệnh số 130/SL
ngày 19/7/1946 về ấn định thể thức thi hành phải ghi trên các bảng sao hay
trích sao, Hà Nội.
22. Chủ tịch Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa (1950), Sắc lệnh số 85/SL
ngày 22/5/1950 về cải cách bộ máy tư pháp và luật tố tụng, Hà Nội.
23. Đại Hội đồng Liên H p quốc (1948), Tuyên ngôn quốc tế về nhân
quyền (UDHR),
24. Đại Hội đồng Liên H p quốc (1966), Công ước quốc tế về các quyền dân
sự và chính trị (ICCPR)
25. Trần Ngọc Đường, Nguyễn Thành 2007), Khái niệm pháp lý trong các văn
bản pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội.
26. Bùi Thị Hà 2016 , “Những khó khăn vướng mắc trong triển khai thực hiện
chế định Thừa phát lại tại Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, Số
chuyên đề 2 , tr. 29 – 32.
27. Thu Hằng, Vi bằng không được công nhận: Ai chịu trách nhiệm?, Bộ Tư
pháp https://moj.gov.vn/qt/cacchuyenmuc/thuaphatlai/Pages/kinh-nghiem-
thao-luan.aspx?ItemID=12, 12/11/2014, Ngày truy cập 21/3/2019.
28. Võ Trung Hậu 2017 , “Đăng ký vi bằng tại Sở Tư pháp - Một trong những
thủ tục lập vi bằng của Thừa phát lại”, Tạp chí Nghề Luật, (3), tr. 76 – 80.
29. Nguyễn Văn Hiển 2016 , Khảo sát, đánh giá tác động kinh tế - xã hội của
việc thí điểm chế định Thừa phát lại tại một số tỉnh/thành phố, Đề án, Viện
Khoa học pháp lý, Hà Nội.
30. Nguyễn Quốc Hùng, Vi bằng, Từ điển Hán Nôm
https://hvdic.thivien.net/hv/vi%20b%E1%BA%B1ng, Ngày truy cập
26/2/2019.
31. Nguyễn Vinh Hưng 2019 , “Lịch sử chế định pháp luật về Thừa phát lại
tại Việt Nam”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ Việt Nam, (4), tr. 31 – 35.
32. Nguyễn Vinh Hưng 2019 , “Một số bất cập trong hoạt động lập vi bằng
của thừa phát lại”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, 3 , tr. 48 – 52.
33. Khâm sứ Trung Kỳ (1936), Bộ Dân luật Trung, Trung Kỳ.
34. Dương Thị Thanh Mai 2018 , Xác định những định hướng chính sách lớn
phục vụ cho việc xây dựng Luật Thừa phát lại, Đề tài khoa học cấp Bộ, Viện
Khoa học pháp lý, Hà Nội.
35. Quốc hội 2005 , Nghị quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 về thi
hành Luật Thi hành án dân sự, Hà Nội.
36. Quốc hội (2012), Nghị quyết số 36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về việc
tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại, Hà Nội.
37. Quốc hội 2013 , Hiến pháp, Hà Nội
38. Quốc hội (2014), Luật Công chứng, Hà Nội.
39. Quốc hội 2015 , Bộ luật Dân sự, Hà Nội.
40. Quốc hội 2015 , Bộ luật Tố tụng dân sự, Hà Nội.
41. Quốc hội (2015), Luật Tố tụng hành chính, Hà Nội.
42. Quốc hội 2015 , Nghị quyết số 107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực
hiện chế định Thừa phát lại, Hà Nội.
43. Thông tin khoa học pháp lý 10/2014 , Thí điểm Thừa phát lại ở Việt Nam,
những thuận lợi và khó khăn, Viện Khoa học pháp lý, Hà Nội.
44. Thông tin khoa học pháp lý 7/2015), Kết quả khảo sát, đánh giá việc thí điểm
Thừa phát lại tại một số tỉnh, thành phố, Viện Khoa học pháp lý, Hà Nội.
45. Thống sứ Bắc Kỳ (1931), Bộ Dân luật Bắc, Bắc Kỳ.
46. Song Thu, Hà Nội: Vi bằng do các văn phòng thừa phát lại lập được Tòa
sử dụng làm chứng cứ, Báo Pháp luật Việt Nam https://baophapluat.vn/tu-
phap/ha-noi-vi-bang-do-cac-van-phong-thua-phat-lai-lap-duoc-toa-su-dung-
lam-chung-cu-362299.html, 24/10/2017, Ngày truy cập 28/4/2019.
47. Thủ tướng Chính phủ 2009 , Quyết định số 224/QĐ-TTg ngày 19/02/2009
phê duyệt Đề án “Thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại tại Thành phố
Hồ Chí Minh”, Hà Nội.
48. Thủ tướng Chính phủ 2013 , Quyết định số 510/QĐ-TTg ngày 25/3/2013
phê duyệt Đề án “Tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại”, Hà
Nội.
49. Toàn quyền Đông dương 1910 , Bộ Dân sự tố tụng Nam Việt, Nam Kỳ
50. T ng thống Việt Nam cộng hòa (1972), Bộ luật Dân sự và thương sự tố
tụng, Sài Gòn
51. T ng thống Việt Nam cộng hòa (1972), Bộ luật Hình sự tố tụng, Sài Gòn.
52. T ng thống Việt Nam cộng hòa (1972), Bộ Dân luật, Sài Gòn.
53. Nguyễn Thị Tứ 2013 , “Thực trạng hành vi xâm phạm bí mật đời tư người
khác của người trưởng thành trẻ tu i ở Thành phố Hồ Chí Minh”, Tạp chí
Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, (49), tr.5-14.
54. Đinh Công Tuấn 2017 , Vi bằng – Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong
tiến trình cải cách tư pháp ở Việt Nam, Đề tài khoa học cấp cơ sở, Viện Khoa
học pháp lý, Hà Nội.
55. Nguyễn Thị Tuyền 2017 , “Chế định Thừa phát lại ở Việt Nam và kinh
nghiệm của một số quốc gia trên thế giới”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (20),
tr.42-47.
56. Trường Đại học Luật Hà Nội 2000 , Từ điển Giải thích thuật ngữ luật học,
NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
57. Trường Đại học Luật Hà Nội 2017 , Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt
Nam, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
58. Ủy ban Tư pháp 2012 , Báo cáo thẩm tra số 928/BC-UBTP13 ngày
24/10/2012, Hà Nội.
59. Ủy ban Tư pháp 2015 , Báo cáo thẩm tra số 2974/BC-UBTP13 ngày
14/9/2015, Hà Nội.
60. Ủy ban Tư pháp 2015 , Báo cáo thẩm tra số 3085/BC-UBTP13 ngày
08/11/2015, Hà Nội.
61. Viện Ngôn ngữ học 2010 , Từ điển Tiếng Việt, NXB Từ điển Bách khoa,
Hà Nội.
62. Viện Khoa học pháp lý 2006 , Từ điển Luật học, NXB Từ điển Bách Khoa
và NXB Tư pháp, Hà Nội.

You might also like