Professional Documents
Culture Documents
NGHỊ ĐỊNH
CỦA CHÍNH PHỦ SỐ 06/CP NGÀY 20 THÁNG 1 NĂM 1995
QUY ĐỊNH CHI TIẾT MỘT SỐ ĐIỀU CỦA BỘ LUẬT LAO ĐỘNG
VỀ AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG
CHƯƠNG I
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI ÁP DỤNG
Điều 1.- Đối tượng và phạm vi được áp dụng các quy định về an toàn lao
động, vệ sinh lao động bao gồm: mọi tổ chức, cá nhân sử dụng lao động, mọi
công chức, viên chức, mọi người lao động kể cả người học nghề, thử việc
trong các lĩnh vực, các thành phần kinh tế, trong lực lượng vũ trang và các
doanh nghiệp; tổ chức, cơ quan nước ngoài, tổ chức quốc tế đóng trên lãnh
thổ Việt Nam.
CHƯƠNG II
AN TOÀN LAO ĐỘNG, VỆ SINH LAO ĐỘNG
Điều 2.- Luận chứng về các biện pháp bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao
động theo Khoản 1, Điều 96 của Bộ Luật lao động được quy định như sau:
1. Việc xây dựng mới, mở rộng hoặc cải tạo các công trình, các cơ sở
sản xuất, sử dụng, bảo quản, lưu trữ các loại máy, thiết bị, vật tư, các chất có
yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động thì chủ đầu tư,
người sử dụng lao động phải lập báo cáo khả thi về các biện pháp bảo đảm an
toàn lao động, vệ sinh lao động. Trong báo cáo khả thi phải có những nội
dung chính sau đây:
- Địa điểm, quy mô công trình, trong đó nêu rõ khoảng cách từ công
trình, cơ sở sản xuất dến khu dân cư và các công trình khác;
- Nêu rõ những yếu tố nguy hiểm, có hại, sự cố có thể phát sinh trong
quá trình hoạt động; các giải pháp phòng ngừa, xử lý.
Báo cáo khả thi phải được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền phê duyệt; chủ
đầu tư, người sử dụng lao động phải sao gửi cho cơ quan Thanh tra Nhà nước
về lao động địa phương để theo dõi và giám sát theo luật định.
2. Khi thực hiện phải cụ thể hoá các yêu cầu, nội dung, biện pháp bảo đảm an
toàn và vệ sinh lao động theo luận chứng đã được duyệt.
Điều 3.- Việc thực hiện tiêu chuẩn an toàn lao động, vệ sinh lao động theo
khoản 2 Điều 96 của Bộ Luật lao động được quy định như sau:
1. Tiêu chuẩn, quy phạm an toàn lao động, vệ sinh lao động là tiêu
chuẩn, quy phạm bắt buộc thực hiện. Căn cứ tiêu chuẩn, quy phạm an toàn lao
động, vệ sinh lao động của Nhà nước, của ngành ban hành, người sử dụng lao
động phải xây dựng quy trình bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động cho từng loại
máy, thiết bị, vật tư và nội quy an toàn, vệ sinh nơi làm việc.
2. Tổ chức, cá nhân khi đưa vào sử dụng các loại máy, thiết bị, vật tư,
các chất có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao động, vệ sinh lao động thuộc
danh mục do Bộ lao động – Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế quy định, phải
thực hiện đăng ký và kiểm định.
Bộ lao động – Thương binh và Xã hội quy định và hướng dẫn thủ tục đăng ký
và kiểm định.
Điều 4.- Nơi làm việc có nhiều yếu tố độc hại theo Điều 97 của Bộ Luật lao
động được quy định như sau:
1. Phải kiểm tra đo lường các yếu tố độc hại ít nhất mỗi năm một lần;
2. Khi thấy có hiện tượng bất thường thì phải kiểm tra và có biện pháp
xử lý ngay;
3. Lập hồ sơ lưu giữ và theo dõi đúng quy định.
Điều 5.- Nơi làm việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại dễ gây tai nạn lao động
theo Điều 100 của Bộ Luật Lao động được quy định như sau:
1. Phải có đủ trang bị phương tiện kỹ thuật, y tế thích hợp như thuốc,
bông, băng, băng ca, mặt nạ phòng độc, xe cấp cứu;
2. Có phương án dự phòng xử lý các sự cố có thể xảy ra;
3. Phải tổ chức đội cấp cứu;
4. Đội cấp cứu và người lao động phải được thường xuyên tập luyện.
Đối với các đơn vị nhỏ, người sử dụng lao động tự tổ chức hoặc liên
kết với các đơn vị lân cận, các tổ chức cấp cứu của địa phương để giải quyết
các sự cố khẩn cấp, nhưng vẫn phải tổ chức sơ cứu tại chỗ.
Điều 6.- Người lao động làm công việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại phải
được trang cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân đúng quy cách và chất
lượng theo tiêu chuẩn, danh mục do Bộ Lao động - Thương binh và xã hội
quy định.
Điều 7.- Việc định kỳ khám sức khoẻ, huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh
lao động theo Điều 102 của Bộ Luật Lao động quy định như sau:
1. Phải khám sức khoẻ cho người lao động, kể cả người học nghề, tập
nghề,ít nhất một lần trong một năm, đối với người làm công việc nặng nhọc,
độc hại hại thì ít nhất 6 tháng 1 lần.
Việc khám sức khoẻ phải do các đơn vị y tế Nhà nước thực hiện.
2. Trước khi nhận việc, người lao động, kể cả người học nghề, tập
nghề, phải được hướng dẫn, huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Sau đó căn cứ vào công việc của từng người đảm nhiệm mà huấn luyện,
hướng dẫn các biện pháp đảm bảo an toàn, vệ sinh phù hợp và phải được
kiểm tra thực hành chặt chẽ.
Nghiêm cấm việc sử dụng người lao động chưa được huấn luyện và chưa
được cấp thẻ an toàn làm công việc có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn lao
động, vệ sinh lao động.
Việc tổ chức huấn luyện, mở lớp huấn luyện phải theo sự hướng dẫn của Bộ
Lao động - Thương binh và Xã hội.
Điều 8.- Bồi dưỡng bằng hiện vật theo Điều 104 của Bộ Luật Lao động được
quy định như sau:
1. Bồi dưỡng đúng số lượng, cơ cấu theo quy định của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế;
2. Bồi dưỡng tại chỗ theo ca làm việc;
3. Cấm trả tiền thay bồi dưỡng bằng hiện vật.
CHƯƠNG III
TAI NẠN LAO ĐỘNG VÀ BỆNH NGHỀ NGHIỆP
Điều 9.- Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai nạn lao
động theo Điều 105 của Bộ Luật Lao động được quy định như sau:
1. Kịp thời sơ cứu, cấp cứu tại chỗ người bị tai nạn lao động, sau đó
phải chuyển ngay đến cơ sở y tế;
2. Trường hợp xảy ra tai nạn lao động chết người hoặc làm nhiều bị
thương nặng thì phải giữ nguyên hiện trường nơi xảy ra tai nạn lao động và
báo ngay với cơ quan Thanh tra Nhà nước về lao động và cơ quan Công an
địa phương.
Điều 10.- Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị bệnh
nghề nghiệp theo Điều 106 của Bộ Luật Lao động được quy định như sau:
1. Người bị bệnh nghề nghiệp được điều trị theo chuyên khoa.
2. Sau khi điều trị, tuỳ theo danh mục các loại bệnh nghề nghiệp, ít nhất
cũng được khám sức khoẻ 6 tháng một lần và được lập hồ sơ sức khoẻ riêng
biệt.
Nội dung hồ sơ và chế độ quản lý, lưu trữ hồ sơ do Bộ Y tế quy định.
Điều 11.- Việc bồi thường cho người lao động bị tai nạn lao động hoặc bệnh
nghề nghiệp theo quy định tại khoản 3 Điều 107 của Bộ luật lao động đã sửa
đổi, bổ sung được quy định như sau:
1. Người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường cho người lao
động bị tai nạn lao động hoặc bệnh nghề nghiệp:
a) Ít nhất bằng 30 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) cho
người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân
nhân người lao động chết do tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp mà không do
lỗi của người lao động. Trong trường hợp do lỗi trực tiếp của người lao động
thì cũng được trợ cấp một khoản tiền ít nhất cũng bằng 12 tháng tiền lương và
phụ cấp lương (nếu có).
b) Ít nhất bằng 1,5 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) cho
người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%; nếu bị suy
giảm khả năng lao động từ trên 10% đến dưới 81% thì cứ tăng 1% được cộng
thêm 0,4 tháng tiền lương và phụ cấp lương (nếu có) mà không do lỗi của
người lao động. Trường hợp do lỗi của người lao động, thì cũng được trợ cấp
một khoản ít nhất bằng 40% mức bồi thường đã quy định theo các tỷ lệ tương
ứng nêu trên.
c) Tiền lương làm căn cứ tính tiền bồi thường theo mục a, b của khoản
1 Điều 11 là tiền lương theo hợp đồng lao động, được tính bình quân
của 6 tháng liền kề trước khi tai nạn lao động xảy ra hoặc trước khi
được xác định bị bệnh nghề nghiệp, gồm lương cấp bậc, chức vụ, phụ
cấp khu vực, phụ cấp chức vụ (nếu có) theo quy định hiện hành của
chính phủ.
Trường hợp thời gian làm việc không đủ để tính tiền lương theo hợp đồng
bình quân của 6 tháng liền kề, thì lấy mức tiền lương của tháng liền kề hoặc
tiền lương theo hình thức trả lương tại thời điểm xảy ra tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp để tính bồi thường, trợ cấp tai nạn, bệnh nghề nghiệp.
2. Trường hợp doanh nghiệp tuyển hoặc nhận người vào học nghề, tập
nghề để làm việc tại doanh nghiệp theo quy định tại Khoản 2 Điều 23 của Bộ
Luật Lao động, nếu trong quá trình học nghề, tập nghề bị tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp thì người sử dụng lao động có trách nhiệm bồi thường hoặc
trợ cấp cho họ theo quy định tại mục a, b khoản 1 Điều 11. Tiền lương để bồi
thường hoặc trợ cấp trong trường hợp này là mức lương tối thiểu của doanh
nghiệp, cơ quan, tổ chức, đơn vị áp dụng tại thời điểm xảy ra tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp.
Trong trường hợp mức lương nghề, tập nghề được thoả thuận theo hợp đồng
giữa người sử dụng lao động và người học nghề, tập nghề cao hơn mức lương
tối thiểu của doanh nghiệp thì tính theo mức lương đã thoả thuận.
3. Bộ lao động – Thương binh và xã hội hướng dẫn việc lập hồ sơ và
thủ tục bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Điều 12.- Việc điều tra, lập biên bản, thống kê, báo cáo các vụ tai nạn lao
động hoặc bệnh nghề nghiệp theo Điều 108 của Bộ Luật Lao động được quy
định như sau:
1. Khi xảy ra tai nạn lao động, người sử dụng lao động phải tổ chức
việc điều tra, lập biên bản, có sự tham gia của đại diện Ban Chấp hành Công
đoàn cơ sở hoặc Ban Chấp hành Công đoàn lâm thời theo hướng dẫn của Bộ
lao động – Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế và Tổng Liên đoàn Lao động Việt
Nam.
Biên bản phải ghi đầy đủ diễn biến của vụ tai nạn, thương tích nạn nhân, mức
độ thiệt hại, nguyên nhân xảy ra, quy trách nhiệm để xảy ra tai nạn, có chữ ký
của người sử dụng lao động và đại diện Ban Chấp hành Công đoàn cơ sở.
2. Tất cả các vụ tai nan lao động, các trường hợp bị bệnh nghề nghiệp
đều phải được khai báo, thống kê và báo cáo theo quy định của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội và Bộ Y tế.
CHƯƠNG IV
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA NGƯỜI
SỬ DỤNG LAO ĐỘNG, NGƯỜI LAO ĐỘNG
Điều 13.- Người sử dụng lao động có nghĩa vụ:
1. Hàng năm, khi xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp phải lập kế hoạch, biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động và cải
thiện điều kiện lao động;
2. Trang bị đầy đủ phương tiện bảo vệ cá nhân và thực hiện các chế độ
khác về an toàn lao động, vệ sinh lao động đối với người lao động theo quy
định của Nhà nước;
3. Cử người giám sát việc thực hiện các quy định nội dung, biện pháp
an toàn lao động, vệ sinh lao động trong doanh nghiệp; phối hợp với công
đoàn cơ sở xây dựng và duy trì sự hoạt động của mạng lưới an toàn và vệ sinh
viên;
4. Xây dựng nội quy, quy trình an toàn lao động, vệ sinh lao động phù
hợp với từng loại máy, thiết bị, vật tư kể cả khi đổi mới công nghệ, máy, thiết
bị, vật tư và nơi làm việc theo tiêu chuẩn quy định của Nhà nước;
5. Tổ chức huấn luyện, hướng dẫn các tiêu chuẩn, quy định, biện pháp
an toàn, vệ sinh lao động đối với người lao động;
6. Tổ chức khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động theo tiêu chuẩn,
chế độ quy định;
7. Chấp hành nghiêm chỉnh chế độ khai báo, điều tra tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp và định kỳ 6 tháng, hàng năm báo cáo kết quả tình hình an
toàn lao động, vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện lao động với Sở Lao động
- Thương binh và Xã hội nơi doanh nghiệp hoạt động.
CHƯƠNG IV
QUYỀN VÀ NGHĨA VỤ CỦA
NGƯỜI SỬ DỤNG LAO ĐỘNG, NGƯỜI LAO ĐỘNG
Điều 14.- Người sử dụng lao động có quyền:
1. Buộc người lao động phải tuân thủ các quy định, nội quy, biện pháp
an toàn lao động, vệ sinh lao động;
2. Khen thưởng người chấp hành tốt và kỷ luật người vi phạm trong
việc thực hiện an toàn lao động, vệ sinh lao động;
3. Khiếu nại với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về quyết định của
Thanh tra viên lao động nhưng vẫn phải nghiêm chỉnh chấp hành quyết định
đó.
Điều 15.- Người lao động có nghĩa vụ:
1. Chấp hành những quy định, nội quy về an toàn lao động, vệ sinh lao
động có liên quan đến công việc, nhiệm vụ được giao;
2. Phải sử dụng và bảo quản các phương tiện bảo vệ cá nhân đã được
trang cấp, các thiết bị an toàn, vệ sinh nơi làm việc, nếu làm mất hoặc hư
hỏng thì phải bồi thường;
3. Phải báo cáo kịp thời với người có trách nhiệm khi phát hiện nguy cơ
gây tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, gây độc hại hoặc sự cố nguy hiểm,
tham gia cấp cứu và khắc phục hậu quả tai nạn lao động khi có lệnh của người
sử dụng lao động.
Điều 16.- Người lao động có quyền:
1. Yêu cầu người sử dụng lao động bảo đảm điều kiện lao động an toàn,
vệ sinh, cải thiện điều kiện lao động; trang cấp đầy đủ phương tiện bảo vệ cá
nhân, huấn luyện, thực hiện biện pháp an toàn lao động, vệ sinh lao động;
2. Từ chối làm công việc hoặc rời bỏ nơi làm việc khi thấy rõ có nguy
cơ xảy ra tai nạn lao động, đe doạ nghiêm trọng tính mạng, sức khoẻ của
mình và phải báo ngay với người phụ trách trực tiếp; từ chối trở lại làm việc
nơi nói trên nếu những nguy cơ đó chưa được khắc phục;
3. Khiếu nại hoặc tố cáo các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khi
người sử dụng lao động vi phạm quy định của Nhà nước hoặc không thực
hiện đúng các giao kết về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong hợp đồng
lao động, thoả ước lao động.
CHƯƠNG V
TRÁCH NHIỆM CỦA CÁC CƠ QUAN NHÀ NƯỚC
Điều 17.- Việc lập chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao
động, vệ sinh lao động theo khoản 2 Điều 95 của Bộ Luật lao động được quy
định như sau:
1. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế phối hợp với các Bộ,
ngành liên quan xây dựng Chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn
lao động, vệ sinh lao động trình Chính phủ phê duyệt đưa vào kế hoạch phát
triển kinh tế - xã hội.
2. Hàng năm, căn cứ vào Chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an
toàn lao động, vệ sinh lao động đã được phê duyệt, Bộ Lao động - Thương
binh và Xã hội phối hợp với Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước và Bộ Tài chính lập
kế hoạch kinh phí đầu tư cho Chương trình này để đưa vào kế hoạch ngân
sách Nhà nước.
Điều 18.- Thủ tướng Chính phủ thành lập Hội đồng quốc gia về an toàn lao
động, vệ sinh lao động làm nhiệm vụ tư vấn cho Thủ tướng chính phủ và tổ
chức phối hợp hoạt động của các ngành, các cấp về an toàn lao động, vệ sinh
lao động. Thành phần của Hội đồng do Thủ tướng Chính phủ quyết định.
Điều 19.- Quản lý Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động theo các
Điều 180 và 181 cảu Bộ Luật lao động được quy định như sau:
1. Bộ Lao động - thương binh và Xã hội có trách nhiệm xây dựng, trình
cơ quan có thẩm quyền ban hành hoặc ban hành các văn bản pháp luật, các
chính sách, chế độ về bảo hộ lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động;
xây dựng, ban hành và quản lý thống nhất hệ thống quy phạm Nhà nước về an
toàn lao động, tiêu chuẩn phân loại lao động theo điều kiện lao động; hướng
dẫn các ngành, các cấp thực hiện kiểm tra về an toàn, vệ sinh lao động; thực
hiện thanh tra nhà nước về lao động; tổ chức thông tin, huấn luyện về an toàn
lao động, vệ sinh lao động; hợp tác với nước ngoài và các tổ chức quốc tế
trong lĩnh vực an toàn lao động;
2. Bộ Y tế có trách nhiệm xây dựng, ban hành và quản lý thống nhất
các văn bản quy phạm pháp luật, hệ thống tiêu chuẩn vệ sinh lao động, tiêu
chuẩn sức khoẻ đối với các nghề, các công việc; hướng dẫn chỉ đạo các
ngành, các cấp thực hiện về vệ sinh lao động, chăm sóc sức khoẻ cho người
lao động; hướng dẫn việc tổ chức khám sức khoẻ định kỳ, khám sức khoẻ khi
tuyển dụng lao động, khám phát hiện bệnh nghề nghiệp; hướng dẫn việc tổ
chức điều trị và phục hồi chức năng đối với người lao động bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp; hợp tác với nước ngoài và các tổ chức quốc tế trong
lĩnh vực vệ sinh lao động;
3. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường có trách nhiệm quản lý
thống nhất việc nghiên cứu và ứng dụng khoa học kỹ thuật về an toàn lao
động, vệ sinh lao động; ban hành hệ thống tiêu chuẩn chất lượng, quy cách
các phương tiện bảo vệ cá nhân trong lao động; phối hợp với Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội, Bộ Y tế xây dựng ban hành và quản lý thống nhất hệ
thống tiêu chuẩn kỹ thuật Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động;
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo có trách nhiệm chỉ đạo việc đưa nội dung an
toàn lao động, vệ sinh lao động vào chương trình giảng dạy trong các trường
đại học, các trường kỹ thuật, nghiệp vụ, quản lý và dạy nghề;
5. Các Bộ, cơ quan ngang Bộ có trách nhiệm xây dựng, ban hành,
hướng dẫn áp dụng hệ thống tiêu chuẩn quy phạm an toàn lao động, vệ sinh
lao động cấp ngành. Trước khi ban hành các tiêu chuẩn, quy phạm an toàn lao
động, vệ sinh lao động cấp ngành phải có sự tham gia của Bộ Lao động -
Thương binh và Xã hội đối với tiêu chuẩn, quy phạm an toàn lao động, Bộ Y
tế đối với tiêu chuẩn, quy phạm vệ sinh lao động.
6. Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện
quản lý Nhà nước về an toàn lao động, vệ sinh lao động trong phạm vi địa
phương mình; xây dựng các mục tiêu bảo đảm an toàn, vệ sinh và cải thiện
điều kiện lao động đưa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách
của địa phương.
CHƯƠNG VI
TRÁCH NHIỆM CỦA TỔ CHỨC CÔNG ĐOÀN
Điều 20.- Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam tham gia với cơ quan Nhà
nước xây dựng Chương trình quốc gia về bảo hộ lao động, an toàn lao động,
vệ sinh lao động; xây dựng chương trình nghiên cứu khoa học và xây dựng
pháp luật, chính sách, chế độ về bảo hộ lao động, an toàn lao động và vệ sinh
lao động.
Điều 21.-
1. Tổ chức công đoàn phối hợp với cơ quan lao động - thương binh và
xã hội, cơ quan y tế cùng cấp tham gia kiểm tra, giám sát việc quản lý Nhà
nước, việc thi hành các quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động; tham
gia điều tra tai nạn lao động;
2. Công đoàn cơ sở có trách nhiệm giáo dục, vận động người lao động
chấp hành nghiêm chỉnh các quy định, nội quy về an toàn lao động, vệ sinh
lao động; xây dựng phong trào bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động trong doanh
nghiệp, đơn vị; xây dựng và duy trì hoạt động của mạng lưới an toàn và vệ
sinh viên.
CHƯƠNG VII
ĐIỀU KHOẢN THI HÀNH
Điều 22.- Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 1 tháng 1 năm 1995. Những
quy định trước đây về an toàn lao động, vệ sinh lao động trái với Bộ Luật lao
động và Nghị định này đều bãi bỏ.
Điều 23.- Bộ trưởng Bộ Lao đông - Thương binh và Xã hội, Bộ trưởng Bộ Y
tế chịu trách nhiệm hướng dẫn thi hành Nghị định này.
Điều 24.- Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ quan
thuộc Chính phủ, Chủ tịch Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương chịu trách nhiệm thi hành Nghị định này.
Đã được sửa đổi theo Nghị định số 110/2002/NĐ-CP ngày 27/12/2002. Có
hiệu lực từ ngày 01/01/2003.
2. Tai nạn lao động và phân loại tai nạn lao động
2.1. Tai nạn lao động
a) Tai nạn lao động: xảy ra do tác động bởi các yếu tố nguy hiểm, độc
hại trong LÐ gây tổn thương cho bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể
người LÐ hoặc gây tử vong trong quá trình LÐ gắn liền với việc thực hiện
công việc, nhiệm vụ LÐ kể cả trong thời gian khác theo quy định của Bộ luật
LÐ như: nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt,
tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh, thời gian chuẩn bị, kết thúc công việc tại nơi
làm việc.
b) Ðược coi là TNLÐ: Tai nạn xảy ra khi người LÐ đi từ nơi ở đến nơi
làm việc, từ nơi làm việc về nơi ở vào thời gian và tại địa điểm hợp lý (trên
tuyến đường đi và về thường xuyên hàng ngày) hoặc tai nạn do những nguyên
nhân khách quan như thiên tai, hoả hoạn và các trường hợp rủi ro khác gắn
liền với việc thực hiện các công việc, nhiệm vụ LÐ.
2.2. Phân loại tai nạn lao động
a) Tai nạn lao động chết người: Người bị tai nạn chết ngay tại nơi xảy
ra tai nạn; chết trên đường đi cấp cứu; chết trong thời gian cấp cứu; chết trong
thời gian đang điều trị; chết do tái phát của chính vết thương do TNLÐ gây ra
trong thời gian được quy định tại tiết i, điểm 3.1 mục II (người LÐ còn đang
làm cho người sử dụng LÐ)
b) Tai nạn lao động nặng: Người bị tai nạn bị ít nhất một trong những
chấn thương được quy định tại Phụ lục.
c) Tai nạn lao động nhẹ: Người bị tai nạn không thuộc 2 loại tai nạn lao
động nói trên.
II. NHỮNG QUY ÐỊNH CỤ THỂ
1. Khai báo tai nạn lao động
1.1. Khi tai nạn lao động xảy ra, người bị TNLÐ hoặc người cùng làm
việc (người lao động, người quản lý), người biết sự việc phải báo ngay cho
người sử dụng LÐ của cơ sở biết để kịp thời khai báo theo quy định của
Thông tư này.
1.2. Khi xảy ra TNLÐ chết người, TNLÐ nặng thì cơ sở để xảy ra
TNLÐ (trừ các cơ sở có các lĩnh vực nêu ở điểm 1.3 dưới đây) phải khai báo
bằng cách nhanh nhất (điện thoại, fax, công điện...) với Thanh tra Sở LÐ-
TBXH, cơ quan Công an cấp huyện nơi xảy ra TNLÐ và cơ quan quản lý cấp
trên trực tiếp (nếu có). TNLÐ xảy ra ở địa phương nào thì khai báo tại địa
phương đó.
PHẦN VI
NHỮNG ĐIỀU QUY ĐỊNH CHO TẤT CẢ
NHỮNG NGƯỜI LÀM CÔNG TÁC VỀ ĐIỆN
PHẠM VI ÁP DỤNG QUY TRÌNH
Điều 1: Quy trình này được áp dụng cho tất cả cán bộ, công nhân viên trực
tiếp quản lý vận hành, sửa chữa, thí nghiệm và xây dựng đường dây, trạm
điện của Tổng công ty điện lực Việt Nam. Quy trình này cũng được áp dụng
đối với nhân viên của các tổ chức khác đến làm việc ở công trình và thiết bị
điện do Tổng công ty điện lực Việt Nam quản lý.
Đối với các nhà máy điện của Tổng công ty, ngoài quy trình này, cán bộ,
nhân viên kỹ thuật phải nắm vững và sử dụng tập 1 oQuy phạm kỹ thuật an
toàn khai thác thiết trí điện các nhà máy điện và lưới điện.
Những quy định trong quy trình này chủ yếu nhằm đảm bảo phòng tránh
các tai nạn do điện gây ra đối với con người.
Khi biên soạn các quy trình kỹ thuật an toàn cho từng loại công việc cụ thể
phải đưa vào biện pháp phòng tránh không chỉ tai nạn về điện, mà còn các
yếu tố nguy hiểm khác xảy ra lúc tiến hành công việc.
Tất cả những điều trong các quy trình kỹ thuật an toàn điện đã ban hành
trước đây trái với quy trình này đều không có giá trị thực hiện.
Điều 2: Trong quy trình, thiết bị điện chia làm hai loại:
Điện cao áp quy ước từ 1000 V trở lên và điện hạ áp quy ước dưới 1000 V.
Trong điều kiện bình thường nếu con người tiếp xúc trực tiếp với thiết bị có
điện áp xoay chiều từ 50 V trở lên là có thể nguy hiểm đến tính mạng.
Điều 3: Nghiêm cấm việc chỉ thị hoặc ra mệnh lệnh cho những người chưa
được học tập, sát hạch quy trình và chưa hiểu rõ những việc sẽ phải thừa
hành.
Điều 4: Những mệnh lệnh trái với quy trình này thì có quyền không chấp
hành. Người thực hiện phải đưa ra những lý do không chấp hành được với
người ra lệnh, đồng thời báo cáo với cấp trên.
Điều 5: Khi phát hiện cán bộ, công nhân vi phạm quy trình hoặc có hiện
tượng đe dọa đến tính mạng con người và thiết bị, phải lập tức ngăn chặn,
đồng thời báo cáo với cấp trên.
Điều 6: Đơn vị trưởng, tổ trưởng, cán bộ kỹ thuật có nhiệm vụ kiểm tra và đề
ra các biện pháp an toàn lao động trong đơn vị của mình. Cán bộ an toàn của
đơn vị có trách nhiệm và quyền kiểm tra, lập biên bản hoặc ghi phiếu thông
báo an toàn để nhắc nhở. Trường hợp vi phạm các biện pháp an toàn có thể
dẫn đến tai nạn thì đình chỉ công việc cho đến khi thực hiện đầy đủ các biện
pháp bảo đảm an toàn mới được tiếp tục tiến hành công việc.
Điều 7: Dụng cụ an toàn cần dùng phải phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật do
Nhà nước ban hành (xem trong phần phụ lục quy trình).
NHỮNG ĐIỀU KIỆN ĐƯỢC CÔNG TÁC
TRONG NGÀNH ĐIỆN
Điều 8: Những người trực tiếp làm công việc quản lý vận hành, thí nghiệm,
sửa chữa, xây dựng điện phải có sức khoẻ tốt và có giấy chứng nhận về thể
lực của cơ quan y tế.
Điều 9: Hàng năm các đơn vị phải tổ chức khám sức khoẻ cho cán bộ, công
nhân:
- 1 lần đối với công nhân quản lý vận hành, sửa chữa.
- 2 lần đối với cán bộ, công nhân làm thí nghiệm, công nhân chuyên môn
làm việc trên đường dây.
- Đối với những người làm việc ở đường dây cao trên 50 m, trước khi làm
việc phải khám lại sức khoẻ.
Điều 10: Khi phát hiện thấy công nhân có bệnh thuộc loại thần kinh, tim,
mạch, thấp khớp, lao phổi, thì tổ chức phải điều động công tác thích hợp.
Điều 11: Nhân viên mới phải qua thời gian kèm cặp của nhân viên có kinh
nghiệm để có trình độ kỹ thuật cần thiết, sau đó phải được sát hạch vấn đáp
trực tiếp, đạt yêu cầu mới được giao nhiệm vụ.
Điều 12: Công nhân, kỹ thuật viên, kỹ sư trực tiếp sản xuất phải được kiểm
tra kiến thức về quy trình kỹ thuật an toàn mỗi năm 1 lần. Giám đốc uỷ nhiệm
cho đơn vị trưởng tổ chức việc huấn luyện và sát hạch trong đơn vị mình.
Kết quả các lần sát hạch phải có hồ sơ đầy đủ để quyết định công nhận
được phép làm việc với thiết bị và có xếp bậc an toàn.
Điều 13: Các trưởng, phó đội sản xuất, chi nhánh điện (hoặc các cấp tương
đương), kỹ thuật viên, hai năm được sát hạch kiến thức quy trình kỹ thuật an
toàn một lần do hội đồng kiểm tra kiến thức của xí nghiệp tổ chức và có xếp
bậc an toàn (tiêu chuẩn xếp bậc an toàn xem ở phần Phụ lục 4).
Điều 14: Trong khi làm việc với đồng đội hoặc khi không làm nhiệm vụ, nếu
thấy người bị tai nạn điện giật thì bất cứ người nào cũng phải tìm biện pháp
để cấp cứu nạn nhân ra khỏi mạch điện và tiếp tục cứu chữa theo những
phương pháp trình bày ở Phụ lục 1 qui trình này.
V- CÔNG VIỆC LÀM TRÊN CÁC CẦU DAO CÁCH LY, MÁY NGẮT
CÓ BỘ ĐIỀU KHIỂN TỪ XA
Điều 147: Khi làm việc trên cầu dao cách ly có bộ phận truyền động điều
khiển từ xa cần áp dụng những biện pháp ngăn ngừa việc đóng nhầm lẫn, cụ
thể là :
1- Phải có phiếu công tác.
2- Phải mắc đủ số lượng dây tiếp đất và treo đủ các biển cấm cần thiết.
Sau khi thực hiện đủ nội dung trên mới làm thủ tục cho phép đơn vị công
tác vào làm việc.
Điều 148: Làm việc trên máy ngắt thì biện pháp an toàn là:
- Phải có lệnh cho phép máy ngắt tách khỏi vận hành.
- Phải có phiếu công tác.
- Phải gỡ cầu chì điều khiển máy ngắt.
- Phải cắt các cầu dao cách ly trước và sau máy ngắt.
- Nếu là máy ngắt không khí phải khoá các van dồn khí nén đến máy, xả
phần khí nén có sẵn trong máy và treo biển: oCấm mở van! có người đang
làm việc
- Treo biển: oCấm đóng điện! có người đang làm việc vào khoá điều
khiển máy ngắt.
Điều 149: Để tiến hành thử, điều chỉnh việc đóng, cắt máy ngắt, người chỉ
huy trực tiếp được phép lắp cầu chì mạch điều khiển và phục hồi khí nén
trong bình nhưng phải được sự đồng ý của nhân viên vận hành.
Điều 150: Khi có người làm việc trong bình chứa khí thì phải khoá các van
dẫn khí vào bình và treo biển oCấm mở van! có người đang làm việc.
Điều 151: Cấm làm việc ở các máy ngắt đang vận hành (kể cả việc lau chùi
sứ cách điện bằng chổi lông gắn trên sào cách điện).
Điều 152: Không được lau chùi máy nén khí cũng như sửa chữa nhỏ lúc
máy đang làm việc. Chỉ được phép tra dầu mỡ khi máy đang làm việc với
điều kiện có đầy đủ dụng cụ và phương tiện đảm bảo an toàn.
V- LÀM VIỆC VỚI ẮC QUY VÀ THIẾT BỊ NẠP ĐIỆN
Điều 153: Khi không có người làm việc thì buồng ắc quy phải khoá lại,
chìa khoá phải giao cho người phụ trách hoặc những người chuyên trách kiểm
tra giữ.
Điều 154: Buồng chứa ắc quy phải có đủ các hệ thống quạt gió, thông hơi,
các bình ắc quy lưu động có điện áp 24 V đến 6 V có thể đặt trong tủ có hệ
thống quạt gió. Đối với loại ắc qui được chế tạo theo công nghệ mới thì biên
soạn qui trình riêng theo qui định của nhà chế tạo.
Điều 155: Cấm hút thuốc, sử dụng bật lửa, lò sưởi trong buồng chứa ắc
quy, trên cửa buồng ắc quy phải đề rõ: oBuồng ắc quy-Cấm lửa.
Điều 156: Không được để đồ đạc làm cản các cửa thông gió, các lối đi giữa
các giá trong buồng ắc quy.
Điều 157: Trước khi nạp và sau khi nạp ắc quy phải mở quạt thông gió ít
nhất là 90 phút. Nếu phát hiện còn hơi độc thì không được ngừng quạt. Buồng
ắc quy làm việc theo phương pháp thường xuyên nạp và phóng thì trong 1 ca
phải định kỳ mở quạt thông gió ít nhất 2 lần, mỗi lần 0 phút.
Điều 158: Được phép để nước cất và 1 ít dung dịch trung hoà ở chỗ cửa ra
vào của buồng ắc quy.
Điều 159: Trên thành các bình chứa các loại dung dịch, nước cất đều phải
ghi rõ ràng từng loại bằng sơn chống axít.
Điều 160: Axít đậm đặc phải để trong các buồng riêng, trong buồng ngoài
axít ra chỉ được phép để dung dịch trung hoà, axít phải để trong các bình thuỷ
tinh hay sành sứ, đóng nút cẩn thận và phải đặt trong các giá có quai xách.
Điều 161: Làm việc với axít phải do người chuyên nghiệp đảm nhiệm, vận
chuyển bình axít phải có hai người, chú ý kiểm tra đường đi trước để tránh
trơn, trượt ngã hoặc làm đổ bình.
Điều 162: Khi rót axít ra khỏi bình phải có phương tiện giữ bình để khỏi đổ
vỡ. Bình chứa axít phải thật khô và sạch sẽ.
Khi pha chế axít thành dung dịch phải rót từng tia nhỏ axít theo đũa thuỷ
tinh vào bình nước cất và luôn luôn quấy để toả nhiệt tốt.
Cấm đổ nước cất vào axít để pha chế thành dung dịch.
Điều 163: Khi dùng chỉnh lưu xêlen không được tháo vỏ bọc làm công việc
gì trên những bộ phận dẫn điện lúc chưa ngắt mạch chỉnh lưu.
Điều 164: Những công việc làm trong buồng ắc quy phải do công nhân ắc
quy phụ trách. Trường hợp cần nhân viên sửa chữa hoặc thí nghiệm vào
buồng ắc quy làm việc thì nhất thiết phải có nhân viên vận hành ắc qui đứng
giám sát an toàn.
VI- LÀM VIỆC VỚI TỤ ĐIỆN VÀ BẢO VỆ TỤ ĐIỆN
Điều 165: Đóng và cắt các tụ điện cao áp do hai nhân viên có trình độ bậc
an toàn trở lên thực hiện. Nghiêm cấm dùng cầu dao cách ly thường để đóng
và cắt các tụ điện cao áp. Cấm lấy mẫu dầu khi tụ điện đang vận hành.
Điều 166: Khi máy ngắt bảo vệ cho bộ tụ điện làm việc hoặc cầu chì bảo
vệ bị cháy thì chỉ được phép đóng lại sau khi đã tìm được nguyên nhân và sửa
chữa.
Điều 167: Trường hợp cắt tụ điện để sửa chữa, nhất thiết phải phóng điện
các tụ điện bằng thanh dẫn kim loại có tiết diện tối thiểu 25 mm 2 và tối đa 250
mm2. Thanh này phải ghép chặt vào mỏ sào cách điện. Sào này có tiêu chuẩn
thao tác ở điện áp làm việc của tụ điện. Nếu tụ điện có bảo vệ riêng từng bình
hoặc từng nhóm thì phải phóng điện riêng từng bình hoặc từng nhóm.
Lưu ý: Khi phóng điện tích dư của tụ điện cần có điện trở hạn chế, sau đó
mới phóng trực tiếp xuống đất để tránh hư hỏng tụ.
Điều 168: Nếu hệ thống tụ điện đặt chung với trạm biến áp thì phải đặt các
bộ tụ điện riêng một buồng và có xây tường ngăn cách hẳn với buồng đặt thiết
bị khác để ngăn ngừa hỏa hoạn.
BIỆN PHÁP AN TOÀN KHI LÀM CÔNG TÁC QUẢN LÝ, VẬN
HÀNH, SỬA CHỮA ĐƯỜNG DÂY CAO, HẠ ÁP
- NHỮNG BIỆN PHÁP AN TOÀN CHUNG KHI TIẾN HÀNH CÔNG
TÁC TRÊN ĐƯỜNG DÂY CAO, HẠ ÁP
Điều 169: Kiểm tra định kỳ đường dây phải đi 2 người, phải luôn luôn xem
như đường dây đang có điện. Kiểm tra tiến hành trên mặt đất. Trường hợp cần
thiết trèo lên cột thì phải đảm bảo khoảng cách an toàn quy định. Nếu đi kiểm
tra ban đêm phải có đèn soi, đi cách đường dây 5 m và đi phía trước hướng
gió thổi. Ban đêm không được trèo lên cột.
Điều 170: Khi thấy dây dẫn đứt rơi xuống đất hoặc còn lơ lửng thì phải tìm
mọi biện pháp để ngăn ngừa mọi người không được tới gần quá 10 m kể cả
bản thân mình. Nơi có người qua lại thì phải cử 1 người đứng gác và phải báo
ngay cho điều độ cơ sở biết. Nếu giao cho người địa phương đứng gác thì
phải giải thích kỹ biện pháp an toàn cho họ.
Điều 171: Khi trèo lên cột phải biết sơ bộ sức bền của móng cột, cấm trèo
lên cột vừa mới dựng nếu không được phép của người phụ trách, cấm trèo về
phía đặt tay xà, cấm trèo và làm việc về phía góc trong của dây dẫn trên cột
một trụ có sứ kim.
Điều 172: Khi công tác trên chuỗi sứ, chỉ cho phép người di chuyển dọc
chuỗi sứ, sau khi đã xem xét kỹ chuỗi sứ, không có vết nứt ở đầu sứ hay các
phụ kiện khác, các móc nối, khoá, chốt còn tốt và đủ.
Điều 173: Trước khi di chuyển trên xà bằng gỗ phải đeo dây an toàn chính
và thêm dây an toàn phụ buộc vào đầu cột (dây an toàn phụ cũng phải thử
nghiệm như dây an toàn chính). Phải kiểm tra cột và xà trước khi trèo lên làm
việc.
Điều 174: Khi tiến hành công tác trên đường dây vượt đường sắt, đường
bộ, đường sông phải áp dụng các biện pháp dưới đây:
1- Giao chéo với đường sắt, đường sông phải báo trước cho cơ quan quản
lý và mời đại diện của họ tới điểm công tác để phối hợp, đảm bảo an toàn cho
2 bên.
2- Giao chéo với đường bộ phải cử người cầm cờ đỏ (hoặc đèn đỏ nếu là
ban đêm) đứng hai phía nơi công tác, cách 100 m để báo hiệu. Nếu đường có
nhiều xe qua lại phải bắc dàn giáo.
Điều 175: Trên đường dây đã được cắt điện, trường hợp cần thiết cho phép
làm việc ban đêm với điều kiện có đủ ánh sáng.
Khi có giông, bão hoặc sắp có giông, bão người phụ trách phải dẫn đội
công tác ra xa đường dây, cấm làm việc trên đường dây khi có gió cấp 4 trở
lên hoặc có mưa nặng hạt, nước chảy thành dòng trên người và thiết bị.
Điều 176: Chặt cây dọc đường dây phải tuân theo những quy định sau:
- Người chưa được huấn luyện, chưa có kinh nghiệm không được chặt
cây.
- Người chỉ huy trực tiếp đơn vị công tác có nhiệm vụ thông báo cho
nhân viên biết về nguy hiểm khi trèo lên cây, khi cây và dây thừng tiếp xúc
với dây điện.
- Cấm chặt cây khi có gió cấp 4 trở lên, cấm cưa cây sẵn hàng loạt rồi
làm đổ cây bằng cách cho cây này làm đổ cây kia. Cấm đứng ở phía cây đổ và
phía đối diện. Để tránh cây khỏi đổ vào đường dây phải dùng dây thừng buộc
và kéo về phía đối diện với đường dây dẫn.
- Khi chặt cây phải chặt cành mục, cây mục trước, khi cây sắp đổ, cành
gãy phải báo cho người xung quanh biết.
- Khi chặt cây phải dùng dây để buộc chuôi dao với cổ tay tránh rơi vào
người khác. Dây an toàn phải được buộc vào cành cây hoặc thân cây chắc
chắn.
- Khi chặt cây, chặt cành có khả năng rơi vào đường dây thì phải cắt điện.
Nếu không cắt điện thì phải có biện pháp để hạ cành an toàn.
- Chặt cây trong hành lang an toàn đường dây cao áp thì phải có phiếu
công tác.
Điều 177: Được phép tiến hành đo tiếp đất khi đường dây đang vận hành
nhưng phải đảm bảo các điều kiện sau:
- Khi trời không có mưa, giông, sét.
- Khi tháo dây tiếp đất trên đường dây có bảo vệ bằng dây chống sét thì
phải đeo găng tay cách điện hoặc trước khi tháo, đấu dây tiếp đất ở cột phải
nối tắt tạm thời đầu dây tiếp đất đó vào một cọc tiếp đất bằng một đoạn dây
dẫn có tiết diện tối thiểu 10 mm2.
Điều 178: Mọi công tác trên đường dây cao áp phải có hai người thực hiện,
cho phép một người tiến hành các công việc như: treo biển báo, sửa chân cột,
đánh số cột ... mà không trèo lên cột cao quá m và không sửa chữa các cấu
kiện của cột.
- NHỮNG BIỆN PHÁP AN TOÀN KHI CÔNG TÁC
TRÊN ĐƯỜNG DÂY CAO ÁP ĐANG VẬN HÀNH
VÀ GẦN ĐƯỜNG DÂY ĐANG CÓ ĐIỆN
-1. Công tác trên đường dây đang vận hành
Điều 179: Công tác trên đường dây đang vận hành được phân loại như sau:
179-1 Những công việc tại móng cột và trèo lên cột không quá m. Không
tháo dỡ các cấu kiện cột thì cho phép tiến hành không cần phiếu công tác và
chỉ cần một người có trình độ an toàn bậc trở lên.
179-2 Những công việc có trèo lên cột quá 3m và cách dây dẫn cuối cùng
tối thiểu 2 m như: đặt, tháo thiết bị quan trắc sét (đếm sét), thay thanh giằng,
sơn và sửa chữa cục bộ trên cột thì phải tiến hành theo phiếu công tác.
179-3 Những công việc có trèo lên cột vượt quá quy định về khoảng cách
tại điểm 179-2 như: sơn xà và phần trên của cột, gỡ tổ chim, kiểm tra dây dẫn,
dây chống sét, mối nối, sứ và các phụ kiện khác thì phải tuân theo Điều 180
dưới đây.
Điều 180: Các công việc ở điểm 179- được phép tiến hành theo phiếu công
tác trên các đường dây 1 mạch và 2 mạch có bố trí dây dẫn bất kỳ nhưng phải
bảo đảm quy định sau đây:
180-1 Khoảng cách nằm ngang giữa mép ngoài cùng của thân cột và dây
dẫn là:
1,50 m đối với điện áp từ 110 kV trở xuống.
2,50 m đối với cấp điện áp 220 kV.
4,50 m đối với cấp điện áp 500 kV.
180-2 Cấm tiến hành những công việc đó khi có gió cấp 4 trở lên, khi
trời âm u, có sương mù, mưa và đêm tối, đồng thời phải ngừng ngay công
việc khi có các hiện tượng vừa nêu.
180- Người làm việc không được tiếp xúc với sứ cách điện, người và dụng
cụ mang theo không được tới gần dây dẫn nhỏ hơn khoảng cách sau đây:
0,6 m đối với điện áp đến 35 kV.
0,8 m đối với điện áp đến 66 KV
1,0 m đối với điện áp đến 110 kV.
2,0 m đối với điện áp đến 220 kV.
3,5 m đối với điện áp đến 500 kV.
180-4 Những người được cử công tác phải được đào tạo đặc biệt, qua thao
diễn thực hành thông thạo trên đường dây đã cắt điện và đường dây đang
mang điện, sau đó sát hạch đảm bảo yêu cầu và cấp giấy chứng nhận cho
phép làm việc. Người chỉ huy trực tiếp đơn vị công tác phải có bậc
V an toàn trở lên, nhân viên đơn vị công tác phải có bậc
an toàn trở lên và người chỉ huy trực tiếp chỉ được giám sát không quá 3 cột
liền nhau. Các biện pháp an toàn cụ thể do đơn vị công tác thực hiện.
Điều 181: Gỡ tổ chim trên đường dây đang vận hành ngoài quy định ghi ở
Điều 180 còn phải đảm bảo các quy định:
- Khi có gió có thể làm bay rơm rạ, cỏ rác của tổ chim vào dây dẫn thì
không được gỡ.
- Khi gỡ không được để rơm rạ, cỏ, cành cây rơi xuống sứ và dây dẫn.
Chỉ được tiến hành vào ban ngày khi trời nắng, khô ráo.
Điều 182: Khi sơn xà và phần trên của cột, ngoài những quy định ghi ở
điểm 180-, còn phải chấp hành các quy định sau:
- Người chỉ huy trực tiếp đơn vị công tác phải có mặt trong suốt thời
gian để giám sát an toàn.
- Khi phía trên có dây dẫn, dây chống sét phải hết sức chú ý để đảm bảo
khoảng cách an toàn quy định, người làm việc phải chú ý mọi phía để khỏi vi
phạm khoảmg cách an toàn với phần mang điện.
- Cấm đứng thẳng để di chuyển người dọc theo xà.
- Khi sơn, tránh để sơn rơi lên dây dẫn và sứ.
- Chổi sơn phải làm bằng cán gỗ không dài quá 10 cm và phải do người
đã được huấn luyện để sơn như điểm 180-4.
-2. Công tác trong vùng ảnh hưởng
của đường dây cao áp đang vận hành
Điều 183: Công tác gần đường dây đang vận hành được chia làm ba loại:
183-1 Làm việc trên đoạn đường dây đã được cắt điện giao chéo với đường
dây cao áp khác đang vận hành.
183-2 làm việc trên đường dây đã được cắt điện nằm trong vùng ảnh hưởng
của các đường dây khác đang vận hành với khoảng cách:
- Nhỏ hơn 100 m khi điện áp trên 35 kV đến 110 kV;
- Nhỏ hơn 150 m khi điện áp 220 kV;
- Nhỏ hơn 200 m với điện áp 330 kV đến 500 kV.
183-3 Làm việc trên đường dây đã được cắt điện nhưng đi chung cột với
đường dây đang vận hành.
Điều 184: Khi làm việc trên đường dây đã được cắt điện nhưng gần hoặc
giao chéo với đường dây đang có điện thì phải tuân theo những quy định sau:
184-1 Khi người làm việc có thể tránh được va chạm, đến gần bộ phận
mang điện của đường dây đang có điện với khoảng cách nguy hiểm hoặc áp
dụng các biện pháp an toàn phòng tránh khác thì không phải cắt điện đường
dây gần hoặc giao chéo với đường dây được sửa chữa.
184-2 Đối với công việc khi thực hiện có khả năng làm rơi hoặc làm chùng
dây dẫn (ví dụ: tháo hoặc nối dây ở đầu chuỗi sứ) trong khoảng cột giao chéo
với đường dây đang vận hành điện áp từ 1000 V trở lên thì chỉ cho phép
không cắt điện các đường dây ở phía trên đường dây được sửa chữa.
184-3 Nếu có tháo hay lắp dây dẫn thì phải đề phòng khả năng dây bật lên
trên đường có điện bằng cách dùng dây thừng choàng qua dây dẫn ở cả hai
đầu và ghì xuống đất. Dây dẫn và dây chống sét sắp đưa lên cột cần được tiếp
đất, chú ý: nếu là đường dây giao chéo thì phải tiếp đất ở hai phía.
184-4 Cho phép tiến hành công việc trên dây dẫn (dây chống sét) của
đường dây đã cắt điện nằm trong vùng ảnh hưởng của đường dây đang vận
hành nếu đơn vị công tác sử dụng trang bị và dụng cụ cách điện chịu được
điện áp lớn nhất có thể xuất hiện trên dây dẫn của đường dây đang công tác.
Trong trường hợp này không phải nối đất đường dây đã cắt điện và được coi
vẫn còn điện.
184-5 Khi thi công nếu có dùng cáp thép để kéo, quay tời ... thì khoảng
cách từ dây cáp thép đến dây dẫn điện phải là:
2,50 m đối với điện áp 35 kV.
3 m đối với điện áp 110 kV.
4 m đối với điện áp 220 kV.
184-6 Trước khi tiến hành công việc, đơn vị công tác phải lập phương án
kỹ thuật và biện pháp an toàn cụ thể.
Điều 185: Khi làm việc trên đường dây đã cắt điện, nhưng đi chung cột với
đường dây đang vận hành phải tuân theo những quy định sau đây:
185-1 Khoảng cách giữa các dây dẫn gần nhất của hai mạch không nhỏ
hơn:
3 m đối với đường dây 35 kV trở xuống.
3,5 m đối với đường dây 66 kV.
4 m đối với đường dây 110 kV.
6 m đối với đường dây 220 kV.
185-2 Phải đặt tiếp đất cho đường dây sẽ làm việc trên đó, cứ 500 m đặt
một bộ tiếp đất (nhưng tối thiểu phải là hai bộ chặn hai đầu khoảng làm việc).
185-3 Cấm làm việc khi có gió cấp 4 trở lên, sương mù dày và ban đêm.
Người chỉ huy trực tiếp phải kiểm tra đúng tuyến dây đã được cắt điện, phải
có đầy đủ các loại biển báo an toàn cần thiết để treo ở các cột có hai đường
dây đi chung.
185-4 Cấm ra dây trên cột, cấm cuộn dây thành cuộn trên cột, cấm dùng
thước đo bằng kim loại, đồng thời phải thực hiện đầy đủ những biện pháp an
toàn khi trèo cao trong quy trình này.
- NHỮNG BIỆN PHÁP AN TOÀN KHI CÔNG TÁC
TRÊN CÁC ĐƯỜNG DÂY HẠ ÁP ĐANG CÓ ĐIỆN
Điều 186: Làm việc trên đường dây hạ áp đang có điện phải có phiếu công
tác. Người chỉ huy trực tiếp phải có trình độ an toàn bậc
V trở lên. Riêng việc thay chì cột chỉ cần có phiếu sửa chữa chì, lệnh công tác
hàng ngày của đơn vị quản lý cấp.
Điều 187: Trên cột có nhiều đường dây điện áp khác nhau, phải có biển chỉ
rõ điện áp từng đường dây. Khi tiến hành công việc, người cho phép và người
chỉ huy trực tiếp cần xác định rõ đường dây sẽ tiến hành công việc thuộc trạm
biến áp nào để làm đầy đủ các biện pháp an toàn cần thiết trước khi cho phép
vào làm việc.
Điều 188: Làm việc trên đường dây hạ áp đi trên cùng một cột với đường
dây cao áp đến 22 kV phải tiến hành trong các điều kiện sau:
188-1 Nếu thay ty sứ, căng lại dây, hạ dây, nâng dây trên những nhánh hạ
áp đi vào các nhà thì không cần phải cắt điện cả đường dây hạ áp đó mà chỉ
cần tháo đầu dây đấu vào đường dây chính. Công việc này phải có 2 người trở
lên và phải có phiếu công tác. Người chỉ huy trực tiếp phải có bậc
an toàn trở lên. Phải cắt cầu dao ở cuối nhánh rẽ đi vào các nhà. Phải thực
hiện các quy định an toàn khi làm việc trên cao.
188-2 Nếu căng lại dây, thay dây trên đường dây chính dọc theo tuyến thì
phải cắt điện cả 2 đường dây, công việc được tiến hành theo phiếu công tác.
Người chỉ huy trực tiếp phải có trình độ an toàn ít nhất bậc
188-3 Đường dây cao áp đi ở trên tuy đã được cắt điện nhưng cũng phải đặt
dây tiếp đất ở những vị trí cần thiết để đảm bảo an toàn.
188-4 Nếu trên cột có đường dây thông tin đi chung thì khi trèo lên phải
dùng bút thử điện để xem đường dây thông tin có bị chạm cáp lực hay không.
Kiểm tra xem đường dây thông tin có bị hở, tróc vỏ hay không. Khi làm việc
phải đứng cao hơn đường dây thông tin và khi chạm người vào cột thì không
được chạm vào dây thông tin.
Điều 189: Khi trèo lên cột để kiểm tra dây lèo đèn chiếu sáng, được phép
để điện nhưng phải có những biện pháp an toàn như sau :
189-1 Người trèo phải mặc quần áo khô, đội mũ, đi giầy, cài cúc tay áo,
không được mang theo dụng cụ như kìm, mỏ lết ... Khi trèo phải hết sức thận
trọng tránh va chạm vào dây điện.
189-2 Nếu thay dây lèo phải có vải bạt khô hoặc ni lông để che lên đường
dây có điện và dùng dây thừng mồi vào dây cáp lèo để kéo, người công tác
phải có trình độ bậc an toàn trở lên.
Điều 190: Khi làm việc trên đường dây hạ áp có điện hoặc tiếp xúc với
phần điện hạ áp trong trạm phải:
- Dùng những dụng cụ cách điện có tay cầm tốt.
- Đi giày cao su cách điện hoặc đứng trên thảm cách điện.
- Khi làm việc phải mặc áo dài tay, cài cúc cổ tay áo, đội mũ an toàn.
- Nếu người làm việc cách phần có điện dưới 30 cm thì phải làm rào
chắn bằng bìa cách điện mi-ca, ni-lông hoặc ba-kê-lít,
Điều 191: Việc thay chì cột phải có hai người và chỉ được tiến hành lúc
trời khô ráo, không có giông, gió to, sấm sét. Mưa nhỏ hạt có thể cho phép
trèo lên thay chì cột nhưng phải có đầy đủ dụng cụ an toàn như: kìm cách
điện, găng cách điện, tấm ni lông để che khỏi chạm vào dây điện. Quần áo
người công nhân phải khô ráo, cột có bậc đứng chắc chắn.
A = UA - U = = = [1. ]
Theo biểu thức trên, ta có thể dựng được thế của các điểm xung quanh
vật nối đất khi có dòng điện chạy qua ( Hình 1 ).
Như hình 1, ta thấy càng xa vật nối đất, thế càng giảm. Thực tế cho thấy,
68 % điện áp rơi trong phạm vi 1 m cách vật nối đất, 21 % điện áp rơi vào
khoảng từ 1 m đến 10 m. Với khoảng cách từ 20 m trở lên, điện áp có thể coi
bằng 0.
c. Điện áp tiếp xúc: khi chạm tay vào 1 vật mang điện, giữa tay và chân
người có 1 điện áp đặt vào ( hình 1 ). Điện áp này gọi là điện áp tiếp xúc và
dòng điện chạy qua người trong trường hợp này được tính như sau:
ng = [1.4]
Trong đó: Utx - điện áp tiếp xúc
Rng - điện trở của người.
Điện áp bước: khi người đi vào vùng đất có dòng điện chạy qua thì giữa
2 chân người có 1 điện áp gọi là điện áp bước. Điện áp bước được tính như
sau:
Ub = 1 - 2 [1.5]
Trong đó: Ub - điện áp bước.
1, 2 ă thế tại chân thứ nhất và chân thứ hai.
Utx
U®
Ubíc
20 m 20 m
Hình 1 Dòng điện phân tán trong đất. Quan hệ giữa thế của các điểm trong vùng
có dòng điện chạy trong đất
1.2. Tác dụng của dòng điện đối với cơ thể con người.
a. Điện giật và đốt cháy điện:
- Điện giật: xảy ra khi dòng điện đi qua cơ thể con người. Trong trường
hợp này cơ thể bị tổn thương toàn bộ. Nguy hiểm nhất là dòng điện đi qua tim và
hệ thống thần kinh.
Khi dòng điện đi qua tim, dưới tác dụng của dòng điện, sự co dãn của các
sợi cơ tim sẽ xảy ra rất nhanh và hỗn loạn, tạo ra hiện tượng gọi là rung tim
( tương đương với sự dừng làm việc của tim ). Đại đa số các trường hợp tử vong
là kết quả của trường hợp nay.
- Đốt cháy điện: được chia làm hai trường hợp: đốt cháy do hồ quang và
đốt cháy do dòng điện.
Đốt cháy do hồ quang sẽ gây bỏng trên da, nếu sâu hơn thì sẽ làm tổn
thương đến cơ bắp, lớp mỡ, các gân và xương. Nếu xảy ra trên diện rộng trên cơ
thể hoặc gây tổn thương cho các cơ quan quan trọng thì có thể dẫn tới tử vong.
Đốt cháy do dòng điện sẽ gây nên việc đốt nóng toàn thân. Tai nạn càng
nghiêm trọng nếu thời gian và giá trị dòng điện đi qua càng lớn.
Thông thường các tai nạn đốt cháy do dòng điện gây nên nguy hiểm hơn
tai nạn đốt cháy do các nguyên nhân khác.
b. Những yếu tố xác định tình trạng nguy hiểm của điện giật - Những giới
hạn cho phép:
Sự nguy hiểm do điện giật phụ thuộc vào các yếu tố sau: giá trị dòng điện
đi qua người, đường đi của dòng điện đi qua người, thời gian bị điện giật, tình
trạng thể lực của con người, tần số dòng điện, môi trường xung quanh, sự chú ý
của người lúc tiếp xúc.
- Giá trị dòng điện đi qua người: là yếu tố quan trọng nhất và phụ thuộc
vào: điện áp mà con người phải chịu và điện trở của cơ thể con người.
Giá trị dòng điện đi qua cơ thể con người lớn nhất mà ngưòi ta đã nêu ra
được là 10 mA ( đối với dòng điện xoay chiêu ) và 50 mA ( đối với dòng điện
một chiều ).
Đối với dòng điện một chiều ta có các bảng sau:
Bảng 1.2 Giá trị lớn nhất cho phép để không gây nên hiện tượng tim bị
ngừng đập đối với người khoẻ
Dòng điện, mA 10 60 90 110 160 250 350 500
Thời gian điện giật, s 30 10-30 3 2 1 0,4 0,2 0,1
Bảng 1.3 Giá trị lớn nhất cho phép để không gây nên hiện tượng tim bị
ngừng đập đối với người yếu
Dòng điện, mA 50 100 300 Không nghiên cứu điện giật chết
Thời gian điện giật, s 1 0,5 0,15 người đối với thời gian dưới 0,1 s
Áp suất làm việc , kG/cm2 Áp suất mở của van an toàn, Tên van an
kG/cm2 toàn
Lò hơi dưới 13kGcm2 P +0,2 kG/ cm2 Van làm việc
Từ 13- 60 kG/cm2 P +0,2 kG/ cm2 Van kiểm tra
Bộ quá nhiệt của lò có áp
1,03P Van làm việc
suất dưới 13 kG/cm2
Bộ quá nhiệt của lò có áp
1,05P Van làm việc
suất trên 13 kG/cm2
Bộ hâm nước ngắt được 1,08p Van làm việc
Ở đầu vào bộ hâm nước áp suất làm việc +25% Van kiểm tra
Ở đầu ra bộ hâm nước áp suất làm việc +10% Van kiểm tra
Trong mỗi ca vận hành cần kiểm tra trạng thái làm việc của van an
toàn, đồng thời vị trí của van sau khi đã được điều chỉnh theo các áp suất mở
van (như vị trí của quả tạ trên đòn bẩy, của vít vặn độ căng lò so) phải không
bị thay đổi trong quá trình làm việc.
Để ngăn ngừa hiện tượng áp suất tăng quá nhanh, đối với các bình chứa
khi có thể cháy, người ta quy định mức độ chứa khí trong bình. Mức độ này
được xác định bằng khối lượng khí tính ứng với một đơn vị thể tích của
bình(đo bằng kg khí/lit) hay thể tích cần thiết của bình để chứa được kg
khí(đo bằng lít/kg.
Hiện nay ở nước ta đã có một hệ thống khá hoàn chỉnh về công tác bảo
hộ lao động cho các thiết bị chịu áp lực, bao gồm các công ty lao động ở các
địa phương các ban thanh tra an toàn lò hơi ở các Bộ Lao động. Pháp lý của
công tác này là các bản quy phạm đã và sẽ được ban hành như sau:
1. Quy phạm tạm thời về chế tạo và sử dụng an toàn các lò hơi
cố định di động và nửa di động(76 QĐ/LĐ);
2. Quy phạm tạm thời về chế tạo và sử dụng an toàn các bình
chịu áp lực cố định và nửa di động(239.LB-QĐ);
3. Quy tắc tính sức bên các phần tử lò hơi;
4. Quy phạm về lò hơi có áp suất dưới 0,7kG/cm2;
5. Quy phạm ống dẫn hơi và nước nóng;
6. Quy tắc tính sức bên các phần tử của các bình chịu áp lực .
Tất cả các thiết bị chịu áp lực đều phải đăng ký tại các cơ quan thanh
tra an toàn và chỉ sau khi đã được phép mời chính thức cho làm việc. Các cán
bộ của các trung tâm kiểm định sẽ tiến hành khám nghiệm trước khi cho các
thiết bị làm việc, khám nghiệm định kỳ trong quá trình sử dụng hay những
khám nghiệm bất thường khác. Các thiết bị được lắp đặt xong, những thiết bị
đã nghỉ làm việc quá lâu (như đối với lò hơi đã nghỉ làm việc trên một năm),
khi phải sửa chữa hoặc đại tu , khi tán lai quá 10 đinh tán liên nhau hay trên
20% tổng số đinh tán của mỗi mối nối, khi có những nghi ngờ về tình trạng
kỹ thuật, vv. thì đều phải tiến hành khám nghiệm. Nội dung khám nghiệm bao
gồm khám xét toàn bộ hay kiểm tra bằng thuỷ lực. Khám xét toàn bộ nhằm
mục đích kiểm tra về kết cấu , xác định phẩm chất chế tạo, lắp ráp các bộ
phận thiết bị ở bên trong và bên ngoài. Còn thử bằng thuỷ lực theo các trị số
áp suất thử trình bày ở bảng 2.9 để xác định độ bền và độ kín của thiết bị .
Ngoài ra, đối với các thiết bị làm việc với áp suất cao, có tầm quan
trọng lớn, như các lò hơi, các bình chứa khí hoá lỏng, các đường ống cao áp
của nhà máy nhiệt điện ... người ta phải tiến hành các thử nghiệm không phá
huỷ bằng phương pháp chụp tia X hoặc kiểm tra bằng siêu âm.
Bình thường đối với các thiết bị chịu áp lực, cứ sau hai năm lại khám
xét toàn bộ một lần, còn thử bằng áp suất nước thì sau sau năm tiến hành một
lần. Tất cả các khám nghiệm đều phải được lưu lại để làm tài liệu cho các lần
khám sau. Khi phát hiện ra những thiếu sót làm ảnh hưởng đến độ bền bỉ của
kim loại thì phải làm giảm áp suất cho phép làm việc. Trị số áp suất cho phép
làm việc do các ban thanh tra an toàn quyết định.
Ở tất cả các đơn vị sử dụng đều phải dựa theo các bản quy phạm mà
soạn ra các quy trình vận hành, quy trình xử lý sự cố và phổ biến đến từng
công nhân vận hành. Định kỳ hàng năm cần kiểm tra trình độ sử dụng các
thiết bị chịu áp lực của công nhân. Đơn vị nào cũng phải có bản nội quy là nội
dung tóm tắt của các quy trình, viết thành bảng to, treo ở những nơi dễ thấy
nhất.
Tại tất cả các đơn vị có sử dụng thiết bị áp lực, người ta thường phải cử
ra 1 cán bộ chuyên trách để theo dõi tình trạng của thiết bị và lập các kế hoạch
bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ. Cán bộ này do giám đốc đơn vị bổ nhiệm và
được ghi tên vào lý lịch của thiết bị để tiện theo dõi.
Nếu đơn vị nào cũng chấp hành đầy đủ các điều lệ của các quy phạm an
toàn thì chắc chắn tai nạn do các thiết bị chịu áp lực gây ra sẽ khắc phục
được.
PHẦN VIII
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÁY VÀ NỔ
1. Định nghĩa:
Cháy là một hiện tượng hoá lý phức tạp. Theo định nghĩa cổ điển, cháy
là quá trình phân huỷ hoàn toàn vật chất khi có oxi. Vì vậy, cháy là một quá
trình oxi hoá, là sự hoá hợp giữa tác nhân oxi hoá (như không khí, oxi…) với
chất cháy (tức là chất bị oxi hoá như dầu, khí, than…). Tuy nhiên có trường
hơpj cháy không cần oxi như kim loại cháy trong môi trường clo; bari oxit,
natri oxit cháy trong môi trường khí cácbônníc; thuốc súng cháy không cần
trong môi trường khí; axêtilen nén, clorua nitơ nén và vài hợp cahát khác
trong những điều kiện nhất định có thể nổ mà không cần có không khí. Như
vậy, cháy có thể là kết quả của phản ứng kết hợp hoặc phản ứng phân huỷ.
Theo định nghĩa mới, cháy là phản ứng hoá học xảy ra nhanh chóng,
phát nhiệt và phát quang. Nghĩa là có phản ứng cháy không cần oxi và mọi
vật chất ít nhiều đều có thể cháy. Oxi hoá chậm có thể xem như quá trình
cháy chậm, nó chỉ khác về tốc độ phản ứng và cường độ phát nhiệt.
Quá trình cháy có kèm theo sự phát nhiệt. Nhưng không phải mọi quá
trình phát nhiệt đều là quá trình cháy. Ví dụ như sự oxi hoá chậm rượu êtylíc
thành alđêhit axêtic , SO2 thành SO3, v.v… thì không thể xếp vào quá trình
cháy.
Trong thực tế thường gặp các đám cháy xảy ra trong môi trường không
khí. Vì vậy khi xét đến các vấn đề về cháy ở đây chủ yếu đề cập đến quá trình
cháy có oxi. Người ta chia ra làm 2 loại cháy: đồng thể và dị thể. Cháy đồng
thể là cháy chỉ của các chất thể khí, còn cháy dị thể là cháy của hỗn hợp chất
cháy và chất oxi hoá có trạng thái vật lý khác nhau.
Tuỳ lượng oxi đưa vào để đốt cháy nhiên liệu mà ta chia ra cháy hoàn
toàn và. không hoàn toàn. Khi có thừa hay đủ không khí, quá trình cháy xảy
ra hoàn toàn, sản phẩm của quá trình cháy hoàn toàn là cacbonnic, hơi nước,
Nitơ và một ít các khí khác như anhiđric sunfurơ.. Khi không đủ không khí thì
quá trình chảy ra không hoàn toàn. Trong sản phẩm cháy không hoàn toàn
thường chứa nhiều khí cháy, nổ và độc như cacbonnic oxit, rượu, axit, xêtôn
và alđêhit.
Tuỳ tốc độ của quá trình cháy người ta chia thành cháy, nổ và cháy nén
áp. Khi cháy hoàn toàn lượng nhiệt toả ra là cực đại. Một phần nhỏ lượng
nhiệt đó sẽ tiêu hao cho việc gia nhiệt, nóng chảy, phân huỷ và bốc hơi chất
cháy.
Lượng nhiệt chủ yếu sẽ tiêu hao cho việc nung nóng môi trường xung
quanh vùng cháy. Khi cháy trong phòng kín lượng nhiệt độ đó sẽ tiêu hao cho
việc nung nóng những kết cấu, những vật liệu có trong khu vực đó.
Quá trình cháy của các chất thể rắn, lỏng và khí đều có những điểm
tương tự nhau và bao gồm các giai đoạn sau: oxi hoá, tự bắt cháy, cháy. Sự
tích luỹ nhiệt trong quá trình oxi hoá làm cho tốc độ phản ứng tăng lên, xảy ra
tự bắt cháy và xuất hiện ngọn lửa.
2. Cơ chế quá trình cháy
Bản chất của quá trình cháy được nghiên cứu tới từ lâu. Lômônôxốp M.
V. là người đầu tiên đã chứng minh cháy là sự hoá hợp giữa chất cháy với
không khí. Chính bằng những thực nghiệm liên quan đến sự cháy, năm 1760
Lômônôxốp đã đưa ra một định luật nổi tiếng làm cơ sở cho hoá học hiện đại
là định luật bảo toàn vật chất. Năm 1773 nhà hoá học người Pháp La Voaziê
khẳng định rõ hơn, cháy là sự hoá hợp của chất cháy với ôxi của không khí.
Như vậy, vào cuối thế kỷ XVIII người ta đã chứng minh bằng khoa học, cháy
là một phản ứng oxi hoá. Từ đó đến nay nghiên cứu về bản chất quá trình
cháy được triển khai khá sâu rộng và cũng xuất hiện khá nhieèu lý thuyết
khác nhau để giải thích nó. Trên cơ sở những lý thuyết đó người ta đưa ra các
biện pháp ngăn ngừa và khắc phục hiện tượng cháy, cũng như nghiên cứu các
chất để ức chế quá trình cháy và chống cháy.
Những lý thuyết hiện đại về cơ chế phản ứng cháy được trình bày trong
các công trình nghiên cứu của N.N. Xêmenôp, D. A. Phran Camêhatski, IA.
B. Zelđôvitrơ, … Cơ sở của những lý thuyết này là lý thuyết tự bắt cháy nhiệt
và lý thuyết oxi hoá dây chuyền do Xêmenôp đưa ra.
a. Lý thuyết tự bắt cháy nhiệt. Theo lý thuyết này, điều kiện quyết
định để xuất hiện quá trình cháy là tốc độ toả nhiệt (1) của phản ứng hoá học
phải vượt quá hoặc bằng tốc độ truyền nhiệt từ vùng phản ứng ra môi trường
xung quanh (nếu hỗn hợp cháy là thể khí thì từ vùng phản ứng đến quá trình
phản ứng).
Quá trình cháy có thể bắt đầu bằng cách gia nhiệt một phần thể tích hỗn
hợp khi cháy đến nhiệt độ rất cao, rồi phóng vào đó một tia lửa làm mồi, hoặc
bằng cách gia nhiệt đồng thời toàn bộ thể tích hỗn hợp cháy đến nhiệt độ nhất
định. Do nhiệt độ hỗn hợp chất cháy ở trong bình tăng, phản ứng bắt đầu với
tốc độ chậm và toả nhiệt. Nhờ nhiệt này hỗn hợp được gia nhiệt thêm và tốc
độ phản ứng tăng thêm, lượng nhiệt toả ra được nhiều hơn. Cứ như vậy tốc độ
phản ứng và sự gia nhiệt cho hỗn hợp sẽ tăng dần theo một đường cong. Kết
quả là tạo điều kiện để tăng nhanh vô hạn phản ứng.
Chúng ta khảo sát một bình có thể tích v, trong bình chứa một hỗn hợp
khí và không khí. Bình được gia nhiệt đến nhiệt độ T 0. Phản ứng xảy ra ở
trong bình với tốc độ được đo bằng số môl m các sản phẩm oxi hoá trong
một đơn vị thời gian và một đơn vị thể tích. Tốc độ phản ứng được biểu diễn
bằng phương trìnhL
(19-1)
Trong đó k0 - hệ số tỷ lệ
p - áp suất riêng phần
n - thứ bậc tổng cộng của phản ứng
E - năng lượng hoạt hoá
R - hằng số khí lý tưởng
T - nhiệt độ tuyệt đối, 0K.
Nếu gọi Q là hiệu ứng nhiệt của phản ứng thì lượng nhiệt toả ra khi
phản ứng trong một đơn vị thời gian (q1) được xác định theo công thức:
(19-2)
Lượng nhiệt toả ra khi phản ứng một phần dùng để gia nhiệt cho hỗn
hợp khí, một phần sẽ truyền cho thành bình (tức là môi trường xung quanh).
Nhiệt độ của khí tăng dần, tuy rằng không đồng đều trong toàn bình, nhưng
có thể coi giá trị trung bình của nó là T. Nhiệt độ của thành bình vẫn giữ
không đổi là T0. Như vậy lượng nhiệt truyền từ vùng phản ứng đến thành bình
tính cho một đơn vị thời gian (q2) được tính theo công thức:
q2 = A (T - T0) (19-3)
trong đó A là hệ số phụ thuộc vào vật liệu thành bình, hình dạng của
nó, kích thước của bình và độ dẫn nhiệt của khí, v.v… Về thực chất q1 chính
là tốc độ toả nhiệt và q2 là tốc độ truyền nhiệt ra môi trường xung quanh, mà
ta vừa nói tới ở trên. Mô tả trên đồ thị (hình 19-1) trục ngang là nhiệt độ T,
trục đứng là tốc độ biến thiên lượng nhiệt q1 hoặc q2 (gọi tắt là q).
Theo phương trình (19-2) đường biểu diễn q1 - f(T) có dạng cong và
theo phương trình (19-3) đường biểu diễn q2 - f(T) có dạng đường thẳng.
Theo lý thuyết sự bắt cháy nhiệt thì khi q1> q2 hỗn hợp mới tự bắt
cháy. Nhiệt độ T1 ứng với tiếp điểm A sẽ là nhiệt độ tự bắt cháy của hỗn hợp.
Tại đó tốc độ toả nhiệt đúng bằng tốc độ truyền nhiệt ra môi trường xung
quanh. Lệch ra khỏi tiếp điểm A tốc độ toả nhiệt luôn luôn lớn hơn tốc độ
truyền nhiệt ra xung qunah, hỗn hợp luôn luôn bắt cháy. Đường cong 2,3,4
biểu thị tốc độ toả nhiệt đối với hỗn hợp có thành phàn không đổi ở áp suất
khác nhau. áp suất càng cao, thì tốc độ toả nhiệt càng cao (xem công thức 19-
2 và đường cong 4). ứng với điều kiện của đường cong số 4, tốc độ toả nhiệt
tại mọi điểm đều lớn hơn tốc độ truyền nhiệt ra môi trường xung quanh nên
hỗn họp luôn luôn tự bắt cháy. Ngược lại ở áp suất thấp (ứng với đường cong
2) thì quá trình cháy lại không xảy ra. Vì vậy để hạn chế nguy hiểm cháy nổ
người ta thực hiện các quá trình kỹ thuật trong điều kiện chân không hoặc áp
suất thấp. ứng với một nhiệt độ không đổi của thành bình và hỗn hợp khí, ứng
với một thành phần hỗn hợp khi cố định thì tốc độ truyền nhiệt ra môi trường
xung quanh sẽ được biểu thị bằng đường thẳng 1. Khi ta thay đổi thành phần
hỗn hợp khí, nhiệt độ của thành bình T 0 hoặc của môi trường ta sẽ thay đổi
góc nghiêng của đường 1 (biểu thị bằng hệ số A trong công thức 19-3) hoặc
chuyển dưới vị trí của đường thẳng đó, nghĩa là ta sẽ thay đổi điều kiện bắt
cháy của hỗn hợp khí. Điều này có ý nghĩa thực tế lớn lao khi dập tắt đám
cháy. Khi đưa khí trơ như CO2, N2 vào đám cháy ta sẽ chuyển vị trí đường
thẳng 1 tới đường 3 (hình 19-2). Khi đó tiếp điểm A sẽ chuyển tới B. ứng với
điều kiện mới này ta thấy ở bên phải điểm B, q1 luôn luôn hơn hơn q2, hỗn
hợp không tự bắt cháy được. Đám cháy dần dần bị dập tắt.
Lý thuyết tự bắt cháy nhiệt giúp ta giải thích được nhiều hiện tượng
cháy. Nhưng trong nhiều trường hợp tự bắt cháy và bắt cháy không thể dùng
lý thuyết này để giải thích được, ví dụ như tác dụng xúc tác và ức chế đối với
quá trình cháy sự phụ thuộc của giới hạn bắt cháy vào áp suất, v.v… Để giải
thích những hiện tượng đó phải dùng lý thuyết phản ứng dây chuyền.
b. Lý thuyết tự bắt cháy dây chuyền do viện sỹ N.N. Xêmenôp đưa
ra năm 1931. Muốn cho phản ứng, hoá học xảy ra phải có va chạm giữa các
phân tử phản ứng. Nhưng tác dụng hoá học giữa hai phân tử và chạm vào
nhau chỉ có thể có được khi tổng dự trữ năng lượng của hcúng không nhỏ hơn
một đại lượng tối thiểu gọi là năng lượng hoạt hoá. Năng lượng dự trữ đó là
năng lượng cần thiết để làm đứt hoặc làm yếu những liên kết tồn tại giữa các
nguyên tử trong phân tử chất phản ứng ban đầu và tạo khả năng làm xuất hiện
những liên kết mới hoặc phân bố lại các liên kết, nghĩa là gây ra phản ứng hoá
học. Sản phẩm của phản ứng có dự trữ năng lượng khá lớn. Năng lượng đó lại
truyền trực tiếp cho một hoặc một vài phân tử trong số các phân tử trong số
các phân tử phản ứng, kích động chung chúng đến trạng thái hoạt động, nghĩa
là tạo ra các phần tử hoạt động mới.
Thực nghiệm đã xác định các phản ứng cháy thường xảy ra theo hướng
sao cho lúc đầu trong hệ thống tạo ra những phần tử hoạt động, thường là
những gốc và các nguyên tử tự do. Do có mang hoá trị tự do các phần tử đó
rất hoạt động, có khả năng phản ứng cao, chúng tham gia vào phản ứng tiếp
theo và tái tạo những gốc, nguyên tử tự do mới. Việc sản sinh ra các phần tử
hoạt động đó làm chuyển hoá một lượng lớn sản phẩm ban đầu. Quá trình đó
thực hiện một cách chu kỳ. Phần tử hoạt động được tạo ra ở chu kỳ này tạo
điều kiện bắt đầu một chu kỳ mới. Cuối chu kỳ mới này lại tạo ra những phần
tử hoạt động mới… Vì phản ứng cứ được kéo dài, phát triển do lặp lại một
cách chu kỳ các phản ứng như vậy nene gọi là phản ứng dây chuyền.
Theo lý thuyết phản ứng dây chuyền, quá trình cháy trải qua các giai
đoạn sau:
Giai đoạn sinh mạch: các phần tử chất cháy và chất oxi hoá được hoạt
hoá nhờ năng lượng tự thân, năng lượng nhiệt, năng lượng của ánh sáng hay
do va chạm với phần tử thứ ba nào đó. Kết quả là tạo ra các phần tử hoạt động
(còn gọi là tâm hoạt động). Những tâm hoạt động này có khả năng tham gia
vào các phản ứng ở giai đoạn tiếp theo.
Giai đoạn phát triển mạch: nhờ những tâm hoạt động ban đầu mà phản
ứng tiếp tục phát triển và tái tạo các tâm hoạt động mới. Phản ứng được phát
triển một cách dây chuyenè, các tâm hoạt động cứ được tái tạo nếu không có
gì cản trở.
Nếu từ một tâm ban đầu khi phản ứng chỉ tái tạo một tâm mới thì phản
ứng là dây chuyền không phân nhánh. Nếu từ một tâm ban đầu tái tạo được
hai hay nhiều tâm mới thì phản ứng là dây chuyền phân nhánh. Các phản ứng
cháy hầu hết là dây chuyền phân nhánh, nên tốc độ cháy phát triển rất nhanh.
Giai đoạn triệt mạch (hay đứt mạch): Do va chạm với các phần tử trơ,
do các phản ứng phụ,… các tâm hoạt động dần dần bị triệt đi, nghĩa là chúng
chuyển thành các phần tử kém hoạt tính hoặc những phần tử ổn định mất khả
năng tham gia phản ứng tiếp theo. Do đó phản ứng cháy không thể phát triển
tiếp tục. Nếu cường độ triệt mạch đủ lớn thì phản ứng cháy sẽ ngừng hẳn.
Chiều hướng phát triển của phán sứng dây chuyền, khả năng bắt cháy
của hỗn hơn tuỳ thuộc vào tỷ lệ giữa những phản ứng phân nhánh và đứt
mạch. Trong phản ứng dây chuyền không phân nhánh, tốc độ phản ứng là
không đổi. Trong phản ứng dây chuyền phân nhánh tốc độ phản ứng tăng liên
tục, phản ứng tự xúc tiến. Muốn cho phản ứng cháy có thể xảy ra thì tốc độ
phản ứng phân nhánh phải lớn hơn hoặc bằng tốc độ phản ứng đứt mạch.
Biểu hiện phản ứng bên ngoài trong tự bắt cháy nhiệt và tự bắt cháy
dây chuyền đều giống nhau. Điều khác nhau chủ yếu là theo cơ chế nhiệt thì
trong hệ phản ứng sẽ tích luỹ nhiệt mà theo cơ chế dây chuyền thì là tích luỹ
tâm hoạt động. Cả hai yếu tố đó đều làm xúc tiến phản ứng. Sự bắt cháy dây
chuyền về nguyên tắc có thể thực hiện ở nhiệt độ không đổi mà không cần gia
nhiệt nhiều cho hỗn hợp.
Dưới đây là ví dụ về phản ứng cháy dây chuyền phana nhánh của hiđrô.
sinh mạch
OH + H2 = H2O + H
H + O2 = OH + O tiếp sinh mạch phân hình
O + H2 = OH + H
H + O2 + M = HO2 + M triệt mạch trong thể tích tạo ra gốc kém hoạt
động.
HO2 + H2 = H2O2 + H tiếp sinh mạch từ những gốc
HO2 + H2 O = H2O2 + OH kém hoạt động HO2
H + thành bình triệt mạch tại thành bình tạo
O + thành bình phân tử ổ định mất hoạt tính.
Sự triệt mạch làm giảm mạnh số tâm hoạt động có thể xảy ra ở trong
thể tích hỗn hợp chất phản ứng, hoặc tại thành bình.
Nguyên nhân triệt mạch trong thể tích khí là:
- Phản ứng phụ giữa tâm hd với cc tạp chất có trong hỗn hợp.
- Phần tử hoạt động phân tán năng lượng hoá học dư của mình khi va
chạm với các phần tử trơ hay với các phần tử không hoạt động cùng loại.
Triệt mạch tại thành bình phản ứng sinh ra do bề mặt thành bình hấp
phụ các tâm hoạt động.
Dựa vào lý thuyết cháy dây chuyền ta có thể giải thích được hiện tượng
xúc tác và ức chế quá trình cháy. Những chất có khả năng tạo ra nhiều tâm
hoạt động sẽ làm cho quá trình cháy phát triển. Ví dụ, khi oxi hoá hiđrô
cacbon ta thêm một lượng rất ít peroxit sẽ làm cho phản ứng được xúc tiến rất
nhanh chóng. Ngược lại có nhiều chất gây tác dụng kìm hãm phản ứng, như
để kìm hãm cháy những sản phẩm dầu mỏ ta đưa vào đó những hiđrô cacbon
halogen hoá.
Điều này có ý nghĩa thực tế lớn lao. Muốn cho đám cháy được dập tắt,
ta đưa vào đám cháy các chất có khả năng làm mất hoạt tính của các tâm hoạt
động., làm triệt để mạch phản ứng cháy dây chuyền. Đó là một căn cứ lý luận
để người ta nghiên cứu tìm ra các chất chữa cháy. Dựa vào lý thuyết cháy dây
chuyền ta giải thích hiện tượng: nhiều đám cháy lúc đầu còn nhỏ, nhưng khi
phát triển thì tốc độ lan truyền đám cháy tăng lên rất nhanh và đám cháy càng
mạnh dần lên. Đó là do nhiệt độ cao, mạch phản ứng càng sinh ra nhiều, số
lượng tâm hoạt động càng tăng lên bội phần.
Nếu theo lý thuyết nhiệt, nguyên nhân và hậu quả của tự bắt cháy là
nhiệt, thì theo lý thuyết dây chuyền, nhiệt chỉ là hậu quả của quá trình tự bắt
cháy đồng thời có đặc tính dây chuyền và đặc tính nhiệt. Đa số những phản
ứng hoá học của các chất khí đều xảy ra theo cơ chế dây chuyền. Phản ứng
dây chuyền và phản ứng nhiệt đều được tăng nhanh khi tăng nhiệt độ. Sự đốt
nóng hỗn hợp và tích luỹ tâm hoạt động đều làm cho phản ứng mau đến bắt
cháy.
Khi ngọn lửa lan truyền, phản ứng cũng tiến hành theo cơ chế dây
chuyền. Tuy nhiên những yếu tố nhiệt vẫn là quyết định đối với quá trình
cháy.
3. Điều kiện xảy ra quá trình cháy. Thời gian cảm ứng
Để xuất hiện và phát triển quá trình cháy cần có chất cháy, chất oxi hoá
và mồi bắt chảy. Thiếu một trong ba điều kiện đó thì cháy sẽ ngưng.Ví du, khi
ta phun bọt vào đám cháy của chất lỏng và làm cho hơi của chất cháy ngừng
đi vào vùng cháy; khi phun nước vào gỗ đang cháy ta sẽ hạ nhiệt độ của gỗ
xuống dưới nhiệt độ bắt lửa,… làm cho chúng không tiếp tục cháy nữa.
Thành phần hoá học của chất cháy và tỷ lệ của các phần tử trong hỗn
hợp cháy có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình cháy. Cháy trong oxi
nguyên chất sẽ đạt tốc độ lớn nhất, khi hàm lượng oxi trong không khí là 14-
15 % thì tốc độ cháy sẽ là cực tiểu . Đối với H 2, C2H4, C2H2 và vài chất cháy
khác hàm lượng tối thiểu của oxi trong không khí có thể duy trì sự cháy là
10% hoặc thấp hơn. Tiếp tục giảm hàm lượng oxi xuống nữa sự cháy sẽ
ngừng.
Bề mặt riêng của chất cháy càng cao, sự khuấy trộn giữa chất cháy và
chất oxi hoá càng tốt thì tốc độ cháy càng tăng.
Chất cháy là những chất khi oxi hoá sẽ toả nhiệt và phát quang. Chúng
có thể ở dạng rắn, lỏng, khí. Chất oxi hoá có thể là không khí, oxi nguyên
chất, clo, flo, lưu huỳnh, các hợp chất mang oxi như kali pecmanganat
(KMnO4), amôn nitrat (NHsNO3), Kali nitrat (KNO3), natri nitrit (NaNO2),
Kali clorat (KClO3), axit nitric (HNO3)… chúng là những chất trong điều kiện
nung nóng sẽ bị phân huỷ thoát ra oxi, ví dụ:
2KClO3 2KCl + 3O2
Mồi bắt lửa có thể là ngọn lửa trần, tia lửa điện, hồ quang điện, tia lửa
sinh ra do ma sát hay va đập, những hạt than cháy dở… Chúng là những mồi
lửa phát quang. Ngoài ra còn có loại mồi bắt lửa không phát quang hay còn
gọi là mồi ẩn. Mồi bắt lửa ẩn (kín) có thể là nhiệt toả ra do các quá trình hoá,
nén đoạn nhiệt, do ma sát, hoặc do tiếp xúc với bề mặt nóng của thiết bị.
Sự bắt cháy hỗn hợp cháy chỉ có khả năng xảy ra khi lượng nhiệt cung
cấp cho hỗn hợp cháy đủ để làm cho phản ứng cháy bắt đầu, tiếp tục và lan
rộng ra. Như vậy không phải bất cứ một mồi bắt lửa nào cũng có thể gây cháy
được. Muốn gây cháy đòi hỏi mồi bắt lửa phải có đủ dự trữ năng lượng tối
thiểu. Những mồi lửa khác nhau có nhiệt độ ngọn lửa khác nhau. Ví dụ, nhiệt
độ của ngọn lửa diêm là 750 - 860 0C, đèn dầu hoả là 780 - 1030 0C, que đóm
là 850 - 10000C, đèn xăng là 1200 - 13000C, mẩu thuốc lá cháy dở là 700 -
7500C.
Khả năng bắt lửa của một mồi lửa phụ thuộc vào thể tích khí tối thiểu
mà nó có thể gia nhiệt đến nhiệt độ bắt cháy T B.. Thực tế để bắt lửa hỗn hợp
hơi, khí với không khí chỉ cần gia nhiệt đến nhiệt độ tự bắt cháy 0,5 - 1mm 3
hỗn hợp đó. Những ngọn lửa trần vừa kể trên có nhiệt độ vượt quá nhiệt độ tự
bắt cháy của khí và hơi (1200 - 7000C) và lượng nhiệt toả ra của ngọn lửa
thường lớn hơn lượng nhiệt cần thiết để gia nhiệt cho 1mm3 hỗn hợp khi đến
nhiệt độ tự bắt cháy. Vì vậy trong mọi trường hợp, ngọn lửa trần đều là những
mồi bắt lửa nguy hiểm.
Tia lửa điện là một loại mồi bắt lửa phổ biến. Trong kênh phóng điện
nhiệt độ có thể tới 10.0000C, vượt quá rất nhiều so với nhiệt độ bắt cháy. Vì
vậy tia lửa điện, tia hồ quang gặp trong công nghiệp, đều nguy hiểm, chúng
có thể làm bắt lửa bất cứ một hỗn hợp cháy nào của hơi, khí hay bụi với
không khí.
Tia lửa tạo ra do phóng điện tĩnh điện có cường độ dòng điện không
đáng kể (phần nghìn mA) nhưng có khả năng bắt lửa phanà lớn các khí cháy
và bụi. Hồ quang điện trong mọi trường hợp đều làm bắt lửa hỗn hợp cháy,
nhưng khi điện áp nhở hơn 1,5V và cường độ dòng điện nhỏ hơn 40mA thì
không làm bắt lửa hỗn hợp mêtan hoặc xăng với không khí. Năng lượng tối
thiểu cần thiết để làm bắt lửa xăng, benzen hay hơi cháy khác là 0,0005lJ, đối
với hiđrô và ãêtilen là 0,0001J. Để làm bắt lửa hỗn hợp mêtan với không khí
cần tia lửa toả ra 0,9.10-3 cal.
Tia lửa tạo ra do ma sát và va đập ít nguy hiểm hơn so với tia lửa điện,
vì năng lượng của những tia lửa này nhỏ hơn so với tia lửa điện. Tia lửa tạo ra
do và đập (thép vào thép, thép vào đá) nguy hiểm hơn tia lửa tạo ra do ma sát,
vì khi va đập sẽ xảy ra sự gia nhiệt và truyền năng lượng cho khí ngay tại
điểm tiếp xúc của những vật va đập vào nhau.
Thời gian tiếp xúc của tia lửa với hỗn hợp cháy có vai trò quan trọng.
Vì dụ thời gian tồn tại của tia lửa khi ma sát thép lên đá mài trung bình không
quá một giây. Nhiệt độ của những tia này phần lớn đạt 600 0 - 7000C.. Thời
gian cảm ứng của hỗn hợp mêtan với không khí khi nhiệt độ bắt cháy nhỏ hơn
7000C khoảng vài giây, nhưng khi nhiệt độ lớn hơn 800 0C thì không quá một
giây. Do đó khi tăng thời gian tồn tại của tia lửa đến 2 - 3 giây có thể làm bắt
lửa hỗn hợp mêtan với không khí.
Để làm bắt lửa những chất cháy thể rắn, đặc biệt là thuốc nổ, thuốc
súng cần có mồi bắt lửa lớn hơn đối với khí và hơi, vì nó đòi hỏi nhiều năng
lượng (nhiệt) để nung chảy, phân huỷ và cháy những chất đó.
Để làm bắt lửa những chất cháy dở, hồ quang điện…
Những chi tiết máy, vỏ thiết bị bị gia nhiệt đến nhiệt độ cao cũng là
những mồi bắt lửa nguy hiểm đối với hỗn hợp chất cháy trong khu vực đó. Vì
vậy theo quy tắc an toàn, cần quy định nghiêm ngặt vào tính chất của chất
cháy có ở khu vực đó.
Nghiên cứu những nguồn sinh ra mồi bắt lửa có ý nghĩa quan trọng
trong thực tế tại những nơi có nhiều nguy cơ thời gian nhất định gọi là thời
gian cảm ứng hay thời gian chậm bắt cháy.
Thời gian chuẩn bị ngấm ngầm của phản ứng kể từ thời điểm khuấy trộn
giả nhiệt hỗn hợp đến thời điểm xuất hiện những biểu hiện rõ rệt của phản
ứng (bắt cháy) gọi là thời gian cảm ứng.
Theo lý thuyết nhiệt, thời gian cảm ứng là giai đoạn tích luỹ nhiệt, theo
lý thuyết dây chuyền - là giai đoạn tích luỹ tâm hoạt động.
Thời gian cảm ứng giảm khi tăng áp suất, tăng nhiệt độ hỗn hợp cháy,
giảm hàm lượng chất cháy trong hỗn hợp hoặc khi thêm các chất xúc tác tiến
quá trình cháy như alđeehit, peroxit. Ngược lại, thêm những chất ức chế phản
ứng cháy như iot, anilin, fenol, … sẽ kéo dài thời gian cảm ứng. Vì vậy, ta có
thể điều khiển quá trình bắt cháy xuất hiện sớm hay muộn bằng cách thêm các
phụ gia thích họp để rút ngắn hay kéo dài thời gian cảm ứng.
Dưới đây là thời gian cảm ứng (tính bằng giây) của một vài hỗn hợp ở
nhiệt độ khác nhau:
Hỗn hợp mêtan với không khí ở 7000C là vài giây.
Hỗn hợp mêtan với không khí ở 8000C là 1 giây.
Hỗn hợp mêtan với oxi ở 8000C là 0,2 giây.
Hỗn hợp mêtan với oxi ở 10000C là 0,01 giây.
ở nhiệt độ cao thời gian cảm ứng của hầu hết hiđrôcacbon rất nhỏ (chỉ
vài phần giây). Với chất cháy thể rắn thời gian cảm ứng rất dài, có thể hàng
giờ, hàng ngày thậm chí hàng tháng. Thời gian cảm ứng của chát cháy thể rắn
càng ngắn nếu như độ mịn càng cao và mức độ khuấy trộn của nó với không
khí càng tốt.
Thời gian cảm ứng có vai trò quan trọng đối với thực tế khi chọn thiết
bị điện chống nổ, khi phân loại các chất cháy nổ, khi xem xét các vấn đề an
toàn cháy nổ trong công nghiệp khai thác hầm lò, tại những nơi sản xuất có
sản sinh ra các khí dễ cháy nổ, tại các kho hoá chất, kho xăng dầu…
Ví dụ, trong công nghiệp khai thác hầm lò thường có nhiều bụi nổ, khi
dễ cháy nổ như mêtan, cácbon oxit. Tại đây chỉ được phép dùng những thiết
bị điện chống nổ an toàn, đèn phòng nổ. Khi đèn điện bị vỡ dòng điện sẽ tự
động ngắt. Để đảm bảo an toàn về cháy nổ phải đòi hỏi thời gian để cho sợi
tóc đèn nguội đến nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ bắt cháy của hỗn hợp cháy có
trong khu vực đó nhỏ hơn thời gian cảm ứng của hỗn hợp cháy đó.
4. Nhiệt độ tự bắt cháy giới hạn nồng độ nổ giới hạn nhiệt độ bốc
cháy
Toàn bộ hỗn hợp cháy tự gia nhiệt (nhờ nhiệt của phản ứng oxi hoá)
hay được gia nhiệt (bằng nguồn điện gián tiếp hoặc do nén đến áp suất cao
trong điều kiện đoạn nhiệt) đến một nhiệt độ nhất định nó sẽ bắt cháy rồi cháy
tiếp tục mà không cần đưa một mồi lửa nào đến gần thì gọi là hiện tượng tự
bắt cháy. Nhiệt độ tại đó xảy ra tự bắt cháy của hỗn hợp cháy gọi là hiện
tượng tự bắt cháy. Vậy nhiệt độ tự bắt cháy là nhiệt độ thấp nhất tại đó hỗn
hợp có thể cháy được mà không cần có mồi lửa từ ngoài.
Nhiệt độ tự bắt cháy phụ thuộc vào thành phần hỗn hợp cháy, thể tích
hỗn hợp cháy, áp suất, phương pháp xác định nó. Chất xúc tác cũng có ảnh
hưởng đến nhiệt độ tự bắt cháy. Thành bình phản ứng cũng xem như một loại
xúc tác. Thành bình bằng thạch anh làm giảm nhiệt độ tự bắt cháy của xăng đi
1000C, và bằng platin gần 3000C so với thành bình bằng sắt. Chì tetraetilen,
pentacacbonil sắt và các chất ức chế khác với một lượng nhỏ có thể tăng đáng
kể nhiệt độ tự bắt cháy (tới 1000C hoặc hơn).
Bằng nhiều thực nghiệm người ta đã xác định được rằng: Hỗn hợp giữa
hơi khí cháy với không khí đạt thành phần tỷ lượng sẽ có nhiệt độ bắt cháy
thấp nhất. Tăng hàm lượng chất cháy trong hỗn hợp cao hơn so với thành
phần tỷ lượng nhiệt độ tự bắt cháy càng tăng. Nếu như thay không khí bằng
oxi nguyên chất thì nhiệt độ tự bắt cháy của hỗn hợp sẽ giảm.
Đối với hiđrôcacbon trong cùng một dãy đồng đẳng thì chất đầu tiên có
nhiệt độ tự bắt cháy cao nhất vì phân tử cua nó bền với oxi. Phân tử lượng của
nó càng tăng nhiệt độ tự bắt cháy càng giảm. Ví dụ, nhiệt độ tự bắt cháy của
benzen là 5910C, của tôluen là 5670C.
Các hiđrôcacbon no, không no, thơm và vòng napten có cùng số
nguyên tử cacbon thì loại thơm có nhiệt độ tự bắt cháy cao nhất, và loại
parafin - thấp nhất.
Trong các đồng phân thì loại hiđrô cacbon mạch nhánh có nhiệt độ tự
bắt cháy cao hơn so với loại mạch thẳng. Nhiệt độ tự bắt cháy của
hiđrôcacbon cao hơn so với dẫn xuất tương ứng của chúng (như alđêhit,
rượu…). Độ nhớt của hiđrôcacbon càng cao nhiệt độ tự bắt cháy càng thấp.
Đa số các chất cháy thể lỏng, khi có nhiệt độ tự bắt cháy trong khoảng
400 - 7000C. Nhiệt độ tự bắt cháy của các chất rắn rất khác nhau. Nhiệt độ tự
bắt cháy của gỗ, than bù, than nâu, than đá nằm trong khoảng 250 - 450 0C tuỳ
theo lượng chất bốc. Kẽm, nhôm, magezi, cốc có nhiệt độ tự bắt cháy trong
khoảng 450 - 8000C.. Nhiệt độ tự bắt cháy của nhiên liệu rắn càng thấp nếu độ
mịn của nó càng cao, hàm lượng cacbon trong nó càng thấp, hàm lượng oxi
trong nó càng cao.
Để xác định nhiệt độ tự bắt cháy có 4 phương pháp chủ yếu: phương
pháp nạp, nén, dòng và nhỏ giọt. Bốn phương pháp này khác nhau chủ yếu ở
cách gia nhiệt, trộn khí hoặc hơi chất cháy với chất oxi hoá. Phương pháp
"nạp" xác định nhiệt độ tự bắt cháy tiến hành như sau :
- Bình phản ứng 1 điện gia nhiệt bằng lò điện 2; hỗn hợp hơi hoặc khí
với không khí được chuẩn bị trước và gia nhiệt sơ bộ đến một nhiệt độ nhất
định từ bình trộn 6 qua van 4 vào bình phản ứng. Nhiệt độ thấp nhất tại đó
hỗn hợp trong bình phản ứng bắt cháy được gọi là nhiệt độ tự bắt cháy cuả nó.
Phương pháp "nhỏ giọt" là phương pháp phổ biến nhất dùng xác định
nhiệt độ tự bắt cháy của hơi chất lỏng :
- Lò điện được nung sơ bộ đến nhiệt độ cao hơn nhiệt độ tự bắt cháy dự
kiến của chất lỏng ta định thử khoảng 100 - 150 0C. Dùng pipet nhỏ chất lỏng
thành từng giọt vào cốc thạch anh đặt sẵn trong lò. Quan sát thí nghiệm qua
một khe hở đứng ở thành lò. Nhiệt độ thấp nhất tại đó ta thấy hơi của chất
lỏng bắt cháy được coi là nhiệt độ tự bắt cháy của nó.
Hỗn hợp chất cháy và chất oxi hoá chỉ có thể cháy trong một khoảng
nồng độ nhất định, ngoài khoảng đó thì quá trình cháy không xảy ra. Khoảng
nồng độ giới hạn đó gọi là giới hạn cháy nổ hay giới hạn lan truyền ngọn lửa.
Nồng độ thấp nhất của khí và hơi ở tỏng không khí có thể gây ra nổ gọi là
giới hạn nổ dưới. Ngược lại, nồng độ cao nhất của hơi và khí trong không khí
có thể gay ra nổ trên gọi là khoảng nổ (hay giới hạn nổ) của một chát. Khoảng
nổ còn có thể gọi là khoảng bắt cháy.
Khoảng nổ càng rộng thì chất đó càng nguy hiểm về cháy và nổ.
Khoảng nổ của một chất không phải là một hằng số. Nó biến đổi tuỳ theo
nhiệt độ, áp suất, tạp chất, mồi bắt cháy và chủ yếu phụ thuộc vào nồng độ
khí trơ ở trong hỗn hợp.
Giới hạn nồng độ thường biểu diễn bằng phần trăm thể tích, bằng nồng
độ trọng lượng (mg/l). Những giá trị về giới hạn nồng độ nổ ghi trong các sổ
tay tra cứu thường cho ở điều kiện áp suất khí quyển và nhiệt độ trong phòng.
Khi tăng cao nhiệt độ miền bắt cháy sẽ được mở rộng. Cứ tăng nhiệt độ lên
1000C thì giới hạn nổ dưới sẽ giảm đi 10% và giới hạn nổ trên sẽ tăng lên
15% so với giá trị ban đầu tương ứng của nó.
Tăng áp suất đến 30 - 40al thực tế không gây ảnh hưởng lên giá trị giới
hạn nồng độ nổ. Nhưng giảm áp suất thì gây ảnh hưởng lớn lao lên giới hạn
nổ. áp suất càng thấp khoảng nổ càng thu hẹp lại. ứng với một nhiệt độ nhất
định ta có thể tìm được một áp suất cực tiểu (hay gọi là áp suất tới hạn), tại đó
giới hạn nổ dưới và trên trùng nhau.
Khi biến đổi thành phần của hỗn hợp bằng cách đưa thêm vào đó một
chất nào khác hoặc thay thế một cấu tử của hỗn hợp bằng một chất khác sẽ
làm thay đổi rõ rết khoảng bắt cháy. Trong môi trường oxi khoảng nổ được
mở rộng đáng kể. Khi đó giới hạn dưới hầu như không biến đổi, nhưng giới
hạn trên thì tăng mạnh. Thêm chất cháy vào, ngược lại, làm giảm khoảng bắt
cháy vì giảm giới hạn trên.
Để xác định giới hạn nồng độ nổ của hỗn hợp hơi, khí với không khí có
nhiều cách khác nhau. Nguyên lý chung là cho vào ống nổ một hỗn hợp ta
định thử có nồng độ đã chọn trước. Đồng thời đưa vào hỗn hợp ở trong ống
nổ một mồi lửa. Mồi lửa có thể là một sợi dây nung đỏ, một tia lửa đienẹ hoặc
thành phần của một hỗn hợp nổ thì nó sẽ nổ và xuất hiện ngọn lửa.
Trong hình 19-5 đưa ra một kiểu dụng cụ để xác định giới hạn nồng độ
nổ của hỗn hợp khí với không khí. Để xác định giới hạn nồng độ nổ dưới
người ta chuẩn bị một hỗn hợp có nồng độ chất cháy thấp hơn so với tính toán
là 20 - 30%. Để xác định giới hạn nồng độ nổ trên người ta chuẩn bị một hỗn
hợp có nồng độ chất cháy cao hơn so với tính toán là 20 -30%. Dùng bơm
chân không 2 hút hết không khí ra khỏi dụng dụ đến khi áp suất còn lại là 3-
5mm cột thuỷ ngân và qua van 9 ta đưa vào dụng cụ một lượng khi cháy đã
tính trước, sau đó nạp không khí vào đầy dụng cụ cho tới khi áp suất trong
dụng cụ cân bằng với áp suất khí quyển.
Liều lượng của khí cháy tính theo áp suất riêng phàn P (mm Hg):
(19-4)
trong đó:
Nt- giới hạn nổ trên (hoặc dưới) của hỗn hợp, %.
K1, K2, … Kn, nồng độ tương đối của mỗi khí cháy có trong hỗn hợp,
% thể tích; (tất nhiên K1 + K2 +… + Kn = 100);
N1, N2,…., Nn giới hạn nổ trên (hoặc dưới) của từng khí cháy tương
ứng có trong hỗn hợp, % thể tích.
Khi tính toán giới hạn nổ bằng phần trăm trong lượng thì K1, K2, …,
Kn phải tính tương ứng bằng phần trăm trọng lượng.
Ví dụ: Xác định giới hạn nồng độ nổ dưới Nd của hỗn hợp khí gồm
20% CO; 40%H2; 30%CH4 và 10% C2H4. Biết giới hạn nổ dưới của từng chất
tương ứng - CO - 15,s6%; H2 - 9,5%; CH4 - 6,3% và C2H2 - 4,0%.
Thay những số liệu đã cho vào công thức 19-4 ta có:
trong đó:
P0 - áp suất ban đầu, at;
ln - nhiệt độ nổ, 0K;
m - số mol khí sau khi nổ;
l0 - nhiệt độ ban đầu, 0K;
n - số mol khí trước khi nổ
Với đa số các chất, nhiệt độ nổ của khí nằm trong khoảng 1500 -
3000 C; áp suất khi nổ thông thường của khí và hơi không quá 11at. Khi tăng
0
nồng độ oxi cao hơn 21% thể tích; áp suất nổ tăng vọt có thể tới 20at.
Tính nổ của hơi chất lỏng còn có thể đặc trưng bằng giới hạn nhiệt độ
bắt cháy.
Giới hạn nhiệt độ dưới là nhiệt độ thấp nhất của chất lỏng tại đó hơi
bão hoà của nó tạo với không khí ở trong bình kín một hỗn hợp đã có khả
năng bắt cháy khi ta đưa một mồi lửa đến gần. Nồng độ hơi tạo ra ở giới hạn
nhiệt độ dưới sẽ tương ứng với giới hạn nồng độ nổ dưới.
Giới hạn nhiệt độ trên là nhiệt độ cao nhất của chất lỏng tại đó hơi bão
hoà của nó tạo với không khí một hỗn hợp còn có khả năng bắt cháy khi ta
đưa một mồi lửa đến gần. Nồng độ hơi tạo ra ở giới hạn nhiệt độ trên sẽ tương
ứng với giới hạn nồng độ nổ trên.
Ở nhiệt độ thấp hơn giới hạn nhiệt độ dưới và cao hơn giới hạn nhiệt độ
trên quá trình cháy không thể xảy ra.
Từ giới hạn nhiệt độ ta có thể tính chuyển ra giới hạn nồng độ bằng
công thức sau:
Nd =
trong đó :
Nd, Nt - giới hạn độ dưới và trên, % thể tích;
p1 , p2 - áp suất hơi bão hòa ở nhiệt độ ứng với giới hạn nhiệt độ dưới và
trên ;
p atm - áp suất khí quyển.
Trong thực tế sản xuất, để hạn chế cháy nổ ta thực hiện quá trình kỹ
thuất trong điều kiện chân không hoặc áp suất thấp. Để chữa cháy phun khí
trơ vào đám cháy. Những điều đó có thể giải thích là do khí đó ta đã tạo điều
kiện để thu hẹp khoảng nổ của hỗn họp.
Như vậy, giới hạn nhiệt độ bắt cháy, giới hạn nồng độ nổ cũng như nhiệt
độ tự bắt cháy và thời gian cảm ứng của các chất cháy là những thống số rất
quan trọng đặc trưng cho mức độ nguy hiểm về cháy nổ của chúng. Chất cháy
có thời gian cảm ứng càng ngắn, khoảng nổ càng rộng (nghĩa là giới hạn nổ
dưới càng thấp, giới hạn nổ trên càng cao) và nhiệt độ tự bắt cháy càng thấp
thì chât đó càng dễ cháy nổ, nghĩa là nó càng nguy hiểm về cháy và nổ; tại đó
những biện pháp phòng ngừa cháy nổ càng cần được xem trọng.
5. Đặc điểm cháy của các vật liệu khác nhau
Quá trình cháy của các chất rắn, lỏng, khí đều trải qua các giai đoạn
chính như sau: chuẩn bị, tự bắt cháy, cháy. Hai giai đoạn sau của quá trình
cháy của khí và chất lỏng (thực chất là cháy hơi của chất lỏng) thì giống nhau,
nhưng với chất rắn thì quá trình cháy phức tạp hơn nhiều.
Với chất khí ở giai đoạn chuẩn bị xảy ra các quá trình gia nhiệt, khuấy
trộn chất cháy với tác nhân oxi hoá, phân huỷ chất cháy. Với chất lỏng, ngoài
những quá trình như với chất khí, trong giai đoạn chuẩn bị có quá trình bốc
hơi chuyển chất lỏng thành pha lơi. Vì cháy chất lỏng chỉ thực hiện trong pha
hơi. Giai đoạn chuẩn bị với chất cháy thể rắn phức tạp hơn nhiều. Nó bao
gồm sự gia nhiệt, thoát ẩm, thoát chất bốc. Một số vật rắn còn có thêm quá
trình nóng chảy, chảy lỏng rồi mới đến quá trình phân huỷ, oxi hoá.
Sau đây ta sẽ xét riêng biệt đặc điểm cháy của các chất chất cháy thể
rắn, khí, lỏng và bụi.
a. Cháy, nổ của hỗn hợp hơi, khí và không khí.
Trong điều kiện sản xuất có thể tạo ra những hỗn hợp giữa hơi hay khí
cháy với không khí, trong đó nồng độ của chất cháy biến đổi trong phạm vi
khá rộng. Trong điều kiện nhất định hỗn hợp đó có thể gây ra cháy, nổ nguy
hiểm.
Sự bắt cháy hỗn hợp cháy trong tất cả các trường hợp đều bắt đầu từ
một điểm rồi sau đó lan truyền ra trong toàn bộ thể tích chứa hỗn hợp cháy.
Tuỳ thuộc vào tốc độ lan truyền ngọn lửa trong hỗn hợp cháy mà ta phân chia
thành quá trình cháy và quá trình nổ.
Lượng nhiệt toả ra khi thực hiện phản ứng hoá học tại lớp khí đầu tiên
sẽ bằng con dường dẫn nhiêtj mà gia nhiệt cho lớp khí tiếp theo làm cho nó
bắt đầu phản ứng: lớp khí này cháy lại tiếp tục đốt cháy lớp khi tiếp theo… cứ
như vạy cho đến khi hết toàn bộ hỗn hợp khí có trong thể tích. Sự cháy dần
dần từng lớp như vậy làm cho vùng cháy chuỷen dịch trong không gian đó và
làm cháy và là một đặc trưng quan trọng của nó. Cháy ổn định có tốc độ lan
truyền ngọn lửa từ vài milimét đến vài centimet trong một giây. Tốc độ cháy
gây nổ có thể từ hàng chục tới hàng trăm mét một giây, thậm chí cháy kích nổ
(hay còn gọi là cháy nén áp) có tốc độ lan truyền tới 1 - 4km/s.
Trong các đường ống dẫn khí có đường kính và chiều dài đủ lớn thì quá
trình cháy đầu tiên xuất hiện thường dưới dạng cháy ổn định, sau đó sẽ
chuyển dần thành cháy kích nổ. áp suất nổ có thể đạt tới 80at hoặc hơn nữa
làm phá huỷ thiết bị, các công trình bao che nếu như không có các biện pháp
phòng nổ đảm bảo. Nhiệt độ của các đám cháy hơi và khí thường không quá
14000C. Khi nổ hỗn hợp hơi, khí với không khí trong vài phần giây, nhiệt độ
có thể đạt tới 20000C. Để tránh tạo ra các hỗn hợp nổ, điều quan trọng là phải
biết tại chỗ nào sẽ tích tụ loại khí, hơi nào.
Để phát hiện và xác định nồng độ hơi khí cháy người ta dùng các
phương pháp phân tích khí thông thường, phân tích khí tự động hay máy báo
khí cháy tự động.
Khuynh hướng cháy, nổ của hỗn hợp hơi, khí cháy biểu thị bằng nhiệt
độ tự bắt cháy, giới hạn nổ.
Đặc tính cháy, nổ của vài chất thường gặp đưa ra trong bảng 3.1 dưới
đây
Bảng 3.11 Đặc tính nổ của các khí cháy
Nhiệt độ
Công
Khí cháy tự bắt Giới hạn nổ
thức
cháy C0
Dưới Trên
% thể mg/l % thể mg/l
tích tích
Amoniac NH3 651 16,0 111,2 27,0 187,7
Axetilen C2H2 335 3,5 37,2 82,0 870,0
Etan C2H6 530 3 30,1 15,0 180,0
Etilen C2H4 540 3,0 34,8 34,0 392,0
Metan CH4 550 5,0 32,6 16,0 104,2
Cacbono
CO 610 12,8 145,0 75,0 890,0
xit
Hidrô H2 530 4,15 3,45 75,0 62,5
Khí hơi
- 500-600 7,12 - 66-72 -
nước
Khí lò
- 500-600 35,0 315,0 74,0 666,0
cao
Khí lò
- 640 4,4 - 34,0 -
cốc
Khí thiên
- 550-750 3,8 - 13,2 -
nhiên
không thể có được trong thực tế. Ví dụ, đối với đường là 13,5kg/m 3, than nâu
là 4,5kg/m3,… Vì vậy, ta không quan tâm đến nó.
Tính nổ của khí-bụi còn được biểu thị bằng thời gian cảm ứng, nhiệt độ
tự bắt cháy. Tính gây cháy của bụi lắng được biểu thị bằng nhiệt độ tự bắt
cháy và khả năng tự cháy.
d. Cháy của chất rắn:
Cháy của chất rắn có hai loại: cháy không có ngọn lửa là đặc thù của
các vật liệu như cốc, than gỗ, kim loại kiềm, kim loại kiềm thổ và cháy có
ngọn lửa - gỗ, than bùn… Cháy có ngọn lửa sáng là đặc thù của các vật liệu
hữu cơ có hàm lượng cacbon lớn hơn 60% và của các chất vô cơ khi cháy tạo
ra các sản phẩm rắn như Al 2O3, MgO, P2O5, K2O và Na2O,… Các chất hữu cơ
có hàm lượng oxi lớn hơn 50%, các hợp chất vô cơ khi cháy tạo ra các sản
phẩm thể khí là những chất khí cháy sẽ tạo ra ngọn lửa không sáng.
Các chất có thành phần hoá học phức tạp khi cháy vừa tạo ngọn lửa,
vừa sinh khói. Tuỳ thành phần của chất cháy, tuỳ quá trình cháy hoàn toàn
hay không mà khói có màu và mùi khác nhau. Cao su, chất dẻo, nhựa cháy
tạo ra khói màu đen. Nhôm, fotfo, manhê, kali, nảti cháy tạo ra khói trắng.
màng phim xeluloit, thuốc súng không khói khi cháy tạo ra sản phẩm cháy
màu nâu vàng. Gỗ cháy tạo ra khói đen phớt xám; vải bông, vải len - khói nâu
phớt xám.
Khí cháy không hoàn toàn trong đám cháy có những sản phẩm độc và
nổ. Vải bông, len, than bùn, gỗ, giấy khi cháy không hoàn toàn sẽ tạo ra 0,4%
cacbon oxit, 2,2% khí cacbonic. Khi cháy xeluloit và màng phim tạo ra 35%
CO2 và 1% HCN, đôi khi cháy còn kèm theo tiếng nổ mạnh và gây ngộ độc
cho người. Phần lớn chát dẻo, sợi nhân tạo khi cháy thường tạo ra rất nhiều
cacbon oxit, hiđroclorua, amoniac, axit xianhiđric fotgen và vài chất khác có
độc tính cao.
Tốc độ cháy các vật liệu cacbon phụ thuộc rất nhiều vào tốc độ phản
ứng oxi hoá, tốc độ khuếch tán oxi tới vùng cháy, bề mặt riêng của chất cháy,
nhiệt độ và áp suất. Tốc độ khuyếch tán oxi càng tăng, thì tốc độ cháy càng
tăng.
Cháy kim loại kiềm thổ (như kali, natri..) tạo thành các oxit xốp nằm lại
trên bề mặt kim loại nóng chảy. Khi cháy, kim loại chảy lỏng theo các mao
quản trong lớp xốp đó mà thấm ra ngoài rồi bị oxi hoá tại bề mặt chất xốp đó.
Kết quả là tạo ra các "nấm" gồm kim loại nóng chảy và các oxit nung đỏ. Bề
dày lớp "nấm" đó tăng theo thời gian cháy và có thể tới vài centimet.
Kim loại kiềm bắt cháy rất khó và cần nhiều thời gian. Sự bắt cháy của
kim loại kiềm chỉ xảy ra sau khi nó đã chảy lỏng, mà cũng chỉ một phần nhỏ
kim loại thôi. Khi cháy mênhê, canxi, nhôm sẽ tạo ra những đám mây trắng
dầy đặc gồm các oxit. Do đó trên bề mặt kim loại cháy nhiệt độ thường vượt
quá 15000C. Các oxit nung đỏ sẽ tạo ra một vùng sáng trông giống như ngọn
lửa. Những phôi bào của manhê, hợp kim menhê cháy rất mạnh. Phoi càng
mỏng, tốc độ cháy càng lớn. Cháy bụi manhê, nhôm xảy ra chậm. Tuy nhiên,
chỉ cần một xung lượng cơ học bất kỳ (lắc, va đập của một tia nước) cũng đủ
kích thích sự cháy và có thể chuyển nó thành nổ.
Nhiệt độ đám cháy của các vật liệu rắn phổ biến thường không quá
1300 C, đặc biệt manhê có thể tới 2000sC.
0
Khả năng cháy của chất rắn xác định bằng nhiệt độ bắt cháy, nhiệt độ
tự bắt cháy. Khái nhiệm bắt cháy và tự bắt cháy của vật rắn cũng có những
nét khác chút ít so với nghĩa thông thường của khái niệm đó.
Bắt cháy là giai đoạn đầu của quá tình cháy xuất hiện khi có mồi lửa
trần. Nhiệt độ bắt cháy là nhiệt độ thấp nhất khi đó vật bị cháy hoặc bắt đầu
cháy âm ỉ và tiếp tục cháy hoặc cháy âm ỉ sau khi bỏ mồi lửa đi. Nhiệt độ bắt
cháy của các chất rắn dao động trong khoảng 50 - 580 0C. Nhiệt độ bắt cháy là
nhiệt độ thấp nhất cần phải gia nhiệt cho vật chất để do sự tự oxi hoá tiếp tục
nó sẽ tự gia nhiệt đến khi bắt cháy. Nhiệt độ tự bắt cháy của các vật rắn
thường khoảng 30 - 5700C.
Một số chất cháy thể rắn dễ dàng bốc hơi ở nhiệt độ thường (thăng hoa)
như fotfo, naptalin,… còn được đặc trưng bằng nhiệt độ bùng cháy.
Chỉ số độ cháy được biểu diễn bằng tỷ số:
K=
trong đó:
K - chỉ số độ cháy;
Qt: Lượng nhiệt toả ra của mẫu khi thử nó trong calorimet ứng với một
nhiệt độ nhất định của mồi lửa, kcal.
Qm- nhiệt lượng của mồi lửa, kcal.
Vật chất có K 2,1 là loại dễ cháy
K < 0,5 khó cháy
K = 0 - không cháy.
PHẦN IX
CẤP CỨU NGƯỜI BỊ ĐIỆN GIẬT
Trong khi làm việc hoặc trong cuộc sống, nếu thấy có người bị điện giật,
bất cứ người nào cũng phải có nhiệm vụ cứu chữa nạn nhân.
Theo thống kê, nếu bị tai nạn điện mà được cấp cứu kịp thời và đúng
phương pháp thì tỉ lệ nạn nhân được cứu sống rất cao.
Bảng dưới đây cho thấy, nếu nạn nhân được cấp cứu ngay trong phút đầu
tiên thì khả năng cứu sống đến 98%. Còn đến phút thứ 5 thì cơ hội cứu sống
chỉ còn 25%.
B. Phải thử bằng cách đeo vào người rồi buộc dây vào vật chắc chắn ở
dưới đất , chụm chân lại ngả người ra phía sau xem dây có hiện tượng gì
không.
D. Cả A và B.
Câu 76: Khi phải nối thang thì nối như thế nào để bảo đảm an toàn?
A. Dùng dây thừng hoặc dây thép buộc chặt 2 đầu chỗ nối ít nhất 1 m.
B. Dùng đai bằng sắt và bắt bulông hoặc dùng nẹp bằng gỗ, tre cứng ốp
2 đầu chỗ nối ít nhất 1 m rồi dùng dây thép để néo xoắn thật chặt, đảm bảo
không lung lay, xộc xệch.
C. Đóng bằng đinh dài 10 cm. D. Không cho phép nối thang để dùng.
Câu 77: Thang di động phải đảm bảo những điều kiện nào sau đây?
A. + Vật liệu dùng làm thang phải chắc chắn và khô.
+ Chiều rộng chân thang ít nhất là 0,5m.
+ Thang không bị mọt, oằn , cong khi làm việc trên đó..
B. + Khoảng cách giữa các bậc thang đều nhau.
+ Bậc thang không được đóng bằng đinh, bậc đầu và bậc cuối phải có
chốt.
+ Nếu là thang tre còn phải lấy dây thép buộc, xoắn chắc ở hai đầu và
giữa thang.
+ Thang phải trong thời hạn cho phép sử dụng.
C. Không quy định. D. Cả A và B.
Câu 78: Khi làm việc trên cao trang bị bảo hộ phải như thế nào?
A. Quần áo phải mặc gọn gàng, phải đeo dây an toàn.
B. Khi làm việc trên cao quần áo phải gọn gàng, tay áo phải buông và cài
cúc, đội mũ, đi giầy an toàn, đeo dây an toàn… Không được đi dép không có
quai hậu, giầy đinh, guốc…Mùa rét phải mặc đủ ấm.
C. Không quy định.
D. Quần áo phải mặc gọn gàng, mùa rét phải mặc đủ ấm.
Câu 79: Khi làm việc trên cao từ mấy mét trở lên bắt buộc phải đeo dây an
toàn, dây đeo an toàn phải mắc như thế nào?
A. Làm việc trên cao từ 3,5m trở lên bắt buộc phải đeo dây an toàn, dây
đeo an toàn phải mắc vào những vật cố định chắc chắn.
B. Làm việc trên cao từ 3,0m trở lên bắt buộc phải đeo dây an toàn, dây
đeo an toàn mắc vào vật nào cũng được miễn là dễ mắc.
C. Làm việc trên cao từ 3m trở lên bắt buộc phải đeo dây an toàn, dù thời
gian làm việc rất ngắn (trừ trường hợp làm việc trên sàn thao tác có lan can
bảo vệ chắc chắn ). Dây deo an toàn không được mắc vào những bộ phận di
động như thang di động hoặc những vật không chắc chắn, dễ gãy, dễ tuột,
phải mắc vào những vật cố định chắc chắn.
D. Không có quy định bắt buộc.
Câu 80: Tình trạng sức khoẻ của người lao động như thế nào thì cấm làm
việc trên cao?
A. Bị các bệnh tim mạch, thần kinh, động kinh….
B. Những người uống rượu, uống bia, ốm đau không đạt tiêu chuẩn sức
khoẻ; tâm lý không ổn định …
C. Không quy định. D. Cả A và B.
Câu 81: Khi thời tiết như thế nào thì cấm làm việc trên cao?
A. Khi trời mưa to nặng hạt.C. Khi có giông sét.
B. Khi có gió tới cấp 6 (60 đến 70 Km/h ). D. Cả A, B và C
Câu 82: Khi làm việc trên giàn giáo, những việc làm nào sau đây bị cấm?
A. Tự ý dỡ lan can, tay vịn; tự ý di chuyển tấm ván lót sàn giàn giáo.
B. Làm việc trên giàn giáo khi trời mưa, bão.
C. Cả A, B đều bị cấm. D. Cả A, B đều được phép
Câu 83: Khi làm việc đồng thời trên nhiều tầng giàn giáo, để đảm bảo an toàn
cho người làm việc ở tầng dưới cần phải?
A. Vị trí giữa 2 tầng giáo phải có sàn hoặc lưới bảo vệ và phải có sự phối
hợp giữa các tầng.
B. Làm việc ở tầng nào chịu trách nhiệm an toàn ở tầng đó.
C. Cả A, B đều đúng. D. Cả A, B đều sai.
Câu 84: Chiếu sáng để làm việc trong các bình, bể kín như thế nào để bảo
đảm an toàn?
A. Làm việc phải có đủ ánh sáng, chiếu sáng trong bình phải là đèn pin,
đèn ắc qui , nếu dùng điện xoay chiều để chiếu sáng thì phải dùng nguồn có
điện thế U = 12V, máy biến áp phải là MBA cách ly đặt ở bên ngoài, dây dẫn
cách điện phải tốt.
B. Làm việc phải có đủ ánh sáng, điện chiếu sáng trong bình dùng bóng
đèn có điện thế U = 220V cũng được, nhưng dây dẫn cách điện phải tốt.
C. Làm việc phải có đủ ánh sáng, điện chiếu sáng trong bình phải dùng
bóng đèn có điện thế U = 12V, dùng MBA tự ngẫu và MBA phải đặt ở bên
ngoài bình, dây dẫn cách điện tốt.
D. Dùng mọi biện pháp chiếu sáng để có đủ ánh sáng làm việc.
Câu 85: Khi làm việc trong các bình, bể kín ít nhất phải có mấy người? Biện
pháp giám sát, cứu hộ khi cần thiết?
A. Không quy định.
B. Chỉ cần 1 người, không cần biện pháp cứu hộ.
C. Ít nhất phải có hai người (một người làm việc, một người giám sát và
cứu hộ), liên lạc có thể bằng dây - Người làm việc buộc dây vào người, người
giám sát giữ đầu dây bên ngoài để cứu hộ kịp thời nếu có dấu hiệu bất
thường.
D. Ít nhất phải có hai người cùng làm việc bên trong.
Câu 86: Khi làm việc trong các bình, bể kín mà công việc thường xuyên phát
sinh ra hơi khí độc, cháy nổ như sơn, gõ rỉ, hàn thì phải thực hiện các biện
pháp thông gió như thế nào trong thời gian làm việc?
A. Chỉ cần thông gió tự nhiên.
B. Thông gió trong bình bằng quạt cưỡng bức kết hợp với thông gió tự
nhiên. Phải liên tục thực hiện biện pháp thông gió cưỡng bức, thông gió phải
đồng thời cấp không khí sạch vào và hút khí độc hại, cháy nổ ra.
C. Chỉ cần mở hết các nắp, cửa của bình bể.
D. Khi nào nhóm công tác cảm thấy khó thở thì chạy thông gió cưỡng
bức.
Câu 87: Ở nơi làm việc với kiềm phải có?
A. Vòi nước, bông, băng, vải sạch.
B. Dung dịch Axít Boríc 0,2 % và 5% hoặc dung dịch A xít Axêtíc
(CH3COOH) 1% và 5%.
C.Dung dịch sô đa (Na2CO3) 0,5 % và dung dịch sô đa (Na2CO3)2 - 4 %.
D. Cả A và B.
Câu 88: Ở nơi làm việc với chất keo tụ phải có?
A. Vòi nước, bông, băng, vải sạch.
B. Dung dịch Axít Boríc 0,2 % và 5% hoặc dung dịch A xít Axêtíc
(CH3COOH) 1% và 5%.
C.Dung dịch sô đa (Na2CO3) 0,5 % và dung dịch sô đa (Na2CO3)2 - 4 %.
D. Cả A và C.
Câu 89: Ở nơi làm việc với axit phải có?
A. Vòi nước, bông, băng, vải sạch.
B. Dung dịch Axít Boríc 0,2 % và 5% hoặc dung dịch A xít Axêtíc
(CH3COOH) 1% và 5%.
C. Dung dịch KmnO4 5%; dung dịch Na2CO3 2%, 5% và 10 % và dầu
Vadelin.
D. Cả A và C.
Câu 90: Khi bị kiềm (ở dạng tinh thể hay ở dạng dung dịch đậm đặc) bắn vào
da, xử lý như thế nào?
A. Phải lấy bông hay miếng vải sạch khô lau sạch, sau đó rửa bằng dung
dịch axít axê tíc 1% (3 - 6% theo thể tích ) hay rửa bằng dung dịch axít boríc
(H3BO4) (1 thìa cà phê axít boríc hoà với một cốc nước ) rồi phủ lên chỗ bị
bỏng 1 miếng băng có tẩm dung dịch Bo ríc 5%.
B. Dùng vải hoặc khăn sợi bông thấm khô rồi dùng vòi nước chảy để rửa
vết thương đó thật cẩn thận trong thời gian 10 - 15 phút. Sau khi rửa nước
xong, vết thương được rửa bằng dung dịch (KMnO4) 5% hay là bằng dung
dịch sô đa 10% Na2CO3 (lấy 1 thìa cà phê sô đa hoà vào một cốc nước) rồi
dùng dầu vadelin bôi vào vết thương, hay là đưa đến trạm y tế cấp cứu.
C. Cả A và B đều được. D. Chỉ cần lau khô chỗ bị kiềm bắn vào.
Câu 91: Khi bị axít (sunfuríc, clohydríc..) bắn vào da, xử lý như thế nào?
A. Phải lấy bông hay miếng vải sạch khô lau sạch, sau đó rửa bằng dung
dịch axít axê tíc 1% (3 - 6% theo thể tích ) hay rửa bằng dung dịch axít boríc
(H3BO4) (1 thìa cà phê axít boríc hoà với một cốc nước ) rồi phủ lên chỗ bị
bỏng 1 miếng băng có tẩm dung dịch Bo ríc 5%.
B. Dùng vải hoặc khăn sợi bông thấm khô rồi dùng vòi nước sạch chảy
mạnh để rửa vết thương đó thật cẩn thận trong thời gian 10 - 15 phút. Sau khi
rửa nước xong, vết thương được rửa bằng dung dịch (KMnO4) 5% hay là
bằng dung dịch sô đa 10% Na2CO3 (lấy 1 thìa cà phê sô đa hoà vào một cốc
nước) rồi dùng dầu vadelin bôi vào vết thương, hay là đưa đến trạm y tế cấp
cứu.
C. Cả A và B đều được. D. Chỉ cần lau khô chỗ bị kiềm bắn vào.
Câu 92: Mục đích và ý nghĩa của nối đất vỏ thiết bị điện?
A. Để xác định chế độ làm việc của thiết bị điện.
B. Để thoát dòng điện cảm ứng xuống đất.
C. Để bảo vệ an toàn cho người khi chạm phải vỏ của thiết bị trong
trường hợp cách điện của thiết bị bị hư hỏng làm vỏ máy cũng xuất hiện điện
áp.
D. Cả A, B và C đều sai.
Câu 93: Tiêu chuẩn Việt Nam quy định điện áp an toàn như thế nào?
A. Quy định điện áp an toàn là 42V điện xoay chiều và 120V điện một
chiều.
B. Quy định điện áp an toàn là 50V điện xoay chiều và 110V điện một
chiều.
C. Quy định điện áp an toàn là 42V điện xoay chiều và 110V điện một
chiều.
D. Quy định điện áp an toàn là 60V điện xoay chiều và 120V điện một
chiều.
Câu 94: Tiêu chuẩn Việt Nam quy định điện áp an toàn dùng cho những nơi
đặc biệt nguy hiểm về điện, chiếu sáng trên máy công cụ và hàn hồ quang
trong thùng bể kim loại như thế nào?
A. Quy định điện áp an toàn là 42V điện xoay chiều và 120V điện một
chiều.
B. Quy định điện áp an toàn là 50V điện xoay chiều và 110V điện một
chiều.
C. Quy định điện áp an toàn là 42V điện xoay chiều và 110V điện một
chiều.
D. Quy định điện áp an toàn là 12V, 24V hay 36V điện xoay chiều.
Câu 95: Những điều nào dưới đây bị cấm khi thao tác, vận chuyển các chai
ôxy?
A. Cấm dùng tay có dính mỡ.
Cấm mang vác bằng tay hoặc lăn đi, phải vận chuyển bằng thiết bị
chuyên dùng.
Cấm mang vác chai khí lên thang hoặc thang xếp, việc nâng chai khí
lên cao được tiến hành trong các thùng chứa đặc biệt.
B. Cấm tháo nắp chai bằng búa đập và đục.
Cấm sử dụng các chai bị nứt, bị hỏng (bị móp, sứt mẻ ).
Cấm sử dụng các chai không có dấu hiệu khám nghiệm của đơn vị nạp
khí.
C. Cả A và B đều sai. D. Cả A và B đúng.
Câu 96: Yêu cầu trước và trong khi tiến hành công việc, thợ hàn khí phải?
A. Loại bỏ các vật liệu dễ bốc lửa. Có biện pháp che chắn bảo đảm an
toàn PCCN, nhất là khi hàn, cắt ở trên cao.
B. Kiểm tra độ kín và bền của các chỗ nối dây dẫn khí. Xác định mức độ
an toàn của các ren nối các van.
C. Kiểm tra mức độ đảm bảo an toàn của mỏ hàn, van giảm áp và các
ống dẫn.
D. Cả A, B và C.
Câu 97: Những điều nào dưới đây bị cấm khi thao tác đưa chai ôxy vào làm
việc?
A. Dùng các chai chưa được khám nghiệm hoặc đã quá hạn sử dụng.
Dùng các van giảm áp có ren không thích hợp ở những chỗ nối ren.
Dùng các chai có ren hở khí.
B. Tháo và lắp các van của chai.
C. Lấy ôxy khỏi chai khi áp xuất trong chai nhỏ hơn 0,5 at.
D. Cả A, B và C.
Câu 98: Những điều nào bị cấm khi thao tác hàn, cắt bằng khí?
1. Đặt ống dẫn ô xy cách dây dẫn điện ở khoảng cách nhỏ hơn 0,5m.
Thợ hàn sửa chữa mỏ hàn (mỏ cắt ) Và các van giảm áp khác.
2. Lấy ôxy khỏi chai khi áp xuất trong chai nhỏ hơn 0,5 at.
Thợ hàn đem mỏ hàn đang cháy ra khỏi vị trí công tác.
3. Hàn ở trên các thang dựng.
Hàn và cắt các bể chứa, ống dẫn đang chịu áp lực.
4. Đồng thời hàn khí, cắt khí và hàn điện trong các bể chứa, bình chứa.
Những điều cấm trong khi hàn, cắt bằng khí là:
A. 1 và 2. B. 1 và 3.
C. 1, 2, 3 và 4. D. 1, 2 và 3.
Câu 99: Khi tiến hành công việc hàn phải đặt bình chứa khí cách chỗ hàn và
các nguồn nhiệt khác có ngọn lửa hở, cách các lò sưởi ít nhất là bao nhiêu
mét?
A. Khi tiến hành công việc hàn phải đặt bình chứa khí cách chỗ hàn và
các nguồn nhiệt khác có ngọn lửa hở một khoảng ít nhất là 10m, cách các lò
sưởi ít nhất là 1,5m.
B. Khi tiến hành công việc hàn phải đặt bình chứa khí cách chỗ hàn và
các nguồn nhiệt khác có ngọn lửa hở một khoảng ít nhất là 5m, cách các lò
sưởi ít nhất là 0,5m.
C. Khi tiến hành công việc hàn phải đặt bình chứa khí cách chỗ hàn và
các nguồn nhiệt khác có ngọn lửa hở một khoảng ít nhất là 8m, cách các lò
sưởi ít nhất là 1m.
D. Không quy định.
Câu 100: Khi nối van giảm áp vào chai ôxy, phải thực hiện như thế nào để
bảo đảm an toàn?
A. Đứng ở phía trước hướng của dòng khí đi ra khỏi chai.
B. Đứng ở phía bên kia hướng của dòng khí đi ra khỏi chai.
Chắc chắn việc không còn dấu vết dầu mỡ nào.
C. Cả A, B đều sai.
D. Không quy định.
Câu 101: Những dấu hiệu nào trên vỏ chai cho thấy chai chứa khí đã được
khám nghiệm có kết quả tốt?
A. Trên vỏ chai được đóng các số liệu sau: Dấu của nhà máy đã tiến
hành khám nghiệm chai; ngày tháng đã khám nghiệm và lần khám nghiệm
tiếp theo.
B. Khối lượng đóng trên chai.
C. Số chế tạo chai, tháng năm chế tạo chai. D. áp suất làm việc của chai.
Câu 102: Những dấu hiệu nào trên vỏ cho chai thấy chai axêtilen đã được
kiểm tra chất xốp?
A. Ngày tháng nạp chất xốp.
B. Trên vỏ chai được đóng: Dấu của nhà máy nạp chất xốp, năm tháng
kiểm tra chất xốp, dấu hiệu chứng tỏ đã kiểm tra chất xốp.
C. Số chế tạo chai, tháng năm chế tạo chai. D. áp suất làm việc của chai.
Câu 103: Trong các trường hợp sau, trường hợp nào phải loại bỏ chai chứa
khí?
A. Chai bị phồng lên rõ ràng; chai bị nứt, rò rỉ.
B. Chai bị cháy.
C. Chai bị ăn mòn sâu tới 15% chiều dày của vỏ chai hoặc có vết lõm
sâu từ 25% chiều rộng vết lõm hoặc vết lõm rộng bằng từ 5% đường kính
ngoài của chai.
D. Cả A, B và C.
Câu 104: Sử dụng kìm hàn trong các trường hợp sau trường hợp nào được
phép?
A. Kìm hàn tự chế.
B. Kìm hàn được chế tạo có tay cầm bằng vật liệu cách điện và chịu
nhiệt.
C. Cả A và B đều được phép sử dụng.
D. Cả A và B đều không được phép sử dụng.
Câu 105: Trước khi đấu điện cho máy hàn cần phải?
A. Nối vỏ máy hàn với đất hoặc nối vỏ máy hàn với dây trung tính.
B. Không quy định, tuỳ theo tình huống mà quyết định nối đất vỏ máy
hàn hay không.
C. Không cần nối đất vỏ máy hàn.
D. Cả A, B và C đều sai.
Câu 106: Khi hàn trên cao nếu không có sàn thao tác cần phải?
A. Bắc thang để đứng trên thang tiến hành công việc hàn.
B. Không được phép tiến hành công việc.
C. Đeo dây an toàn, phải có túi đựng dụng cụ và mẩu que hàn thừa. Phải
dọn sạch các chất dễ cháy ở dưới khu vực hàn. Phải có biện pháp che chắn
bảo vệ, không để các giọt kim loại nóng đỏ, mẩu que hàn thừa, các vật liệu
khác rơi xuống dưới. Cấm không được hàn khi đang đứng trên thang dựng.
D. Cả A, B và C đều đúng.
Câu 107: Những trường hợp nào sau đây phải dừng, không được tiến hành
công việc hàn?
A. Khi xuất hiện sai xót trên máy hàn, dây dẫn hàn, kìm hàn hoặc mặt lạ
hàn.
B. Công việc hàn ngoài trời mà có mưa to, dông bão, sấm sét.
C. Cả A và B.
D. Không quy định, người thợ hàn khi nào cẩm thấy nguy hiểm thì dừng
công việc.
Câu 108: Khi nâng chuyển tải và hạ tải những điều nào sau đây bị cấm?
A. Để người (kể cả công nhân móc tải) đứng giữa tải và chướng ngại vật.
B. Để tải và cần nằm ở trên đầu người trong suốt quá trình nâng, hạ và di
chuyển tải.
C. Để công nhân móc tải đứng gần tải khi nâng, hạ tải nếu tải ở độ cao
không lớn hơn 1m tính từ mặt sàn nhà công nhân móc tải đứng.
D. Trường hợp A và B.
Câu 109: Trước khi nâng chuyển tải phải phải nhấc thử tải như thế nào để
kiểm tra dây và phanh?
A. Nhấc thử lên độ cao 1m.
B. Nhấc thử lên độ cao 200 đến 300 mm.
C. Nhấc thử lên độ cao khoảng 400 mm.
D. Nhấc thử lên độ cao khoảng 500 mm.
Câu 110: Khi nâng tải trong các trường hợp sau, trường hợp nào bị cấm?
A. Nâng tải trong tình trạng không ổn định hoặc chỉ móc lên một bên của
móc kép.
B. Khi có người đứng trên tải.
C. Nâng tải bị vùi dưới đất, bị các vật khác đè lên, bị liên kết bằng bu
lông với các vật khác hoặc bị liên kết với bê tông. Kéo lê tải trên đất, sàn hoặc
đường ray khi cáp nâng tải xiên.
D. Trường hợp A, B và C.
Câu 111: Những việc làm sau đây là bắt buộc khi kiểm tra, sửa chữa, điều
chỉnh các cơ cấu của cẩu hoặc khi ngừng công việc?
A. Để điện vào thiết bị nâng hoặc không tắt máy.
B. Không được treo tải ở trên cao và phải ngắt cầu dao điện hoặc tắt
máy.
C. Không quy định, tuỳ theo thực tế công việc.
D. Cả A, B và C đều đúng.
Câu 112: Cáp 8 x 19 = 152 sợi bện chéo có hệ số dự chữ bền ban đầu là 6.
Xác định số sợi đứt cho phép?
A. 14 sợi. B. 16 sợi.
C. 19 sợi. D. 22 sợi.
Câu 113: Cáp 8 x 19 = 152 sợi bện xuôi có hệ số dự chữ bền ban đầu là 6.
Xác định số sợi đứt cho phép?
A. 11 sợi. B. 6 sợi.
C. 8 sợi. D. 10 sợi.
Câu 114: Khi di chuyển trong trạm vận tốc tối đa của xe cần cẩu, xe thang, xe
nâng là bao nhiêu km/h?
A. Không quy định. B. 10 km/h.
C. 5 km/h. D. 15 km/h.
Câu 115: Khi làm việc trong trạm điện có cắt điện hoàn toàn hoặc một phần
hoặc ở xa nơi có điện, được phép sử dụng các loại xe nâng nào?
A. Xe cần cẩu. B. Xe thang.
C. Xe nâng. D. Cả A, B và C.
Câu 116: Khi làm việc trong trạm điện gần nơi có điện, không được phép sử
dụng các loại xe nâng nào?
A. Xe cần cẩu.. B. Xe thang.
C. Xe nâng D. Cả A, B và C.
Câu 117: Những yếu tố nào cần thiết cho sự cháy?
A. Chất cháy. C. Nguồn ôxy đầy đủ.
B. Nguồn nhiệt thích ứng. D. Cả A, B và C.
Câu 118: Các đám cháy sau, đám cháy nào là đám cháy loại A?
A. Cháy ở thiết điện được nối mạch điện.
B. Cháy các kim loại dễ cháy như các kim loại kiềm thổ: K, Na. Mg….
C. Cháy vật liệu dễ cháy thông thường như gỗ, vải, giấy, cao su, chất
dẻo…
D. Cháy chất khí, chất lỏng, các loại dầu mỡ dễ bắt lửa, dễ cháy.
Câu 119: Các đám cháy sau, đám cháy nào là đám cháy loại B?
A. Cháy ở các thiết điện được nối mạch điện.
B. Cháy các kim loại dễ cháy như kim loại kiềm thổ: K, Na. Mg….
C. Cháy vật liệu dễ cháy thông thường như gỗ, vải, giấy, cao su, chất
dẻo….
D. Cháy chất khí, chất lỏng, các loại dầu mỡ dễ bắt lửa, dễ cháy.
Câu 120: Các đám cháy sau, đám cháy nào là đám cháy loại C?
A. Cháy thiết điện được nối mạch điện.
B. Cháy các kim loại dễ cháy như các kim loại kiềm thổ: K, Na. Mg….
C. Cháy vật liệu dễ cháy thông thường như gỗ, vải, giấy, cao su, chất
dẻo….
D. Cháy chất khí, chất lỏng, các loại dầu mỡ dễ bắt lửa, dễ cháy.
Câu 121: Các đám cháy sau, đám cháy nào là đám cháy loại D?
A. Cháy thiết điện được nối mạch điện.
B. Cháy các kim loại dễ cháy như các kim loại kiềm thổ: K, Na. Mg….
C. Cháy vật liệu dễ cháy thông thường như gỗ, vải, giấy, cao su, chất
dẻo….
D. Cháy chất khí, chất lỏng, các loại dầu mỡ dễ bắt lửa, dễ cháy.
Câu 122: Công dụng bình chữa cháy CO2?
A. Bình chữa cháy CO2 là loại thiết bị chữa cháy bên trong chứa khí CO2
ở – 790C được nén vào bình chịu áp lực cao. Bình chữa cháy CO2 dùng để dập
tắt đám cháy ngoài trời có gió to.
B. Bình chữa cháy CO2 là loại thiết bị chữa cháy bên trong chứa khí CO2
ở – 790C được nén vào bình chịu áp lực cao. Bình chữa cháy CO2 dùng để dập
tắt đám cháy trong phòng kín, buồng hầm, các thiết bị điện.
C. Bình chữa cháy CO2 là loại thiết bị chữa cháy bên trong chứa khí CO2
ở – 790C được nén vào bình chịu áp lực cao. Bình chữa cháy CO2 dùng để dập
tắt đám cháy có than cốc.
D. Bình chữa cháy CO2 là loại thiết bị chữa cháy bên trong chứa khí CO2
ở – 790C được nén vào bình chịu áp lực cao. Bình chữa cháy CO2 dùng để dập
tắt đám cháy kim loại kiềm.
Câu 123: Để chữa ban đầu một đám cháy phải thực hiện các bước:
1. Cắt điện trong khu vực cháy.
2. Báo động (hô hoán cho mọi người xung quanh biết, báo người phụ
trách).
3. Nếu không chữa được gọi đội chữa cháy ĐT 16 111.
4. Dùng dụng cụ, phương tiện chữa cháy tại chỗ để cứu chữa.
Các bước thực hiện trên tiến hành theo trình tự nào là đúng?
A. 1, 2, 3, 4. B. 1, 2, 4, 3.
C. 1, 4, 2, 3. D. 2, 1, 4, 3.
Câu 124: Những điều cần lưu ý khi sử dụng bình CO2?
A. Tuyệt đối không sử dụng bình CO2 để chữa các đám cháy có than cốc,
không dùng để chữa cháy nơi có phân đạm, kim loại kiềm, kiềm thổ, hợp chất
técmít, kim loại nóng chảy.
B. Không để khí CO2 phun vào người vì sẽ gây bỏng lạnh rất nguy hiẻm,
không nên dùng bình CO2 chữa các đám cháy ở nơi gió mạnh vì hiệu quả
không cao.
C. Tầm phun của bình chữa cháy CO2 rất hạn chế, do vậy khi chữa cháy
cần tiếp cận đám cháy.
D. Cả A, B và C.
Câu 125: Sử dụng bình CO2 chữa cháy cần phải thực hiện:
1. Trả bình đã hết khí để nạp lại hoặc đổi bình mới để vào vị trí thường
trực.
2. Xách bình CO2 tiếp cận đám cháy, đứng trước chiều gió, rút chốt bảo
hiểm.
3. Mở van bình hoặc bóp cò (tuỳ theo từng loại bình).
4. Cầm loa phun hướng vào gốc lửa, khoảng cách tối thiểu 0,5 m.
Các bước thực hiện trên tiến hành theo thứ tự nào là đúng?
A. 1, 2, 3, 4. B. 2, 4, 3, 1.
C. 2, 3, 4, 1. D. 1, 2, 4, 3.
Câu 126: Sử dụng bình MFZ xách tay chữa cháy cần phải thực hiện:
1. Trả bình đã sử dụng để nạp lại hoặc đổi bình mới để vào vị trí thường
trực.
2. Xách bình MFZ tiếp cận đám cháy ở khoảng cách từ 2 – 3 m, đứng
trước chiều gió.
3. Cầm vòi phun hướng vào đám cháy, bóp cò, phun bột quét vào gốc
ngọn lửa.
4. Dốc ngược bình lên xuống khoảng 5 – 7 lần, đặt bình xuống, rút chốt
bảo hiểm ra.
Các bước thực hiện trên tiến hành theo thứ tự nào là đúng?
A. 1, 2, 3, 4. B. 2, 4, 3, 1.
C. 2, 3, 4, 1. D. 1, 2, 4, 3.
Câu 127: Điều 4 luật phòng cháy và chữa cháy được Quốc hội thông qua
ngày 29/6/2001 quy định nguyên tắc phòng cháy và chữa cháy như thế nào?
1. Huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân tham gia hoạt động phòng
cháy và chữa cháy.
2. Trong hoạt động phòng cháy và chữa cháy lấy phòng ngừa là chính;
phải tích cực và chủ động phòng ngừa, hạn chế đến mức thấp nhất các vụ
cháy xảy ra và thiệt hại do cháy gây ra.
3. Phải chuẩn bị sẵn sàng lực lượng, phương tiện, phương án và các điều
kiện khác để khi có cháy xảy ra thì chữa cháy kịp thời, có hiệu quả.
4. Mọi hoạt động phòng cháy và chữa cháy trước hết phải được thực
hiện và giải quyết bằng lực lượng và phương tiện tại chỗ.
Quy định nguyên tắc PCCC được thể hiện trong các ý:
A. 1 và 2. B. 1 và 3.
C. 1, 2, 3 và 4. D. 1 và 4.
Câu 128: Điều 14 luật PCCC được QH thông qua ngày 29/6/2001 quy định
biện pháp cơ bản trong PCCC như thế nào?
A. Quản lý chặt chẽ và sử dụng an toàn các chất cháy, chất nổ, nguồn
lửa, nguồn nhiệt, thiết bị và dụng cụ sinh lửa, sinh nhiệt, chất sinh lửa, sinh
nhiệt; bảo đảm các điều kiện an toàn về phòng cháy.
B. Thường xuyên, định kỳ kiểm tra phát hiện các sơ hở, thiếu sót về
phòng cháy và có biện pháp khắc phục kịp thời.
C. Cả A và B đều sai.
D. Cả A v à B là đúng.
Câu 129: Khi di chuyển theo chiều ngang phải nâng tải hoặc bộ phận mang
tải lên cao cách chướng ngại vật một khoảng cách ít nhất là bao nhiêu để bảo
đảm an toàn?
A. 300 mm. B. 200 mm.
C. 500 mm. D. 400 mm.
Câu 130: Trong các trường hợp sau, trường hợp nào bị cấm?
A. Lên xuống thiết bị nâng khi thiết bị đang di chuyển.
B. Đứng trong bán kính quay của phần quay của các loại cần trục.
C. Làm việc khi thiết bị an toàn và phanh hỏng.
D. Cả A, B và C.
Câu 131: Trước khi làm việc trong trạm điện người lái xe cần cẩu, xe thang,
xe nâng người lái xe phải thử các cơ cấu làm việc của xe. Các trường hợp sau
trường hợp nào là đúng quy định?
A. Đưa xe đến vị trí công tác rồi tiến hành thử.
B. Không có quy định phải thử các cơ cấu trước khi làm việc.
C. Thử ở một nơi khác ngoài phạm vi nguy hiểm.
D. Không phải thử vì cảm thấy xe vẫn vận hành bình thường.
Câu 132: Khi cắt điện một phần và không cắt điện ở gần nơi có điện thì việc
nối đất bệ xe cần cẩu, xe thang, xe nâng được quy định như thế nào?
A. Không cần nối đất bệ xe.
B. Phải nối đất bệ xe bằng nối đất lưu động.
C. Không có quy định cụ thể, tuỳ theo tình huống cụ thể để quyết định.
D. Nếu người cho phép vào làm việc yêu cầu thì mới nối đất.