You are on page 1of 4

Định nghĩa sáng tạo:

Tính sáng tạo, được hiểu là khả năng đưa ra những ý tưởng vừa mới lạ vừa phù hợp (Amabile, 1996;
Sternberg & Lubart, 1996), tính sáng tạo thường được đo lường bằng các bài kiểm tra tư duy khác biệt
(Guilford, 1967). Các câu trả lời được chấm điểm dựa trên mức độ lưu loát (số lượng ý tưởng), tính linh
hoạt (số lượng danh mục), tính độc đáo (tính mới về mặt thống kê của các câu trả lời) và chi tiết (mức độ
chi tiết). Các thước đo khác về tính sáng tạo bao gồm các thang đo tự báo cáo liên quan đến hành vi, tính
cách và hoạt động sáng tạo (Baas, De Dreu, & Nijstad, 2008; Simonton, 2012) hoặc thành tích sáng tạo
(Carson, Peterson, & Higgins, 2005). Ngoài ra còn một số phương pháp khác để đo lường mức độ sáng
tạo của mỗi cá nhân.

Theo những nghiên cứu trước, nhiều người cho rằng tính sáng tạo là một đặc điểm nổi bật của giới trẻ
ngày nay. Theo nghiên cứu Moses (2006) báo cáo rằng sáng tạo là một đặc điểm ấn tượng của sinh viên
đại học. Sự sáng tạo sẽ giúp ích rất nhiều cho sinh viên trong việc tiếp thu và giải quyết vấn đề một cách
nhanh chóng và hiệu quả hơn. Sinh viên sáng tạo có khả năng tiếp cận với những giải pháp độc đáo, mới
lạ. Bên cạnh đó, nhiều quan điểm cho rằng tính sáng tạo đã trở thành đặc điểm chính của sinh viên và là
kỹ năng thiết yếu của thế kỷ 21 (Chan và Yuen 2014; Robinson 2001 ; Wagner 2014). Sự sáng tạo của
sinh viên nên được khuyến khích, thúc đẩy vì những sinh viên sáng tạo có sự tò mò nhiều hơn, họ mong
muốn học hỏi và tìm kiếm những ý tưởng mới lạ và những giải pháp đột phá.
Mối quan hệ giữa chánh niệm và tính sáng tạo:
Nhiều nghiên cứu trước đã chỉ ra mối liên hệ giữa chánh niệm và sự sáng tạo. Mối liên hệ giữa chánh
niệm và sự sáng tạo còn nhiều tranh cãi. Nhiều tài liệu đưa ra các quan điểm chánh niệm nâng cao khả
năng sáng tạo (Sedlmeier và cộng sự, 2012). Nghiên cứu chứng minh rằng chánh niệm cải thiện khả năng
tập trung của một người, giảm nỗi sợ bị đánh giá và tăng cường suy nghĩ cởi mở đồng thời giảm suy nghĩ
tự ý thức gây khó chịu (Brown, Ryan, & Creswell, 2007). Những điểm này ánh xạ trực tiếp đến các đặc
điểm chính của thói quen làm việc, suy nghĩ và tồn tại sáng tạo trên thế giới, bao gồm: trạng thái thư giãn
hoặc trôi chảy (tăng cường sự tập trung), chấp nhận rủi ro (đòi hỏi không sợ hãi khi phán xét) và tính tò
mò hoặc cởi mở, tư duy cởi mở để trải nghiệm (làm giảm trải nghiệm tự ý thức) (Prabhu, Sutton, &
Sauser, 2008). Về mặt logic, những tác động này gợi ý rằng chánh niệm hỗ trợ các kỹ năng liên quan đến
sự sáng tạo và các kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ chánh niệm tự báo cáo cao có liên quan đến các
thực hành sáng tạo (Colzato, Szapora, & Hommel, 2012).
Việc rèn luyện chánh niệm có thể nâng cao khả năng sáng tạo. Theo nghiên cứu (Carson & Langer, 2006)
chánh niệm gắn liền với khả năng thay đổi quan điểm bằng cách mở rộng sự đồng cảm và cởi mở. Nó làm
tăng khả năng phản ứng của mỗi người trước các tình huống theo cách không theo thói quen—đó là mấu
chốt của sự sáng tạo (Moore & Malinowski, 2009). Rèn luyện chánh niệm có khả năng giảm bớt nỗi sợ bị
phán xét và có lợi cho sự sáng tạo; cũng như khả năng cải thiện trí nhớ làm việc (Chiesa, Calati, &
Serretti, 2011). Cụ thể, những người thiền có kinh nghiệm là những người giải quyết vấn đề tốt hơn và có
khả năng sáng tạo bằng lời nói tốt hơn.
(Greenberg, Reiner, & Meiran, 2012), Jedrczak, Beresford, và Clements (1985) đã phát hiện ra rằng việc
thiền định trong bất kỳ thời gian nào cũng giúp tăng cường khả năng sáng tạo—thậm chí là những khoảng
thời gian nghỉ thiền ngắn. Do đó, về mặt bản thể học, chánh niệm có tác dụng tiềm năng trong việc cải
thiện hoặc nâng cao khả năng sáng tạo bằng cách xây dựng các kỹ năng hoặc cách thức hỗ trợ sự sáng
tạo.
Một số quan niệm trái chiều cho rằng, chánh niệm cũng có khả năng hạn chế tư duy sáng tạo. Có rất nhiều
loại chánh niệm khác nhau, vì vậy không phải loại chánh niệm nào cũng phát triển khả năng sang tạo.
(Colzato và cộng sự, 2012) chỉ ra rằng thiền tập trung chú ý huấn luyện người tham gia tập trung sự chú ý
và nhận thức của họ vào một nhiệm vụ, vật phẩm, suy nghĩ hoặc kích thích cụ thể. Bên cạnh đó, một số
người đã phát hiện ra rằng thiền tập trung chú ý có thể không liên quan đến tính sáng tạo hoặc trong một
số trường hợp nhất định có thể cản trở hiệu suất trong các bài kiểm tra khả năng sáng tạo (Zedelius &
Schooler, 2015).
Mối quan hệ giữa sáng tạo và chánh niệm là vô cùng phức tạp khi có nhiều quan điểm được đưa ra,
Lebuda et al. (2016) phân tích tổng hợp lưu ý rằng ngoài mối liên hệ tích cực nơi chánh niệm nâng cao
khả năng sáng tạo, còn có những lĩnh vực không chắc chắn. Nghiên cứu theo chiều dọc của Horan (2009)
cho thấy sự mâu thuẫn trong mối quan hệ thiền định-sáng tạo bằng cách sử dụng Thử nghiệm Torrance về
Tư duy Sáng tạo, một biện pháp phân biệt giữa khía cạnh ngôn ngữ và hình ảnh của sự sáng tạo. Cụ thể,
các nhóm thực hành thiền định siêu việt cho thấy những tiến bộ đáng kể về tính linh hoạt và độc đáo của
hình tượng, nhưng không có cải thiện nào về khả năng sáng tạo trong lời nói. Colzato et al. (2012) đã
phân tích sự phức tạp bằng cách đánh giá tác động của cả hai loại thiền đối với các nhiệm vụ sáng tạo đối
với tư duy phân kỳ hoặc hội tụ. Tư duy phân kỳ liên quan đến việc giải quyết vấn đề bằng nhiều giải pháp
khả thi—trái ngược với tư duy hội tụ, liên quan đến việc giải quyết vấn đề bằng cách tiếp cận tập trung và
thu hẹp hơn. Các nhà nghiên cứu đã nghiên cứu xem liệu các loại thiền khác nhau có khiến mọi người
hướng tới các trạng thái kiểm soát nhận thức cụ thể liên quan đến sự sáng tạo hay không.
Có rất nhiều quan điểm tích cực và tiêu cực được đưa ra, tuy nhiên, quan điểm chánh niệm nâng cao tính
sáng tạo được kì vọng cao và mong muốn được áp dụng trong môi trường giáo dục. Thiền có thể mang lại
trải nghiệm về tâm trí không thuần túy là ngôn ngữ, mở rộng khả năng sáng tạo của người học bằng cách
khai thác tiềm thức và suy nghĩ trực quan. Claxton (1997) gọi đây là “tiềm thức ngầm” và Malcolm
Gladwell (2005) gọi nó là “tiềm thức thích nghi”. Trải nghiệm trực quan như vậy là cần thiết cho sự sáng
tạo của người học và đòi hỏi sự tập trung vào thời điểm hiện tại và không bị phân tâm bởi những nỗi sợ
hãi và ham muốn. Một vài cuộc nghiên cứu đã diễn ra nhằm tìm kiếm khả năng áp dụng chánh niệm để
nâng cao tính sáng tạo. Justo, Mañas và Ayala (2014) đã nghiên cứu điều này với học sinh trung học, để
phân tích tác động của chương trình chánh niệm ngoại khóa đối với mức độ sáng tạo của một nhóm 50
thanh thiếu niên. Các tác giả đã sử dụng một nhóm học sinh trung học thử nghiệm tham gia chương trình
đào tạo chánh niệm và một nhóm kiểm soát không tham gia. Kết quả của Bài kiểm tra Torrance cho thấy
mức độ sáng tạo cao hơn đáng kể trong nhóm điều trị, sau 10 tuần can thiệp chánh niệm (1,5 giờ tập luyện
mỗi tuần, với 30 phút thiền định hàng ngày). Yeh, Chang và Chen (2019) đã điều tra việc học tập có ý
thức và sự sáng tạo ở một nhóm học sinh tiểu học nhỏ tuổi. Họ tìm cách hiểu chánh niệm trong học tập
sáng tạo dựa trên trò chơi kỹ thuật số, sử dụng khái niệm học tập chánh niệm của Langer (2000) như một
trạng thái tâm trí linh hoạt, trong đó mọi người tích cực tham gia vào hiện tại, nhận thức được những điều
mới và nhạy cảm với bối cảnh. Họ đã phát triển một chương trình đào tạo ban đầu về sự sáng tạo và một
công cụ để đo lường việc học tập có ý thức trong quá trình học tập dựa trên trò chơi. Nghiên cứu của họ
tập trung vào cách các đặc điểm của người chơi sẽ ảnh hưởng đến trải nghiệm thành thạo của họ trong
quá trình học tập dựa trên trò chơi sáng tạo kỹ thuật số. Kết quả gợi ý rằng học tập chánh niệm có thể hỗ
trợ sự sáng tạo trong hệ thống học tập dựa trên trò chơi; và các học sinh tham gia trở nên tự tin hơn vào
năng lực sáng tạo của chính mình. Điều này thật thú vị, bởi vì sự tự tin sáng tạo đã được chứng minh là
động lực thúc đẩy tiềm năng sáng tạo (Beghetto, 2006).
Mặc dù mối quan hệ giữa chánh niệm và sự sáng tạo là vô cùng phức tạp, những nghiên cứu còn hạn chế,
nhiều quan điểm khác nhau được đưa ra. Nhưng qua những cuộc nghiên cứu, việc rèn luyện chánh niệm
nâng cao tính sáng tạo là một quan điểm có cơ sở, đây là tiền đề giúp chúng ta thực hiện thêm nhiều cuộc
nghiên cứu để có thể khắc phục những tác động tiêu cực của chánh niệm và đưa chánh niệm vào giáo dục
để nâng cao tính sáng tạo của học sinh, sinh viên.
Những bài nghiên cứu trước về Antecedents tác động đến Creativity:
Ngày nay mức độ sử dụng phương tiện truyền thông xã hội ở lứa tuổi học sinh, sinh viên là vô cùng lớn.
Nó không ngừng tác động vào cuộc sống và suy nghĩ của lứa tuổi gen Z. Một trong những yếu tố quan
trọng cần đề cập đến là vai trò quan trọng của việc chia sẻ kiến thức trên các phương tiện truyền thông xã
hội. Nhờ vào sự nhanh chóng và tiện lợi của phương tiện truyền thông xã hội, sinh viên có thể dễ dàng
đổng thời chia sẻ và cập nhật kiến thức, thông tin trên nền tảng mạng xã hội, từ đó kích thích khả năng
sáng tạo trong mỗi học sinh, sinh viên. Lau et al. (2017) cho rằng với sự trợ giúp của phương tiện truyền
thông xã hội, sinh viên hợp tác và tương tác với các chuyên gia để nâng cao thành tích học tập của họ.
Ngày nay, trong một môi trường trực tuyến, nơi học sinh có cơ hội sử dụng các công cụ khác nhau để truy
cập nhiều nguồn tài nguyên khác nhau, điều này khuyến khích khả năng đa nhiệm (Calderwood và cộng
sự, 2014), dẫn dắt sự sáng tạo. Các công cụ truyền thông xã hội được thiết kế như ResearchGate và
Academia.edu và Slidesahre.net đang hoạt động rất tốt trong lĩnh vực giáo dục. Cụ thể, những công cụ
này rất quan trọng đối với việc chia sẻ kiến thức và cộng tác giữa các sinh viên.
Tuy nhiên, bắt nạt trên mạng là một tác động đáng báo động trên nền tảng mạng xã hội. Nó mang đến
những ảnh hưởng tiêu cực cho học sinh, sinh viên, dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng và lâu dài trong
tâm trí của người dùng phương tiện truyền thông xã hội. Bắt nạt trên mạng là một hành vi lạm dụng, đe
dọa và xúc phạm các cá nhân mà họ áp dụng khi sử dụng internet (Neto và Barbosa 2019). Bắt nạt trên
mạng là một khái niệm gần đây đã trở nên phổ biến trong giới học giả về hệ thống thông tin. Các nghiên
cứu lập luận rằng bắt nạt trực tuyến ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả của các cá nhân (Kowalski và cộng
sự 2016; Whittaker và Kowalski 2015). Bắt nạt trên mạng để lại những hậu quả nghiêm trọng, từ rối loạn
tâm lý đến tự sát (Cénat và cộng sự 2014; Goldman 2010; Schneider và cộng sự 2012). Bắt nạt trên mạng
có hại cho mọi bộ phận cá nhân, nhưng nó đặc biệt nghiêm trọng đối với học sinh vì họ hầu hết còn trẻ và
dễ trở thành nạn nhân của bắt nạt trên internet (WM Al-Rahmi et al. 2019; Hinduja và Patchin 2017). Bắt
nạt trên mạng mang lại những ảnh hưởng vô cùng xấu trong quá trình phát triển và trưởng thành của
học sinh, sinh viên, những điều xảy ra có thể tạo thành bóng ma tâm lý, khiến chúng trở nên tự ti vào
bản thân, nghiêm trọng hơn có thể dẫn đến nguy cơ mắc bệnh trầm cảm ở học sinh, sinh viên.

Tiktok use creativity


Nhiều nghiên cứu khám phá ra rằng, động lực nội tại của học sinh, sinh viên như một yếu tố trung gian
trong mối quan hệ tích cực giữa việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội của sinh viên với khả năng
sáng tạo và kết quả học tập của họ. Theo Donche et al. (2013), động lực được xem như một mô hình tâm
lý trong quá trình học tập. Sinh viên sử dụng phương tiện truyền thông xã hội kích thích động lực học tập
nội tại cao từ đó nâng cao hiệu suất và tính sáng tạo của mỗi sinh viên. Việc sử dụng phương tiện truyền
thông xã hội của sinh viên có thể thúc đẩy họ theo nhiều cách, chẳng hạn như bằng cách đưa ra ví dụ về
những sinh viên đạt thành tích cao khác. Ruleman (2012) tuyên bố rằng cuộc cách mạng liên tục trong
công nghệ và các công cụ liên quan đang giúp sinh viên giao tiếp hiệu quả, làm việc nhóm và xây dựng
mối quan hệ. Bên cạnh đó, việc sử dụng phương tiện truyền thông xã hội mang đến cho chúng ta những
lợi ích tốt đẹp. Phương tiện truyền thông xã hội được sử dụng hiệu quả để hợp tác, giao lưu, chia sẻ và
hợp tác (Hamid et al., 2009) có thể nâng cao động lực của sinh viên trong nghiên cứu và học tập. Zheng et
al. (2016) cho rằng mục tiêu quan trọng của việc sử dụng mạng xã hội là tăng cường khả năng duy trì,
cam kết và động lực của sinh viên trong các cơ sở giáo dục. Trong nhiều nghiên cứu trước đây, việc sử
dụng phương tiện truyền thông và xã hội có mối liên hệ với nhau thông qua biến trung gian là động lực
nội tại. Thông qua các hoạt động trên mạng truyền thông như là duy trì mức độ tương tác, làm việc nhóm,
giao lưu, … động lực nội tại ở mỗi sinh viên được thúc đẩy và duy trì. Động lực nội tại rất quan trọng đối
với hiệu suất và sự gắn kết trong công việc của cá nhân (Hendijani và cộng sự 2016; Skinner và Chi
2012). Đây là cầu nói giúp học sinh và sinh viên sử dụng mạng xã hội một cách đúng đắn và hợp lý.
Các nghiên cứu như Balcikanli (2015) cho thấy việc sử dụng Facebook tạo điều kiện thuận lợi cho mức
độ tương tác giữa giáo viên-học sinh và học sinh. phương tiện truyền thông xã hội cung cấp một nền tảng
cho sự tương ứng năng động giữa những người dùng và cho phép họ chia sẻ thông tin mới một cách dễ
dàng (Burke et al., 2010). Lankshear và Knobel (2011) xem phương tiện truyền thông xã hội như một
công cụ giúp tăng cường sự quan tâm của các cá nhân đối với nội dung được chia sẻ. Đồng thời, các nền
tảng truyền thông xã hội như Researchcchgate, Academia.edu, Linkedin, Facebook, v.v. cung cấp một
cộng đồng học tập như cho sinh viên, tạo điều kiện thuận lợi cho họ tham gia vào các hoạt động học
thuật. Tại các nền tảng truyền thông xã hội này, học sinh, sinh viên có thể dễ dàng tham gia những khoá
học trực tuyến, đồng thời có thể dễ dàng chia sẻ quan điểm, kiến thức của cá nhân đến tất cả mọi người,
tại đây, học sinh, sinh viên còn có thể cập nhật những kiến thức hay, bổ ích từ mọi người. Nhờ vào các
nền tảng truyền thông xã hội, việc chia sẻ thông tin, kiến thức, liên lạc,… ngày càng diễn ra dễ dàng hơn.
Đây là một động lực thúc đẩy tính tò mò, khả năng tìm tòi học hỏi của học sinh, sinh viên, từ đó kích
thích, nâng cao khả năng sáng tạo của họ.

You might also like