Professional Documents
Culture Documents
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN TUYÊN TRUYỀN VĂN HÓA - LỊCH
VĂN SỬ
********
Thăng Long bao gồm Hoàng thành Thăng Long và một phủ kiêm lý, là phủ Phụng Thiên, phần thị thành kề
cận kinh thành (phủ Phụng Thiên mới là phần gốc lõi của Kẻ Chợ). Đứng đầu phủ Phụng Thiên là viên
quan Phủ doãn, gọi là Phủ doãn phủ Phụng Thiên. Phủ Phụng Thiên (đến thời nhà Nguyễn thì đổi thành
phủ Hoài Đức) vào cuối thời nhà Hậu Lê tới đầu thời nhà Nguyễn gồm 2 huyện (tổng cộng 13 tổng, 239
phường, thôn, trại (đơn vị cấp làng xã)):
Huyện Thọ Xương (8 tổng: 184 phường, thôn, trại) gồm các tổng:
Tả Túc: gồm 20 phường, thôn: Phúc Lâm, Nghĩa Dũng, Mỹ Lộc, Nguyên Khiết Thượng, Nguyên
Khiết Hạ, Trừng Thanh Thượng, Sài Thúc-Trừng Thanh Trung, Ngũ Hầu-Trừng Thanh Trung,
Bề Thượng-Trừng Thanh Trung, Bề Hạ-Trừng Thanh Trung, Cựu Vệ Tả-Trừng Thanh Trung,
Ngoại Ổ-Hương Bài, Kiên Nghĩa-chợ Hà Khẩu, Tả Lâu, Bến Đá, Miếu Trung Liệt, Chợ Bến Đá,
Hàng Lược, Đông Hà, Đình Hạ-Phục Cổ, Thượng-Trừng Thanh Hạ, Tả-Trừng Thanh Hạ, Hữu-
Trừng Thanh Hạ, Hàng Kiếm-Trừng Thanh Hạ, Đồn Tây Long, Vạn Hà, Thủy cơ Vũ Xá, Thủy cơ
Đông Trạch, Thủy cơ Trúc Võng, Thủy cơ Biện Dương, Thủy cơ Tự Nhiên, Thủy cơ Lãng Hồ.
Tiền Túc: gồm 29 phường, thôn: Thuận Mỹ, Hữu Đông Môn, Tố Tịch, Tiên Thị (chợ Tiên, nay
khoảng Lý Quốc Sư-Hàng Trống-Nhà thờ Lớn), Khánh Thụy Tả, Đồng Lạc, Hàng Nồi, An Thái,
Đông Thành-An Nội, Chợ Đông Thành, Thượng-Cổ Vũ, An Nội-Cổ Vũ, Trung-Cổ Vũ, Trung Hạ-
Cổ Vũ, Thị Vật-Cổ Vũ, Thái Cực, Hàng Đàn, Hoa Nương, Kim Bát Thư Khánh Thụy Hữu, Kim
Bát Hạ, Đông Hà Kim Bát Thượng, Chùa Tháp-Báo Thiên, Chùa Báo Thiên, Xuân Hoa (nay
khoảng phố Hàng Cân), Phúc Phố (khoảng cuối phố Nhà Chung), Tô Mộc (nay khoảng phố
Hàng Khay), Chân Sơn (tức Chân Sơn Minh Cầm hay Chân Cầm, nay khoảng các phố Chân
Cầm-Hàng Gai-Lý Quốc Sư-Phủ Doãn), Chiêu Hội (tức Hội Vũ).
Hữu Túc: gồm 18 phường, thôn: Đông Các, Hàng Chè, Hàng Chài, Tả Vọng, Tư Nhất, Kho Súng,
Hậu Bi, Diên Hưng, Hà Khẩu, Đông An, Trung An, Nhiễu Thượng-Đông Tác, Nam Hoa, Hậu
Lâu, Hàng Cá, Trung Nghĩa, Hạ Hà, Dũng Hàn.
Hậu Túc: gồm 17 phường, thôn: Nghĩa Lập, Thanh Hà, Huyền Thiên, Tiền Trung, Vĩnh Trừ, Phú
Từ, Nội Tự cửa Đông Hoa, Cửa Đông Hoa, Cửa Hậu Đông Hoa, Cầu Cháy, Đồng Xuân, Vĩnh
Thái, Nhiễu Trung-Đông Tác, Đông Hà, An Phú, Đồng Thuận, Hoa Đán.
Tả Nghiêm: gồm 23 thôn, phường: (Vũ Thạch Tiểu, Vũ Thạch Hạ) (phường Vũ Thạch cổ nay thuộc
khoảng đầu các phố Quang Trung và Bà Triệu, kéo đến phố Lý Thường Kiệt), (Hồi Thuần,
Thuần Mỹ) (sau nhập thành Hồi Mỹ, nay khoảng phố Lý Thường Kiệt-Trần Hưng Đạo-xóm Hà
Hồi-phố Trần Quốc Toản), Đổi Mã (tức Hòa Mã), Giáo Phường (nay khoảng giữa phố Huế),
Hàng Bài, (Vệ Hồ Giao (tức Long Hồ), Hậu Phong Vân) (nay là Vân Hồ), Thịnh Xương (sau
nhập với Yên Ninh thành Thịnh Yên), Sài Tân (nay khoảng phố Trần Cao Vân), Cấm Chỉ Hạ
(nay khoảng phố Tô Hiến Thành), Nhiễu Hạ-Đông Tác, Phúc Lâm (nay khoảng Nguyễn Công
Trứ-Phố Huế), Phúc Lâm Tiểu (phía tây phường Phúc Lâm, nay khoảng Bà Triệu-Tuệ Tĩnh-Phố
Huế), Phục Cổ (nay khoảng đầu Nguyễn Du-Phố Huế), Đông Hạ-Phục Cổ (khoảng giữa Phố
Huế (số 133 Phố Huế)), (Thống Nhất, An Thọ (Yên Thọ)) (hợp thành thôn Yên Nhất, nay là
khoảng phố Huế-Thái Phiên), Hồng Mai (tức Bạch Mai, nay khoảng phố Bạch Mai), Quỳnh Lôi
(nay khoảng ngõ Quỳnh), Kim Hoa (tức Kim Liên), Trung Tự-Đông Tác (nay là khoảng phường
Trung Tự quận Đống Đa).
Tiền Nghiêm: gồm 30 thôn: Vĩnh Xương, An Trung Thượng, An Trung Hạ, Hoa Ngư Chợ Cửa
Nam, Lưu Truyền, Phù Mỹ, Hoa Cẩm, Tứ Mỹ, Cung Tiên, Linh Quang (nay khoảng ngõ Liên
Hoa phố Khâm Thiên), Linh Đồng (nay khoảng đầu phố Khâm Thiên-ga Hàng Cỏ), Quang Hoa,
Khâm Thiên Giám, Tương Thuận, Liên Thủy (tức Liên Trì, nay khoảng phố Liên Trì và các phố
bắc hồ Thiền Quang), Thái Giao (tức Thể Giao, nay khoảng các phố Hồ Xuân Hương-Tuệ Tĩnh-
Bà Triệu), Pháp Hoa (nay khoảng phố Trần Bình Trọng, tây hồ Thiền Quang), Hữu Lễ, Thiền
Quang (khoảng phía tây hồ Thiền Quang), Tô Tiền (nay khoảng ngõ Tô Tiền phố Khâm Thiên),
Trung Kính (nay khoảng đầu phố Khâm Thiên), Hàng Dầu, Bắc Thượng-Cổ Vũ, Bắc Hạ-Cổ Vũ,
Thượng Môn-Báo Thiên, Thượng Môn Hạ-Báo Thiên, Thương Đồng Hạ-Báo Thiên, Cửa Nam-
Đông Tác, An Tập (Yên Tập, nay khoảng phố Quán Sứ), (Nam Phụ, Nguyễn Khánh) (sau nhập
lại thành thôn Phụ Khánh, nay khoảng cuối phố Lý Thường Kiệt-Thợ Nhuộm).
Hữu Nghiêm: gồm 27 phường, thôn: An Hòa (nay khoảng phố Trần Quý Cáp), Văn Mặc, Hữu
Giám, Hậu Giám, Hữu Biên Giám, Minh Triết, Thị Trung Tiền, Hàng Gạo, Cầu Bươu, Quan Thổ
(nay khoảng phía nam phố Khâm Thiên), Ngự Sử, Huy Văn (nay khoảng ngõ Văn Chương phố
Khâm Thiên), Đỉnh Tân, Tạo Đế, Chợ Giám Hữu Biên, Hậu Bà Ngô (nay khoảng phố Nguyễn
Khuyến), Tả Bà Ngô (tức Thanh Miến, nay khoảng đầu phố Văn Miếu), Trung Tả, Ngõ Hàng Kề,
Nội Súng, Cổ Thành, Hàng Cháo Giám Hữu Biên, Phụng Thánh, Xã Đàn, Giao Trì (nay khoảng
phố Đoàn Thị Điểm), Hàng Bột, Trung Tiền (nay thuộc phần đất quận Đống Đa).
Hậu Nghiêm: gồm 20 thôn, phường: Thanh Nhàn, (Hữu Vọng, Đức Bác) (Vọng Đức), (Hàng
Hương, Hoa Viên) (Hương Viên hay Phương Viên, nay khoảng phố Lò Đúc-Trần Xuân Soạn-chợ
Hôm Đức Viên), Thanh Lãng, (Cảm Ứng, An Hội) (Cảm Hội, nay là khoảng các phố Lò Đúc-
Nguyễn Công Trứ-Cảm Hội), Hàm Châu (nay là Hàm Long), Trường Khánh (Tràng Khánh, sau
nhập với Hàm Châu thành Hàm Khánh, nay khoảng phố Lê Văn Hưu), (An Lạc, Trung Chí) (nay
là Lạc Trung), (Lương Xá, Yên Xá (An Xá)) (nay là Lương Yên), (Hàng Hương, Hoa Viên) Thọ
Lão (nay khoảng dốc Thọ Lão-Lò Đúc), Hàng Rau (tức Hương Thái, nay khoảng phố Trần Xuân
Soạn), Nhân Chiêu (khoảng đầu phố Trần Hưng Đạo-Hàn Thuyên), Hộ Quốc (nay là khoảng phố
Nguyễn Huy Tự), Ngõ Hàng Trứng (nay khoảng phố Lê Văn Hưu), Tây Hổ (tức Hành Môn, nay
khoảng phố Lê Văn Hưu) (nay thuộc phần đất các quận Hai Bà Trưng, Hoàn Kiếm).
Huyện Vĩnh Thuận (5 tổng: 55 xã, thôn, phường, trại) gồm các tổng:
Thượng: gồm 7 phường: Hòe Nhai, Thạch Khối, An Hoa, Nghi Tàm, Quảng Bá, Tây Hồ, Nhật
Chiêu (Nhật Tân).
Trung: gồm 6 phường: Bái Ân (nay thuộc phường Nghĩa Đô quận Cầu Giấy), (Trích Sài, Võng
Thị, An Thái (Yên Thái), Hồ Khẩu) (nay thuộc phường Bưởi quận Tây Hồ), Thụy Chương (Thụy
Khê). (nay thuộc phần đất các quận Cầu Giấy và Tây Hồ).
Nội: gồm 10 thôn, trại: Liễu Giai, Vĩnh Phúc, Thủ Lệ, Cống An, Đại An (Đại Yên), Ngọc Hà, Hữu
Tiệp, Giảng Võ, Vạn Bảo, Hào Nam.
Hạ: gồm 6 phường, trại: Quán Trạm, Nam Đồng, Yên Lãng (làng Láng), Khương Thượng, Công
Bộ, Thịnh Quang. (nay thuộc phần đất các quận Đống Đa,...)
Yên Thành: gồm 26 phường, thôn: Yên Thành, An Thuận, Cận Hàn, An Ninh Hạ, An Canh, An
Định, Chùa Trúc Bạch, Ngũ Xã Tràng, Tứ Chiếng Tràng, Chùa Long Châu, Hậu Khán Sơn,
Chùa Một Cột, Chùa Tăng Phúc, Thanh Ninh, Thanh Trường, Cận Tú Nam, Tiên Châu, Dụ Hậu,
Phụ Bảo, Bà Lẽ, An Viên, Quán Thánh, Khán Sơn Núi Sư, Trụ trì Trấn Vũ, An Duyên, Tân An.
Theo tiêu chí (II): Những di tích trên mặt đất và khai quật được trong lòng đất tại Khu Trung tâm
Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là minh chứng đặc sắc về quá trình giao lưu văn hóa lâu dài, là
nơi tiếp nhận nhiều ảnh hưởng văn hóa từ bên ngoài, nhiều học thuyết, tư tưởng có giá trị toàn cầu
của văn minh nhân loại, đặc biệt là Phật giáo và Nho giáo, thuyết phong thủy, mô hình vương thành
phương Đông, mô hình kiến trúc quân sự phương Tây (thành Vauban), để tạo dựng nên những nét
độc đáo, sáng tạo của một Trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của một quốc gia vùng châu thổ
sông Hồng. Kết quả giao thoa, tiếp biến văn hóa đó được biểu đạt trong tạo dựng cảnh quan, quy
hoạch các khu cung điện, trong nghệ thuật kiến trúc và nghệ thuật trang trí cung đình với diễn biến
văn hóa đa dạng qua các thời kỳ lịch sử.
Theo tiêu chí (III): Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội là minh chứng duy nhất về
truyền thống văn hóa lâu đời của người Việt ở châu thổ sông Hồng trong suốt lịch sử liên tục 13 thế
kỷ (trải từ thời tiền Thăng Long, qua thời Đinh- Tiền Lê, đến thời kỳ Thăng Long - Đông Kinh - Hà
Nội với các Vương triều Lý - Trần - Lê - Nguyễn) và vẫn được tiếp nối cho đến ngay nay. Những
tầng văn hóa khảo cổ, di tích kiến trúc và nghệ thuật của di sản phản ánh một chuỗi lịch sử nối tiếp
nhau liên tục của các Vương triều cai trị đất nước Việt Nam trên các mặt tư tưởng, chính trị, hành
chính, luật pháp, kinh tế và văn hoá trong gần một ngàn năm. Trên thế giới rất hiếm tìm thấy một di
sản thể hiện được tính liên tục dài lâu như vậy của sự phát triển chính trị, văn hoá như tại khu Trung
tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội.
Theo tiêu chí (VI): Khu Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội minh chứng rõ nét về một di
sản có liên hệ trực tiếp với nhiều sự kiện trọng đại của lịch sử của một quốc gia dân tộc vùng Đông
Nam Á trong mối quan hệ khu vực và thế giới. Di sản đề cử là bằng chứng thuyết phục về sức sống
và khả năng phục hưng của một quốc gia sau hơn mười thế kỷ bị nước ngoài đô hộ. Di sản đề cử còn
ghi đậm dấu ấn thắng lợi của một nước thuộc địa trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân,
giành độc lập dân tộc, có ảnh hưởng rộng lớn trong phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới bao
gồm hai cuộc chiến tranh giành độc lập và thống nhất của Việt Nam.
Hiện tại, Việt Nam đã có 8 di tích được UNESCO công nhận là Di sản thế giới
gồm:
Di sản thiên nhiên thế giới:
1. Vịnh Hạ Long, được công nhận năm 1994 theo tiêu chí (VII) và năm 2000 theo tiêu chí
(VIII).
2. Vườn Quốc gia Phong Nha - Kẻ Bàng, năm 2003, là di sản thiên nhiên thế giới theo tiêu
chí (VIII) và năm 2015 theo tiêu chí (IX), (X).
Khu Di tích trung tâm HTTL có thể chia thành 2 khu vực chính. Thứ nhất là khu di tích
Thành cổ Hà Nội (nơi chúng ta đang đứng). Thứ hai là Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng
Diệu (chỉ tay cho khách về hướng Nhà Quốc hội).
Tổng diện tích khu di sản là 18,3 ha, trong đó:
Khu di tích thành cổ Hà Nội có diện tích 13,8 ha.
Khu di tích khảo cổ học 18 Hoàng Diệu có diện tích 4,5 ha.
Thưa quý khách, cùng với thời gian, những kiến trúc thành lũy, những cung điện, lầu son
gác tía của kinh thành xưa đã không còn nữa, song với những công trình kiến trúc, di tích và
di vật còn lưu giữ được tại khu di tích này, chúng ta có thể hình dung được phần nào lịch sử
đầy tự hào của Thăng Long – Hà Nội xưa.
Kính thưa quý khách, chúng ta đang đứng trước sơ đồ khu di sản Trung tâm Hoàng
Thành Thăng Long - Hà Nội:
1. Khu đón tiếp
2. Đoan Môn
3. Nhà trưng bày di tích
4. Hầm chỉ huy chiến lược
5. Điện Kính Thiên
6. Nhà và hầm D67
7. Hậu Lâu
8. Khu khảo cổ 18 Hoàng Diệu
9. Bắc Môn
10.Kỳ Đài
2. Đoan Môn:
Tiếp đến quý khách sẽ tham quan Đoan Môn - công trình đồ sộ nhất trong những di tích
còn lại của Hoàng thành Thăng Long xưa. Tên gọi Đoan Môn như quý vị nhìn thấy trên
phiến đá lớn gắn phía trên vòm cổng có nghĩa là cửa chính để đi vào Cấm thành (Đoan nghĩa
là đoan chính, chỉnh yếu; Môn nghĩa là cửa). Cổng quay hướng Nam và là nơi diễn ra nhiều
nghi lễ trọng đại của triều đình.
Cổng này là cánh cổng chính cuối cùng để đi vào Cấm thành Thăng Long (xưa kia có 4 cổng). Theo
quan niệm phong thủy, Đoan Môn cũng như các công trình quan trọng bậc nhất của Cấm thành
Thăng Long xưa thì đều quay về hướng nam bởi hướng nam là hướng nam là hướng an lành, sự hưng
thịnh, trường tồn, phát triển của quốc gia. Trong dân gian ta có câu:
“Lấy vợ hiền hòa làm nhà hướng nam.”
Trong triều đình cũng có 1 câu có ý nghĩa tương tự, đó là:
“Thánh nhân nam diện nhi thính thiên hạ”
(Thiên tử phải quay mặt về hướng nam để nghe những điều nhỏ nhoi của nhân dân, để cai trị thiên
hạ)
Cổng thành như quý vị đang thấy hiện nay được xây dựng thời Lê sơ (TK 15) trên cơ sở
cổng Đoan Môn cũ thời Lý (TK 11) và được tu bổ sửa sang vào thời Nguyễn. Phía trên cửa
chính giữa tầng lầu thứ hai được đắp nổi ba chữ Hán: “Ngũ môn lâu”, nghĩa là “Lầu năm
cửa”. Bởi vậy, nhiều người vẫn gọi Đoan môn là “Ngũ môn lâu”.
Mặt bằng Đoan Môn có cấu trúc hình chữ U, chiều ngang chạy dài 46,5 mét, chiều sâu là
26,5 mét và chiều cao là 6 mét (tính cả lầu phía trên là 13m). Nhìn từ phía trước, chúng ta
thấy tầng dưới cùng của Đoan Môn có 5 cửa vòm cuốn, cân xứng gần như tuyệt đối qua “trục
thần đạo”, hay còn được gọi là “trục chính tâm” gióng thẳng từ Kỳ Đài qua Đoan Môn đến
điện Kính Thiên.
Kiến trúc cuốn vòm ở các cổng thành không chỉ mang lại những đường cong duyên dáng, mà còn có
kết cấu chịu lực cực tốt. Cho đến ngày nay, những công trình đường hầm hiện đại nhất, kỳ vĩ nhất
trên thế giới cũng vẫn sử dụng lối kiến trúc này.
Cánh cổng chính giữa rộng nhất (cao 4m và rộng 2,7m) chỉ dành riêng cho nhà vua. Bốn
cửa hai bên nhỏ hơn (cao 3,8m và rộng 2,5m) dành cho quan lại và thành viên Hoàng tộc.
Ngoài ra còn có hai cửa phụ ở hai bên dành cho binh lính và người phục vụ khi ra vào Cấm
Thành. Mỗi cổng thành đều được làm bằng gạch vồ và đá cuốn vòm, ghè đẽo hết sức công
phu và được xếp chồng khít với nhau. Các cánh cổng được dựng từ những phiến gỗ lim
nguyên khối dày gần bằng gang tay người lớn, được lắp chạy trên một hệ thống bánh xe lớn
và chắc chắn bằng gỗ có bịt thép xung quanh. Khi sửa chữa Đoan Môn vào thời Nguyễn,
người ta còn cho xây dựng thêm 2 cổng ở hai bên, đây là hai trong tám cánh cửa hành cung
Long Thiên của nhà Nguyễn.
Mặt trên cổng thành là một cái sân gạch có lan can bao quanh, trước đây có Môn Lâu
nhưng đến TK 19 đã bị phá hủy. Vì vậy, phần tầng 2 – Lầu phương đình mới được xây dựng
năm 1999 theo kiểu vọng lâu hình vuông có 2 tầng 8 mái với mái lợp ngói ta. Đây là nơi nhà
vua dùng để quan sát lễ duyệt binh và những nghi lễ quan trọng khác của triều đình.
Tầng này có diện tích tương ứng với cửa chính giữa. Do bị cải tạo làm cơ sở làm việc cho quân đội
nên kiến trúc cũ chưa thể khảo cứu được. Trên nóc tầng hai xây một phương đình nhỏ kiểu hai tầng
tám mái. Mái lợp ngói ta, hai đầu nóc đắp hai con rồng (đầu kìm), hai hồi đắp hình hổ phù; 4 góc mái
trên tạo thành đao cong.
Phía sau Đoan Môn là Long Trì (tức Sân Rồng, thời Lê gọi là Đan Trì). Đó là một không gian vô
cùng quan trọng của Cấm thành, nơi cử hành nhiều nghi lễ chính trị và tôn giáo thiêng liêng cũng
như các lễ hội do nhà vua chủ trì.
Ở mặt sau cổng Đoan Môn, chúng ta thấy có một hố khảo cổ được khai quật năm 1999
rộng 85,2 m2. Ngay ở độ sâu 1,2m đã xuất lộ một đường viền đá lát chân tường Đoan Môn,
một sân lát đá gạch vồ thời Lê (TK 15-18) rộng 24 m2 và ở độ sâu 1,9m đã xuất lộ dấu tích
một con đường lát gạch “hoa chanh” thời Trần (TK 13-14). Bên cạnh đó ta cũng thấy những
viên gạch đỏ thời Lý ở độ sâu 2m. Theo hướng Bắc-Nam, con đường được dự đoán còn kéo
dài hơn nữa và rất có thể đó là con đường đi từ Đoan Môn đến điện Kính Thiên thời Lê. Như
vậy, kết quả khảo cổ học tại Đoan Môn càng củng cố thêm giả thiết về Đoan Môn thời Lý,
Trần, Lê về cơ bản đã tọa lạc tại cùng một vị trí. Những phát hiện này cho thấy dấu tích kinh
đô qua các thời kỳ lịch sử chồng xếp lên nhau ở khu vực Trung tâm Hoàng thành.
3. Nhà trưng bày “Thăng Long – Hà Nội, lịch sử nghìn năm từ lòng đất”
Chúng ta đang đến với khu trưng bày giới thiệu chung về cổ vật được hoàn thành năm
2010 với sự hợp tác của Pháp. Đây là nơi trưng bày các hiện vật tiêu biểu được khai quật tại
Khu di tích khảo cổ 18 Hoàng Diệu. Nhà trưng bày này có tên gọi là “Thăng Long - Hà Nội,
lịch sử ngàn năm từ lòng đất”, nơi mà các hiện vật sẽ đưa chúng ta ngược dòng lịch sử tìm về
với những giá trị nổi bật của hàng ngàn năm hình thành và phát triển của mảnh đất hội tụ linh
khí quốc gia (215 hiện vật xoay quanh 3 nội dung là lịch sử, kiến trúc và đời sống hằng ngày
của 5 giai đoạn lịch sử: Đại La, Đinh – Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê).
Thưa quý khách, vào cuối năm 1009, tại kinh đô Hoa Lư (Ninh Bình), Lý Công Uẩn lên ngôi, sáng
lập vương triều Lý. Năm 1010, vào tháng 7 âm lịch, vua Lý Công Uẩn từ kinh đô Hoa Lư về thăm
quê ở làng Cổ Pháp (Đình Bảng) bên tả ngạn sông Hồng. Ông ghé thăm thành Đại La của Cao Biền
(tức vùng Hà Nội sau này) bên hữu ngạn sông Hồng. Khi thuyền ngự về đến bến sông dưới thành
Đại La, tương truyền có rồng vàng bay lên. Nhà vua quyết định dời đô về đây, chọn hai chữ "Thăng
Long" (Rồng bay) đặt tên kinh đô mới, mở đầu vận hội hưng thịnh, thái bình của đất nước Đại Việt.
Giải thích cho việc dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long, trong “Chiếu dời đô” chép trong Đại Việt sử ký
toàn thư, Lý Thái Tổ đã viết: “Thành Đại La đô cũ của Cao Vương ở giữa khu vực trời đất, được thế
rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi sông núi trước sau. Vùng này mặt đất
rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức
tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp đất Việt, đó là nơi thắng địa, là chỗ tụ quan yếu của bốn phương, đúng
là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời…”
Ngay ở gian trưng bày đầu tiên là hiện vật Đầu rồng thời Lý được làm từ đất sét cao
1,1m, nặng hơn 1 tạ dùng để trang trí trên nóc cung điện. Đầu rồng hầu như còn giữ được nét
nguyên vẹn khi được khai quật lên. Song quý khách có thể thấy một số đường nét đậm nhạt ở
đây bởi nó đã được các nhà khoa học phục chế lại. Rồng là một linh vật đặc sắc tượng trưng
cho quyền lực và vị thế độc tôn của hoàng đế. Miệng rồng ngậm viên ngọc lớn thể hiện sự
cao quý và đặc biệt trên mũi rồng có biểu tượng lá đề - một loại lá thiêng tượng trưng của
Phật giáo. Điều này cho thấy dưới thời Lý, đạo Phật đã phát triển cực thịnh và có thể coi là
quốc giáo.
Tiếp theo chúng ta sẽ cùng quan sát Bản sao tấm bản đồ Hồng Đức năm 1490 thời Lê
Thánh Tông. Kinh thành Thăng Long được xây dựng theo lối “Tam trùng thành quách” gồm
vòng ngoài cùng gọi là Đại La Thành (La Thành) – nơi dân cư sinh sống, vòng giữa là Hoàng
Thành – nơi ở và làm việc của quan lại và hoàng thân quốc thích, vòng trong cùng là Cấm
Thành - nơi ở và làm việc của vua cùng gia đình hoàng tộc. Bên cạnh là bản đồ Thành
Vauban hay Thành Hà Nội nhà Nguyễn vào TK 19.
Đây là bảng niên biểu các triều đại đã từng ở đây mà khi chúng ta vào trong phòng trưng
bày sẽ được chiêm ngưỡng các hiện vật được tìm thấy theo từng thời kỳ.
Từ bảng niên biểu này chúng ta có thể thấy từ thời Đại La thế kỷ VII-IX đã có những
dấu tích ở đây, điều này cho thấy chúng ta có thể tự hào di tích Hoàng Thành Thăng Long có
bề dày lịch sử ít nhất là 1200 năm, gần tương đương với cố đô Na-ra ở Nhật Bản (1300 năm).
Dấu ấn của mỗi thời kỳ lịch sử đều tìm thấy ở khu di tích Hoàng thành Thăng Long qua
số lượng di vật đồ sộ, cho thấy vị trí trung tâm của khu di tích và phản ánh lịch sử lâu dài của
Kinh đô Thăng Long. Bên cạnh những dấu tích kiến trúc đan xen, chồng xếp lên nhau qua
nhiều thời kỳ lịch sử là hàng triệu hiện vật được tìm thấy trong lòng đất huyền bí. Nhiều hơn
cả là những di vật vật liệu trang trí kiến trúc cung đình cùng các đồ dùng của Hoàng cung
xưa kia, minh chứng cho sự phát triển của kinh đô Thăng Long, kinh đô của quốc gia Đại
Việt từ thế kỷ 11 đến thế kỷ 18.
Những hiện vật đặc trưng của từng thời kỳ hoặc là những dấu tích khảo cổ học đan xen, chồng xếp
lên nhau. Tại đây, qua những biến thiên của lịch sử thì kinh đô vàng son gấm vóc ko còn nhưng còn
lại đây những dấu tích để c/m sự tồn tại và phát triển 1000 năm kinh đô Thăng Long của chúng ta.
Thăng Long Hà Nội đô thành
Nước non ai vẽ nên tranh họa đồ
Cố đô rồi lại tân đô
Nghìn năm văn vật bây giờ là đây
Các căn phòng tiếp theo sẽ là nơi trưng bày cổ vật được sắp xếp lần lượt theo từng thời kỳ
lịch sử.
Thời Đại La (thế kỷ VII-IX)
Thành Đại La được xây dựng vào năm 866 để làm lị sở của An Nam đô hộ phủ tại đây.
Các di vật của thời Đại La được tìm thấy ở khu di tích vô cùng phong phú, cho thấy đây là vị
trí trung tâm, trụ sở của An Nam đô hộ phủ, thuộc Đường, khẳng định kinh thành Thăng
Long được xây dựng trên cơ sở thành Đại La của tiết độ sứ Cao Biền.
Các vật liệu kiến trúc được tìm thấy ở nơi đây là các loại gạch ngói hay tương linh thú
đều có màu xám đen ntn: ngói âm dương trang trí họa tiết mặt linh thú (thể hiện sức mạnh
thời kì này đồng thời cũng mong muốn canh giữ sự bình yên cho ngôi nhà, xua đuổi tà
ma), mặt hề, hoa sen, loại gạch vuông dùng để lát nền cũng được tìm thấy, có trang trí
hoa văn sinh động như viên gạch lát nền có hình cá sấu bơi trong sóng nước. Đặc biệt
tại khu di sản Hoàng Thành Thăng Long đã tìm thấy nhiều viên gạch có chữ Hán
“Giang Tây quân” - phiên hiệu của một trong những đội quân do vua nhà Đường cử
sang phục vụ bộ máy cai trị An Nam đô hộ phủ.
Đồ gốm sứ nước ngoài khá phong phú như: tượng sư tử của lò gốm Tây Nhôn (Quảng
Đông – TQ), vò gốm men xanh của lò gốm Trường Sa (Hồ Nam – Trung Quốc) thời Đường
thế kỷ 8-9. Đặc biệt là các mảnh gốm men xanh lam vùng hồi giáo Tây Á (Islam),…
Các di vật thời Đại La phản ánh sự giao thoa và tiếp biến văn hóa Việt - Hán, đồng thời
phản ánh nhiều nét văn hóa đặc sắc của người Việt trong thời kỳ chống Bắc thuộc.
Mặc dù các công trình kiến trúc thời Lê đã sụp đổ hoàn toàn, chỉ còn lại những phế tích nhưng đã tìm
thấy một khối lượng đồ sộ các loại hình vật liệu kiến trúc, đặc biệt là các vật liệu cấu thành bộ mái
các công trình.
Vật liệu cấu thành bộ mái kiến trúc chính là những viên ngói cong (ngói âm dương), ngói phẳng
(ngói mũi nhọn) và những phù điêu trang trí kiến trúc. Ở những vị trí khác nhau trên bộ mái kiến trúc
có những loại ngói lợp phù hợp như ngói lợp phần thân mái, lợp phần diềm mái.
Ngói ống dáng thuôn dài, tròn đều, mặt cắt ngang hình nửa ống tròn. Thân được tạo bằng kỹ thuật
dải cuộn kết hợp bàn xoay, thân dày đều, mặt trên làm nhẵn hoặc có dấu thừng, mặt dưới có dấu vải
rất rõ. Phần đuôi và thân được tạo liền khối. Đuôi được tạo bằng cách cắt bớt độ dày thân. Những
viên ngói diềm mái lợp ở vị trí đầu tiên trong hàng, có phần đầu ngói hình tròn, trong lòng đầu ngói
trang trí hoa văn với các chủ đề chính là hoa cúc và hình rồng.
Thời Lê có một loại hình ngói ống rất đặc biệt, đây là những viên ngói ống có men xanh hoặc men
vàng, hai viên ngói ghép lại với nhau sẽ thành hình một con rồng nằm ngẩng cao đầu. Viên thứ nhất
có phần đầu ngói hình tròn, trang trí hình con rồng cuộn tròn, đặc trưng của rồng thời Lê sơ. Lưng
ngói tiếp giáp phần đầu ngói có hình đầu con rồng ngẩng cao, mắt mũi, mồm, bờm được khắc nét rất
sinh động. Lưng ngói tiếp giáp phần đuôi thường có 1 vây. Toàn bộ phần lưng được trang trí tạo vẩy.
Viên thứ hai phần lưng ngói có 2 vây, toàn bộ phần lưng được trang trí tạo vẩy, đuôi ngói được đắp
thêm, đuôi ngắn và hơi cong.
Ngói lòng máng hình dáng chữ nhật, mặt cắt ngang khum cong phần đuôi rộng hơn phần đầu, làm
bằng hai kỹ thuật dải cuộn kết hợp khuôn trên bàn xoay và đắp tảng đất trên khuôn kết hợp bàn đập,
trong lòng thường có dấu vải, đây là những dấu vết lót khuôn. Thân ngói dày không đều, phần đầu
dày và mỏng dần về phần đuôi. Những viên ngói lòng máng lợp diềm mái (còn gọi là ngói trích thủy
hay ngói yếm). Phần yếm ngói hình lá đề cách điệu có trang trí hoa văn dây lá cuốn, hình rồng, hoa
mai, hoa cúc (cả bông hoặc nửa bông).
Vật liệu lợp trên bộ mái kiến trúc thời Lê phong phú và đa dạng. Chất liệu ngói thời Lê thường được
làm rất kỹ, xương mịn. Loại không men thường có màu xám từ các các độ đậm nhạt khác nhau, ngói
men thường được làm từ đất sét có pha cao lanh, xương mịn màu trắng hoặc đỏ, độ thiêu kết giữa
men và xương khá cao. Ngói được nung ở nhiệt độ cao nên tạo ra độ cứng tốt, độ hút ẩm thấp, chịu
được mưa nắng đảm bảo cho độ bền của các công trình kiến trúc.
Các loại hình ngói đều được làm bằng khuôn gỗ, tạo dáng trên khuôn định hình. Phần đầu ngói hoa
văn trang trí được tạo bằng những khuôn khắc chìm, in vào phần đầu viên ngói khi còn ướt, sau khi
nung tạo ra các đầu ngói trang trí các mô típ nổi. Các loại hình ngói ống, ngói lòng máng lợp diềm
mái thường được tạo bằng kỹ thuật ghép nối. Phần thân ngói và phần đầu ngói, yếm ngói được làm
riêng lẻ sau đó gắn ghép vào với nhau. Phần tiếp giáp này được đắp thêm đất sét và được miết kỹ để
kết dính hai phần lại với nhau.
Ngói ống lợp diềm mái thời Lê đều gắn thêm đầu ngói, trong lòng đầu ngói có trang trí, họa tiết trang
trí giữa các thời kỳ cũng có nhiều nét khác biệt rất lớn, ngói ống thời Lê không còn phong cách gắn
lá đề trên lưng ngói như ngói ống lợp diềm mái thời Lý – Trần.
Hoa văn trang trí trên đầu ngói thời Lê có hai đề tài chính là hoa cúc và hình rồng. Hình rồng được
trang trí trong tư thế cuộn tròn, đầu hướng vào tâm, hoa cúc được thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau,
tạo nên sự đa dạng về họa tiết. Rồng thời Lê sơ có phần thân hơi mập, phủ vảy đơn, lượn theo chiều
từ phải sang trái, thân rồng uốn khúc những khúc uốn rất doãng ôm trọn đầu rồng ở giữa. Đầu rồng
ngẩng cao, hướng sang phía bên trái. Các chi tiết cấu trúc đầu rồng giản lược. Tư thế lượn của rồng
thời Lê khác rồng thời Lý – Trần. Thân rồng thời Lý – Trần uốn khúc rất đều, khúc uốn rất cong
dạng “thất trí’ và lượn thành hình tròn. Hình tượng rồng từ thời Lý – Trần đến thời Lê không chỉ
được sử dụng như một họa tiết trang trí mà nó được sử dụng với những quy định nghiêm ngặt, theo
đó chúng ta biết được những hình tượng rồng năm móng chỉ được trang trí trên những gì thuộc về
Vua.
Trong số các di vật khảo cổ tìm thấy ở khu khảo cổ Hoàng thành Thăng Long có cả những bao nung,
các loại dụng cụ sản xuất gốm và dấu vết lò nung gốm cùng với rất nhiều phế phẩm gốm sứ là những
mảnh vỡ, những sản phẩm bị méo, lỗi hoặc bị quá lửa… Sự khám phá khảo cổ này đã góp phần
chứng minh rằng, ngay từ thời xa xưa, trình độ tay nghề của những người thợ gốm sứ đất Thăng
Long đã đạt đến mức điêu luyện, có thể sản xuất ra những sản phẩm gốm sứ có chất lượng tuyệt hảo,
màu sắc và đường nét trang trí tinh xảo không kém hàng gốm sứ cao cấp thời Tống. Nói cách khác,
đó chính là minh chứng cho thấy, người Việt ta có thể tự chế tác được những sản phẩm cao cấp chỉ
dùng cho nhà vua và hoàng cung, hoàn toàn không giống như cách nghĩ và lập luận của nhiều người
trước đó cho rằng toàn bộ gốm sứ cao cấp dành cho nhà vua và hoàng cung thuở xưa đều phải nhập
khẩu từ nước ngoài.
Trong số những đồ gốm thể hiện “đẳng cấp” của thợ gốm trong các “lò quan” của đất Thăng Long
xưa, nổi bật là loại gốm xương mỏng. Với những vật dụng là đồ gốm xương mỏng, người thưởng
ngoạn dễ có cảm giác choáng ngợp bởi sự tinh xảo không thể tưởng tượng của những người thợ gốm
Thăng Long cách nay nhiều thế kỷ. Ở những vật dụng này, xương gốm thậm chí chỉ mỏng như một
chiếc vỏ trứng, ánh sáng có thể xuyên qua dễ dàng. Tuy mỏng như vậy nhưng thành trong của những
vật dụng này vẫn được in nổi hình đôi rồng chân có 5 móng, ở giữa đáy in nổi chữ Quan. Theo các
chuyên gia về gốm sứ, loại gốm xương mỏng này có men phủ kín đáy và mép vành chân đế. Chân đế
được tạo cũng rất mỏng và mép vành chân đế vê tròn, khác với các loại gốm xương mỏng ở các nơi
khác thường được cắt vát và cạo men ở mép vành chân đế.
Các loại đồ gốm này đều có chất lượng cực kỳ cao, không chỉ bởi chất lượng tuyệt đỉnh của gốm, mà
còn bởi cả sự trang trí cầu kỳ, tinh xảo và hết sức trang nhã. Những nét vẽ trang trí đều rất mảnh, nhỏ
thể hiện tay nghề đã đạt đến mức thượng thừa của những người thợ gốm Thăng Long thời bấy giờ.
Không những thế, người ta còn thấy cả những hình vẽ trang trí được bài trí bằng vàng thật trên gốm.
Đây là kỹ thuật sản xuất gốm ở đẳng cấp cao, trên thế giới bấy giờ hiếm có nước nào làm được.
Phát hiện quan trọng, phản ánh đời sống cao cấp của Hoàng cung Thăng Long thời Lê là
những sưu tập đồ gốm sứ được sản xuất tại lò Thăng Long. Sự hoàn hảo và tinh mỹ thể hiện
qua bát “thấu quang”. Chiếc bát này chỉ dày 0.6mm, đáy bát được khắc chữ “Quan” và khi
chiếu đèn vào bát ta có thể nhìn thấy 2 con rồng khắc chìm trong bát hiện lên. Đây là đồ ngự
dụng chỉ dành riêng cho vua. Các nhà khoa học đã rất cố gắng để làm lại chiếc bát này song
vẫn không được do kỹ thuật này đã bị thất truyền.
Thời Mạc
Sau khoảng một thế kỷ phát triển hưng thịnh, thời Lê Sơ chấm dứt vào năm 1567 khi đại
thần Mạc Đăng Dung lên ngôi, lập nên triều Mạc, đóng đô ở Cao Bằng.
Mặc dù không có tư liệu nào nói đến việc nhà Mạc xây dựng cung điện trong Hoàng
Thành Thăng Long nhưng tại đây đã tìm thấy các loại ngói âm dương lợp diềm mái trang trí
rồng, các loại gạch hộp bằng đất nung có kích thước lớn trang trí nổi hình rồng hay được phủ
men vàng rất đẹp. Bên cạnh đó, khu di tích cũng tìm thấy một số đồ gốm ngự dụng của vua
Mạc trang trí rồng và đồ gốm cao cấp của vương hậu trang trí phượng.
Lê Trung Hưng
Đây là thời kì lịch sử đặc biệt của Việt Nam. Đất nước bắt đầu hình thành nạn cát cứ
Nam - Bắc Triều, rồi sau đó là Đàng trong - Đàng ngoài với một vua hai chúa, trong đó
quyền lực tập trung chủ yếu ở nhà chúa (chúa Trịnh và chúa Nguyễn), vua Lê chỉ là hư vị.
Tại khu vực nội thành vừa có cung điện của vua Lê, vừa có phủ chúa Trịnh (khu vực gần hồ
Hoàn Kiếm ngày nay).
Khác với thời Mạc, vật liệu kiến trúc thời Lê Trung Hưng rất phong phú, đa dạng, có rất
nhiều loại: gạch, ngói, chân tảng, thềm bậc, tượng linh thú…, nhiều và phổ biến là các loại
gạch và ngói. Đáng lưu ý là gạch, ngói thời kỳ này thường không được tráng men như thời
Lê sơ mà chủ yếu là đất nung, được làm bằng hai loại đất: đất sét đỏ và đất sét xám. Trong
đó, loại được làm bằng đất sét màu xám phổ biến hơn và về màu sắc nó khá gần gũi với màu
của vật liệu kiến trúc thời Đại La. Tiêu biểu là các loại ngói mũi lá, đầu trang trí văn như ý và
văn kỷ hà.
Đồ gốm sứ cũng rất phong phú, các sản phẩm gốm thời kì này chủ yếu được tìm thấy từ
Hải Dương, Bắc Ninh và Bát Tràng, tiêu biểu có ấm sành vai khắc hình lá, bát gốm hoa lam,
vẽ chấm dải theo lối đề thơ chữ hán. Đặc biệt là tượng người phụ nữ gốm men trắng thời Lê
Trung Hưng, ngói mũi lá đầu trang trí văn kỷ hà và đầu trang trí văn như ý, bình vôi gốm
men trắng và xanh.
Thời Nguyễn
Từ năm 1788, khi Vua Quang Trung đóng đô ở Phú Xuân – Huế và sau đó nhà Nguyễn
(1802 – 1945) cũng định đô tại đây thì thành Thăng Long trở thành nơi hành cung Long
Thiên nên ở đây không có nhiều những hiện vật của thời kì này.
Các đồ gốm thời Nguyễn được tìm thấy chủ yếu là gốm hoa lam, gốm men trắng ngả
vàng và gốm men nâu. Trong đó, gốm Bát Tràng tìm thấy khá nhiều, chủ yếu là các loại âu,
liễn có nắp, bình vôi, các loại chén nhỏ và các loại bát, đĩa lòng rộng vẽ cành trúc, khóm trúc
hay hoa cúc. Tiêu biểu nhất trong gian phòng này là bản đồ Thành Hà Nội thời Nguyễn về
khoảng cuối thế kỉ 19, lúc bấy giờ Thành theo cấu trúc vô -băng, có chu vi là 4km.
Phía trên chúng ta thấy một bức ảnh rất đáng quý, chụp lại một phần hành cung Long
Thiên thời nhà Nguyễn TK 19.
Ngoài ra, chúng ta có thể quan sát súng thần công (có thể giới thiệu dòng chữ trên súng
là “Tứ đại súng”, tức là đây chỉ là một trong bốn khẩu súng thần cung được sử dụng tại thành
Hà Nội thời Nguyễn).
Như vậy, bên cạnh những di tích kiến trúc, di tích cách mạng và di tích khảo cổ mà quý
vị đã và sẽ tiếp tục khám phá trong chuyến tham quan này, em hy vọng mỗi hiện vật của Nhà
trưng bày sẽ là một minh chứng sống động cho những giá trị trường tồn của mảnh đất kinh
kỳ, nơi đại diện cho chiều dài lịch sử suốt một thiên niên kỷ của quốc gia Đại Việt, nhà nước
quân chủ hùng mạnh trong khu vực Đông Nam Á.
4. Hầm chỉ huy tác chiến
Hầm chỉ huy tác chiến có kết cấu như một công sự nửa nổi nửa chìm nên quý vị vẫn có
thể nhìn thấy phần nóc hầm nhô lên bằng bê tông nguyên khối với ba lớp có độ dày khoảng
1,5 mét, tường dày 40 cm. Cấu tạo của nắp hầm có thể chịu được bom tấn, tên lửa và phòng
được bom nguyên tử, bom hóa học và tên lửa không đối đất. Toàn bộ công trình này sử dụng
tới 1000 m3 bê tông.
Khi đi xuống hầm, quý vị sẽ thấy cửa hầm có cấu tạo hai lớp: lớp ngoài là cửa nặng
chống được sóng áp lực nguyên tử, lớp trong là cửa nhẹ rất kín chống được tia phóng xạ và
hơi độc. Với tổng diện tích 64 m2, hầm được chia thành ba phòng. Sau khi đi hết cầu thang
xuống hầm, quý vị sẽ bắt gặp phòng giao ban tác chiến là nơi làm việc của trực ban trưởng có
nhiệm vụ tổng hợp tình hình báo cáo với cấp trên và nhận mệnh lệnh. Gần bàn làm việc của
trực ban trưởng có một máy điện thoại dành riêng để trả lời các cuộc gọi của Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Tiếp theo là phòng trực ban tác chiến, nơi kíp trực ban của Cục Tác chiến - Bộ Tổng
tham mưu làm việc liên tục 24/24h. Trong phòng này có 4 buồng nhỏ đặt các máy điện thoại
để liên lạc trực tiếp với các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước và Quân đội cũng
như với từng quân, binh chủng, đặc biệt là Quân chủng Phòng không - Không quân. Bên
cạnh đó còn có một bảng tiêu đề tình huống trên không vẽ Sơ đồ miền Bắc. Đặc biệt trên
chiếc bàn giữa phòng có một cây bút chì hai đầu xanh và đỏ để các tiêu đồ viên thể hiện trên
tiêu đồ các đường bay của máy bay địch màu xanh và đường bay của máy bay ta màu đỏ.
Khi quan sát kỹ trên tường, quý vị còn thấy một nút ấn báo động phòng không Hà Nội
nối liền với còi điện gắn trên nóc Hội trường Ba Đình và một loa truyền thanh hữu tuyến thu
tiếng từ Vọng quan sát bằng mắt đặt trên đỉnh Cột cờ Hà Nội .
Phòng cuối cùng là nơi đặt các trang thiết bị và động cơ đảm bảo hệ thống thông hơi, lọc
độc, lọc bụi và điều hòa nhiệt độ bằng quạt thổi hơi nước lạnh.
Được xây dựng từ cuối năm 1964 đầu năm 1965, Hầm chỉ huy tác chiến đã gắn liền với
hàng loạt sự kiện và chiến dịch lịch sử trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Trong số
đó phải kể đến chiến dịch Điện Biên Phủ trên không trận mở màn vào đêm 18/12/1972 dưới
sự chỉ đạo trực tiếp của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp và Thượng tướng Tổng
Tham mưu trưởng Văn Tiến Dũng.
Ngay từ 19h30 tối 18/12, những đường chì xanh đầu tiên của các tiêu đồ viên đã bắt đầu
thể hiện đường bay của các tốp B-52 từ phía Nam đang bám theo đất Lào hướng về Hà Nội.
Tất cả các đơn vị tên lửa và pháo phòng không bảo vệ Thủ đô đều bình tĩnh chờ mệnh lệnh
chiến đấu và đến 20h30, chiếc B52 đầu tiên đã bốc cháy trên bầu trời Hà Nội. Ngay trong
đêm đầu tiên của chiến dịch, quân và dân Hà Nội đã bắn rơi 7 máy bay, trong đó có 3 chiếc
B-52 .
Ngoài chiến dịch lịch sử 12 ngày đêm đánh bại cuộc tập kích chiến lược bằng máy bay
B52 của Mỹ, Hầm chỉ huy tác chiến cũng là Sở chỉ huy thông tin của tất cả các chiến dịch lớn
kể từ cuộc Tổng tấn công Tết Mậu Thân 1968 cho đến Chiến dịch Hồ Chí Minh tháng 4/1975
giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cùng với các công trình khác như hầm
D67 của Quân uỷ Trung ương - Bộ Tổng Tư lệnh, Hầm C52 Cục Quân báo, Hầm chỉ huy tác
chiến Bộ Tổng Tham mưu nằm trong cụm công trình quốc phòng (1965 - 1975) được nhận
giải thưởng Hồ Chí Minh năm 2005.
Đây là di tích trung tâm, trong tổng thể các di tích của khu Trung tâm Hoàng thành
Thăng Long – Hà Nội. Điện Kính Thiên – cung điện quan trọng bậc nhất, nơi cử hành các
nghi lễ long trọng nhất của triều đình, nơi đón tiếp sứ giả nước ngoài và là nơi thiết triều bàn
những việc quốc gia đại sự.
Theo “Đại Việt Sử ký toàn thư”, điện Kính Thiên được xây dựng năm 1428 đời Vua Lê
Thái Tổ và hoàn thiện vào đời Vua Lê Thánh Tông. Điện Kính Thiên được xây dựng trên núi
Nùng (núi Long Đỗ - “rốn rồng”), ngay trên nền cũ của cung Càn Nguyên – Thiên An thời
Lý, Trần. Lấy Càn Nguyên đặt tên cho điện cơi trầu, Lý Thái Tổ đã chọn đúng trung tâm của
trời đất đặt ngai vàng để trị nước. Sau các vua nhà Lý, các vua nhà Trần, nhà Lê đã cho xây
dựng hệ thống thành lũy tại đây. Khu vực quan trọng là Cấm Thành (hay Long Thành, Long
Phượng Thành) trong thành Thăng Long thời Lý – Trần – Lê. Trung tâm là điện Càn
Nguyên, Thiên An thời Lý – Trần, điện Kính Thiên thời Lê. Đến thời Nguyễn, năm 1805 khi
kinh đô được chuyển vào Huế, điện Kính Thiên mới mất đi vai trò thiết triều, và được đổi
thành hành cung Long Thiên nơi các vua quan nhà Nguyễn tuần du ra Bắc và nhận sắc phong
của nhà Thanh. Tên Thành cổ Hà Nội xuất hiện từ năm 1831, khi vua Minh Mạng thực hiện
cuộc cải cách hành chính lớn, thành lập các tỉnh trên cả nước, trong đó có tỉnh Hà Nội, Thành
Hà Nội là trụ sở của tỉnh Hà Nội.
Thời Pháp thuộc, vào cuối thế kỷ XIX, sau khi đánh chiếm thành Hà Nội lần 2 năm
1882, người Pháp đã sai phá tất cả cửa thành, bạt tường và điện Kính Thiên bị sửa thành lô
cốt. Năm 1886, người Pháp đã phá hành cung Kính Thiên, cho xây dựng nhà con rồng gồm 2
tầng 7 phòng. Tòa nhà trở thành sở chỉ huy pháo binh Pháp (chỉ tay cho khách thấy).
Từ năm 1954, khi bộ đội ta tiếp quản giải phóng thủ đô thì toàn bộ khu vực này trở thành
khu A của Bộ quốc phòng được bảo vệ nghiêm ngặt. Tòa nhà con rồng chính là tổng hành
dinh của QĐNDVN. Năm 2004, Bộ Quốc phòng bàn giao lại một phần diện tích khu vực
trung tâm (trục chính tâm) Thành cổ Thăng Long – Hà Nội cho UBND thành phố Hà Nội
quản lý.
Phần quan trọng nhất của điện Kính Thiên còn tồn tại cho đến ngày nay là bậc thềm bằng
đá đi lên điện có lan can chạm đôi rồng nên được gọi là Thềm rồng. Thềm rồng được vua Lê
Thánh Tông cho xây dựng năm 1467, có 9 bậc bằng đá xanh, dài 57m, rộng 41,1m, cao 2,3m
tạo thành 3 lối đi. Mỗi bậc cao 20cm, rộng 40cm và dài 13,6 mét, được chia thành ba lối lên
xuống: lối chính giữa chỉ dành cho nhà vua, còn hai bên dành cho quần thần (tả văn, hữu võ).
Đôi rồng ở giữa được tạo tác bằng đá xanh nguyên khối, chiều dài 5,3 mét, uốn bảy khúc
và chân có 5 móng, tượng trưng cho quyền lực của các bậc đế vương. Đầu rồng to nhô cao,
mắt tròn lồi, sừng dài có nhánh, bờm lượn ra sau. Thân rồng uốn lượn mềm mại thành nhiều
vòng cung, nhỏ dần về phía nền điện, trên lưng có đường vây dài nhấp nhô như vân mây, tia
lửa. Hai bên là đôi rồng cách điệu vân mây biểu tượng cho vũ trụ và trời đất.
Phía sau nền điện này, còn một thềm rồng khác với quy mô nhỏ hơn được tạo tác khoảng
đầu thế kỷ thứ 17 (thời Lê Trung Hưng) và chỉ có một lối lên xuống với 7 bậc. Thân rồng chỉ
dài 3,4 mét nhưng cũng được tạo tác rất tỉ mỉ, miệng ngậm ngọc và chân cũng có 5 móng như
đội rồng phía trước điện. Hai bên lan can trang trí hoa sen, sóng nước, đao, lửa, vân mây,…
Nền và thềm bậc điện là di tích ít ỏi trong kiến trúc hoàng cung thời Lê còn sót lại đến
ngày nay, phần nào phản ánh được quy mô hoành tráng của điện Kính Thiên xưa.
Hiện nay, di tích nền Điện Kính Thiên và bậc thềm Rồng được xem là một vị trí quan
trọng về mặt tâm linh nên bên trong nhà Con Rồng hiện đại gian thờ 52 vị Vua thuộc bốn
triều đại Lý, Trần, Lê, Mạc. Và cũng chính không gian nơi này đã trở thành một di tích “kép”
cho cả hai thời đại: Điện Kính Thiên của Hoàng thành Thăng Long xưa và Bộ Tổng Chỉ huy
Quân đội nhân dân Việt Nam - di tích lịch sử quan trọng của lịch sử hiện đại Việt Nam.
Đêm 18 rạng sáng ngày 19/12/1972, tại phòng làm việc của mình trong D67, Đại tướng Võ Nguyên
Giáp trực tiếp nhận được điện báo về 2 chiếc B52 đầu tiên bị bắn rơi trên bầu trời Hà Nội. Chiếc
đầu tiên bị bắn rơi vào 8 giờ 20 phút tối 18/12, chiếc thứ hai bị hạ vào 4 giờ 39 phút sáng 19/12, cả
2 đều rơi tại chỗ.
Ngày 30/9/1974, Bộ Chính trị và Quân ủy trung ương tổ chức họp, nhất trí duyệt kế hoạch chiến
lược cơ bản dự thảo lần thứ bảy do Bộ tổng tham mưu chuẩn bị. Hội nghị nhấn mạnh yêu cầu phải
có kế hoạch tạo thời cơ và đón thời cơ. Trong bất kỳ tình huống nào cũng không được để lỡ thời cơ
khi thời cơ chiến lược xuất hiện. “Nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải
phóng miền nam trong năm 1975.” Tây Nguyên được chọn làm chiến trường chủ yếu trong cuộc
tổng tiến công lớn và rộng khắp năm 1975.
Ngày 18/12/1974, hội nghị Bộ chính trị mở rộng được khai mạc tại sở chỉ huy – nhà D67 để bàn kế
hoạch và hạ quyết tâm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước. Cuộc họp bế mạc ngày 8/1/1975
và đưa ra nghị quyết : “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ chúng ta có
điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để
hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Miền Nam, tiến tới hòa bình thống nhất tổ
quốc”. Bộ Chính trị hạ quyết tâm: “ Động viên nỗ lực lớn nhất của toàn đảng, toàn quân và toàn
dân ở cả hai miền trong thời gian 1975- 1976, đẩy mạnh đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị,
kết hợp với đấu tranh ngoại giao, làm thay đổi nhanh chóng và toàn diện so sánh lực lượng trên
chiến trường Miền Nam theo hướng có lợi cho ta, tiến hành rất khẩn trương và hoàn thành công tác
chuẩn bị mọi mặt, tạo điều kiện chín muồi, tiến hành tổng công kích, tổng khởi nghĩa, tiêu diệt và
làm tan rã ngụy quân, đánh đổ ngụy quyền từ trung ương đến địa phương, giành chính quyền về tay
nhân dân, giải phóng Miền Nam.”
Sáng 31/3/1975 Bộ Chính trị trung ương Đảng họp mở rộng. Đây là cuộc họp lịch sử bàn về đòn
chiến lược thứ ba, đòn cuối cùng của cuộc tổng tiến công và nổi dậy. Bộ Chính trị nhận định: “Cách
mạng nước ta đang phát triển sôi nổi nhất với nhịp độ một ngày bằng 20 năm. Vì vậy bộ chính trị
quyết định, nắm vững thời cơ chiến lược với tư tưởng chỉ đạo thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng,
có quyết tâm lớn thực hiện tổng công kích, tổng khởi nghĩa trong thời gian sớm nhất, tốt nhất là
trong tháng tư, không thể chậm”.
Ngày 7/4/1975, Đại tướng Võ Nguyên Giáp gửi mệnh lệnh đến toàn quân: “Thần tốc, thần tốc hơn
nữa, táo bạo, táo bạo hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút xốc tới mặt trận, giải phóng miền Nam,
quyết chiến và toàn thắng”.
Từ đêm 29/4 đến trưa ngày 30/4, tại trụ sở D67, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương liên tục liên
lạc và chỉ đạo Bộ Tư lệnh Chiến dịch Hồ Chí Minh. Khoảng 12 giờ kém trưa ngày 30/4, đài thu
thanh tại trụ sở tiếp nhận thông tin đầu hàng của chính quyền Sài Gòn – cuộc kháng chiến chống Mỹ
toàn thắng.
Nhà D67 được chia thành 4 phòng, trong đó rộng nhất là Phòng họp của Bộ Chính trị và
Quân ủy Trung ương với diện tích 76m2. Bên cạnh là phòng nghỉ giải lao (rộng 37 m²). Căn
phòng nhỏ phía Đông là nơi làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp (rộng 35m²), Căn
phòng nhỏ phía Tây là nơi làm việc của đại tướng Văn Tiến Dũng (35m²). Từ nhà D67 có 2
cầu thang nối thẳng xuồng hầm D67 (còn gọi là hầm Quân ủy Trung Ương).
Phòng họp chính của Bộ chính trị và Quân ủy Trung Ương
Căn phòng này tưởng chừng như nhỏ bé nhưng khác hẳn với những căn phòng khác.
Tường gồm có 2 lớp được làm bằng bê tông, cốt thép rất kiên cố. Đây là nơi diễn ra nhiều hội
nghị cơ mật của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, đưa ra những quyết sách chiến lược,
chỉ đạo các chiến dịch quan trọng từ năm 1968 – 1975.
Đặc biệt, tại căn phòng này, từ 18/12/1974 – 8/1/1975 đã diễn ra cuộc họp Bộ Chính trị
mở rộng và đưa ra phương châm “nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức
giải phóng miền Nam trong năm 1975”. Đây là quyết sách quan trọng cho sự nghiệp giải
phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Ngoài ra, bàn họp được đặt ở vị trí trung tâm của phòng, nhìn theo hướng Đông – Tây.
Hai phía Bắc – Nam của phòng có 4 bàn nhỏ, là vị trí ngồi của thư ký các cuộc họp. Hiện
nay, trên mặt bàn đang sắp xếp các biển tên của 24 đồng chí đã từng tham gia cuộc học của
Bộ Chính trị mở rộng cuối năm 1974 – đầu năm 1975.
Trong căn phòng này còn có nhiều hệ thống bản đồ đóng vai trò quan trọng, giúp các
đồng chí lãnh đạo phân tích tình hình chiến trường và đưa ra quyết sách phù hợp với từng
diễn biến của cách mạng. Hiện nay, 4 bản đồ đang treo ở phía Đông của phòng họp được mô
phỏng khái quát theo những diễn biến cách mạng Việt Nam vào cuối năm 1974 đến kết thúc
chiến dịch Hồ Chí Minh: Hai bản đồ phía bên trong là bản đồ địa hình miền Nam Việt Nam
và biểu đồ các tuyến đường giao thông chi viện miền Bắc vào chiến trường miền Nam; Bản
đồ lớn nhất, ở giữa, là bản đồ Quyết tâm của Bộ Chính trị , tháng 10/1974 và tháng 1/1975;
Phía ngoài cùng là Bản đồ Quyết tâm của Chiến dịch Hồ Chí Minh.
Phòng làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp
Đại tướng Võ Nguyên Giáp sinh năm 1911, bác mất năm 2013.
Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng là người chỉ huy
đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam, là một trong những người góp công thành lập Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa, được chính phủ Việt Nam đánh giá là "người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch
Hồ Chí Minh".
Đại tướng là chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương
(1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960–1975) chống Mỹ, thống nhất đất
nước và Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979) chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía
Bắc.
Phía đông phòng họp là phòng làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong thời gian
từ 11/1968-1980. Ông được phong đại tướng khi 37 tuổi, là vị đại tướng trẻ nhất của quân đội
nhân dân Việt Nam. Ông cũng là Đại tướng đầu tiên, Tổng tư lệnh của Quân đội Nhân dân
Việt Nam, là người chỉ huy đầu tiên Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đại tướng là chỉ huy
chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954)
đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960–1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước
và Chiến tranh biên giới Việt-Trung (1979) chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía
Bắc.
Đại tướng làm việc tại căn phòng này từ 1968 khi căn phòng này vừa xây dựng xong
đến 1980 khi bác về nghỉ hưu. Đại tướng là người có cống hiến lớn lao cho dân tộc trong hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong kháng chiến chống Mỹ gắn với sự kiện 12
ngày đêm năm 1972, chiếc điện thoại này đã gắn chặt với bác. Trong 12 ngày ấy, Đại tướng
trực tiếp chỉ huy trận đấu và yêu cầu các đồng chí cứ 5 phút phải gọi điện thông báo tình hình
chiến trường cho Bác một lần. Mặc dù nhà của đại tướng Võ Nguyên Giáp rất gần, ở số nhà
30 Hoàng Diệu nhưng trong Chiến dịch Hồ Chí Minh, bác phải trực tiếp chỉ huy chiến đấu,
không có thời gian về nhà nên các cán bộ đã làm cho bác chiếc giường để bác nghỉ ngơi.
Cũng chính tại căn phòng này, trong chiến dịch Hồ Chí Minh, 7/4/1975 Đại tướng đã gửi
bức điện lịch sử đến toàn quân với nội dung: “…Thần tốc, thần tốc hơn nữa, táo bạo, táo bạo
hơn nữa, tranh thủ từng giờ từng phút xốc đến mặt trận, giải phóng miền Nam, quyết chiến và
quyết thắng”. Tại đây cũng lưu giữ nhiều kỷ vật vô giá gợi lại hình ảnh vị tướng kiệt xuất
nhưng cũng đỗi giản dị, như cuốn Truyện Kiều – tác phẩm thấm đẫm hồn dân tộc của đại thi
hào Nguyễn Du – đã gắn bó với ông suốt chặng đường hoạt động cách mạng.
Phòng làm việc của Đại tướng Văn Tiến Dũng
Bên cạnh phòng nghỉ về phía tây là phòng làm việc của Đại tướng Văn Tiến Dũng.
Văn Tiến Dũng (1917 –2002) là một vị Đại tướng Quân đội Nhân dân Việt Nam. Đại
tướng là Tổng Tham mưu trưởng Quân đội Nhân dân Việt Nam (1953-1978), Bộ trưởng Bộ
Quốc phòng (1980-1986), là người chỉ huy trực tiếp chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975.
Tại căn phòng này, ông đã chỉ thị nhiều chỉ thị, quyết định quan trọng, góp phần đánh
bại chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ ở miền Bắc. Từ 18-30/12/1972, ông liên tục có mặt
ở phòng làm việc và hầm D67, cùng Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ đạo đánh bại cuộc tập
kích chiến lược hàng không bằng máy bay B52 của Mỹ.
Tháng 1/1975, Đại tướng tạm rời căn phòng này vào chiến trường miền Nam để chỉ huy
chiến dịch Tây Nguyên. Sau chiến tranh, ông tiếp tục làm việc tại căn phòng này đến năm
1992 với tư cách là Bộ trưởng Bộ Quốc phòng.
Tại đây vẫn còn lưu giữ một số hiện vật giản dị của Đại tướng, đặc biệt là chiếc mũ lưỡi
trai mềm, kỷ vật đã gắn bó với Đại tướng suốt một thời gian dài và gợi nhớ tên gọi thân thuộc
của ông “vị tướng mũ mềm”.
Phòng nghỉ ngơi
Nằm ở phía tây của phòng họp Bộ chính trị và Quân ủy trung ương là phòng nghỉ ngơi
với diện tích 37m2. Sau những giờ họp căng thẳng, các cán bộ đã nghỉ ngơi ở đây, hiện nay
đây là nơi lưu giữ những bức ảnh như thư điện của đại tướng Võ Nguyên Giáp, xe tăng của
quân đội ta húc đổ cánh cổng Dinh Độc Lập,… Hiện nay, căn phòng này được sử dụng để
trang trí những hiện vật theo chuyên đề.
Hầm D67
Hầm D67, sâu 9m, được xây dựng bằng bê tông cốt thép kiên cố để chống bom nhằm đối
phó với các cuộc tập kích đường không của Không quân Mỹ. Hầm có 3 cầu thang lên xuống.
Trong đó, cầu thang phía nam nối với Nhà Con Rồng, hai cầu thang phía bắc nối với Nhà
D67. Hai đường dẫn xuống hầm bắt nguồn từ hai phòng làm việc của tướng Giáp và tướng
Dũng trong nhà D67. Đường hầm rộng 1,2m, có 45 bậc thang bê tông, trát đá granite. Tất cả
các lối lên xuống và lối ra vào đều có cửa thép dày 12cm, có nhiều tay nắm và hệ thống
gioăng cao su ngăn được nước và khí độc. Toàn bộ tường hầm đều bằng bê tông cốt thép mác
cao dày 47cm. Cấu trúc chính của Hầm D67 gồm 3 phòng: phòng rộng nhất là phòng họp của
Quân ủy Trung ương (có hình chữ nhật toàn khối: dài 9,15m, rộng 3,88m) vào những thời
điểm ác liệt khi máy bay Mỹ bắn phá Hà Nội, tiếp đến là phòng Trực ban-Thông tin – nơi
làm việc của Ban thư ký với hệ thống điện đài, máy móc và cuối cùng là phòng chứa các thiết
bị thông hơi lọc độc tự động vận hành, đảm bảo an toàn tuyệt đối cho các đồng chí trong Bộ
Chính trị, Quân ủy trung ương và các bộ phận phục vụ khi tổ chức các cuộc họp bí mật tại
đây giai đoạn 1967-1975.
Sự hiện diện của cụm di tích Nhà và Hầm D67 giữa lòng Khu trung tâm Hoàng Thành
Thăng Long - Hà Nội cho thấy khu di sản là nơi kết tinh lịch sử hàng 1000 năm của dân tộc,
từ thời vua Lý Thái Tổ cho đến thời đại Hồ Chí Minh.
7. Hậu Lâu:
Di tích Hậu Lâu trên thực tế không phải là công trình kiến trúc nguyên gốc của Hoàng
thành Thăng Long để lại. Khi người Pháp phá thành Hà Nội vào cuối thế kỷ 19, di tích Hậu
Lâu khi đó đã bị hư hại rất nhiều nên cũng bị phá bỏ. Thay vào đó, quân đội Pháp đã xây một
tòa lầu ba tầng giống như một tháp canh mà chúng ta đang thấy hiện nay. Vậy nên những gì
còn lại của Hậu Lâu hay còn gọi là Tĩnh Bắc Lâu dưới các triều đại phong kiến Việt Nam chỉ
là phần nền móng đang nằm dưới lòng đất.
Công trình mà quý vị đang khám phá thực sự là một kiến trúc dành cho quân sự nên
những bậc thang từ tầng một lên tầng hai khá dốc. Kiến trúc của tầng một chỉ là một khối
hình hộp chữ nhật, nhưng đến tầng hai và tầng ba đã được thiết kế mái dạng đầu đao uốn
cong và có nhiều lớp mái thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa kiến trúc xây theo hình khối vuông
vắn của phương Tây và những đường nét thanh thoát, mềm mại của kiểu mái cong trong kiến
trúc phương Đông.
Qua các cuộc nghiên cứu, khai quật khảo cổ học tại di tích này trong những năm 1998 –
1999, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy nhiều hiện vật có niên đại từ thế kỷ 8 đến đầu thế kỷ
20, trong đó có các đồ gốm sứ trắng mỏng vốn là đồ ngự dụng thời Lê sơ. Khi đào đến độ sâu
3,2 mét, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy dấu tích “bến nước” thời Lê sơ được xây bằng gạch
và đá chân tảng hoa sen thời Lý và thời Trần, trong số đó có một số hiện vật đang được trưng
bày ngay trước chân tường của công trình hiện tại.
Tuy kiến trúc gốc của di tích Hậu Lâu không còn, nhưng phía trước di tích này là một
không gian cảnh quan thực sự ấn tượng như gợi lại khung cảnh của một khu vườn thượng
uyển thời xưa, nơi dạo chơi và thư giãn của nhà vua và các thành viên hoàng tộc.
9. Bắc Môn
Bắc Môn là cổng thành duy nhất còn lại trong số năm cổng của tòa thành được nhà
Nguyễn xây dựng vào đầu thế kỷ 19 (năm 1805) trên nền Cửa Bắc thời Lê theo lối vọng lâu.
Ngay phía trên vòm cổng, chúng ta có thể thấy rõ tấm biển bằng đá đề ba chữ “Chính Bắc
Môn” bằng chữ Hán. Mặt trước cổng thành còn lưu lại dấu vết của hai phát súng đại bác (sâu
80 cm) của quân đội Pháp khi tấn công thành Hà Nội lần thứ hai vào ngày 25/4/1882. Sau khi
bình ổn Bắc Kỳ, giặc Pháp cho phá hết thành Hà Nội nhưng giữ lại Bắc Môn để cảnh cáo
những ai có ý định chống Pháp. Ngoài ra, khi đứng trên cổng thành, quan quân có thể phóng
tầm mắt bao quát khắp trong ngoài thành, dễ dàng quan sát di – biến động trong đội hình
quân địch. Do đó, khi chiếm được thành Hà Nội, quân đội Pháp vẫn sử dụng lầu trên Bắc
Môn làm chòi canh gác.
Hiện nay, lầu trên cổng thành mới được phục dựng một phần và được dành làm nơi thờ
hai vị quan Tổng đốc thành Hà Nội – Nguyễn Tri Phương và Hoàng Diệu – đã tuẫn tiết vì
không giữ được thành trước sức mạnh đạn pháo của quân đội Pháp vào năm 1871 và 1882.
Nhiều người dân vẫn thường xuyên lên vọng lâu Bắc Môn để thắp nhang tưởng nhớ hai vị
anh hùng lẫm liệt – những người được hậu thế kính cẩn dùng tên đặt cho hai con đường hiện
đại chạy hai bên tả hữu khu trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội ngày nay. Khi lên
tầng hai của Bắc Môn, quý vị sẽ thấy trong Vọng lâu có ban thờ tưởng nhớ công lao của hai
vị Tổng đốc nghĩa liệt anh hùng.
Về mặt kiến trúc, Bắc Môn có bố cục hình thang, mặt trước rộng 17 mét, chiều sâu
20,48 mét và cao 8,71 mét. Toàn bộ phần thành ở dưới được xây kiên cố bằng đá và gạch,
chân kè bằng đá, cổng thành được xây kiểu cuốn vòm bằng gạch theo lối xếp một viên đặt
ngang xen một viên đặt dọc. Diềm trên mép cửa chúng ta thấy được kè bằng đá có trang trí
hình hoa sen. Hai cánh cổng thành bằng gỗ có trọng lượng rất lớn chạy trên bánh xe bằng
đồng.
Theo những bức ảnh tư liệu chụp từ thời thành Hà Nội chưa bị phá, lối lên vọng lâu trên
mặt cổng thành là hai cầu thang xây bằng gạch nằm hai bên Bắc Môn. Phía trước Bắc Môn
có cầu bắc qua một hào nước rộng khoảng 10 mét bao quanh thành. Vọng lâu phía trên mặt
thành được dựng bằng khung gỗ theo lối chồng diêm tám mái, lợp ngói ta, trổ cửa ra bốn
hướng. Nước mưa trên vọng lâu được dẫn thoát xuống dưới qua hai ống máng bằng đá.
Dù Bắc Môn là công trình do nhà Nguyễn xây dựng, nhưng dưới chân cổng thành sừng
sững này là tầng tầng lớp lớp di chỉ thành quách từ các triều đại trước đó, khẳng định sự liên
tục trong lịch sử ngàn năm của Hoàng thành. Năm 1998, tại khu vực Bắc Môn, các nhà khảo
cổ đã tìm thấy nhiều dấu vết kiến trúc ở độ sâu 1,66m và 2,2m, trong đó có vết tích của
những đoạn tường thành xây bằng đá và gạch vồ thời Lê. Những dấu tích đó cho thấy thành
Hà Nội thời Nguyễn được xây dựng chồng xếp lên rất nhiều dấu tích kiến trúc và tường
Hoàng thành Thăng Long thời Lê.
Gạch xây thành có kích thước 35,5cm x 10cm x 12cm. Đá kê có kích thước dài từ 38 đến 86cm. Mép
cửa kè đá hình chữ nhật, diềm trên bằng đá trang trí hoa sen. Hai cánh cổng thành bằng gỗ đã được
trùng tu có tổng diện tích 24m2, trọng lượng khoảng 16 tấn, chạy trên bánh xe 11 bằng đồng trọng
lượng khoảng 80kg. Phía ngoài bên trên cổng thành còn ba chữ Hán khắc đá: “Chính Bắc Môn”,
diềm biển trang trí hoa dây.
Theo cứ liệu lịch sử và những bức ảnh tư liệu chụp từ thời thành Hà Nội chưa bị phá, hai bên Bắc
Môn phía trong tường thành có lối dẫn lên vọng lâu được xây bằng gạch theo hình tam giác. Trước
Bắc Môn là chiếc cầu gạch bắc qua con hào rộng khoảng 20m bao quanh thành. Quan sát bằng mắt
thường có thể thấy, vị trí con hào phía trước Bắc Môn hiện nay chính là bãi cỏ, vỉa hè và một phần
lòng đường phố Phan Đình Phùng. Có ý kiến cho rằng, chiếc cầu bắc qua hào vào Bắc Môn là cầu
gạch kiên cố, không phải cầu treo nên con hào không mang tính phòng thủ. Tuy nhiên, nhiều ý kiến
khác cho rằng, dù cầu vào thành không phải là cầu treo, nhưng mục tiêu phòng thủ của con hào bao
quanh thành cổ là chính yếu – nó giúp hạn chế giặc tiếp cận chân thành.
Thông tin về Cửa Bắc cùng 2 vị tổng đốc thành Hà Nội đã kết thúc chuyến đi tham quan
của chúng ta, em xin cảm ơn sự theo dõi, lắng nghe từ quý khách. Thay mặt ban quản lý khu
di sản Trung tâm Hoàng Thành Thăng Long, em kính chúc quý khách luôn mạnh khỏe, thành
công và có những phút giây trải nghiệm tuyệt vời tại Hà Nội. Xin cảm ơn và xin chào quý
khách.