You are on page 1of 15

Văn bản 1 : LỜI CỦA CÂY

1. Quá trình phát triển của cây

Sự phát Từ ngữ miêu tả Phân tích ý nghĩa


triển

Hạt lặng thinh - nhân hóa, hạt như cũng có hồn à Sự sống tiềm tàng, chưa
được “đánh thức”, phát triển thành cây.

Mầm - nhú lên giọt sữa - mầm cây được ví với giọt sữa trắng trong, trong trẻo, nhỏ
bé, dễ thương
- thì thầm
- mầm cây cũng giống như em bé cần được vỗ về, nghe lời
-kiêng gió, kiêng mưa, lớn
ru, nằm trong nôi là vỏ cây, cần kiêng khem gió mưa, biết
lên đón tia nắng hồng
“mở  mắt” đón tia nắng hồng.

Cây đã - “nghe màu xanh – bắt đầu - như em bé chập chững


thành bập bẹ” + ẩn dụ chuyển đổi cảm giác (nghe màu xanh)
+ hoán dụ (nghe màu xanh à chỉ cái cây)
+ nhân hóa (bập bẹ).
à Câu thơ có nhiều biện pháp tu từ, mở rộng trường liên
tưởng.

2. Mối quan hệ giữa chủ thể trữ tình và hạt


- Khi đang là hạt à hạt được chủ thể trữ tình “cầm trong tay mình” à sự sống được nâng niu à
cách ứng xử của chủ thể trữ tình với thiên nhiên.
- “Ghé tai nghe rõ”, “Nghe mầm mở mắt”: hình ảnh của nhà thơ, thể hiện mối quan hệ gần gũi,
giao cảm giữa thiên nhiên và nhà thơ, sự nâng niu sự sống.
3. Lời của cây
- “Rằng/ các bạn ơi”
=>nhịp thơ 1/3 – sự khác biệt trong thơ bốn chữ (vốn là nhịp 2/2)
=> nhấn mạnh, gợi sự chú ý, lắng nghe.
- 3 câu thơ cuối:
Cây chính là tôi
Nay mai sẽ lớn
Góp xanh đất trời
=> Lời của cây là tiếng nói của thiên nhiên đối với con người à Thông điệp về sự lắng nghe,
tôn trọng thiên nhiên.
=> Ẩn dụ về ý nghĩa của đời người, lớn lên và làm cho cuộc sống trở nên tốt đẹp.
mầm
III. Tổng kết
1. Nghệ thuật
- Sử dụng các biện pháp tu từ: ẩn dụ, hoán dụ, nhân hóa à làm cho bài thơ trở nên đa nghĩa, đa
thanh, giàu sức gợi hình.
- Thể thơ bốn chữ, nhịp thơ 2/2 à dễ thuộc, dễ nhớ, đều đặn như nhịp đưa nôi, vừa diễn tả nhịp
điệu êm đềm của đời sống cây xanh, vừa thể hiện cảm xúc yêu thương trìu mến của tác giả.
- Nhịp thơ 1/3 (Rằng các bạn ơi) à sự khác biệt, có tác dụng nhấn mạnh vào khao khát của cây
khi muốn được con người hiểu và giao cảm.
- Tiết tấu vui tươi, phù hợp với nội dung của bài thơ.
2. Chủ đề – thông điệp
- Chủ đề: Bài thơ thể hiện tình yêu thương, trân trọng những mầm xanh thiên nhiên
- Thông điệp:
+ Hãy lắng nghe lời của cỏ cây loài vật để biết yêu thương, nâng đỡ sự sống ngay từ khi sự sống
mưới là những mầm non.
+ Mỗi con người, sự vật, dù là nhỏ bé, đều góp phần tạo nên sự sống như hạt mầm góp màu xanh
cho đất trời.
+ Thông điệp ẩn dụ: các bạn nhỏ cũng như những mầm cây, cũng phát triển từ bé đến lớn,
góp phần xây dựng cuộc sống tươi đẹp

- Khi đang là hạt à hạt được chủ thể trữ tình “cầm trong tay mình” à sự sống được nâng niu à
cách ứng xử của chủ thể trữ tình với thiên nhiên.
- “Ghé tai nghe rõ”, “Nghe mầm mở mắt”: hình ảnh của nhà thơ, thể hiện mối quan hệ gần gũi,
giao cảm giữa thiên nhiên và nhà thơ, sự nâng niu sự sống.

Câu 1: Bài tập trắc nghiệm


1. Nhà thơ Trần Hữu Thung quê ở đâu?

A. Nghệ An.
B. Lạng Sơn.
C. An Giang.
D. Hà Nội.

2. Thơ của Trần Hữu Thung thể hiện điều gì?

A. Thể hiện sự suy tư, giàu chất nhân văn và có cái nhìn mang màu sắc triết lý về cuộc sống.
B. Thể hiện sự bao quát về cuộc sống, những chất liệu được dệt trong các tác phẩm hầu hết
là sự vật quen thuộc xung quanh.
C. Thể hiện sự mộc mạc, dân dã, chân chất, hồn nhiên của người dân quê.
D. Thể hiện sự rung cảm và những khát vọng của một trái tim yêu thương, trân trọng cuộc
sống.

3. Khổ thơ thứ nhất trong bài thơ Lời của cây cho ta biết điều gì?

A. Khởi đầu của cây là mầm non.


B. Khởi đầu của cây là hạt.
C. Khởi đầu của cây là rễ cây.
D. Khởi đầu của cây là sự chăm sóc của người trồng.

4. Trong bài thơ Lời của cây, khi chưa gieo xuống đất, hạt cây như thế nào?

A. Nằm yên không nói.


B. Hạt năm lặng thinh.
C. Hạt cây thì thầm.
D. Hạt cười không nói.

5. Trong bài thơ Lời của cây, khi hạt nảy mầm, ta nghe được điều gì?

A. Lời của cây và lời của người trồng cây.


B. Lời của cây và tiếng gió thổi rì rào.
C. Lời thì thầm của cây và tiếng chim hót líu lo.
D. Bàn tay vỗ, tiếng ru hời.

6. Trong bài thơ Lời của cây, mầm cây kiêng điều gì?

A. Gió bấc, sâu ăn mầm.


B. Trời mưa giông, người phá hoại.
C. Sương muối.
D. Gió bấc, mưa giông.

7. Trong bài thơ Lời của cây, khi cây đã nở được vài lá bé, có điều gì đặc biệt?
A. Cây bắt đầu bập bẹ.
B. Cây cất tiếng hát.
C. Cây thì thầm nhỏ to.
D. Cây mỉm cười đón ánh bình minh.

8. Bài thơ sử dụng biện pháp tu từ chủ yếu nào?

A. Hoán dụ, nhân hóa.


B. So sánh, điệp ngữ.
C. Nhân hóa, điệp ngữ.
D. Nói quá, nhân hóa.

9. Bài thơ Lời của cây chủ yếu ngắt nhịp nào?

A. Nhịp 1/3.
B. Nhịp 3/1.
C. Nhip 2/2
D. Nhịp tự do.

10. Bài thơ Lời của cây thể hiện thông điệp gì?

A. Hãy biết lắng nghe lời của cây, vì cây cũng có tâm hồn như con người.
B. Hãy biết lắng nghe lời của cây, vì cây xanh cho ta bóng mát.
C. Hãy biết lắng nghe lời của cây, hãy yêu cây xanh, vì cây xanh là một phần cuộc sống tươi
đẹp của chúng ta.
D. Hãy biết lắng nghe lời của cây, vì cây xanh cung cấp oxy.

Câu 2: Hãy tưởng tượng mình là một cái cây, một bông hoa hoặc một con vật cưng trong
nhà và viết 5 câu thể hiện cảm xúc khi mình hóa thân.

Đáp án trắc nghiệm

Câu 1:

1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
A C B B D D A C C C

Câu 2 Hướng dẫn trả lời:

Các bạn có biết ai là người bạn thân thiết của các bạn học sinh ngày nắng nóng không? Chính là
tôi - cây bàng lá nhỏ. Những ngày trời nắng, tôi giang tay tỏa bóng mát để các bạn ngồi, thỉnh
thoảng tôi còn phe phẩy lá cành để quạt mát cho các bạn. Đôi khi trời gió, tôi cũng đùa vui bằng
cách thả những chiếc lá để các bạn chạy theo bắt. Tôi chỉ mong kì nghỉ hè qua nhanh để tôi lại
được ở bên các bạn. 

SANG THU
Hữu Thỉnh
1. Tác giả:

- Hữu Thỉnh: tên thật Nguyễn Hữu Thỉnh sinh 1942 quê ở Tam Dương - Vĩnh Phúc

- Ông tham gia quân đội và bắt đầu sáng tác thơ từ năm 1963
- Thơ ông thường có những liên tưởng độc đáo thể hiện những suy tưởng giàu chất nhân văn và
cái nhìn mang màu sắc triết lí về cuộc sống
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Thư mùa đông, Trường ca biển, Từ chiến hào tới thành phố, ...

2.Tác phẩm
1. Khổ 1: Vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa:
- Tín hiệu báo thu sang:
+ Hương ổi:

+ Gió se: ngọn gió heo may lành lạnh đủ để dậy cảm xúc trong ta khiến ta có cảm thấy lâng
lâng, dễ chịu trước khoảnh khắc giao mùa

+ Sương chùng chình qua ngõ -> những hạt sương thu mềm mại, ươn ướt giăng màn qua ngõ

- Nghệ thuật:

+ Từ láy tượng hình: chùng chình -> cố ý chậm lại

+ Nhân hóa: sương chùng chình -> Sương giăng mắc nhẹ nhàng, chuyển động chầm chậm nơi
đường thôn ngõ xóm, ngập ngừng, lưu luyến, bịn rịn như có tâm hồn.

+ Nhịp thơ có sự thay đổi (3/2 -> 2/3) -> tình cảm, cảm xúc của tác giả.

Cảm xúc ngỡ ngàng, bâng khuâng của nhà thơ trước sự biến chuyển nhịp nhàng của cảnh
vật trong khoảnh khắc giao mùa.
Khổ 2: Những chuyển biến của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa

- Hình ảnh thiên nhiên:


+ Sông dềnh dàng
+ Chim vội vã
+ Đám mây mùa hạ vắt nửa mình sang thu -> ranh giới cụ thể giữa hạ và thu
- Nghệ thuật: từ láy dềnh dàng, vội vã -> sự chuyển mình của thiên nhiên tạo vật từ hạ sang thu
 Không gian và cảnh vật như đang chuyển mình, điềm tĩnh bước sang thu.
Khổ 3: Vẻ đẹp của thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa

- Hình ảnh thiên nhiên:


+ Nắng vẫn còn nhưng đã nhạt dần
+ Mưa cũng vơi và ít dần
+ Sấm cũng bớt bất ngờ
+ Hàng cây cổ thụ không còn giật mình bởi những tiếng sấm
 Thiên nhiên trong khoảnh khắc giao mùa đang biến đổi chậm dần chứ không vội vã.
- Nghệ thuật: ẩn dụ
+ Sấm: chỉ cái bất thường của ngoại cảnh
+ Hàng cây đứng tuổi: những con người lớn tuổi, từng trải.
Hai câu thơ không còn chỉ tả cảnh sang thu mà đã chất chứa suy nghiệm về con người và cuộc
đời

TỔNG KẾT

1. Nghệ thuật:
- Thể thơ 5 chữ tinh tế nhẹ nhàng mà gợi cảm sâu sắc. Sử dụng nhiều từ ngữ gợi cảm giác và
trạng thái.
- Hình ảnh chọn lọc mang nét đặc trưng của sự giao mùa
2. Nội dung:
Bài thơ Sang thu là cảm nhận tinh tế của nhà thơ Hữu Thỉnh về cảnh đất trời sang thu có những
biến chuyển nhẹ nhàng và rõ rệt. Đồng thời thể hiện lòng yêu thiên nhiên tha thiết và suy ngẫm
của nhà thơ
Phân tích bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh
I. Mở bài
Hữu Thỉnh là một trong những cây bút tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam, trưởng thành
trong những năm đầu kháng chiến chống Mỹ. Là một nhà thơ quân đội nhưng Hữu Thỉnh rất có
duyên nên khi viết về mùa thu. Những trang thơ của Hữu Thỉnh nhẹ nhàng, gần gũi, tinh tế mới
lạ, giọng điệu tha thiết, ngôn ngữ hình ảnh giản dị trong sáng gợi nhiều ý nghĩa biểu tượng. “
Sang thu” là một bài thơ như thế. Đến với tác phẩm, qua những câu thơ viết về cảm nhận tinh tế
của nhà thơ trước khung cảnh thiên nhiên giao mùa từ hạ sang thu, ta nhận ra bước chuyển mình
khẽ khàng của mùa thu và những chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời mà tác giả kí thác.

II. Thân bài


1/ Khái quát về tác phẩm
– Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác năm 1977 khi đất nước mới giành được độc lập 2
năm. Đây cũng là một trong những mùa thu và những người lính như Hữu Thỉnh lần đầu tiên
được cảm nhận vẻ đẹp của nó  trong không khí hòa bình.
– Chủ đề tác phẩm: Bằng tâm hồn nhạy cảm, bằng tình yêu mùa thu, quê hương nhà thơ đã mở
rộng lòng mình để đón nhận giây phút chuyển mình của cảnh vật, đất trời từ cuối hạ sang đầu
thu. Đồng thời bộc lộ những chiêm nghiệm, những suy ngẫm về con người, về cuộc đời  vốn đầy
dẫy những khó khăn thử thách.
2/  Phân tích bài thơ
a/Những tín hiệu giao mùa:
“Sang thu” ở đây là chớm thu, là lúc thiên nhiên giao mùa. Mùa hè vẫn chưa hết mà mùa thu tới
có những tín hiệu đầu tiên. Viết về mùa thu các tác giả thường dùng những chất liệu quen thuộc:
sắc vàng của hoa cúc, của lá vàng rơi hay tiếng lá xào xạc của lá ngô đồng, của rặng liễu… Còn
riêng Hữu Thỉnh lại đón nhận mùa thu bằng những cảm nhận tinh tế, giản dị:

  “Bỗng nhận ra hương ổi


  Phả vào trong gió se”
Thu của  Hữu Thỉnh được bắt đầu bằng một mùi hương quen thuộc phảng phất trong “gió se” –
thứ gió khô và se se lạnh, đặc trưng của mùa thu về ở miền Bắc. Đó là “hương ổi” – mùi hương
riêng của mùa thu làng quê ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Việt Nam. Động từ  “phả” giàu sức gợi
cảm, là động từ mạnh diễn tả mùi hương thơm nồng nàn, lan tỏa. Hương ổi “phả” vào trong “gió
se” đem đến cho người đọc một sự liên tưởng thú vị: hương thơm ấy như sánh lại và đậm đặc
hơn. Làn gió heo may đã đưa hương ổi lan tỏa khắp các đường ngõ, thôn xóm. Để rồi ta nhận ra
trong gió có mùi thơm hương ổi nồng nàn, một tín hiệu rõ nhất báo mùa thu về. “Hương ổi” còn
gắn liền với bao kỉ niệm của thời thơ ấu, là mùi vị của quê hương đã thấm đẫm trong tâm tưởng
nhà thơ và cứ mỗi độ thu về thì nó lại trở thành tác nhân gợi nhớ. Hương ổi ấy, cơn gió đầu mùa
se lạnh ấy chính là sứ giả của mùa thu. Nó đến rất khẽ khàng, “khẽ” đến mức chỉ một chút vô
tình thôi là không một ai hay biết.

Kể từ đây, tín hiệu chuyển mùa khi thu về không chỉ là sắc lá vàng bay, là hoa cúc vàng nở rộ, là
rặng liễu đìu hiu,…  mà vị sứ giả đầu tiên mang đến mùa thu cho mỗi chúng ta là “hương ổi”-
một thứ hương quê mộc mạc, dân dã vốn đã rất thân thuộc với mọi người. Ở đây Hữu Thỉnh đã
có một hình ảnh, một tứ thơ khá mới mẻ so với thơ văn cổ viết về mùa thu, nhưng lại vô cùng
quen thuộc và gần gũi đối với mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền Bắc mỗi độ
thu về.

Tín hiệu sang thu không chỉ bằng hương ổi, gió se mà còn được gợi ra bằng hình ảnh “sương
thu”. Với Hữu Thỉnh sương thu không chỉ đẹp, nhẹ nhàng, mong manh hư ảo mà còn rất con
người nó đang ngập ngừng lưu luyến trước bước đi của thời gian:

“Sương chùng chình qua ngõ


  Hình như thu đã về”
Nhà thơ đã nhân hóa làn sương qua từ láy “chùng chình”. Phép tu từ ấy đã thổi hồn vào những sự
vật vô tri, vô giác để làn sương mỏng manh ấy như có tâm hồn, có cảm nhận riêng như ai đó
đang nửa muốn đi, nửa muốn ở, ngập ngừng vương vấn khi bước chân qua ngưỡng cửa mùa thu.
Câu thơ lắng đọng tạo cảm giác mơ hồ đan xen nhiều cảm xúc. Sương thu của Hữu Thỉnh, không
phải là làn sương dày đặc, mịt mù như trong câu ca dao quen thuộc miêu tả cảnh Hồ Tây lúc ban
mai “Mịt mù khói tỏa ngàn sương”, hay như nhà thơ Quang Dũng đã viết trong bài thơ “Tây
Tiến”: “Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi” mà là “Sương chùng chình qua ngõ” gợi ra những
làn sương mỏng manh, mềm mại, giăng mắc  màn khắp đường thôn ngõ xóm làng quê. Nó làm
cho khí thu mát mẻ và cảnh thu thơ mộng, huyền ảo, thong thả, bình yên. “Ngõ” ở đây vừa là
ngõ thực của làng quê, nhưng cũng có thể là con ngõ thông giữa hay mùa hạ và thu chăng? Tâm
trạng sang thu hay tâm trạng con người đang lưu luyến đợi chờ , tiếc nuối một điều gì đó trước
ngưỡng cửa thời gian của đời người?
Như vậy tín hiệu chuyển mùa được tác giả cảm nhận bằng tất cả các giác quan: khứu giác
( hương ổi), xúc giác (gió se)  rồi đến thị giác (làn sương), tuy vậy trước những tín hiệu ban đầu
của khoảnh khắc giao mùa, cảm xúc của nhà thơ còn mơ hồ chưa rõ ràng. Cảm xúc ấy còn được
thể hiện qua từ “bỗng” diễn tả tâm trạng bất ngờ như chưa kịp chuẩn bị. Và “Hình như thu đã
về”, câu thơ như lời tự hỏi lòng mình là một câu hỏi tu từ thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Từ
“Hình như”  là sự phỏng đoán nửa tin, nửa ngờ, một tâm trạng mơ hồ, phân vân, không thật rõ
ràng. Đúng là một trạng thái cảm xúc của thời điểm chuyển giao. Thu đến nhẹ nhàng quá, mơ hồ
quá. Câu thơ gợi một chút mơ hồ về thời gian rõ nét đồng thời Hữu Thỉnh đã rất tinh tế thể hiện
được những cảm nhận về cảm xúc giao mùa của đất trời, của lòng người một cách ngất ngây và
say đắm. Phải là một con người có tâm hồn yêu thiên nhiên tinh tế, nhạy cảm mới có thể cảm
nhận được những tín hiệu ban đầu của khoảnh khắc giao mùa nhẹ nhàng, mơ hồ như vậy.
b/  Bức tranh thiên nhiên lúc giao mùa
Nếu khổ thơ thứ nhất là những cảm nhận về mùa thu còn mơ hồ, chưa rõ nét thì đến khổ thơ thứ
hai bức tranh mùa thu đã được hiện hữu rõ ràng, đậm nét qua dấu ấn đổi thay của cảnh vật.Sau
giây phút ngỡ ngàng và khe khẽ vui mừng, cảm xúc của thi sĩ tiếp tục lan tỏa, mở ra trong cái
nhìn xa hơn, rộng hơn:

Sông được lúc dềnh dàng


Chim bắt đầu vội vã
Dấu ấn bức tranh mùa thu được tác giả cảm nhận qua 3 nét vẽ cụ thể: với những hình ảnh:“dòng
sông”, “cánh chim”, “đám mây ”.  Hình ảnh dòng sông được tác giả miêu tả qua từ láy “dềnh
dàng” cùng biện pháp nhân hóa giúp người đọc hình dung trạng thái của dòng sông mùa thu khác
hẳn với mùa hạ. Nếu mùa hạ song cuồn cuộn trở nặng phù sa, dữ dội bao nhiêu thì đến mùa thu
dòng sông ấy lại trở lên hiền hòa. Nó trôi một cách lững lờ, ung dung, thong thả như đang dạo
chơi. Hình ảnh dòng sông gợi lên vẻ đẹp êm dịu của bức tranh mùa thu đã đi qua mùa giông bão.
Cái “dềnh dàng” của dòng sông không chỉ gợi ra vẻ êm dịu của bức tranh thiên nhiên mùa thu
mà còn mang đầy tâm trạng của con người như chậm lại, như trễ nải, như ngẫm ngợi nghĩ suy về
những trải nghiệm trong cuộc đời.
Đối lập với hình ảnh hiền hòa, chậm chạp, khoan thai của dòng sông là sự vội vàng của những
cánh chim. Không gian trở nên xôn xao, không có âm thanh nhưng câu thơ lại gợi được cái động.
Chim là động vật vô cùng nhạy cảm, chúng nhận ra trong gió heo may cái se lạnh của mùa thu
đang về và mùa đông đang tới. Vậy nên chúng gấp gáp làm tổ, hối hả tha mồi, tất bật chuẩn bị
cho những ngày tháng trú đông an toàn nhất hay sự vội vã của một hành trình về phương Nam
trú rét. Nhưng cái tinh tế của hồn thơ Hữu Thỉnh lại ở từ “ bắt đầu”. Không phải là những cánh
chim đang vội vã mà mới chỉ là bắt đầu. Nhận ra quy luật này chắc hẳn Hữu Thỉnh phải là người
rất yêu cuộc sống nên mới có tâm hồn nhạy cảm, mới có thể nghe được, thấy được cái vỗ cánh
bắt đầu của những cánh chim, cái cựa mình rất nhẹ của thời gian. Cái cựa mình khẽ khàng, nhẹ
nhàng của mùa thu đã từng được nhà thơ Xuân Diệu cảm nhận:

“  Không gian như có dây tơ


Bước đi sẽ đứt động hờ sẽ tan”
Ấn tượng nhất trong bức tranh mùa thu chính là hình ảnh:

Có đám mây mùa hạ


Vắt nửa mình sang thu
Đây là một hình ảnh thơ sáng tạo, một liên tưởng độc đáo, chỉ bằng mười con chữ gói gọn trong
hai câu thơ mà người đọc có thể hình dung ra một bầu trời trong veo, những đám mây trắng lững
lờ trôi, nắng mùa hạ vẫn còn vương lưng trời, hắt ánh vàng lên đám mây mỏng nhẹ. Thiên nhiên
hai mùa như đang trộn lẫn, đang giao hòa trong áng mây bay. Động từ “vắt” thể hiện thật tài tình
tạo ra nhiều liên tưởng, giúp người đọc có thể hình dung những đám mây nhẹ trôi bồng bềnh uốn
lượn như dải lụa mà ai đó tung lên trời. Cũng có thể gợi cho ta nghĩ đến cây cầu dải yếm hay cầu
Ô Thước trong truyện “ Ngưu Lang, Chức Nữ” bắc trên dải ngân hà… Biết bao liên tưởng thú vị
được gợi ra từ hình ảnh đám mây đã trở thành nhịp cầu nối liền hai dải thời gian, nối liền hai bờ
không gian và thời gian giữa hạ và thu. Bước qua dải cầu mây mềm mại ấy tức là ta đã bước qua
mùa hạ sôi động để sang với mùa thu dịu dàng, quyến rũ. Trong thơ ca Việt Nam, không ít
những vần thơ nói về đám mây trên bầu trời thu:
  “Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
(Nguyễn Khuyến – “Thu điếu”)

Hay:   “Lớp lớp mây cao đùn núi bạc”


(Huy Cận – “Tràng giang”)

Cài tài của Hữu Thỉnh là ông đã lấy cái thời gian siêu hình của sự vật để miêu tả thời gian định
tính của vũ trụ. Dòng sông, cánh chim, đám mây đều được miêu tả bằng nghệ thuật nhân hóa,
thổi hồn vào sự vật làm cho bức tranh thu trở nên hữu tình và thi vị.

c/    Những suy tư,  chiêm nghiệm của nhà thơ:


Nếu ở hai khổ thơ đầu của bài thơ, dấu hiệu mùa thu đã khá rõ ràng trong không gian  và thời
gian, sang khổ cuối vẫn theo dòng cảm xúc ấy, tác giả bộc lộ suy ngẫm của mình về con người,
về cuộc đời:
Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đẵ vơi dần cơn mưa
Bức tranh phong cảnh lúc giao mùa được tác giả gợi tả bằng những hình ảnh quen thuộc. Bằng
giác quan nhạy cảm, tinh tế,  Hữu Thỉnh đã nghe thấy, nhận thấy và đong đếm được những nắng,
những mưa, những âm vang của cuộc sống. Hàng loạt những phó từ chỉ mức độ giảm dần như
vẫn còn “vơi dần, bớt” để nói về trạng thái đặc điểm của thiên nhiên nắng, mưa, sấm khi sang
thu, bước chân mùa thu đã dần đậm nét.  Với một hồn thơ bay bổng, một trái tim nhạy cảm, một
giác quan tinh tế Hữu Thỉnh đã cảm nhận trên bầu trời thu nắng hạ vẫn còn  nhưng không còn
gay gắt, chói chang, đổ lửa như nắng mùa hạ. Mưa mùa hạ vẫn còn nhưng sang thu mật độ thưa
hơn, nhẹ hơn. Chớm thu, sấm mùa hạ còn theo bước chân mùa hạ đi vào mùa thu nhưng âm vang
giảm hẳn. Sang thu con người, vạn vật dường như đã quen dần với tiếng sấm mùa hạ nên không
còn bất ngờ và kinh hãi nữa.

Đối diện với mùa thu của đất trời, trong lòng nhà thơ dào dạt bao suy ngẫm về đời người lúc
chớm thu qua những hình ảnh giàu sức gợi:

Sấm cũng bớt bất ngờ


                          Trên hàng cây đứng tuổi
Lời thơ trước hết mang ý nghĩa tả thực: hình tượng sấm thường xuất hiện bất ngờ đi liền với
những cơn mưa rào chỉ có ở mùa hạ (sấm cuối mùa, sấm cuối hạ cũng bớt đi, ít đi lúc sang thu).
Hàng cây cổ thụ, cảnh vật thiên nhiên vào thu không còn giật mình, bất ngờ bởi tiếng sấm mùa
hạ. Nhưng không chỉ có thế, lời thơ còn mang nét nghĩa ẩn dụ (gợi nhiều liên tưởng, suy ngẫm ở
người đọc) : Sấm: những vang động bất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời. Hàng cây đứng
tuổi gợi tả những con người từng trải đã từng vượt qua những khó khăn, những thăng trầm của
cuộc đời. Qua đó, con người càng trở nên vững vàng hơn. Thời gian trôi nhanh qua cửa, cuộc đời
mỗi con người là một chứng nhân nhìn mùa thu đi qua. Bởi thế tiếc nuối vẫn mãi là cảm xúc của
con người trước thời gian. Tâm trạng ấy đã được nhà thơ gửi vào cảnh vật, gửi vào trạng thái của
thiên nhiên nhằm khắc hoạ thời khắc mà mọi vật đang chuyển mình sang thu.

Giọng thơ trầm hẳn xuống, câu thơ không đơn thuần chỉ là giọng kể, là sự cảm nhận mà còn là
sự suy nghĩ, chiêm nghiệm về đời người. Nhìn cảnh vật biến chuyển khi thu mới bắt đầu, Hữu
Thỉnh nghĩ đến cuộc đời khi đã “đứng tuổi”. Phải chăng, mùa thu đời người là sự khép lại của
những thángngày sôi nổi với những bất thường của tuổi trẻ và mở ra một mùa thu mới, một
không gian mới, yên tĩnh, trầm lắng, bình tâm, chín chắn…trước những chấn động của cuộc đời.
Vậy là “Sang thu” đâu chỉ là sự chuyển giao của đất trời mà còn là sự chuyển giao cuộc đời mỗi
con người. Hữu Thỉnh rất đỗi tinh tế, nhạy bén trong cảm nhận và liên tưởng. Chính vì vậy
những vần thơ của ông có sức lay động lòng người mãnh liệt hơn.

3/ Đánh giá
Bằng biện pháp tu từ nhân hóa, các hình ảnh thơ tự nhiên, không trau chuốt mà giàu sức gợi cảm,
thể thơ năm chữ, bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh đã thể hiện một cách đặc sắc những cảm
nhận tinh tế để tạo ra một bức tranh chuyển giao từ cuối hạ sang thu nhẹ nhàng, êm dịu, trong
sáng nên thơ, …ở vùng đông bằng Bắc Bộ để từ đó gửi gắm những suy nghĩ rất sâu sắc về con
người và cuộc đời. Đọc “Sang thu”, ta nhận ra ở Hữu Thỉnh là tình yêu tha thiết với thiên nhiên,
là một tâm hồn tinh thế và vô cùng nhạy cảm. Điều đó thật đáng để ta trân trọng.
III. Kết bài
Đã rất nhiều năm trôi qua nhưng đến nay bài thơ “ Sang thu” vẫn còn nguyên giá trị. Bài thơ
mang một chút buồn, dịu dàng và lặng lẽ, thiên nhiên và con người cùng một nhịp sang thu.
Cảnh thu và tình thu đang lồng vào nhau, thắm thiết và lưu luyến bồi hồi, vừa trang nghiêm, vừa
chững chạc. Một mùa thu thật đẹp, lặng lẽ và dịu dàng, gửi gắm vào đó là tình cảm của con
người với quê hương, đất nước. Với những giá trị ấy, Hữu Thỉnh cùng với “Sang thu” chắc chắn
sẽ sống mãi trong lòng bạn đọc muôn thế hệ.

Liên hệ mở rộng bài thơ Sang thu


Khi làm văn về bài thơ Sang thu, các bạn có thể liên hệ đến những chia sẻ của nhà thơ Hữu
Thỉnh về bài thơ:

– “Bài thơ không chỉ báo cho người đọc biết thu đã trở trong cảnh sắc thiên nhiên mà còn ngay
trong cuộc sống của con người, trong tâm hồn tôi và chắc với rất nhiều người yêu thu… “Có đám
mây mùa hạ/ Vắt nửa mình sang thu”. Hai câu thơ này không hẳn nói về hiện tượng giao mùa
như một số người hiểu và phân tích. Khi tôi viết bài thơ này tôi đã liên tưởng đến những đám
mây mùa Hạ. Đó là những đám mây tràn trọn vẹn vào mùa Thu. Thế nhưng có gì ngăn cảm xúc
của tôi lại theo chiều hướng đấy… Mây mùa Hạ thường chứa nhiều màu sắc, thậm chí đầy giông
bão tựa hồ những ước mơ khao khát của tuổi trẻ. Những ước mơ khao khát ấy thường lấy đi rất
nhiều sức lực của tuổi trẻ. Tuy nhiên giữa mơ và thực là hai thế giới luôn đối lập nhau và chẳng
phải ước mơ nào cũng trở thành hiện thực.

Ngoài ra, bạn cũng có thể liên hệ đến ý kiến của nhà giáo Chu Văn Sơn: Cảm nhận tạo vật lúc
sang thu, đa phần các thi sĩ nghiêng về vẻ biến suy một chiều của cảnh. Vì thế, thần thái của cảnh
thu thường hiện lên qua vẻ tiêu sơ. Ví như bài Thu cảm, tiếng thơ khá tinh tế của một thi sĩ
đương thời : Mướp tàn sen cũng đi tu / Lá tre đã thả một mùa heo may / Con sông không ốm mà
gầy / Mắt em chưa tối đã đầy hoàng hôn. Cảm nhận của Hữu Thỉnh khác, không đơn tuyến. Tôi
cho rằng, một trong những nét đặc sắc của bài Sang thu là có hai hệ thống tín hiệu báo mùa có vẻ
phản trái nhau, song cả hai đều thuộc về thần thái của mùa thu. Tạm đặt tên là nhịp mạnh và nhịp
nhẹ. Nhịp mạnh bao gồm những động thái, sắc thái dương tính (mạnh, nhanh, nhiều…) : hương
ổi phả – chim vội vã – vẫn còn bao nhiêu nắng… Nhịp nhẹ thì nghiêng về âm tính (êm, chậm,
ít…) : sương chùng chình, sông dềnh dàng, mưa vơi dần… Lúc bất giác nhận ra hương ổi “phả”
vào trong gió se, thì cũng là lúc bắt gặp sương “chùng chình” qua ngõ. Chính lúc sông “dềnh
dàng” là lúc chim “vội vã”. Khi nắng “còn” cũng là khi mưa “vơi”.

Cảm nhận Sang thu

“Thơ là viên kim cương lấp lánh dưới ánh mặt trời’” (Sóng Hồng). Viên kim cương ấy sẽ lấp
lánh một màu sắc riêng biệt của cuộc đời, như cách mà Hữu Thỉnh đã chạm khắc tiếng thơ của
mình vào thế giới thi ca bốn mùa nhiều dư vị. Năm 1997, người thi sĩ ấy khi đứng trước điểm
cuối cùng của tuổi trẻ đã không ngần ngại thổ lộ hết những tâm tư của lòng mình bằng những
tiếng thơ khắc khoải. Và “Sang thu” chính là như thế, với giọng thơ sâu lắng và đầy chất trữ tình,
thi phẩm dường như đã vỗ vào xúc cảm của xúc cảm của độc giả thật nhẹ nhàng. Có chăng, đó
chính là những tâm sự, hoài niệm của Hữu Thỉnh khi đứng giữa khúc ca giao mùa đầy rung động
của đất trời…

Tại sao không phải là “ Thu sang” mà là “Sang thu” ? Tất cả đều là dụng ý của tác giả cả. Với
tiêu đề “sang thu”, ta dường như cảm được sự chuyển động của sự vật, mọi thứ như có hồn hơn,
sinh động và không bị tĩnh lặng, nghệ thuật đảo ngữ như trên phải chăng ta đã bắt gặp trong câu
thơ “Cành lê trắng điểm một vài bông hoa” (Truyện Kiều) của đại thi hào Nguyễn Du. “Sang
thu” làm ta có cảm giác như mùa hạ đang chủ động chuyển mình thành một sắc trời mới, dịu
dàng, mát mẻ hơn là nàng thu mộc mạc. Đây là một cách làm tuy không mới nhưng rất riêng của
Hữu Thỉnh, hữu ý tạo nên sự chiêm nghiệm len lỏi trong lòng độc giả.

Nhật Chiêu từng tâm sự: “Thơ ca, trong bản chất của nó là mây, là một thể vô định và huyền ảo.
Và thơ ca, cũng còn là bão tố.” Và có lẽ, lúc đó cái đám mây “vô định và huyền ảo” kia bỗng
dưng ùa về lấp kín hồn thơ của Hữu Thỉnh, cũng đầy bất ngờ và hư ảo như cái hương thơm quen
thuộc từ đâu xộc thẳng vào hồn ông, để rồi thi nhân phải giật mình thảng thốt:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Trước tiên, từ “bỗng” mở đầu bài thơ như dấu hiệu báo trước cho sự xuất hiện của không gian và
thời gian. Phải chăng, nhân vật trữ tình đã cảm nhận được biết bao điều trong sự xuất hiện ấy, nó
như đã cố ý đợi sẵn người ta từ lâu, mang về một chút thân thuộc vấn vươn, len lỏi:
“Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se”

Kỳ lạ thay, tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu lại chính là hương ổi- một thứ hương
thơm mộc mạc mà lại giản dị, thân quen của trời thu phương Bắc. Thu đến trong thơ Hữu Thỉnh
một cách rất riêng, không phải là “ao thu lạnh lẽo” như Nguyễn Khuyến, không như “rặng liễu
điều hiu” và “lá mơ phai” của Xuân Diệu, lại càng khác với “hương cốm mới” của Nguyễn Đình
Thi. Ông chẳng đi theo lỗi mòn sáo rỗng của những dấu chân cũ, với tâm hồn lãn mạn ấy, thu
không chỉ đơn giản là trời xanh, là hoa cúc, là hương cốm hay nắng vàng. Thu còn là mùi hương
ổi chín nơi quê nhà mộc mạc, ấm nồng. Sớm thu khơi gợi nên bao xúc cảm nhân gian, gợi lại kí
ức tuổi thơ của những ngày xưa cũ mà ta chẳng thể quay về. Chính tác giả cũng từng tâm sự:
“Giữa đất trời mênh mang, giữa cái khoảng khắc giao mùa kì lạ thì điều khiến cho tâm hồn lay
động phải giật mình nhận ra đó chính là mùi hương ổi…Nó giống như mùi bờ bãi, mùi non trẻ…
hương ổi tự nó xộc thẳng vào miền thơ ấu thân thiết trong tâm hồn chúng ta”. Thứ hương kia
không “bay”, không “quyện” mà “phả”, là xộc thẳng vào khứu giác. Thi sĩ đã sự dụng rất đắt từ
ngữ gợi tả, chỉ một từ ấy cũng đủ gợi hương thơm như đang đặc sánh lại, ngào ngạt, đậm đặc
nồng nàn thư thành luồn trong gió, được làn gió se khô, lạnh mang đi khắp ngõ ngách của làng
quê. Các dư vị của hương ổi kia như neo đậu lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng khó phai.

Ở hai câu thơ tiếp theo, không gian được mở rộng, vờn ra ngõ với khung cảnh mang màu sắc
huyền ảo:
“Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.”

Những hàng sương nhỏ li ti giăng màn khắp nơi được tác giả nhân hóa qua từ láy “chùng chình”
gợi cảm giác như sương như đang bị thời gian níu lại, chập chừng lưu luyến chưa muốn tan vào
không gian. Từ láy ấy phải chăng chính là tâm trạng của Hữu Thỉnh, mang chút tiếc nuối, mang
chút quyến luyến lại pha thêm vài giọt bịn rịn của thi nhân khi bồi hồi nhận ra mùa hạ đã đi qua
từ lúc nào… Không gian “ngõ” mà sương theo gió đi qua ấy vừa là ngõ thực, vừa là cửa ngõ của
của thời gian, không gian giao mùa. Ông đã cảm nhận dấu hiệu của mùa thu bằng tất cả các giác
quan và sự tinh tế trong tâm hồn nhạy cảm của một nhà thơ thực thụ. Trong sự ngỡ ngàng, cả
khứu giác, xúc giác và thị giác đều đang mách bảo rằng thu đã về mà con người vẫn chưa còn
chưa dám tin, chưa dám chắc. Thành phần tình thái “hình như” tựa sự phỏng đoán nửa tin nửa
ngờ, nửa khẳng định, nửa kia lại hoài nghi, là cái ngỡ ngàng ngạc nhiên, bâng khuân xao xuyến
của thi sĩ trước khung cảnh dao động của đất trời sang thu.Nếu ở khổ thơ đầu tiên, bằng sự cảm
nhận rất riêng của tác giả, tiết trời được gợi nên từ những gì vô hình như “hương ổi” và “ gió”,
cái mờ mờ ao ảo của “sương” hay không gian “ngõ” nhỏ hẹp gần gũi thì sang khổ thơ thứ hai,
mọi vật dường như đã chân thật và hữu hình hơn rất nhiều :
“Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.”

Tới đây, cái bỡ ngỡ ban đầu đã tan biến đâu mất, nhường lại chỗ cho những rung cảm mãnh liệt
của hồn thơ. Bức trang sang thu được miêu tả ở tầm nhìn xa hơn, cao rộng hơn của bầu; dài ra và
rộng thêm của dòng sông. Hai câu thơ đầu tuy dùng cấu trúc đối nhưng lại như một nét chấm phá
vô cùng đặc trưng của sắc thu:
“Chim được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã.”

Thiên nhiên trong thơ được tác giả tinh tế nhân hóa trở nên vừa có hồn vừa có tình. Dòng sông
lúc sang thu không còn cuồn cuộn gấp gáp như ngày hạ mà bỗng trở nên thong thả dềnh dàng, lờ
lững trôi như đang còn ngẫm ngợi suy tư. Đối lập với dòng sông là những cánh chim bắt đầu vội
vã, gấp rút như đứa con sợ lỡ mất chuyến xe cuối cùng trở về nhà. Có lẽ nó đang chuẩn bị cho
cuộc hành trình bay đi tránh rét ở phương xa, hay cũng có thể nó chỉ đang vội vã quay về tổ
trước lúc những ánh mặt trời cuối cùng vỡ tan vào trong màn đêm. Phải tinh tế biết bao để Hữu
Thỉnh nhận ra được cái “được lúc” và cái “dềnh dàng” của thời gian tưởng như luôn nhịp đều
đều không thay đổi. Đại thi hào M.Gorki từng nói: “ thơ là tâm hồn”, vậy ắt hẳn hồn nhà thơ phải
luôn đong đầy cảm xúc mới có thể cho ra đời những dòng thơ sâu sắc như vậy.

Thế nhưng, đấy chưa phải là tất cả những tinh hoa của vị thi sĩ tài hoa, hai câu thơ tiếp theo mới
thật sự thể hiện những gì đẹp nhất của tác phẩm:
“Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu”
Hiện lên trước mắt ta là bức tranh thu đầy lãng mạn cà trữ tình của đất trời. Thu chỉ đang ở nơi
cửa ngõ của mùa, vì vậy đám mây chỉ vừa mới “vắt nửa mình” mà thôi. Nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc
“vắt nửa mình” khiến câu thơ thêm đậm ý vị, duyên dáng và vô cùng gợi ảnh. Có lẽ, ta cũng từng
bắt gặp ở đâu đó đám mây như vậy trong thơ của Lê Thu An:
“Mây trời một dải trắng pha
Vắt ngang sườn núi chiều thu ngập ngừng”

Mây của Lê Thu An “ vắt ngang” sườn núi- là một sự vật hữu hình và ta có thể nhìn, có thể cảm.
Thế nhưng đám mây của Hữu Thỉnh lại khác, nó tựa như một dải lụa bồng bềnh vắt nửa mình
sang thu. Trên đời này giữa hạ và thu làm gì có một “ranh giới” rạch ròi nào phân cách? Ấy vậy
mà Hữu Thỉnh lại vẽ nên ranh giới cho một thứ vô hình như thế. Ông tinh tế dùng hình ảnh của
không gian để diễn tả lại sự vận động diệu kỳ của thời gian. Đám mây kia là thật, nhưng ranh
giới của mùa là ảo. Bầu trời ấy như nhuộm nửa sắc thu để rồi đến một lúc nào đó sẽ là cả một
bầu trời trong vắt như pha lê:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt”
(Thu điếu- Nguyễn Khuyến)

Hai câu thơ ấy không chỉ hát về khúc ca mùa mà còn như chất chứa cả những suy tư, trăn trở của
chính nhà thơ. Khi viết bài thơ này, tác giả tâm sự rằng ông đã từng liên tưởng đến những đám
mây thu trọn vẹn. Thế nhưng, dường như đã có gì níu giữ tâm trí ông theo chiều hướng “một
nửa” ấy. Có lẽ mây mùa hạ đã mang theo tất cả những hoài bão, những ước mơ của tuổi trẻ, cuốn
theo bao sức sống mãnh liệt của tuổi vô ưu vô lo, tô nên một mùa hạ ngập tràn màu sắc, sặc sỡ
và nên thơ hơn bao giờ hết. Vậy mà, giữa mơ và thực luôn bị ngăn cách giữa một ranh giới vô
hình nào đó khiến chúng khó mà trọn vẹn. Sự dở dang, mất mát là một hiện thực mà ta buộc phải
học cách chấp nhận, có chăng vì vậy, đám mây chỉ có thể vắt nửa mình sang thu mà thôi. Những
đồng đội, những người lính ngoài chiến trường của ông năm ấy cũng thế, họ đã ra đi, đã “gục lên
súng mũ bỏ quên đời” (Tây Tiến), bỏ quên cả tuổi trẻ và tương lai tươi sáng phía trước. Cùng với
họ, những hoài bão kia sẽ mãi mãi nằm lại nơi chiến trường mà chẳng bao giờ có thể trở về được
nữa,tựa hồ nửa đám mây còn vắt vẻo phía bên mùa hạ, tất cả sẽ chỉ còn là hồi ức…

Có câu: “Xuân sinh, hạ trưởng, thu liễn, đông tàn.” Những biến chuyển của tạo vật tới đây đã
hóa hành những suy tư của đời người lúc khoảng khắc thu vừa chớm nở. Trong khổ thơ cuối này,
Hữu Thỉnh đã bộc lộ ra hết những trăn trở từ tận đáy lòng mình:
“Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm đã bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi.”

Cuối cùng, tới những câu thơ cuối, thu đã hiện ra rõ ràng hơn bao giờ hết, cùng với cách tác giả
lắng động lại để suy tư, để hoài niệm về cuộc đời. Vẫn là nắng đấy, nhưng đã mờ phai. Vẫn là
mưa, là sấm nhưng đã chẳng còn bất ngờ ồn ã như lúc trước. “Nắng”, “mưa”, “sấm” khi kết hợp
với các phó từ “đã”, “vẫn”, “cũng” thì mức độ đã khác, chúng lắng lại, chừng mực và ổn định
hơn những ngày hạ, không còn dữ dội, cũng chẳng còn gay gắt, nặng nề. Hạ nhạt dần, thu đậm
nét hơn. Ở hai câu thơ cuối không còn đơn thuần chỉ là miêu tả bức tranh mùa thu nữa mà đã trở
thành một triết lý sống sâu sắc Hữu Thỉnh ẩn ý đan cài vào bài thơ. Cũng như chính tác giả đã
từng tự bạch: “Có thể hiểu, hàng câu đã lớn, đã trải qua bao mùa thay lá sẽ trở nên vững vàng
hơn trước những tiếng sấm bất ngờ”.Phép nhân hóa và ẩn dụ như ẩn ý rằng tiếng sấm là những
vang động bất thường, những khó khăn, chông chênh của cuộc đời mỗi người. Khi càng trưởng
thành, càng trải nghiệm nhiều, ta lại càng trở nên bình tâm hơn khi đối mặt với nhưng cơn sấm
mà cuộc đời ban tặng, không còn bồng bột như xưa. Đến đây, người đọc như vỡ òa đi khi nhận
ra “sang thu” không chỉ có ở thời gian, ở thiên nhiên mà còn là sự “sang thu” của đời người.
Cùng nhìn lại cả bài thơ, ta thấm thía vì sao lại có sự bịn rịn, “chùng chình” lúc sang thu. Vì sao
lại có sự “dềnh dàng” mà lại “vội vã”, có lẽ khi mái tóc đã dần phai sương, ta lại càng luyến tiếc
những ngày xanh lúc trước để rồi phải càng vội vã để sống, để cống hiến và tận hưởng thời giờ ít
ỏi còn lại của cuộc đời. Ta biết rằng mình đã không còn nhiều cơ hội để dây dưa, lãng phí nữa.
Có câu nói rằng: “Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa ân hận vì những
năm tháng đã sống hoài sống phí”, cho khỏi nuối tiếc vì lỡ đã đánh mất quá nhiều thời gian của
chính mình.

Hạ đi, thu đến mang theo những cảm xúc bất chợt để rồi gieo lại trong lòng ai những bồi hồi về
một nàng thu nồng nàn êm ái. Hữu Thỉnh đã khắc họa nên bức tranh giao mùa ấy bằng ngòi bút
sắc nét mang đầy hơi thở trữ tình cùng những triết lý sâu xa. Với những dòng thở bốn chữ vỏn
vẹn, bài thơ mộc mạc một tình yêu thiên nhiên đằm thắm, về khát khao yêu đời mà tác giải mong
muốn gửi gắm cho bạn đọc cũng như gửi lại cho tuổi trẻ của chính mình đã đi qua tự thuở nào.
Tác phẩm như viên pha lê đầy góc cạnh, trải qua bao thăng trầm để trọn vẹn lung linh. “Sang
thu” chính là như thế! Sinh ra trên đời để lặng lẽ yêu thương và du dương suốt dặm đường.

You might also like