You are on page 1of 27

Đặc điểm và rủi ro sức khỏe của kim loại trong bụi đường khu vực nhà

máy phối trộn bê tông tại Thành Phố Hồ Chí Minh

Tác giả - Đơn vị công tác …


Tóm tắt

Kim loại trong bụi đường là vấn đề môi trường được quan tâm và đã được nghiên
cứu tại rất nhiều quốc gia trên thế giới do những rủi ro môi trường mà các thành phần này
mang lại. Kim loại trong bụi đường gây tác động xấu đến môi trường và con người, đặc
biệt là tại các khu vực đô thị với mật độ dân số cao như thành phố Hồ Chí Minh
(TPHCM), Việt Nam. Một vài nghiên cứu đã được thực hiện tại TPHCM và bước đầu
ước lượng sơ bộ về hàm lượng kim loại trong bụi đường, tuy nhiên chưa có nghiên cứu
đánh giá tại một nguồn phát thải cụ thể nhằm đưa ra dữ liệu để phân loại nguồn. Nghiên
cứu này được thực hiện nhằm đánh giá hàm lượng của 6 kim loại có trong mẫu bụi đường
thu thập tại khu vực xung quanh nhà máy phối trộn bê tông nhằm tìm hiểu đặc trưng phân
bố và đánh giá rủi ro môi trường và sức khỏe do ô nhiễm bụi đường gây ra. Nồng độ của
các kim loại trong bụi đường giảm dần theo thứ tự Ca (27912,4 mg/kg) > Mg (7353,9
mg/kg) > Ti (1367,4 mg/kg) > Cr (56,0 mg/kg) > Pb (22,5 mg/kg) > As (5,7 mg/kg). Ca
và Mg chiếm hơn 96% tổng lượng kim loại được khảo sát và đặc trưng cho mẫu bụi được
thu thập trong khu vực nghiên cứu, chứng minh ảnh hưởng của bụi xi măng từ hoạt động
phối trộn bê tông. Phân bố về không gian của các kim loại là không giống nhau và phân
tích tương quan cho thấy rằng các kim loại như Pb, và As có thể đến từ nhiều nguồn khác
nhau. Trong các kim loại khảo sát thì As thể hiện mức độ tích tụ kim loại, làm giàu, và
chỉ số tải trọng ô nhiễm cao nhất so với các kim loại còn lại. Trẻ em được cho là nhóm có
nguy cơ chịu ảnh hưởng sức khỏe cao hơn so với người lớn khi phơi nhiễm các kim loại
có trong bụi đường. Trong khi đó Cr cho thấy rủi ro cao nhất về nguy cơ gây ung thư cho
cả trẻ em (5.38E-4) và người lớn (4.94E-5). Nghiên cứu của này góp phần cung cấp
thông tin về đặc trưng phân bố của kim loại phát sinh từ nguồn sản xuất phối trộn bê tông
góp phần vào công tác quản lý ô nhiễm kim loại trong bụi đường tại TPHCM.

Từ khóa: Bụi đường; Kim loại; Thành phố Hồ Chí Minh; Sức khỏe; bê tông
Characteristics and health risks of metals in road dust at the concrete mixing plant
in Ho Chi Minh City

Abstract:

Metals in road dust are an environmental concern and have been studied in many
countries around the world due to the environmental risks of these elements. Metals in
road dust cause adverse impacts on the environment and human health, especially in
urban areas with high population density such as Ho Chi Minh City (HCMC), Vietnam.
A few studies have been carried out in HCMC and provide some preliminary results on
the level of metals in road dust, however, studies at a specific emission source are scare.
This study was conducted to evaluate the level of 6 metals in road dust collected in the
area around the concrete mixing plant in order to understand the distribution
characteristics and assess environmental and health risks caused by road dust pollution.
The concentration of metals in road dust decreases in the order Ca (27912.4 mg/kg) > Mg
(7353.9 mg/kg) > Ti (1367.4 mg/kg) > Cr (56.0 mg) /kg) > Pb (22.5 mg/kg) > As (5.7
mg/kg). Ca and Mg accounted for more than 96% of the total metals, demonstrating the
influence of cement dust from concrete mixing. The spatial distribution of metals is not
similar and correlation analysis shows that metals such as Pb, and As may originate from
mixing of different sources. Among the metals, As showed the highest metal
accumulation, enrichment, and pollutant load index compared to the remaining metals.
Children are thought to be at a higher risk of health effects than adults when exposed to
metals found in road dust. Meanwhile Cr showed the highest risk of carcinogenicity for
both children (5.38E-4) and adults (4.94E-5). This study contributes to providing
information on the distribution characteristics of metals arising from the production of
concrete mixes, contributing to the management of metal pollution in road dust in Ho Chi
Minh City.

Keywords: Road dust; Metal; Ho Chi Minh City; Health; concrete


1. Giới thiệu

Trong những năm gần đây, bụi đường nhận được rất nhiều sự quan tâm của các
nhà khoa học, bởi vì nó được coi là nơi lưu trữ chính của các chất ô nhiễm, bao gồm cả
kim loại nặng có nguồn gốc từ các nguồn thải khác nhau gần đó (Wei và cộng sự. 2015).
Các kim loại (As, Ca, Cr, Mg, Pb, Ti, v.v.) tích tụ trong bụi đường có khả năng vận
chuyển và hoạt động sinh học cao, do đó chúng có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến cả hệ
sinh thái và sức khỏe con người (Kabadayi và Cesur 2010; Qadeer và cộng sự 2020).
Kim loại nặng trong bụi đường có thể bắt nguồn từ nhiều nguồn gốc khác nhau như hoạt
động xe cộ, đốt dầu cháy nhiên liệu hóa thạch, đốt rác thải, cơ sở sản xuất điện, khu công
nghiệp và xây dựng tùy thuộc vào nơi chúng được thu thập (Wei và cộng sự. 2015). Mức
độ ô nhiễm của kim loại nặng trong bụi đường được xác định bởi các chỉ số như chỉ số
tích lũy địa lý (Igeo) (Kamani và cộng sự. 2018; Duan và cộng sự. 2019; Idris và cộng sự.
2020), hệ số làm giàu (Ghanavati và cộng sự. 2019; Alharbi và cộng sự 2020; Khademi
và cộng sự 2020), và yếu tố ô nhiễm (Duong và Lee 2011). Bên cạnh đó, những rủi ro
tiềm tàng đối với sức khỏe con người do kim loại nặng trong bụi đường gây ra thông qua
ba con đường phơi nhiễm bao gồm hít phải, nuốt phải và tiếp xúc với da được đánh giá
thông qua rủi ro không gây ung thư và gây ung thư (Bartholomew và cộng sự 2020; Idris
và cộng sự 2020; Qadeer và cộng sự 2020). Ngoài ra, bụi đường còn gây nguy cơ tiềm
tàng đến môi sinh, các chỉ số rủi ro sinh thái tiềm năng (E i) và rủi ro sinh thái tiềm năng
(PER) đã được sử dụng bởi Kamani và cộng sự. (2018), Ghanavati và cộng sự. (2019) và
Roy và cộng sự. (2019).

Nghiên cứu về kim loại nặng trong bụi đường đã được tiến hành rộng rãi trên toàn
thế giới như ở Châu Âu (Ewen và cộng sự 2009; Kabadayi và Cesur 2010; Trojanowska
và Świetlik 2019; Khademi và cộng sự 2020), Châu Phi (Onjefu và cộng sự 2017;
Shabbaj và cộng sự 2018; Alharbi và cộng sự 2020) và Châu Á (Joshi và cộng sự 2009;
Duong và Lee 2011; Li và cộng sự 2013; Akram và cộng sự 2014; Keshavarzi và cộng sự
2015; Wei và cộng sự 2015 ; Phi và cộng sự 2017; Kamani và cộng sự 2018; Phi và cộng
sự 2018; Ghanavati và cộng sự 2019; Roy và cộng sự 2019; Shabanda và cộng sự 2019;
Bartholomew và cộng sự 2020; Qadeer và cộng sự 2020). Các nghiên cứu đã chỉ ra nồng
độ kim loại nặng cao trong bụi đường có thể gây ra tác động nghiêm trọng đến hệ sinh
thái và sức khỏe con người. Điều này chứng tỏ việc đánh giá mức độ ô nhiễm, nguồn gốc
và nguy cơ tiềm ẩn của các kim loại nặng này đối với hệ sinh thái và con người là rất cần
thiết. Ở Việt Nam, Phi và cộng sự (2017) đã nghiên cứu sự xuất hiện của Ca, Fe, K, Mn,
Pb và Zn trong bụi đường được thu thập tại nhiều địa điểm ở Hà Nội và họ chỉ ra rằng
nồng độ Pb và Zn thay đổi theo vị trí lấy mẫu và phụ thuộc vào nguồn phát thải. Nghiên
cứu này cũng cho biết nồng độ cao nhất của các kim loại này được quan sát thấy ở các
khu vực trung tâm thành phố, trong khi mức thấp nhất ở các khu vực ngoại ô. Phi và cộng
sự (2018) đã thu thập 55 mẫu bụi đường ở Đông Bắc Việt Nam để xác định nồng độ Ca,
Cu, Cr, Fe, K, Mn, Pb và đánh giá nguy cơ tiềm ẩn gây ra bởi 5 kim loại (Cu, Cr, Mn, Pb,
Zn). Nghiên cứu phát hiện ra rằng nồng độ kim loại nặng cao hơn ở nơi có mật độ giao
thông cao. Nghiên cứu cũng cho thấy chỉ số rủi ro không gây ung thư (non-carcinogenic)
của Cr là cao nhất mặc dù chỉ số nguy hiểm của kim loại nặng nằm trong phạm vi chấp
nhận được. Theo nghiên cứu này, trẻ em là nhóm có nguy cơ tiềm ẩn cao nhất đối với bụi
đường bị ô nhiễm kim loại nặng.

Thành phố Hồ Chí Minh (TP.HCM), là thành phố đông dân nhất Việt Nam, với
mật độ giao thông cao nhất cả nước, đang phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm không khí
nghiêm trọng cần được giải quyết. Ô nhiễm kim loại nặng trong bụi đường cũng là mối
quan tâm lớn tại TP.HCM do các hoạt động sản xuất phát sinh nhiều kim loại nặng tiềm
ẩn, bao gồm lưu lượng giao thông đông đúc, các nhà máy xí nghiệp và khu công nghiệp
dày đặc trong và xung quanh thành phố. Một trong những hoạt động sản xuất quan trọng
góp phần phát thải lượng lớn kim loại vào bụi đường là hoạt động sản xuất và phối trộn
bê tông. Xi măng được biết đến như thành phần cơ bản của bê tông, với thành phần chính
bao gồm canxi, silic, nhôm, sắt và các thành phần kim loại khác như chì, thủy ngân,
cadmium và kẽm. Trong quá trình hoạt động của nhà máy, phối trộn nhiên liệu, vận
chuyển, tháo dỡ… sẽ dẫn đến việc phát thải một lượng lớn các kim loại này vào môi
trường, đặc biệt là qua bụi đường và khí thải (Shimosaka và cộng sự 2013). Phát thải từ
hoạt động sản xuất và phối trộn bê tông góp phần lớn gây nên ô nhiễm bụi, từ đó làm
giảm tầm nhìn và chất lượng không khí. Khi bụi đã được lắng đọng, nó có thể gây nên
bụi đường, làm ô nhiễm nước và gây ra những ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người,
động vật, thực vật (Hsu và cộng sự 2016).

Hiện nay, việc nghiên cứu đặc điểm của kim loại bụi đường và các nguồn phát thải
cũng như rủi ro liên quan chưa được quan tâm nhiều ở Việt Nam nói riêng cũng như
TP.HCM nói chung. Một số ít nghiên cứu về hàm lượng kim loại trong bụi đường ở tại
TP.HCM trong những năm gần đây như: Đạt và cộng sự (2021) đã đo nồng độ của 8 kim
loại (Pb, Cu, Cr, Zn, Mn, Ni, Cd và Co) trong bụi đường ở miền Nam Việt Nam. Cùng
năm 2021, Trúc và cộng sự cũng đã công bố nghiên cứu về đặc điểm và đánh giá rủi ro
của 16 kim loại trong bụi đường tại TP.HCM. Từ kết quả của những nghiên cứu này có
thể bước đầu cho thấy thông tin về phân bố không gian, các nguồn phát thải tiềm năng và
đánh giá rủi ro đối với nhiều kim loại. Tuy nhiên các nghiên cứu đã được thực hiện chủ
yếu nhằm cho biết hiện trạng chung mà không tập trung phân tích thành phần kim loại
phát sinh từ một nguồn cụ thể. Những thông tin này là quan trọng góp phần vào công tác
quản lý cũng như đánh giá ảnh hưởng của kim loại trong bụi đường đến môi sinh và con
người.

Do đó, mục tiêu của nghiên cứu này là khảo sát nồng độ một số kim loại (As, Ca,
Cr, Mg, Pb, và Ti) trong mẫu bụi đường thu thập tại khu vực hoạt động của nhà máy phối
trộn bê tông thuộc nội thị TP.HCM. Nghiên cứu tập trung khảo sát, so sánh nồng độ và
phân bố theo không gian của các kim loại. Ngoài ra, nghiên cứu bước đầu đánh giá rủi ro
môi trường và sức khỏe con người từ phơi nhiễm bụi đường chứa các kim loại nói trên.
Dựa trên mức độ phân bố nồng độ cũng như tương quan giữa các kim loại tại các địa
điểm lấy mẫu có thể cung cấp cái nhìn cơ bản về ảnh hưởng từ hoạt động của nhà máy
phối trộn bê tông đến nồng độ kim loại có trong bụi đường tại khu vực. Thông tin này sẽ
phục vụ cho việc hoạch định các chính sách quản lý và định hướng cho các nghiên cứu
sắp tới, đồng thời là thông tin chỉ thị nguồn (indicator) của kim loại phát sinh từ hoạt
động phối trộn bê tông tại TP.HCM.

2. Phương pháp nghiên cứu.

2.1. Địa điểm nghiên cứu

TP.HCM, nằm ở vùng Đông Nam Bộ Việt Nam, có tổng diện tích khoảng 2100
km2 và mở rộng đến tận Cần Giờ giáp Biển Đông (Nguyễn và cộng sự., 2022). Đây là
thành phố đô thị lớn nhất với mật độ dân số hơn 10 triệu người (Trương và cộng sự.,
2022). TP.HCM bao gồm 24 quận hành chính, được chia thành 5 quận nông thôn và 19
quận nội thành chiếm diện tích tương ứng khoảng 1601 km 2 và 494 km2 (Võ, 2007). Các
ngành công nghiệp ở TP.HCM và các khu vực lân cận đặc trưng bởi sản xuất xi măng,
đúc gang thép và luyện kim quy mô nhỏ theo hướng Tây-Tây Nam Bộ và các ngành công
nghiệp mạ điện, dệt may và sản xuất theo hướng Đông Bắc. Tại TP.HCM, các nhà máy
phối trộn bê tông được phân bố khá đa dạng và tọa lạc trên nhiều quận, huyện và các khu
công nghiệp như: quận 6, Gò Vấp, Bình Tân, Bình Chánh, TP. Thủ Đức.

Trong nghiên cứu này, các mẫu bụi đường đã được lấy dọc theo 2 tuyến đường, có
mật độ phương tiện giao thông tương đối cao nằm song song với Xa Lộ Hà Nội, là
Nguyễn Văn Bá và Song Hành. Trong đó, đoạn Nguyễn Văn Bá nằm dọc theo khu nhà
máy bê tông MEKONG Thủ Đức và công ty cổ phần Logistic Vincem (Hình 1), có lưu
lượng xe vận chuyển bê tông, xe tải nặng và các loại xe chuyên dụng cho hoạt động sản
xuất bê tông hoạt động cao và là khu vực ô nhiễm bụi lớn tại khu vực. Ngược lại, các
phương tiện này không hoạt động bên tuyến đường Song Hành. Với vị trí địa lý như vậy,
chúng tôi hướng đến mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của hoạt động nghiền, trộn xi măng
đến phân bố nồng độ các kim loại trong bụi đường. Ngoài các xe tải nặng vận chuyển bê
tông hoạt động tại khu vực, các loại xe đầu kéo hạng nặng (container) cũng thường xuyên
ra vào khu vực này vì đây cũng là nơi tọa lạc của cảng ICD Sotrans. Nhìn chung, thông
qua khảo sát thực địa, nguồn phát sinh bụi chủ yếu tại khu vực nghiên cứu đến từ nhà
máy phối trộn bê tông.
Hình. 1 Địa điểm nghiên cứu: TP.HCM (a); các vị trí lấy mẫu tại TP.HCM (b)

2.1. Phương pháp lấy mẫu và phân tích mẫu

Mẫu bụi được thu bằng cách dùng chổi nhựa và dụng cụ quét để thu gom bụi trên
đường (Men và cộng sự 2021). Chổi được làm sạch bằng nước cất 3 lần trước khi lấy
mẫu. Để tránh các hạt rất mịn phát tán vào không khí thì trong quá trình lấy mẫu cần quét
chậm. Mẫu sẽ được thu gom từ làn đường sát mép đường theo đoạn dài khoảng 10m. Tại
mỗi điểm lấy mẫu sẽ lấy khoảng 500g mẫu. Mẫu sẽ được làm khô trong không khí đến
khối lượng không đổi trong thời gian khoản 1 tuần, sàng qua rây 1mm để loại bỏ đá, vật
liệu thô, nhựa và các tạp chất khác. Mẫu bụi sẽ được rây kích cở hạt có kích thước lỗ nhỏ
hơn 100 μm (mesh >150) để lấy được phần bụi có thể gây ra mối đe dọa lớn đối với sức
khỏe con người cũng như là phần bụi có liên kết nhiều nhất đối với bụi không khí (Liu và
cộng sự 2003, Bao và cộng sự 2019, Đạt và cộng sự 2021). Sau đó mỗi mẫu sẽ được
chuyển vào túi polyetylen sạch được ký hiệu và niêm phong trước khi đưa đến phòng thí
nghiệm. Các mẫu sẽ được bảo quản trong hộp nhựa đậy kín cho đến khi phân tích.

Các kim loại nặng trong mẫu bụi được chiết theo phương pháp USEPA 3051A
(USEPA 2007a) và phương pháp 200.8, Ver.5.4 (USEPA 1994). Các mẫu bụi đường sau
khi được rây sẽ được cân khối lượng khoảng 0.5g và sau đó được phân hủy ướt bằng hỗn
hợp dung dịch axit HNO3 + HCl (Merck) trong hệ phá mẫu kín chuyên dụng. Nồng độ
các kim loại (As, Ca, Cr, Mg, Pb, và Ti) được định lượng bằng thiết bị ICP-MS (Agilent,
Hoa Kỳ). Quá trình phân tích, QA/QC dữ liệu, dụng cụ hóa chất sử dụng đều đạt chuẩn
và tuân thủ nghiêm ngặt theo phương phương pháp trên. Các mẫu blank đều cho thấy
không phát hiện kim loại đang được khảo sát. Ngoài ra, mẫu kiểm chứng SRM 1684a
cũng được thực hiện đồng thời để đánh giá độ đúng của phương pháp, kết quả cho thấy
hiệu suất thu hồi của các kim loại khảo sát trong nghiên cứu đạt từ 75-125%, chứng minh
độ tin cậy của phương pháp phân tích.

2.2. Mức độ ô nhiễm và chỉ số tải trọng ô nhiễm

2.2.1. Chỉ số tích lũy địa chất (Igeo)

Trong nghiên cứu này, chúng tôi tính toán các giá trị I geo để đánh giá mức độ ô
nhiễm của các kim loại, theo công thức (1)

Cn
Igeo = log2(1.5 × ) (1)
Bn

trong đó Cn và Bn lần lượt là nồng độ kim loại trong bụi đường của mẫu n và mẫu
nền được tham khảo theo nghiên cứu của Taylor và cộng sự (1995), với hệ số 1,5 được áp
dụng để điều chỉnh sai số nền tiềm năng (Đạt và cộng sự 2021). Nguy cơ được đánh giá
dựa trên tiêu chí bảy cấp độ, không bị ô nhiễm (I geo ≤ 0); không bị ô nhiễm đến ô nhiễm
trung bình (0 < Igeo ≤ 1); ô nhiễm trung bình (1 < Igeo ≤ 2); ô nhiễm trung bình đến nặng (2
< Igeo ≤ 3); ô nhiễm nặng (3 < Igeo ≤ 4); nặng đến cực kỳ ô nhiễm (4 < Igeo ≤ 5); và cực kỳ ô
nhiễm (Igeo > 5).

2.2.2. Hệ số làm giàu (EF)

Hệ số làm giàu (EF) được tính toán để đánh giá mức độ ô nhiễm. Điều này được
thực hiện lần đầu tiên bởi Buat-Menard và Chesselet (1979) đối với các chất lơ lửng ở đại
dương, và sau đó đối với các kim loại nặng trong bụi đường (Alharbi và cộng sự 2020,
Ghanavati và cộng sự 2019, Khademi và cộng sự 2020). EF được ước tính dựa trên Công
thức (2). Các nguyên tố Fe (Fang và cộng sự 2006, Li và cộng sự 2016, Ghanavati và
cộng sự 2019, Khademi và cộng sự 2020), Al (Liu và cộng sự 2014, Joshi và cộng sự
2019) và Mn (Cheng và cộng sự 2018, Zhou và cộng sự 2019) là các tham chiếu phổ biến
(ref) khi tính toán EF của các kim loại độc hại trong các mẫu môi trường. Trong nghiên
cứu này, chúng tôi đã chọn Fe để đại diện cho nguyên tố tham chiếu:

Ci
mẫu
C Fe
EF = (2)
Ci
nền
C Fe

Trong đó EF là hệ số làm giàu và (C i/CFe) mẫu và (Ci/CFe) nền là tỷ lệ giữa nồng độ


kim loại (Ci) và nồng độ Fe (CFe) trong bụi đường và mẫu nền, tương ứng. Các giá trị EF
từ 0,05 đến 1 cho thấy kim loại có nguồn gốc tự nhiên, trong khi các giá trị cao hơn 1 sẽ
cho thấy kim loại đến từ nguồn nhân tạo. Mức độ làm giàu có thể được phân loại vào
năm cấp (Namaghi và cộng sự 2011): nhẹ (EF ≤ 2); trung bình (2 < EF ≤ 5); đáng kể (5 <
EF ≤ 20); rất cao (20 < EF ≤ 40), và cực kỳ cao (EF > 40).

2.2.3. Chỉ số tải trọng ô nhiễm (PLI)

Chỉ số tải trọng ô nhiễm (PLI) Mức độ ô nhiễm của kim loại trong bụi đường được
đánh giá thông qua giá trị PLI được tính theo các phương trình (3) và (4)

Ci
Pi = (3)
Cb

PLI = √n P1 × P 2 × P3 ×... . P n (4)

Ở đây, Pi là chỉ số ô nhiễm cho nguyên tố i, C i và Cb là nồng độ của nguyên tố i


trong mẫu và nền địa phương cho nguyên tố i. Giá trị Pi được phân loại thành 5 mức độ:
không bị ô nhiễm (Pi ≤ 0,7), bị ô nhiễm nhẹ (0,7 < Pi ≤ 1), bị ô nhiễm thấp (1 < Pi ≤ 2), bị
ô nhiễm trung bình (2 < Pi ≤ 3) và bị ô nhiễm nặng (P i ≥ 3). PLI là chỉ số tải ô nhiễm và n
là số lượng các kim loại được phân tích trong nghiên cứu này. Chỉ số PLI phân loại như
sau: không bị ô nhiễm (PLI ≤ 1), bị ô nhiễm thấp (1 < PLI ≤ 2), bị ô nhiễm trung bình (2
< PLI ≤ 3) và bị ô nhiễm nặng (PLI ≥ 3).

2.2.3. Nguy cơ sức khỏe con người

Nghiên cứu này đã điều tra các rủi ro về sức khỏe liên quan đến kim loại nặng
trong bụi đường theo cách tiếp cận của US-EPA (2011). Rủi ro không gây ung thư đã
được đánh giá về tiềm năng rủi ro sức khỏe của Cu, Pb, Zn, Ni, Cd và Cr trong bụi
đường, trong khi rủi ro gây ung thư của Cr, Cd và Ni đã được ước tính. Các kim loại nặng
này đã được lựa chọn vì được coi là các nguyên tố gây ung thư dựa trên IARC (2014).
Lượng tiêu thụ hàng ngày trung bình (ADI) được tính bằng cách sử dụng các Công thức
(5) đến (8)

C x × R ing × EF × ED ×CF
ADIing = (5)
BW × AT

C x × R inh × EF × ED
ADIinh = (6)
BW × AT × PEF

C x × SA × AF × ABF × EF × ED × CF
ADIderm = (7)
BW × AT

ADI = ADIing + ADIinh + ADIderm (8)

trong đó Cx là nồng độ của kim loại nặng x; ADI ing, ADIinh và ADIderm (mg/kg
ngày) là lượng tiêu thụ hàng ngày trung bình cho đường tiêu thụ qua miệng, hít vào và
thẩm qua da, tương ứng. Thông tin chi tiết về các giá trị tham số được sử dụng trong đánh
giá rủi ro sức khỏe được mô tả trong hướng dẫn IARC (2014).

Nguy cơ không gây ung thư: Hệ số nguy hiểm (HQ) phản ánh nguy cơ không gây
ung thư đối với con người và được tính bằng Công thức (9) (USEPA 2007b).

AID
HQ = (9)
RFD

trong đó RfD (mg/kg/ngày) là liều tham chiếu. Chỉ số nguy hiểm (HI), tổng của
HQ cho ba con đường tiếp xúc, được tính như sau:
HI = ΣHQ = HQing + HQinh + HQderm (10)

HI <1 được coi là nguy cơ không gây ung thư không đáng kể trong khi HI ≥ 1 là
nguy cơ sức khỏe tiềm năng đối với sức khỏe con người (Chen và cộng sự. 2012; Ali và
cộng sự. 2019; Duan và cộng sự. 2019)

Nguy cơ gây ung thư: Theo IARC (2014), Cd, Cr và Ni là các kim loại gây ung
thư. Nguy cơ gây ung thư (CR) và tổng nguy cơ gây ung thư (TCR) của ba kim loại nặng
đã được tính toán bằng các Công thức (11) và (12), tương ứng. TCR> 1 × 10^ -4 được coi
là một nguy cơ không chấp nhận được, trong khi TCR <1 × 10 ^ -6 là một nguy cơ chấp
nhận được (USEPA 1996; Hini và cộng sự. 2019).

R = ADI x SF (11)

TCR = ΣCR = CRing + CRinh + CRderm (12)

trong đó SF là hệ số độ dốc gây ung thư được đề xuất bởi US-EPA (2010).

3.Kết quả và thảo luận

3.1. Nồng độ kim loại trong bụi đường

Nồng độ trung bình của các kim loại trong mẫu bụi được khảo sát trong nghiên
cứu giảm dần theo thứ tự Ca (27912,4 ± 9022,4 mg/kg) > Mg (7353,9 ± 918,9 mg/kg) >
Ti (1367,4 ± 332,1 mg/kg) > Cr (56,0 ± 10,7 mg/kg) > Pb (22,5 ± 9,3 mg/kg) > As (5,7 ±
0,7 mg/kg). Trong đó, Ca và Mg là hai thành phần chính tồn tại trong mẫu bụi đường tại
khu vực nghiên cứu, chiếm hơn 96% tổng lượng kim loại được khảo sát. So với nồng độ
Ca và Mg (3439,5 mg/kg và 3381,2 mg/kg) được thu thập trong nghiên cứu về bụi đường
của Jose và cộng sự 2020, tại thành phố Vellore, Ấn Độ, thì nồng độ Ca tại nghiên cứu
này cao hơn 8 lần và Mg cao hơn 2 lần. Bên cạnh đó, Mirosław và cộng sự (2019) đã tiến
hành phân tích bụi đường tại Białystok và chỉ ra rằng nguồn chính của Ca và Mg trong
bụi đường xuất phát từ hoạt động xây dựng cầu, đường và công trình tòa nhà cao tầng, cụ
thể hơn là đến từ việc sử dụng xi măng và các chất dẫn xuất của xi măng. Kết quả từ
nghiên cứu này cũng phù hợp với các nghiên cứu khác trên thế giới cho thấy hoạt động
nghiền trộn từ nhà máy phối trộn bê tông đã ảnh hưởng đến gia tăng nồng độ Ca và Mg
trong bụi đường tại khu vực lấy mẫu và đây có thể được xem là yếu tố đặc trưng cho bụi
đường tại khu vực.

Ngoài Ca và Mg chiếm thành phần cao trong mẫu bụi đường, Ti với nồng độ trung
bình 1367,4 ± 332,1 mg/kg, cũng là kim loại có đóng góp cao (3.7%) trên tổng nồng độ
các kim loại được khảo sát. Tuy nhiên, nồng độ Ti thu thập được trong nghiên cứu này
thấp hơn 2,4 lần so với nghiên cứu tại Nam Xương, Trung Quốc (Chen và cộng sự,
2021). So sánh với nghiên cứu tại cùng khu vực (TP.HCM), nồng độ trong nghiên cứu
này cao hơn khoảng 2 lần so với kết quả được báo cáo bởi Trúc và cộng sự (2021), với
các mẫu bụi đường được thu thập dọc theo Xa Lộ Hà Nội. Theo Trúc và cộng sự (2021),
Ti trong bụi đường có thể đến từ nguồn chủ yếu là các hoạt động giao thông và xây dựng.
Như vậy, từ kết quả của nghiên cứu này, nồng độ Ti cao hơn có khả năng được làm giàu
bởi hoạt động công nghiệp, mà ở đây nguồn chính là từ nhà máy phối trộn bê tông.

Nhóm kim loại Cr, Pb và As đóng góp tỷ lệ phần trăm tương đối thấp (< 0.2%).
Đồng thời, nồng độ của các kim loại này cũng được đánh giá tương đương hoặc thấp hơn
so với nghiên cứu của Trúc và cộng sự (2021) với nồng độ Cr, Pb và As được báo cáo là
81,4 ± 22,6 mg/kg; 52,2 ± 22,9 mg/kg; 8,3 ± 2,5 mg/kg, theo thứ tự. Bên cạnh đó, nhóm
nghiên cứu của Trúc cũng đã tiến phân tích PCA và chỉ ra rằng Cr, Pb và As trong mẫu
bụi đường tại TP.HCM có thể đến từ nguồn hỗn hợp. Như vậy, chúng tôi cũng không loại
trừ khả năng nhóm các kim loại trong nghiên cứu này là tương tự với báo cáo trước đó,
có nguồn gốc từ nguồn địa chất và hoạt động từ con người. Nhìn chung, hoạt động phối
trộn bê tông có thể không phải là nguyên nhân chính làm giàu các kim loại nặng bao gồm
Pb, và As trong mẫu bụi đường tại khu vực khảo sát.

Để tìm hiểu mối liên hệ giữa các thành phần kim loại có trong mẫu bụi đường,
phân tích tương quan Pearson giữa các kim loại trong mẫu bụi đường đã được thực hiện
và kết quả được trình bày trong Bảng 1. Kết quả cho thấy, Ti thể hiện kết quả tương quan
tốt đối với Mg (r = 0,83), Cr thể hiện kết quả tương quan tốt đối với Ca (r = 0,59), Mg (r
= 0,65), do đó khả năng hoạt động từ nhà máy bê tông cũng có thể đóng góp đến nồng độ
Ti và Cr trong mẫu bụi đường. Tuy nhiên, nhóm kim loại As, Pb cho kết quả tương quan
tương đối thấp với các kim loại còn lại, và do đó nguồn gốc của As và Pb tại trong mẫu
bụi tại khu vực khảo sát không chỉ đến từ hoạt động phối trộn bê tông mà còn có thể đến
từ các nguồn khác. Nhiều nghiên cứu hơn cần được thực hiện để xác định được nguồn
của các kim loại này trong tương lai.

Bảng. 1 Tương quan giữa các kim loại trong mẫu bụi đường

  As Cr Pb Ti Ca Mg
As Tương quan Pearson 1,00 -0,33 -0,28 -,533* 0,33 -0,32
p-value   0,24 0,33 0,05 0,25 0,27
Cr Tương quan Pearson   1,00 ,568* ,751** -,591* ,653*
p-value     0,03 0,00 0,03 0,01
Pb Tương quan Pearson     1,00 0,16 -0,37 0,24
p-value       0,58 0,19 0,40
Ti Tương quan Pearson       1,00 -0,52 ,826**
p-value         0,06 0,00
Ca Tương quan Pearson         1,00 -0,24
p-value           0,42
Mg Tương quan Pearson           1,00
p-value            
*
. Mối tương quan có ý nghĩa ở mức 0,05
**
. Mối tương quan có ý nghĩa ở mức 0,01

3.2. Phân bố theo không gian của kim loại trong bụi đường

Đối với mẫu thu thập được trên đường Nguyễn Văn Bá (Hình 1), nơi hoạt động
chủ yếu của xe chở bê tông, kết quả tổng nồng độ kim loại trong bụi (39147,7 mg/kg) cao
hơn kết quả đo đạc được tại các mẫu trên tuyến đường Song Hành (33478,2 mg/kg).
Trong đó, phân bố tỷ lệ nồng độ các kim loại trong mẫu bụi tại hai tuyến đường tương
đối khác nhau (Hình 2). Cụ thể, tỷ lệ của Ca trên đường Nguyễn Văn Bá chiếm 79,5%,
cao hơn tại đường Song Hành (70,7%). Điều này hợp lý vì CaCO 3 là thành phần chính
của xi măng (đóng góp hơn 85%), các hoạt động trộn, nghiền của nhà máy trộn bê tông
làm phát thải một lượng bụi lớn chứa thành phần Ca ra ngoài môi trường xung quanh và
càng gần khu vực nhà máy thì đóng góp của Ca có xu hướng cao hơn. Tuy nhiên, do 2
con đường này gần nhau và do đó, mặc dù đường Song Hành không có nhiều phương tiện
của trạm trộn bê tông lưu thông nhưng thành phần bụi vẫn chứa hàm lượng cao các kim
loại liên quan đến xi măng như Ca. Tỷ lệ đóng góp của các kim loại khác như Mg, Ti, Cr,
và Pb trong mẫu bụi tại đường Song Hành cao hơn so với đường Nguyễn Văn Bá (Hình
2). Đối với As, tỉ lệ đóng góp ở cả 2 khu đường lấy mẫu là tương tự nhau.

Hình. 2 Phân bố tỷ lệ nồng độ các kim loại trong mẫu bụi đường tại hai tuyến đường

Hình 3 trình bày phân bố theo không gian của các kim loại riêng lẻ tại từng vị trí
lấy mẫu. Có thể thấy rằng sự phân bố nồng độ của là không đồng đều tại các vị trí và có
sự khác nhau về xu hướng phân bố của các kim loại. Trong đó, Ca thể hiện nồng độ cao
nhất tại khu đường nội bộ sát ngay khu nhà máy bê tông, giảm dần về đoạn Nguyễn Văn
Bá, và thấp nhất đối với các mẫu thu tập trên đường Song Hành (Hình 3). Khu vực đường
nội bộ rất ít sự xáo trộn bề mặt đường do không có phương tiện cơ giới nặng vận hành
trong khu vực này tại thời điểm lấy mẫu. Phân bố theo không gian của nồng độ của As
trong bụi đường là tương đồng với Ca, tuy nhiên cần lưu ý rằng mức nồng độ của As là
tương đối thấp trong toàn bộ khu vực. Ca là thành phần chính của xi măng, nguyên liệu
chủ yếu được sử dụng trong quá trình phối trộn bê tông tại nhà máy và do đó phát tán của
bụi xi măng từ nhà máy là nguồn quan trọng của bụi đường ở gần khu vực. Càng xa nhà
máy, ảnh hưởng của bụi xi măng sẽ càng ít dần và tác động của các hoạt động khác (như
giao thông, bụi đất từ 2 bên đường) sẽ tăng lên. Đây có thể là lý do giải thích cho phân bố
theo không gian của Ca thu được tại Hình 3. Khác so với Ca và As, các kim loại như Cr,
Mg, và Ti cho thấy nồng độ cao hơn tại tuyến đường Song Hành so với đường Huỳnh
Văn Bá (Hình 3). Khu vực có nồng độ Cr, Mg và Ti thấp nhất là tại khu vực đường nội
bộ cạnh nhà máy phối trộn bê tông (Hình 3). Nồng độ Pb trong mẫu bụi đường không cho
thấy rõ phân bố trên cả khu vực nghiên cứu. Cr, Mg, Ti và Pb có thể đến từ hoạt động
giao thông trong khu vực như dữ liệu cho thấy khu vực ít hoạt động của xe tải nặng
(đường nội bộ) có nồng độ các kim loại này ở mức thấp. Đường Song Hành không có
nhiều hoạt động giao thông liên quan đến xi măng nhưng là bãi tập kết xe container lớn
và hoạt động xuất nhập bãi của các xe container cũng là một nguồn quan trọng đóng góp
đến nồng độ các kim loại này. Tuy nhiên, việc lấy mẫu trong phạm vi hẹp cũng phần nào
ảnh hướng lớn đến nhận định về phân bố không gian của các kim loại do quá trình phát
tán của bụi đường trong khu vực, từ đó dẫn đến đặc trưng của bụi đường tương đối giống
nhau.
Hình 3 Phân bố theo không gian nồng độ các kim loại trong mẫu bụi đường

3.3. Tác động của kim loại trong bụi đường đến môi trường và con người

Các giá trị Igeo được sử dụng để đánh giá mức độ tích tụ của các kim loại nặng
trong bụi đường và kết quả được thể hiện trong Hình 4a. Trên toàn khu vực nghiên cứu,
giá trị trung bình của Igeo giảm theo thứ tự As (1,3) > Pb (0,5) > Cr (0,1) > Ca (-0,7) > Ti
(-1,8) > Mg (-4,77). Các giá trị Igeo âm của Ca, Ti, Mg, cho thấy những kim loại này được
xếp hạng không bị ô nhiễm. Giá trị Igeo của Cr và Pb được coi là không bị ô nhiễm đến ô
nhiễm trung bình. Các giá trị Igeo cho As nằm trong khoảng từ 1,1 đến 1,7, cho thấy mức
độ ô nhiễm trung bình.

Hình 4b trình bày hệ số làm giàu (EF) của các kim loại trong nghiên cứu này. Kết
quả cho thấy giá trị trung bình của EF được sắp xếp theo thứ tự As > Cr > Pb > Ca > Ti >
Mg. Giá trị EF Ca (1,09), Ti (0,51) và Mg (0,06) thấp hoặc tương đương 1 cho thấy
những kim loại này không được làm giàu, không ảnh hưởng bởi hoạt động của con người.
Điều này cho thấy rằng các kim loại này trong bụi đường là tự nhiên (có nguồn gốc từ địa
chất) (Zhou và cộng sự. 2019). Cụ thể hơn trong nghiên cứu này, các kim loại trên có khả
năng cao đến từ nguồn bụi xi măng. Giá trị EF của Cr (1,81) và của Pb (1,27) cho thấy sự
làm giàu vừa phải. Theo báo cáo của Valdez Cerda (2011) và Bourliva (2017), Cr và Pb
có thể được thải ra từ lốp xe, độ mòn của lốp, má phanh, độ mòn của phanh, dầu bôi trơn,
khí thải động cơ diesel, lốp động cơ và độ mòn của các bộ phận máy móc, ngụ ý rằng các
hoạt động giao thông có thể là nguồn tạo ra các kim loại nặng này trong bụi đường. Giá
trị EF của As dao động từ 3,2 đến 5,9 cho thấy mức độ làm giàu trung bình đến đáng kể
của kim loại này. So sánh với nghiên cứu tại cùng khu vực (TP.HCM), giá trị EF của As
(4,35) trong nghiên cứu này cao hơn khoảng 3,5 lần so với kết quả được báo cáo bởi Trúc
và cộng sự (2021), cho thấy đóng góp đáng kể từ hoạt động của con người đến As trong
bụi đường tại khu vực này.

Kết quả chỉ số ô nhiễm Pi của các kim loại được thể hiện trong hình 4c. Các mẫu
bụi đường trong nghiên cứu của chúng tôi cho kết quả không bị ô nhiễm bởi Ti (0,46) và
Mg (0,06), ô nhiễm nhẹ bởi Ca (0,93), ô nhiễm thấp bởi Cr (1,6), và ô nhiễm trung bình
bởi Pb (2,25). Các kết quả này được đánh giá là thấp hơn so với nghiên cứu tương tự của
Trúc và cộng sự (2021). Tuy nhiên, giá trị Pi trung bình của As (3,77) tại đây xếp loại là ô
nhiễm nặng, kết quả này là tương đồng với giá trị EF của As trong bụi đường mà chúng
tôi đã kết luận trước đó. Một nghiên cứu tương tự cũng đã được báo cáo bởi Cai và
Zhang (2021) cho As trong bụi đường tại thành phố Vũ Hán, Trung Quốc. Theo đó nhóm
tác giả trên cũng báo cáo kết quả với mức ô nhiễm As trung bình đến cao trong các khu
vực xung quanh khu công nghiệp như nhà máy sắt thép Vũ Hán, nhà máy xi măng và khu
vực có lưu lượng giao thông cao và các công trường xây dựng.

Chỉ số giá trị tải trọng ô nhiễm (PLI) cho các kim loại trong bụi đường trong
nghiên cứu này dao động từ 0,65 đến 0,94; nằm trong mức độ không bị ô nhiễm. Nghiên
cứu này cho giá trị PLI tương đối thấp so với kết quả từ những nghiên cứu trước đây
(Trúc và cộng sư 2021, Đạt và cộng sự 2021), mà nguyên nhân chính chủ yếu là do số
lượng kim loại được báo cáo tương đối it. Do đó, cần thêm các nghiên cứu sâu hơn nhằm
đánh giá thêm về ảnh hưởng từ các kim loại khác trong mẫu bụi đường, để từ đó có thể
cung cấp giá trị PLI chính xác hơn.

Hình. 4 Box plot hệ số làm giàu của các kim loại trong mẫu bụi đường
3.4. Đánh giá rủi ro sức khỏe
Một báo cáo sơ bộ về đánh giá rủi ro sức khỏe về chỉ số nguy cơ không gây ung
thư và gây ung thư cho cả người lớn lẫn trẻ em đã được tính toán dựa vào dữ liệu thu thập
được trong nghiên cứu này và kết quả được trình bày trong Bảng 2.
Bảng. 2 Chỉ số nguy cơ không gây ung thư và chỉ số nguy cơ gây ung thư của kim loại
trong mẫu bụi đường đối với trẻ em và người lớn

Chỉ số nguy cơ không gây ung thư


HQing HQinh HQderm HI
Kim loại Trẻ em Người lớn Trẻ em Người lớn Trẻ em Người lớn Trẻ em Người lớn
Pb 1,23E- 1,12E-02 3,43E-06 1,64E-06 2,30E- 2,98E-04 1,26E-01 1,15E-02
01 03
As 3,61E- 3,29E-02 1,01E-05 4,82E-06 2,47E- 3,20E-04 3,64E-01 3,32E-02
01 03
Cr 3,58E- 3,25E-02 1,05E-03 5,02E-04 5,01E- 6,49E-03 4,09E-01 3,95E-02
01 02
Chỉ số nguy cơ gây ung thư
CRing CRinh CRderm TCR
Kim loại Trẻ em Người lớn Trẻ em Người lớn Trẻ em Người lớn Trẻ em Người lớn
Pb 3,67E- 3,34E-07 5,07E-10 2,42E-10 3,67E-06 3,34E-07
06
As 1,63E- 1,48E-05 4,58E-09 2,19E-09 1,11E- 1,44E-07 1,64E-04 1,49E-05
04 06
Cr 5,37E- 4,88E-05 1,26E-06 6,03E-07 5,38E-04 4,94E-05
04

Các chỉ số nguy cơ gây ung thư và không gây ung thư của các kim loại trong
nghiên cứu này đều được xếp theo thứ tự ing > derm > inh, cho thấy đường tiếp xúc
chính với nguy cơ gây ung thư đối với cả trẻ em và người lớn là qua đường ăn uống, sau
đó là qua tiếp xúc da và hô hấp. Kết quả tương tự cũng được báo cáo bởi nghiên cứu tại
Thành Đô, Trung Quốc và Ahvaz, Iran (Cheng và cộng sự 2018; Ghanavati và cộng sự
2019). Các kết quả tính toán đều thể hiện chỉ số rủi ro sức khỏe đối với trẻ em là cao hơn
người lớn. Trên thực tế, trẻ em dễ bị ngộ độc kim loại hơn vì chúng có nhiều khả năng vô
tình nuốt phải một lượng đáng kể bụi đường trong khi vui chơi.
Cr là kim loại với chỉ số không gây ung thư và gây ung thư cao nhất trong các kim
loại được khảo sát. Cr là một kim loại nặng độc hại, thường được sử dụng trong sản xuất
thép, sản xuất kim loại, xi mạ, sơn và các hoạt động công nghiệp khác, thông qua tiếp xúc
lâu dài kim loại này tích lũy sinh học trong cơ thể người và gây ra các sự thay đổi hoá
học trong tế bào. Do đó, Cr được xem là một tác nhân gây ung thư tiềm tàng và nguy
hiểm cho sức khỏe.
Mặc dù TCRTrẻ em và TCRNgười lớn dao động từ 1 × 10−6 đến 1 × 10−4 được coi là giới
hạn rủi ro ung thư có thể chấp nhận được (USEPA1996), tuy nhiên, các kim loại này có
tính tích lũy, và theo thời gian đây là các tác nhân gây ung thư cao (USEPA 2000). Do
đó, kết quả này cho thấy các nguy cơ tiềm ẩn về sức khỏe của người dân, cần được cảnh
báo và nâng cao sự quan tâm của chính quyền địa phương trong công tác quản lý chất
lượng môi trường.
4. Kết luận
Nghiên cứu tiến hành khảo sát nồng độ một số kim loại trong mẫu bụi đường thu
thập tại khu vực hoạt động của nhà máy phối trộn bê tông thuộc nội thị TP.HCM. Trong
đó, nồng độ trung bình của các kim loại trong mẫu bụi được khảo sát trong nghiên cứu
giảm dần theo thứ tự Ca > Mg > Ti > Cr > Pb > As. Trong đó, Ca, Mg, và Ti là nhóm
chiếm thành phần chính tồn tại trong mẫu bụi đường (>99%), cho thấy hoạt động nghiền
trộn từ nhà máy phối trộn bê tông đã ảnh hưởng đến gia tăng nồng độ các kim loại này
trong bụi đường tại khu vực khảo sát. Tuy nhiên, ảnh hưởng của nhà máy phối trộn bê
tông đến nhóm kim loại Cr, Pb và As là chưa rõ ràng. Sự phân bố nồng độ các kim loại là
không đồng đều tại các vị trí nghiên cứu và xu hướng cao hơn tại khu vực đường Nguyễn
Văn Bá, nơi hoạt động chủ yếu của xe chở bê tông. Tuy nhiên, do phạm vi lấy mẫu nhỏ
nên thành phần bụi trên cả 2 tuyến đường lấy mẫu chính vẫn chứa hàm lượng cao các kim
loại liên quan đến xi măng như Ca.
Các giá trị Igeo, EF, Pi và PLI cũng đã được khảo sát. Tuy nhiên, do đặc tính các
kim loại đến từ địa chất có thành phần tương đồng với xi măng, và do đó mặc dù nồng độ
của Ca, Mg cao nhưng các giá trị Igeo, EF, Pi và PLI tương đối thấp, dẫn đến chưa phản
ánh đầy đủ ảnh hưởng của nhóm kim loại này. Trong khi đó, As, thể hiện giá trị cao nhất
đối với cả mức độ tích tụ kim loại, hệ số làm giàu, lẫn chỉ số tải trọng ô nhiễm (1,3; 4,35;
3,77, theo thứ tự). Điều này là tương tự với các nghiên cứu trước đây với bụi đường tại
khu vực xung quanh khu công nghiệp, nhà máy xi măng và khu vực có lưu lượng giao
thông cao và các công trường xây dựng.
Nghiên cứu cũng đưa ra báo cáo sơ bộ về đánh giá rủi ro sức khỏe từ bụi đường
đến các chỉ số nguy cơ không gây ung thư và gây ung thư cho cả người lớn lẫn trẻ em .
Trong đó, con đường tiếp xúc chính đến nguy cơ gây ung thư đối với cả trẻ em và người
lớn là qua đường ăn uống, sau đó là qua tiếp xúc da và hô hấp. Đối với chỉ số nguy cơ
không gây ung thư, Al được đánh giá rủi ro gây bệnh cao nhất, trong khi đó, Cr lại là kim
loại có khả năng gây ung thư cao nhất. Các kết quả tính toán đều thể hiện chỉ số rủi ro
sức khỏe đối với trẻ em là cao hơn người lớn.

Lời cám ơn
5. Tài liệu tham khảo
Akram W, Morgan Madhuku KS, Awais A, Ahmad I, Arif M, Ahmad I (2014) Roadside
dust contamination with toxic metals along industrial area in Islamabad, Pakistan.
Nucl Sci Tech 25:30201–030201
Alharbi BH, Pasha MJ, Alotaibi MD, Alduwais AK, Al-Shamsi MAS (2020)
Contamination and risk levels of metals associated with urban street dust in Riyadh,
Saudi Arabia. Environ Sci Pollut Res, 1- 13 27:18475–18487.
https://doi.org/10.1007/s11356-020-08362-7
Bartholomew CJ, Li N, Li Y, Dai W, Nibagwire D, Guo T (2020) Characteristics and
health risk assessment of heavy metals in street dust for children in Jinhua, China.
Environ Sci Pollut Res 27:5042– 5055. https://doi.org/10.1007/s11356-019-07144-0
Buat-Menard, P.; Chesselet, R. Variable influence of the atmospheric flux on the trace
metal chemistry of oceanic suspended matter. Earth Planet. Sci. Lett. 1979, 42, 399–
411. [CrossRef]
Chen X, Lu X, Yang G (2012) Sources identification of heavy metals in urban topsoil
from inside the Xi'an Second Ringroad, NW China using multivariate statistical
methods. Catena 98:73–78. https://doi. org/10.1016/j.catena.2012.06.007
Cheng, Z.; Chen, L.-J.; Li, H.-H.; Lin, J.-Q.; Yang, Z.-B.; Yang, Y.-X.; Xu, X.-X.; Xian,
J.-R.; Shao, J.-R.; Zhu, X.-M. Characteristics and health risk assessment of heavy
metals exposure via household dust from urban area in Chengdu, China. Sci. Total
Environ. 2018, 619, 621–629. [CrossRef]
Chin-Yu Hsu, Hung-Che Chiang, Sheng-Lun Lin, Mu-Jean Chen, Tzu-Yu Lin, Yu-
Cheng Chen, 2016. Elemental characterization and source apportionment of PM10
and PM2.5 in the western coastal area of central Taiwan, Science of The Total
Environment, Volume 541, Pages 1139-1150.
Dat, N.D., Nguyen, V.T., Vo, T.D.H., Bui, X.T., Bui, M.H., Nguyen, L.S.P., Nguyen,
X.C., Tran, A.T.K., Nguyen, T.T.A., Ju, Y.R., Huynh, T.M.T., 2021. Contamination,
source attribution, and potential health risks of heavy metals in street dust of a
metropolitan area in Southern Vietnam. Environ. Sci. Pollut. Res. 28, 50405–50419.
Duan Z, Wang J, Cai X, Wu Y, Xuan B (2019) Spatial distribution and human health risk
assessment of heavy metals in campus dust: A case study of the university town of
Huaxi. Human and Ecological Risk Assessment: An International Journal, 1-14.
https://doi.org/10. 1080/10807039.2018.1548900
Duong TTT, Lee BK (2011) Determining contamination level of heavy metals in road
dust from busy traffic areas with different characteristics. J Environ Manag 92:554–
562. https://doi.org/10.1016/j. jenvman.2010.09.010
Ewen C, Anagnostopoulou MA, Ward NI (2009) Monitoring of heavy metal levels in
roadside dusts of Thessaloniki, Greece in relation to motor vehicle traffic density and
flow. Environ Monit Assess 157: 483–498. https://doi.org/10.1007/s10661-008-
0550-9
Fang, G.C.; Wu, Y.S.; Chang, S.Y.; Huang, S.H.; Rau, J.Y. Size distributions of ambient
air particles and enrichment factor analyses of metallic elements at Taichung Harbor
near the Taiwan Strait. Atmos. Res. 2006, 81, 320–333. [CrossRef]
Ghanavati N, Nazarpour A, De Vivo B (2019) Ecological and human health risk
assessment of toxic metals in street dusts and surface soils in Ahvaz, Iran. Environ
Geochem Health 41:875–891. https://doi.org/10.1007/s10653-018-0184-y
Ghanavati, N.; Nazarpour, A.; De Vivo, B. Ecological and human health risk assessment
of toxic metals in street dusts and surface soils in Ahvaz, Iran. Environ. Geochem.
Health 2019, 41, 875–891. [CrossRef] [PubMed]
Hayrat, A.; Eziz, M. Identification of the spatial distributions, pollution levels, sources,
and health risk of heavy metals in surface dusts from Korla, NW China. Open
Geosci. 2020, 12, 1338–1349. [CrossRef]
Hini G, Eziz M, Wang W, Ili A, Li X (2019) Spatial distribution, contamination levels,
sources, and potential health risk assessment of trace elements in street dusts
ofUrumqi city,NWChina. Human and Ecological Risk Assessment: An International
Journal, 1-17. https://doi.org/10.1080/10807039.2019.1651629
IARC (2014) Agents Classified by the International Agency for Research on Cancer
Monographs. 1–109
Idris AM, Alqahtani FMS, Said TO, Fawy KF (2020) Contamination level and risk
assessment of heavy metal deposited in street dusts in Khamees-Mushait city, Saudi
Arabia. Human and Ecological Risk Assessment: an International Journal 26:495–
511. https://doi. org/10.1080/10807039.2018.1520596
Jithin Jose . B. Srimuruganandam, 2020. Investigation of road dust characteristics and its
associated health risks from an urban environment. Environ Geochem Health.
https://doi.org/10.1007/s10653-020-00521-6(0123456789().,-volV() 0123458697().,-
volV)
Joshi UM, Vijayaraghavan K, Balasubramanian R (2009) Elemental composition of
urban street dusts and their dissolution characteristics in various aqueous media.
Chemosphere 77:526–533. https:// doi.org/10.1016/j.chemosphere.2009.07.043
Joshi, U.M.; Vijayaraghavan, K.; Balasubramanian, R. Elemental composition of urban
street dusts and their dissolution characteristics in various aqueous media.
Chemosphere 2009, 77, 526–533. [CrossRef]
Kabadayi F, Cesur H (2010) Determination of Cu, Pb, Zn, Ni, Co, Cd, and Mn in road
dusts of Samsun City. Environ Monit Assess 168: 241–253.
https://doi.org/10.1007/s10661-009-1108-1
Kabadayi F, Cesur H (2010) Determination of Cu, Pb, Zn, Ni, Co, Cd, and Mn in road
dusts of Samsun City. Environ Monit Assess 168: 241–253.
https://doi.org/10.1007/s10661-009-1108-1
Kamani H, Mirzaei N, Ghaderpoori M, Bazrafshan E, Rezaei S, Mahvi AH (2018)
Concentration and ecological risk of heavy metal in street dusts of Eslamshahr, Iran.
Human and Ecological Risk Assessment: An International Journal 24:961–970.
https://doi.org/ 10.1080/10807039.2017.1403282
Keshavarzi B, Tazarvi Z, Rajabzadeh MA, Najmeddin A (2015) Chemical speciation,
human health risk assessment and pollution level of selected heavy metals in urban
street dust of Shiraz, Iran. Atmos Environ 119:1–10.
https://doi.org/10.1016/j.atmosenv.2015.08.001
Khademi H, Gabarrón M, Abbaspour A, Martínez-Martínez S, Faz A, Acosta J (2020)
Distribution of metal (loid) s in particle size fraction in urban soil and street dust:
influence of population density. Environmental Geochemistry and Health, 1-14
Li H, Qian X, Hu W, Wang Y, Gao H (2013) Chemical speciation and human health risk
of trace metals in urban street dusts from a metropolitan city, Nanjing, SE China. Sci
Total Environ 456:212–221. https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.2013.03.094
Li, F.; Zhang, J.; Huang, J.; Huang, D.; Yang, J.; Song, Y.; Zeng, G. Heavy metals in
road dust from Xiandao District, Changsha City, China: Characteristics, health risk
assessment, and integrated source identification. Environ. Sci. Pollut. Res. 2016, 23,
13100–13113. [CrossRef] [PubMed]
Liu, E.; Yan, T.; Birch, G.; Zhu, Y. Pollution and health risk of potentially toxic metals in
urban road dust in Nanjing, a mega-city of China. Sci. Total Environ. 2014, 476,
522–531. [CrossRef]
Mirosław Skorbiłowicz1*, Elżbieta Skorbiłowicz1, 2019. Content of Calcium,
Magnesium, Sodium and Potassium in the Street Dust from the Area of Białystok
(Poland). Journal of Ecological Engineering. Volume 20, Issue 10, pages 125–131
Namaghi, H. H., Karami, G. H., & Saadat, S. (2011). A study on chemical properties of
groundwater and soil in ophiolitic rocks in Firuzabad, east of Shahrood, Iran: With
emphasis to heavy metal contamination. Environmental Monitoring and Assessment,
174(1–4), 573–583
Nguyen Duy Dat a, Minh Tri Truong b c, Ly Sy Phu Nguyen b c, Anh Thi Kim
Tran a, Nguyen Minh Duc a, Thi-Dieu-Hien Vo d, Guey-Rong Sheu e (2023). Street
dust mercury levels among different land-use categories in Ho Chi Minh city,
Vietnam: Source apportionment and risk estimation. Atmospheric Pollution Research
14, 101623
Nguyen, L.S.P., Hien, T.T., Truong, M.T., Chi, N.D.T., Sheu, G.R., 2022. Atmospheric
particulate-bound mercury (PBM10) in a Southeast Asia megacity: sources and
health risk assessment. Chemosphere, 135707.
Nguyen, V.T., Duy Dat, N., Vo, T.D.H., Nguyen, D.H., Nguyen, T.B., Nguyen, L.S.P.,
Nguyen, X.C., Dinh, V.C., Nguyen, T.H.H., Huynh, T.M.T., Hoang, H.G., 2021.
Characteristics and risk assessment of 16 metals in street dust collected from a
highway in a densely populated metropolitan area of Vietnam. Atmosphere 12 (12),
1548.
Phi TH, Chinh PM, Cuong DD, Ly LTM, Van Thinh N, Thai PK (2018) Elemental
concentrations in roadside dust along two national highways in northern Vietnam and
the health-risk implication. Arch Environ Contam Toxicol 74:46–55.
https://doi.org/10.1007/s00244-017-0477-7
Phi TH, Chinh PM, Ly LTM, Thai PK (2017) Spatial distribution of elemental
concentrations in street dust of Hanoi, Vietnam. Bull Environ Contam Toxicol
98:277–282. https://doi.org/10.1007/s00128-016-2001-6
Qadeer A, Saqib ZA, Ajmal Z, Xing C, Khalil SK, Usman M, Huang Y, Bashir S, Ahmad
Z, Ahmed S (2020) Concentrations, pollution indices and health risk assessment of
heavy metals in road dust from two urbanized cities of Pakistan: Comparing two
sampling methods for heavy metals concentration. Sustain Cities Soc 53:101959.
https://doi.org/10.1016/j.scs.2019.101959
Roy S, Gupta SK, Prakash J, Habib G, Baudh K, Nasr M (2019) Ecological and human
health risk assessment of heavy metal contamination in road dust in the National
Capital Territory (NCT) of Delhi, India. Environ Sci Pollut Res 26:30413–30425.
https://doi. org/10.1007/s11356-019-06216-5
Shimosaka, Kenichi, Toshikatsu Inoue, Hisanobu Tanaka and Yuki Kishimoto.
“Influence of Minor Elements in Clinker on the Properties of Cement: A New
Approach for Application to Commercial Cement Manufacturing.” (2013).
Taylor, S.R., McLennan, S.M. (1995). The geochemical evolution of the continental
crust. Rev. Geophys. 33, 241–265. https://doi.org/10.1029/95RG00262
Trojanowska M, Świetlik R (2019) Investigations of the chemical distribution of heavy
metals in street dust and its impact on risk assessment for human health, case study
of Radom (Poland). Human and Ecological Risk Assessment: An International
Journal 26:1–20. https://doi.org/10.1080/10807039.2019.1619070
Truong, M.T., Nguyen, L.S.P., Hien, T.T., Pham, T.D.H., Do, T.T.L., 2022. Source
apportionment and risk estimation of heavy metals in PM10 at a southern Vietnam
megacity. Aerosol Air Qual. Res. 22, 220094.
USEPA (1994) Method 200.8, Revision 5.4: Determination of trace elements in waters
and wastes by inductively coupled plasma – mass spectrometry, United States
Environmental Protection Agency. https://www.epa.gov/sites/production/files/2015-
08/documents/ method_200-8_rev_5-4_1994.pdf
USEPA (1996) Soil screening guidance: technical background document. EPA/540/R-
95/128. Office of Solid Waste and Emergency Response
USEPA (2000) Guidance for Assessing Chemical Contaminant Data for Use in Fish
Advisories, Volume 1: Fish Sampling and Analysis, 3rd Edition. United States
Environmental Protection Agency (USEPA) 823-B-00-007, Office of Water (4305),
Washington DC.
USEPA (2007a) SW-846 Test Method 3051A: Microwave assisted acid digestion of
sediments, sludges, soils, and oils, United States Environmental Protection Agency.
https://www.epa.gov/sites/ production/files/2015-12/documents/3051a.pdf.
USEPA (2007b) Estimation of relative bioavailablity of lead in soil and soil-like
materialsusing in vivo and in vitro methods. Office of Solid Waste andEmergency
Response. U.S. Environmental Protection Agency, Washington, DC
USEPA (2010) Integrated Risk Information System (IRIS); United States Environmental
Protection Agency. USEPA. United States Environmental Protection Agency,
Washington
USEPA (2011) Exposure Factors Handbook: 2011 Edition,Washington, DC, EPA/600/R-
09/052F, United State Environmental Protection Agency
USEPA (2014) Method 6020B (SW-846): Inductively coupled plasmamass spectrometry,
United States Environmental Protection Agency.
https://www.epa.gov/sites/production/files/2015-12/ documents/6020b.pdf.
USEPA. Method 200.8, Revision 5.4: Determination of Trace Elements in Waters and
Wastes by Inductively Coupled Plasma—Mass Spectrometry; United States
Environmental Protection Agency: Washington, DC, USA, 1994.
USEPA. SW-846 Test. Method 3051A: Microwave Assisted Acid Digestion of
Sediments, Sludges, Soils, and Oils; United States Environmental Protection Agency:
Washington, DC, USA, 2007.
Vo, P.L., 2007. Urbanization and water management in Ho Chi minh city, vietnam-
issues, challenges and perspectives. Geojournal 70 (1), 75–89.
WeiX,Gao B,Wang P, Zhou H, Lu J (2015) Pollution characteristics and health risk
assessment of heavy metals in street dusts from different functional areas in Beijing,
China. Ecotoxicol Environ Saf 112:186– 192.
https://doi.org/10.1016/j.ecoenv.2014.11.005
Ying Cai and Jingdong Zhang 2021, Pollution and health risk assessment of arsenic in
street dust and soil from an industrial zone, IOP Conf. Ser.: Earth Environ. Sci.
791012184
Zhou, L.; Liu, G.; Shen, M.; Hu, R.; Sun, M.; Liu, Y. Characteristics and health risk
assessment of heavy metals in indoor dust from different functional areas in Hefei,
China. Environ. Pollut. 2019, 251, 839–849.

You might also like