You are on page 1of 8

ĐỀ ÔN TẬP ĐỌC HIỂU VĂN BẢN TRUYỆN

KHỐI 11

ĐỀ 1

Đọc đoạn trích sau:


(…) Vào hạ, sự chuyển dịch của trời đất như chùng lại trên cây cối; vẻ bay bướm xuân thì đã
qua đi, thiên nhiên ổn định hẳn trong mầu lục trầm trầm của lá già. Vườn lá không đẹp, dù vậy, nó
chưa bao giờ làm cho tôi chán mắt; bởi nó toát ra khí mạnh của nhựa cây, và trong những ổ lá rậm
rịt kia, các loại trái đang lớn lên dưới sức nóng hun đúc. Hạ chí trở đi, vườn An Hiên vào mùa quả,
khởi đầu là mùa thơm: giống thơm Nguyệt Biều vỏ chín đỏ như lửa cắt ra từng lát tròn to vừa lòng
cái đĩa bàn, vàng rệu mầu mật ong, tưởng chừng có cô gái nào đó ở trong cây đã làm sẵn hoàn
chỉnh một chiếc bánh kem sinh nhật. Dâu chín vào tháng năm, tháng sáu. Cây dâu Truồi ở vườn bà
Lan Hữu rất đẹp, tán lá khum khum úp sát mặt đất kín mít, bên trong rỗng, trái chín vàng hươm
từng chuỗi dài đổ úp thành đống quanh gốc cây. Nhìn đống quả đầy ứ như là ai đã hái sẵn đổ ra
kia, tôi chợt mỉm cười với một ý nghĩ lạ lùng: giả như đời chẳng còn nhiệm vụ gì, tôi sẽ trải một
tấm chiếu nhỏ dưới vòm lá kín đáo kia, nằm đó đọc sách ăn dâu. Suốt mùa hè. Sau vườn, cạnh
giếng nước, có một vạt đất trồng mức làm chái cho những loại cây leo: hồ tiêu, thanh long v.v…
Cây thanh long đặc sản nổi tiếng vùng Nha Trang, có lẽ là giống cây hiền lành nhất trong vườn:
thân nhánh dài ngoằng nằm ún đống trên chạc cây mức trông như một đống dây chão; trồng một
lần rồi chẳng bao giờ cần ngó lại, nó sống như một vật bỏ quên sau vườn, đến mùa lại cho con
người hoa trái. Cây xấu xí mà hoa đẹp thế, hoàn toàn giống hoa quỳnh, cũng nở và tàn trong một
đêm nên nhiều khi muốn ngắm hoa, bà Lan Hữu đã phải thắp đèn ra vườn lúc nửa đêm. Trái Thanh
Long màu cánh sen chín vào những ngày nóng nhất của mùa hè, ruột trong như bột lọc, làm mát và
khỏe người; ấy là món quà hảo tâm của thiên nhiên dành cho người làm vườn. Cuối hạ, mỗi hoàng
hôn, lũ dơi lại xuất hiện, đảo liệng khắp vườn rồi chui vào những vòm lá tối, nơi đó tỏa ra mùi vải
chín. Hè năm ngoái, tôi về huyện Nam Thanh, Hải Hưng; miền quê cây trái hào hiệp, mời khách ăn
vải thiều không tiếc của, cứ đổ luôn trên mặt bàn thành đống cao như khoai như ngô. Giống trái
quý này xưa kia dùng để tiến nạp cho vua ăn, bây giờ chúng tôi được đãi theo lối xả láng, ăn đến
no bụng. Giống vải thiều Hưng Yên đưa vào Huế vẫn giữ được phẩm chất của nó, quả lớn hạt nhỏ
cùi trắng nõn trông như một miếng mỡ, thơm và ngọt lịm. Vườn An Hiên còn có mấy cây vải Phụng
Tiên, giống vải Huế quả lớn hơn quả nhãn một chút, hạt bé bằng hạt tiêu, hương vị không kém vải
thiều xứ Bắc. Giống vải này được xếp vào dòng quí tộc, xưa chỉ trồng nơi cung cấm; bà Lan Hữu
xin lại từ vườn của một viên thái giám. Đối ứng với mấy cây vải thiều miền Bắc, góc vườn bên kia
có hai cây sầu riêng Lái Thiêu; bà Lan Hữu mang về trồng đã hai mươi năm, cách đây vài năm
mới cho mùa quả đầu, trái to múi thơm không khác trái vườn trong Nam.
Càng vào thu, khu vườn càng hiện ra trong vẻ đẹp của trái, càng gợi cho người đi dạo vườn cái
cảm giác khinh khoái của một phòng trưng bày tranh tĩnh vật. Cam và thanh trà làm khu vườn
nặng trĩu xuống khác với dạo đầu mùa hạ; và đến cuối tháng tám, những cây thị nhung chi chít
những quả đỏ. Loại thị này, giống như quả táo tây, cũng là một loại cây trái lạ, do mấy ông cố đạo
mang đến từ một xứ nhiệt đới xa xôi nào đó. Cuối vụ thu là mùa hái hồng. Mấy cây hồng này già
tuổi nhất trong vườn, vốn là quà tặng của cụ Nghè Mai - chắt nội cụ Nguyễn Du - tặng cho chồng
bà Lan Hữu ngày mới lập vườn. Hồng Tiên Điền là giống của quê hương Nghệ Tĩnh ngàn vạn trái
không có một hạt, trái chín lụn, đài vẫn dính chặt vỏ, không bị tróc mất như các loại hồng thường.
Sau mùa trái nó trút hết lá, cây cỗi cành trơ, nhìn cứ tưởng là nó đã chết khô. Qua tiết đông, thoắt
cái nó nẩy lộc chi chít, mươi hôm sau lá đã phủ kín cây; lá hồng tròn dày, xanh bóng, nhạy cảm với
từng tia nắng, sáng trưng lên trong niềm vui phục sinh của mùa xuân. Tháng hai hồng ra hoa,
trong lòng mỗi đóa hoa xanh biếc đã kết một trái non. Từ đó đến lúc chín, trái non rụng dần, rụng
như một hành động tự đào thải tàn nhẫn. (…)
(Trích Hoa trái quanh tôi, Hoàng Phủ Ngọc Tường,
Tạp chí Sông Hương, số 3 (T.10-1983)
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1. Đối tượng chủ yếu mà đoạn trích đề cập đến là gì?
A. Các loại hoa
B. Các loại trái
C. Các loại cây
D. Các loại hoa trái
Câu 2. Khu vườn An Hiên được tác giả miêu tả chủ yếu qua những mùa nào trong năm?
A. Mùa xuân và mùa hạ
B. Mùa hạ và mùa thu
C. Mùa thu và mùa đông
D. Mùa đông và mùa xuân
Câu 3. Đoạn trích có sử dụng kết hợp các phương thức biểu đạt nào sau đây
A. Tự sự, biểu cảm
B. Tự sự, miêu tả
C. Tự sự, thuyết minh, hành chính công vụ
D. Tự sự, miêu tả, biểu cảm
Câu 4. Những loại trái cây nào được tác giả nói tới trong đoạn trích?
A. Thơm, thanh long, vải, sầu riêng, cam, thanh trà, thị, hồng, mức
B. Thơm, dâu, thanh long, vải, sầu riêng, cam, thanh trà, thị, hồng, hồ tiêu
C. Thơm, dâu, thanh long, vải, sầu riêng, cam, thanh trà, thị, hồng
D. Thơm, dâu, thanh long, vải, nhãn, sầu riêng, cam, thanh trà, thị, hồng
Câu 5. Phát biểu nào sau đây nói về nội dung khái quát của đoạn trích
A. Vẻ đẹp của khu vườn An Hiên
B. Sự đa dạng của các loại cây trong khu vườn An Hiên
C. Đặc điểm của từng loại trái cây trong khu vườn An Hiên
D. Cây trái trong khu vườn An Hiên qua từng mùa
Câu 6. Phát biểu nào sau đây nói lên cảm xúc chủ đạo của đoạn trích?
A. Tình yêu đối với những thứ cây trái mà thiên nhiên ban tặng
B. Lòng biết ơn đối với chủ nhân của khu vườn An Hiên
C. Sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp trù phú và đa dạng của khu vườn
D. Tấm lòng gắn bó đối với khu vườn tươi đẹp
Câu 7. Cái tôi của tác giả được thể hiện như thế nào qua văn bản?
A. Cái tôi tinh tế, uyên bác
B. Cái tôi đa cảm, mơ mộng
C. Cái tôi thông minh, sắc sảo
D. Cái tôi hóm hỉnh, hài hước
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:
Câu 8. Bạn ấn tượng với loại trái cây nào nhất trong khu vườn An Hiên? Lí giải?
Câu 9. Nêu chủ đề của văn bản
Câu 10. Từ nội dung văn bản, bạn có suy nghĩ gì về vai trò của thiên nhiên đối với cuộc sống
con người. (Viết khoảng 5 – 7 dòng)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


Câu Nội dung
ĐỌC HIỂU
1 B
2 B
3 D
4 C
5 D
6 C
7 A
8 Học sinh được tự do bày tỏ quan điểm, miễn là có lí giải thuyết phục.
9 Chủ đề của văn bản: Qua việc miêu tả các loại cây trái trong khu vườn An Hiên qua
hai mùa hạ và thu, tác giả đã làm nổi bật những vẻ đẹp riêng của từng loại cây trái,
vẻ đẹp trù phú đa dạng của cả khu vườn; qua đó cho ta thấy sự kì diệu của thiên
nhiên, đồng thời cũng cho thấy sự quan sát tinh tế, nhạy cảm, tấm lòng yêu thiên
nhiên tha thiết của tác giả.
10 Suy nghĩ về vai trò của thiên nhiên đối với con người:
- Thiên nhiên là môi trường để con người tồn tại
- Thiên nhiên cung cấp các điều kiện, các vật phẩm thiết yếu cho cuộc sống con
người
- Thiên nhiên giúp cân bằng hệ sinh thái
- Thiên nhiên còn là nơi giúp ta trở về để nghỉ ngơi, di dưỡng tinh thần
v.v…

-----------------o0o-----------------
ĐỀ 2
Đọc văn bản sau:
(…)
(1) Người ta nhớ nhà, nhớ cửa, nhớ những nét mặt thương yêu, nhớ những con đường đã đi về
năm trước, nhớ người bạn chiếu chăn dắt tay nhau đi trên những con đường vắng vẻ ngào ngạt mùi
hoa xoan còn thơm ngát hơn cả hoa cau, hoa bưởi. Người ta nhớ heo may giếng vàng; người ta
nhớ cá mè, rau rút; người ta nhớ trăng bạc, chén vàng.
Nhớ quá, bất cứ cái gì của Hà Nội cũng nhớ, bất cứ cái gì của Bắc Việt cũng nhớ, nhớ từ cánh
đồng lúa con gái mơn mởn nhớ đi, nhớ từ tiếng hát của người mẹ ru con buổi trưa hè mà nhớ lại;
nhớ hoa sấu rụng đầu đường Hàng Trống, nhớ quả bàng ở Hải Hậu rụng xuống bờ sông Đào, nhớ
sen Linh Đường thơm ngào ngạt của bầu trời nhớ lên, nhớ nhãn Hưng Yên, vải Vụ Bản, cá anh vũ
Việt Trì, na Láng, bưởi Vạn Phúc, cam Bố Hạ, đào Sa Pa mà nhớ xuống.
Nhớ không biết bao nhiêu, nhớ bát canh rau sắng chùa Hương, nhớ khóm tiễn xuân la trồng ở
bên giậu trúc; nhớ mưa bụi, vợ chồng nửa đêm thức giấc đi uống một ly rượu ấm ở cao lâu, nhớ
những buổi trưa hè có ve sầu kêu rền rền, nhớ luôn cả những cô gái Thổ cưỡi ngựa thổ đi trong
rừng có những cánh hoa đào rơi lả tả nơi vai áo...
Càng nhớ như vậy thì càng yêu Hà Nội biết bao nhiêu, lại càng say đắm Bắc Việt biết bao
nhiêu!
(2) Hà Nội! Bắc Việt của một ngày xa xưa ơi! Bây giờ liễu ở Hồ Gươm có còn xanh mươn mướt
như hồi ta bước ra đi? Những trồi sơn trúc, thạch nương ở Nghi Tàm có còn chưa phong quanh
như cũ? Núi Nùng ra sao? Hồ Tây thế nào? Con đường Bách Thảo thơm nức mùi lan tây, hàng
đêm, ta vẫn cùng đi với người vợ bé nhỏ, bồng con ở trên tay để đến thăm người bạn sống cô chích
ở trong vườn "Bình Bịp" bây giờ ra thế nào? Trên con đường Phú Thọ, Yên Bái, Lào Cai các đồn
điền cam quýt ở hai bên bờ sông Thao vẫn còn tốt tươi như cũ và các cô gái ngăm ngăm da dâu có
còn nắm lấy tay các du khách mà ví von ca hát không cho về? Ở trước cửa chợ Đồng Xuân, có còn
chăng những hàng nước chè tươi; ở chợ Hôm, những hàng phở gánh bán cho khách ăn đêm; và ở
trên khắp nẻo đường, những người đội thúng, cầm một chiếc đèn dầu ở tay, lặng lẽ đi trong đêm
rao "giò, dầy"?
(3) Nhớ không biết chừng nào là nhớ, nhớ sao nhớ quá thế này! Thì ra cái người nhớ Hà Nội,
nhớ Bắc Việt cũng như thể chàng trai nhớ gái; bất cứ thấy ai cũng tưởng ngay đến người thương
của mình và đem ra so sánh thì bao nhiêu người đẹp ở trước mắt đều kém người thương mình hết.
(…)
(Trích Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng, Nxb Văn học, Hà Nội, 2001)
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1. Các phương thức biểu đạt chủ yếu của văn bản trên là?
A. Biểu cảm và thuyết minh
B. Thuyết minh và nghị luận
C. Tự sự và nghị luận
D. Tự sự và biểu cảm
Câu 2. Văn bản trên viết về vùng đất nào?
A. Hà Nội
B. Bắc Việt
C. Hồ Gươm
D. Cả A và B
Câu 3. Biện pháp tu từ nào sau đây được sử dụng phổ biến trong đoạn (1)
A. Nhân hóa
B. Ẩn dụ
C. Liệt kê
D. Hoán dụ
Câu 4. Biện pháp tu từ nào sau đây được sử dụng phổ biến trong đoạn (2)
A. Nhân hóa
B. Câu hỏi tu từ
C. Ẩn dụ
D. Hoán dụ
Câu 5. Cảm xúc chủ đạo của văn bản trên là
A. Nỗi nhớ
B. Nỗi buồn
C. Nỗi thất vọng
D. Nỗi day dứt
Câu 6. Phát biểu nào sau đây nói lên nội dung khái quát của văn bản?
A. Nỗi nhớ da diết đối với Hà Nội nói riêng và Bắc Việt nói chung
B. Nỗi nhớ da diết về một thời đã qua đi không trở lại
C. Ước mong cháy bỏng được trở về thăm lại cảnh cũ, người xưa
D. Nỗi buồn vì những vẻ đẹp của Hà Nội xưa nay đã không còn nữa
Câu 7. Cái tôi của tác giả được thể hiện như thế nào qua văn bản?
A. Cái tôi tài hoa
B. Cái tôi uyên bác
C. Cái tôi trữ tình
D. Cả A và C
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:
Câu 8. Bạn rút ra được thông điệp gì sau khi đọc văn bản trên
Câu 9. Nêu chủ đề của văn bản
Câu 10. Từ nội dung văn bản, bạn có suy nghĩ gì về vai trò của quê hương đối với mỗi con
người (viết khoảng 5 – 7 dòng)

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


Câu Nội dung
ĐỌC HIỂU
1 D
2 D
3 C
4 B
5 A
6 A
7 D
8 Học sinh được tự do rút ra thông điệp, miễn là tích cực và liên quan đến nội dung
văn bản ở phần Đọc hiểu. Tham khảo:
- Hãy yêu thương mảnh đất mà mình từng gắn bó
- Hãy biết phát hiện và trân trọng những vẻ đẹp của quê hương, đất nước
9 Chủ đề của văn bản: Văn bản là nỗi nhớ da diết của người đi xa nhớ về Hà Nội,
nhớ về Bắc Việt. Qua đó ta thấy được vẻ đẹp của Hà Nội nói riêng và Bắc Việt nói
chung, đồng thời cũng thấy được tấm lòng yêu thương, gắn bó sâu nặng mà tác giả
dành cho những miền đất ấy.
10 Suy nghĩ về vai trò của quê hương đối với mỗi con người:
- Quê hương là nơi ta được sinh ra và lớn lên, gắn với tuổi thơ ấu tươi đẹp
- Quê hương là nơi cho ta những giá trị văn hóa, cho ta tình yêu thương của gia
đình, bạn bè, lối xóm, giúp hình thành nhân cách và tâm hồn của ta sau này
- Quê hương là nơi mà ta có thể trở về để tìm lại sự cân bằng cho cuộc sống
v.v…

-----------------o0o-----------------

ĐỀ 3
Đọc văn bản sau:
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng Giêng là tháng đầu của mùa xuân,
người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương
hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô
gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
Tôi yêu sông xanh, núi tím; tôi yêu đôi mày ai như trăng mới in ngần và tôi cũng xây mộng ước mơ,
nhưng yêu nhất mùa xuân không phải là vì thế.
Mùa xuân của tôi – mùa xuân Bắc Việt, mùa xuân của Hà Nội – là mùa xuân có mưa riêu riêu, gió
lành lạnh, có tiếng nhạn kêu trong đêm xanh, có tiếng trống chèo vọng lại từ những thôn xóm xa
xa, có câu hát huê tình của cô gái đẹp như thơ mộng...
Người yêu cảnh, vào những lúc trời đất mang mang như vậy, khoác một cái áo lông, ngậm một ống
điếu mở cửa đi ra ngoài tự nhiên thấy một cái thú giang hồ êm ái như nhung và không cần uống
rượu mạnh cũng như lòng mình say sưa một cái gì đó – có lẽ là sự sống!
Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi làm cho người ta muốn phát điên lên như thế ấy. Ngồi yên
không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong lộc của loài nai, như
mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành những cái lá nhỏ li ti giơ tay
vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh.
Cùng với mùa xuân trở lại, tim người ta dường như cũng trẻ hơn ra, và đập mạnh hơn trong những
ngày đông tháng giá. Lúc ấy, đường sá không còn lầy lội nữa mà là cái rét ngọt ngào, chớ không
còn tê buốt căm căm nữa.
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót
kiếm ăn, anh cũng “sống” lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn
yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.
Nhang trầm, đèn nến, và nhất là bầu không khí gia đình đoàn tụ êm đềm, trên kính dưới nhường,
trước những bàn thờ Phật, bàn thờ Thánh, bàn thờ tổ tiên làm cho lòng anh ấm lạ ấm lùng, tuy
miệng chẳng nói ra nhưng trong lòng thì cảm như có không biết bao nhiêu là hoa mới nở, bướm ra
ràng mở hội liên hoan.
Đẹp quá đi, mùa xuân ơi - mùa xuân của Hà Nội thân yêu, của Bắc Việt thương mến. Nhưng tôi yêu
mùa xuân nhất là vào khoảng sau ngày rằm tháng giêng, Tết hết mà chưa hết hẳn, đào hơi phai
nhưng nhuỵ vẫn còn phong, cỏ không mướt xanh như cuối đông, đầu giêng, nhưng trái lại, lại nức
một mùi hương man mác.
Thường thường, vào khoảng đó trời đã hết nồm, mưa xuân bắt đầu thay thế cho mưa phùn, không
còn làm cho nền trời đùng đục như màu pha lê mờ. Sáng dậy, nằm dài nhìn ra cửa sổ thấy những
vệt xanh tươi hiện ra ở trên trời, mình cảm thấy rạo rực một niềm vui sáng sủa. Trên giàn hoa lí,
vài con ong siêng năng đã bay đi kiếm nhị hoa. Chỉ độ tám chín giờ sáng, trên nền trời trong trong
có những làn sáng hồng hồng rung động như cánh con ve mới lột.
Ấy là lúc thịt mỡ dưa hành đã hết, người ta bắt đầu trở về bữa cơm giản dị có cà om với thịt thăn
điểm những lá tía tô thái nhỏ hay bát canh trứng cua vắt chanh ăn mát như quạt vào lòng. Cánh
màn điều treo ở đầu bàn thờ ông vải đã hạ xuống từ hôm “hoá vàng” và các trò vui ngày Tết cũng
tạm thời kết thúc để nhường chỗ cho cuộc sống êm đềm thường nhật.
Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, NXB Văn học, Hà Nội, 1993
Lựa chọn đáp án đúng:
Câu 1. Văn bản trên thuộc thể loại
A. Tản văn
B. Tùy bút
C. Kí
D. Truyện kí
Câu 2. Bên cạnh yếu tố trữ tình (biểu cảm), văn bản trên có sử dụng thêm phương thức biểu
đạt nào khác?
A. Tự sự và miêu tả
B. Miêu tả và nghị luận
C. Miêu tả và thuyết minh
D. Tự sự và thuyết minh
Câu 3. Nội dung chính của đoạn văn trên là gì?
A. Bày tỏ cảm xúc yêu mến với mùa xuân của Hà Nội, mùa xuân của Bắc Việt
B. Thuật lại kỉ niệm khó quên về tết Hà Nội
C. Bày tỏ nỗi nhớ Hà Nội
D. Miêu tả không khí mùa xuân Hà Nội
Câu 4. Biện pháp tu từ được nhà văn sử dụng trong câu sau là gì?
Y như những con vật nằm thu hình một nơi trốn rét thấy nắng ấm trở về thì lại bò ra để nhảy nhót
kiếm ăn, anh cũng “sống” lại và thèm khát yêu thương thực sự. Ra ngoài trời, thấy ai cũng muốn
yêu thương, về đến nhà lại cũng thấy yêu thương nữa.
A. So sánh và nhân hóa
B. So sánh và điệp từ
C. So sánh và ẩn dụ
D. So sánh và liệt kê
Câu 5. Biện pháp lặp cấu trúc được sử dụng trong đoạn sau có tác dụng gì?
Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng Giêng là tháng đầu của mùa xuân, người ta
càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương nước, bướm đừng thương hoa,
trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái
còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê luyến mùa xuân.
A. Khẳng định vẻ đẹp của mùa xuân
B. Khẳng định mùa xuân là mùa của yêu thương và tình yêu
C. Khẳng định ai cũng chuộng mùa xuân, những sự việc hiển nhiên không bao giờ dừng lại cũng
như việc không bao giờ có người hết yêu mùa xuân
D. Khẳng định tình cảm của nhà văn với mùa xuân đất trời
Câu 6. Đọc văn bản và chỉ ra khoảng thời gian mà tác giả cảm thấy “yêu mùa xuân nhất”
A. Đầu xuân
B. Tết nguyên Đán
C. Sau rằm tháng giêng
D. Cuối mùa xuân
Câu 7. Cảm xúc chủ đạo của văn bản trên là:
A. Niềm hoài niệm trước những vẻ đẹp truyền thống xưa cũ
B. Tình yêu và nỗi nhớ với tết Hà Nội
C. Tình yêu và nỗi nhớ với Hà Nội mùa xuân
D. Tình yêu và nỗi nhớ với những điều bình dị nhất của mùa xuân của Bắc Việt
Trả lời câu hỏi/ Thực hiện các yêu cầu:
Câu 8. Lựa chọn một biện pháp tu từ trong văn bản trên và phân tích
Câu 9. Chỉ ra những đặc điểm của tản văn xuất hiện trong văn bản
Câu 10. Từ nội dung đoạn trích ở phần Đọc hiểu, hãy viết một đoạn văn (khoảng 5 - 7 câu) chia sẻ
cảm nhận của em về mùa xuân (hoặc Tết) ở địa phương mà em sinh sống

HƯỚNG DẪN LÀM BÀI


Câu Nội dung
ĐỌC HIỂU
1 A
2 C
3 A
4 B
5 C
6 C
7 D
8 HS có thể lựa chọn các biện pháp sau:
- Điệp cấu trúc: Tự nhiên như thế: ai cũng chuộng mùa xuân. Mà tháng Giêng là tháng đầu
của mùa xuân, người ta càng trìu mến, không có gì lạ hết. Ai bảo được non đừng thương
nước, bướm đừng thương hoa, trăng đừng thương gió; ai cấm được trai thương gái, ai
cấm được mẹ yêu con; ai cấm được cô gái còn son nhớ chồng thì mới hết được người mê
luyến mùa xuân. (Ai – cấm/đừng – động từ chỉ cảm xúc yêu, nhớ)
- So sánh: Ấy đấy, cái mùa xuân thần thánh của tôi làm cho người ta muốn phát điên lên như
thế ấy. Ngồi yên không chịu được. Nhựa sống ở trong người căng lên như máu căng lên trong
lộc của loài nai, như mầm non của cây cối, nằm im mãi không chịu được, phải trồi ra thành
những cái lá nhỏ li ti giơ tay vẫy những cặp uyên ương đứng cạnh. (Những xúc cảm mạnh mẽ
trong tâm hồn khi đón nhận mùa xuân)
(Hoặc có thể có những biện pháp khác miễn sau HS chỉ đúng và có kiến giải phù hợp)

9 Đặc điểm tản văn trong văn bản


- Về yếu tố trữ tình: Cảm xúc của nhà văn về mùa xuân Hà Nội và Bắc Việt, bày tỏ niềm yêu
thương, nhớ nhung về những điều bình dị nhất. (Cảm xúc yêu, mến được nhắc lại nhiều lần
trong văn bản)
- Đan xen yếu tố miêu tả và thuyết minh: Miêu tả những đặc điểm của mùa xuân, thuyết
minh thêm về những món ăn, những nét văn hóa đẹp của mùa xuân Bắc Việt (Các đoạn văn
miêu tả về không khí, về các món ăn ngon sau rằm tháng giêng, các nghi lễ khác của mùa
xuân Bắc Việt)
(Mỗi luận điểm HS đưa thêm các dẫn chứng thuyết phục)
10 Học sinh đưa ra suy nghĩ của mình về vấn đề theo dòng cảm xúc của cá nhân đảm bảo yêu
cầu
- Mùa xuân hoặc Tết ở địa phương nào?
- Một số nét đặc sắc
- Cảm nhận chung của em

You might also like