You are on page 1of 131

Hoa đạo G.

Ohsawa

1
Hoa đạo G.Ohsawa

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU


CHƯƠNG MỘT: VÀI DÒNG LỊCH SỬ
CHƯƠNG HAI: CÁC LOÀI HOA
CHƯƠNG BA: KỸ THUẬT CẮM HOA
CHƯƠNG BỐN: CÂY CẢNH THU NHỎ
(BONSAI)
CHƯƠNG NĂM: TRIẾT LÝ VỀ HOA
PHỤ LỤC: BÀI HOA

2
Hoa đạo G.Ohsawa

LỜI NÓI ĐẦU


HOA LÁ CỎ CÂY VÀ TÌNH TỰ DÂN
TỘC
Tôi có một người giúp việc, mỗi lần sắp
xếp mầy lọ hoa và chậu cây cảnh nhỏ (bonsai)
là cô này cứ quay phía sau ra trước. Cô
không sao hiểu thấu trạng thái hài hòa huyền
diệu mà một người Nhật chính thống phải
cảm thấy được dù trong một bó hoa đơn giản
khéo sắp xếp. Dường như cô xa lạvới nghệ
thuật hoa cành không phải do thân phận
thấp hèn, vì ở Nhật ai cũng muốn trở thành
nghệ sĩ, nhất là trong lãnh vực chơi hoa, mà
có lẽ cô thiếu khiếu thẩm mỹ. Vì vậy, khi nói
về hoa với người Pháp, tôi sợ bị hiểu sai, và
tôi càng lo hơn nữa nếu phải nói với những
người phương Tây thiếu phần tinh tế, vì ở
đây chúng ta bước vào một lãnh vực trưng
bày tâm hồn sâu thẳm của người Nhật, luôn
luôn bí ẩn và khó hiểu đới với người phương
Tây.
Tuy nhiên không gì đơn giản, mộc mạc
hơn tâm hồn người Nhật. Tôi nghĩ rằng
không có nước nào trên thế giới như ở Nhật
người ta tổ chức những chuyến xe lửa chở
khách nhàn du đi nghe tiếng chim sơn ca hót
3
Hoa đạo G.Ohsawa

lúc nửa đêm, xem hoa anh đào nở, hoặc


ngắm những lớp tuyết đầu tiên tô điểm núi
non. Vào mùa hè, tại các ga xe lửa ở Nhật có
dán những tờ áp phích mời gọi công chúng
tham dự trò săn đom đóm. Nhưng đừng vội
nghĩ đây là săn bắn thật sự, vì người Nhật
chưa từng săn bắn mua vui cho đến khi
phong trào từ bên ngoài nhập vào trong
nước. Săn đom đóm chỉ là một cuộc đi chơi
đến vùng quê Hotaru để ngắm nhìn những
côn trùng sáng ngời bay lượn và dùng tay
bắt chúng đùa chơi một lúc rồi thả ra. Cũng
có những chuyến xe đặc biệt chở khách đi
thưởng ngoạn cảnh trăng lên trên những đồi
thông lửng lơ sương già… Tương tự những
tay nhiếp ảnh ở châu Âu săn lùng cảnh đẹp,
nhưng ở đây người ta thích hưởng cảm giác
nhất thời hơn là thu vào phim ảnh. Thật vậy,
ý muốn vật chất hóa mọi điều kỷ niệm của
người phương Tây đối với người Nhật
dường như ấu trĩ, vì có khác chi giữ mãi
trong bình một bó hoa tàn. Phải quay mặt đi
chỗ khác, đừng nhìn những vật đã chết, nhất
là những vật từng có thời tươi đẹp. Người
Trung Quốc xưa đã dùng hai động từ diễn tả
khả năng nhìn thấy: “thị” là thấy bằng mắt,
và “ngộ” là thấy bằng tâm hồn.

4
Hoa đạo G.Ohsawa

Đôi khi cũng nên nhắm cặp mắt xác thịt


và mở những con mắt tinh thần để thưởng
thức một cụm hoa Nhật Bản. Các đóa hoa
tượng trưng một thời tươi đẹp, và với vẻ yên
lặng dịu mềm, hoa đưa ta ra ngoài biên giới
của thời gian. Những đường nét uyển
chuyển của hoa không chỉ đẹp mắt, mà còn
chứa đựng bí ẩn của tạo hóa, bí ẩn này chỉ
phơi bày với những ai biết trân trọng ngắm
nhìn.
Sự trân trọng đó, hay nói đúng hơn là
lòng yêu thương trìu mến (người ta không
biết diễn tả thế nào cho chính xác khi thấy
người nông dân chất phác cúi chào cây cải
trước khi cắt lá, cũng như dân quê nước
Pháp làm dấu thánh giá trước khi cắt xẻ bánh
mì) là một tình cảm tự nhiên và thật sâu sắc
trong tâm hồn người Nhật, tình cảm đó vấn
vương trong mọi tầng lớp xã hội, kể cả
những người tưởng chừng hờ hững.
Tôi tin rằng những người đánh xe ngựa
ở Paris ngày trước không có khiếu về thơ ca,
cũng như về các loại hình nghệ thuật khác.
Gán cho họ khả năng đó sẽ làm họ họ bật
cười. Tại Nhật Bản, những người kéo xe tay,
xét về nhiều phương diện, chằng khác gì
những người đánh xe ngựa ở Paris, nhưng
5
Hoa đạo G.Ohsawa

khác mọi điều là họ tự hào biết thưởng thức


hoa cảnh. Họ thường ngồi hàng giờ với
những chậu cảnh tí hon trong khi chờ khách.
Họ tỉa tót, lau chùi, dịu dàng xới đất, nhất là
yên lặng ngắm nhìn.
Đôi khi có người hỏi mua một chậu,
nhưng chưa chắc họ đã bán, mặc dù vài chục
đồng yên (tiền Nhật – LND) không phải là
điều bác kéo xe không thèm muốn, hơn nữa
bác còn bị bạn bè, những người chỉ thích cờ
bạc đỏ đen chế nhạo. Có thể một người sẽ hỏi:
“Tại sao cậu không bán ? Giữ lại để làm gì
cho tổ khổ thân?”. Bác kéo xe trả lời: “Thế tại
sao cậu không đem con cậu ra bán?”.
Đám trẻ con Nhật Bản lớn lên giữa
những bông hoa. Chúng thấy mẹ chúng kính
cẩn mang hoa cắm vào lọ quý đặt trên khán
thờ (tokonoma). Dù trong những nhà nghèo
nhất, chúng cũng thấy hoa trên bàn thờ tổ
tiên ngày Tết. Dù không bắt buộc phải có hoa
lạ, hoa quý, hồn thiêng tổ tiên mới hài lòng.
Hoa đồng mộc mạc cũng đủ lắm rồi, và
còn lý tưởng nữa là khác, vì hoa đồng gợi
nhớ hương vị của thiên nhiên.
Những bậc thầy vĩ đại của nghệ thuật
cắm hoa - tại vì Nhật Bản có nhiều tay chơi
6
Hoa đạo G.Ohsawa

sành điệu, riêng ở Tokyo đã có mấy ngàn


người - là những nghệ sĩ chân chính không
bao giờ khinh bỉ những loài hoa dại. Họ
thường đưa học trò ra đồng, đến vùng ven
rừng hoặc bờ ao, và sau khi ra đề mục sáng
tác, họ để từng đệ tử diễn tả cảm xúc của
mình trước những bông hoa dại.
Người ta không thể nào tha thứ một đứa
trẻ phá hoại hoa, vì cho đó là một tội lỗi đê
hèn còn hơn hành hạ các xúc vật: Người ta
xem tất cả các loài hoa đều thiêng liêng, tuy
ở nhiều mức độ khác nhau; đầu đàn là hoa
cúc, loài hoa dành cho nhà vua, thường dân
không được phép thêu vẽ trên y phục của
mình. Phụ nữ Nhật Bản bắt đầu được dạy
nghệ thuật cắm hoa từ năm 12 tuổi. Nếu
người mẹ có thì giờ rảnh rỗi thì chính bà dạy
co con; bằng không, cô gái được cho đi học
với mội bậc thầy, cũng y như người châu Âu
học dương cầm và vĩ cầm. Đức tính khiêm
tốn và yên lặng của hoa được nêu cao để các
cô gái noi theo.
Hoa có đủ tính chất như con người. Nghe
thế, chắc chắn những người có đầu óc thực
dụng, quen nhìn những thể rắn chắc của
phương Tây sẽ bật cười; nhưng đừng quên
rằng tuy đã phủ bên ngoài lớp sơn hiện đại,
7
Hoa đạo G.Ohsawa

người Nhật vẫn giữ được tâm trạng mộc mạc


hồn nhiên không khác mấy với tổ tiên của họ
ngày trước. Cũng như người nguyên thủy,
họ gắn cho mỗi sự vật một linh hồn nghiêm
khắc, tàn nhẫn cho một số sự vật, và linh hồn
quảng đại, bao dung cho những sự vật khác,
như hoa chẳng hạn.
Ngày xưa, các võ sĩ (samurai) trẻ tuổi đều
biết nghệ thuật cắm hoa, vì đây là một môn
học trong chương trình huấn luyện của họ.
Vào thời đó, chiến sĩ là thi sĩ. Ngày nay,
những nhà quý tộc, những bậc phong lưu gọi
là có văn hóa đều biết cắm hoa như một bà
chủ nhà gương mẫu. Cùng với tài cắm hoa,
họ trồng cây thu nhỏ trong những chậu cảnh
tí hon; có những bộ sưu tập cây cảnh thu nhỏ
nổi tiếng đáng giá cả gia tài.
Chuyện kể về hoa rất nhiều, chuyện nào
cũng hấp dẫn người nghe, trẻ cũng như già.
Chẳng hạn câu chuyện sau đây: trong một
đêm đông tuyết giá, một võ sĩ nghèo tiếp một
nhà sư gần chết cóng. Để có củi nhen lửa sưởi
ấm nhà sư, chàng đã chặt các cây cảnh quý –
gia tài và tình yêu duy nhất trên đời mình.
Đâu ngờ nhà sư chính là Đại hoàng thân
Tokiyori tốt bụng, và vì thế là chàng võ sĩ
giầu lòng nhân ái được thưởng xứng đáng.
8
Hoa đạo G.Ohsawa

Đấy là đề tại của một vở kịch danh tiếng có


từ thời Tokugawa, đến nay vẫn được trình
diễn và mỗi lần trình diễn, sự hy sinh cao cả
của người võ sĩ cùng số phận hẩm hiu của
những cây cảnh đẹp vẫn còn khiến khán
giảmủi lòng rơi lệ.
Trong thiên nhiên, tất cả đều đẹp, tất cả
đều tốt lành hoàn hảo, và ấy là điều đầu tiên
người Nhật đã tin. Chỉ tại những tật xấu
đáng ghét của con người làm tất cả hư hỏng,
suy đồi, còn thiên nhiên vẫn là nguồn thanh
khiết, mà hoa là những gì được thiên nhiên
chắt chiu bảo dưỡng thì làm sao không thể
yêu hoa?
Phải yêu hoa nếu muốn tỏ lòng biết ơn
Trời Đất. Có yêu hoa, ta mới thấy mình hòa
hợp với thế gian. Không nên dùng hoa, như
hoa bày tỏ, với chủ tâm phàm tục hoặc để
trang trí. Hoa không phải là vật trang sức mà
tượng trưng nhiều điều. Trong những ngôi
nhà Nhật Bản mà người phương Tây trông
trổng trải trơ trụi lạ lùng, có những vách
ngăn bằng giấy cách ly tầm mắt của người
trong nhà với thế giới bên ngoài, thì hoa biểu
thị tính chất bao la của thiên nhiên. Tính biểu
thị này trước hết phải trung thực. Không nên
trình bày những bó hoa, bình hoa và những
9
Hoa đạo G.Ohsawa

chậu cây cảnh thu nhỏ như những mô hình


thực vật học, mất tính hiện thực và quân bình,
không còn là biểu tượng nghệ thuật, và chỉ
phục vụ cho tính chất phù phiếm của con
người. Hoa dùng để biểu dương vinh quang
của tạo hóa, chứ không phải để phô trương
thanh thế của phàm nhân. Vì vậy, không nên
dùng hoa để trang trí.
Hoa phải là điểm tập trung mọi ánh mắt.
Tất cả mọi vật phải góp phần làm hoa nổi bật,
như thể hoa là hình tượng sống của thần linh;
và sau cùng, hỏi hoa có xứng thế không?
Người Nhật tin rằng rất xứng.
Chơi hoa không những là một nghệ thuật
mà còn là một triết lý đạo đức. Chính vì thiếu
hiểu biết hoàn toàn, nên người ta mới dùng
hoa làm vật trang hoàng. Nếu không, làm
sao giải thích sự kiện những con người hiện
đại như chúng ta xem sự lưu tâm chăm sóc
mà Đông phương cổ kính dành cho hoa là
hơi quá đáng và đôi lúc lố lăng? Dưới thời
Đường và Tống của Trung Hoa, triều đình
dành cho mỗi loài hoa một người phục vụ
đặc biệt, người này là một đạo sĩ biết nghề
làm vườn có nhiệm vụ săn sóc hoa, cọ rửa lá
cành với một bàn chải êm ái bằng lông thỏ.
Khi mùa xuân đến, Hoàng đề Đường Trần
10
Hoa đạo G.Ohsawa

Nhân Tông dẫn đoàn nhạc sĩ của triều đình


đến trỗi những khúc nhạc du dương cho hoa
thưởng thức. Làm sao người ta có thể nghĩ ra
những chuyện ngây thơ như thế nếu không
tôn thờ tính chất bao la và hoàn hảo của thiên
nhiên phản ánh qua hoa?
Ở Nhật Bản ngày nay, người nông dân
vẫn còn xem mọi sinh vật là Trời, nhất là cây
cỏ. Thấy gạo rơi trên mặt đất, người ấy sẽ
nhặt lên, trìu mến phùi sạch đất, đem cúng
tổ tiên rồi mang cho vợ.
Dân gian có câu: “ Gạo tức là Phật”,
nhưng chúng tôi không bao giờ nói “Hoa tức
là Phật”. Điều đó quá rõ ràng.

11
Hoa đạo G.Ohsawa

CHƯƠNG MỘT
VÀI DÒNG LỊCH SỬ
Từ triều đại Nara đệ nhất (710 -793) hoa
đã đi vào lịch sử Nhật Bản. Nara ngày nay là
một thành phố có nhiều đền đài cổ kính và
những khu đất thiêng trong đó thú vật được
sống tự do, có những con hươu cái đến ăn
trong lòng bàn tay du khách.
Ngày xưa, Nara là thủ đô đứng đầu về
phương diện nghệ thuật, thủ đô thanh lịch
như trong chuyện thần tiên, và Nara đã
chứng kiến thời kỳ huy hoàng nhất của nền
văn minh Nhật Bản.
Sử sách lưu truyền giới tạo nhân mặc
khách thời bấy giờ thường tổ chức những
cuộc du ngoạn xem hoa, gửi cho nhau những
loài hoa hữu ý kèm mầy vần thơ tự tác; họ
còn đua nhau sáng chế nhiều kiểu cắm hoa
độc đáo. Chính Hoàng hậu Somedono kiều
diễm cũng tự tay mình cắm mấy cành hoa
Anh đào mỗi lần đón tiếp đức vua; và để thắt
chặt mối dây liên hệ vốn có giữa giới thượng
lưu quý tộc và hoa, cứ lệ đầu năm, cả hai vị
ra trước thần dân thưởng thức món canh
truyền thống nầu bằng thứ cỏ cây tượng
trưng hòa hợp hoàn hảo của vũ trụ.
12
Hoa đạo G.Ohsawa

Vào thời kỳ hạnh phúc đó, có thể nói là


một thời kỳ vàng son, mọi người là thi sĩ.
Cuốn “Vạn chiếc lá” (Manyoshu) là một
cuốn sách dày gồm những bài thơ do nhiều
người thuộc đủ tầng lớp xã hôi sáng tác còn
lưu truyền đến nay. Ông hoàng, bà chúa,
người ăn xin, kỹ nữ, đạo sĩ, nhà sư, giới quý
tộc, giới võ sĩ đạo vv… tất cả đều góp tiếng
trong tập thơ này. Vào những lúc khác, sự
sắp xếp chung này có thể là một sự hỗn loạn
khó chấp nhận, nhưng ở đây lại làm ta cảm
thấy tập thơ rất tuyệt vời. Lời trong tập thơ
là của quần chúng, và ngày nay đọc lại, ta
tưởng chừng đang sống giữa những người
đã ra đi từ bao thế kỷ, và trong ta tự nhiên
gợn lên niềm cảm hứng sống động tươi mát.
Trong khoảng 5000 bài thơ, phần nhiều là nói
về hoa. Một tuyển tập thơ khác cũng nổi
danh không kém tập “xưa nay” (Kokinshu)
gồm những bài thơ tả cảnh, tả tình thương
tương tự.
Cả đến huyền thoại cũng nói lên lòng
sùng hoa của người Nhật. Khi trẻ con bẻ
cành hoa hay chiếc lá, người ta dạy chúng
đọc câu kinh sám hối: “Con hằng thành tâm
cầu đắc quả Phật, chứng ngộ Niết bàn”. Kèm
theo kinh cầu là một câu chuyện lịch sử.
13
Hoa đạo G.Ohsawa

Cách đây hơn hai nghìn năm, một vị


hoàng tử con hoàng hậu Maya đang buồn bã
trầm tư trong vườn thượng uyển, không
thiết nhìn hoa thơm cỏ lạ vì mãi tưởng nhớ
người mẹ hiền đã mất. Bổng nhiên, từ một
đám mây sáng chói màu tím hơn cà, Đức
Phật Monszyu hiện xuống và nói:
- Con có muốn gặp lại mẹ không?
- Ô! Con muốn lắm! Hoàng tử trả lời.
- Vậy con hãy theo ta đi đến cuối vườn.
Quả thật, từ cái ao cuối vườn mọc lên
những bụi sen trắng xinh xinh, trong đó có
một đóa hoa rất lạ vươn thẳng lên, cao hơn
các hoa khác. Nhìn một lúc, hoàng tử lại thấy
hoàng hậu Maya mẹ chàng, khoác chiếc áo
lấp lánh ngọc ngà, đang mỉm cười trìu mến
đưa tay về phía chàng.
Cả hai mẹ con hàn huyên đủ chuyện,
nhất là về lòng từ bi của Đức Phật, cho đến
khi đóa hoa đẹp cùng bà biến mất cũng trong
đám mây màu tím hoa cà, hoàng tử òa ra
khóc nức nở.
Lúc ấy hoàng tử mới lên 7 tuổi, nhưng
chàng đã cảm nhận được sứ mệnh thiêng
liêng của mình, sứ mệnh đó đã khiến người
14
Hoa đạo G.Ohsawa

trở thành một bậc đại thánh. Hoàng tử rời bỏ


cung vàng điện ngọc đi vào núi sâu sống
cuộc đời tu hành khắc khổ, nhưng quanh
người lúc nào cũng có hoa sen trắng thơm.
Người đã để lại cho đời tập kinh ca ngợi hoa
sen. (Diệu Pháp Liên Hoa Kinh - LND).
Phải chờ đến thế kỷ thứ 8, người ta mới
thật sự biết thế nào là nghệ thuật cắm hoa.
Trước đó, người Nhật theo trường phái
nguyên thủy, chỉ biết cắm hoa vào bình để
trang trí, gọi là cắm theo kiểu “tùy hứng”
(Nageire). Nhưng đến thế kỷ thứ 8, Nhật Bản
bắt đầu du nhập văn minh Trung Hoa và đạo
Phật. Từ trước, nước Nhật sống hoàn toàn
riêng biệt, không có tôn giáo nào khác hơn là
thờ cúng tổ tiên và một số tín ngưỡng cổ
truyền; bỗng nhiên, cũng như Tây phương
cận đại, Nhật Bản tiếp xúc với một nền văn
hóa phát triển rất cao và với một tôn giáo có
những tín điều và lễ nghi rõ rệt, cùng một
nghệ thuật rất tinh vi. Đền chùa mọc lên
khắp nơi, nhờ biết bao hy sinh và công của
cúng dường: nhiều đền chùa ngày nay vẫn
còn tồn tại, có khi còn thêm tráng lệ hơn xưa.
Người ta đã đốn những cây đẹp nhất để
dùng xây cất và nhiều phụ nữ đã hy sinh mái
tóc để bện thành dây thừng kéo lôi vật liệu.
15
Hoa đạo G.Ohsawa

Những dây thừng bằng tóc này hiện vẫn còn


lưu giữ tại những tiên đình gần cổng và
trong những căn hầm dưới đất.
Ở bất cứ thời đại nào, con người cũng
dùng hoa để cúng lễ. Hoa nào cũng hướng
về trời như để tỏ lộ niềm tin. Thực ra, các
kiểu cắm hoa trong thời kỳ từ thế kỷ thứ 8
đến thế kỷ thứ 14 đều theo môn phái thẳng
đứng Rikkwa. Điều rất lạ đối với tâm hồn
Nhật Bản là người ta dùng quá nhiều hoa
nhân tạo. Cách cắm hoa thuần túy mang tính
chất tôn giáo; kích thước bài trí lại quá đồ sộ,
rập theo khuân khổ các đền chùa có cái rộng
thênh thang có thể chứa được những nhà thờ
kiểu gô tích.
Ban đầu, người ta trình bày những cụm
hoa cứng đờ, ngay thẳng như lòng tin của
những người mới nhập đạo. Theo đúng
nghĩa, Rikkwa, là “hoa đứng thẳng” (lập
hoa). Nhưng càng về sau, qua nhiều thế hệ,
cách cắm hoa và triết lý về hoa càng trở nên
uyển chuyển, mềm mại phù hợp hơn với tính
tình của chủng tộc. Nghệ thuật cắm hoa bắt
đầu nảy nở và trở nên tinh vi vào thế kỷ 14.
Bảy thế kỷ không hẳn là một thời gian đủ lâu
để có thể được một nghệ thuật hoàn chỉnh.
Vả lại, cũng cần những ảnh hưởng bất ngờ
16
Hoa đạo G.Ohsawa

để đưa đẩy nghệ thuật đến chỗ toàn hảo,


nhất là nghi thức uống trà, du nhập đồng
thời từ Trung Hoa, đã góp phần nâng cao
nghi thức chơi hoa. Người ta thiết lập phòng
trà riêng biệt trong ngôi nhà ở. Có lối vào
xuyên qua một mảnh vườn bố trí hết sức thơ
mộng, phòng trà có một cửa vào nhỏ thấp mà
trước khi vào, khách cởi kiếm cùng những lo
âu nào nhiệt của cuộc đời bỏ lại ở đấy.
Trong phòng chỉ có mấy chiếc chiếu, vài
bức tranh, và hoa… Hoa trong phòng phải
hòa điệu với tranh. Không bao giờ người ta
đặt một bình hoa mùa xuân bên cạnh một
bức tranh bày cảnh tuyết phủ.
Phòng trà phải cho ta cảm giác an bình và
thanh cao thanh thoát nhờ sự hài hòa của
màu sắc, sự tinh sạch và trật tự chi li của
những vật bài trí, và hoa ở đây không thể là
hoa như từng thấy trong các đền chùa
những thế kỷ trước. Hoa đã trở nên sống
động hơn và gần gũi con người, mà con
người thì lúc nào cũng tin kính Trời Phật như
tin bậc sinh thành.
Cách sắp xếp hoa cũng thu gọn hơn
nhiều, giới hạn trong khuôn khổ nhỏ hẹp của
căn phòng.
17
Hoa đạo G.Ohsawa

Điều cần lưu ý là nếu tưởng phòng trà


(salon de the) như phòng khách (salon) của
phương Tây sẽ không cảm thấy hết không
khí của căn phòng bé nhỏ gọi là trà thất
(chashitsu) nơi người Nhật thường vào để
tĩnh tâm uống một tách trà trái lại, phòng
khách ở châu Âu là nơi phô trương lộng lẫy
nhất trong nhà để người ta khoe khoang giàu
sang, của cải, trưng bày những gì quý giá
nhất, tủ bàn quý nhất, những vật trang trí
hiếm lạ nhất.
Một người mới bước vào phòng khách có
thể nhận ra ngay sở thích và tính tình của chủ
nhân. Ở Nhật thì không như thế, phòng trà
là nơi râm mát cho người ta dừng chân nghỉ
ngơi giữa cơn khô hạn của cuộc đời. Người
Nhật không ngại ngùng tạo cho phòng trà vẻ
nghèo nàn, một sự nghèo nàn tao nhã. Trong
phòng trà tuyệt đối không có vật gì mới mẻ,
vì không gì khó chịu hơn là sự thiếu cá tính
của đồ vật mới. Vật cũng như người đều có
một tâm hồn, và tâm hồn đó chuyển theo
thời gian. Phân định chi ly, tinh tế, quan tâm
đến những vật bé nhỏ, coi thường những gì
quan trọng: đó là người Nhật. Nếu đột nhiên
thấy được hàng nghìn cuốn sách viết về hoa,
và có thể ghi lại những cuộc tranh luận xoay
18
Hoa đạo G.Ohsawa

quanh những kiệt tác vang bóng một thời


này, người ta sẽ nhận định rằng người Nhật
là một dân tộc vi tế nhất trên thể giới.
Vào thế kỷ 15 - 1445, khi thuyền của
người Bồ Đào Nha, những người da trắng
đầu tiên, chở đầy nô lệ da đen đi vào các cửa
biển miền Nam, tập Sendenshu hay
“Nguyên lý về hoa” ra đời. Tác giả là đại văn
hào Soami Nakao, phụ đạo của hoàng tử
Shogun Yoshimasa, người về sau trở thành
một Mạnh Thường Quân của nghệ thuật,
nhất là nghệ thuật trà và hoa.
Năm 1525, một cuộc thi hoa được tổ chức
tại Kyoto. Có lẽ đây là cuộc thi hoa hậu đầu
tiên trong lịch sử nước Nhật. Ngày nay, mỗi
năm đều có hàng trăm cuộc triển lãm hoa.
Hai môn phái xưa, Nageire (cắm hoa tùy
hứng) và Rikkwa (cắm hoa đứng) dần dần
tan rã. Một số người cầu kỳ cố bám lấy môn
phái đầu, còn môn phái sau chỉ tồn tại trong
các đền chùa và trong cung đình hoàng tộc.
Người ta lại đua nhau theo một môn phái
mới, môn phái Tkebana (sắp hoa). Môn phái
này chia ra nhiều chi phái, ba chi phái chính
là Ikebana, Enshu và Aoyama. Mỗi chi phái

19
Hoa đạo G.Ohsawa

có ba kiểu: thực (vrai), động (dynamique), và


tạp (complexe) hoặc trôi (coule).
Kiểu thực là gì? Là kiểu căn bản, tôn
trọng tính tự nhiên của cây hoa, không uốn
nắn thành những đường cong gượng ép.
Kiểu này gồm ba cành hay ba thân cây, “ba”
là số tượng trưng: phần trên tượng trưng
Trời, phần dưới tượng trưng Đất, và phần
giữa tượng trưng Người. Vì ba sức mạnh
thiên nhiên này phải cùng hòa hợp để tạo
thành vũ trụ hữu tình, nên phải để các cành
hoa tự giữ tư thế quân bình với nhau mà
không gò bó. Tất nhiên hình thức nhìn chung
hơi cứng. Kiểu động thì muốn trình bày cụm
hoa cho có vẻ linh hoạt. Phần dưới không
khác kiểu thực, nhưng ở giữa ba phần chính
có chen kín đáo một ít cành nhỏ. Hoa cắm
theo kiểu này thường được đặt dưới khán
thờ (tokonoma).
Trái lại, hoa cắm theo kiểu tạp hay trôi là
để đặt trên khán thờ. Từ trên, những cành
hoa “chảy” xuống, cho người xem cảm giác
mệt mỏi, buông xuôi. Những bậc thầy của
chi phái Enshu cho rằng kiểu trôi diễn tả
cảnh xuống dốc của đời người, như là hoa
oằn cong dưới sức nặng của tuyết giá mùa
đông và mọi vật đang trôi về vực thẳm. Vì
20
Hoa đạo G.Ohsawa

thế, đầu mút của những cành cây càng ra xa


càng hạ thấp xuống. Chính những năm cuối
của đời người trôi qua nhanh nhất.
Với kiểu thực, chi phái Enshu, diễn tả
“sự khai mở” trong đơn giản và mạnh mẽ.
Nhìn kỹ một cụm hoa cắm theo kiểu thực của
chi phái Enshu, ta có cảm giác nhìn một bàn
tay trẻ sơ sinh đưa thẳng lên trời. Đó là lúc
khởi đầu sự sống.
Cũng theo chi phái Enshu, kiểu động
diễn tả tuổi thanh xuân đầy khát vọng, hứa
hẹn và nhiệt tình. Đó chính là những bắp thịt
đang nảy nở của chàng trai mới lớn, và nét
diễm kiều tươi tắn đang phát lộ của cô gái
dậy thì. Cá tính dần dần hình thành, biến đổi
và trở nên phức tạp. Con người đã sẵn sàng
đầu tranh để sinh tồn.
Hành trình vào nghệ thuật không dừng
lại nơi đây. Vô số môn phái được lập ra, danh
tiếng những bậc thầy vang lên rồi lịm tắt, các
cuộc tranh luận kéo dài vô tận và kịch liệt
hơn bất cứ cuộc bút chiến nào về hội họa ở
Âu châu, vì chơi hoa là một nghệ thuật đại
chúng, phổ cập khắp nơi, một người phu xe
cũng có thể tự hào mình là tay điêu luyện
chẳng khác chi một nhà quý tộc. Mỗi lần một
21
Hoa đạo G.Ohsawa

vua mới lên ngôi, mỗi lần một ma chay, cưới


hỏi, hoặc có lễ hội cổ truyền, người ta đều
cắm hoa để nói lên sự vui mừng hoặc thương
xót, hoặc bày tỏ niềm tin những tập tục lưu
truyền của tổ tiên. Hoa nói một thứ tiếng mà
ai cũng hiểu.
Nhưng kỹ thuật càng cải thiện, quy tắc
càng nghiêm ngặt, thì hoa tuy vẫn giữ vẻ mỹ
miều, cũng bị gò ép hình thức như chữ viết.
Những bó hoa trở nên cứng đờ như hoa đá.
Vì vậy người ta thấy cần phải đổi thay, và
chẳng bao lâu sự đổi thay đã đến.
Đầu thế kỷ 16, người ta trở về với kiểu
Nageire nguyên thủy. Người ta bảo: “Hãy
đặt hoa vào lọ rồi không động đến nữa. Trở
về, trở về với tự nhiên”. Các bậc thầy nghệ
thuật uống trà đã đi tiên phong trong phong
trào trở về tự nhiên, nhiệt tình nhất là Rikiu,
đến nỗi có người thiếu hiểu biết cho rằng
chính Rikiu, đã sáng lập ra môn phái Nageire.
CÁC KIỂU CẮM HOA
Sau bao phen thỏa hiệp, người ta thấy
cần có một nghệ thuật ứng biến. Cho đến các
môn phái cổ điển cũng chịu ảnh hưởng
phong trào này một cách sâu xa mà chính họ
cũng không ngờ đến. Để chống trả, họ buộc
22
Hoa đạo G.Ohsawa

lòng phải lập ra những chi phái Nageire


ngay trong môn phái họ. Phái chủ trương
tinh xảo đã công nhận bị phái nguyên thủy,
chủ trương tự nhiên, đánh bại.
Môn phái chủ trương sắp hoa (Ikebana)
dường như chìm trong giấc ngủ. Vì quá thèm
khát phóng túng, quá thèm khát tả thực, nên
không còn ai muốn nghĩ đến những kỷ luật
cả. Tuy nhiên môn phái Ikebana, từng giữ
địa vị độc tôn nhiều thế kỷ, đã ăn sâu vào
tâm hồn người Nhật. Nhờ môn phái này,
người ta hiểu được mọi nghi lễ và giới luật
mà lúc ban đầu không ai biết nguyên lai.
Môn phái này phát triển song song với
các môn phái của nghệ thuật uống trà đã tạo
ra những lễ nghi và những cách xã giao kiểu
Nhật mà đối với người nước ngoài trăm
nghìn lần chi li và khó nhọc hơn phép xã giao
và các nghi lễ châu Âu. Chẳng hạn người ta
phân định các kiểu cắm hoa, kiểu nào để
dưới khán thờ, kiểu nào để trên, kiểu nào để
bên phải, kiểu nào để bên trái. Trong thiên
nhiên không bao giờ có sự cân đối hoàn toàn;
cây cối cũng vậy, có bên phải và có bên trái,
có phía trước và có phía sau, hướng Nam và
hướng Bắc.

23
Hoa đạo G.Ohsawa

Cây ở nơi thấp, như trong chốn bùn lầy,


hồ ao, không giống hoặc không có cùng hình
tướng và không chung một tâm hồn với cây
trên núi. Thế thì làm sao mà người ta không
phân phương hướng trong nhà người Nhật
theo đúng hình ảnh của thiên nhiên?
Vả lại, trong cùng gian nhà, mỗi chỗ mỗi
khác về phương diện ánh sáng, phối cảnh,
không khí và có chỗ trọng, chỗ không. Theo
nguyên tắc, một người khách hàng đáng tôn
quý thì càng được mời ngồi cuối phòng, gần
bàn thờ tổ tiên, nơi được xem là trung tâm
của căn nhà. Những người không được trọng
vọng lắm sẽ ngồi gần của ra vào. Biết kể bao
giờ cho hết những nguyên tắc chi li trong
lãnh vực này? Các nguyên tắc đó rất khó nói
ra, mà mỗi người tự hiểu không cần phải học.
Biết được như thế, bạn sẽ không còn ngạc
nhiên nếu thấy một người Nhật do dự, băn
khoăn khi bạn tiếp người đó tại nhà bạn mà
chỉ mời một câu: “Mời ông ngồi”. Đối với
người Nhật, tất cả các chỗ ngồi trong phòng
không đồng giá trị, biết ngồi chỗ nào?
Đó là một cảm quan đặc biệt của người
Nhật, cảm quan về chỗ ngồi. Và trong thời
hiện đại, cảm quan đó đã gây cho chính họ
lắm chuyện bực mình.
24
Hoa đạo G.Ohsawa

Trên đỉnh các núi cao ở Nhật, đều có đền


chùa, vài nơi có đường xe treo đưa khách
thập phương lên viếng. Nhưng người tín đồ
chân chính không nên dùng phương tiện này
mà phải đi bộ leo núi trước khi đến chùa cầu
nguyện, phải chuẩn bị tinh thần để quán
tưởng bằng cách hành xác, giống như tín đồ
đạo Thiên Chúa phải vác cây thánh giá khổ
hạnh nếu muốn đến thiên đàng. Đứng trên
sân thượng của những tòa nhà cao tầng ở các
thành phố lớn như Kyoto dựa vào lưng và
núi, người ta có thể dùng ống nhòm theo dõi,
mỗi tháng hai lần, những đoàn người hành
hương nối chân nhau lên núi. Có một nhà sư
cùng đi với họ, thỉnh thoảng nhà sư thổi tù
và khuyến khích, và tất cả cùng ngân nga
một điệp khúc cổ xưa còn được tôn
sùng:Rokkon / shòjò …(Lục căn / thanh tịnh)
Oyama/ wa/ seiten… (Vĩ đại sơn / thị / Tây
phương) Rokkon / shòyò…
Oyama…wa…seiten…
(Dịch nghĩa:
Sáu căn yên lặng
Ngọn núi thiêng liêng là Tây Phương…)
Phần đông mặc y phục trắng, màu thiêng
liêng, trên vai trên lưng có nhiều dấu đỏ do
25
Hoa đạo G.Ohsawa

những người giữ chùa in lên trông rất đẹp


mắt. Những dấu này tương tự như một loại
chiếu nhập cảnh để vào xứ sở tưởng tượng
của đức tin.
Núi Maya sau lưng thành phố Kobe, núi
Hiyei phía bắc thành phố Kyoto, núi Nairta
gần thị trấn Chiba v.v... đều có đền chùa trên
chót đỉnh. Vì thế người Nhật không hiểu tại
sao trên những đỉnh núi cao ủa dãy Alpes
haty Pyrenee lại không có nhà thờ. Đối với
người Nhật thì đặt ở nơi cao cái gì được tôn
quý nhất là điều tự nhiên.
Vả lại, để chỉ cái cao quý nhất về vật chất
cũng như tinh thần, trong tiếng Nhật chỉ có
mỗi chữ Kami (thần) Kami là phần trên hết
của mọi vật, đồng thời có nghĩa là đứng đầu,
là chủ, là vua, là Trời. Trời ở trên cao nhất. Vì
vậy, những vật gì đáng để chỗ thấp, giày dép
chẳng hạn, mà đem để chỗ cao, thì người
Nhật xem là “phạm thượng”, xúc phạm đến
trật tự thiên nhiên, tức là xúc phạm đến Trời.
Trái lại, không nên để những gì mình yêu
quý sát gần dưới đất. Ở châu Âu hoặc ở Mỹ,
người ta thường thấy những bình đựng kẹo
có hình chiếc guốc. Thật là lố bịch! Chẳng
khác gì người nông dân Pháp tha thiết với
tiền, lại đem tiền nhét vào tất (vớ len)!
26
Hoa đạo G.Ohsawa

Vậy là mỗi khi đi ra khỏi xứ, cái gì cũng


làm người Nhật phải đắn đo suy nghĩ và
thấy khó chịu. Ngược lại, một người Âu châu
viếng thăm nước Nhật cũng thế. Phần lớn
nguyên nhân chính của sự chi li tinh tế (hay
đúng hơn là sự rắc rối) trong nghi lễ của
người Nhật là lòng tôn sùng các loài hoa. Do
đó, trên khán thờ, lọ hoa luôn luôn đặt trước
một bức danh họa; công trình của Trời phải
đứng hàng đầu, rồi mới đến công trình của
người. Đối với người Nhật, hoa không phải
dùng để trang trí phòng khách, mà phòng
khách được tạo ra là để làm hoa nổi bật.
Nhiều họa sĩ phương Tây có thói quen đáng
ghét là ký tên mình phía trên cao của bức họa.
Người Nhật sẽ cho là xấc xược nếu thấy trên
bình hoa đặt ở trên khán thờ có bức họa kèm
theo chữ ký, và sẽ khinh bạn vô cùng nếu bạn
đặt bó hoa người ta mới tặng trên lò sưởi sau
lưng một tấm hình chụp.
Vào thế kỷ 16, môn phái Nageire thống
trị hầu hết mọi nơi. Chỉ trong các đền chùa,
môn phái này mới nhường chỗ cho môn phái
Rikkwa. Ở các phòng trà, hoa được bài trí
theo môn phái Nageire, thích hợp với khuôn
khổ nhỏ hẹp của gian phòng (3m x 3m). Qua
thế kỷ sau, các môn phái cũ được phục hưng.
27
Hoa đạo G.Ohsawa

Nhiều danh sư của môn phái Ikebana,


những người kế thừa các nghệ nhân thế kỷ
14 -15 tái xuất hiện ở các thành thị. Lúc đó
quần chúng đang nghiêng về môn phái
Nageire đã làm trở ngại bước tiến của môn
phái Ikebana. Trong cuộc tranh chấp truyền
kiếp giữa đông đảo quần chúng và giới
thượng lưu quý tộc, phần thắng thường
nghiêng về giai cấp sau. Cuối cùng, môn
phái Ikebana ở Chiba, cải cách trên căn bản
cũ, khôi phục được địa vị đã mất trong hơn
thế kỷ. Nhiều cuộc triển lãm hoa toàn quốc
được tổ chức. Người ta lại có dịp trông thấy
những cành hoa kích thước lớn mà môn phái
Nageire ở các phòng trà đã làm lãng quên.
Điển hình nhất là những kiểu Koryu, Enshu
thời Edo dưới triều lãnh chúa Tokugawa
(1600 -1871). Ngay cả ở Osaka, một thành
phố thương mại, cũng có một chi phái riêng,
chi phái Misho.
Môn phái Nageire, từng lấn ra ngoài
phạm vi nhỏ hẹp của phòng trà bây giờ phải
thu về và chia làm hai chi phái, chi phái
chính dành cho nghi lễ phòng trà và chi phái
tự do. Trong số những nhân vật chủ chốt của
chi phái đầu có Hoga và Gahu; chi phái sau
có Hosei, Seiga, Manso, Seibo v.v… Ngoài ổ
28
Hoa đạo G.Ohsawa

kháng cự nhỏ này, khắp nơi đều theo môn


phái Ikebana. Chưa bao giờ người ta trông
thấy một cuộc phục hưng rộng lớn như vậy.
Cũng nên nói rằng mặc dù kỹ thuật phức tạp,
cách bố trí hoa của phái Ikebana vẫn thích
hợp với giới tư sản trung lưu hơn phái
Nageire. Cũng như ngành hội họa đơn sắc
(một màu), mà những nhà sành điệu ưa thích,
không còn hợp thời bằng những bức tranh
rực rỡ của Outamaro.
Trong những thập niên đầu sau cuộc
cách mạng 1868, Nhật Bản quá bận rộn trong
việc đồng hóa với văn minh phương Tây,
nên nghệ thuật cắm hoa bị phai mờ trong
một thời gian. Người Nhật nhập khẩu bất cứ
thứ gì họ trông thấy ở Âu Mỹ. Hậu quả là
trong khoảng 50 năm vô số kiểu mẫu thời
trang về mọi mặt văn chương, hội họa, kiến
trúc… kế tiếp nhau xuất hiện. Các môn phái,
từng tồn tại ở châu Âu, một hoặc hai thế hệ,
qua Nhật chỉ sống độ một mùa hay một năm.
Người Nhật như đang ở trong một buổi chợ
phiên tràn ngập vô số loại hàng khác nhau,
làm khách mua khó lựa chọn.
Tuy nhiên, sau cuộc đại chiến, cơn sốt hạ
dần. Nước Nhật lấy lại sự tự tin và nhận thấy
lòng ái mộ hoa của mình vẫn không thay đổi.
29
Hoa đạo G.Ohsawa

Nhiều môn phái mới thành hình. Nghệ thuật


cắm hoa được đem dạy tại các trường nữ
như là môn luân lý, và được xem trọng nhất
trong các môn học.
Mới đây, nhiều nghệ nhân trẻ đã lập ra
một môn phái cắm hoa mới mà họ gọi là
trường phái văn minh đồng hóa. Như tên gọi,
môn phái này muốn tổng hợp hai nền văn
minh Nhật Bản và Tây Phương, hòa giải hai
nước Nhật xưa và nay, cũ và mới. Môn phái
này tự hạn chế không đưa ra những nguyên
tắc chuẩn xác như các môn phái cũ, nhất
quyết theo tinh thần hiện đại và chối bỏ tất
cả các kỷ luật mà các môn phái trước đã tự
áp đặt cho mình. Nhật Bản hiện đại khác
Nhật Bản cổ xưa rất nhiều. Đồng thời với
những sản phẩm chế biến nhập khẩu từ Âu
Mỹ, tư tưởng phương Tây đã vượt qua biên
giới nước Nhật. Muốn vứt bỏ ảnh hưởng này
chỉ là một việc làm hoài công. Đó là điều mà
các thế hệ mới đã hiểu.

30
Hoa đạo G.Ohsawa

CHƯƠNG HAI
CÁC LOÀI HOA
Ở Nhật Bản ngày xưa, hàng năm có xuất
bản một tập lịch hoa, trong đó chỉ rõ từng
loài hoa, vào lúc nào hoa đẹp nhất, cùng
những vườn trại tư nhân trồng hoa có giá trị.
Nhiều thế hệ nghệ nhân vườn cảnh đã nổi
danh nhờ tài trồng hoa.
Khi xem những tập lịch xưa đó (ngày nay
rất hiếm), người ta rất đỗi ngạc nhiên tại sao
chỉ ở một chỗ mà có không biết bao nhiêu
loài hoa. Nội trên bờ một cái ao, người ta
thấy hàng mấy trăm loại khác nhau. Sắp theo
mẫu tự la tinh, thí dụ bắt đầu bằng vần S
thì có: - Sawaguruma, sawagikyo,
sawatorano, sasagoke, sagiso, sankakui,
saziomodaka, sansyomo, sivone,
siranesenkyu, sirobanaenreiso, sikaui ,
sirabizikain, simayoz, sizusiroso, suira,
suzumenotogasasi, suzumenoteppo, suiren,
sekiko v.v…
Đây là chỉ mới kể đến những cây có tên
bắt đầu với mẫu tự S. Các mẫu tự khác cũng
có danh sách tương tự. Thí dụ với mẫu tự K,
người ta thấy: kawahone, kawasisa,
katasirogusa, kawaraninzin, kakitsubata,
31
Hoa đạo G.Ohsawa

kanokoso, kasasuge, kawaratokusa,


kangarei, kitwihime, kuroguwai, kusayosi,
konagi, kogama v.v…
Tại sao ở Nhật nhiều hoa đến thế? Lý do
rất dễ hiểu. Không phải vì người Nhật biết
nhiều hoa đẹp như hoa ở châu Âu, mà vì từ
lâu họ đã tập yêu những loài hoa hèn mọn,
những loài hoa xấu hổ, những hoa bên
đường bị khách bộ hành giẫm lên, những
hoa mà người lái đò lấy mái chèo đánh vẹt
qua một bên vì cản trở lưu thông trên mặt
nước. Không một loài hoa nào, không một
giống lá nào mà người Nhật không khám
phá vẻ đẹp. Ngay cả cây cỏ tầm thường nhất
cũng có một cái tên.
Nhưng tên riêng chưa đủ, mỗi loại cây,
cũng như người và các đầng thần linh, còn
có một lô bí danh, biệt danh tên gọi trong thơ
văn, tên gọi trào phúng hoặc tôn kính. Vả lại,
càng tập cách yêu hoa như người Nhật,
người ta càng nhận thấy rằng đây không chỉ
là một nghệ thuật đơn thuần và càng không
phải là nghệ thuật trang trí. Muốn chơi hoa,
trước hết phải biết thực vật học, vật lý học,
hóa học, sử học, địa lý học và cả y học nữa.
Chỉ khi nào thấu triệt các khoa học này,

32
Hoa đạo G.Ohsawa

người ta mới có thể trở thành một bậc thầy


về hoa.
Trước tiên là thực vật học: phải nghiên
cứu cách thức dinh dưỡng của các loại cỏ li ti
cũng như của các cây cao lớn, phải am tường
phong cách chăm bón và biết cách gây
những giống cây mới. Phương Tây không
dạy cho chúng tôi tí gì về vấn đề này. Hơn
nghìn năm nay, những người làm vườn Nhật
Bản đã biến cải những giống cây hoang dại
đến độ người ta không còn nhận ra chúng
nữa.
Kế đó phải là một nhà hóa học, hay đúng
hơn là một nhà luyện kim. Phải biết nên pha
vào chất gì cho cánh hoa nhỏ lại, đồng thời
làm hoa thêm vẻ mỹ miều. Phải biết dùng
chất gì để biến đổi màu hoa. Tại sao chất
muối nhôm làm hoa adisai dần dần ngả sang
màu xanh? Tại sao có thể dùng cây chua me
đất (katabami) đánh gương soi bằng bạc?
Rất nhiều vần đề đã được giải quyết từ
thời xưa. Phải là một nhà bác học mới giải
thích được tại sao chỉ trong một loại cây hoa
hosenka (Phụng tiên, Móng tay, Nắc nẻ,
Chân đèn) lại chứa đủ các thứ cần thiết để
làm tăng vẻ đẹp của người phụ nữ: một thứ
33
Hoa đạo G.Ohsawa

sơn móng tay tốt nhất, một thứ kem xoa tay
tuyệt hảo, một thứ nhuộm tóc thượng phẩm,
một thứ son môi màu đỏ thật tươi.
Nhưng người ta không thể hiểu thấu
nghệ thuật cắm hoa, nếu không biết thơ văn
Nhật Bản. Biết bao kiệt tác được viết ra để ca
tụng loài hoa. Tiểu thuyết “Trúc điểu”
(Teketori) (thế kỷ thứ 8) kể chuyện một cô gái
sinh ra trong rừng trúc; tập thơ “Vạn Diệp”
(Mannyoshu) gồm năm nghìn bài thơ rất hay
đến độ người ta so sánh với lá. Một câu thơ
hay cũng như một chiếc lá: thơ tự nhiên tuôn
ra dưới ngòi bút của thi nhân một cách dễ
dàng, cũng như lá tự nhiên đâm ra trên cành
không chút nào gò bó.
Sau hết nghệ thuật chơi hoa cũng đòi hỏi
kiến thức về y học. Ai cũng biết y học cổ
truyền phương Đông dựa vào cây cỏ. Hàng
năm, cứ đến ngày mùng 5 tháng 5, người
Nhật chưng cây xương bồ (shobu) trong nhà.
Sau khi để khách ngắm nghía, người ta tuốt
lá để nấu nước tắm. Đó là một loại thuốc
giúp người Nhật chịu đựng thời tiết giao
mùa từ lạnh sang nóng; vì ở Nhật khí hậu
không ôn hòa như ở Pháp; mùa hè rất nóng,
mùa đông rất lạnh. Những chất độc tích lũy
do ăn nhiều thứ nặng nề trong suốt mùa
34
Hoa đạo G.Ohsawa

đông sẽ sinh ra nhiều chứng bệnh, nếu


không nhờ hoa lá phòng ngừa, điều tiết. Nền
y học cây cỏ này tinh tế đến độ phân biệt
được tác dụng khác nhau của những là
Thược dược, tùy theo lá đó thuộc cây Thược
dược hoa trắng hoặc đỏ.
Người Nhật đặt cho hoa nhiều tên gọi rất
nên thơ. Một số hoa có đến hàng trăm tên.
Những tên gọi này không những diễn tả vẻ
đẹp của hoa, mà còn nói lên phẩm hạnh, khí
sắc, tính tình, tâm hồn - phản ánh thu nhỏ đại
hồn vũ trụ - của mỗi loài hoa.
Chẳng hạn như hoa gladiola (lay ơn,
glaieul), có lúc được gọi là datedogu, nghĩa
là “làm duyên”; có lúc gọi là oyodo - “nước
lặng”, hoặc hoóu - “phượng hoàng con mới
nở”, hoặc saru - odori - “con khỉ nhảy múa”.
Hoa cúc còn có tên inkun ussi - “người
hiền ở ẩn”, hoặc akinagusa - “loài hoa không
biết u buồn của mùa thu”, hoặc enreikyaku -
“khách quý”. Nghệ thuật cắm hoa Nhật Bản
có mục đích giới thiệu hoa về phương diện
tinh thần, nên phải sành tâm lý học. Thí dụ
hoa Cát cánh (còn gọi là hoa phong lệnh, hoa
có cái hình chuông - LND) có vẻ đẹp bình
dân, mùa hè trông rất duyên dáng, nhất là
35
Hoa đạo G.Ohsawa

lúc khí trời oi bức khiến người ta dễ bỏ qua


nét lười biếng. Nhưng loài hoa này thiếu
phong thái trầm tĩnh thường gặp ở các loài
hoa quý phải tự biết mình cao sang.
Nếu cần lựa chọn, nên chọn loại Cát cánh
persifolia xinh xắn với vẻ khiêm tốn hơn là
loại Cát cánh medium dường như chẳng chú
ý đến vẻ hớ hênh của mình. Vả lại, loài hoa
này còn là một tấm gương kín đáo bên cạnh
các loài hoa Bụt màu sắc lòe loẹt, lọ vẻ vênh
vang như sau một trận thắng. Hoa Bụt là thứ
hoa thời đại thích hợp với những người mới
nổi lên giầu có, một loài hoa tiêu biểu cho sự
kiêu căng phù phiếm.
Hoa nắc nẻ (balsamine) thì tầm thường,
tiểu tư sản, đỏm dáng, lễ phép, nhưng hạ lưu.
Thứ hoa này thiếu cả vẻ trong sạch, hoàn
toàn không có ý thức đạo đức. Trái lại, hoa
Chua me đất đồng nghĩa với sự đơn giản
thanh cao. Từ thủa xa xưa, hoa này thường
được trang hoàng trên huy hiệu của nhiều
danh gia vọng tộc, và vẽ trên quạt của các vị
công nương. Người ta có thể thấy hàng trăm
huy hiệu mang hình hoa Chua me đất. Cho
đến ngày nay, người ta vẫn còn thấy những
hình hoa chua me đất tuyệt đẹp trang hoàng
trên lưng, trên vai, hoặc ở vạt trước áo
36
Hoa đạo G.Ohsawa

kimono của nhiều người Nhật. Người nước


ngoài sẽ phải ngạc nhiên khi biết đấy không
phải là những kiểu hình hiện đại, mà trái lại,
kiểu mới nhất cũng đã có cách nay hàng bao
thế kỷ.
Tính cao quý của hoa luôn luôn là tấm
gương cho người Nhật. Vì thế không gì tự
nhiên hơn khi họ chọn hình hoa để tổ điểm
bình khí. Khác với Âu châu, các huy hiệu
Nhật Bản chỉ trang trí hình hoa, hình ngũ cốc,
rau quả, mà hiếm khi hình thú. Nếu dùng
hình thú, họ cũng chọn những động vật
trông giống hình hoa, như bướm chẳng hạn;
không bao giờ có những hình ảnh gợi lòng
hiếu chiến, hận thù nhìn thấy khó ưa. Tất cả
trông như những tập sách hình gây cho trẻ
con cảm quan mỹ thuật. Ngoài hình ảnh các
tạo vật thiên nhiên, người ta chỉ thấy hình
dụng cụ làm vườn vẽ trên huy hiệu.
Khoảng 30 huy hiệu lấy đề tài bông lúa,
hơn 100 lấy đề tài cây Tùng, bông Hoàng đậu,
bông Cúc hoa của nhà vua và hoàng tộc.
Người Nhật thường thích tìm lại trong
những đám con cháu của một gia đình vọng
tộc tính nết của những loài hoa vẽ trên gia
huy. Đấy là một cách thực hành khoa tâm lý
về hoa.
37
Hoa đạo G.Ohsawa

Vả lại, khoa tâm lý về hoa đương nhiên


phải có.Mỗi loài hoa có một quê hương, một
môi trường thích hợp, một gia đình, cùng
những ước ao và cảm nhận. Như cây Tây hà
liễu (tamaris juniperina) trong khung cảnh
ngàn cây bao phủ đã vẽ nên một bức tranh
của học phái miền Nam. Trước mắt người ta
dường như hiện lên đại lục Trung Hoa, một
nước Trung Hoa tiền sử, bao la, đầy triết lý,
huyền ảo, im lìm nhưng hùng mạnh.
Cây Tây hà liễu trông rất đẹp trong
những ngày mưa, khí trời êm dịu làm lòng
người đâm ra dễ dãi. Những bậc thông thái
ngày xưa cho rằng Tây hà liễu có khả năng
báo hiệu trời mưa. Vì thế, họ gọi nó là loài
linh mộc, “phù thủy gọi được mưa”. Khi
mây đen xuất hiện, lá cây, li ti như những
mũi kim, dựng đứng chĩa thẳng lên trời.
Người ta còn gọi Tây hà liễu là cây độc nhất
tam xuân vì mỗi năm cây ra hoa ba lần.
Vị nữ hoàng kiều diễm của Trung Hoa ở
thế kỷ thứ 8 mà người ta sánh với nữ hoàng
Cleopatre Ai cập, rất quý chuộng loài Tây hà
liễu. Cây này gợi cho ta cảm giác êm ả của cô
đơn, những miền hoang vu bát ngát, những
đồng bằng bao la của Trung quốc, nơi chôn

38
Hoa đạo G.Ohsawa

vùi những nền văn minh không lưu tâm tích


trong sự lạnh lùng của thời gian vô tận.
Hisi (trapa natans) hay cây Ấu nước là
loại cây duyên dáng và hữu ích. Tất cả dân
Nhật đều quen thuộc với trái (củ) của loại
cây này, có hình thù kỳ dị mà mùi vị giống
như hạt dẻ.
Mùa hè người ta đổ xô về thôn quê để
xem hoa Ấu, những đóa hoa nhỏ nhắn có
bốn cánh trắng phớt hồng, với những cọng
cây rỗng ruột đầy hơi, giống như những ống
phao len lỏi trong đám rong rêu. Ban ngày
hoa gần như khép lại, tối đến nở ra và suốt
đêm hoa hướng về mặt trăng như để ngắm
nhìn trăng cho thỏa thích. Yêu hoa Ấu nhất
là những cặp tình nhân lướt nhẹ trên những
con thuyền im lặng. Và từ nghìn xưa hoa Ấu
được nhiều thi nhân ca tụng, nhất là nhà thơ
Trung Hoa nổi danh Bạch Cư Dị.
Đến mùa thu người ta đi hái những trái
Ấu nổi lềnh bềnh trên mặt nước. Thứ trái này
dùng hạ sốt, giải khát và trị chứng giật mình
ban đêm của trẻ con rất hiệu nghiệm. Tại
Thượng Hải và Bắc Kinh, đám hàng rong
thường bán trái Ấu cho người nước ngoài vì
họ rất thích ăn. Vỏ Ấu có gai được tán thành
39
Hoa đạo G.Ohsawa

một màu tím dùng làm nhang hoặc bỏ vào lư


trầm xông rất thơm. Phần nạc được dùng
làm món ăn, thường ghế với cơm thành món
cơm củ Ấu.
Tiếng Nhật có hàng chục tên để gọi hoa,
trái, lá của loại cây kỳ lạ này. Trái gọi là
mizukuri (thủy lật) - trái lật nước, shikaku
(nhạn lại hồng) - một loại trái ngả mầu đỏ khi
các đoàn ngỗng trời lánh về phương Nam.
Hoa Ấu thường được gọi là “ thủy kỳ nữ”.
Nếu bạn có dịp đến Kyoto hay một thành
phố cổ kính nào của Nhật Bản, bạn hãy mở
các cửa sổ ra cho thật sớm. Tiếng chiêng
thiêng sẽ thức tỉnh bạn. Tại cố đô của nước
mặt trời mọc, chiêng là một thứ đĩa tròn bằng
đồng đường kính hơn hai ba thước và dày 10
phân. Mặt chiêng khắc hàng nghìn chữ Tàu
của cả một bộ Kinh Phật. Vị tu sĩ phụ trách
đánh chiêng sử dụng chiếc đùi khoan thai
chậm rãi. Đó là tiếng chiêng đánh thức. Âm
thanh ngân nga giống như cái lay trìu mến
của một bà mẹ khi đánh thức con, chẳng chút
gì giục giã vội vàng. Bạn có đủ thì giờ để từ
trạng thái đê mê giao cảm với Phật trong vô
thức của giấc mộng (mà mộng như thế là
thường là mặc khải) chuyển qua tỉnh thức.

40
Hoa đạo G.Ohsawa

Hãy đến bên cửa sổ, lúc đó bạn sẽ nghe


những tiếng rao tươi vui của những đoàn
thiếu nữ tỏa ra trên các nẻo đường trong
sương mai. Đó là những người con gái trong
hương thôn ở núi đồi lân cận đội những
thúng hoa xuống bán. Các bà nội trợ đã quen
chừng ra đón và mua một bó hoa nhỏ để đặt
lên bàn thờ Phật và tổ tiên.
Trong không khí ban mai yên tĩnh mà
nghe những tiếng rao lảnh lót, tươi vui ấy
thực không gì thú vị bằng:
Hana….heei…hana .. hei Hana…iran kai
ei! (Hoa ….đây…..hoa….đây Ra mua hoa
đây!)
Tại Kyoto có tất cả 29 chợ hoa, có những
chợ chuyên bán hoa để cắm, những chợ khác
bán các loại hoa đặc biệt dùng trong dịp ma
chay. Khách hàng của những chợ đầu thuộc
giới trí thức, trưởng giả, văn nhân. Khách
của những chợ sau thuộc đủ giai tầng xã hội.
Tất cả mọi người đều tin rằng ngôn ngữ của
hoa dành chung cho người chết cũng như
người sống, không ai không cần đến hoa.
Nói đến “chợ hoa” ở đây ta không nên
nghĩ đến hình ảnh chợ hoa ở Paris hoặc ở
một thành phố phương Tây nào khác. Người
41
Hoa đạo G.Ohsawa

Nhật ưa chuộng vẻ đẹp của lá, cây, cỏ, cũng


như ưa chuộng hoa. Cho nên trong các chợ
hoa, không những người ta thấy đủ loại hoa,
mà còn có những thứ rêu bám trên đá, những
cành tùng rất lớn cưa từ trên núi đem xuống
có thể tươi được ba tháng, những thứ có li ti,
và những cây cổ thụ thu nhỏ sống hàng thế
kỷ trong những cái chậu lớn bằng bàn tay.
Có nhiều hoa biếm lạ từ xa đưa đến, như
hoa rẻ quạt (Diên vĩ) núi (iris montaganard)
bán với giá rất đắt, nhất là mỗi khi có những
đám tang lớn. Mọi người đua nhau tỏ tình
thân thiết với người quá cố danh vọng. Phần
nhiều hoa và cành cây được gửi đến như một
món hàng, nhưng những hoa quý, cành quý
đều có nhân viên đi theo chăm sóc như thể
đối với người sống. Tầm cỡ hoa, cành lớn
mấy cũng không sao, vì nhà của người Nhật
là để chứa cây và hoa. Dường như người
Nhật vẫn nhớ đời sống tiền sử xa xưa khi tổ
tiên họ còn ở quần đảo Mã lai. Bấy giờ, người
ta dựng lên túp lều bằng lá trên một cây lớn,
chống bằng những cây tre. Người Nhật sống
cũng như chết giữa thiên nhiên.
Những ngôi nhà ở Nhật hiện thời, vách
bằng giấy, kiến trúc nhẹ nhàng, rất sáng sủa,
thoáng khí (người phương Tây cho là lạnh
42
Hoa đạo G.Ohsawa

lẽo) vẫn cho họ cảm giác như đang sống


ngoài trời. Với các khung cửa giấy che khuất
những cảnh tượng khó trông ngoài đường,
họ tưởng chừng đang sống trên quê cha đất
tổ mười nghìn năm về trước.
Nếu người Nhật đến châu Âu, sống
trong những căn nhà gạch nặng nề màu xám,
có các khung cửa sổ quá hẹp, hoặc sống
trong những căn phòng chung cư luôn luôn
u tối. Họ sẽ có cảm giác đang sống trong
hang đá vào thời còn ăn lông ở lỗ để tránh
thú dữ. Những ngôi nhà đồ sộ ở thành phố,
mặc dù người ta cố gắng tạo đủ tiện nghi, và
những ngôi nhà kiểu cách ở nông thôn một
nửa chìm dưới đất chỉ là một hình thức cải
tiến của hang động tiền sử. Trong các vách
tường của những ngôi nhà này vẫn còn
phảng phất nỗi sợ hãi thường ám ảnh con
người nguyên thủy. Vả lại, trông chúng
chẳng có chút gì gọi là sự sống. Nếu trong đó
có hoa, thì tất cả hầu hết như bị cắt trụi chỉ
còn lại đầu hoa.
Không thể nào nói hết trong tập sách nhỏ
này tất cả các loài hoa Nhật Bản. Ta chỉ nói
đến cây Xương bồ (iris kaempferi) một loại
cây hoa đặc biệt thuộc khoa Diên vĩ mà ở
Nhật ai cũng biết lịch sử, phổ hệ, những
43
Hoa đạo G.Ohsawa

huyền thoại, những bài thơ ca tụng nó, cùng


những công dụng trong y học và mỹ thuật.
Chúng ta đã biết hàng năm vào thời gian
mùa thu từ lạnh sang nóng, người ta thường
dùng lá cây nấu nước tắm vì nó có tác dụng
rất hay. Thử hỏi tục lệ này đã có lâu chưa?
Khó mà biết được, vì ngày nay cả sử sách xưa
cổ nhất cũng đã nhắc đến. Có thể Xương bồ
là một trong những vật tổ của các bộ lạc
người Nhật thời thượng cổ. Cũng có thể các
hoàng đế dược sư ngày trước vì muốn phổ
biến công dụng trị liệu của loại cây này nên
đã đặt ra một ngày quốc lễ trọng đại dành
cho nó. Thật khó xác định. Ban đầu ngày lễ
mừng cây Xương bồ chỉ giới hạn trong cung
điện nhà vua, đến đời Heian (thế kỷ thứ tám)
tục lệ này mới lan ra dân chúng.
Ngày nay đến ngày 5/5, nhà nào cũng
chưng một bó Xương bồ. Mùa đông người ta
dùng rễ chế ra một thứ rượu gọi là Xương bồ
tửu mà từ lâu đã được dùng chữa bá bệnh.
Các hiệu thuốc ở những thành phố lớn đều
bày bán nhiều loại thuốc Xương bồ. Tối đến
người ta kê đầu lên gối độn lá Xương bồ để
ngủ, trên áo gối có in hình hoa Xương bồ.
Tập tục này đã có hàng nghìn năm nay rồi.

44
Hoa đạo G.Ohsawa

Không thành phố nào, dù nhỏ đến đâu,


mà không có vườn trồng cây Xương bồ. Tại
Tokyo có hai vườn danh tiếng. Một vườn của
Horiki và vườn kia ở trong Hoàng thành.
Xương bồ, gọi theo tiếng Nhật là Syobu,
ban đầu chỉ là một loài cây dại sống rất lâu,
có hoa màu lục nhạt, lá dài và mảnh giống
như lá lay-ơn ngày nay. Nhưng loại Xương
bồ trong vườn hay Xương bồ cho hoa (hana
- syobu, iris kaempferi) chỉ mới có từ vài thế
kỷ nay. Người ta gây giống và cải thiện loài
cây này là gia đình nghệ nhân Matsudaira.
Vì bất cứ ai đến xin hạt giống, những nghệ
nhân bậc thầy này đều cho, nên ngày nay
xương bồ hoa là loại cây phổ biến nhất.
Một ẩn bản nổi tiếng của Hiroshige có in
hình khu vườn Horikiri đang lúc nở hoa.
Đấy là nơi hò hẹn của những người thanh
lịch ở Tokyo (lúc bấy giờ gọi là Edo). Đẹp
nhất là đứng trên đồi Kodaka nhìn xuống
khu vườn, hoa lốm đốm tím, trắng phủ đầy
những vùng nước rộng.
Người sáng lập khu vườn mất ngày
8/7/1868 sau khi sung sướng được nhìn các
cây Xương bồ yêu dấu của mình nở hoa.
Trong quyển nhật ký để lại và sau đó được
45
Hoa đạo G.Ohsawa

công bố, ông viết; “Năm giống hoa mới mà


tôi gây được năm nay còn to hơn và đẹp hơn
các giống khác. Vẻ đẹp của chúng rất kỳ lạ,
không có gì so sánh được. Thật là một phần
thưởng xứng đáng cho 60 năm công khó của
tôi!
Nhật Bản được xem là đất lý tưởng của
loài Anh đào. Thật vậy, không xứ nào có
nhiều Anh đào như ở Nhật, nhất là những
loài Anh đào có hoa. Lẽ dĩ nhiên khi người
Nhật trông thấy những cây Anh đào xinh
đẹp mọc hoang đầy rừng núi, họ nghĩ ngay
đến việc đem về trồng trong vườn họ.
Những loài Anh đào đã thuần thục thường
được trồng ở trung quanh các đền chùa và
hai bên vệ đường. Điều kỳ lạ là màu lá Anh
đào khác nhau từng cây. Có những cây ban
đầu lá ửng nâu, cây khác lá mầu hồng nhạt,
có cây lá màu lục tái pha vàng. Hoa thì
thường trắng như tuyết, hoặc điểm hồng.
Vào thế kỷ thứ 8, Hoàng đế Nhật Bản ra lệnh
trồng nhiều loài Anh đào có hoa. Từ thế kỷ
thứ 17 Đại Công Tước Hideyoshi cho tổ chức
những Hội Xem Hoa tại vùng núi Yoshino,
mỗi loài hoa đều có bảng tên kèm theo danh
sách những người đến thưởng lãm. Nhiều
bậc quý tộc danh vọng, tướng tá, nhiều văn
46
Hoa đạo G.Ohsawa

nhân, nghệ sĩ đến tham dự. Đáng chú ý là ở


Nhật những danh tướng đều yêu hoa. Đô
đốc Togo, người vừa mất, cũng không tránh
khỏi thông lệ này.
Ngày nay những thắng cảnh hoa Anh
đào được chăm sóc đặc biệt và được luật
pháp bảo vệ. Người ta xem đó là tài sản quốc
gia.
Loài hoa Anh đào phổ thông nhất là Anh
đào núi (yama - sakura). Khắp nơi trên nước
Nhật, miền bắc cũng như miền nam đều có.
Loài Anh đào này có hoa trắng, cây rất to và
thường sống hàng 7, 8 thế kỷ. Lá non đâm
chồi vào mùa xuân, hầu như cùng lúc với
những nụ hoa tạo ra khung cảnh sắc màu
trắng, lục, vàng, nâu chen lẫn nhau hòa hợp
một cách tuyệt đẹp. Nhiều ấn bản xưa đã ghi
lại cảnh hòa hợp này. Và mỗi lần xuân đến,
các tay yêu hoa lại ra công sao chép.
Anh đào núi còn có một loại khác, loài
Hồng Sơn Đào (beni - yama - sakura), có đặc
điểm là các bẹ hoa và bẹ là dính liền nhau rất
kỳ lạ, còn vỏ cây đượm mầu nâu sậm. Ở
miền Trung và miền Bắc Nhật Bản có rất
nhiều loài Anh đào này.

47
Hoa đạo G.Ohsawa

Kế đến là loại Anh đào do người trồng


gọi là Lý đào (sato - sakura). Ban đầu chỉ thấy
loài Anh đào này trong các vườn, về sau
được phổ biến rất nhanh và nơi nào cũng
thấy. Hoa có thứ đơn, thứ kép, nhưng lớn
hơn hoa Anh đào núi, màu sắc thì trắng hoặc
hồng nhạt, hoặc đỏ thắm, ít khi có màu vàng
hoặc lục. Hình dáng cành cây cũng khác
nhau. Vài loại có cành gần như đâm thẳng ra,
loại khác có cành rủ xuống như cây lệ liễu.
Các loại quen thuộc nhất là Nhất Dạng
(ichiyo), Hoàn toàn (kwanzan) và Phổ Hiền
Tượng (fugenzô). Người ta thích loại thứ
nhất vì mùa xuân càng đi tới thì màu hồng
của hoa càng biến ra sắc trắng. Loại thứ nhì
có cành rủ xuống. Từ giữa đóa hoa ló ra hai
lá xanh nhỏ, trông thật thanh nhã.
Anh đào Nhiễm Cát Dã (Some - yoshino)
là loại mới có. Loại này xuất hiện tại Tokyo
vào đầu triều đại Minh Trị (Meiji) 1868. Đây
là một sản phẩm khoa học của những nhà
trồng vườn Nhật Bản. Do đó, cây lớn rất
nhanh, nhưng vẫn giữ dáng yêu kiều. Loại
Anh đào này có đặc tính là lá chỉ hiện ra khi
hoa đã hoàn toàn nở rộ. Vì thế trong thời gian
mấy ngày, người ta thấy những cây Anh đào

48
Hoa đạo G.Ohsawa

như phủ mây tuyết trắng xóa, không lẫn


màu nào.
Những cây Anh đào Tiết Phân Điểm hay
Bỉ ngạn (equinotial cherry trees, higan -
sakura) có kích thước rất lớn. Đó là những
cây Anh đào khổng lồ, sống qua nhiều thế kỷ,
một loại Anh đào người ta thấy chung quanh
các đền chùa với cành rủ xuống.
Cuối cùng trong các loại Anh đào phổ
biến còn có loại Anh đào Phú Sĩ; loại Anh đào
Trưởng Chỉ (choshi - sakura) có lá mép răng
cưa và đài hoa cái đinh; loại Anh đào mùa
đông hoa đỏ và loại Anh đào tứ quý mỗi năm
ra hoa nhiều lần.
Ngoài hoa Xương bồ và hoa Anh đào
còn nhiều loại hoa có thể được xem là hoa
tiêu biểu cho quốc gia Nhật Bản. Thật ra từ
nhiều thế kỷ nay, mỗi ngày lễ đều có một loại
hoa riêng. Lễ hội dân gian cũng là lễ hội của
hoa.
Tết nhất là dịp vinh dự cho cây tùng và
cây mơ. Tháng ba đến lượt hoa Đào (mận,
doi), tượng trưng cho sự trong trắng. Vào dịp
này, các cô gái chưng bày búp bê trên một
hoặc nhiều cái kệ trang hoàng những nhành
hoa Đào. Tháng 7 là tháng của Tre, một loại
49
Hoa đạo G.Ohsawa

cây thiết dụng, không những dùng để trang


hoàng, mà mụt măng tre còn dùng để nấu
món ăn với cơm, và thân tre được dùng làm
đồ đạc trong nhà. Tháng 10 là hội của cây
Phong đỏ, người ta lũ lượt kéo nhau đến tận
những ngọn núi kế cận Tokyo để ngắm nhìn
không chán rặng Hồng phong nổi bật trên
nền lục sẫm của bách tùng và nền trời luôn
luôn xanh ngắt vào mùa này. Chiều về,người
ta cắm những cánh Hồng phong vào lọ đặt
khắp nơi, rồi đến đêm, người ta đi dự hội
trăng vào đúng ngày 16 -10. Tục truyền mặt
trăng, được ví với một nàng tiên mặc chiếc
áo ánh ngời màu bạc, ưa thích một vài loại
hoa. Tất cả có 7 loại, một con số linh thiêng.
Phải cắm các loại hoa này vào những lọ đất
đặc biệt màu trắng, để trên một cái bàn gỗ
trắng bên cạnh những cái bánh ngọt chất
thành hình nón và những đĩa rau quả xanh
tươi.
Tóm lại, ngoại trừ một vài thứ cây mà tên
gọi và hình dáng gợi nỗi u buồn, các loại ngũ
cốc dùng để dinh dưỡng không nên phí
phạm và vài loại hoa chỉ sống một ngày, tất
cả những loài hoa khác đều thấy trưng bày
trong nhà người Nhật. Các sách nói về nghệ
thuật cắm hoa đều chỉ rõ những loại hoa nào
50
Hoa đạo G.Ohsawa

cần nên trưng bày mỗi tháng. Sau đây là


danh sách hoa từng tháng:
Tháng Giêng: Tùng, vạn thọ, mai (mơ),
liễu, lan, nhật quang, trà hoa
Tháng Hai: Mai đỏ, trà hoa, mai vàng
Tháng Ba: Rẻ quạt, đào, thược dược (mẫu
đơn)
Tháng Tư: Thược dược, bông bụt, xương
bồ, thược dược cỏ, cúc
Tháng Năm: Bông bụt, xương bồ, cúc
Tháng Sáu: Cúc, hoa mãn thiên
(hanamanten), vạn tuế chi (mankeisi)
Tháng Bảy: Cúc mùa hè, cúc đông
Tháng Tám: Mai bát sóc (hassakubai), lan
nhật quang, cúc đông.
Tháng Chín: Vạn Niên thanh, lan nhật
quang, mai bát sóc.
Tháng Mười: Cúc, lan nhật quang, vạn
quế chi, mai tứ quý (toshibai), thược dược,
trà hoa.
Tháng Mười Một: Cúc, lan nhật quang,
mai, trà hoa, lạp mai (rô bai), vạn quế chi, cúc
mùa đông.
51
Hoa đạo G.Ohsawa

CHƯƠNG BA
KỸ THUẬT CẮM HOA
Một bậc thầy hoa cảnh ngày nọ đi xem
triển lãm hội họa. Ông dừng nhìn bức tranh
vẽ nhánh hoa huệ giữa một khu vườn. Sau
khi ngắm nghía hồi lâu, vị hoa sư bèn hỏi tác
giả bức tranh:
-Có phải ông vẽ phỏng theo một nhánh
hoa mà người ta cắt bán cho ông không?
-Thưa thầy, đúng vậy. Nhưng sao thầy
biết?
-Có cái gì thiếu vắng ở nhánh hoa của
ông khiến tôi thấy được đây là hoa chết chứ
không phải hoa sống. Cái thiếu vắng đó là
quầng sáng vô hình của sự sống tuy tôi
không cắt nghĩa được nhưng cảm thấy rõ
ràng.
-Thưa thầy, quả là cặp mắt của thầy
không phải cặp mắt người phàm…
Những họa sĩ Nhật Bản lúc nào cũng lo
lắng, có thể nói là bị ám ảnh phải làm sao lột
tả được sự sống, nay đành nhường bước
trước các bậc thầy của nghệ thuật cắm hoa.
Một họa sĩ trứ danh sẽ cho rằng mình bị sỉ

52
Hoa đạo G.Ohsawa

nhục khi nghe có tay thợ săn đứng nhìn bức


tranh của mình vẽ cảnh một con heo rừng
đang nằm ngủ dưới gốc cây mà nói: “Đấy là
con heo rừng chết”. Xét về danh dự thì
những bậc thầy của nghệ thuật cắm hoa còn
khó tính hơn nhiều. Kỹ thuật của họ rất tinh
vi, phức tạp, điêu luỵên, và tất cả đều nhằm
một điều: Tự Nhiên không bao giờ có tình
trạng sắp xếp hoa cân đối, cân đối chỉ có
trong đầu óc tưởng tượng non nớt. Tạo hóa
không bao giờ bày ra cảnh cân xứng tuyệt
đối. Cân xứng là đồng nghĩa với bất động,
với chấm dứt. Trái lại, cái gì không cân đối
cho ta cảm giác chưa hoàn thành, và chính
điều đó mới diễn tả được sự sống. Vì cuộc
sống không phải là một tình trạng mất cân
bằng thường trực cần được bù đắp bằng cách
này hay cách khác đó sao?
Phải cương quyết gạt bỏ mọi nguyên tắc
trang trí của phương Tây, nếu muốn hiểu vẻ
đẹp của một bó hoa Nhật Bản. Nghệ thuật
cắm hoa không phải là nghệ thuật trang trí
hoặc thứ yếu, mà phải là nghệ thuật đứng
hàng đầu, nghệ thuật cao quý nhất trong các
nghệ thuật.
Nghệ thuật cắm hoa không chỉ dành
riêng cho phái nữ. Những bậc đại danh quý
53
Hoa đạo G.Ohsawa

tộc Nhật Bản thường là những bậc thầy của


nghề hoa. Ngay cả các vị đế vương cũng
dành thì giờ nhàn rỗi dùng hoa diễn tả vũ trụ
quan của mình, chẳng hạn như Hoàng đế
Gomiduno, sống cùng thời vua Louis 14
nước Pháp.
Vả lại, kích thước của một vài cụm hoa
đủ cho thấy nghề chơi hoa cảnh chẳng phải
là một nghệ thuật nho nhỏ dành cho phái yếu.
Thí dụ ngày 8 -3 -1692, người ta cúng
Phật hai cái độc bình cao 2m35 có cắm hoa.
Cành hoa bên trên, tính từ mực nước trong
bình, cao 9m60; như vậy chiều cao tổng cộng
của bình hoa gần 12 m. Thêm một cành phụ
dài 5m40, một cành đâm ngang qua bên phải
dài 4m50. Một cành khác từ dưới đâm lên
chồm ra phía trước dài 2m50. Đường kính
của cành lớn nhất khoảng 23cm…
Mặc dù các tuyệt tác này đã mất từ lâu,
nhưng người ta được biết những chi tiết trên
qua các họa bản sao chép từ thời trung cổ.
Những tài liệu xưa nhất về nghệ thuật
cắm hoa còn giữ đến ngày nay có từ năm
1117 dưới thời Hoàng đế Toba.

54
Hoa đạo G.Ohsawa

Sách xưa nhất là quyển Tuyên Truyền


Thư (sendensho) viết cách đây 6 thế kỷ, có
nêu khoảng 50 quy tắc giúp hiểu sơ bộ ngôn
ngữ tượng trưng của các loài hoa. Trong sách
có chỉ rõ những loài hoa nào thích hợp với
các chiến sĩ trước khi ra trận, không nên có
cành, lá nào rủ xuống vì gợi sự yếu đuối, mà
phải mang hình thức cứng cáp, mạnh mẽ,
đầy nhựa sống như loài tùng bá lúc nào cũng
xanh.
Không nên dùng cây phong hay hoa trà
ẻo lả, hoặc các loài hoa chóng tàn.
Sách cũng chỉ dẫn cách cắm một lọ hoa
để tặng cụ già, khác với lọ hoa dành tặng
thanh niên, một người mới lấy vợ hoặc lấy
chồng. Trong đêm tân hôn, người vợ cũng
phải biết cắm hoa theo hình thức nào để chờ
đón lang quân.
Cuốn “Tuyên truyền thư” còn in cả một
tập lịch hoa, chỉ rõ những ngày lễ chính trong
năm cùng các loài hoa phù hợp với từng
ngày lễ. Sách cũng dạy kỹ thuật cắt cành,
cách xem xét từng cọng hoa trước khi cho
vào lọ để hoa hút nước dễ dàng, cách lựa
chọn phối hợp hoa để khỏi phạm những
hình thức cấm kỵ tượng trưng điềm gở.
55
Hoa đạo G.Ohsawa

Trong số sách xưa về kỹ thuật, còn có


quyển Thủ bản của Ikenobô (1542) và quyển
Hội Thi Trăm Bình Hoa viết bằng chữ Hán
của lão hòa thượng Gekken.
Quyển thứ nhất gồm 4 chương nói về
những nguyên tắc cắm hoa, các lỗi cần tránh,
và những quy luật về thời gian và không gia.
Cuối cùng, sách có lời khuyên không nên
truyền bá nghệ thuật này ra nước ngoài.
Quyển thứ hai được biên soạn vào dịp có
hội thi hoa lớn tổ chức năm 1599 để xây cất
chùa Daiunzi tại Kyoto. Đó là một quyển
khái luận quan trọng về hoa của chi phái
Ikenobo. Lúc ấy có nhiều hoàng thân quốc
thích, nhiều viên chức cao cấp, giới hiệp sĩ,
tu sĩ, học giả tham dự dưới sự bảo trợ của
Nabutada, một trong những vương hầu
quyền uy (daimyo) của thế kỷ. Ngày nay vẫn
còn số lớn những bộ sưu tập các kiểu hình
cắm hoa đẹp nhất được in bằng bản gỗ có
màu.
Đến thế kỷ 17 lại xuất hiện một quyển
khái luận về hoa rất nổi tiếng của môn phái
Nageire hiện thực, chủ trương trở về nghệ
thuật cổ sơ, là quyển Nageire Gia Truyền
Thư (Naigeire Kadenshu).
56
Hoa đạo G.Ohsawa

Đồng thời môn phái Rikkwa cũng trình


bày lý thuyết và kỹ thuật của môn phái mình
trong bộ Rikkwa Chỉ Nam (Rikkwa Sinan),
một bộ sách lộng lẫy gồm bốn tập, trong đó
liệt kê hầu hết các loài hoa.
Thử tưởng tượng chúng ta là đệ tử của
một môn phái hoa đạo. Trước mắt là một ôm
Xương bồ mới cắt buổi sáng. Những cây này
rất thẳng và hơi cứng. Vì vậy, chúng ta phải
sắp xếp tất cả thành một cụm thẳng theo tính
chất tự nhiên của chúng, nhưng bắt buộc
phải diễn tả được sự mềm mại lả lướt, đặc
tính của sự sống.
Phải lấy mấy nhánh? Ba, năm, bảy, hoặc
nhiều hơn, ngay cả đến 15, nhưng luôn luôn
phải là số lẻ. Vì số lẻ là số không cân đối, con
số sống động. Bình hoa của chúng ta như vậy
sẽ tránh được tính chất cân đối chết cứng.
Phải làm thế nào cho mắt người nhìn
thấy ba điểm chín, dù là từng đóa hoa hoặc
những chùm hoa, nhưng toàn thể phải quân
bình, diễn tả được sự hòa hợp hoàn toàn của
Trời, Đất và Người.
Thí dụ chúng ta lấy số ba. Trước hết,
chọn lấy một hoa thật đẹp mới nở hoặc chớm
nở. Hoa ấy phải có cọng dài nhất để khi cắm
57
Hoa đạo G.Ohsawa

hoa sẽ ở vị trí cao nhất trong toàn cụm. Hoa


này tượng trưng cho Trời, cứu cánh của cuộc
đời, thể hiện và phát triển mọi phẩm hạnh
mà tội lỗi thế gian không cho nẩy nở. Hoa
này phải có mặt trước và mặt sau phân biệt
rõ ràng. Nếu hoa còn ở sinh trưởng trong
chốn ao hồ, thì không phải bất cứ cánh hoa
nào cũng hướng về mặt trời để tạ ơn. Hoa
cũng có một bộ mặt như người.
Vị trí các đài hoa (lá bẹ) cho biết hướng
nhìn của hoa. Đài cao nhất ở phía sau, đài
thấp nhất ở phía trước. Đài trước nhỏ hơn
dài đài sau và gọi theo chuyên môn là “vành
hoa”.
Như vậy, khi hoa nở, hai cánh mở ra hai
bên, một cánh khác ngã ra phía trước phơi
nhụy cái và những nhụy đực ra ánh sáng.
Thế là hoa bắt đầu ý thức về thế giới bên
ngoài. Thật là một cảnh tượng thê thảm khi
thấy những nhà buôn hoa phương Tây đặt
trong lọ những đóa hoa quay lưng hoặc úp
mặt vào nhau như người ta thường cột
những đoàn cừu và bò vào trong các bãi sát
sinh ở Chicago.
Lá cũng có bộ mặt. Mặt phải có hai
đường gân, mặt trái chỉ có một. Tự nhiên lá
58
Hoa đạo G.Ohsawa

phải nhìn về hoa chính (sin), hoa cao nhất


như đã nói trên. Phải chọn những lá đều đặn
có đường nét hài hòa và ghép thành từng
chùm hai hoặc ba lá tùy theo lá đi kèm với
hoa chính (sin), hoa phó (soe) hoặc hoa phụ
(tome). Các chùm lá cũng phải tránh cân đối
để diễn tả tính vận động, tiêu biểu cho sự
sống và sự tăng trưởng. Phải cho người xem
cái cảm giác như trông thấy các lá nẩy ra liên
tiếp cách khoảng không đều. Móng lá (đầu
cong của lá) phải quay vào nhau.
Thí dụ trên bàn trước mặt ta có ba cành
hoa và năm chùm lá. Bây giờ chúng ta phải
ấn định chiều dài theo quy tắc của môn phái
Ikendo. Tốt nhất chúng ta nên chọn một cái
lọ chòn vì Xương bồ là loại cây thẳng. Phía
trước, ta sẽ cắm ba chùm lá đầu tiên thể hiện
sự chuyển tiếp giữa đất (lọ) và mấy cành hoa.
Kế đó là hai đóa hoa, trong đó một còn đang
búp, vì phải có trước mắt mọi giai đoạn của
cuộc đời. Phía sau là đóa hoa cuối cùng chen
giữa hai chùm lá. Thêm hai nhánh nhỏ, mà
một có hình cái nạng giữ toàn thể đứng vững,
chỉ còn sửa qua là xong.
Lá phải ghép dính vào nhau ở bên dưới,
dường như chúng mọc ra một lần. Cũng cần
biết màu lá và hình lá cũng phải hòa hợp với
59
Hoa đạo G.Ohsawa

nhau như trong thiên nhiên. Những tay nhà


nghề chỉ khéo chọn một chút là làm các chùm
lá ăn khớp với nhau. Những người mới tập
sự thường có thói quen thấm nước để dán lá
lại với nhau, nhưng khi nước khô thì hỏng
hết.
Hoa chính (sin) hơi nghiêng sang bên trái,
vì bên trái tượng trưng cho sự khôn ngoan,
đức tin và lương tri. Hoa mở về phía trước,
nhưng không nhìn thẳng. Vả lại, không có
hoa nào nhìn thẳng về phía trước, mà cũng
chẳng có hoa nào nhìn qua một bên. Hơn nữa,
dù đứng bất cứ nơi nào trong phòng cũng
không thể trông thấy bề lưng của hoa. Hai
đóa hoa phụ sẽ hướng về hoa chính một cách
nhẹ nhàng, cũng như cả cụm hoa. Phải có sự
thống nhất. Thống nhất là công việc của giới
thượng lưu trong lãnh vực hoa đạo cũng như
về phương diện xã hội. Do đó, một khi đóa
hoa chính nở, cũng đủ tạo thế thăng bằng
cho toàn bộ.
Việc lựa chọn, xếp đặt hoa Xương bồ
trên lý thuyết tưởng chừng đơn giản nhưng
trên thực tế đã được nhiều thế hệ xem là rất
khó.

60
Hoa đạo G.Ohsawa

Trong các môn phái hoa đạo, người ta


thường bắt đầu học tập với đề tài cây Mai.
Nhưng đồi với người “ngoại đạo”, việc cắm
Mai thường có nhiều khó khăn. Nhất là
người nước ngoài không hiểu biết những
quan hệ gần gũi và tập tính của Mai, nên
không có được những tình cảm mà loại cây
này gợi cho người Nhật.
Gần thành Kyoto có con sông Nguyệt
Vựng (sukigasa) (vầng trăng) nổi tiếng về
Mai: các cành hoa rụng xuống trôi theo dòng
nước đầy cả mặt sông trong màu xanh nhạt
của sương mai, khiến người ta có cảm tưởng
nhìn một con đường trải hoa đang di chuyển.
Nhiều chim họa mi đến làm tổ trên những
cành Mai và người Nhật từ các nơi kéo về
thức suốt đêm để thưởng ngoạn cảnh tuyệt
vời hoa trôi, chim hót.
Vả lại, họa mi là loài chim ưa Mai nhất.
Một kiểu cắm hoa rất cổ điển có đề tài Mai
với họa mi (Mai điểu). Đó là cách trình bày
khó nhất, cũng như kiểu Mai dưới làn nước
(Mai Thủy). Còn cắm Mai theo ba kiểu thực,
động và trôi thì nhiều.
Nói chung, các nhánh Mai phải được lựa
chọn làm sao khi cắm sẽ kết hợp với nhau
61
Hoa đạo G.Ohsawa

một cách tự nhiên và hợp thành một tổng thể


hài hòa. Khi nhìn, ánh mắt sẽ bất giác chú ý
đến chỗ giao nhau của các cành làm nền cho
toàn thể.
Còn một thứ cây thường dùng trưng bày
là cây Diệp Lan (Baran) (lan lá) toàn lá màu
xanh lục. Lá to và rất cân đối. Thoạt trông thì
lá nào cũng như lá nấy, nhưng nhìn kỹ mới
thấy nhiều điểm dị biệt: lá thì cuống ngắn, lá
cuống dài, lá hẹp, lá rộng, lá cụt, lá rút nhỏ.
Dùng Diệp lan làm hoa cảnh sẽ tạo nên
một tổng thể màu xanh lá cây tuyệt đẹp, một
bản giao hưởng tuyệt vời của màu xanh lục,
với những sắc thái khác nhau phân biệt nhờ
độ sáng và phản chiếu.
Một người mới tập sự tưởng dễ sắp đặt
lá Diệp lan, không cần nhọc trí lựa cọng, lựa
hoa hay lựa nụ. Nhưng càng đi sâu nghiên
cứu thì mới thấy khó. Dầu sao Diệp lan rất
được các tay chơi hoa ưa thích, người mới
nhập môn cũng như những bậc thầy. Bắt đầu
vào nghề người ta thường chọn Diệp lan, mà
đến giai đoạn chót, khi thành thạo, cũng
chọn Diệp lan.

62
Hoa đạo G.Ohsawa

Trước hết, việc chọn lá rất khó, vì có chọn


kỹ, người cắm mới tạo ra được những tác
dụng như ý. Vả lại, lá Diệp lan không thể cắt
bỏ bớt đuôi hoặc đầu, vì người xem sẽ nhận
thấy ngay; trong khi những loại cây thường
có lá dài ở ruộng đầm có thể cắt bỏ một phần
mà không chướng mắt. Còn một khó khăn
khác thường làm những người mới nhập
môn nản chí là phải làm sao giữ được các lá
sát vào nhau mà không cưỡng ép hoặc làm
cho gãy nứt. Điều này không phải trở bàn tay
là làm được, vì lá Diệp lan mình trơn, dễ
trượt. Hơn nữa, Diệp lan là một loại lá không
chịu uốn ép như những loại cây lá khác.
Thường người ta dùng 3, 5, 7, 9, 11, 13
hay 15 lá. Quy luật số lẻ bao giờ cũng được
tôn trọng. Theo môn phái Ikenobo, phổ biến
nhất có ba kiểu bài trí mà chúng ta đã nói ở
trước: kiểu thực, kiểu động, và kiểu tạp hoặc
trôi. Mấy kiểu này tượng trưng ba giai đoạn
của cuộc đời. Nhưng chỉ sau một thời gian
thực hành lâu ngày, người ta mới khám phá
được bí quyết của nghệ thuật cắm hoa và
một trong những ngành của nghệ thuật này
cần phải nghiên cứu; đó là bài trí những loại
lá đơn (hamono). Rất dễ thẩm định tài nghệ
của một tay sành nghề khi người đó sắp đặt
63
Hoa đạo G.Ohsawa

những lá Diệp lan. Những hình ảnh ở trang


sau tượng trưng cách cắm hoa chín lá theo ba
kiểu: thực, động và trôi. Mới nhìn qua toàn
thể cũng có thể nhận ra sự khác nhau giữa
các kiểu. Kiểu thứ nhất ngay thẳng, thơ ngây.
Kiểu thứ hai nở ra một cách dịu dàng hòa
hợp. Kiểu thứ ba như trôi vào giai đoạn chót.
Cần ngắm thật lâu và nhiều lần mới lãnh
hội được ý nghĩa và vẻ đẹp của hoa, của lá.
Trong những cuộc triển lãm hoa, người ta im
lặng và trân trọng ngắm nhìn như đang ở
trong khung cảnh đền thờ. Mọi thứ đều trầm
tư và sám hối trong tâm. Để gợi niềm thích
thú, và để nghệ thuật phát huy vai trò giáo
dục, cần phải thực hiện mỗi kiểu cắm hoa
nhiều lần.
Hoa Cúc là chúa của các loài hoa Nhật
Bản, là hoa của Thiên Hoàng (hoàng đế nước
Nhật), bởi vì hoa cao quý. Người ta gặp hoa
Cúc trong những bức tranh kiệt tác, trên
những đồ sơn mài làm bằng gỗ quý, trên
những vật chạm trổ, trên vải trên áo quần và
những hàng thêu lịch sự nhất. Chỉ những ai
biết ca ngợi vẻ đẹp của hoa Cúc mới thật sự
là thi nhân.

64
Hoa đạo G.Ohsawa

Đã nhiều tay sành điệu có tham vọng bày


ra những kiểu cắm hoa Cúc mẫu mực nhưng
ít người thành công. Dầu sao, xưa hay nay,
tên tuổi họ vẫn được người đời nhớ mãi. Vả
lại, những cuộc thi hoa Cúc thường lấn át các
cuộc thi hoa khác về lượng cũng như về
phẩm.
Tôi không dám có tham vọng dạy cách
cắm hoa Cúc, mà chỉ biết trình bày các
nguyên tắc mà thôi. Cũng như người quản lý
một trường tập ngựa gặp con ngựa nòi.
Người ấy có thể biết tất cả những gì phải làm,
nhưng vì là chủ nhân của trường, nên không
bắt buộc người ấy phải là người cưỡi ngựa
giỏi.
Và hoa Cúc chính là con ngựa nòi trong
lãnh vực hoa. Vì vậy, mặc dù Cúc là loài hoa
vô địch, và vì loài hoa vô địch, Cúc sẽ gây
lúng túng cho những ai không phải hành
nghề.
Nghệ thuật cắm hoa, có mục đích làm nổi
bật đức tính và vẻ đẹp của các loài hoa, phải
tỏ ra bất lực trước hoa Cúc, vì hoa Cúc vừa
mới chào đời đã có đủ những gì tốt lành cao
quý. Chỉ sợ nghệ thuật sẽ làm giảm giá trị
của hoa. Lá Cúc rất mong manh; Cúc không
65
Hoa đạo G.Ohsawa

bao giờ cho phép người ta mó tay vào, vì sẽ


lưu dấu vết; cành Cúc rất mảnh khảnh, động
đến là gãy, muốn uốn cong cũng khó; và sau
cùng, Cúc là một loài cây khó hút nước.
Cúc có nhiều loại, có loại mọc hoang, sinh
ở miền núi hay tại ruộng đồng, còn loại khác
đều do người trồng. Trong đám Cúc vườn,
có loại hoa lớn riêng lẻ, có loại nhiều hoa
nhưng hoa nhỏ.
Loại Cúc dễ bày nhất là Hạ Cúc - Cúc
mùa hè, còn gọi là Cúc Azuma. Hãy thử trình
bày loại Cúc này, vì chúng ta mới nhập môn
Kiểu tổng hợp Thập cúc (mười hoa cúc) là
kiểu cắm quen thuộc nhất.
Hoa thứ nhất phải là hoa đẹp nhất. Hoa
thứ nhì là một hoa còn nụ. Hoa thứ chín là
hoa hàm tiếu. Hoa thứ năm, sáu, bảy, tám
cũng là những nụ búp. Một cây Cúc trong
vườn khi đơm hoa cũng theo thứ tự này.
Phần ba thân cây phía trước dưới không bao
giờ có hoa. Hoa thứ bẩy và thứ tám phải là
những nụ búp chắc nhất, nghĩa là non nhất.
Ta đã biết hoa Cúc hút nước rất khó khăn.
Muốn Cúc hút nước, ta có thể dùng nhiều
phương pháp, hoặc là đem thui dưới thân
thể nó khỏi úng, rồi cắm thân cây vào một cái
66
Hoa đạo G.Ohsawa

thùng đầy nước trong nhiều giờ, đó là


phương pháp cũ, hoặc là bóp nát phía dưới
thân Cúc rồi nhúng vào nước đang sôi.
Phương pháp mới là nhúng thân cây vào một
dung dịch rượu cồn pha tinh dầu bạc hà.

67
Hoa đạo G.Ohsawa

CHƯƠNG BỐN
CÂY CẢNH THU NHỎ (BONSAI)
Đối với người châu Âu, nghệ thuật cây
cảnh hay nghệ thuật trồng cây thu nhỏ là một
điều kỳ lạ nữa góp thêm vào những điều kỳ
lạ khác ở Phương Đông. Đồi với người Nhật,
nghệ thuật trồng cây cảnh là một khoa thẩm
mỹ và cũng là một môn triết học. Trong khi
hoa đạo giáo dục về đạo đức, thì nghệ thuật
cây cảnh bổ túc cho nền giáo dục đó.
Người ta dễ nhận thấy tính tình một con
người qua các cây cảnh người ấy trồng, cũng
như đoán biết tính tình một nhà hội họa qua
các bức tranh của tác giả. Đổi lại, những cây
cổ thụ tí hon trồng trong các chậu thu gọn
trong khuôn khổ bé nhỏ mọi bộ môn nghệ
thuật và mọi ngành khoa học, trong đó hiển
nhiên có thuật làm vườn, vì người chơi cây
cảnh phải là tay làm vườn lành nghề và có cả
kỹ thuật kiến trúc, vì một cây dù nhỏ bé đến
đâu cũng là một đài kỷ niệm thiên nhiên có
kích thước vô cùng tinh tế, biến đổi tùy theo
môi trường, tùy theo các loại cỏ rêu mọc dưới
gốc, tùy theo mực nước ngập tràn bộ rễ, và
tùy bòng hòn non bộ được xây dựng bên
cạnh. Cũng có cả khoa sinh lý học và thuật
68
Hoa đạo G.Ohsawa

trường sinh, vì cây cảnh càng lâu đời càng


đẹp. Người phương Đông có truyền thuyết
ca ngợi và tôn trọng tuổi già. Có nhiều cây
cảnh tí hon sống hàng thế kỷ. Cứ mỗi lần
đông đến, vũ trụ lắng vào giấc ngủ, thì người
ta đem trồng xuống đất để chúng lấy sức. Rồi
xuân về, người ta lại đưa chúng vào chậu
dành riêng. Để có chậu vừa ý, đôi khi người
chơi phải tốn nhiều năm lục tìm khắp các cửa
hàng đặc biệt và các tiệm bán đồ xưa.
Cây cảnh là một công trình nghệ thuật
dài lâu, không chút gì giống củ uất kim
hương hoặc của lan dạ hương người ta
thường đặt trên bờ của sổ để thỉnh thoảng
ngắm nhìn. Cây cảnh được lưu truyền từ đời
cha đến đời con. Người ta thường thấy có
người mất hết gia tài sự nghiệp mà vẫn
không chịu bán mấy cây cảnh tí hon của cha
để lại, mà chính người cha cũng đã thừa
hưởng của tiền nhân.
Trong các gia đình danh vọng, người có
nhiệm vụ chăm non các chậu cảnh mới thật
là chủ nhân ông. Người ấy là y sĩ của cây,
đồng thời là một nhà luyện kim, ngày nào
cũng nghiêng mình trên mấy mẫu đất dựng
trong các lồng kính. Một người lương thiện
không thể tránh khỏi lời đàm tiếu của dư
69
Hoa đạo G.Ohsawa

luận chung quanh khi bán một chậu cảnh mà


không có ý kiến của người giữ cây. Người
giữ cây có một quyền lực tinh thần vô cùng
thiêng liêng đối với các tác phẩm mà ông ta
ra công vun vén. Phải được người giữ cây
cho phép mới được định đoạt số phận của
các chậu cây cảnh. Phân tán các cây cảnh
chẳng khác nào bắt mất con cái của người giữ
cây.
Trồng cây cảnh thu nhỏ là một nghệ
thuật ít tốn kém mà một người kéo xe cũng
như một người giàu có hoặc dòng dõi quý
tộc đều có thể thực hiện. Trong bất cứ phòng
khách nào của người Nhật cũng có chỗ dành
cho chậu cảnh. Chậu cây, đặt trên một chiếc
bàn con, phải vừa tầm nhìn của khách ngồi
trong phòng để khách thấy được toàn thể mà
khỏi nhướn người lên hoặc ngước mắt. Như
thế khách mới đủ bình tĩnh nhận xét tâm tính
và thị hiếu của chủ nhà biểu hiện trong chậu
cây yêu quý. Trong phòng hầu như thiếu
vắng đồ đạc, sắc màu đơn điệu, không có
những chỗ nhô ra trên vách, không có cửa
kính trong veo, chính những đặc điểm này
làm khách phải đưa mắt nhìn về giữa phòng
nơi đặt chậu cây tí hon.

70
Hoa đạo G.Ohsawa

Thưởng thức một vật bé nhỏ như thế thì


thật ân cần chăm chút biết bao, và những cây
cảnh xuất khẩu qua tận châu Âu chắc hẳn
thấy cô đơn lắm!
Nghề trồng cây cảnh có lẽ bắt nguồn từ
Trung Hoa và đã xuất hiện từ đời Đường,
Tống, nhưng chỉ tồn tại ở Nhật. Từ lâu Nhật
Bản đã quen nhập khẩu văn minh, tôn giáo
ngoại lai và thường hay phát triển nó lên.
Nhưng cuối cùng, cái gì qua Nhật cũng
biến thành tinh tế. Có lẽ những chậu cảnh
Trung Hoa giống như những chậu Diệp lan,
thường được bày tại nhiều khách sạn ở Paris,
trông hơi hỗn độn và không ý nghĩa bao
nhiêu, mặc dù rất đẹp. Trái lại, ngày nay
những chậu cảnh Nhật Bản đều theo những
quy luật rõ ràng chính xác như trong thi ca,
và những quy luật ấy rất nhiều. Mục đích cao
cả của một chậu cảnh là tượng trưng cho vũ
trụ trong sự khắc khổ và khôn ngoan muôn
đời.
Kích thước của chậu trồng cây có thể lớn
đến 6 syaku (khoảng 1m26), nhưng luôn
luôn là hình chữ nhật và nông. Thường thì
người ta dùng chậu có kích thước nhỏ hơn,
khoảng 40cmx30cm. Chậu nông có rất nhiều
71
Hoa đạo G.Ohsawa

ích lợi. Trước hết là do yêu cầu về thực vật


học: nếu chậu quá sâu, rễ được nuôi dưỡng
dài thì cây sẽ lớn mất đi sự hài hòa, hoa và lá
cũng biến dạng. Kế đến, chậu tượng trưng
cho đất, nguồn sinh dưỡng tất cả, phải gây
nên ấn tượng về không gian. Sau cùng cây
cảnh tí hon phải được xem như một tác phẩm
mỹ thuật đặt trên một cái đài; vì vậy dùng
chậu nông, dẹt là thích hợp hơn hết.
Cây cảnh thu nhỏ tiêu biểu cho một cây
già lâu năm, đứng trơ trọi một mình trong vũ
trụ bao la, có dáng dấp và phong thái rất đẹp.
Tạo được hình ảnh như thế cho một cây bé
nhỏ chỉ cao 30cm thường do trồng bằng hạt
quả là việc không phải dễ dàng. Nhưng đó
lại là một điều cần thiết. Bất cứ vật gì muốn
được xem là toàn thiện, thì không những
phải đủ các đặc tính vật chất, mà còn mang
một tính chất không thể cân lường, không
thể nhìn thấy (luôn luôn hướng về cõi vô
hình) thường được gọi là “Sabi”.
Chữ “Sabi” không thể dịch ra tiếng Pháp.
Chữ Pháp gần nghĩa nhất có lẽ là “patine”
(lớp mốc, rêu phong bám vào những đồ cổ
bằng đồng, vào mặt đá, mặt bia). Nhưng Sabi
có tính chất tinh tế hơn nhiều. Những bậc
thầy nổi tiếng về nghệ thuật trồng cây cảnh
72
Hoa đạo G.Ohsawa

có rất nhiều bí quyết tạo cho cây lớp rêu


phong ấy. Vì vậy, nghề trồng cây cảnh tí hon
thường là gia truyền.
Vài loại vỏ cây xù xì nhưng mềm tự nhiên
có được rêu phong, còn phần đông không có.
Một cây hoàn hảo về mọi mặt những thiếu
điểm này cũng xem như chưa đạt.
Có nhiều đặc tính góp phần tạo ra cảm
giác già nua cực độ. Cứ nhìn vào hình dáng,
con mắt người thường cũng có thể từ xa ước
đoán tuổi tác của một cây trong cánh đồng.
Từ lúc mới mọc cho đến khi chết, không
một bộ phận nào của cây giữ nguyên tỉ lệ
kích thước, vóc dáng và màu sắc của lá, cành,
rễ đều vô tình đổi thay theo năm tháng. Tất
cả các đặc tính ấy làm sao tái tạo chi li trong
một mô hình thu nhỏ?
Lẽ dĩ nhiên là có những quy ước gọi là
những ngoại luật (licences) về thẩm mỹ
tương tự những ngoại luật thi ca. Đừng quên
rằng chơi cảnh tí hon là một nghệ thuật. Và
là nghệ thuật cao quý nhất theo tinh thần
Nhật Bản.Chẳng hạn người ta có thể châm
chước một cây cảnh có lá không tương xứng
với thân và cành, vì tương đối lớn, mặc dù
đã tìm mọi cách làm chúng nhỏ đi và tạo
73
Hoa đạo G.Ohsawa

được lớp rêu phong cần thiết. Người ta cũng


chấp nhận một thân cây to đến độ nào đó quá
khổ so với chiều cao. Từ tấm bé người Nhất
đã quen với những nguyên tắc thẩm mỹ đại
loại như thế nên không thấy khó chịu, gai
mắt, cũng như người Pháp không hề khó
chịu khi nghe một vở kịch thơ.
Đầu cây càng già thì càng tròn, giống như
cái tán. Trái lại, cây còn non thì đầu nhọn,
cho thấy tham vọng chưa được thỏa mãn,
trông thật trơ tráo. Cây cũng như người lúc
nào cũng phải biết yên phận. Không gì khó
coi hơn một cây mà không biết nhẫn, cứ chĩa
đầu, hất mặt lên trời. Đó là thiếu sự quân
bình, thiếu khôn ngoan, là cải lại sự minh
triết của tạo hóa luôn luôn biết rõ những gì
cần thiết cho từng người, từng vật.
Muốn tạo cho phần trên cùng của cây
cảnh bé nhỏ dáng cong tròn xinh xắn, cần
phải tác động bằng nhiều yếu tố. Hiệu quả
nhất vẫn là độ cạn của chậu. Các cành cây
đều lệ thuộc ít nhiều vào rễ, vì rễ nuôi cành.
Rễ mà đâm thẳng xuống thì đầu cây phải
nhọn. Rễ đâm ngang thì đầu bằng. Vả lại, khi
mùa đông đến, người ta bưng cây ra đặt
xuống đất trong vườn theo phương pháp hồi

74
Hoa đạo G.Ohsawa

xuân thì những cành bên trên cứ cuốn chĩa


lên trời vì rễ đâm xuống.
Do đó, một cây cổ thụ hoàn toàn lý tưởng,
nghĩa là thể hiện được sự quân bình thiêng
liêng trong vũ trụ, phải có đầu trên hơi cong
tròn. Nếu không cây mất hết nghĩa lý, và
không một đức tính nào khác có thể bù vào
khuyết điểm căn bản đó. Tuy nhiên, người ta
cũng thấy vài cây cổ thụ có những cành bên
trên ngả mạnh về sau như bị cuồng phong xô
dạt. Đó là những cây thể hiện sự khổ não của
những người không muốn yên phận. Khi đã
đến đỉnh chót cuộc đời, nếu họ không muốn
tự hạ mình xuống, thì mặc kệ họ! Quy luật
vũ trụ sẽ bẻ gãy họ. Và đó là lẽ tuyệt đối vô
thượng của nhà Phật.
Một cây cảnh toàn hảo không mang dấu
vết nhân tạo mà kể cả những vết uốn nắn mà
nó đã trải qua. Cũng như một người đàn bà
từ nhỏ đã được giáo dục trong kỷ luật sắt,
luôn luôn phải giữ nụ cười cùng nét kiều
diễm và không bao giờ để lộ những nỗi đau
khổ, hoặc như một hiệp sĩ từ chiến trường về
phải quên tất cả những vết thương trên mình,
không được kể lể với bất cứ ai chàng gặp trên
đường. Cây cảnh bé nhỏ cũng vậy, không
nên thổ lộ điều gì.
75
Hoa đạo G.Ohsawa

Vỏ cây có thể sần sùi, lồi lõm không đều,


mặc dù phủ lớp rêu phong, nhưng không
mang dầu vết chắp nối, chiết cắt. Những
cành vô dụng đều được cắt bỏ từ khi mới
nhú, như người ta chữa trị tật xấu của trẻ con
ngay khi chúng còn thơ ấu. Tại sao? - Tại vì
mọi bộ phận của cây đều góp thành tổng thể
hài hòa, cành không nên già hơn rễ, mà rễ
cũng không được non hơn cành.
Nếu có sự khác biệt về độ tuổi thì cây
càng già, sự khác biệt càng giảm. 50 năm có
nghĩa gì đâu đối với một cây cảnh sống hai,
ba thế kỷ! Chỉ duy nhất sự kiện sống lâu cực
độ cũng đủ xóa mờ mọi khuyết điểm. Một
thực thể mà Trời Phật cho phép vượt qua
giới hạn thông thường của thời gian là một
thực thể Trời Phật thương và đáng được
thương. Nhưng trừ trường hợp đặc ân cực
hiếm này, muốn có một cây cảnh cổ thụ tí
hon thì phải trồng bằng hạt.
Khi chiết cành để trồng, có nhiều phương
thức để xóa đi những cách biệt về tuổi tác có
thể thấy giữa thân, cành và rễ. Phương thức
thông thường nhất là đem phơi nắng. Tất cả
sẽ nhanh chóng bắt lấy một màu đồng bộ che
mờ những cách biệt. Trong toàn cây cảnh,
không nên xem nhẹ bộ phận nào. Ở phương
76
Hoa đạo G.Ohsawa

Tây, không ai lưu tâm đến rễ, những chính


rễ góp phần rất lớn vào việc tạo ra cảm giác
về sức mạnh và sức sống. Một cây cổ thụ già
nua, mặc dù nhỏ bé, là biểu hiện của lòng
dũng cảm và chiến thắng. Nó đã chiến thắng
trong cuộc đấu tranh sinh tồn nhờ gắn bó
không nguôi với vùng đất mẹ. Rễ của nó ví
như những cánh tay níu mẹ mãi đến lúc chết.
Một cây không trông thấy rễ trồi lên mặt đất
thì chẳng khác chi cây giả, và người ta sẽ hỏi
tại sao nó còn đứng được. Biết đến bao giờ
những người làm vườn ở châu Âu mới đủ
lòng chiếu cố gốc rễ của cây?
Để giữ cây thăng bằng, rễ phải tỏa ra
nhiều hướng, ít nhất cũng ba hướng, nhưng
ra nhiều hướng quá cũng không tốt.
Chơi cây cảnh là một cách để thể hiện cá
tính cũng như mọi công trình nghệ thuật,
nhưng những phương tiện sử dụng phải hết
sức đơn giản. Toàn thiện và đơn giản là một.
Một cây to, nhiểu tuổi thường có nhiều cành.
Nhưng riêng cây cảnh thu nhỏ có những quy
ước bắt buộc phải tạo ra cảm giác già nua cực
độ với càng ít cành càng hay.
Lẽ dĩ nhiên cành trên cây thu nhỏ không
phải đâm sao cũng được. Những cành đâm
77
Hoa đạo G.Ohsawa

đối xứng gọi là “cành xương cá”, hình thức


này thường bị khinh chê. Nghệ thuật Nhật
Bản không ưa cân đối. Chỉ những vật thấp
hèn mới cần cân đối để được vững vàng,
thoải mái. Người ta cũng không ưa những
cành đưa thẳng ra trước chĩa vào người xem.
Kiểu cành này được ví như những mũi dao
hăm dọa đầy vẻ kiều căng. Sau cùng phải nói
đến thân cây, không nên để thân cây bị lá
cành che lấp, nhưng cũng không quá trơ chụi.
Người xa lạ với nghệ thuật, khi xem cây
cảnh thu nhỏ chỉ nhìn phần bên ngoài. Họ
không tìm ra những gì bị che phân nửa lớp
lá đầu. Nhưng chính những phần ở giữa và
phía sau mới đáng thưởng thức. Một người
sành điệu bao giờ cũng đứng nhìn phía sau
để phê phán một cây trồng cảnh. Người ấy
không khi nào nhìn nhầm góc cạnh dành cho
khách thưởng lãm, và không khi nào đặt một
chậu cây cảnh phía trước ra sau như mấy cô
giúp việc.
Cũng chính vì thế mà cách đây 50 năm
khi người Nhật chưa biết nhiều về đồ đạc
làm bằng gỗ của phương Tây. Và chưa có
quan niệm gì về cách chế tạo các đồ đạc đó,
những người mua đầu tiên đòi xem cho được
bên trong và mặt quay vào vách; họ sửng sốt
78
Hoa đạo G.Ohsawa

vì thấy ván những nơi này không được bào


trơn và đánh bóng như các mặt ngoài. Dù sao,
điều này cũng gây cho họ cảm tưởng không
tốt về nền văn minh hiện đại.
Vậy chúng ta cũng nên cẩn thận, chớ phê
bình một cây cảnh tí hon theo cách nhìn của
người phương Tây.
Theo nguyên tắc, các nhánh cây cảnh
không được dài hơn thân cây. Phải làm sao
các cành có nét lượn lờ duyên dáng hơn
những đường uốn éo của thân, nhưng đừng
để các cành lớn mau, vì như thế sẽ bị mất đi
lớp rêu phong quý. Thứ rêu phong ấy mắt
người chưa thành thạo không trông thấy
được, lại là một cái gì thật quý, không nên để
mất. Có thể nói đó là một giá trị tinh thần.
Những loại cây có lá nhỏ hình kim ít phát
triển ở đầu cành, nhưng những loại cây lá
rộng thì ngược lại, đầu cành phát triển mạnh,
điều này làm giảm bớt giá trị và phá hủy vẻ
duyên dáng của lớp rêu phong. Chỉ cây
Phong và cây Du lá khía (zelkwa crenele)
được miễn theo quy luật này, vì thế, từ bao
thế kỷ người ta vẫn thích dùng mấy loại cây
này để trồng cảnh.

79
Hoa đạo G.Ohsawa

Đến đây chúng ta cũng chưa nói gì về lá.


Mà thật vậy, các sách xưa không xem lá là bộ
phận cần thiết của cây cảnh mà chỉ cho biết
lá cần được thu lại, càng nhỏ càng hay. Tuy
nhiên lá là y phục của cây.
Có những cây cảnh đẹp nhờ trụi lá, như
cây Du chẳng hạn, nhưng đó là ngoại lệ.
Người ta gọi chúng là “cây lạnh lẽo” thường
xuất hiện trên bàn phòng khách vào mùa
đông. Bấy giờ người ta sẽ thưởng thức được
cảnh các cành ra nhánh liên tục, trên thân
chúng lấm tấm những đốm sáng li ti. Đấy là
những mầm nảy ra lá mới. Những loài cây
khác như cây Phong được trưng vào đầu
mùa xuân khi chồi non vừa nhú.
Nội hình dáng lá cũng gây nhiều tranh
luận miên man. Có người cho rằng lá hình
tua như lá cây Cẩm tùng (nishiki) lá lý tưởng
nhất. Người khác thì thích là hình trái tim
như lá cây hoa Trà, hoặc hình thuyền như lá
cây Đào. Tất cả đều cho rằng cây có giá trị chỉ
nhờ lá, và dường như không mấy lưu ý đến
hoa. Điều này hoàn toàn khác với thị hiếu
của người phương Tây. Tây phương chỉ
thích về hào nhoáng, lộng lẫy và màu sắc lòe
loẹt. Trái lại, Đông phương thích những gì
khiêm tốn, kín đáo, một màu. Cũng như hội
80
Hoa đạo G.Ohsawa

họa đơn sắc cổ truyền Nhật Bản ở châu Âu


rất ít người thưởng thức, vẻ đẹp của những
chiếc lá nhỏ ít hy vọng được người Âu châu
để ý.
Điều làm cho người Nhật say mê nhất là
màu sắc biến đổi không đều tùy theo thời tiết
của lá. Những đốm tròn li ti trên thân lá; màu
xanh tươi mát khi thì đậm như màu tùng Ezo,
khi thì lợt như trên cây Đào; màu vàng rực
rỡ như ngọn lửa bùng của những chiếc lá
mới nổi bật trên nền sậm của những cành lá
già; cả một vẻ đẹp sống động mà Tây
phương thường không nhận thấy.
Hoa ở cành chỉ là phụ thuộc. Thật vậy,
mùa hoa quá ngắn ngủi mà mục đích của cây
cảnh thì tiêu biểu cho sự vĩnh cửu, trường
tồn; mùa hoa là một giai đoạn khoe khoang
ngạo nghễ mà mục đích của cây thì tiêu biểu
cho sự khiêm nhường.
Ở Nhật cũng có những cây trồng chậu
(hachiue) ra hoa rất đẹp, nhưng điều đó
không quan hệ gì với cây cảnh thu nhỏ. Cây
cảnh thu nhỏ bất cứ mùa gì cũng đẹp, dù
đang ra hoa hoặc đã trụi hoa cũng được
người ta ưa thích. Thiên nhiên luôn luôn phô
bày vẻ đẹp toàn thiện.
81
Hoa đạo G.Ohsawa

Người nước ngoài khi đến thăm nước


Nhật thường ngạc nhiên vì không thấy hoa
đẹp khắp nơi như họ tưởng tượng. Họ
thường cho rằng Nhật Bản là xứ lý tưởng của
các loài hoa. Thế mà ngay cả trong vườn của
các gia đình vọng tộc, họ chẳng thấy mấy hoa
mà chỉ thấy nhiều lá, cỏ rong rêu là những
thứ ban đầu họ không để ý.
Một trong những lý do đặc biệt khiến
người ta ít quan tâm đến hoa trong những
chậu cảnh tí hon là không thể thu nhỏ kích
thước của hoa cho hòa hợp với các phần khác
của cây, mà hoa còn khó thu nhỏ hơn lá. Cây
cảnh có đủ cỡ vì kích thước chậu có cái rộng
đến 2m x 2m, nhưng phần lớn không quá cao
30cm. Những năm gần đây, người ta còn
thấy một kiểu chơi cây cảnh bỏ túi với những
cây tí hon trồng trong chậu có cạnh chỉ từ 3
đến 4cm.
Như vậy cây hoa Trà trồng cảnh không
hợp vì quá lớn. Anh đào và Hải đường
(Kaido) cũng bị loại vì lý do tương tự; cọng
hoa quá dài không thu ngắn được. Tuy nhiên,
một loại Anh đào núi mới được khám phá -
Anh đào Phú Sĩ - lại có thể trồng làm cây
cảnh.

82
Hoa đạo G.Ohsawa

Vài loại cây khác như Bách nhật hồng


(Tử vi) (Sarusuberi) cũng bị chê, vì đến mùa
hoa, cành vươn ra quá dài, phá thế thăng
bằng của cây và lớp rêu phong bớt phần
duyên dáng.
Nhìn chung, số cánh hoa, nhiều hoặc ít,
cũng góp phần tạo dáng cho hoa. Cánh hoa
càng nhiều thì càng dài và càng làm dáng
hoa tăng phần tao nhã. Không hiểu tại sao
người ta thường thích những cánh hoa lẻ và
ít quý hoa chùm bằng hoa đơn chiếc. Có lẽ
chính đặc tính lẻ loi, cô độc này đi đôi với
tính khiêm tốn và thận trọng, tạo ra vẻ đẹp
cho cây Mai Nhật Bản.
Sau cùng để loại bỏ hoàn toàn ảo tưởng
về vấn đề này, cũng cần biết thêm hoa Nhật
hầu như không có hương thơm. Loài hoa tím
thành Parme (Cố đô nước Ý) đem về trông
tại Tokyo gần như không còn thơm nữa. Vì
đâu có sự kiện này?
Xin nhường các nhà sinh vật học hiện đại
trả lời. Tuy nhiên không nên cho rằng mũi
người Nhật ít thính hơn người phương Tây.
Trái lại, hơn nghìn năm nay người Nhật đã
có Hương Đạo (Kodo) - nghệ thuật thẩm mỹ

83
Hoa đạo G.Ohsawa

bằng khứu giác và là một khoa học rất thú vị


về giai điệu của mùi hương.
Nhiều loại cổ thụ được người thưởng
thức vào mùa đơm trái. Những cây này được
gọi là mimono, nghĩa là cây cảnh có trái.
Trong số này có thể kế đến cây Hồng, Đỗ
Trọng Trung Hoa.
Các loại lựu, lê cũng là cây cảnh có trái,
nhưng vào mùa hoa, cũng cho hoa. Hai cây
này vừa là mimono, vừa là hanamon nghĩa
là loại cây cảnh cho trái lẫn cho hoa.
Thật ra, sự phân loại này có tính chất
bình dân. Hoa cũng như trái không phải là lý
do tồn tại của nghệ thuật cây cảnh thu nhỏ.
Sắc màu phong phú nhất dành cho trái
cây mùa thu. Trong văn học Trung Hoa có
rất nhiều chuyện cổ tích nói về trái cây, nhất
là trái đào. Nhưng người Nhật, hơn bất cứ
dân tộc nào, để ý nhiều đến vẻ đẹp của trái
cây.
Thật vậy, ngay cả văn học phương Tây
thường nói đến màu lá mùa thu, với vẻ hài
hòa tuyệt diệu không ai không thấy, nhưng
với trái cây thì không như thế. Phải chăng
trái cây chỉ có giá trị như một thức ăn?

84
Hoa đạo G.Ohsawa

Một bài thơ dân gian ngắn cho thấy sự ưa


thích đặc biệt của người Nhật đối với trái cây.
Một ngày mùa thu trôi qua Trên cành cây
Hồng
Những con quạ đậu…
Mùa đông đã đến Vỏ những quả lật
Xòe ra như bàn tay mở rộng. Những hạt
ngọc sương long lanh
Cây cổ thụ trồng chậu, tiếng Nhật là
bonsai. Bonsai gồm hai từ; bon (bồn) nghĩa là
chậu, và sai (tài) nghĩa là trồng.
Phân tích từ ngữ như vậy để thấy rằng
trong nghệ thuật cây cảnh, cái chậu không
phải là một yếu tố kém phần quan trọng.
Đáng ngạc nhiên là ở châu Âu, người ta
giao phó việc làm khung hình cho các lái
buôn chỉ biết có tiền. Ở Nhật, làm khung là
cả một nghệ thuật, nằm trong chương trình
giáo dục thẩm mỹ. Không người nào thích
chơi tranh mà không lo phần trang sức cho
tranh. Thật đáng buồn khi ở châu Âu có
những cây lùn rất đẹp bị đặt trong mấy cái
chậu kệch cỡm, nhiều khi chậu còn được bọc
thêm vải lụa diêm dúa đỏ, trắng, hoặc vàng.

85
Hoa đạo G.Ohsawa

Một cây cảnh thu nhỏ bonsai mà cách biệt


với chậu thì không còn là bonsai nữa. Một
cây phong đỏ tía mà không ở trong cái chậu
màu lục nhạt thì còn nghĩa lý gì! Chậu là nhà
của cây. Suốt đời, cây cảnh thu nhỏ thường ở
luôn trong chậu không hề thay đổi.
Dĩ nhiên đây không phải là những quy
luật nhất định, mà tự mỗi người phải suy
nghĩ tìm tòi.
Biết bao người chơi cây cảnh phải lặn lội
tự nơi này đến nơi khác để tìm cho ra một cái
chậu có hình, sắc và chất liệu ưng ý. Nhiều
lúc phải mất nhiều ngày, tay sành điệu mới
về đến nhà một biểu chiều, ôm cái chậu trong
tay. Người ấy xông đến cây, hối hả chuyển
cây qua chậu mới, rồi mang vào phòng đặt
lên bàn để ngắm nghía, không hay biết là
mình đã vung đất tứ tung. Nếu hoàn toàn
hợp thì sung sướng biết bao!
Một kỳ công to lớn! Người ấy sẽ mang
chậu cây vào buồng ngủ, đặt bên cạnh gối để
ngủ…Nhưng có khi ngày hôm sau lại phải ra
đi tìm nữa, vì thấy chậu cảnh chưa toàn nhất
theo ý của mình.
Phần lớn chậu Nhật, không sánh kịp các
chậu Trung Hoa. Chậu Trung Hoa quý giá ở
86
Hoa đạo G.Ohsawa

chất sứ, chất sành. Thực vậy, nói đến chậu


trồng cảnh là nói đến chậu Trung Hoa. Chậu
Trung Hoa phần lớn có màu sẫm và kín đáo.
Nếu tình cờ ta gặp một Trung Hoa màu trắng,
chậu ấy phải xưa nhiều thế kỷ, thường phủ
lớp “rêu phong” quý hiếm.
Chậu tượng trưng cho đất, mà đất không
gợi sắc hung hăng. Màu xám tro là màu tự
nhiên của đất. Chậu cũng phải làm người
nhìn nghĩ đến không gian, đến khoảng trống
khôn lường của thời gian; và đó là một lý do
để chọn màu tro xám.
Vả lại, chậu phải được đặt trong phòng
khách trên một cái bàn, và không gì xám hơn
một phòng Nhật Bản. Nó làm ta nghĩ đến
phía trong yên tĩnh của một ngôi đền, ngôi
đền tại gia. Ở trong đó, không nên để con
mắt phải khó chịu vì những màu sắc thô bạo.
Màu chậu cũng phải là gạch nối chuyển
tiếp giữa màu phòng và màu cây cảnh. Tất cả
phải hòa hợp. Đối với những cây xanh bốn
mùa, như loài tùng bách, màu chậu thường
là nâu tía (shidei), hoặc có thể pha lẫn hai
màu tím đậm và xanh đen (namako).
Đối với cây lá đỏ thì dùng màu lục nhạt
(seizi). Một cây phong đỏ trong chậu màu lục
87
Hoa đạo G.Ohsawa

nhạt sẽ khiến ta nghĩ đến tranh vẽ của danh


họa Corot. Màu nâu tía trong trường hợp này
sẽ quá nặng nề.
Nhân đây cũng nên lưu ý, với những cây
có nhiều cành xõa ra như tóc, dùng màu
trắng, nhất màu trắng “rêu phong” thì tuyệt.
Màu trắng cũng thích hợp với những cây có
hoa tím, còn màu xanh lá cây, màu vàng thì
hoàn toàn lạc điệu.
Cũng nên nói qua đường nét của chậu.
Về điểm này, người Nhật luôn luôn ưa
chuộng những đường dài suôn sẻ, không
khúc chiết, rất đơn giản về hình thức, và tất
cả các góc đều tròn. Những đường đứng rất
ngắn, hạn chế bởi chiều sâu cạn cợt của chậu.
Nhìn toàn khối, người ta cảm thấy từ đó toát
ra một sự êm đềm, một sự im lìm bình thản,
diễn tả được sự yên tĩnh hoàn toàn của đất,
ẩn tàng sức bật mạnh mẽ của vạn vật tượng
trưng bằng cây cảnh tí hon.

88
Hoa đạo G.Ohsawa

CHƯƠNG NĂM
TRIẾT LÝ VỀ HOA
Ngày nay không còn nơi nào trên hành
tinh này chưa được khám phá, không miền
đất nào không có đường giao thông băng
qua ngang dọc, và cả đến không gian cũng
được thám hiểm, nhưng vẫn còn một vùng
tuyệt đối bí mật, hầu như khó hiểu, khó lý
giải, vì quá xa lạ và các giác quan chưa hề
nhận biết, đó là tâm trạng của những dân tộc
có vị trí đối nghịch nhau trên mặt địa cầu.
Cho rằng Nhật Bản chỉ đối nghịch với
chấu Âu về vị trí địa dư là nhận xét phiến
diện. Sự đối nghịch này gồm cả các mặt tâm
lý, luân lý và mỹ thuật.
Chúng tôi đã chứng minh rằng nhờ có
các loài hoa mà ta thấy được vẻ đẹp ở bên kia
không là đẹp đối với ta bên này; nhưng
chúng tôi lại không biết nguyên do tại sao có
sự trái ngược đó, nhất là chúng tôi không tin
sự trái ngược nơi nào cũng có . Tuy nhiên,
không có gì để nói tổng quát hơn, và nói về
hoa thì chẳng có nhiều khác biệt, nên chúng
tôi đã dùng hoa làm điểm khởi đầu.

89
Hoa đạo G.Ohsawa

Có người sẽ cãi: “Người Nhật chẳng khác


gì chúng tôi, vì đã hơn mấy chục năm nay
người Nhật cũng sản xuất những thứ như
chúng tôi, chế ra những dụng cụ như chúng
tôi, tóm lại là cũng có chung một nền văn
minh như chúng tôi”
Chữ “Nhật” tương đương với chữ “văn
minh”, nghĩa là “trí sáng suốt” hoặc “trí sâu
sắc”. Chữ ấy có giá trị thuần túy tinh thần.
Nếu nói “một nền văn minh vật chất” thì quả
là vô nghĩa. Cũng thế, nếu nói những nhà bác
học thông thái có tiếng khôn ngoan mà chỉ
nhắm đến mục đích cải thiện vật chất không
thôi thì đó là điều một người Nhật chính
thống không sao quan niệm được.
Quốc gia Nhật Bản là một quốc gia có
đẳng cấp. Dân chúng tuy vẫn đổ xô vào tiền
tài như các nơi khác, nhưng vẫn ca tụng sự
thanh liêm. Ở nước Nhật xưa, các giai cấp xã
hội được phân chia theo thứ tự: sĩ (giới trí
thức), nông (người làm ruộng), công (người
làm thuê) và thương (giới buôn bán).
Thương gia là hạng người giàu nhất, nhưng
bị xem thường nhất.
Đến nay cũng thế, tại các buổi tiệc linh
đình ở hoàng cung những người ngồi kề cận
90
Hoa đạo G.Ohsawa

Thiên hoàng là giới trí thức nghèo, những


hiền đức, còn các nhà tỷ phú sắp xếp tận cuối
bàn. Dù Nhật Bản cố gắng hết sức bắt chước
người phương Tây trong mọi chi tiết sinh
hoạt, cũng không thể nào cải đổi quy luật đã
có. Nhật Bản tha thiết với những giá trị vô
hình, với sự thanh bần cao quý, với cái chết
trên đài vinh dự.
Khi một vị thủ tướng lên nắm chính
quyền, dù người đó nguyên là một đô đốc
hoặc một tướng lãnh, báo trí đều đua nhau
mô tả vật dụng, đồ đạc của ông. Thường
người ta thấy tất cả tài sản của thủ tướng chỉ
vẻn vẹn cái giường nhỏ bằng sắt.
Trong Hoàng Cung còn lưu giữ ba bảo
vật thiêng liêng từ thời tiền sử; đó là một viên
ngọc quý, tượng trưng cho lòng quảng đại;
một tấm gương soi, tượng trưng cho sự soi
xét mình; và một thanh gươm, tượng trưng
cho công lý. Trong khi đó, ở Âu châu, người
ta dùng cái cân làm biểu tượng cho công lý
khiến dễ liên tưởng đến chuyện buôn bán.
Nhưng ta hãy trở lại với hoa.
Đức Phật Thích Ca một ngày kia chỉ vào
một đóa hoa và nói với các môn đệ đang tập
hợp quanh Ngài: “Hôm nay ta truyền lại cho
91
Hoa đạo G.Ohsawa

các người tất cả bí quyết trong giáo lý của ta.


Bí quyết ấy là đây!”. Không ai trong đó hiểu
Ngài muốn nói gì. Chỉ có một đệ tử mỉm cười
nhìn Ngài.
Phật Thích Ca bảo người đệ tử: “Người
đã hiểu. từ này ta cho phép ngươi thay ta
thuyết pháp”.
Một trái táo rơi đã tạo cho Newton cơ hội
tìm ra các nguyên lý về lực hấp dẫn. Nhưng
đối với người Nhật, chỉ cần một chiếc lá rơi
giữa những sắc màu diễm lệ của mùa thu
cũng đủ cho thấy sự hư ảo của mọi vật, sự
chóng qua của tất cả những gì mà kẻ điên rồ
mới muốn giữmãi, cùng sự chán chường do
vật hữu hình gây ra. Dù trải qua bao nhiêu
thế kỷ, người không được thừa hưởng lòng
quý chuộng những gì tâm linh, vô hình, vô
thể thì một sự kiện nhỏ nhoi đó cũng đủ gợi
sáng trong tâm.
Chỉ có người điếc tâm hồn mới không
nghe được tiếng nói của hoa lá, cỏ cây. Hoa
có tiếng nói của hoa, cũng như tất cả những
cảnh đẹp thiên nhiên đều đều có tiếng nói:
Biển cả, đại dương, sông núi, ruộng, đồng
đều bày tỏ hùng hồn làm con người thấm
thía, không còn gì để nói thêm, mà có nói thì
92
Hoa đạo G.Ohsawa

cũng nghèo nàn thô thiển, chẳng đáng vào


đâu so với tiếng nói của muôn đời ấy.
Người Nhật biết nghe lời nói của hoa lá,
cỏ cây, côn trùng, hay chim chóc. Chúng đều
đồng thanh nói rằng cứ mỗi cử chỉ, mỗi hành
động, mỗi ý muốn của con người đều sai lầm
hoặc phạm thượng. Con người xét ra quá
nhỏ nhoi, và thường phạm sai lầm. Tốt hơn
con người nên từ bỏ tất cả để sống như hoa
đồng, cỏ nội. Làm được như thế, con người
sẽ hưởng hạnh phúc đời đời. Tục ngữ có câu:
“Bỏ tất cả là được tất cả”.
Đương nhiên nghệ thuật Nhật Bản phải
mang đặc tính y như tâm hồn người Nhật.
Lúc mới du nhập nền văn minh Trung
Hoa, người Nhật mô phỏng theo hai tông
phái của các bậc thầy: Bắc tông và Nam tông.
Tông phái miền Bắc là hiện thực, trung thành
với hữu hình và màu sắc. Tông phái miền
Nam là lý tưởng hơn là hình thức, tính chất
bên trong hơn là dáng vẻ phù phiếm bên
ngoài. Bắc tông dùng những màu sắc tự
nhiên. Nam tông chỉ dùng mực xạ (mực đen)
hòa với nước, tông phái này chỉ tìm vẻ đẹp
lý tưởng và tinh thần.

93
Hoa đạo G.Ohsawa

Tông phái miền Nam tự nhiên gần gũi


với tinh thần thật sự của người Nhật là khinh
thường vật chất. Nhưng những nghệ sĩ thời
bấy giờ (lừng danh nhất là ba anh em nhà
Nakao Noami, Geami và Soami) tỏ ra thiếu
khả năng diễn tả tình thương phổ quát. Họ
để cho ngọn bút lông của họ tự do đưa đẩy
theo năng lực huyền bí trong tâm tư. Họ
khinh miệt hình thức, nhưng đồng thời để
mất cả sắc mầu. Tuy nhiên, do đặc tính của
thiên tài, họ đã lập ra một môn phái về hoa.
Hoa trở nên một nguyên liệu mới cho mỹ
thuật. Sắc điệu của hoa thay đổi vô cùng,
người ta cho rằng chính Đức Phật A Di Đà
đã định ra chuyện đó. Trái lại, hình hoa thì
có hạn, và điều này là một thuận lợi vì chính
sự hữu hạn của hình xác định được ngôn
ngữ của loài hoa. Từ đó, nghệ thuật Nhật Bản
đã tìm ra cách thức diễn tả đặc thù và tự phát
triển bằng những phương tiện của riêng
mình.
Người ta có thể ngạc nhiên khi nhìn thấy
cách phối cảnh lạ lùng ở những bức họa xưa
của người Nhật. Những đường nét phía
trước thì ngắn, trái lại, những đường nét
phía sau thì dài hơn. Thí dụ, để thể hiện một
khối vuông, thì mặt phía sau được vẽ lớn,
94
Hoa đạo G.Ohsawa

còn mặt phía trước thì vẽ nhỏ hơn. Tại sao lại
có cách phối cảnh lạ đời như vậy?
Cũng chỉ vì một lý do: Người Nhật luôn
quan tâm đến sự sâu sắc, vô hình. Người
phương Tây chỉ để ý đến những gì họ trông
thấy rõ ràng hoặc rờ mó được. Người
phương Đông thì chú trọng đến những gì họ
không thể tới.
Người ta dễ nhận thấy đầu óc của người
Nhật đòi hỏi sự vô tư tuyệt đối, sự thanh tịnh
tuyệt vời và coi thường vật chất hữu hình. Vì
vậy, văn minh phương Tây đối với họ chưa
thật là văn minh.
Chữ “giàu có” theo tiếng Nhật không
giống chữ giàu có của phương Tây, mà có
nghĩa là tâm hồn không vướng bận lo âu,
không đau khổ, giày vò. Đó là một trạng thái
của tâm hồn.
Theo nhận thức của người Nhật thì phải
định nghĩa nghệ thuật như thế nào? Syakaku,
một triết gia danh tiếng ở triều đại thứ 6,
trong quyển Thẩm Mỹ Học cho rằng nghệ
thuật là sự rung cảm, sự phập phồng nhịp
nhàng theo vận tiết của vũ trụ.

95
Hoa đạo G.Ohsawa

Một định nghĩa như thế, đa số người


phương Tây khó mà hiểu được. Nhưng điều
khó lý giải nhất là cái vũ trụ được người
Nhật nói đến, cái vũ trụ vô hình, có vẻ đẹp
vô thể mà những nghệ sĩ Nhật Bản đang
ngụp lặn trong đó.
Thế gian có hai mặt hữu hình và mặt vô
hình. Mặt hữu hình thì những giác quan bình
thường như thính giác cũng có thể nhận biết.
Nhưng để nhận biết mặt thứ hai thì phải có
sự soi sáng từ bên trong. Điều kỳ diệu nhất
theo nhận thức của một người Nhật chính là
ở mặt vô hình này mới thể hiện được sự đồng
nhất. Về phương diện hữu hình thì mỗi cái
mỗi khác; trên thế gian không thể tìm ra hai
bộ mặt giống hệt nhau hoàn toàn. Trái lại,
đối với một người biết rung cảm thì tất cả
đều chung một linh hồn, từ vật nhỏ nhất đền
vật lớn nhất, cả đến trời đất và Thượng Đế,
người. Vì vậy mọi công trình nghệ thuật có
thể thực hiện bằng nhiều phương cách. Hội
họa có thể dùng màu hoặc không cần màu
sắc vẫn tạo được sự rung cảm ở người xem.
Nghệ thuật không thể là nô lệ của sự vật.
Nghệ thuật không tự khép mình vào mỗi
việc mô phỏng thiên nhiên, nếu không, nghệ
thuật chỉ là việc sao chép, chụp hình. Nghệ
96
Hoa đạo G.Ohsawa

thuật phải làm sao dẫn dắt tâm hồn vào tận
thế giới hư linh, vô ảnh. Cho nên, vấn đề ở
đây không phải là kỹ xảo hoặc tài năng vặt
vãnh của con người, mà là thấy được vô hình,
vô thể và ôm giữ được những gì không thể
nắm bắt.
Nếu một triết gia La Mã thường khởi đầu
bằng hình học, những hiền nhân Hy lạp
thường thông thạo số học, thì bậc hiền triết
Đông phương phải am tường các quy luật
của hình số tinh thần. Đó là môn hình học
không gian bốn chiều được tính bằng dịch số
dựa vào nguyên lý tâm nguyên. Nguyên lý
không gian bốn chiều này là chìa khóa mở
mọi cánh cửa của khoa học và nghệ thuật.
Về thơ cũng thế. Những bài thơ hay nhất
ở phương Tây đều do cách kết cấu chữ.
Người ta ra sức trau chuốt cho chữ được
vang dội, được sáng lạn, được rõ ràng đến
cực độ. Trái lại, mặt kia thì che giấu, cũng
như một tấm vải người ta không muốn phô
bày mặt trái.
Khi thưởng thức thơ Tây phương, người
Nhật cảm thấy thiếu một cái gì, một thứ sinh
chất cần cho sự sống. Một bài thơ Tây
phương chỉ là cái đẹp chết, không hồn.
97
Hoa đạo G.Ohsawa

Đổi lại, thơ ca Nhật Bản không khi nào


được hiểu thấu đáo ở ngoài quê hương
người Nhật. Việc phiên dịch luôn luôn tai hại
cho một bài thơ Nhật. Nhưng nếu đã dịch thì
sẽ còn lật lại hoàn toàn, thay vì diễn tả mặt
tinh thần lại chỉ bày có mặt vật chất thì còn
tai hại biết bao! Trong khi thơ văn phương
Tây nhằm mục đích cho thấy dù sao cõi đời
không đến nỗi xấu xa nhỏ mọn như người ta
tưởng, thì thơ văn Nhật Bản triệt để mong
muốn giải thoát chúng ta ra khỏi thế gian
trần tục. Chỉ vỏn vẹn có mấy chữ (17 hay 31
âm), một bài thơ Nhật muốn nhắc ta nhớ lại
nhịp rung của vũ trụ vô hình mà chúng ta
thường quên; thơ Nhật muốn gợi cho tâm
hồn nỗi niềm tưởng nhớ một quê hương vô
hình.
Không thể trích riêng những câu hay
trong một bài thơ Nhật Bản, mà cũng không
nên làm thế, vì vẻ đẹp của câu thơ riêng biệt
sẽ là vẻ đẹp vật chất, vẻ đẹp thế gian, tức là
vẻ đẹp tầm thường. Cả đến những người
từng dịch thơ văn Nhật Bản ra tiếng nước
ngoài cũng không biết rằng chưa có ai trong
họ làm nên trò trống.

98
Hoa đạo G.Ohsawa

Mà làm sao họ biết được! Thí dụ như khi


họ chỉ dịch chữ mizu là “nước”, chữ toku là
“đức hạnh” mà chẳng nói thêm điều gì. Đối
với các nhà thơ phương Tây, nước là một
chất đẹp lấp lánh muôn màu, gợn sóng hoặc
có nhiều xoáy rất tao nhã. Nhưng đối với thi
sĩ Đông phương, nước là một gương mẫu
cho mọi đức hạnh của con người. Nước rất
khiêm tốn khi nào cũng ở nơi thấp nhất.
Nước tiêu biểu cho sự vâng lời, thủ phận, vì
hình nước dập khuôn theo những vật chứa.
Nhưng kỳ thật nước là nguồn sinh lực cho
mọi thứ, cầm thú, cỏ cây không có nước thì
chết. Nước xói mòn những thứ cứng như sắt
đá, và cả đến lửa, nước cũng không sợ…
Tiếc thay! Chúng ta không thể nói nhiều
hơn nữa về điều này. Mỗi lúc chúng ta càng
thấy rõ chỗ bất lực của mình không thể dùng
lời lẽ đễ diễn tả sự vô hình. Tuy nhiên, nếu
cần so sánh, chúng ta có thể nói thêm thơ văn
phương Tây giống như tấm hình chụp chậm,
còn thơ văn Nhật Bản là bức ảnh chụp nhanh.
Về tình yêu cũng thế, rất khó giải thích
tình yêu của người Nhật gồm có những thứ
gì. Chẳng hạn tình yêu hoa lá của người Nhật
như ta đã biết, ở châu Âu không có tình nào
tương tự. Ở châu Âu không ai yêu hoa say
99
Hoa đạo G.Ohsawa

đắm như người Nhật. Có người cãi lại:


“Người ta vẫn yêu thú vật đấy chứ!”. Đúng
thế, người ta vẫn bảo vệ thú vật, chống lại
mọi sự ngược đãi, nhưng thật ra đó chỉ là
một sự tính toán.
Nếu hành hạ thú vật, chúng sẽ làm việc
ít đi, hoặc trở nên hung hiểm, hoặc tiếng kêu
la của chúng trong các đường phố lớn sẽ làm
nào động, rấy tai khách bộ hành. Lòng tốt ấy
là lòng tốt có tính toán của nhà chăn nuôi,
của kẻ bóc lột (vỗ béo để lợi dụng sức lao
động hoặc làm thịt). Bất cứ ai ý thức về
quyền lợi của mình đều có “lòng tốt” ấy.
Tình yêu có hàng chục từ diễn tả trong
tiếng Nhật. Chúng ta đã biết người Nhật là
những chuyên gia về những gì liên quan đến
tinh thần. Vì vậy, cũng đừng ngạc nhiên khi
thấy có quá nhiều từ để diễn tả tình yêu.
Những từ này không thể nào dịch hết ra
tiếng Pháp. Cũng như trước đây một thế kỷ,
khó có ai dịch cho người Nhật hiểu được chữ
“điện năng” hay chữ “đầu cơ”. Người Nhật
phân biệt tình yêu bằng những từ konomi
(…..hảo, ưa thích), ai (….. ái, thương yêu),
natsukashimi (….hoài, thương nhớ),
shitashimi (…..thân, thân thương),
itsukushimi (…..từ, thương xuống),
100
Hoa đạo G.Ohsawa

kanashimi (….bi, thương xót)v.v… nhưng


chỉ một chữ là đủ diễn tả tình yêu của người
phương Tây, dù với đối tượng nào, chữ đó là
konomi. Konomi biểu thị tình yêu thô sơ
nhất, duy vật nhất, ích kỷ nhất. Vì vậy, nếu
các bạn (người Âu châu) nói yêu hoa, người
Nhật sẽ cho rằng đó có lẽ chỉ là konomi, và
như thế bạn bị xem là người kém văn minh.
Một xã hội mà trong đó mọi người đều
ước ao chiếm hữu ít nhất, và giới lãnh đạo
thượng lưu là những người nghèo thì quả là
một xã hội lạ kỳ. Ngay cả ngày nay ở Nhật,
quân đội một cơ cấu mạnh nhất lại ngèo.
Quân đội đối lập với tư bản. Chính vì tác
động của văn minh vật chất đã tạo thế lực
cho tư bản. Ngày xưa, ai nấy đều hướng về
những cái vô hình.
Nhưng cái vô hình có thể dùng làm căn
bản cho một chủ nghĩa cộng đồng. Chủ
nghĩa cộng đồng của Nhật với những giá trị
tư tưởng đã trải qua biết bao thế kỷ và rất lạ
là chủ nghĩa đó không hề nguy hại cho khoái
lạc vật chất và phồn vinh của quốc gia.
Chữ “giàu” như đã nói, đúng ra là chỉ
diễn tả một trạng thái tâm hồn hơn là một
mức độ phồn vinh hoàn toàn làm chủ vật
101
Hoa đạo G.Ohsawa

chất thay vì nô lệ, đó là lý tưởng của Lão tử.


Nhưng người ta có thể đạt được điều đó
bằng vũ lực, bằng tiền tài trên phương diện
vật chất hay không? Nếu tin là có thì quả là
tin tưởng hão huyền, vì con người quá ư bé
nhỏ, yếu đuối. Con đường duy nhất hay
“chính đạo” giúp ta thành tựu là con đường
giải thoát, từ bỏ tất cả. Con đường này
dường như khó đi, nhưng thật ra dễ nhất, chỉ
bước đầu là khó mà thôi.
Nếu giàu mà thích yên tĩnh nội tại và cảm
giác nghe bất lực không cưỡng lại được thời
gian, không gian và sức hấp dẫn thì giàu
cũng như không. Người ta không thể chăm
chú nhìn đống vàng chống chất, vừa lắng
lòng để ý từng giây phút trôi qua, cùng sự
bao la của thế giới và từ đó quay về nhìn lại
tính chất nhỏ nhoi của mình với thân phận bị
giam hãm trên thế gian. Thế giới hữu hình là
một tổng thể, không thể phân chia để chỉ
chọn lấy những điều tiện lợi mà khước từ
những điều phiền toái. Cơ chế tâm trí của
con người chỉ biết tiếp thụ những khoái cảm
vật chất, thích ăn ngon, mặc đẹp và hưởng
thụ những tiện nghi sang trọng. Nó không
giúp ta cảm nhận được sự mong manh của
đời sống vật chất. Điều mà chúng ta tưởng
102
Hoa đạo G.Ohsawa

có lợi cho mình một trăm phần trăm thật ra


chỉ là sự đổi chác. Vật chất ban cho ta, mà vật
chất cũng lấy lại của ta.
Cũng có người đạt được hạnh phúc cùng
với của cải. Nhưng điều đó không có nghĩa
là người ta nhờ có của cải mà đạt được hạnh
phúc. Sự trùng hợp đó không phải là ngẫu
nhiên. Người ta bắt đầu xây dựng hạnh phúc
bằng những cố gắng tích cực hợp với tính
cách của họ, chỉ có thế thôi. Nói chung, người
phương Tây thường bắt đầu theo cách đó.
Đầu óc của họ là thực tế và xây dựng. Ở
Đông phương thì không như thế. Khí hậu
phương Đông làm cho con người có tâm
trạng tiêu cực thụ động. Ở Đông phương rất
khó mà quan niệm một người có ít nhiều giá
trị lại chú tâm đến sự giàu sang.
Trái lại, ở Tây phương người ta tin rằng
tiền tài là dấu hiệu của sức mạnh. Hai nhận
thức trái ngược nhau, cũng như vị trí đối
nghịch ở hai bên trái đất.
Có hai con đường đưa đến một mục đích.
Con đường của phương Tây là trước hết phải
thu thập cho nhiều những giá trị vật chất,
những hiểu biết máy móc, tiền của, rồi ngủ
nghỉ và quên hết những đau khổ. Con đường
103
Hoa đạo G.Ohsawa

của người phương Đông là sự tự mình giải


thoát ra khỏi tất cả những chi phối của vật
chất.
Thật ra, những người được hạnh phúc do
con đường thứ nhất đã xa rời của cải lúc họ
đang góp nhặt. Họ không biết rằng họ đã
thỏa mãn một nhu cầu tinh thần chứ không
phải vật chất. Nếu thực sự họ là những người
duy vật, họ sẽ muốn có nhiều tiền để hưởng
thụ, nghĩa là họ sẽ tiêu xài rộng rãi, thỏa
thích. Nhưng trái lại, họ chỉ muốn góp nhặt
để làm sao càng ngày càng có nhiều thêm.
Như vậy họ tiêu xài cách nào?
Đó là một vấn đề mà họ không muốn tự
đặt ra. Thế thì từ trong thâm tâm, họ cũng đã
thể hiện một sự tổng hợp hoàn toàn về vũ trụ
bao la. Vũ trụ này có hai mặt: mặt vật chất
hữu hình và mặt tinh thần vô hình. Trong
bản thể tiểu vũ trụ, con người cũng có hai
mặt đối với ai biết thấy. Những người mông
muội chỉ thấy một mặt đó là lòng ham muốn
vàng bạc và khoái lạc do vàng bạc đem lại.
Tuy nhiên, xét kỹ vẫn thấy ở họ một ước
vọng hướng về cõi vô hình.
Bạn có thể giàu bao nhiêu cũng được,
điều ấy không hề gì, miễn là tâm hồn bạn
104
Hoa đạo G.Ohsawa

thoát ra ngoài của cải. Bạn có thể chiếm hữu


mọi thứ bạn muốn, những hãy đem cho
người khác những gì họ mong cầu ở bạn.
Ngày xưa ở Nhật có một nhà quý tộc trẻ
tuổi, hào hoa và hết sức giàu. Chàng có một
số đồ quý giá do Thiên hoàng ban cho dòng
họ tổ tiên. Chàng xem chúng quý hơn sinh
mạng và tuyên bố người nào làm vỡ một
chiếc bình sẽ bị mất đầu.
Ngày nọ, người ái thiếp của chàng muốn
thử tình yêu của đức lang quân, bèn đem
một chiếc độc bình ra đập vỡ. Chàng không
nói một tiếng. Nhưng đến khi nàng cho biết
nỗi lo âu sợ chồng quý trọng chiếc bình hơn
yêu thương vợ. Điều này làm chàng chán
nản vô cùng. Tại sao người vợ đầu ấp tay gối
lại có thể nghĩ rằng chồng mình quý các đồ
vật như vậy? Nhà quý tộc liền lần lượt đem
hết bảo vật đập vỡ từng cái trước đôi mắt
kinh ngạc của người vợ, rồi rút kiếm chém
luôn đầu nàng.
Đấy, tình yêu của người Nhật là như thế.
Tình yêu của người Nhật không phải là tình
yêu vật chất. Qua nhiều thế kỷ, người Nhật
tin chắc rằng sự khinh thường đó là dấu hiệu
của sự cao cả. Triết lý, nghệ thuật, xã hội học
105
Hoa đạo G.Ohsawa

của họ đều dạy rằng nghèo nàn là trường


hợp huấn luyện sự thanh cao.
Chỉ ở nước Nhật xưa người ta mới thấy
quang cảnh khác thường là ai nấy cũng đua
nhau thi ân báo đức. Có một nghề lý tưởng
là nghề ăn xin và đi giang hồ. Bố thí và đãi
khách chẳng qua là việc mậu dịch đổi chác,
đổi những vật hữu hình để lấy những thứ vô
hình. Thật là một công việc vô cùng có lợi!.
Người nào cũng muốn tỏ ra xứng đáng
được đứng vào thành phần nghèo và được
trọng vọng, cũng như một sự bảo hiểm qua
lại hay là một cuộc chơi hụi có lợi. Cơ chế kỳ
lạ đó lại sinh ra điều kỳ lạ khác là xem
thường của cải, thì của cải lại dồn dập đến.
Bởi tổ chức xã hội có giai cấp thấp nhất lên
giai cấp cao nhất.
Động lực duy nhất của tất cả là sự quý
chuộng những gì không đo lường được,
những gì vô hình. Rốt cuộc, tự nhiên những
người sẵn sàng hy sinh của cải lại trở nên
giàu có.
Ngày nay, sau khi một yếu tố ngoại lai -
tức văn minh phương Tây - được đưa vào, cơ
cấu mới xảy ra xáo trộn hoàn toàn. Nhật Bản

106
Hoa đạo G.Ohsawa

ngày nay đang trên đường tìm về quê hương


tinh thần.
Một phần lý tưởng cũ vẫn còn. Nước
Nhật xưa vẫn chưa chết hẳn. Dù những cơn
sóng cả của văn minh vật chất cứ dồn dập ồn
ào đến, nước Nhật cũ vẫn không muốn tin
rằng một ngày kia mình sẽ bị văn minh vật
chất ngập tràn.
Nếu không từ bỏ thái độ cực đoan thô
bạo thì cuộc sống xung đột chưa từng thấy sẽ
không tránh khỏi. Một bên là những người
muốn tóm thu tất cả, một bên là những
người muốn hy sinh tất cả. Đời sống của phe
thứ nhất là giá trị vật chất không nên phung
phí. Lòng can đảm của họ là tích cực và
thuần thúy. Phe sau thì xem nhẹ mạng sống,
lòng can đảm của họ không xuất phát từ hy
vọng ở sự thành công mà bắt nguồn từ thái
độ lãnh đạm cao cả.
Phe nào sẽ thắng trong sự tranh chấp
quyết liệt này?
Chính là những người thực hiện được
nhiều nhất trong thâm tâm của họ sự hòa
hợp huyền diệu giữa vật chất và vô hình theo
mô hình vũ trụ bao la. Đó là những người
Nhật lãnh hội nhiều nhất chủ nghĩa thực
107
Hoa đạo G.Ohsawa

nghiệm, và những người Âu biết dựa vào giá


trị tinh thần.
Một nhà kiếm thuật lừng danh là ông
Musasi, một đại danh quý tộc sống vào thời
Tokugawa (thế kỷ 17) đã để lại trong tập tùy
bút những nguyên tắc tinh thần chỉ đạo cho
một cuộc đời đầy chiến đấu. Ông viết:
“Không luyến ái, không ham muốn vật
chất hữu hình Không nuối tiếc điều gì.
Không ưa thích điều gì.
Không sợ chết.
Không thèm khát của cải người khác.
Không oán ghét một kẻ ác nào.
Theo ông thì giá trị của một nhà kiếm đạo
(kendo) trong các đức tính tinh thần.
Thật vậy, nhiều chiến sĩ của nước Nhật
ngày xưa đều là những triết gia hay nghệ sĩ
tại Nhật có bảo tàng viên Musasi còn lưu giữ
những phẩm điêu khắc và tranh họa của nhà
kiếm thuật danh tiếng này.
Một bậc thầy kiến thuật khác là ông
Nitoryo, người sáng lập môn phái song kiếm,
cũng là một nhà hội họa và điêu khắc nổi
tiếng.

108
Hoa đạo G.Ohsawa

Những vĩ nhân ngày xưa thường xuất sắc


đồng thời trong nhiều lãnh vực khác nhau.
Điều đó chứng tỏ không có một kỹ thuật nào
là biệt lập. Nghệ thuật Nhật Bản vì thế không
dựa vào một điểm tựa vật chất. Nghệ thuật
Nhật Bản là sự biểu lộ một chân lý triết học,
danh từ này được dùng ở đây với nghĩa cao
cả nhất.
Nghệ thuật Nhật Bản không đưa ra quy
luật. Nghệ thuật Nhật Bản hướng về cái thực,
nhưng có một hiện tượng khó hiểu ở đây là
thực nằm trong thế giới đối nghịch, trong
tưởng tượng. Nếu dịch cho đúng nghĩa chữ
Nhật thì thực trở thành tưởng tượng, mà
tưởng tượng lại là thực.
Diễn tả cho được những khác biệt này là
điều quá khó. Chỉ có một sự vật cụ thể, chẳng
hạn như hoa, mới cho ta thấy được.
Bây giờ, khi đã hiểu phần nào triết lý do
hoa đem lại, bạn hãy ẩn mình trong một căn
phòng không bàn, không ghế như trong
phòng trà Nhật Bản. Trước mặt bạn là tách
trà xanh không pha đường.
Ban đầu mới nhấm, nước trà gần như
chẳng có mùi vị gì, nhưng dần dần trà sẽ
thanh tẩy con người bạn xóa tan vật chất tính.
109
Hoa đạo G.Ohsawa

Trước khi trở thành một thức uống, ngày xưa


trà Nhật là một thứ thuốc. Trà liệu pháp
(phương pháp chữa bệnh bằng trà) đã được
một nhà thông thái trứ danh ông Eisai - công
bố cách đây 10 thế kỷ. Khi uống trà, không
nên uống quá nhiều. Nếu uống nhiều quá
bạn sẽ thấy mình trôi qua một thế giới khác
như khi dùng ma túy, cả đến hoa ta cũng
không trông thấy nữa. Dù sao điều thú vị
chính là tình trạng lơ lửng trên không giữa
trời và đất, khác chi một con rồng. Hoa đi
vào nước Nhật từ đó.

110
Hoa đạo G.Ohsawa

PHỤ LỤC
BÀI HOA
Một trong những loại bài phổ biến nhất ở
Nhật và có thể xem là tiêu biểu cho quốc gia
Nhật Bản vì mọi đẳng cấp xã hội đều thích
chơi, là lấy ý từ các loài hoa. Đó là bộ bài có
vẽ hình hoa. Người ta chơi loại bài này trong
gia đình, cũng có khi chơi trong quán nước.
Những cô ca sĩ Nhật (geisha) trong khi chờ
khách, mỗi lần bà chủ quay lưng đi, thường
chia bài chơi với nhau. Lá bài rất nhỏ, chỉ độ
2cm x 3cm (giống bài tứ sắc việt nam - LND),
có thể thu gọn vào tay khi bất ngờ…loại bài
này được gọi là “bài kỹ nữ”.
Những lá bài thông thường thì lớn gấp
đôi, nhưng không lớn bằng các lá bài tây. Bộ
bài gồm tất cả 48 lá cứ mỗi tháng 4 lá.
Những lá bài tháng giêng thuộc loài tùng
bách. Một ngọn bút lông ngây thơ nhưng
dành kiểu thức đã vẽ ra hình dáng những
cây tùng trên nền trắng, biểu hiện thơ ca, vì
những bài thơ thường được viết trên một
băng giấy. Một lá bài nữa có hình chim hạc,
loài chim tượng trưng cho năm mới, và sau
con chim là hình mặt trời mọc.

111
Hoa đạo G.Ohsawa

Tháng 2 là tháng của cây mai. 4 lá bài của


tháng này mang hình hoa mai. Hai lá đầu
đơn giản. Trên hai lá còn lại có vẽ hình băng
giấy của thi nhân và hình chim họa mi loài
chim nhạc sĩ thường thích làm tổ trên cây
mai.
Tháng 3 là tháng hoa anh đào nở. Từ
nghìn xưa cứ vào mùa xuân, người Nhật
thường về nông thôn thưởng ngoạn biết đi
pích ních dựng lều cắm trại trước người
phương Tây rất lâu. Những nhân vật đương
quyền thường tổ chức những cuộc du ngoạn
có lều hoa. Họ mang theo những tấm màn
kết bằng hoa đẹp đủ màu để chắn xung
quanh địa điểm vui chơi với mục đích che
gió và gợi nhớ nghệ thuật của con người. Lá
thứ 4 trong loạt bài mùa xuân vẽ lại bức
tranh mỹ lệ đó trang trí bằng hoa cúc, tựa hồ
đang thả trôi theo dòng nước.
Tháng 4 là tháng cây hoàng đậu. Lá bài
thứ 4 của cây này có vẽ hình chim quốc (đỗ
quyên, Hotootoghishu) ở vùng núi xa
thường hót lúc nửa đêm. Chính vì để nghe
loài chim này hót mà người ta tổ chức các
cuộc du ngoạn trên. Cứ quá nửa đêm là chim
cút bắt đầu cất tiếng, và người ta thấy bóng
chim tung tăng hiện trên hình trăng lưỡi liềm.
112
Hoa đạo G.Ohsawa

Rồi đến tháng 5. Đó là mùa hoa lan huệ.


4 là bài tháng này có vẽ những chùm hoa lan
tuyệt đẹp.
Tháng 6 là tháng hoa thược dược. Ở Nhật
Bản rất nhiều hoa thược dược, và người ta rất
thích hoa này. Có nhiều vườn nhất là những
vườn đặc biệt, trồng toàn thược dược. Về y
học từ xa xưa, thược dược đã được dùng làm
thuốc. Y học Nhật Bản cũng noi theo y học
Trung Hoa dùng cây thược dược. Hai lá bài
sau của tháng 6 một lá có hình băng giấy đề
thơ màu xanh, một lá có hình hai con bướm
và một đám mây đỏ, biểu thị sự hằng hữu
của Trời.
Tháng 7 là tháng dành hoa hổ chi tử
(lespedese) lưỡng sắc, một loài cây rừng có
hoa rất khéo mà người ta thường lũ lượt đi
xem như xem hoa anh đào trong tiết tháng 3.
Lá bài thứ 4 của tháng này có vẽ hình một
con heo rừng.
Trong những đêm ấm trời tháng 8, người
Nhật thường đi thưởng nguyệt (xem trăng).
Hai lá bài đầu của tháng 8 cho thấy một cánh
đồng hiu quạnh màu đen, dưới một bầu trời
chưa có ánh trăng. Qua lá thứ 3 bắt đầu xuất
hiện một đoàn thiên nga vỗ cánh bay ngang.
113
Hoa đạo G.Ohsawa

Đến lá thứ tư đã có hình trăng tròn hiện ra


trên đỉnh đồi.
Tháng 9 là tháng hoa cúc, loài hoa yêu
quý của vua Nhật. Trên tất cả vạn dụng của
Thiên Hoàng đều có vẽ, thêu hoặc khắc hình
hoa cúc 16 cành. Lá bài thứ 4 của tháng này
có vẽ cái chén sơn mài, tặng phẩm của hoàng
gia.
Tháng 10 là tháng của cây hồng phong,
một lài cây đặc biệt của Nhật Bản có lá màu
đỏ tuyệt đẹp, nổi bật trên nền trời xanh ngắt
của mùa thu. Đã bắt đầu có lá ngã vàng, có
lá màu đỏ, những lá khác vẫn còn xanh. Trên
mặt bài, người ta thấy lá phong quay cuồng
đủ hướng. Lá bài thứ 4 của tháng này vẽ hình
con hươu cái.
Tháng 11 là tháng mưa. Lá bài đầu của
tháng này mang một hình vẽ bí ẩn ẩn mà từ
bao thế kỷ người ta chỉ biết sao y bản chính,
nhưng chẳng ai hiểu ý nghĩa ra sao. Điều này
thật ra cũng chẳng gây trở ngại nào cho
người Nhật. Lá bài thứ hai mang hình những
con chim yến trốn giữa những cành liễu rủ.
Lá bài thứ tư đặc biệt ở chỗ mang hình một
nhân vật, là Đại sư Dohu - một trong ba bậc

114
Hoa đạo G.Ohsawa

thầy của Thư Pháp Nhật Bản (nghệ thuật viết


chữ đẹp).
Thuật viết chữ Hán hay chữ Nhật bằng
bút lông là một nghệ thuật ngang hàng với
hội họa. Trong nhà người Nhật thường treo
những câu thơ nổi tiếng viết bằng chữ lớn
được đóng khung như một bức tranh. Xét về
mặt nghệ thuật, văn học Âu châu tương đối
nghèo nàn.
Đại sư Dohu khi còn trẻ là cậu học trò viết
chữ xấu nhất lớp, nhưng ông lười biếng
không muốn sửa đổi. Phải chờ đến ngày nọ
có một con nhái dạy cho ông bài học kiêng
nhẫn. Vào một ngày mưa ông đang đi dạo
dưới rặng liễu bỗng thấy một con nhái cố sức
nhảy lên một cành cây, nhưng cành cây quá
cao, nhái nhảy hơn trăm lần mà vẫn rớt
xuống. Cuối cùng nhái nhảy mãi cũng thành
công. Dohu cho đó là một bài học, và từ ngày
ấy ông ra công chuyên cần tập viết cho đến
lúc thành tài.
Tháng chạp là tháng dành cho một loài
hoa đặc biệt khác của nhà vua hoa cây đồng
(paulownia imperalis). Đó là loài hoa ưa
chuộng và là quốc huy Hoàng đế Taiko (thế
kỷ 16), một Napoleon Nhật Bản. Lá bài chót
115
Hoa đạo G.Ohsawa

của tháng này vẽ hình con chim phượng


hoàng từ trời bay xuống. Phượng hoàng là
loài linh điểu mở màn một năm mới.
Chơi bài hoa phải có hai người, bốn
người hoặc nhiều hơn tùy theo cách chơi. Thí
dụ cách chơi tính 600 điểm.
Bài 600 điểm chơi hai người. Mỗi người
bắt 8 lá. 8 lá khác lật ra để trên bàn. Hai mươi
bốn lá úp còn lại là bài.
Một ván bài tính 600 điểm. Như đã nói,
hai lá bài đầu của mỗi tháng là bài đơn, mỗi
lá tính 1 điểm.
Lá thứ 3 mười điểm. Lá thứ 4 có khi 10
điểm, có khi 20 điểm. Người nào bắt lên
được 600 điểm trước là thắng cuộc. Vì vậy,
người nào cũng cố bắt cho được một tay bài
gồm những lá nhiều điểm nhất. Có những
quy ước tính điểm riêng cho từng loại bài bắt
lên.
Những lá bài có hình bằng giấy đề thơ
màu xanh được tính thêm 150 điểm. Những
là bài có băng giấy đề thơ màu đỏ cũng thế.
Những lá bài thứ 4 của loạt bài có hình cây
tùng, cây đồng, hình mặt trăng được tính 60
điểm. Loạt bài có tính thú vật, heo rừng,

116
Hoa đạo G.Ohsawa

hươu cái, bươm bướm được tính thêm 300


điểm.

117
Hoa đạo G.Ohsawa

THAY LỜI BẠT


Ngô Ánh Tuyết
Thời học cấp ba, tôi đã băn khoăn lưỡng
lự trong quan niệm sống, vừa muốn giữ gìn
hương khói cổ truyền vừa muốn lao vào
khoảng sáng muôn màu hiện đại. Đến khi
lên đại học. Tôi được cha tôi đưa vào phương
pháp thực dưỡng Macrobiotics - Một đường
lối y học dưỡng sinh kết hợp đông tây - do
nhà triết y Nhật Bản Sakurazawa nyoichi
(George ohsawa) đề xướng. Tôi mới thật sự
tìm ra lời giải đáp những ray rứt bấy lâu.
Trong số các tác phẩm của giáo sư Ohsawa
viết bằng tiếng Nhật, Anh, Pháp, Đức, Tây
Ban Nha, Ý, chính cuốn “ Le Livre Des Fleurs”
(Hoa Đạo) khơi môi thông dòng. Những vui
buồn của tác giả về dân tộc Nhật đã gợi niềm
đồng cảm trong tôi về dân tộc mình.
Một người sinh ở Huế, lớn lên phiêu bạt
phương xa, gần đây có dịp trở về thăm lại
chốn xưa. Người ấy đi trên những đường
học trò vẫn rợp bóng cây, qua cầu Trường
Tiên nhìn dòng sông Hương vẫn hình dáng
cũ, mà sao lòng thấy thờ ơ xa cách, dường
như chốn này chẳng phải là Huế. Mãi đến
mùa xuân ra Bắc gặp lúc phục sinh của
118
Hoa đạo G.Ohsawa

những lễ hội cổ truyền tưng bừng thanh sắc,


và quay vào Sài gòn một buổi đầu thu thấy
khắp phố phường rộ nở những tà áo dài thơ
trắng nữ sinh, người ấy mới nhận ra điều đã
làm cho mình cách xa với Huế, đó là sự vắng
cái “quầng sáng vô hình của sự sống”, như
lời một bậc thầy hoa cảnh phê bình bức tranh
vẽ phỏng một nhánh hoa huệ đã bị cắt lìa
khỏi gốc, được ghi trong quyển “Hoa đạo”.
Ai đó sẽ bảo: “Mọi nỗi niềm trên chỉ là
hoài cổ, luyến tiếc quá khứ không mấy đẹp
hay!”.
Thật ra, không một ai trong chúng ta có
thể và có quyền chối từ quá khứ, bởi quá khứ
là nền cho hiện tại và tương lai. Nói cụ thể
hơn, lịch sử như một dòng sông bao gồm
nhiều khúc. Không thể chỉ khúc sông thuận
lợi cho sinh hoạt hiện thời hoặc khúc chảy
lững lờ thơ mông giữa vùng trù phú xinh
tươi, mà phải nghĩ đến cả cội nguồn ở chốn
núi rừng hoang vu hiểm trở. Không có
nguồn làm sao có sông. Nguồn kiệt thì sông
cũng cạn. Tuy nhiên, sông không cố định mà
luôn trôi chảy. Bởi thế, đừng nên ngăn sông
để chặn cầm con nước khiến nước dâng lên
gây lụt, mà phải khai thông cho dòng xuôi
hòa biển cả. Đời người cũng vậy, đó là chuỗi
119
Hoa đạo G.Ohsawa

thời gian liên tục xưa nay và mãi xoay mãi


trong chu trình vĩnh cửu của tự nhiên: sinh,
thành, hoại, diệt… Chu trình này được nghệ
thuật hoa cảnh Nhật Bản diễn tả hoàn chỉnh
với ba kiểu cắm hoa thực, động và trôi.
“Ngắm kỹ một cụm hoa cắm theo kiểu
thực (mode vrai) của phái Enshu, ta có cảm
giác nhìn một bàn tay trẻ sơ sinh đưa thẳng
lên trời. Đó là khởi đầu sự sống.
“Kiểu động (mode dynamique) diễn tả
tuổi thanh xuân đầy khát vọng, hứa hẹn và
nhiệt tình. Đó chính là những bắp thịt đang
nảy nở của chàng trai mới lớn, và là nét diễm
kiều tươi tắn đang phát lộ của cô gái dậy thì.
Cá tính dần dần hình thành, biến đổi và trở
nên phức tạp. Con người đã sẵn sàng đầu
tranh để sinh tồn.
“Kiểu trôi (mode coule) cho thấy cảnh
xuống dốc của đời người như hoa oằn cong
dưới sức nặng của tuyết giá mùa đông, và
mọi vật đang trôi về vực thẳm. Chính những
năm cuối của đời người trôi qua nhanh
nhất… (Hoa Đạo).
Lên rồi xuống đó là sự thường, là quy
luật bất khả cưỡng mà con người muốn sống
thanh thản như cỏ cây hoa lá, cần phải tuân
120
Hoa đạo G.Ohsawa

theo. “… Một cây cổ thụ hoàn toàn lý tưởng,


nghĩa là thể hiện được sự quân bình thiêng
liêng nhất trong vũ trụ, phải có đầu trên hơi
tròn. Nếu không cây mất hết nghĩa lý không
một đức tính nào bù được… Tuy nhiên,
người ta cũng thấy vài cây cổ thụ có cành hoa
bên trên ngả mạnh về sau như bị cuồng
phong xô dạt. Đó là những cây thể hiện sự
khổ não của những người không muốn yên
phận “Hoa Đạo”.
So với không gian vô biên và thời gian vô
tận của vũ trụ, thân phận con người quá nhỏ
nhoi, ngắn ngủi ví như bọt nước thoáng hiện
rồi tan biến trên mặt đại dương hoặc như hạt
bụi mờ phai trong gió. Có lẽ sau bao năm lăn
lóc đầu tranh, biết rõ thế thái nhân tình,
người ta mới cảm được điều đó và hiểu được
những gì thiên nhiên nhắn nhủ. Phải lắng
lòng để cảm để hiểu, và khi lòng đã lắng thì
“chỉ cần một chiếc lá rơi giữa những sắc màu
diễm lệ của mùa thu cũng đủ cho thấy sự hư
ảo của mọi vật, sự chóng qua của những gì
mà kẻ điên rồ mới muốn giữ mãi, cùng sự
chán chường do vật chất hữu hình gây ra. Dù
trải bao thế kỷ, người không được thừa
hưởng lòng quý chuộng những gì tâm linh,

121
Hoa đạo G.Ohsawa

vô hình vô thể, thì một sự kiện nhỏ nhoi đó


cũng đủ gợi sáng trong tâm…” (Hoa Đạo).
Thật ra, trên đời này dường như chưa có
ai hoàn toàn mãn nguyện với những gì mình
có, mà luôn luôn thấy hiểu, cứ mãi kiếm tìm,
nhiều lúc chẳng biết tại sao. Thật vậy, mọi sự
mọi vật trong trần thế có thể phân ra hai bên
đối lập mà người Á Đông gọi là Âm và
Dương. Đối lập nghĩa là trái ngược và bên
thừa bên thiếu, bên có cái này bên kia không
có, nên Âm và Dương luôn luôn thu hút
nhau, tìm nhau để bổ túc theo từng cặp như
đàn ông và đàn bà, tinh thần và xác thịt, năng
lượng và vật chất, danh và lợi, bệnh tật và
sức khỏe, đêm và ngày, tĩnh và động, xanh
và đỏ, mát và nóng, thảo mộc và động vật,
v.v…
Như vậy, cỏ cây xanh mát, yên tĩnh là đối
lập nhưng bổ túc cho động vật, kể cả con
người, có máu nóng đỏ và năng động. Riêng
với con người, thì hoa lá cỏ cây không những
an định tinh thần, mà còn nuôi dưỡng xác
thân. Cỏ cây đã âm thầm luyện lọc các chất
vô cơ có trong trời đất thành chất hữu cơ cần
cho sự sống của người mà không hề đòi hỏi
đáp đền ơn đức. Một sự hy sinh cao cả biết
bao! Thế mà con người lại tỏ ra vô ơn, xem
122
Hoa đạo G.Ohsawa

thường ngũ cốc, rau đậu mà thiên nhiên


dành cho chủng loại để đòi thêm cái quyền
tha hồ ăn thịt những con thú dữ, hoặc chê bai
thô cứng nên ra sức xát chà thật trắng, tinh
lọc thật kỹ, rồi dùng cả hóa chất nhân tạo để
cưỡng ép thức ăn theo đòi hỏi giác quan. Vì
vậy, thay vì “dinh dưỡng” lại hóa ra “đầu
độc”, và con người vô ơn đã phải chịu hậu
quả nặng nề, trước hết là bị giam cầm trong
ngục tù bệnh hoạn.
Chúng ta có thể che mắt thế gian, né
tránh pháp luật của xã hội, nhưng đối với
lưới trời - pháp luật của thiên nhiên - tuy
lồng lộng vô hình, nhưng không ai qua lọt.
Bởi thế, điều khôn ngoan nhất để có một
cuộc đời lành mạnh an vui là hòa theo dòng
sông “ vốn dĩ như thế” của tự nhiên và ôm
lấy cỏ cây với tình yêu vô bờ bến. Xét cho
cùng, tình yêu chẳng qua là một hiện tượng
tự nhiên, biểu hiện nguyên lý tối thượng của
vũ trụ: Âm và Dương hấp dẫn để bổ túc cho
nhau. Đấy chính là nguồn động lực vĩ đại tạo
nên vũ trụ cùng vạn vật mà các nhà hiền triết
xưa nay rao giảng, và cũng là nguồn cảm
hứng muôn đời của thế nhân.

123
Hoa đạo G.Ohsawa

Em yêu ơi! Thoáng giây anh chợt cảm


Cung tình yêu bật chạm bởi Thiêng liêng
Rung ngân lên trong sâu lắng hồn riêng
Là sức sống triền miên xoay vũ trụ.
Và chợt đó, như hương hoa khai nụ,
Chớm tình riêng ấp ủ ở hồn ta
Đang nhẹ nhàng, thật nhẹ tỏa lan ra
Và êm ả bao trùm lên vạn hữu!
Em có biết tình yêu là vĩnh cửu,
Là hằng sinh, hằng hữu ở muôn loài?
(thơ Nguyễn Diên Tiên Phước)
Đối với con người trong các động lực
thúc đẩy tồn sinh, mạnh nhất phải kể đến
tình yêu xác thịt (tình dục) và tình yêu ăn
uống (đói khát). Tình dục chỉ để lưu truyền
nòi giống và nhiều người có thể chế ngự.
Trong khi đói khát quan hệ đến sự sống còn
nên vô cùng mãnh liệt. Muốn biết được sức
mạnh của đói khát, chỉ cần nhịn ăn nhịn
uống vài ngày sẽ rõ. Khi nhắc đến tình yêu,
người Á Đông thường hiểu theo bảy mức độ:
1)Tình nhục dục

124
Hoa đạo G.Ohsawa

2)Tình cảm giác


3)Tình cảm tính
4)Tình trí thức
5)Tình xã hội
6)Tình lý tưởng
7)Tình bao la
Tình bao la, tình yêu cấp 7 là tình yêu
không phân biệt, không ngăn ngại, ôm vào
lòng tất cả với sự kiên nhẫn vô cùng và vui
vẻ hy sinh. Chính đây là tình thiêng liêng mà
người phụ nữ Việt Nam cổ truyền hằng ấp ủ.
Và cũng với tình yêu này dành cho hoa lá mà
người Nhật đã tôn việc chơi hoa lên hàng
đạo giáo.
Người Nhật có Hoa Đạo (kwado), trong
khi người Việt Nam xem ra không có. Phải
chăng người Việt kém phần tinh tế và thiếu
óc thẩm mỹ?
Xét về văn hóa nghệ thuật, dân tộc Việt
Nam không kém nước nào, có khi hơn là
đằng khác. Ngay cả trong việc ướp xác
thường gây ấn tượng kinh sợ, trình độ nghệ
thuật của người Việt cũng đạt đến mức điêu
luyện. Các nhà khảo cổ học thế giới lấy làm
125
Hoa đạo G.Ohsawa

kinh ngạc về xác ướp của hai vị sư chùa Đậu,


không những còn đủ mọi bộ phận cơ thể, trải
qua mấy trăm năm vẫn không suy chuyển
dù chịu bao biến động đổi dời, mà còn trông
như hai pho tượng sống động, tuyệt tác của
điêu khắc. Nói đến điêu khắc thì 18 tượng gỗ
la hán chùa Tây Phương cũng là bằng chứng
của nghệ thuật. Những tượng gỗ này không
những có giá trị tôn giáo, mà còn diễn tả mọi
tâm trạng của con người rất tinh vi. Với hoa
lá cỏ cây cũng thế, Việt Nam không thiếu
những nghệ nhân hoa cảnh có tài mà nét đặc
trưng là hòn non bộ. Trời đất thiên nhiên với
núi đồi, cây, nước, thú, người (thường là tiên
ông đánh cờ và bộ tứ ngư, tiều canh mục), và
cả đến những công trình nhân tạo như đền
đài, cầu cống được thu lại trong khoảng
không bé nhỏ vừa đủ làm dịu đi những căng
thẳng đời thường và gợi niềm cảm khái về lẽ
tồn sinh.
Đem núi rừng xa đặt ở đây,
Mây xanh, mây trắng một hồ đầy!
Gót sen, có thảm trăng xinh nhé!
Không rượu, hương lòng cũng đủ say!
(thơ Vương Từ)

126
Hoa đạo G.Ohsawa

Song, nghệ thuật hoa cảnh không được


người Việt tôn thành đạo giáo vì hai lý do.
Lý do thứ nhất, như đã nói, cái gì thiếu, hiếm
thì hấp dẫn và được quý trọng; trái lại, cái gì
nhiều, thừa thãi thì dễ bị xem thường bỏ bê.
Có thể nói dân tộc Việt Nam sinh ra và lớn
lên trong một tấm chăn thực vật muôn sắc,
có những giống cây cổ đại không nước nào
có.
Một thầy thuốc Trung Quốc qua Việt
Nam hành nghề đã than: “Người Việt chết
trên đồng thuốc mà không hay biết!” Môi
trường bán nhiệt đới của Việt Nam là miền
đất lành cho cỏ cây phát triển, trong khi môi
trường phương Bắc lạnh hơn của Nhật Bản
thì không thuận lợi bằng. Giáo sư Ohsawa
khi qua thăm Việt Nam có bày tỏ: “Các bạn
thật sung sướng vì có hàng nghìn loại cây cỏ
ăn được, trong khi ở Nhật Bản chỉ độ 500!”
Hoa lá cỏ cây đã trở thành chất sống, là thịt,
là sương, là hồn của dân tộc Việt Nam. Điều
này thể hiện trong ngôn ngữ. Người Việt
thường có thói quen dùng hoa lá cỏ cây diễn
tả ý tình như qua mấy đoạn ca dao sau đây:
Trúc xinh, trúc mọc đầu đình
Em xinh, em đứng chỗ nào cũng xinh
127
Hoa đạo G.Ohsawa

Trèo lên cây bưởi hái hoa,


Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân,
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng, anh tiếc lắm thay!
Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh bông trắng, lại chen nhị vàng!
Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn, mà chẳng hôi tanh mùi bùn!
Ca dao là một loại thơ truyền khẩu dân
gian không rõ tên tác giả. Mỗi bài có thể ngắn
hoặc dài gồm từng đoạn hai câu lục bát (một
câu 6 chữ và một câu 8 chữ) hoặc 4 câu song
thất lục bát (2 câu 7 chữ, một câu 6 chữ và
1câu 8 chữ). Ca dao Việt Nam không những
phong phú, ý vị (có người sánh với kinh thi
do khổng tử san định), mà còn là loại thơ
mang chất nhạc tiêu biểu cho giọng nói của
người Việt. Một nhà ngôn ngữ học phương
Tây đã nhận xét: “Người Việt nói như chim
hót” không những chim hót, giọng nói Việt
Nam còn đượm hương tươi mát của hoa lá
cỏ cây. Ngay cả trong nước khi có dịp nghe
các cô gái Việt Nam chính thống (chưa lai căn)
chuyện trò đều mê mẩn quên hết mọi chuyện
128
Hoa đạo G.Ohsawa

trên đời. Mà đôi lúc cũng quên hết để dọn


hồn cảm nhận âm nhạc Việt Nam.
Âm nhạc phương Tây lấy thanh âm làm
trọng, trong khi âm nhạc Việt Nam làm nổi
bật sự tĩnh lặng thâm trầm. Để hiểu được
điều này, bạn hãy dạo chơi trên một cánh
động thôn dã vào buổi hoàng hôn se se lạnh.
Mặt trời sắp tắt ở dãy núi xa, và trong khung
cảnh ấy mỗi cánh chim đơn độc chầm chậm
bay qua. Chợt bạn nghe đâu đây vẳng tiếng
chuông chùa. Âm thanh mơ hồ đó làm bạn
càng ý thức hơn về sự tĩnh mịch và nỗi êm ả
trong lòng càng thêm sâu lắng.
Lý do thứ hai khiến người Việt không có
“ Đạo” về hoa hoặc một hệ thống giáo điều
rõ rệt, chính là ở tinh thần phóng khoáng,
không chịu gò mình vào một khuân khổ
cứng nhắc cố định. Người Việt sốt sắng đón
nhận mọi nền văn minh văn hóa ngoại lai, có
khi quá đáng, nhưng rồi ra, tất cả đều bị biến
đổi, dung hợp, hòa trộn với truyền thống
dân tộc. Thí dụ Phật giáo Thiền tông từ
Trung Quốc du nhập vào Việt Nam đã
chuyển ra một sắc thái khác, tiêu biểu là hai
phái Thiền Thảo Đường Đời Lý (thế kỷ 11 -
12) và Thiền Trúc Lâm Đời Trần (thế kỷ 13)
Thiền học Việt Nam là sự phối hợp hài hòa
129
Hoa đạo G.Ohsawa

giữa đạo và đời, vừa hướng về tâm linh thoát


tục, vừa nêu gương sáng của con người xã
hội đầy đủ đức tài.
Các Thiền sư, tiêu biểu là các vị khai tổ
như Lý Thánh Tông của phái Thảo Đường và
Trần Nhân Tông của phái Trúc Lâm, cũng là
những nhà xã hội tài ba, những chiến sỹ lỗi
lạc, vừa là những thi nhân lai láng hồn thơ.
Các vị vua Trần có thông lệ khi thấy tuổi cao
sức yếu liền nhường ngôi cho con để lo bề tu
tâm dưỡng tính, song nếu cần, vẫn tham gia
việc nước với vai trò cố vấn cho triều đình.
Nước Việt dưới thời Lý Trần rất thịnh trị
hùng cường nhờ vua Minh, tôi giỏi, quan
dân một lòng, đã để lại đời sau những trang
sử đẹp không những về chiến công, mà cả về
ấm no hạnh phúc.
Có thể nói truyền thống Việt Nam là tôn
kính đất trời thiên nhiên, thờ phụng tổ tiên
cha mẹ, trọng người tài đức không kể lạ quen,
thương người, cần cù nhẫn nại, giản dị, thật
thà và vui cười trong mọi hoàn cảnh. Có
người hẳn phê bình “dân tộc ta gì cũng cười,
vui cũng cười, khổ cũng cười, sướng cũng
cười, chẳng biết đâu phân biệt tốt xấu!” Thử
hỏi hạnh phúc là gì?

130
Hoa đạo G.Ohsawa

Chẳng phải là niềm vui sống đó sao?


Niềm vui đó không thể có thật với tiền tài
hay uy quyền vật chất, mà là sức khỏe của cơ
thể cùng sự thanh thản, thoải mái của tinh
thần. Trong cuộc sống ngày càng căng thẳng,
nụ cười thật đáng giá ngàn hoa.

HOA ĐẠO
George Ohsawa
Ngô Thành Nhân và Nguyễn Hồng Giao
dịch

131

You might also like