You are on page 1of 65

NỘI DUNG 1: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC

Phần lí luận
֎ Khái niệm
- Theo Lênin: "Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được
đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh
và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác"
- Ý thức: Là sự phản ánh năng động, sáng tạo của thế giới khách quan vào trong bộ não
con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
֎ Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức
Chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng, vật chất có trước ý thức có sau, vật chất quyết
định ý thức; còn ý thức là sự phản ánh vật chất vào trong bộ óc con người.
Cụ thể hơn, trong đời sống xã hội thì nhân tố vật chất quyết định nhân tố ý thức.
Nhân tố vật chất bao gồm: Điều kiện vật chất, hoàn cảnh sống, điều kiện khách quan, quy luật
khách quan, khả năng khách quan.... năng lực thật sự còn bị hạn chế)
Nhân tố ý thức bao gồm: Tư tưởng, quan điểm, lý luận, đường lối, chính sách, mục tiêu, phương
hướng, giải pháp, biện pháp, cách thức hành động...
Vật chất quyết định ý thức thể hiện ở những nội dung cơ bản:
- Vật chất quyết định nguồn gốc của ý thức: Không có vật chất sẽ không có ý thức.
VD: Ông bà ta có câu “Có thực mới vực được đạo”, khi con người không được ăn no thì sức
khỏe và não bộ sẽ khó có thể hoạt động và đủ tỉnh táo để hoạt động.
- Vật chất quyết định nội dung của ý thức: Nội dung của ý thức mang tính khách quan, do
thế giới khách quan quy định.
VD: Khi nhìn một con sông, hình ảnh của con sông sẽ được phản ánh vào trong bộ não của
chúng ta một cách trung thực. Đặc điểm hình ảnh con sông trong não bộ do hình ảnh con sông
trong thế giới khách quan quyết định.
- Vật chất quyết định bản chất của ý thức: Bản chất sáng tạo và bản chất xã hội của ý thức
cũng phải dựa trên những tiền đề vật chất nhất định.
VD: Dựa trên những nguyên liệu có sẵn, con người sáng tạo ra những công cụ lao động để hỗ trợ
trong công việc của mình.
- Vật chất quyết định phương thức tồn tại và kết cấu của ý thức: Tri thức và các yếu tố của
tri thức đều dựa trên sự phản ánh vật chất.
VD: Khi nghe một bài hát hay, niềm tin và cảm xúc của con người được hình thành thông qua
lắng nghe một cách chăm chú và có sự phân tích.
Sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất:
- Ý thức là ý thức của con người, gắn liền với tính năng động, sáng tạo của nhân tố con người,
nhân tố chủ quan; mặt khác, ý thức là sự phản ánh sáng tạo đối với thế giới.
VD: Cả lớp phải tham gia làm một bài kiểm tra, có bạn sẽ học bài theo hình thức thông thường,
có bạn lại chăm chỉ tìm thêm những bài tập thực hành để củng cố kiến thức nhằm chuẩn bị cho
bài kiểm tra ấy.
- Ý thức phản ánh phù hợp với vật chất thì nó sẽ thúc đẩy các quá trình vật chất phát triển. Nếu ý
thức phản ánh không phù hợp với vật chất thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển của các quá trình vật
chất.
VD: Trước tình hình công ty đang gặp khó khăn về nội dung ý tưởng cho phát hành sản phẩm,
ban lãnh đạo có người sẽ xem xét, đánh giá tình hình để tìm ra phương án nhưng cũng có người
vì thấy khó khăn mà đã bỏ cuộc.
- Muốn có sức mạnh để tác động vào vật chất thì ý thức phải được thâm nhập vào con người và
được tổ chức thực hiện trong thực tiễn.
VD: Khi thấy các em học sinh đang gặp rắc rối với một nội dung ngữ pháp trong Tiếng Anh,
giáo viên có ý định thiết kế một sơ đồ tư duy để giúp các em hiểu hơn. Muốn thế thì người giáo
viên phải thực hiện ý tưởng đó trong thực tế thì mới có thể tháo gỡ khúc mắc của học sinh. Nếu
không, suy nghĩ đó chỉ dừng lại ở mức ý tưởng.
 Vì vậy, Ý thức quyết định thành công hay thất bại của con người trong thực tiễn.

֎ Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Thứ nhất, vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn trọng nguyên tắc tính
khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và
hành động theo các quy luật khách quan.
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy tính năng động
chủ quan, nghĩa là phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, là đã tuyệt đối hóa, thổi phồng tính tích
cực, sáng tạo của ý chí.
Thứ tư, cần phải chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ là đã hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý thức.
Thứ năm, khi xem xét các hiện tượng xã hội cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố
tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan.
Phần vận dụng

1. Vận dụng trong đời sống học tập của sinh viên
Trong cuộc sống: vấn đề quản lý tiền nong, vấn đề sinh sống với bạn trong ký túc xá, vấn đề đi
lại, vấn đề tham gia các hoạt động,...
Trong học tập: đăng kí học phần, lên thời gian biểu, làm việc nhóm, trao đổi thông tin với giảng
viên và sinh viên,...
Cấu trúc: thực trạng -> tri thức – tình cảm – niềm tin – ý chí (ý thức – tự ý thức – tiềm thức) ->
giải pháp  kết quả đạt được
Là một sinh viên năm nhất của Trường Đại học Sư phạm TPHCM, chúng tôi học theo chế độ tín
chỉ, là lớp người có khả năng tiếp thu những cái mới với nhu cầu mở rộng kiến thức, tự tìm hiểu,
tự học và phát triển theo định hướng của bản thân. Điều này được vận dụng trong việc đăng ký
học phần của sinh viên. Người học mong muốn vận dụng tri thức để chọn lọc những thông tin bổ
ích, nắm rõ các phương thức đăng ký học phần cũng như xem xét kỹ lưỡng các môn cần học và
chủ động lên thời gian biểu phù hợp cho bản thân, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn về học phần
mình đã chọn. Người học vận dụng tình cảm để bảo đảm rằng những quyết định của bản thân là
sáng suốt, chẳng hạn như người học phải có niềm đam mê, sự hứng thú với những môn học mà
mình đăng ký. Chính niềm đam mê ấy sẽ là chiếc chìa khóa vạn năng mở ra chân trời tri thức
trên hành trình theo đuổi giấc mơ. Sau khi đã xác định rõ ràng những học phần mình chọn, biết
được các tiềm năng cũng như mặt hạn chế của bản thân, người học phải có niềm tin về tính hiệu
quả cho những quyết định của mình. Từ đó, khi vấp phải những khó khăn hay bất cập trong quá
trình học tập, người học phải có ý chí, nghị lực để khắc phục và vượt qua chúng để đạt được mục
đích cuối cùng của bản thân. Nhưng ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất, nên ta phải
phát huy tinh tích cực, năng động, sáng tạo của ý thức. Cụ thể là em đã vận dụng để đưa ra
phương án tốt nhất trong việc đăng ký học phần đồng thời nâng cao năng suất học tập của bản
thân bằng cách chủ động tìm kiếm kiến thức, tham khảo thêm các cuốn sách chuyên ngành ở kho
kiến thức của thư viện hoặc kho sách của khoa, các tài liệu trên mạng Internet, tìm được hứng
thú cũng như niềm vui qua mỗi môn học, cụ thể hóa bằng những kế hoạch phù hợp với thực tế và
tỉnh táo vượt qua những cám dỗ.
Bên cạnh đó, sinh viên cần tự ý thức được mình cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí cũng như
bệnh bảo thủ trì trệ.Trong nhịp sống phát triển hiện đại như ngày nay, việc thường xuyên cập
nhật các kiến thức, thông tin mới mẻ là một điều hết sức cần thiết đối với mỗi người chúng ta.
Ngoài ra, việc lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp từ người khác sẽ giúp ta ngày càng phát
triển và hoàn thiện bản thân, không nên xem những ý kiến của mình là luôn đúng mà cần phải
lắng nghe từ người khác. Chẳng hạn như trong việc học tập, chúng ta nên luôn cập nhật những
thông tin, kiến thức mới cùng với phương pháp học hiện đại để việc học trở nên dễ dàng hơn.
Cuối cùng khi giải thích các hiện tượng xã hội cần tính đến các điều kiện vật chất lẫn yếu tố tinh
thần, điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Hiện nay, sinh viên có xu hướng học vượt
nhưng chưa xem xét kỹ về các nhân tố chủ quan như khả năng, thời gian của bản thân lẫn điều
kiện khách quan như điều kiện tài chính gia đình dẫn đến kết quả học tập chưa như mong đợi. Từ
đó cá nhân nên lượng sức mình và xác định đã học môn nào là chắc môn đó. Nên tính toán sao
cho vừa sức bởi học vượt đòi hỏi ngoài giờ học ở lớp, sinh viên phải tự học, tự nghiên cứu, đọc
thêm tài liệu thì mới phát huy hiệu quả học tập.
2. VẬN DỤNG TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Nhìn chung, giáo dục đại học vẫn tụt hậu so với các nước trong khu vực và thế giới; phát triển
chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ và chưa đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng nhận định: "Nội dung chương trình, giáo trình, phương pháp giảng dạy ở
nhiều cơ sở giáo dục đại học còn nặng về lý thuyết, nhẹ thực hành [...] Đào tạo vẫn thiếu gắn kết
với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động."
Việc đổi mới trong giáo dục luôn là điều cấp thiết, đặc biệt là khi hệ thống giáo dục vẫn còn
nhiều lỗ hổng như hiện nay. Nhận thức về được thực trạng này sẽ là nguồn động lực để người
học và các nhà giáo dục có hoạt động thay đổi, để ý thức phát huy tính năng động sáng tạo. Cải
thiện những cách dạy lý thuyết khô khan và tăng cường hoạt động thực tiễn trong giáo dục, vừa
tạo sự hứng thú, vừa có thể áp dụng vào thực tiễn. Điều này tác động đến nhu cầu học tập (người
học mong muốn vận dụng tri thức sẽ tìm tòi phương pháp áp dụng lý thuyết vào thực tiễn), nhu
cầu xã hội (các tổ chức sẽ khuyến khích những cá nhân năng động, sáng tạo qua các cuộc thi),
nhu cầu cải cách giáo dục của nhà nước (thay đổi chương trình học). sau khi xác định rõ ràng
phương pháp cải cách giáo dục, biết được những tiềm năng cũng như các mặt hạn chế, con người
sẽ đạt được có niềm tin về tính hiệu quả của các phương pháp học tập mang tính thực tiễn cao,
những chính sách đổi mới sẽ nhận được sự ủng hộ từ xã hội. Từ đó, khi vấp phải những sai lầm
trong lúc thực hiện con người sẽ có ý chí quyết tâm khắc phục để đạt được mục đích đã đề ra ban
đầu.
Đồng thời, ta cần chống lại bệnh chủ quan duy ý chí, bảo thủ trì trệ. Bệnh chủ quan duy ý chí là
căn bệnh có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng tạo
của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực. Các nhà giáo dục cần tôn trọng nguyên tắc khách quan.
Nếu không xem xét hiện thực mà chỉ dựa vào ý thức chủ quan thì ngành giáo dục sẽ bị tình trạng
bảo thủ trì trệ, không tiếp thu cái mới, không xét đến những đòi hỏi khách quan của xã hội
Cuối cùng, khi giải thích các hiện tượng xã hội, cần xét các điều kiện vật chất lẫn nhân tố tinh
thần, yếu tố khách quan, chủ quan. Một hiện tượng xã hội tồn tại trong lĩnh vực giáo dục hiện
nay là mức độ chênh lệch về giáo dục giữa học sinh thiểu số và mặt bằng chung cả nước.
Vấn đề về trình độ dân trí của học sinh thiểu số cần được xem xét ở khía cạnh về điều kiện vật
chất và các nhân tố chủ quan.
Xét về điều kiện vật chất, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học vẫn còn nhiều thiếu thốn, chưa đáp ứng
được yêu cầu về chất lượng giáo dục, chính sách đãi ngộ đối với giáo viên, nhân viên, cán bộ
quản lý giáo dục chưa đem lại được những khuyến khích vật chất và tinh thần.
Đồng thời, ta cần xem xét các yếu tố chủ quan trong thực trạng về trình độ giáo dục giữa các học
sinh đồng bào thiểu số. Ở một số địa phương, nhận thức của một bộ phận người dân về việc học
tập của con em còn hạn chế, chưa quan tâm tạo điều kiện để con em đi học dẫn đến tình trạng bỏ
học, thất học của các em học sinh thiểu số. Ngoài ra, nhiều học sinh vì mong muốn chăm lo cho
điều kiện kinh tế khó khăn của gia đình mà không tha thiết chuyện học mà trở thành nguồn lao
động chính trong nhà.
Sau khi xem xét các yếu tố khách quan, chủ quan, những nhân tố vật chất tinh thần của hiện
tượng này, ta nhận thấy ngoài quan tâm việc đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học phù hợp với
tình hình thực tế của địa phương thì cần tăng cường công tác nâng cao nhận thức về phát triển
giáo dục đối với các dân tộc thiểu số, các cán bộ quản lý giáo dục địa phương cần can thiệp,
giảm thiểu tác động của các phong tục tập quán lạc hậu như tảo hôn làm ảnh hưởng đến con
đường học tập của các em học sinh dân tộc thiểu số.

3. VẬN DỤNG TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI ĐẤT NƯỚC


Nhìn chung, bên cạnh những thành tựu nước ta đã đạt được trong công cuộc đổi mới đất nước:
Duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá, cơ cấu các ngành kinh tế đã có sự dịch chuyển
tích cực theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh;
trong quá trình này còn tồn tại nhiều khó khăn như: Kinh tế phát triển chưa bền vững, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu lao động đã “chững lại” trong nhiều năm
nhưng chậm có sự điều chỉnh phù hợp, sức cạnh tranh nền kinh tế còn thấp, năng suất lao động
có khoảng cách lớn so với nhiều nước,...

Đại hội XIII của Đảng nhận định: “Đất nước đang đứng trước nhiều thời cơ và thách thức
đan xen, nhiều vấn đề chiến lược mới đặt ra cần phải giải quyết, từ tình hình quốc tế, khu vực dự
báo tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường đến các thách thức mang tính toàn cầu về biến đổi khí
hậu, thiên tai, dịch bệnh và cả những thành tựu ngoạn mục của tiến bộ khoa học công nghệ đang
tác động, ảnh hưởng mạnh mẽ tới đời sống kinh tế - xã hội của đất nước ta cũng như toàn thế
giới.”

Trong quá khứ, những thay đổi của tình hình thế giới, quan hệ với các nước bạn đã tác
động đến công cuộc đổi mới và cuộc khủng hoảng toàn diện, trầm trọng ở Liên Xô và các nước
xã hội chủ nghĩa đã đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta tiến hành đổi mới. Nhận thức được sự cần thiết
của những thay đổi này, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra những chính sách phù hợp cho công cuộc
phát triển đất nước.

Đảng ta nhận định rõ bước phát triển mới của toàn cầu hóa trong những năm tới khi cuộc Cách
mạng công nghiệp 4.0 bùng nổ; từ đó, tính toán sách lược, chiến lược trong tiến trình chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế. Ngoài ra, sự phát triển lâu dài của đất nước đòi hỏi không chỉ lãnh
đạo của đất nước, mà các nhà doanh nghiệp cũng phải hết sức nhanh nhạy nắm bắt thông tin,
khơi thông mọi nguồn lực hiện có vào công cuộc đổi mới đất nước. Mục tiêu chính vẫn là tăng
cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đẩy mạnh
toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi
trường hoà bình, ổn định. Trên hết, mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ cuộc
sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân
dân làm đích đến; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì
thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng".
Có như thế mới củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với những chính sách mà
Đảng, Nhà nước đề ra, cùng với đó là các mặt lợi của xã hội chủ nghĩa. Từ đó, những lúc khủng
hoảng, Nhà nước và dân ta lại càng giữ vững ý chí phát triển quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành
động quyết liệt, năng động, sáng tạo, tích cực của dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ
vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Đồng thời, cần phải chống lại bệnh chủ quan, duy ý chí, tức là thổi phồng tính tích cực, sáng tạo
của ý thức; cũng như bệnh bảo thủ trì trệ, nghĩa là đang hạ thấp tính tích cực, sáng tạo của ý
thức. Trong những năm vừa qua, dù đạt được những thành tựu rất quan trọng, rất đáng tự hào,
nhưng đất nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế. Đảng và Nhà nước
cũng đã xem xét những vấn đề này, từ đó đề ra các chính sách phù hợp, đều có mang tính sáng
tạo và tích cực, trong khi vẫn bám sát vào thực tế khách quan và thực trạng nhà nước lúc bấy giờ.
Muốn như thế thì từ khâu đầu tiên phải nghiêm khắc chỉ ra nguyên nhân chủ quan của tình hình
khó khăn là do những sai lầm khuyết điểm; tự nhận ra khuyết điểm trong việc đánh giá tình hình
cụ thể của đất nước, trong việc xác định mục tiêu của đất nước.

Trong khi xem xét các điều kiện xã hội còn cần phải tính đến cả điều kiện vật chất lẫn nhân tố
tinh thần, cả điều kiện khách quan lẫn nhân tố chủ quan. Năm 2020, trong bối cảnh đại dịch
Covid-19 tác động mạnh đến nước ta, gây nhiều thiệt hại về kinh tế - xã hội, nhưng với sự nỗ lực
cố gắng vượt bậc, đất nước đã đạt được những kết quả, thành tích đặc biệt hơn so với các năm
trước. Kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng 2,91%, là một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng
trưởng cao nhất thế giới trong thời kì này. Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tính ưu
việt của chế độ xã hội chủ nghĩa; sự lãnh đạo nhạy bén, đúng đắn của Đảng; sự chỉ đạo, điều
hành quyết liệt, kịp thời của Chính phủ; sự vào cuộc đồng bộ, tích cực của cả hệ thống chính trị;
sự đồng tình, hưởng ứng, ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân cả nước và đồng bào ta ở nước ngoài,
chúng ta đã kịp thời khống chế, cơ bản kiểm soát, ngăn chặn được sự lây lan của đại dịch Covid-
19 trong cộng đồng; hạn chế tối đa những thiệt hại, tổn thất do dịch bệnh gây ra, bảo đảm an sinh
và phúc lợi xã hội cho nhân dân; từng bước khôi phục sản xuất kinh doanh, nỗ lực hoàn thành ở
mức cao nhất các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội.

→ Tất cả những nỗ lực này của Đảng, Nhà nước và toàn dân đã dẫn đến sự thay đổi tích cực của
vật chất: Năm 2020, với gần 100 triệu dân, thu nhập bình quân đầu người đạt 3.521 USD. Đời
sống nhân dân được nâng cao rõ rệt về vật chất, văn hóa, tinh thần, về mức sống và chất lượng
cuộc sống; nhất là về ăn, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh, dịch vụ cuộc sống. Hệ thống chính trị
được xây dựng, củng cố vững mạnh, bảo đảm sự ổn định chính trị của đất nước. Quốc phòng, an
ninh được tăng cường, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, biển,
đảo của Tổ quốc. Đối ngoại, hội nhập quốc tế không ngừng mở rộng, kết hợp nội lực với ngoại
lực, nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo môi trường hòa bình, hợp tác và phát triển.
ND2: HAI NGUYÊN LÍ CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
I. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến:
Lý luận:
Quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể xuất phát từ nguyên lí về mối liên hệ phổ biến.
Mối liên hệ theo quan điểm siêu hình trước Mác xem xét các sự vật, hiện tượng trong trạng thái
tách rời nhau, cô lập nhau, giữa chúng không có mối liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau, nếu có thì
chỉ là những mối liên hệ giản đơn, hời hợt ở bên ngoài. Do đó, quan điểm này đã không thể vạch
ra được bản chất của sự vật, hiện tượng.
Theo quan điểm biện chứng, mối liên hệ là một phạm trù dùng để chỉ sự ràng buộc, phụ thuộc,
quy định lẫn nhau, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố, các bộ phận cấu thành
nên sự vật, hiện tượng; giữa sự vật, hiện tượng với môi trường; mà trong đó sự biến đổi của sự
vật, hiện tượng này sẽ kéo theo sự biến đổi của sự vật, hiện tượng khác.
Vd: mối liên hệ giữa con người và thức ăn; mối liên hệ giữa mây và mưa,...
Tính chất của mối liên hệ bao gồm các yếu tố sau:
- Tính khách quan: sự vật, hiện tượng dù đa dạng, phong phú như thế nào thì chúng cũng
chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một dạng vật chất duy nhất. Mối liên hệ là cái vốn có của
bản thân các sự vật, hiện tượng chứ không phải do sự áp đặt từ bên ngoài, không phụ thuộc vào ý
thức của cong người, dù muốn hay không muốn thì bản thân các sự vật, hiện tượng hay các mặt,
bộ phận của chúng đều luôn chứa đựng các mối liên hệ.
VD: Con người từ khi sinh ra đã chứa đựng mối liên hệ giữa tiêu hóa và bài tiết, chính chúng ta
cũng không thể thay đổi được điều này.
- Tính phổ biến: mỗi một sự vật, hiện tượng là một hệ thống có cấu trúc nội tại. Không có sự vật,
hiện tượng nào tồn tại một cách cô lập, biệt lập với các sự vật hiện tượng khác. Mối liên hệ có
trong mọi sự vật, hiện tượng; mọi giai đoạn, mọi quá trình; có cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy
con người.
VD: Trong tự nhiên, một cái cây không thể tồn tại một cách biệt lập, muốn tồn tại thì nó phải
trong sự tác động qua lại với rất nhiều yếu tố như: đất, nước, nhiệt độ, ánh sáng, khí hậu,...
- Tính đa dạng phong phú: xuất phát từ sự đa dạng, muôn hình muôn vẻ của thế giới vật chất.
Mỗi một mối liên hệ lại có những đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng đối với sự tồn tại, vận động,
phát triển riêng của sự vật, hiện tượng.
VD: Đến tuổi dậy thì, nhờ mối liên hệ giữa hoóc-môn sinh dục và cơ thể mà các bạn thiếu niên
bắt đầu có những sự biến đổi trong chức năng sinh lý để bộc lộ những đặc trưng về mặt giới tính.
Khoa học đã chứng minh rằng:
- Phương thức tồn tại của sự vật, hiện tượng do cách thức liên hệ giữa các yếu tố cấu thành quyết
định.
VD: Ở người bình thường, có 46 nhiễm sắc thể. Vì một lý do nào đó mà số lượng nhiễm sắc thể
bị thay đổi (thiếu hoặc thừa), cách tổ hợp nhiễm sắc thể thành cặp bị thay đổi sẽ gây ra các hội
chứng bệnh đột biến số lượng nhiễm sắc thể như: Tớc-nơ, Đao,..
- Sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng do sự tác động qua lại giữa các yếu tố cấu thành
quyết định, mà trước hết là do sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập.
VD: Sự tác động qua lại giữa quá trình đồng hóa và dị hóa là động lực cho sự phát triển của cơ
thể sinh vật.
Ý nghĩa phương pháp luận: nguyên lí về mối liên hệ phổ biến đòi hỏi trong nhận thức và thực
tiễn cần tuân theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử cụ thể.
Quan điểm toàn diện yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải xem xét đến tất cả các mặt, các mối liên hệ, kể cả
những mắt khâu trung gian trong những điều kiện không gian, thời gian nhất định.
- Trong vô vàn các mối liên hệ đó, cần rút ra những mối liên hệ cơ bản, chủ yếu (những mối liên
hệ trọng tâm, trọng điểm) để nắm bắt bản chất của các sự vật, hiện tượng.
- Sau khi nắm bắt được bản chất thì cần phải đối chiếu với các mối liên hệ khác để tránh sai lầm
trong nhận thức.
- Cần chống lại cách xem xét phiến diện, chủ quan (chỉ thấy một mặt mà không thấy nhiều mặt,
chỉ thấy mối liên hệ này mà không thấy mối liên hệ khác).
- Chống lại cách xem xét cào bằng, dàn trải các mối liên hệ (coi mọi mối liên hệ là như nhau)
- Chống lại thuật ngụy biện (quy cái thứ yếu thành cái chủ yếu, quy cái không cơ bản thành cái
cơ bản)
Quan điểm lịch sử - cụ thể yêu cầu:
- Khi xem xét các sự vật, hiện tượng cần phải đặt chúng trong từng hoàn cảnh, lịch sử - cụ thể;
trong điều kiện, môi trường cụ thể; trong từng điều kiện không gian, thời gian nhất định; trong
từng mối liên hệ, quan hệ nhất định; trong từng trường hợp cụ thể nhất định; trong từng hệ tọa độ
nhất định.
- Cần xét đến tính chất đặc thù của đối tượng nhận thức và các tình huống khác nhau phải giải
quyết trong thực tiễn.
- Cần xem xét sự vật, hiện tượng trong sự vận động, phát triển ở từng giai đoạn cụ thể nhất định.
Vận dụng:
Công cuộc đổi mới đất nước hiện nay:
Nước ta đã độc lập, thống nhất kể từ năm 1975 nhưng đến năm 1986 thì mới bắt đầu xây dựng
cơ đồ của đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội đúng nghĩa; đó là sau Đại hội lần thứ VI tháng
12/1986. Nhìn lại 35 năm đổi mới, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng
(1/2021), Đảng nhận định rằng. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy
tín quốc tế như ngày nay” (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII)
Trong 35 năm ấy, Đảng và Nhà nước đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và đáng tự hào trên
nhiều lĩnh vực: Chính trị, xã hội ổn định, đời sống của nhân dân được cải thiện rõ rệt. Các lĩnh
vực an sinh xã hội, y tế, giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ, bảo vệ môi trường, phát triển
văn hoá, xây dựng con người Việt Nam, v.v... có nhiều chuyển biến tích cực, có mặt khá nổi bật.
Công cuộc đổi mới đất nước phải diễn ra một cách toàn diện, trên mọi lĩnh vực, khía cạnh khác
nhau của đời sống, “đòi hỏi chúng ta phải nhận thức đúng và đầy đủ, quán triệt sâu sắc và thực
hiện thật tốt, có hiệu quả” [1,]. Song, Văn kiện Đại hội XIII cũng đã xác định nhiệm vụ chủ yếu
của công cuộc đổi mới hiện nay là “Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là
then chốt; phát triển văn hoá là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu,
thường xuyên.” [1,].
Xét về khía cạnh kinh tế, nước ta có nhiều sự chuyển đổi khá toàn diện và tích cực: “nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục phát triển; kinh tế vĩ mô ổn định, vững chắc hơn,
các cân đối lớn của nền kinh tế cơ bản được bảo đảm, tốc độ tăng trưởng duy trì ở mức khá cao;
quy mô và tiềm lực nền kinh tế tăng lên, chất lượng tăng trưởng được cải thiện.” [2,]
Giáo dục và đào tạo có sự vận dụng sáng tạo khoa học, công nghệ và có nhiều sự đổi mới, phát
triển. Nhưng, “đổi mới giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ chưa thực sự trở thành động
lực then chốt thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội” [2,]. Vấn đề chung ở đây là công tác giáo dục
vẫn còn thiếu hiệu quả, chưa chú trọng vào phát triển năng lực, phẩm chất của người học.
Khoa học – công nghệ có nhiều tiến bộ vượt bậc và là động lực lớn của quá trình phát triển kinh
tế - xã hội và nhiều lĩnh vực khác nhau trong đất nước như nông công nghiệp, văn hóa, chính trị,
y tế, quốc phòng, giáo dục,... Nhà nước có nhiều chính sách để quản lý, đầu tư và phát triển tiềm
lực của lĩnh vực này.
Về văn hóa – xã hội, có sự chú trọng và nhận thức, tiếp thu, phát triển, kế thừa và gìn giữ những
giá trị truyền thống một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn nhằm đáp ứng được nhu cầu văn hóa
ngày càng đa dạng của đất nước. Có nhiều chính sách hỗ trợ, phúc lợi và an sinh xã hội cho
người dân. “Đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỉ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều
giảm còn dưới 3%”. [1,].
Ngoài ra, Đảng và Nhà nước còn có sự chú tâm đến những lĩnh vực khác:
- Quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu được chú trọng,
bước đầu đạt kết quả tích cực.
- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được giữ vững và tăng cường; quan hệ
đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, đạt nhiều thành tựu nổi bật.
- Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có nhiều tiến bộ, tổ chức bộ máy nhà
nước tiếp tục được hoàn thiện, hoạt động hiệu lực và hiệu quả hơn; bảo đảm thực hiện đồng bộ
các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống
chính trị được đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ, quyết liệt, có hiệu quả rõ rệt.
Tóm lại, nhờ vận dụng triệt để quan điểm toàn diện vào quá trình đổi mới đẩt nước, Đảng và Nhà
nước đã có những động thái đúng đắn và phù hợp, không chỉ tập trung xây dựng bộ máy chính trị
mà còn xây dựng, có nhiều bước hoàn thiện, cải tiến cho nhiều lĩnh vực khác trong xã hội. Đó là
sự nỗ lực, cố gắng và vận dụng, kế thừa, phát huy sáng tạo, hiệu quả những bài học mà triết học
Mác – Lênin đã để lại qua một quá trình đấu tranh lâu dài, như trong văn kiện đã nhận định rằng
“Đó là sản phẩm kết tinh sức sáng tạo, là kết quả của quá trình phấn đấu liên tục, bền bỉ của toàn
Đảng, toàn dân và toàn quân ta qua nhiều nhiệm kỳ đại hội, góp phần tạo nên những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa lịch sử của nước ta qua 35 năm đổi mới”. [1]

[1] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII.
[2] Tài liệu học tập các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, NXB Chính
trị quốc gia – Sự thật.
II. Nguyên lý về sự phát triển
Quan điểm biện chứng về sự phát triển:
Khái niệm phát triển:
Phát triển là một phạm trù dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật, hiện tượng theo khuynh
hướng đi lên, từ trình độ thấp đến trình độ cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến
hoàn thiện hơn.
Tính chất của sự phát triển:
- Thứ nhất, tính khách quan:
Phát triển là thuộc tính vốn có, tất yếu của bản thân các sự vật, hiện tượng, không phụ thuộc vào
ý thức của con người, dù muốn hay không muốn thì bản thân sự vật, hiện tượng luôn luôn năm
trong quá trình phát triển.
VD:
- Thứ hai, tính phổ biến:
Quá trình phát triển diễn ra trong mọi sự vật, hiện tượng, trong mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và
tư duy con người. Trong mỗi quá trình vận động đã bao hàm khả năng dẫn đến sự ra đời của cái
mới tiến bộ hơn, phù hợp với quy luật khách quan.
VD:
- Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
Sự phát triển không hoàn toàn giống nhau ở các sự vật, hiện tượng khác nhau, trong những điều
kiện không gian và thời những lĩnh vực hiện thực khác nhau. gian khác nhau, trong những lĩnh
vực hiện thực khác nhau.
VD:
(Nhìn thêm giáo trình: Tr.95,96)
Vận dụng:
Đặt mục tiêu tương lai ở hiện tại, xác định mục tiêu tương lai, chia thành nhiều giai đoạn để có
thể thực hiện mục tiêu đó. Biện pháp thực hiện trong từng giai đoạn.
Đối với học sinh, sinh viên:
Trong giai đoạn cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 hay thế kỉ XXI, học là việc vô cùng quan trọng
đối với học sinh, sinh viên để phát triển và hoàn thiện bản thân mình. Với sự vận động đi lên của
toàn xã hội thì sinh viên cần phải biết nắm chắc cơ sở lý luận của quan điểm phát triển, để từ đó
có thể vận dụng một cách tối ưu, sáng tạo và hợp lý.
Sinh viên phải nhìn tương lai như một chuỗi các gián đoạn phải biết phân chia quá trình phát
triển của sự vật thành từng giai đoạn, từ đó phải học cách vượt qua các gián đoạn và có cách tác
động phù hợp thúc đẩy sự vật phát triển đó trong hiện tại và tương lai. Khuynh hướng chung là
phát triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co, phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá
trình phát triển của nó. Có lúc sinh viên sẽ cảm thấy quá trình học tập không có chút tiến triển,
dậm chân tại chỗ thì chúng ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ tiêu cực. Mỗi sinh viên có sự
phát triển về trí tuệ và thể chất khác nhau, sẽ có các phương pháp học tập rèn luyện khác nhau để
nâng cao trí tuệ, cảm xúc. Mỗi người có một thước đo cuộc sống khác nhau không thể từ đó mà
áp vào bản thân mình rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa.
Quá trình rèn luyện và học tập là quá trình tích lũy kiến thức lâu dài. Sinh viên không nên chỉ
dựa vào điểm số tức thời mà đưa ra kết luận quy chụp, cần xem xét cả quá trình phấn đấu, nỗ lực.
Chẳng hạn, sinh viên có thành tích không tốt trong một bài kiểm tra đánh giá, nhưng trong quá
trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết mình.
ND3: QUY LUẬT LƯỢNG – CHẤT
2. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA QUY LUẬT LƯỢNG –CHẤT:
2.1 Khái niệm chất:
Chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, hiện
tượng; là sự thống nhất hữu cơ của các thuộc tính làm cho sự vật là chính nó chứ không phải là
cái khác.
VD: Chất của nhôm là có ánh kim, dễ dát mỏng,..
Lượng là một phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật về các
phương diện: số lượng các yếu tố cấu thành, quy mô của sự tồn tại, tốc độ, nhịp điệu của các quá
trình vận động, phát triển của sự vật.
VD: Có những lượng ta có thể đo đếm được chính xác như trọng lượng cơ thể hay chiều cao của
một con người…
2.3 Mối quan hệ biện chứng giữa lượng và chất:
2.3.1. Lượng đổi dẫn đến chất đổi:
- Khi sự vật đang tồn tại, chất và lượng thống nhất với nhau ở một độ nhất định.
- Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ giới hạn, trong đó sự thay đổi về lượngmcủa sự vật
chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
 VD: Độ tồn tại của nước nguyên chất ở trạng thái lỏng từ 0C đến 100C.
- Trong giới hạn của một độ nhất định, lượng thường xuyên biến đổi còn chất tương đối ổn
định. Sự thay đổi về lượng của sự vật có thể làm chất thay đổi ngay lập tức nhưng cũng có thể
làm thay đổi dần dần chất cũ. Lượng biến đổi đến một giới hạn nhất định có xu hướng tích luỹ
đạt tới điểm nút, nếu có điều kiện sẽ diễn ra bước nhảy làm thay đổi chất của sự vật.
- Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ thời điểm mà tại đó, sự thay đổi về lượng đã
làm thay đổi chất của sự vật.
VD: 0C và 100C là điểm nút để nước chuyển sang trạng thái rắn hoặc trạng thái khí (bay hơi)
- Muốn chuyển từ chất cũ sang chất mới phải thông qua bước nhảy. Bước nhảy là một
phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hoá về chất của sự vật do những sự thay đổi về lượng
trước đó gây nên.
VD: một cuộc cách mạng, một kỳ thi, một đám cưới,…
- Bước nhảy kết thúc một giai đoạn biến đổi về lượng và mở đầu cho một giaiđoạn phát
triển mới. Đó là gián đoạn trong quá trình vận động liên tục của sự vật, đồngthời là một tiền đề
cho một quá trình tích luỹ liên tục về lượng tiếp theo.
 VD: Trong xã hội: Sự phát triển của lực lượng sản xuất (lượng đổi) tới khi mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất lỗi thời (chất cũ) sẽ dẫn đến đấu tranh giai cấp mà đỉnh cao là cách mạng xã hội
(bước nhảy) làm cho xã hội cũ mất đi, xã hội mới tiến bộ hơn ra đời.
2.3.2. Chất mới ra đời, nó tác động trở lại lượng mới, làm thay đổi kết cấu, quy mô, trình độ nhịp
điệu của sự vận động phát triển của sự vật:
- Như vậy, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng là sự thống nhất biện chứng giữa hai mặt
chất và lượng. Sự thay đổi về lượng tới điểm nút sẽ dẫn đến sự thay đổi về chất thông qua bước
nhảy. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại sự thay đổi của lượng mới. Quá trình đó liên tục diễn ra,
tạo thành phương thức phổ biến của các quá trình vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội, tư duy.
2.5 Ý nghĩa phương pháp luận:
- Một là, bất kì sự vật, hiện tượng nào cũng có phương diện chất và lượng tồn tại trong tính
quy định, tác động và làm chuyển hoá lẫn nhau do đó trong thực tiễn và nhận phải coi trọng cả
hai phương diện chất và lượng.
- Hai là, những sự thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những sự thay đổi về chất trong điều kiện
nhất định và ngược lại do đó cần coi trọng quá trình tích luỹ về lượng để làm thay đổi chất của
sự vật đồng thời phát huy tác động của chất mới để thúc đẩy sự thay đổi về lượng của sự vật.
- Ba là, sự thay đổi về lượng chỉ làm thay đổi chất khi lượng được tích luỹ đến giới hạn
điểm nút do đó trong thực tiễn cần khắc phục bệnh nôn nóng tả khuynh, bảo thủ trì trệ.
- Bốn là, chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ, khi lượng đã biến đổi đến điểm nút nhưng không
chịu thực hiện bước nhảy.
- Năm là, cần phải xác định được bước nhảy, có thái độ ủng hộ nước nhảy và tạo mọi điều
kiện cho bước nhảy được thực hiện một cách kịp thời.
- Sáu là, trong đời sống XH, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải
quyết mối quan hệ giữa chất tự nhiên và chất XH của sự vật, hiện tượng. Tùy vào từng điều kiện
LS-CT mà có thể nhấn mạnh chất tự nhiên hay chất xã hội lên đầu.
- Bảy là, cần có những biện pháp cụ thể để thay đổi chất của sự vật, hiện tượng:
• Thay đổi số lượng các yếu tố cấu thành nên sự vật, hiện tượng.
• Thay đổi chất lượng cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng
• Thay đổi cơ chế tác động giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng
• Thay đổi trật tự sắp xếp giữa cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng
• Thay đổi chức năng của cá yếu tốt cấu thành nên sự vật, hiện tượng và chức năng của
toàn bộ sự vật, hiện tượng.
• Thay đổi môi trường tồn tại của sự vật hiện tượng
[TUI TRÌNH BÀY]
Vấn đề về xác định phương pháp học tập mới, khoa học (tích lũy về lượng)
• Trong quá trình rèn luyện ở trường học, tích luỹ kiến thức là dạng tích lũy về lượng, khi
đạt đến một lượng kiến thức nhất định, học sinh sẽ chuyển sang mức độ mới cao hơn. Như vậy,
thời gian giữa các mức độ học tập gọi là độ; bài kiểm tra, bài thi là điểm nút; và sự chuyển từ cấp
độ cũ sang cấp độ mới là bước nhảy.
• Bước nhảy đánh dấu sự ra đời của chất mới: Đầu tiên là sự thay đổi từ học sinh (chất cũ)
thành sinh viên (chất mới), chất mới tác động trở lại lượng. Chất mới có sự khác nhau với chất
cũ ở chỗ quá trình tích lũy kiến thức thông qua quá trình tự học, tìm tòi nghiên cứu, tự định
hướng ở bậc Đại học thay vì là được thầy cô cung cấp như bậc Trung học. Giờ đây, lượng là sự
tích luỹ kiến thức mới lẫn kỹ năng mềm, bên cạnh đó cũng là sự phát triển về suy nghĩ, nhận
thức, hành động, cách tư duy.
• Đồng nghĩa với việc sinh viên phải ý thức được sự thay đổi đó, để có thể chủ động xác
định được thái độ và phương pháp học tập, phương pháp tư duy phù hợp, tiến bộ hơn thời THPT.
Trong đó, quan trọng là cố gắng tham gia đầy đủ các tiết học; tránh bệnh chủ quan, lười biếng
khi không còn thầy cô, phụ huynh giám sát chặt chẽ như hồi các cấp học thấp hơn; tìm tòi thêm
nhiều nguồn tài liệu học tập; tham gia các hoạt động ngoại khóa;...
• Tránh trường hợp không tập trung học, bị xao nhãng bởi những chuyện ngoài lề, làm ảnh
hưởng đến tốc độ học. Tránh để xảy ra tình trạng khi đến gần giai đoạn thi mới bắt đầu học lại từ
đầu,….
• Cùng một chương trình học, cùng một khối lượng kiến thức và kỹ năng cần thu nạp và
rèn luyện, một sinh viên có tinh thần say mê học tập và có đầu óc biết lên kế hoạch rõ ràng, khoa
học và một sinh viên lười biếng, chủ quan, giữ nguyên cách tiếp cận bài học, cách tương tác với
thầy cô như thời THPT chắc chắn sẽ cho ra hai kết quả cực kì khác biệt.
Vấn đề về việc tham gia các kỳ thi (ủng hộ bước nhảy; thực hiện bước nhảy)
• Lượng ở Đại học khác ở THPT và nó lại tác động trở lại chất. Đòi hỏi sinh viên cần trau
dồi bản thân để còn tạo ra sự khác biệt về chất (một sinh viên ưu tú hơn, nổi bật hơn bạn bè đồng
trang lứa chẳng hạn).
• Cụ thể là sau khi chủ động, tích cực tích lũy kiến thức; rèn luyện thêm các kỹ năng; học
hỏi tư duy học tập tiến bộ mà thầy cô định hướng hay bạn bè gợi ý;...bản thân lúc này đã được
tôi luyện và tiến bộ hơn rất nhiều so với trước kia. Vì vậy cần phải tự tin tham gia các kỳ thi như
Nghiên cứu khoa học, Pháp luật, Chứng chỉ ngoại ngữ, Chứng chỉ tin học,....(thực hiện bước
nhảy) để đánh dấu sự thay đổi mới, xây dựng được thương hiệu bản thân (chất mới ra đời). Chí ít
cũng phải ý thức được việc cần cố gắng hết mình trong việc xung phong trả lời, giải các câu hỏi,
bài tập trên lớp; tích cực, tự tin khi thực hiện các bài thi giữa kỳ, kết thúc học phần,....
• Bên cạnh đó, nếu cảm thấy bạn bè xung quanh mình rơi vào trường hợp mặc dù kiến
thức, kỹ năng đã chín muồi mà còn e dè, tự ti chưa dám bung xõa, đăng ký tham gia các kỳ thi
thì chính chúng ta cũng nên có thái độ ủng hộ bạn, động viên bạn, đề nghị hỗ trợ bạn trong khả
năng để tạo điều kiện cho bạn; từ đó bạn có thể đạt được một danh hiệu, một sự công nhận cao
hơn (chất mới).
• Tóm lại, trau dồi bản thân là một chuyện, còn xây dựng tâm thế tự tin, chủ động tham gia
các hoạt động thể hiện mình, khẳng định mình là một chuyện khác và đòi hỏi sinh viên cần có
thái độ tích cực, tự tạo cơ hội cho chính mình và cho người khác nếu có thể. Cuộc sống luôn vận
động và phát triển không ngừng theo thời gian, cùng với đó, con người cũng phải vận động chạy
theo nó để không bị bỏ lại phía sau. Là một sinh viên thời đại mới phát triển và tiên tiến hơn rất
nhiều, chúng ta không thể không ngừng phấn đấu trau dồi bản thân mình và giúp đỡ người khác.
Vấn đề về nóng vội đốt cháy giai đoạn
• Trong quá trình học tập và rèn luyện, sinh viên cần tranh tư tưởng nhảy cấp. Sau khi học
những kiến thức cơ bản, tức là khi có sự biến đổi về chất thì sinh viên mới có thể tiếp tục nghiên
cứu những kiến thức khó hơn.
• Ngoài ra, có nhiều sinh viên có sức học trung bình nhưng lại muốn đăng kí nhiều môn
học trong cùng một năm hay một học kỳ để được ra trường sớm hơn những người khác, dẫn đến
không có môn học nào được hoàn thiện, mất thêm thời gian và tiền bạc để học lại, thi lại. Tóm
lại, muốn tiếp thu được nhiều kiến thức và có kết quả cao trong các kì thi, sinh viên phải học dần
mỗi ngày, từ kiến thức cơ bản đến nâng cao. Từ đó, sự biến đổi về lượng sẽ dẫn đến sự biến đổi
về chất theo hướng tích cực.
[ANH CHỊ TUI TRÌNH BÀY]
Cách làm phần vận dụng
- Trong cuộc sống học tập của sinh viên:
o Cần xác định trong cuộc sống, học tập có những vấn đề gì: quan hệ bạn bè, học tập, thầy
cô...
o Xác định điểm nút và bước nhảy của vấn đề đó.
o Từ đó thể hiện sự phát triển và hoàn thiện bản thân cần: phát huy mặt tốt, khắc phục mặt
hạn chế (áp dụng ý nghĩa pp luận).
- Trong công cuộc đổi mới của đất nước ngày nay:
o Xác định các vấn đề liên quan: công nghệ 4.0, công nghiệp hóa, hiện đại hóa…
o Xác định độ, điểm nút, bước nhảy.
o Giải quyết trình bày như sau: Theo Đại hội Đảng lần thứ VI
 Giữ vững định hướng XHCN trong quá trình đổi mới, kết hợp sự kiên định về nguyên tắc
và chiến lược cách mạng với sự linh hoạt trong sách lược, nhạy cảm nắm bắt cái mớ, trong đó
nhấn mạnh: Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là làm cho mục tiêu ấy được
thực hiện có kết quả bằng quan điểm đúng đắn về CNXH, bằng những hình thức, bước đi và biện
pháp thích hợp. Điều kiện cốt yếu trong công cuộc đổi mới được định hướng XHCN và đi đến
thành công là trong quá trình đổi mới Đảng phải kiên trì và vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác –
Lê nin, Tư tưởng HCM, giữ vững vai trò lãnh đạo XH. Đảng phải tự đổi mới và chỉnh đốn,
không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của mình.
 Trong quá trình đổi mới, phải quan tâm đến dự báo tình hình, kịp thời phát hiện và giải
quyết đúng đắn những vde mới nảy sinh trên tinh thần kiên định thực hiện đường lối đổi mới:
tăng cường tổng kết thực tiễn và không ngừng hoàn chỉnh lý luận về con đường xây dựng
CNXH ở nước ta, trong đó nhấn mạnh: Công cuộc đổi mới càng đi vào chiều sâu thì càng xuất
hiện nhiều vde mới liên quan đến nhận thức về CNXH và con đường xây dựng CNXH. Chỉ có
tăng cường tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận thì mới trở thành hoạt động tự giác, chủ động và
sáng tạo, bớt được sai lầm và những bước đi quanh co, phức tạp.
Vận dụng trong cs, ht của bản thân:
o Sau khi tích lũy đủ lượng kthuc (lượng thay đổi), một học sinh THPT thành công thay đổi
thành chất sinh viên. Trong đó, độ HS THPT là từ lớp 10 đến lớp 12; độ của SV là từ năm thứ
nhất ĐH đến năm thứ tư; điểm nút là thi tốt nghiệp THPT đỗ, đủ điểm đỗ vào ĐH; bước nhảy là
kết thúc giai đoạn HS THPT (sau tốt nghiệp), khởi đầu SV ĐH năm nhất.
o Hiểu rằng trong nhận thức thực tiễn, SV cần phải xem xét toàn diện về sự vật, hiện
tượng; không nên phiến diện chỉ coi trọng lượng, không thực hiện bước nhảy hay chỉ coi trọng
chất. Đặt trong mối QH với nhà trường và thầy cô, thì chất của SV phải là chất SV. Khi đã là
“chất SV” thì đòi hỏi lượng kiến thức SV tiếp thu mỗi tiết học sẽ nhiều hơn, môn học sẽ nhiều
hơn…Do đó SV phải nhanh chóng có kế hoạch cụ thể để học tập.
o Chất chỉ thay đổi khi tích lũy đủ về lượng. Hằng kỳ, hằng năm, số lượng tín chỉ tích lũy
của SV sẽ ngày càng nhiều hơn, lượng kiến thức, kỹ năng nhiều hơn…
o Tuy nhiên, chất SV vẫn chưa biến đổi vì lượng chưa đạt đến điểm nút. SV nhận thức
rằng, chỉ khi lượng (tín chỉ, kỹ năng, kiến thức, thái độ, tinh thần trách nhiệm,…) đạt tới điểm
nút (ví dụ như đạt đủ 135 tín chỉ đối với SV khoa Anh) thì chất CV mới biến đổi thành chất cử
nhân. Trong qtrinh tích lũy về lượng, cần nhận thức tránh khuynh hướng tả khuynh, nóng vội,
duy ý chí, chủ quan; tránh hiện tượng nôn nóng tốt nghiệp mà đăng kí quá nhiều học phần, quá
sức học tập của bản thân, dẫn đến sự quá tải, kết quả không như mong đợi. Do đó, cần phải đăng
ký số lượng tín chỉ (lượng) phù hợp với năng lực của bản thân.
o Ngược lại, cần chống bệnh bảo thủ hữu khuynh, trì trệ, không nên thụ động trông chờ vào
gia đình mà phải tự nỗ lực để tích lũy về lượng: ra trường sớm hơn hoặc đúng thời hạn. Từ đó
tận dụng những cơ hội phát triển tốt nhất cho bản thân.
Vận dụng vào đổi mới nhà nước
o Ở nước ta, lịch sử đặt ra vấn đề lựa chọn con đường phát triển bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa từ những năm 20 của thế kỷ XX, hòa nhập vào xu hướng tiến hóa chung của nhân loại quá
độ lên Chủ nghĩa Xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để có một bước nhảy cách mạng đó là
đưa nước Việt Nam sang một chế độ khác, “chất” khác là đất nước xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh
đầu tiên năm 1930 của Đảng đã khẳng định sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân nước ta sẽ tiến lên CNXH. Đó là lựa lựa chọn đúng đắn của Đảng.
o Cả một quá trình tích lũy về đủ lượng để có một sự biến đổi về chất, chất mới được tạo
nên nhưng đồng thời nó cũng tạo nên lượng mới. Chúng ta cần một thời kỳ quá độ lên XHCN;
trong thời kì chúng ta sẽ có những thay đổi phát triển về mọi mặt kinh tế, xh, vh, gd. Nhận thức
được điều đó, Đảng ta đã có chủ trương xd xhcn bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tạo ra sự biến
đổi về chất của xh cho tất cả lĩnh vực.
o Giữa thập niên 70 với nền kt phổ biến là sx nhỏ tại vị trí chiến tranh kéo dài, tàn phá nặng
nề; bằng việc cải tạo xhcn tổ chức lại sx và mở rộng quy mô hợp tác xã với hi vọng nhanh chóng
có nhiều CNXH hơn, Đảng đã đã bộc lộ tư tưởng chủ quan, nóng vội duy ý chí dẫn đến những
mục tiêu của đại hội IV của Đảng đề ra đều không đạt.
o Trước hoàn cảnh đó, nhà nước thấy không thể duy trì những chính sách cơ chế cũ. Thực
hiện bước nhảy kịp thời: tạo ra sự sáng tạo nhận thức đúng đắn của Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta thực hiện công cuộc đổi mới việc đó được nêu rõ trong đại hội thứ VI năm 1986 đó là chuyển
đổi nền ktx của nước ta từ mô hình hóa tập trung quan lieu bao cấp dựa trên chế độ công hữu về
tư liễu sang nền kt thị trưởng có sự quản lí của NN theo định hướng XHCN
o Chính vì thế, công cuộc đổi mới đất nước đã đạt nhiều thành tựu: Nền kinh tế vượt qua
nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định,
lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lí, từ năm 2013 dần phục
hồi, năm sau cao hơn năm trước,…Giáo dục và đào tạo, KH và CN, VH, XH, Y tế có bước phát
triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân
tiếp tục được cải thiện.
ND4: QUY LUẬT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU TRANH GIỮA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
I. Lý luận
Quy luật mâu thuẫn vạch ra nguồn gốc, động lực của sự phát triển
Nội dung quy luật:
Mâu thuẫn là một phạm trù dùng để chỉ sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập
trong cùng một sự vật, hiện tượng
Mặt đối lập là một phạm trù dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận
động trái ngược nhau và làm nên chỉnh thể một sự vật, một hiện tượng.
Như vậy, hai mặt đối lập phải thỏa mãn những điều kiện sau đây mới tạo thành mâu thuẫn:
Thứ nhất, có xu hướng vận động trái ngược nhau
Thứ hai, làm nên chỉnh thể của một sự vật, hiện tượng
Ví dụ như sự sản xuất và tiêu dùng trong kinh tế- xã hội, chân lý và sai lầm trong quá trình đấu
tranh nhận thức,…
Tính chất chung của mâu thuẫn:
Thứ nhất, tính khách quan:
- Mâu thuẫn là cái vốn có của bản thân các sự vật, hiện tượng, chứ không phải do sự áp đặt
từ bên ngoài. Bất kỳ sự vật, hiện tượng nào cũng đều chứa đựng mâu thuẫn bên trong, mâu thuẫn
này mất đi thì mâu thuẫn khác được hình thành; sự vật, hiện tượng vừa là nó, vừa là cái khác với
bản thân nó.
Ví dụ. Trong con người bất kỳ đều chứa đựng những yếu tố của các mặt đối lập giữa lương thiện
và độc ác, dũng cảm và hèn nhát, trung thực và giả dối,…
Thứ hai, tính phổ biến:
- Mâu thuẫn có ở trong mọi sự vật, hiện tượng, mọi giai đoạn, mọi quá trình; mâu thuẫn có
cả trong tự nhiên, xã hội và tư duy, con người.
Ví dụ. Mâu thuẫn giữa lực và phản lực trong sự tương tác giữa các vật thể, mâu thuẫn giữa lực
đẩy và lực hút giữa các hạt, phân tử, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và vô sản trong xã hội tư
bản, mâu thuẫn giữa tầng lớp thống trị và tầng lớp bị trị trong xã hội thời phong kiến,…
Thứ ba, tính đa dạng, phong phú:
- Có rất nhiều loại mâu thuẫn, mỗi loại mâu thuẫn có đặc điểm riêng, vị trí, vai trò riêng,
có cách thức giải quyết riêng. Cụ thể là: Có mẫu thuẫn bên trong – mâu thuẫn bên ngoài, có mâu
thuẫn cơ bản – mâu thuẫn không cơ bản, có mâu thuẫn chủ yếu – mâu thuẫn thứ yếu, có mâu
thuẫn đối kháng – mâu thuẫn không đối kháng… Chẳng hạn, mỗi cá nhân trong xã hội đều có
các mâu thuẫn khác nhau như mâu thuẫn giữa cá đó với các cá nhân khác trong lớp học, gia đình
và xã hội trên phương diện tình cảm, nhận thức, chính trị, văn hóa,…
Mâu thuẫn là một chỉnh thể, trong đó hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
Sự thống nhất giữa các mặt đối lập: (tr.112 113)
Là sự ràng buộc, phụ thuộc, quy định lẫn nhau, nương tựa vào nhau, đòi hỏi có nhau giữa các
mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề để tồn tại, nếu không có mặt đối lập này sẽ không có
mặt đối lập kia và ngược lại.
Là sự đồng nhất các mặt đối lập, bởi vì các mặt đối lập dù cho có khác nhau nhưng bao giờ cũng
có yếu tố giống nhau, tương tự nhau, nghĩa là chúng đồng nhất với nhau.
Là sự tác động ngang nhau của các mặt đối lập khi các mặt đối lập có lực lượng ngang bằng
nhau.
Ví dụ: trong hoạt động kinh tế thì sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược nhau với nhau. Sản xuất chính là việc tạo ra của cải vật chất, sản phẩm để có thể đáp ứng
được nhu cầu của người tiêu dùng. Còn tiêu dùng là mục đích cuối cùng của việc sản xuất, tất cả
những sản phẩm được sản xuất đều cần có người tiêu dùng. Sự không tách rời, đòi hỏi có nhau
giữa lực và phản lực cũng là một ví dụ điển hình cho sự thống nhất giữa các mặt đối lập.
Sự đấu tranh của các mặt đối lập:
- Là sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Thực chất của sự đấu tranh của các
mặt đối lập gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn:
+ Giai đoạn hình thành mâu thuẫn:
Đồng nhất nhưng đồng thời bao hàm sự khác nhau
Khác nhau bề ngoài
Khác nhau bản chất, khi ấy mâu thuẫn được hình thành.
+ Giai đoạn phát triển của mâu thuẫn:
Các mặt đối lập xung đột với nhau
Các mặt đối lập xung đột gay gắt với nhau, khi ấy mâu thuẫn phát triển đến đỉnh điểm
+ Giai đoạn giải quyết mâu thuẫn
Sự chuyển hóa của các mặt đối lập, mâu thuẫn…
Ví dụ: -Trong kháng chiến chống Pháp, nhân dân ta có mâu thuẫn gay gắt với thực dân Pháp, khi
mâu thuẫn lên đến đỉnh điểm, tạo cho ta động lực đứng lên đấu tranh và kết quả cuối cùng là nhà
nước Việt Nam độc lập, tự do dân chủ ra đời.
-Trong nhận thức, sở dĩ các tư tưởng con người ngày càng phát triển bởi luôn có sự
đấu tranh giữa nhận thức đúng và nhận thức sai, giữa nhận thức kém sâu sắc và nhận thức sâu
sắc hơn.
Mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của các mặt đối lập:
Sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập gắn liền với nhau: Nếu không có thống nhất
sẽ không có đấu tranh, thống nhất là tiền đề của đấu tranh; đấu tranh là nguồn gốc, động lực của
sự phát triển.
Sự thống nhất phản ánh trạng thái ổn định, trạng thái đứng im tương đối; còn sự đấu tranh phản
ánh trạng thái vận động tuyệt đối của sự vật, hiện tượng. Nhờ có thống nhất, sự vật, hiện tượng
mới tồn tại; còn nhờ đấu tranh, sự vật, hiện tượng mới phát triển.
Tóm lại, mâu thuẫn là nguồn gốc, động lực của sự phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất vừa
đấu tranh với nhau.
Ví dụ: Trong hoạt động kinh tế, mặt sản xuất và tiêu dùng phát triển theo những chiều hướng trái
ngược nhau nhưng nếu không có sản xuất thì không có sản phẩm để tiêu dùng; ngược lại, nếu
không có tiêu dùng thì sản xuất mất lí do để tồn tại
Ý nghĩa phương pháp luận:
Một là, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tuân theo nguyên tắc “phân đôi cái thống nhất và
nhận thức các mặt đối lập của nó”
“Phân đôi” ở đây không phải là phân chia theo kiểu số học thành hai phần bằng nhau, mà là phân
đôi cái chỉnh thể thống nhất thành hai mặt đối lập biện chứng và nhận thức các mặt đối lập biện
chứng ấy. Nghĩa là, cần phải xác định mâu thuẫn, phân tích mâu thuẫn, nghiên cứu các mặt đối
lập tạo thành mâu thuẫn.
Hai là, cần phải có những biện pháp phù hợp trong việc giải quyết đối với từng loại mâu thuẫn
Ba là, việc xem xét và giải quyết mâu thuẫn cần phải tuân theo quan điểm lịch sử - cụ thể
Bốn là, cần vận dụng phù hợp khi giải quyết mâu thuẫn tồn tại dưới dạng antinomie
Năm là, trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết
mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh giữa các mặt đối lập.
II. Vận dụng:
Mâu thuẫn ở Việt Nam: (Trích tạp chí cộng sản)
- Hiện nay con đường đi lên của nước ta sự quá độ lên chủ nghĩa XH bỏ qua chế độ TBCN.
Vì vậy mâu thuẫn giữa chủ nghĩa tư bản và CNXH trên thế giới được biểu hiện ở Việt Nam là
mâu thuẫn giữa hai khả năng phát triển: hoặc là đi lên CNTB hoặc là đi lên CNXH. Suy ra cuộc
đấu tranh giải quyết mâu thuẫn cơ bản ở nước ta hiện nay là cuộc đấu tranh giữa hai con đường
nhằm giải quyết triệt để vấn đề làm thế nào đem lại thắng lợi cho con đường đi lên CNXH.
Tại đại hội IX của Đảng, vấn đề đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn tạo động lực cho sự phát triển
tiếp tục thể hiện quy định về mâu thuẫn đồng thời cụ thể hoá thành những mâu thuẫn sau đây:
Loại mâu thuẫn giữa trạng thái KT kém phát triển với yêu cầu xây dựng một XH dân giàu nước
mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh.
Mâu thuẫn giữa hai khuynh hướng, hai con đường XHCN và TBCN. Mâu thuẫn này phát sinh từ
hai mặt, hai khuynh hướng đối lập: Một mặt từ quá trình cải tạo xây dựng CNXH trên các mặt
KT, chính trị, văn hoá tạo thành khuynh hướng XHCN. Mặt khác bắt nguồn từ nền sản xuất nhỏ,
từ nền KT hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường làm nảy sinh những nhân tố đôí lập,
khuynh hướng tự phát đi lên tư bản.
Loại mâu thuẫn giữa mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH với các thế lực cản trở con đường phát
triển của nước ta theo mục tiêu đó (thế lực thù địch trong và ngoài nước, vấn đề tội phạm, tệ nạn
tham nhũng-thế giới xét Việt Nam là một trong số các nước có nạn tham nhũng nặng nhất).
Loại mâu thuẫn giữa mặt nhân tố chủ quan và khách quan trong quá trình đi lên CNXH. Loại
mâu thuẫn này xuất từ yêu cầu nhận thức những quy luật những điều kiện khả năng khách quan
với một bên là trình độ năng lực, nhận thức và hoạt động thực tiễn của đảng, của nhà nước trong
quá trình lãnh đạo… Loại mâu thuẫn này thể hiện trong tư tưởng, lí luận, tổ chức, lãnh đạo chỉ
đạo của nhà nước.
Phương thức giải quyết mâu thuẫn theo Đại hội XI(Trích tạp chí cộng sản)
Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Đây là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm
tạo ra sự biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải trải qua một
thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen.
Chúng ta có nhiều thuận lợi cơ bản: có sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam do
Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, có bản lĩnh chính trị vững vàng và dày dạn kinh
nghiệm lãnh đạo; dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt; nhân dân ta có
lòng yêu nước nồng nàn, có truyền thống đoàn kết và nhân ái, cần cù lao động và sáng tạo, luôn
ủng hộ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng; chúng ta đã từng bước xây dựng được những cơ
sở vật chất – kỹ thuật rất quan trọng; cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, sự hình
thành và phát triển kinh tế tri thức cùng với quá trình toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế là một
thời cơ để phát triển.
Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ đi lên CNXH (bổ sung năm 2011 tại Đại hội
XI) xác định:
- Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta là “Xây dựng được về cơ bản
nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá
phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh
phúc”.
Từ nay đến giữa thế kỷ XXI, toàn Đảng, toàn dân ta phải ra sức phấn đấu xây dựng nước ta trở
thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao tinh thần cách
mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí tuệ, tận dụng thời cơ, vượt
qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương hướng cơ bản sau đây:
- Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế tri
thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
- Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người, nâng
cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
- Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội.
- Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
- Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
- Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân.
- Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Trong quá trình thực hiện các phương hướng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và
giải quyết tốt các mối quan hệ lớn: quan hệ giữa đổi mới, ổn định và phát triển; giữa đổi mới
kinh tế và đổi mới chính trị; giữa kinh tế thị trường và định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát
triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa;
giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; giữa xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ;… Không phiến diện, cực
đoan, duy ý chí (Trích Tạp chí cộng sản)
Liên hệ bản thân:
- Bởi vì mâu thuẫn luôn tồn tại, nên nó buộc người ta không bao giờ được nghĩ mình có
đầy đủ tri thức, mà phải liên tục học thêm các tri thức mới để giải quyết các vấn đề mới. Để làm
được điều đó, con người cần phải luôn luôn đổi mới, sáng tạo ra các tri thức mới. Đồng thời, quy
luật mâu thuẫn cũng đòi hỏi chúng ta phải biết vượt qua mọi định kiến để bài trừ những cái cũ,
không còn phù hợp và tiếp thu, chọn lọc cái mới còn chưa quen thuộc và kế thừa những giá trị
tốt đẹp của dân tộc. Có thể nói quy luật mâu thuẫn chính là nền tảng cho kho tàng tri thức vô
cùng vô tận đang trở nên phong phú hơn qua mỗi ngày của nhân loại. Quy luật này đòi hỏi sinh
viên phải tìm tòi, học hỏi các kiến thức mới chứ không được ngủ quên trên một vài kiến thức
nhất định nào đó. Điều đó giúp cho sinh viên thêm phần sáng tạo, là yếu tố rất có ích cho cả việc
học lẫn sự nghiệp sau này. Cũng bởi vì thế mà qua mỗi năm, các trường đại học, học viện phải
tái bản một số cuốn sách để đổi mới kiến thức cho các sinh viên.
- Bên cạnh đó, việc học của sinh viên là một quá trình tăng trưởng về mặt tri thức và đồng
thời ta cũng học cách áp dụng những tri thức đó vào đời sống thực tế. Vậy nên quá trình học tập
của sinh viên cũng không ngoại lệ mà nó chịu sự tác động của quy luật mâu thuẫn. Chẳng hạn,
trong dịch Covid vừa qua, sinh viên phải học tập trên hệ thống trực tiếp, điều đặc biệt mà sinh
viên ít khi trải qua. Học tập online khiến chúng ta xao lãng, dễ mất tập trung vì mạng xã hội có
nhiều thứ thu hút chúng ta và chúng ta sẽ bị phân tâm không thể tập trung vào bài giảng online
của thầy cô cũng như không thể học tập một cách hiệu quả khi có thể bị mất mạng, cúp điện hoặc
trục trặc về kĩ thuật. Áp dụng quy luật mâu thuẫn vào đó, ta có thể tìm ra được hướng giải quyết
một cách đúng đắn. Đầu tiên, chúng ta cần phải tôn trọng mâu thuẫn, xác định mâu thuẫn và
phân tích, cũng như là tìm hiểu nguồn gốc phát sinh ra mâu thuẫn rồi từ đó xem xét, giải quyết
mâu thuẫn tuân theo quan điểm lịch sử - cụ thể. Bên cạnh đó, chúng ta cần vận dụng một cách
phù hợp khi giải quyết mâu thuẫn với chính bản thân chúng ta cũng như là nhận thức dúng và
vận dụng một cách phù hợp khi giải quyết mối quan hệ giữa sự thống nhất và sự đấu tranh của
các mặt đối lập.
Hướng giải quyết vấn đề:
- Sinh viên cần tìm tòi, học hỏi thêm từ các nguồn trên mạng, từ giảng viên, từ bạn bè để nâng
cao kiến thức về công nghệ; đọc và xem các video hướng dẫn quy chế thi online mà trường đã
đăng lên internet.
-Yêu cầu sự hỗ trợ trong khả năng từ gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho bản thân tham gia vào
việc học và thi online.
- Bên cạnh đó, trường cũng có thể tạo điều kiện cho sinh viên để cùng giải quyết mâu thuẫn này,
có thể bằng cách tạo ra quy chế thi mới phù hợp hơn, hay phổ biến cấu hình thích hợp của thiết
bị thi online,…
Kết luận: Mặc dù còn nhiều mâu thuẫn tồn đọng trong xã hội cũng như bản thân, nhưng ta có thể
thấy, mâu thuẫn cho sinh viên cơ hội phát triển, tự học và thay đổi bản thân. (Mâu thuẫn là
nguồn gốc, động lực của sự phát triển, hai mặt đối lập vừa thống nhất, vừa đấu tranh với nhau)
Trong giáo dục:
- Từ quy luật mâu thuẫn, ta nhận thấy nền giáo dục có 3 mâu thuẫn sau:
Một là, giữa yêu cầu đổi mới căn bản và toàn diện với tư duy bảo thủ không chấp nhận đổi mới,
hoặc đổi mới nhỏ giọt, đổi mới vô nguyên tắc, thiếu cơ sở khoa học, lạc chuẩn;
Hai là, mâu thuẫn giữa yêu cầu cao về phát triển giáo dục, đào tạo với những chủ trương, chính
sách, việc làm cản trở động lực phát triển;
Ba là, mâu thuẫn giữa yêu cầu cao, nhiệm vụ lớn với nguồn lực thực hiện hạn chế, lại bị chia
tách, xé lẻ.
- Các mâu thuẫn trên tiếp tục chia ra các cấp độ khác nhau vừa tác động ngang - dọc, trên -
dưới, vừa chuyển hóa phức tạp làm chậm khả năng, quá trình giải quyết các mâu thuẫn cơ bản
lẫn không cơ bản.
- (hướng giải quyết mâu thuẫn 1) Cần đặt bài toán mâu thuẫn về tư duy lên hàng đầu. Khi
tư duy của chúng ta mạch lạc và phân biệt được chân lý và sai lầm thì chúng ta mới có thể nghĩ
ra được hướng giải quyết của mâu thuẫn. Vì vậy, chúng ta nên tránh tư duy siêu hình, phiến diện,
không được thỏa hiệp và hài lòng với những ngành mũi nhọn trong nền giáo dục hiện nay mà
không vạch ra hướng đi mới để phát triển và kế thừa những truyền thống, kiến thức bổ ích, tốt
đẹp mà cha ông ta để lại. Ngược lại, cũng không nên xem toàn bộ nền giáo dục Việt Nam không
chất lượng hay hỏng toàn bộ.
- (hướng giải quyết mâu thuẫn 2) Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm,
chăm lo tới đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, ban hành các chế độ, chính sách tương
đối phù hợp với đặc thù của ngành giáo dục, cụ thể: Giáo viên được hưởng chế độ phụ cấp ưu
đãi, phụ cấp thâm niên, có chính sách riêng giáo viên vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng có điều
kiện kinh tế-xã hội đặc biệt khó khăn, giáo viên dạy trẻ khuyết tật, dạy lớp ghép, giáo viên đặc
thù... Tuy nhiên, trong thực tế, những chính sách đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục vẫn
còn bất cập như lương giáo viên (nhất là giáo viên mầm non, giáo viên tiểu học) còn thấp, hệ
thống chính sách, văn bản quản lý chưa thực sự đồng bộ, chưa đủ nguồn lực bố trí cho các chính
sách, chậm và chưa bảo đảm các mục tiêu và kế hoạch đã được phê duyệt.
Thực hiện Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018 của Chính phủ về Chương trình hành động
của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy
Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công
chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã ban hành Quyết định số 4332/QĐ-BGDĐT ngày 15/10/2018 Ban hành Kế hoạch thực
hiện Nghị quyết số 107/NQ-CP ngày 16/8/2018 của Chính phủ về Chương trình hành động của
Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 27/NQ-TW ngày 21/5/2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban
Chấp hành Trung ương khóa XII về cải cách chính sách tiền lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động trong doanh nghiệp nhằm triển khai nhiệm vụ
đề xuất bảng lương theo vị trí việc làm đối với viên chức ngành giáo dục và đào tạo (Trích Bộ
giáo dục và Đào tạo)
- (hướng giải quyết mâu thuẫn 3) Để khắc phục tình trạng này, Bộ Giáo dục và Đào tạo,
theo thẩm quyền đã phối hợp với Bộ Nội vụ ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn về danh
mục khung vị trí việc làm, định mức giáo viên, nhân viên, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp,…
Ngoài ra, theo chức năng quản lý của mình, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành văn bản chỉ đạo
các địa phương rà soát quy hoạch mạng lưới trường/lớp; thực hiện điều tiết giáo viên từ những
trường thừa sang những trường/lớp thiếu giáo viên; ưu tiên bố trí biên chế của các địa phương để
tuyển dụng giáo viên; chỉ đạo các địa phương tăng cường các giải pháp nhằm không xảy ra tình
trạng có học sinh mà không có giáo viên dạy học; nghiên cứu, dự báo nhu cầu đào tạo giáo viên;
giao chỉ tiêu tuyển sinh sát với nhu cầu sử dụng; rà soát, qui hoạch lại hệ thống cơ sở đào tạo
giáo viên cho phù hợp với yêu cầu về số lượng, cơ cấu và chất lượng đội ngũ trong thời gian tới.
(Trích Bộ giáo dục và Đào tạo)
- Ngoài ra sự điều hành, quản lý yếu kém ngay trong ngành cùng động lực thúc đẩy phát
triển giáo dục suy giảm đã khoét sâu hơn không ít mâu thuẫn, gây bức xúc trong xã hội. Có thể
đơn cử một số mâu thuẫn nổi bật hiện nay trong ngành giáo dục và đào tạo, như: chất lượng đại
trà thấp với yêu cầu cao về chất lượng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế;
chương trình, phương pháp dạy và học lạc hậu với yêu cầu chương trình chuẩn hóa, khoa học,
tinh giản, phương pháp tiên tiến; phiến diện chú tâm dạy chữ, nặng lý thuyết, truyền đạt kiến
thức thuần túy với đòi hỏi thỏa đáng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo lập nghiệp,
nghiên cứu khoa học, kỹ năng thực hành
Trong đường lối đổi mới của Đảng:
- Trong 10 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên Chủ
nghĩa xã hội và chiến lược phát triển kinh tế xã hội, nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý
nghĩa lịch sử. Tuy nhiên, kinh tế - xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế
của đất nước và còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn tồn tại, có
mặt gay gắt hơn:
+ Nguy cơ tụt hậu, rơi vào bẫy thu nhập trung bình còn lớn, việc phát triển văn hóa, bảo đảm
phúc lợi xã hội, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong
phát triển kinh tế thị trường; việc phát triển đồng bộ các vùng, miền, địa phương trên cơ sở phát
huy tiềm năng, lợi thế của từng vùng vẫn còn nhiều hạn chế.
+ Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn
biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ, mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp.
+ Xu hướng già hóa dân số, đô thị hóa tăng nhanh; biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh ảnh
hưởng ngày càng lớn đến sự phát triển đất nước.
+ Các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Đảng, Nhà nước, xâm phạm độc lập, chủ quyền, toàn
vẹn lãnh thổ, biển đảo của đất nước.
- Phương hướng giải quyết:
- Bổ sung "củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa" bởi trong những năm vừa qua tình trạng suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, "tự
diễn biến", "tự chuyển hóa" trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã làm ảnh hưởng
đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa. Một trong những
yêu cầu, mục tiêu của xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện là phải
củng cố được niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa, đó là nền
tảng chính trị của Nhà nước, của chế độ ta.
- - Bổ sung "công nghiệp hóa, hiện đại hóa" vào câu "Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới" để thành "Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa".
- Bổ sung "toàn diện" vào "xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh" là
nhấn mạnh yêu cầu xây dựng trong sạch, vững mạnh cả đối với Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và trong mỗi tổ chức này cần xây dựng toàn diện cả về tổ
chức, cán bộ, phương thức hoạt động; với cán bộ phải xây dựng toàn diện cả về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tác phong làm việc..
- Trong lĩnh vực y tế:
Từ quy luật mâu thuẫn, ta nhận thấy lĩnh vực y tế có những mâu thuẫn sau:
- Chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh và khả năng tiếp cận dịch vụ y tế cơ bản còn có sự
chênh lệch khá lớn giữa các tuyến và giữa các vùng, miền. Cơ sở hạ tầng, trang thiết bị y tế một
số nơi thiếu, chưa đạt tiêu chuẩn; công tác y tế dự phòng yếu; thiếu nhân lực y tế có trình độ và
phân bổ bất hợp lý. Công tác quản lý thuốc chữa bệnh còn lỏng lẻo. Y đức của một bộ phận cán
bộ y tế chưa tốt. (Trích Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.31)
Phương hướng giải quyết:
Tổ chức cung cấp dịch vụ y tế công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, người dân được quản lý, chăm
sóc, bảo vệ sức khoẻ. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục căn bản tình
trạng quá tải bệnh viện tuyến trên, phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh. Khuyến khích hợp tác
công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu; phát triển mô
hình bác sỹ gia đình. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin, công
nghệ số trong khám, chữa bệnh, liên thông công nhận kết quả khám, xét nghiệm. Đổi mới mạnh
mẽ tài chính y tế. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, luân phiên cán bộ y tế, chuyển giao kỹ thuật
cho tuyến dưới. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức. Thiết lập hệ thống sổ sức
khoẻ điện tử đến từng người dân. Phấn đấu đến năm 2025, trên 90% dân số được quản lý, theo
dõi và chăm sóc, bảo vệ sức khoẻ, tỉ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%.
Tiếp tục sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung ương, hình
thành hệ thống trung tâm kiểm soát dịch bệnh đồng bộ ở tất cả các cấp và kết nối với mạng lưới
của thế giới. Tập trung phát triển mạnh y tế cơ sở, y tế dự phòng, sàng lọc và phát hiện sớm,
chữa trị kịp thời, hiệu quả các loại dịch bệnh mới. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y
học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ con người. Phát triển y
học cổ truyền, gắn với y học hiện đại; nghiên cứu, kiểm nghiệm, chứng minh tác dụng của các
phương thức chẩn trị, điều trị không dùng thuốc, các bài thuốc, vị thuốc y học cổ truyền. Đẩy
mạnh phát triển, quản lý ngành dược và thiết bị y tế; bảo đảm thuốc đủ về số lượng, tốt về chất
lượng, giá hợp lý, đáp ứng nhu cầu. Nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ động sản xuất vắc-xin,
thuốc sáng chế. Thực hiện nghiêm việc kiểm soát an toàn thực phẩm. (Trích Văn kiện Đại hội
Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.60).
ND5: QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
LÝ LUẬN:
Phủ định là sự thay thế cái cũ bằng cái mới.
Phủ định biện chứng bao gồm những mâu thuẫn là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên
trong của sự vật, hiện tượng, tạo ra bước nhảy về chất, tạo tiền đề, điều kiện cho sự phát triển, cái
mới ra đời thay thế cái cũ.
Đặc điểm của phủ định biện chứng:
Tính khách quan: nguyên nhân của sự phủ định nằm trong bản thân sự vật, hiện tượng. Đó là kết
quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện tượng, là kết quả của quá trình tích
lũy dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi về chất của sự vật hiện tượng. Như vậy, phủ định biện
chứng là sự tự thân phủ định.
VD: Sự giải quyết mâu thuẫn giữa hai quá trình đồng hóa và dị hóa giúp cho cơ thể có thể phát
triển vượt trội hơn về cân nặng và chiều cao so với trước.
Tính kế thừa: cái mới ra đời thay thế cái cũ, nhưng cái mới ra đời không phải là sự phủ định
tuyệt đối, sạch trơn, đoạn tuyệt siêu hình với cái cũ, mà là sự phủ định có kế thừa, cái mới được
ra đời trên cơ sở của cái cũ, nó chỉ gạt bỏ những yếu tố lạc hậu, lỗi thời, không còn phù hợp ở cái
cũ; đồng thời, giữ lại những yếu tố tích cực, tiến bộ, còn phù hợp với điều kiện mới. Do đó, phủ
định biện chứng là sự khẳng định.
VD: Loài bướm từ giai đoạn sâu ấu trùng chuyển sang giai đoạn nhộng, ta nói nhộng phủ định ấu
trùng, nhưng nhộng bướm không phải khác hoàn toàn so với ấu trùng bướm mà có kế thừa
những đặc điểm của giai đoạn ấu trùng.
Ý nghĩa của quan điểm phủ định biện chứng:
-Chống lại quan điểm siêu hình về phủ định. Bởi lẽ, quan điểm siêu hình về phủ định thì phủ
định sạch trơn, xóa bỏ hoàn toàn cái cũ để xây dựng lại cái mới, không gắn liền với cái cũ, dẫn
đến chấm dứt sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tượng; khi kế thừa thì kế thừa nguyên xi,
rập khuôn toàn bộ cái cũ vào cái mới, không phê phán, không cải tạo cái cũ, không tạo ra những
nhân tố mới tiến bộ so với cái cũ.
- Kết quả của phủ định biện chứng là cái mới ra đời thay thế cho cái cũ, nhưng rồi cái mới này lại
trở nên cũ và chứa đựng yếu tố nội sinh để dẫn đến khuynh hướng phủ định lần thứ hai. Đây
chính là phủ định của phủ định.
Nội dung quy luật:
- Sợi dây chuyền của những lần phủ định biện chứng là vô tận, cái mới phủ định cái cũ, nhưng
rồi cái mới đó lại trở nên cũ và bị phủ định bởi cái mới hơn. Sự phát triển của sự vật, hiện tượng
diễn ra theo khuynh hướng phủ định của phủ định, từ thấp đến cao một cách vô tận, sau một chu
kỳ phủ định của phủ định, cái mới ra đời dường như lặp lại cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
VD: Ngày xưa, ta chỉ có những dòng điện thoại với chức năng rất đơn giản sử dụng nút bấm,
nhưng bây giờ, ngày càng xuất hiện nhiều kiểu điện thoại đa dạng kế thừa và bổ sung về chức
năng, cách sử dụng và vận hành như điện thoại cảm ứng, điện thoại đính kèm bút cảm ứng. Sự
cải tiến này là vô tận.
- Phủ định của phủ định là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong của sự vật, hiện
tượng. Qua sự phủ định lần thứ nhất tạo ra cái phủ định đối lập với cái khẳng định ban đầu. Qua
sự phủ định lần thứ hai, sự vật, hiện tượng mới với tư cách là cái phủ định của phủ định đối lập
với cái phủ định và dường như lặp lại cái khẳng định ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.
VD: Hạt ngô sau khi gieo trồng sẽ thành cây bắp, trải qua quá trình gia công, sơ chế và thu hoạch
thì sẽ cho hạt bắp mới, hạt bắp này có vẻ giống với hạt bắp ban đầu nhưng chất lượng có thể cao
hơn
- Phủ định là phủ định là kết quả tổng hợp các giai đoạn đã qua, cho nên, nó có nội dung phong
phú hơn, toàn diện hơn so với cái khẳng định ban đầu, cái phủ định lần thứ nhất và các giai đoạn
trước đó.
VD: Tài liệu cho khóa luận tốt nghiệp là kết quả tổng hợp của rất nhiều tài liệu mà chủ đề tài
nghiên cứu, soạn thảo, phân tích và đánh giá và phản biện. Cho nên, nội dung của các tài liệu này
sẽ phong phú và đa dạng hơn so với bản thảo ban đầu.
- Phủ định của phủ định đánh dấu sự kết thúc của chu kỳ vận động, phát triển của sự vật, hiện
tượng, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ vận động, phát triển mới tiếp theo.
VD: Chu trình sống của loài ruồi phát triển từ trứng → ấu trùng (vòi)  nhộng  ruồi trưởng
thành. Ruồi trưởng thành lại tiếp tục đẻ trứng để bắt đầu lại chu trình này.
- Số lần phủ định trong một chu kỳ có thể nhiều hơn hai lần phủ định, tùy theo tính chất của một
quá trình phát triển cụ thể. Về nguyên tắc, vẫn có thể quy về hai lần phủ định: phủ định lần thứ
nhất chuyển cái khẳng định thành cái đối lập, phủ định lần thứ hai là loại phủ định trải qua một
số khâu trung gian để chuyển thành cái đối lập với cái phủ định lần thứ nhất.
VD: Loài rắn trong đời trải qua rất nhiều lần thay da và lột xác kể từ khi sinh ra để có thể phát
triển. Chung quy lại, có thể quy về 2 lần phủ định: trứng là cái ban đầu, rắn con phủ định trứng,
rắn trưởng thành phủ định của phủ định trứng.
- Phủ định của phủ định vạch ra khuynh hướng của sự phát triển, sự phát triển diễn ra theo đường
“xoáy ốc” biểu thị sự vô tận, tiếp lên và lặp lại sự phát triển.
Ý nghĩa phương pháp luận:
- Trong nhận thức và thực tiễn cần tuân theo quan điểm phủ định biện chứng, chống lại quan
điểm siêu hình về phủ định
- Trong tự nhiên, PĐ của PĐ diễn ra một cách tự động, còn trong xã hội chỉ diễn ra khi có sự
tham gia của con người có ý thức. Do đó, cần nằm bắt điều kiện khách quan thuận lợi, phát huy
nhân tố chủ quan tích cực để tạo ra cái mới phù hợp với yêu cầu tiến bộ của xã hội.
- Trong đời sống xã hội, cần nhận thức đúng và vận dụng một cách phù hợp lôgich của tiến trình
phủ định biện chứng, phủ định về tư tưởng rồi mới phủ định trong thực tiễn. Cụ thể, xuất phát từ
thực trạng xã hội để tiến hành phê phán mang tính xây dựng đối với cái cũ cần phủ định. Trên cơ
sở đó, thiết lập nên mô hình lý luận mới thay thế cho mô hình lý luận cũ, sau đó tiến hành hiện
thực hóa mô hình lý luận ấy trong đời sống xã hội.
Vận dụng: (Nguyên tắc nhận biết: gạt bỏ cái gì, kế thừa cái gì và phát huy cái gì)
CUỘC SỐNG VÀ HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN:
Trong cuộc sống (trình bày 2 vấn đề)
Một số vấn đề gợi ý: vấn đề giao tiếp giữa sinh viên và giảng viên, vấn đề sắp xếp thời gian biểu
trong 1 ngày, vấn đề nấu ăn và ăn uống khi sống trong tập thể, vấn đề quản lý chi tiêu của sinh
viên, vấn đề xây dựng nếp sống lành mạnh, vấn đề phương tiện đi lại,...(bạn có thể bổ sung
thêm)
- Sinh viên luôn bày tỏ thái độ lịch sự, kính trọng và đúng mực khi trao đổi vấn đề với giảng
viên, nhưng đôi khi giao tiếp còn thiếu tinh tế, bày tỏ ý kiến sai lệch so với suy nghĩ khiến cho
giảng viên khó hiểu hoặc hiểu lầm dẫn đến những sự cố không mong đợi. Cần hạn chế, loại bỏ
những cách giao tiếp thiếu sự rõ ràng, gây hiểu lầm, giữ vững và phát huy sự cần thận, lịch sự và
trân quý khi tiếp xúc và trò chuyện với thầy cô liên quan đến nội dung vấn đề còn thắc mắc.
- Sinh viên có rất nhiều công việc trong một ngày (trường, nhà, nơi làm thêm,...), luôn ý thức về
sự cần thiết phải sắp xếp và lên một thời gian biểu hợp lý và đã lên một thời gian biểu cho bản
thân, nhưng sự cân đối thời gian giữa các công việc chưa được phù hợp, việc cần nhiều thời gian
thì lại phân quá ít thời gian và ngược lại. Cần phát huy sự tích cực trong việc lên thời gian biểu
phù hợp cho bản thân, luôn lập thời gian biểu, kế hoạch cho từng hoạt động, gạt bỏ sự mất cân
bằng thời gian giữa các công việc để có thể thực hiện hoạt động ngày đạt hiệu quả tốt.
- Sinh viên có ý thức phân công nhiệm vụ nấu ăn trong một ngày khi sống trong khu tập thể
nhưng đôi khi xảy ra mâu thuẫn vì sự phân công ngày và người nấu ăn chưa hợp lý, hoặc có bạn
không biết nấu ăn nhưng bị bắt phải nấu ăn. Trong ăn uống thì thường không đồng nhất quan
điểm trong việc nêm nếm thức ăn (người mặn, người ngọt,...) dẫn đến không thể ăn uống một
cách ngôn lành. Cho nên, chúng ta cần phải giữ gìn và phát huy tinh thần biết phân chia công
việc nấu ăn cho nhau, đối với vấn đề nấu ăn, nên cân đối với những bạn không biết thực hiện
bằng cách chuyển sang làm công việc khác có khối lượng tương đương, trong nêm nếm và quyết
định thực đơn cần phải thực hiện theo nguyên tắc đa số, phổ biến để hạn chế những mâu thuẫn.
- Sinh viên thường phải tập trung rất nhiều vào việc quản lí tiền nong và chi tiêu trong điều kiện
không được trợ cấp nhiều từ người thân và thường khó kiểm soát việc chi tiền nếu không biết
cách. Cho nên, cần phát huy sự tiết kiệm và chi tiêu hợp lý trong cuộc sống và tinh thần lao động
tích cực trong việc kiếm tiền trang trải, hạn chế thói quen tiêu xài hoang phí, tiêu hoang, mua
những thứ không cần thiết. Có như thế thì sinh viên sẽ có thể sống tốt mà không cần phải phụ
thuộc quá nhiều vào người khác.
Trong học tập (trình bày 2 vấn đề)
Một số vấn đề gợi ý: vấn đề giải quyết những bất cập trong việc đăng kí học phần, vấn đề rèn
luyện tính chăm chỉ trong học tập, vấn đề mượn sách ở thư viện, vấn đề phát biểu trong giờ
học,... (bạn có thể bổ sung thêm)
- Việc đăng ký học phần có lợi là giúp cho sinh viên có thể tự chủ trong việc lên kế hoạch học
tập, sắp xếp thời gian biểu phù hợp với lịch trình cá nhân, hạn chế là việc thiết bị kết nối mạng
đôi khi bị chập chờn, trang web bị quá tải và nghẽn, số lượng các lớp học phần là có hạn, sinh
viên đôi khi không thể đăng kí theo đúng tiến độ mình đề ra. Thế nên, trong những lần đăng ký
học phần, sinh viên luôn phải phát huy sự linh hoạt, chủ động và có ý thức xây dựng một thời
khóa biểu môn học phù hợp (tầm 2-3 kế hoạch học tập), cần khắc phục điều kiện mạng, nên chủ
động đăng kí sớm vì có rất nhiều người đang cùng đăng kí với mình, nếu môn học cần đăng kí là
môn quan trọng mà đã hết chỗ thì có thể nhờ sự giúp đỡ của bộ phận giáo vụ để được hướng dẫn.
Có như thế, việc đăng kí học phần sẽ không quá khó khăn và áp lực nữa.
- Sinh viên luôn luôn tâm niệm với bản thân về sự chăm chỉ trong học tập. Từ thời phổ thông,
bạn đã rất chăm chỉ trong việc tham gia học tập, tích cực xây dựng bài với lớp và cho đến nay
cũng vậy, tuy nhiên, việc bị cám dỗ bởi những thú vui tiêu khiển và mạng xã hội (trò chơi điện
tử, facebook, tiktok,...) khiến cho cá nhân thiếu tính chăm chỉ và thụ động, mờ nhạt. Cho nên,
cần phải tiếp tục phát huy tinh thần tự giác, chăm chỉ, tích cực trong học tập. Học tập và vui chơi
phải có ranh giới rõ ràng. Hạn chế việc bị xao nhãng bởi những thú tiêu khiển vô ích và tốn thời
gian. Đó là tiền đề để tinh thần học tập của chúng ta được phát huy ở mức tối đa nhất.
- Việc mượn sách của sinh viên ở thư viện cho thấy rằng sinh viên có sự quan tâm đối với việc
đọc sách cũng như nghiên cứu tri thức và tham khảo tài liệu. Tuy nhiên, có nhiều bạn mượn sách
lại không có ý thức giữ gìn và đôi khi làm hỏng, mượn sách nhưng không tuân thủ theo nội quy
của thư viện, trả sách không đúng thời hạn, gây khó khăn cho thủ thư trong việc sắp xếp sách
cũng như quản lý người mượn – trả sách. Do đó, các bạn sinh viên cần phải giữ tinh thần ham
đọc sách và có ý thức mượn sách để đọc và nghiên cứu, có ý thức giữ gìn sách cẩn thận, loại bỏ
thái độ không nghiêm túc khi thực hiện nội quy của thư viện trong việc mượn – trả sách và các
dịch vụ kèm theo. Có như thế, văn hóa mượn – trả sách và văn hóa đọc sách tại thư viện mới
thực sự vận hành thuận lợi.
KINH TẾ:
Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
phát triển đất nước nhanh, bền vững:
Tiếp tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa đầy đủ, đồng bộ, hiện đại, hội nhập, trọng tâm là thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là thị
trường quyền sử dụng đất, khoa học và công nghệ. Huy động, sử dụng các nguồn lực thực hiện
theo cơ chế thị trường
Phương hướng nhiệm vụ giải pháp phát triển kinh tế trong 10 năm 2021-2030: (Tr.103 Tài liệu
học tập văn kiện đại hội Đảng lần thứ XIII)
- Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị trường quyền sử
dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầu đủ quyền tự do, an toàn trong hoạt động kinh
doanh; huy động sử dụng hiệu quả các nguồn lực theo nguyên tắc thị trường và đồng thời, cải
cách thủ tục hành chính một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả, bãi bỏ các rào cản hạn chế quyền
tự do kinh doanh, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường kinh doanh, bảo đảm cạnh tranh
lành mạnh, bình đẳng, minh bạch.
Xây dựng và hoàn thiện nền tài chính quốc gia, cơ cấu lại, tăng cường giám sát và điều tiết thị
trường tài chính, bên cạnh đó sửa đổi hệ thống luật và chính sách thuế, phí, lệ phí theo nguyên
tắc thị trường, phù hợp với thông lệ quốc tế, nâng cao sức cạnh tranh của môi trường đầu tư.
..... (Bạn có thể tìm một minh chứng từ các tạp chí khác)
VĂN HÓA:
(Phần VII – Tr.56 Tài liệu học tập Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XIII)
Đề cao vai trò của gia đình trong nuôi dưỡng, giáo dục thế hệ trẻ. Phát huy các nhân tố tích cực,
nhân văn trong các tôn giáo, tín ngưỡng. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong
lãnh đạo, quản lý. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh;
Tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả của các loại hình văn hóa, văn nghệ. Quan tâm, tạo điều
kiện phát triển văn hóa, văn nghệ của các dân tộc thiểu số. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật; khuyến khích tự do sáng tạo, thực thi quyền tác
giả.

Gắn phát triển văn hóa với phát triển du lịch, bảo vệ, gìn giữ tài nguyên văn hóa cho các thế hệ
mai sau. Tăng cường quản lý và phát triển các loại hình truyền thông, thông tin trên Internet.
Kiên quyết đấu tranh, loại bỏ các sản phẩm, thông tin độc hại, xuyên tạc, phản động, ảnh hưởng
xấu đến ổn định chính trị - xã hội, thuần phong mỹ tục.
(Tr.70)
Vận động, đoàn kết, tập hợp các tổ chức tôn giáo, chức sắc, tín đồ sống “tốt đời đẹp đạo”, đóng
góp tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết đấu tranh và xử lý nghiêm
minh những đối tượng lợi dụng tôn giáo chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ XHCN; chia rẽ, phá
hoại đoàn kết tôn giáo và khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
(Bạn có thể tìm thêm các tài liệu, tạp chí khác)
GIÁO DỤC:
(Tr.51 – Tài liệu học tập Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII)
Đột phá chiến lược được Đảng xác định: tiếp tục đẩy nhanh việc đổi mới căn bản, toàn diện và
nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Trọng tâm là hiện đại hóa và thay đổi phương thức giáo
dục và đào tạo, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Chú trọng đào tạo nhân lực chất
lượng cao, phát hiện và bồi dưỡng nhân tài; có chính sách để thu hút, trọng dụng nhân tài.
- Trong cơ cấu hệ thống giáo dục: tiếp tục hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân, đặc biệt chú
trọng đến giáo dục mầm non, giáo dục tiểu học. Củng cố và nâng cao chất lượng phổ cập giáo
dục tiến tới xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Đẩy mạnh tự chủ đại học. Thúc đẩy sự
phát triển các cơ sở giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao.
- Về chính sách phát triển giáo dục: xây dựng và triển khai thực hiện lộ trình tiến tới miễn học
phí đối với học sinh phổ thông, mà trước hết là học sinh tiểu học, trung học cơ sở. Quan tâm
thích đáng đến phát triển giáo dục miền núi, hải đảo, vùng cao, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
- Về nguồn đầu tư: thực hiện thích đáng với giáo dục và đào tạo chất lượng cao, trình độ cao; có
chính sách đầu tư đặc thù cho vùng khó khăn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Thực hiện có hiệu
quả các chính sách xã hội trong giáo dục và đào tạo.
- Xây dựng một môi trường giáo dục lành mạnh, kiên quyết khắc phục bệnh thành tích, ngăn
ngừa và xử lí tiêu cực trong giáo dục và đào tạo.
Trong giai đoạn 2021-2025, Đảng đã đề ra phương hướng cụ thể để phát triển giáo dục trong 5
năm tới. Có thể kể đến một số biện pháp như sau:
- Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, trọng tâm là hiện
đại hóa giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo để đáp ứng yêu cầu phát triển trong bối cảnh cuộc
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc tế sâu rộng. Đây là điều quan trọng nhất
- Chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số.
- Rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo trên cả nước đáp ứng nhu
cầu học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập và gắn với quy hoạch nguồn nhân lực và phát triển
KT – XH. Đẩy mạnh hướng nghiệp, phân luồng, liên thông, đào tạo theo nhu cầu xã hội. Tăng
cường đào tạo thường xuyên và đào tạo lại cho người lao động.
- Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng KH – KT, công nghệ thông tin, công nghệ số.
- Phát triển cơ sở giáo dục đại học đạt chất lượng cao theo chuẩn quốc tế và trong nước.
Y TẾ:
(tham khảo bài sau http://congdoantttt.org.vn/tin-tuc/Huong-toi-dai-hoi-XIII/106456/bao-ve-
cham-soc-va-nang-cao-suc-khoe-nhan-dan-la-mot-nhiem-vu-trong-tam-cua-dang )
Về nhiệm vụ từ nay tới 2030, các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng nhận định: Đẩy mạnh
phát triển sự nghiệp thể dục, thể thao, nâng cao sức khoẻ cho người dân cả về thể chất, tinh thần,
tầm vóc, tuổi thọ cũng như chất lượng cuộc sống. Chăm lo phát triển về chất lượng, quy mô, cơ
cấu dân số.
Duy trì vững chắc mức sinh thay thế, đưa tỉ số giới tính khi sinh về mức cân bằng tự nhiên;
chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hoá gia đình sang dân số và phát triển; tận dụng
hiệu quả các cơ hội từ cơ cấu dân số vàng, thích ứng với quá trình già hoá dân số, đẩy mạnh
chăm sóc sức khoẻ người cao tuổi. Bảo vệ và phát triển dân số các dân tộc thiểu số có dưới
10.000 người, đặc biệt là những dân tộc thiểu số có nguy cơ suy giảm giống nòi. Thúc đẩy phân
bố dân số hợp lý và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Hoàn thành xây dựng và vận hành cơ sở dữ
liệu quốc gia về dân cư, bảo đảm 100% dân số được đăng ký và quản lý”.

Tại văn kiện, Đảng đã đề cập tới việc xây dựng chiến lược 10 năm 2021- 2030. Trong đó, với
riêng lĩnh vực y tế phải hoàn thành các yêu cầu:
“Đổi mới cơ chế quản lý, xây dựng hệ thống y tế công bằng, chất lượng, hiệu quả và hội nhập
quốc tế, thực hiện bao phủ chăm sóc sức khoẻ toàn dân, tổ chức cung cấp dịch vụ y tế công, bảo
đảm các dịch vụ cơ bản, phấn đấu trên 95% dân số được quản lý, theo dõi và chăm sóc, bảo vệ
sức khoẻ. Chú trọng công tác dự phòng, sàng lọc và phát hiện sớm, chữa trị kịp thời. Tập trung
phát triển mạnh y tế cơ sở và y tế dự phòng. Tiếp tục sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ
y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung ương, hình thành hệ thống trung tâm kiểm soát dịch bệnh đồng
bộ ở tất cả các cấp và kết nối với mạng lưới kiểm soát bệnh tật thế giới. Tăng cường nghiên cứu,
ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khoẻ con
người. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghệ số trong
khám, chữa bệnh, liên thông công nhận kết quả khám, xét nghiệm, triển khai hồ sơ sức khoẻ điện
tử toàn dân; khắc phục tình trạng quá tải bệnh viện. Phấn đấu đạt 32 giường bệnh và 11 bác sĩ
trên 1 vạn dân. Tập trung phát triển một số trung tâm y tế chuyên sâu, xây dựng một số cơ sở
khám, chữa bệnh có tầm cỡ khu vực và quốc tế. Đào tạo, nâng cao năng lực và tổ chức quản trị
chuyên nghiệp các cơ sở y tế. Khuyến khích phương thức đối tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung
cấp các dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu; phát triển mô hình bác sĩ gia đình. Thực hiện bảo
hiểm y tế toàn dân, phấn đấu tỉ lệ tham gia bảo hiểm y tế trên 95% dân số, đa dạng mức đóng và
mức hưởng. Phát triển y học cổ truyền gắn với y học hiện đại. Phát triển dược liệu, công nghiệp
dược và thiết bị y tế; nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ động sản xuất vaccine, thuốc sáng chế.

Nâng cao chất lượng công tác dự báo, giám sát, phát hiện, khống chế, ngăn chặn hiệu quả, không
để dịch bệnh lớn xảy ra, ứng phó kịp thời các vấn đề khẩn cấp, sự cố môi trường, bảo đảm an
ninh y tế. Đổi mới mạnh mẽ cơ chế và phương thức hoạt động của y tế xã, phường, thị trấn bảo
đảm thực hiện đúng vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, chăm sóc sức khoẻ của người dân
trên địa bàn. Phòng ngừa và kiểm soát lây nhiễm HIV, tiến tới chấm dứt bệnh dịch AIDS trước
năm 2030.
https://moh.gov.vn/hoat-dong-cua-lanh-dao-bo/-/asset_publisher/TW6LTp1ZtwaN/content/pho-
bien-trien-khai-cong-tac-phong-chong-tham-nhung-tieu-cuc-trong-linh-vuc-y-te
Đại diện người lao động trong lĩnh vực y tế, đồng chí Phạm Thanh Bình, Chủ tịch Công đoàn Y
tế Việt Nam chia sẻ: Chúng ta tăng cường chống tham nhũng, tiêu cũng nhưng cũng cần điều
chỉnh chính sách đối với cán bộ, y bác sĩ cho phù hợp với những vất vả, khó khăn, cống hiến của
thầy thuốc. Bác sĩ ngay khi ra trường nên được hưởng 100% lương bậc 1 cũng như chế độ thâm
niên nghề nên xem xét cho bác sĩ. Bên cạnh đó cần có chính sách thu hút…
Nội dung cốt lõi của phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong y tế là phát hiện. Muốn phát hiện
ra tham nhũng, tiêu cực trong y tế thì phải thông qua kiểm tra, giám sát và thanh tra.
- Phải chú trọng đến phòng ngừa. Phòng ngừa là chính. Lấy phòng ngừa làm cơ bản, lâu dài.
Muốn thế các đơn vị phải ban hành quy chế làm việc, phân công, phân nhiệm rõ ràng. Xây dựng
và ban hành quy chế chi tiêu nội bộ minh bạch. Thực hiện thật tốt quy chế dân chủ ở cơ quan,
đơn vị. Phải xây dựng, kết hợp hài hòa mối quan hệ giữa tổ chức đảng và lãnh đạo.
-Phải thực hiện tốt cải cách hành chính. Đặc biệt, trong lĩnh vực y tế cần công khai rõ ràng trong
vấn đề tài chính (thu - chi viện phí; thủ tục cấp giấy lưu hành thuốc; trang thiết bị; mua sắm…).
(Đ/c: Đỗ Xuân Tuyên)
KH & CN:
https://daihoi13.dangcongsan.vn/tin-moi/khoa-hoc-cong-nghe-tao-dot-pha-moi-theo-tinh-than-
nghi-quyet-dai-hoi-xiii-6129
“Có thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù, vượt trội, thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ;
nâng cao năng lực nghiên cứu, làm chủ một số công nghệ mới, hình thành năng lực sản xuất mới
có tính tự chủ và khả năng thích ứng, chống chịu của nền kinh tế; lấy doanh nghiệp làm trung
tâm nghiên cứu phát triển, ứng dụng và chuyển giao công nghệ, ứng dụng công nghệ số. Phát
triển hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo”.
Văn kiện ĐH lần thứ XIII – Tr.54-56
ND6: THỰC TIỄN VÀ VAI TRÒ CỦA THỰC TIỄN ĐỐI VỚI NHẬN THỨC
*** Lý luận:
*Thực tiễn (TT): là toàn bộ hoạt động (HĐ) vật chất (VC) có mục đích mang tính lịch sử – xã
hội của con người (CN) nhằm cải biến thế giới khách quan (TGKQ)/ tự nhiên và xã hội vì lợi ích
của CN.
Các hình thức thực tiễn cơ bản: HĐ sản xuất vật chất (HĐSXVC); HĐ chính trị — xã hội
(HĐCTXH); HĐ thực nghiệm khoa học (HĐTNKH)

*Nhận thức (NT): là quá trình phản ánh tích cực, tự giác, sáng tạo thế giới khách quan vào trong
bộ óc con người trên cơ sở thực tiễn, nhằm sáng tạo ra những tri thức về thế giới khách quan.
*Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:

— TT là cơ sở (điểm xuất phát trực tiếp) của NT: thông qua TT mà CN nảy sinh nhu cầu hiểu
biết và cải tạo TG. Vì vậy, CN phải tác động vào TG làm cho nó bộc lộ các thuộc tính và thông
qua các thuộc tính ấy, con người mới có thể nắm bắt được bản chất (BC) và các quy luật (QL)
VĐ, PT của TG nhằm cải tạo TG.
VD, trong HĐSXVC, CN sử dụng các công cụ lao động và nhờ vào các CCLĐ mà CN được nối
dài giác quan và giúp CN tác động và chinh phục TG ngày càng tốt hơn: khám phá lòng đất để
phát hiện các mỏ, quặng…VD, thời nguyên thủy, con người săn bắt hái lượm để sinh tồn. VD, sự
ra đời của chủ nghĩa Mác-Lênin bắt nguồn từ thực tiễn, mà cụ thể là điều kiện PT kinh tế-xã hội
của Chủ nghĩa tư bản (CNTB), cùng với đó là sự trưởng thành và PT của phong trào công nhân
trên cơ sở phát triển của CNTB.

— TT là động lực của NT: thông qua TT mà các giác quan và bộ óc CN ngày càng hoàn thiện,
năng lực (NL) tư duy (TD) logic, TD trừu tượng không ngừng được củng cố và PT, từ đó/ góp
phần thúc đẩy NT PT. Đồng thời, CN tạo ra các phương tiện (PT) ngày càng tinh vi, hiện đại
hơn, càng làm tăng thêm khả năng NT của CN.
VD: (1) Do nhu cầu đi lại ngày càng cao, mong muốn di chuyển được nhanh và thuận tiện hơn
mà CN phát minh ra phương tiện (xe ngựa, xe hơi, tàu thủy, máy bay,…); (2) vì nhận thấy
HĐLDSX vất vả của nông dân mà CN chế tạo ra nhiều loại máy móc khác nhau (máy cày, máy
thu hoạch, máy phun phân bón…) với mục tiêu nâng cao năng suất lao động và giảm nhẹ chấn
thương, sự vất vả trong lao động.

— Thực tiễn là mục đích của NT: NT của CN không phải chỉ để NT, mà vấn đề quan trọng là
phải quay trở về TT, phục vụ cho TT, hướng dẫn, chỉ đạo TT và tổ chức thực hiện trong TT.
VD: Trong đại dịch Covid — 19, các chuyên gia y tế, các nhà nghiên cứu khoa học tập trung
toàn lực tìm kiếm nguyên nhân, phương pháp thiết thực, vaccine hữu hiệu nhất với mục đích
phòng ngừa và điều trị bệnh dịch (thực tiễn). VD, từ mục đích chữa trị các căn bệnh nan y mà
các nhà nghiên cứu là nghiên cứu và giải mã bản đồ gen người. VD, nhằm bảo vệ môi trường,
nhiều người đã nghĩa ra các biện pháp như: tái chế nhựa, dùng túi tự hủy, dùng ly giấy, ống hút
giấy…

— Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lí: kết quả của NT là tri thức, nó có thể đúng củng có thể sai.
Để biết được đúng hay sai thì tri thức ấy phải được TT kiểm nghiệm xem có phù hợp với hiện
thực hay không. Nếu phù hợp thì đó là chân lý, còn ngược lại là sai lầm. Bên cạnh đó, trên cơ sở
TT, CN bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, PT và hoàn thiện NT; từ đó, NT của CN ngày càng đầy
đủ, sâu sắc hơn.
VD: (1) chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ đã kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến 9 năm chống
thực dân Pháp chính là minh chứng tiêu biểu cho đường lối cách mạng và sự chỉ đạo tài tình của
Đảng; (2) thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ cứu nước là chứng minh đường lối cách mạng đúng
đắn mà Đảng đề ra cho miền Nam.
(⇨Friedrich Engels đã từng lưu ý: "Lý luận của chúng tôi là lý luận của sự phát triển, chứ không
phải là một giáo điều mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc".
⇨Karl Marx đã từng khẳng định: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân
lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn.
Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.)

*Ý nghĩa phương pháp luận: vai trò của thực tiễn đối với nhận thức đòi hỏi cần phải luôn quán
triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu:
— Nhận thức cần phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, sâu sát với thực tiễn và
cần coi trọng công tác tổng kết thực tiễn. .
— Nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.
— Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc và quan liêu.
— Nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa thực
dụng.

***Vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào quá trình đổi mới ở Việt Nam
— Công cuộc thay đổi chính thức xuất phát từ việc Đảng ta thừa nhận và được cho phép tăng
trưởng kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa nhiều thành phần, quản lý và vận hành theo chính
sách thị trường. Đó là một tất yếu khách quan khi ở vào thời kỳ quá độ như ở nước ta lúc bấy
giờ. Phải dung hòa và sống sót nhiều thành phần kinh tế tài chính là một tất yếu do lịch sử dân
tộc để lại tuy nhiên đưa chúng cùng sống sót và tăng trưởng mới là một yếu tố nan giải, khó khăn
vất vả. Bên cạnh việc thừa nhận sự sống sót của kinh tế tài chính tư bản tư nhân, đương nhiên
phải tiếp tục đấu tranh với xu thế tự phát tư bản chủ nghĩa và những mặt xấu đi trong những
thành phần kinh tế tài chính, xử lý xích míc sống sót trong sản xuất giữa chúng để cùng tăng
trưởng .
Sự nghiệp thay đổi ở nước ta cung ứng một bài học kinh nghiệm to lớn về nhận thức. Đó là bài
học kinh nghiệm về không cho quan điểm thực tiễn – nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác —
Lênin, quan điểm cơ bản và số 1 của triết học Mác xít. Sự nghiệp thay đổi với đặc thù mới mẻ và
lạ mắt và khó khăn vất vả của nó yên cầu phải có lý luận khoa học soi sáng. Sự tò mò về lý luận
phải trở thành tiền đề và điều kiện kèm theo cơ bản làm cơ sở cho sự thay đổi trong hoạt động
giải trí thực tiễn. Tuy nhiên, lý luận không tự nhiên mà có và cũng không hề chờ chuẩn bị sẵn
sàng xong xuôi về lý luận rồi mới triển khai thay đổi. Hơn nữa, thực tiễn lại là cơ sở để nhận
thức, của lý luận. Phải qua thực tiễn rồi mới có kinh nghiệm tay nghề, mới có cơ sở để khái quát
thành lý luận.
Vì vậy, quy trình thay đổi ở nước ta chính là quy trình vừa học vừa làm, vừa làm vừa tổng kết lý
luận, đúc rút thành quan điểm, thành đường lối để rồi quay trở lại quy trình thay đổi. Có những
điều tất cả chúng ta phải mò mẫm trong thực tiễn, phải trải qua thể nghiệm, phải làm rồi mới
biết, thậm chí còn có nhiều điều phải chờ thực tiễn. Ví dụ như vấn đề chống lạm phát kinh tế,
yếu tố khoán trong nông nghiệp, yếu tố phân phối loại sản phẩm… Trong quy trình đó, tất yếu sẽ
không tránh khỏi việc phải trả giá cho những khuyết điểm, xô lệch nhất định .
Ở đây, việc bám sát thực tiễn, phát huy óc phát minh sáng tạo của cán bộ và nhân dân là rất quan
trọng. Trên cơ sở, phương hướng kế hoạch đúng, hãy làm rồi thực tiễn sẽ cho ta hiểu rõ sự vật
hơn nữa – đó là bài học kinh nghiệm không riêng gì của sự nghiệp kháng chiến chống ngoại xâm
mà còn là bài học kinh nghiệm của sự nghiệp thay đổi vừa mới qua và lúc bấy giờ

Trong khi tôn vinh vai trò của thực tiễn, Đảng ta không hề hạ thấp, không hề coi nhẹ lý luận.
Quá trình thay đổi là quy trình Đảng ta không ngừng nâng cao trình độ lý luận của mình, cố gắng
nỗ lực tăng trưởng lý luận, thay đổi tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Nó được bộc lộ qua năm bước chuyển của thay đổi tư duy tương thích
với sự hoạt động của thực tiễn đời sống trong những thực trạng và điều kiện kèm theo mới.
1. Bước chuyển thứ nhất:
Từ tư duy, dựa trên quy mô kinh tế tài chính hiện vật với sự tuyệt đối hóa sở hữu xã hội ( Nhà
nước và tập thể ) với sự tăng trưởng vượt trước của quan hệ sản xuất so với sự phát triền của lực
lượng sản xuất dẫn tới hậu quả ngưng trệ sự tăng trưởng sản xuất … sang tư duy mới. Xây dựng
nền kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa nhiều thành phần trong đó kinh tế tài chính nhà nước
giữ vai trò chủ yếu trong sự thống nhất biện chứng với tính phong phú những hình thức chiếm
hữu, phong phú những hình thức phân phối, lấy phân phối theo lao động làm đặc trưng đa phần
nhằm mục đích thôi thúc sản xuất tăng trưởng .
Đây chính là bước chuyển cơ bản mà có ý nghĩa sâu xa vì nó là tôn trọng quy luật khách quan về
sự tương thích giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất ; tuỳ thuộc vào trình độ tăng trưởng
của lực lượng sản xuất mà từng bước thiết lập quan hệ sản xuất cho tương thích .
2. Bước chuyển thứ hai:
Từ tư duy quản trị dựa trên quy mô một nền kinh tế tài chính chỉ huy tập trung chuyên sâu, kế
hoạch hóa tuyệt so với chính sách bao cấp và trung bình sang tư duy quản trị mới thích ứng với
nền kinh tế tài chính sản phẩm & hàng hóa nhiều thành phần, quản lý và vận hành theo cơ chế thị
trường, có sự quản trị của Nhà nước theo khuynh hướng Xã hội Chủ nghĩa
3. Bước chuyển thứ ba:
Đó là thực thi thay đổi mạng lưới hệ thống chính trị, từ chính sách tập trung chuyên sâu quan
liêu với phương pháp quản trị hành chính mệnh lệnh sang dân chủ hóa những nghành của đời
sống xã hội, thực thi dân chủ tổng lực .
4. Bước chuyển thứ tư:
Đổi mới ý niệm về sự hình thành và tăng trưởng của chủ nghĩa xã hội ở một nước phải xuất phát
từ chủ nghĩa Mác – Lê nin trong điều kiện kèm theo thực trạng lịch sử dân tộc đơn cử của nước
đó. Và đây cũng chính là tính khách quan, là cơ sở khách quan pháp luật nhận thức và những tìm
tòi phát minh sáng tạo của chủ thể chỉ huy sự nghiệp thiết kế xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nó
cũng đồng thời một lần nữa làm sáng tỏ quan điểm thực tiễn chi phối sự hoạch định đường lối
chủ trương .
5. Bước chuyển thứ năm:
Đó là sự hình thành ý niệm mới của Đảng ta về Chủ nghĩa Xã hội những nhận thức mới về tác
nhân con người .
Sức mạnh của chủ nghĩa Mác – Lê nin là ở chỗ trong khi khái quát thực tiễn cách mạng, lịch sử
vẻ vang xã hội, nó vạch rõ quy luật khách quan của sự tăng trưởng, dự kiến những khuynh
hướng cơ bản của sự tiến hóa xã hội. Trong tiến trình lúc bấy giờ của sự nghiệp thiết kế xây
dựng kinh tế tài chính xã hội yên cầu phải nắm vững và vận dụng phát minh sáng tạo và góp
thêm phần tăng trưởng chủ nghĩa Mác – Lênin. Để khắc phục những ý niệm lỗi thời trước đây
cần tất cả chúng ta phải tăng cường công tác làm việc điều tra và nghiên cứu lý luận, tổng kết có
mạng lưới hệ thống sự nghiệp thiết kế xây dựng chủ nghĩa xã hội, tăng nhanh sự nghiệp thay đổi.
Có như vậy, lý luận mới thực thi vai trò tích cực của mình so với thực tiễn .
Đổi mới nhận thức lý luận và công tác làm việc lý luận là một quy trình phức tạp, yên cầu phải
đấu tranh với tính bảo thủ và sức ỳ của những ý niệm lý luận cũ. đồng thời, đấu tranh với những
tư tưởng, ý niệm cực đoan từ bỏ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin, phủ định
sạch trơn mọi giá trị, mọi thành tựu của chủ nghĩa xã hội .
Tóm lại: Đổi mới tư duy chỉ đạo trong sự nghiệp đổi mới nói chung là một bộ phận không thể
thiếu được của sự phát triển xã hội cũng như sự phát triển kinh tế xã hội nước ta hiện nay. Điều
đó còn cho thấy rằng chỉ có gắn lý luận với thực tiễn mới có thể hành động đúng đắn và phù hợp
với quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Sự khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và làm
cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn chính là động lực, là cơ sở của nhận
thức, lý luận. Vì vậy cần khắc phục ngay những khiếm khuyết sai lầm song cũng phải tìm ra giải
pháp khắc phục để hạn chế sự sai sót và thiệt hại.

***Vận dụng vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vào bản thân, hoạt động học tập
*Về hoạt động sản xuất vật chất trong việc áp dụng học tập
— Để có một quá trình học tập thuận lợi và hiểu quả thì sinh viên cần phải có ý thức tốt trong
việc học và biết cách trau dồi tri thức, cụ thể như: đọc sách tham khảo, chuẩn bị tài liệu, xử lí tài
liệu, luyện tập có chủ đích để hoàn thành các kỳ thi thật tốt.
— hoạt động sản xuất vật chất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
— Đồng thời, dạng hoạt động này quyết định các dạng khác của hoạt động thực tiễn, là cơ sở
của tất cả các hình thức khác của hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới
hạn tồn taij của động vật.
*Về hoạt động chính trị — xã hội với cá nhân
+ đi bỏ phiếu bầu cử Quốc hội 18 tuổi….
+ Đại biểu Quốc hội tiếp xúc cử tri.
+ Thanh niên tham gia tình nguyện giúp đồng bào vùng sâu vùng xa.

Vận dụng sáng tạo lý luận về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức của Chủ nghĩa Mác —
Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm tuyên truyền mô hình giáo dục mới theo quan điểm “Học
đi đôi với hành”. Người chỉ rõ phương pháp để đào tạo nên những người vừa có đức, vừa có tài
là học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, lý luận gắn với thực tiễn, giáo dục
nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và xã hội. (đoạn 1)

Thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. Như vậy, thực tiễn
vừa là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và
phát triển của nhận thức, vừa là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng
đắn của mình. (đoạn 6)

TÀI LIỆU THAM KHẢO:


[1].https://bqllang.gov.vn/chu-tich-ho-chi-minh/nghien-cuu-hoc-tap-tu-tuong-ho-chi-minh/6926-
tu-ly-luan-ve-vai-tro-cua-thuc-tien-doi-voi-nhan-thuc-cua-chu-nghia-mac-le-nin-den-quan-diem-
a-hoc-di-doi-voi-hanha-cua-chu-tich-ho-chi-minh.html#:~:text=Th%E1%BB%B1c%20ti
%E1%BB%85n%20b%E1%BB%95%20sung%2C%20%C4%91i%E1%BB%81u,t%C3%ADnh
%20%C4%91%C3%BAng%20%C4%91%E1%BA%AFn%20c%E1%BB%A7a%20m
%C3%ACnh.
[2]. Văn kiện Đại hội Đàng lần thứ XIII
[3].https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/gioi-thieu-van-kien-dang/
nam-bai-hoc-lon-tu-thuc-tien-doi-moi-837
[4].https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/c-mac/nghien-cuu-
hoc-tap-tu-tuong/suc-song-cua-hoc-thuyet-mac-nen-tang-ly-luan-cua-con-duong-phat-trien-viet-
nam-3470
[5].https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ph-angghen/nghien-
cuu-hoc-tap-tu-tuong/thoi-ky-qua-do-len-chu-nghia-xa-hoi-ly-luan-cua-chu-nghia-mac-lenin-va-
thuc-tien-tren-the-gioi-mot-the-3426
___________________________________________________________________
ND7: QUY LUẬT VỀ QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
I. Lý luận
1. Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại, phát triển xã hội
Khái niệm sản xuất vật chất
- Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động để tác động vào giới tự
nhiên, làm biến đổi các dạng vật chất của giới tự nhiên
Vai trò của sản xuất vật chất:
Sản xuất đóng vai trò là cơ sở, nền tảng và động lực quyết định sự tồn tại và phát triển của xã
hội, vì:
- Sản xuất vật chất là yêu cầu khách quan của sự sinh tồn xã hội
- Sản xuất vật chất là cơ sở hình thành nên các quan hệ xã hội: chính trị, pháp quyền, đạo
đức, nghệ thuật…;
- Sản xuất vật chất là cơ sở của tiến bộ xã hội;
- Cách thức sản xuất thay đổi. sản xuất đạt hiệu quả cao hơn, quan hệ giữa người và người
cũng thay đổi, do đó, mọi mặt của đời sống xã hội cũng thay đổi
2. Biện chứng của LLSX và QHSX
a. Khái niệm và vai trò của PTSX
Khái niệm PTSX:
Khái niệm PTSX dùng để chỉ cách thức mà con người sử dụng để thực hiện quá trình sản xuất
vật chất trong từng giai đoạn lịch sử nhất định.
Phương thức SX với tính cách là một chỉnh thể thống nhất, có thể tiếp cận đến nó từ hai phương
diện (“lát cắt”) sau đây:
- Thứ nhất, về mặt kinh tế - kỹ thuật, tức là xem xét phương thức sản xuất từ trình độ kĩ
thuật của nền sản xuất thì phương thức sản xuất biểu hiện là LLSX (cách thức sản xuất).
- Thứ hai, về mặt kinh tế - xã hội, tức là xem xét phương thức sản xuất từ mối quan hệ giữa
người và người trong quá trình sản xuất thì phương thức sản xuất biểu hiện là quan hệ sản xuất
(cách thức quan hệ giữa người và người)
Như vậy, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt của cùng một phương thức sản xuất
Vai trò của phương thức sản xuất:
- Phương thức sản xuất quyết định trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội
- Trong các xã hội có giai cấp, phương thức sản xuất quyết định kết cấu giai cấp
- Phương thức sản xuất quyết định vị trí vai trò, sứ mệnh lịch sử của các giai cấp
- Phương thức sản xuất quyết định tương quan lực lượng giữa các giai cấp;
- Phương thức sản xuất quyết định mọi mặt của đời sống xã hội.
Do vậy, phương thức sản xuất quyết định lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử nối
tiếp nhau của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao.
b. Quy luật quan hệ SX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX
Khái niệm và kết cấu của LLSX và QHSX:
Khái niệm và kết cấu của LLSX:
- Lực lượng sản xuất biểu hiện mối quan hệ giữa con người và giới tự nhiên, khẳng định
khả năng chinh phục giới tự nhiên của con người
- LLSX là toàn bộ các nhân tố vật chất, kĩ thuật của QT SX, chúng tồn tại trong mối quan
hệ biện chứng với nhau tạo ra sức sản xuất làm cải biển các đối tượng trong quá trình sản xuất
vật chất, tức là tạo ra năng lực thực tiễn làm biến đổi các đối tượng vật chất của giới tự nhiên
theo nhu cầu nhất định của con người và xã hội.
- LLSX bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất; trong tư liệu SX gồm có tư liệu lao
động và đối tượng lao động; trong tư liệu lao động gồm có công cụ lao động và phương tiện lao
động
- Người lao động thể hiện ở ý thức, phẩm chất và trình độ về trí tuệ, chuyên môn, tay nghề,
kĩ năng, kinh nghiệm… của mình
- Đối tượng lao động là một phần của giới tự nhiên được con người tác động tới trong quá
trình lao động. Đối tượng lao động bao gồm đối tượng lao động có sẵn và đối tượng lao động
nhân tạo. Đối tượng lao động có sẵn là những đối tượng tự có trong giới tự nhiên; còn đối tượng
lao động nhân tạo là những đối tượng được con người tạo ra trong QT SX, nó biểu hiện dưới
dạng nguyên, nhiên, vật liệu, bán phẩm.
Trong tư liệu lao động thì phương tiện lao động là những phương tiện dùng để vận chuyển và
bảo quản sản phẩm; còn công cụ lao động là những vật thể được con người sử dụng để tác động
vào đối tượng lao động, nó đóng vai trò là “sợi dây nối” giữa con người và đối tượng lao động.
Để làm thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người, đối tượng lao động ngày càng được mở
rộng và công cụ lao động ngày càng được cải tiến, hoàn thiện hơn. Do đó, công cụ lao động đã
trở thành yếu tố năng động nhất trong tư liệu SX.
Trong lực lượng sản xuất, người lao động là nhân tố đóng vai trò quan trọng nhất, quyết định sự
phát triển nói riêng và đời sống xã hội nói chung.
Trong thời đại ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng SX trực tiếp của xã hội.
Trải qua các cuộc cách mạng khoa học, cùng với sự phát triển của sản xuất, khoa học ngày càng
có vai trò quan trọng trong sản xuất. Khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực
tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. C.Mác dự báo rằng, khoa học sẽ
trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”
Qủa thật, ngày nay khoa học đã trở thành lực lượng SX trực tiếp của xã hội, những thành tựu của
khoa học được ứng dụng nhanh chóng, rộng rãi vào sản xuất, có tác động thúc đẩy mạnh mẽ sản
xuất phát triển. Nền sản xuất đã được khoa học hóa, khoa học đã thâm nhập vào từng ngõ ngách,
từng “tế bào” của quá trình SX. Ngược lại, khoa học thì đã được vật chất hóa, nghĩa là nó trở
thành lực lượng vật chất, khoa học làm thay đổi tính chất của lao động, khoa học đã tạo ra những
vật liệu mới nhằm thúc đẩy sự phát triển của sản xuất và đời sống xã hội.
Tóm lại, trình độ của LLSX biểu hiện ở những yếu tố cơ bản sau:
- Thứ nhất, trình độ trí tuệ, chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm của người lao
động
- Thứ hai, trình độ ứng dụng các thành tựu khoa học vào SX
- Thứ ba, trình độ tổ chức, quản lý SX
- Thứ tư, trình độ phân công lao động
- Thứ năm, trình độ của các công cụ lao động
Khái niệm và kết cấu của quan hệ SX:
- Quan hệ SX biểu hiện mqh giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái
sản xuất xã hội)
Quan hệ SX là “bộ sườn”, “bộ khung” của hình thái kinh tế- xh, là quan hệ kinh tế cơ bản, quyết
định tất cả mối quan hệ khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ xã hội với nhau
Quan hệ SX bao gồm: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu SX; quan hệ trong tổ chức và quản lí
SX; quan hệ trong phân phối sản phẩm.
Quan hệ SX là hình thức xã hội của quá trình SX và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã
hội. Ba mặt hợp thành QHSX gắn bó hữu cơ với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định
tương đối so với sự vận động không ngừng của LLSX, trong đó QH sở hữu về tư liệu SX giữ vai
trò quyết định, các mặt còn lại cũng đóng vai trò hết sức quan trọng.
- Về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất
Tính chất của quan hệ sản xuất trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản
xuất. Quan hệ sở hữu đối với TLSX quyết định trực tiếp địa vị của các tập đoàn người trong xã
hội. Cụ thể là, tập đoàn người nào, giai cấp nào có quyền sở hữu về TLSX thì giữ địa vị thống trị
xã hội; ngược lại, tập đoàn người nào, giai cấp nào không có quyền sở hữu về TLSX thì bị thống
trị trong xã hội.
Đến lượt mình, địa vị của các tập đoàn người lại quy định cách thức tổ chức, quản lý sản xuất,
cũng như các nguyên tắc phân phối sản phẩm. Cụ thể là, tập đoàn người nào, giai cấp nào giữ địa
vị thống trị thì bằng quyền lực thống trị của mình thiết lập nên bộ máy nhà nước và xây dựng
nên hệ thống luật pháp, chính sách về tổ chức, quản lý SX, cũng như các nguyên tắc phân phối
sản phẩm. Ngược lại, tập đoàn người nào, giai cấp nào giữ địa vị bị thống trị thì buộc phải phục
tùng hệ thống luật pháp, hệ thống chính sách về tổ chức, quản lí sản xuất, cũng như các nguyên
tắc phân phối sản phẩm do giai cấp thống trị thiết lập nên.
Trong quá trình hình thành và phát triển của xã hội loài người tồn tại hai loại hình sở hữu cơ
bản về tư liệu sản xuất: sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng.
- Về quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất
Quan hệ tổ chức, quản lý SX quyết định trực tiếp quy mô, tốc độ, nhịp độ phát triển của nền SX
xã hội. Đặc biệt, quan hệ này ngày càng trở nên quan trọng trong thời đại ngày nay, khi các quan
hệ quản lý đang phát triển hết sức mạnh mẽ.
- Về quan hệ phân phối sản phẩm
Quan hệ phân phối sản phẩm liên quan trực tiếp đến lợi ích của con người, cho nên nó đóng vai
trò là động lực thúc đẩy sự phát triển của sản xuất nói riêng và đời sống xã hội nói chung.
Tuy nhiên, lợi ích đóng vai trò là động lực khi và chỉ khi nó nằm trong mối quan hệ thống nhất
giữa các cấp độ lợi ích và các loại hình lợi ích. Vì vậy, trong nhận thức và thực tiễn không được
tuyệt đối hóa bất kỳ một mặt nào, mà cần phải xem xét chúng trong sự thống nhất với nhau.
Sự liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau giữa LLSX và quan hệ SX hình thành nên quy luật quan hệ
SX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX.
Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX:
Lực lượng SX và QHSX thống nhất biện chứng với nhau, hình thành nên quy luật quan hệ SX
phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, trong đó lực lượng sản xuất quyết định sự hình thành,
biến đổi và phát triển của QHSX, đồng thời, QHSX có sự tác động trở lại đối với LLSX.
Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX:
Trong quá trình sản xuất, để làm thỏa mãn nhu cầu tiết kiệm thời gian và giảm bớt sự chi phí,
tiêu hao năng lượng, thần kinh, cơ bắp thì các công cụ lao động ngày càng được cải tiến và hoàn
thiện. Đồng thời với quá trình ấy, người lao động cũng ngày càng phát triển với trình độ trí tuệ,
chuyên môn, tay nghề, kỹ năng, kinh nghiệm của mình.
Như vậy, LLSX trở thành yếu tố năng động nhất, thường xuyên nhất biến đổi, còn QHSX mang
tính ổn định hơn. Khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định sẽ mâu thuẫn với QHSX cũ,
QHSX cũ trở thành chướng ngại vật cản trở sự phát triển của LLSX. Theo tính tất yếu khách
quan, mâu thuẫn ấy được giải quyết bằng cách: QHSX cũ bị xóa bỏ và được thay thế bằng
QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX, báo hiệu phương thức SX mới ra đời.
Cứ như vậy, sự tác động của nó đã làm cho lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử nối
tiếp nhau của các phương thức sản xuất từ thấp đến cao.
Ví dụ: Cách mạng tư sản ở Anh (1642 – 1651), ở Pháp (1789 – 1799) đã xóa bỏ phương thức sản
xuất phong kiến và thay bằng phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
Sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất:
Sở dĩ quan hệ sản xuất có sự tác động trở lại đối với LLSX, vì QHSX quy định mục đích của QT
SX. Do đó QHSX ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích, lòng nhiệt tình và khả năng sáng tạo của
người lao động. Vì vậy, QHSX có thể làm thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của LLSX.
Nếu QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ thúc đẩy LLSX phát triển. Ngược
lại, nếu QHSX không phù hợp với trình độ phát triển của LLSX thì sẽ kìm hãm sự phát triển của
LLSX.
Tuy nhiên, sự kìm hãm ấy cũng chỉ mang tính chất tạm thời, bởi vì sự vật bao giờ cũng vận động
theo các quy luật khách quan vốn có của nó, cho nên QHSX không phù hợp nhất định sẽ bị xóa
bỏ và được thay thế bằng một QHSX mới cho phù hợp, thúc đẩy nền sản xuất xã hội phát triển
Sự tác động của QHSX đối với LLSX thể hiện ở cả ba mặt của QHSX.
Ví dụ. + Sau chiến thắng năm 1975, Việt Nam từng bước đi vào thời kì đổi mới đất nước, thực
hiện cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp. Khi xác lập quan hệ sản
xuất chúng ta tuyệt đối hóa vai trò của công hữu làm cho quan hệ sản xuất chỉ còn tồn tại giản
đơn giữa hai hình thức toàn dân và tập thể, kỳ thị, nóng vội xoá bỏ các thành phần kinh tế phi xã
hội chủ nghĩa, không chấp nhận các hình thức sở hữu hỗn hợp, sở hữu quá độ; xoá bỏ chế độ sở
hữu tư nhân một cách ồ ạt, trong khi nó đang tạo điều kiện cho sự phát triển của lực lượng sản
xuất.
 Điều này đã tác động đến LLSX khiến LLSX không phát triển, tình trạng trì trệ kéo dài,
sản xuất đình đốn, đời sống người dân gặp nhiều khó khăn
+ Trong một doanh nghiệp, một người giám đốc thấu hiểu, quan tâm người lao động, biết cách
quản lí 1 cách chuyên sâu và hiệu quả, phù hợp với trình độ phát triển của người lao động thì sẽ
thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, từ đó QHSX sẽ phát triển theo cho phù hợp với trình độ
phát triển của LLSX.
II. Vận dụng
Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam hiện nay(tr.187)
- Trong lĩnh vực y tế:
Công tác y tế và chăm sóc sức khoẻ nhân dân ngày càng được tăng cường, chất lượng dân số
từng bước được cải thiện, chất lượng dịch vụ khám, chữa bệnh được nâng cao và từng bước giải
quyết tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên. Sự tác động của lĩnh vực y tế đối với các bác sĩ,
bệnh viện và y tá thể hiện ở cả 3 mặt của QHSX:
- Về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: Đã hình thành 3 trung tâm y tế chuyên sâu và
đang thực hiện đầu tư xây dựng mới 5 bệnh viện tuyến Trung ương và tuyến cuối tại Hà Nội và
Thành phố Hồ Chí Minh. Số giường bệnh trên 1 vạn dân đạt 28 giường vào năm 2020, vượt mục
tiêu đề ra (26,5 giường). (trích Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.20)
- Về quan hệ tổ chức, quản lí sản xuất: Hệ thống y tế dự phòng từ Trung ương đến địa
phương và mạng lưới y tế cơ sở được tiếp tục củng cố và phát triển; đã từng bước kiểm soát
được dịch bệnh Covid-19, không để lây lan trên diện rộng, được ghi nhận, đánh giá cao. Tỉ lệ bác
sĩ trên 1 vạn dân tăng từ 8,2 bác sĩ năm 2016 lên 9 bác sĩ năm 2020, đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.
Công tác dự phòng, phát hiện sớm, quản lý các bệnh không lây nhiễm được chú trọng; triển khai
đồng bộ hệ thống quản lý tiêm chủng tới tất cả các điểm cho người dân; năng lực giám sát, dự
báo, phát hiện và khống chế dịch bệnh được nâng lên. Tình hình ngộ độc thực phẩm đã có xu
hướng giảm.(Trích văn kiện đại hội Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.19)
- Về quan hệ phân phối sản phẩm: Ứng dụng rộng rãi công nghệ thông tin trong khám,
chữa bệnh và chăm sóc sức khoẻ nhân dân, đặc biệt là triển khai nền tảng hỗ trợ tư vấn khám,
chữa bệnh trực tuyến, từ xa. Nhiều dịch vụ y tế kỹ thuật cao, tiên tiến được áp dụng . Đã triển
khai nhiều giải pháp đồng bộ, từng bước giải quyết tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên và
tăng cường thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh; phát triển và nhân
rộng mô hình bác sĩ gia đình. Đã xây dựng Chương trình phát triển y dược cổ truyền, kết hợp y
dược cổ truyền với y học hiện đại. ((Trích văn kiện đại hội Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.20).

- Trong lĩnh vực giáo dục


Bên cạnh việc trau dồi kiến thức, kinh nghiệm thực tiễn cho học sinh, sinh viên, chúng ta cũng
cần chủ trương đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục để phù hợp với trình độ phát triển của
học sinh. Mạng lưới cơ sở giáo dục và đào tạo được mở rộng về quy mô. Giáo dục và đào tạo ở
những vùng khó khăn và vùng đồng bào dân tộc thiểu số được chú trọng hơn. Chương trình, sách
giáo khoa giáo dục phổ thông mới được ban hành và đang tích cực triển khai; phương pháp giảng
dạy và học tập có bước đổi mới. Giáo dục mầm non đạt chuẩn phổ cập cho trẻ em 5 tuổi và giáo
dục phổ thông có chuyển biến tốt, được thế giới công nhận. Công tác thi, kiểm tra và đánh giá
kết quả thực chất, hiệu quả hơn. Quản lý, quản trị đại học có bước đổi mới, chất lượng giáo dục
đại học từng bước được nâng lên. Giáo dục nghề nghiệp có nhiều chuyển biến. Đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục được chú trọng cả về số lượng và chất lượng.
Chi đầu tư cho giáo dục và xã hội hoá giáo dục được tăng cường. Cơ chế, chính sách tài chính
cho giáo dục và đào tạo từng bước đổi mới. Cơ chế tự chủ, cơ chế cung ứng dịch vụ công trong
giáo dục và đào tạo được thể chế hoá và đạt kết quả bước đầu. Hợp tác quốc tế về giáo dục và
đào tạo tiếp tục được mở rộng. Nhân lực chất lượng cao tăng cả về số lượng và chất lượng. Sự
tác động của giáo dục đối với học sinh, sinh viên, giáo viên thể hiện ở cả 3 mặt của QHSX:
- Về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: đưa ra các luật bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
luật chống lại việc đạo văn cũng như luật Đầu tư để có thể mở rộng quy mô giáo dục, xây dựng
trường học ở các vùng còn khó khăn, trẻ em chưa có điều kiện để đến trường.
- Về tổ chức, quản lý sản xuất: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất
lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then
chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo
dục, đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển
giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng
phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hoá, sức mạnh con người Việt
Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.(Văn kiện
đại hội Đảng XII tập 1)
- Về phân phối sản phẩm: Nghị định 116 về việc chu cấp sinh hoạt phí cho sinh viên sư
phạm, điều 70 Luật giáo dục năm 2019 về việc giáo viên được bảo vệ nhân phẩm, sức khỏe,
hưởng quyền lợi vật chất, tinh thần.
Trong lĩnh vực kinh tế:
Bên cạnh việc trau dồi, phát huy lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục, đời sống xã hội của
người dân thì kinh tế đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của đất nước.
Củng cố, phát triển một số tập đoàn kinh tế nhà nước có quy mô lớn, thực hiện quyền tự chủ,
nâng cao hiệu quả hoạt động, có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế trong một số ngành, lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế. Đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức kinh tế tập
thể, hợp tác xã gắn với phát huy vai trò làm chủ, tăng cường lợi ích của các thành viên, nâng cao
khả năng huy động nguồn lực.
Sự tác động của nền kinh tế đối với lực lượng sản xuất thể hiện ở cả 3 mặt của QHSX:
- Về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất: Ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt
Nam, Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp tư nhân, Luật Doanh nghiệp Nhà
nước…
- Về quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất: Quan tâm đầu tư đúng mức nghiên cứu khoa học
cơ bản; tập trung nghiên cứu, ứng dụng công nghệ lõi, công nghệ số. Tăng cường, liên kết doanh
nghiệp với các viện nghiên cứu, trường đại học, trong đó tập trung vào nâng cao năng lực của
doanh nghiệp về tiếp thu, làm chủ và từng bước tham gia tạo ra công nghệ mới. Tập trung phát
triển công nghệ ưu tiên có khả năng ứng dụng cao, nhất là công nghệ số, thông tin, sinh học, trí
tuệ nhân tạo, cơ điện tử, tự động hóa, điện tử y sinh, năng lượng, môi trường
- Về quan hệ phân phối sản phẩm: Ban hành Bộ luật Lao động, Thực hiện phúc lợi thông
qua các hoạt động đào tạo, văn hóa, văn nghệ, thể thao, giải trí mang tính tập thể cho người lao
động, trang bị đầy đủ thiết bị, cơ sở vật chất cũng như là môi trường làm việc chất lượng cho
người lao động.
Trong lĩnh vực khoa học – công nghệ
Hệ thống khoa học- công nghệ của nước ta hiện còn bất cập so với yêu cầu phát triển. Nó cần
được đổi mới căn bản và toàn diện. Ba nhiệm vụ lớn cần ưu tiên xử lý trong chiến lược phát triển
khao học-công nghệ giai đoạn tới là:
Lựa chọn hướng phát triển khoa học-công nghệ ưu tiên. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là bước đi và
thứ tự ưu tiên trong triển khai các chương trình công nghệ này. Đồng thời, cần đặc biệt coi trọng
phát triển và áp dụng công nghệ thích hợp, có khả năng thu hút nhiều lao động.
Đào tạo đội ngũ cán bộ nghiên cứu, thực hành trẻ có năng lực. Đây là khâu quyết định triển vọng
phát triển của nền khoa học, công nghệ nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Tạo dựng sự gắn kết có hiệu quả giữa hoạt động nghiên cứu, ứng dụng khoa học- công nghệ với
các nhu cầu kinh tế-xã hội.
Sự tác động của lĩnh vực khoa học – công nghệ với lực lượng sản xuất thể hiện ở cả 3 mặt của
QHSX:
- Về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất: Phải từ thực tiễn tìm tòi ,thử nghiệm để xây dựng
chế độ sở hữu công cộng nói riêng và quan hệ sản xuất theo định hướng XHCN mới nói chung
với những bước đi vững chắc. Ban hành Quyết định số 706 thành lập, tổ chức và hoạt động của
Hội đồng phát triển, ứng dụng năng lượng nguyên tử quốc gia, nghị quyết số 46 về phát triển
khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
- Về quan hệ quản lý, tổ chức sản xuất: Nhà nước ta là nhà nước XHCN ,quản lý nền kinh
tế bằng pháp luật ,chiến lược quy hoạch, kế hoạch ,chính sách ,sử dụng cơ chế thị trường áp
dụng các hình thức kinh tế và quản lý kinh tế của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải
phóng sức sản xuất phát huy mặt tích cực ,hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ chế thị
trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động . Theo Khoản 11 Điều 3 Luật khoa học và công
nghệ 2013 (LKH&CN) quy định Tổ chức khoa học và công nghệ là tổ chức có chức năng chủ
yếu là nghiên cứu khoa học, nghiên cứu triển khai và phát triển công nghệ, hoạt động dịch vụ
khoa học và công nghệ, được thành lập và đăng ký hoạt động theo quy định của pháp luật.
- Về quan hệ phân phối sản phẩm: “Hệ thống điều khiển tích hợp dùng trong khai thác than hầm
lò” được Viện Nghiên cứu Điện tử, Tin học, Tự động hóa nghiên cứu tổ chức thiết kế, xây dựng
giải pháp tổng thể phục vụ cho công tác quản lý, giám sát điều hành sản xuất tập trung tại phòng
điều khiển trung tâm của mỏ than, Internet hỗ trợ người dân tìm kiếm việc làm, tạo công ăn việc
làm và làm giảm rủi ro thất nghiệp

Phân tích quan hệ sản xuất và kết cấu sản xuất để từ đó nêu một số biện pháp để nâng cao chất
lượng lực lượng sản xuất.
Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất: (tr.184)
Một số biện pháp để nâng cao chất lượng lực lượng sản xuất:
- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng hiện đại được xây dựng, đưa vào sử dụng.
- Ban hành những Bộ luật bảo vệ quyền lợi của người lao động cũng như xây dựng môi
trường, cơ sở vật chất chất lượng, phù hợp với người lao động.
- Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn: Quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát
triển; giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị; giữa tuân theo các quy luật thị trường và bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; giữa phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng, hoàn thiện
từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa; giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa tăng
trưởng kinh tế và phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ môi trường;
giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; giữa độc lập, tự chủ và hội nhập
quốc tế; giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ; giữa thực hành dân chủ và
tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Trong nhận thức và giải quyết các quan hệ lớn,
cần chú trọng hơn đến bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản
xuất tiến bộ, phù hợp; phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi
trường; bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa; giữ vững độc lập, tự chủ và phát huy quyền làm chủ
của nhân dân. (Trích Văn kiện đại hội Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.138)
- Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai,
dịch bệnh, quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy
bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu; kiên quyết loại bỏ những
dự án gây ô nhiễm môi trường, bảo đảm chất lượng môi trường sống, bảo vệ đa dạng sinh học và
hệ sinh thái; xây dựng nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, thân thiện với môi trường.(Trích Văn
kiện đại hội Đảng lần thứ XIII tập 2 tr.139)
ND8: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG & KIẾN TRÚC
THƯỢNG TẦNG
***Lý luận:
*Cơ sở hạ tầng (CSHT):
— Khái niệm CSHT dùng để chỉ toàn bộ những quan hệ sản xuất (QHSX) hợp thành cơ cấu kinh
tế của XH.
—( CSHT của XH được tạo nên bởi: (1) các QHSX thống trị: phản ánh bản chất của XH; (2) các
QHSX không thống trị (QHSX tàn dư của XH cũ và QHSX mầm mống của XH tương lai) phản
ánh tính đa dạng, phong phú của XH. VD, trong XH phong kiến thì CSHT sẽ bao gồm: QHSX
tàn dư của XH cũ chính là QHSX chiếm hữu nô lệ; QHSX thống trị chính là QHSX phong kiến
và QHSX mầm mống của XH tương lai sẽ là QHSX tư bản chủ nghĩa (TBCN).
— Tính chất của CSHT do QHSX thống trị quyết định, bởi vì nó đóng vai trò chủ đạo, chi phối
các QHSX khác, định hướng sự phát triển của đời sống XH.)
*Kiến trúc thượng tầng (KTTT):
— Khái niệm KTTT dùng để chỉ toàn bộ những quan điểm chính trị, pháp quyền, triết học, đạo
đức, tôn giáo, nghệ thuật… cùng với các thiết chế XH (TCXH) tương ứng như nhà nước (NN),
đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội… được hình hành trên một CSHTnhất định. Trong đó,
kết cấu của KTTT bao gồm: (1) hệ thống hình thái ý thức XH như: chính trị, pháp luật, triết học,
tôn giáo…; (2) thiết chế chính trị — xã hội tương ứng như: Nhà nước, Đảng phái chính trị, tòa
án, viện kiểm sát, nhà chùa, nhà thờ, giáo hội…
— Trong các XH có giai cấp thì những quan điểm chính trị, pháp quyền cùng nhà nước và đảng
phái là quan trọng nhất; đồng thời, hệ tư tưởng của giai cấp (GC) thống trị quyết định tính chất
cơ bản của KTTT.
*Mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT: CSHT và KTT tồn tại thống nhất biện chứng
với nhau. Trong đó, CSHT giữ vai trò quyết định, còn KTTT thường xuyên tác động lại CSHT.
— Vai trò quyết định của CSHT đối với KTTT:
+ Thứ nhất, CSHT nào thì sinh ra KTTT ấy, KTTT là sự phản ánh CSHT:
● GC nào thống trị về kinh tế thì cũng thống trị về chính trị và toàn bộ đời sống tinh thần
của XH;
● GC nào nắm trong tay quyền sở hữu về TLSX thì cũng chi phối toàn bộ đời sống XH;
● Hệ tư tưởng của GC thống trị là hệ tư tưởng thống trị trong XH;
● Mâu thuẫn trong lĩnh vực kinh tế làm nảy sinh mâu thuẫn trong lĩnh vực tư tưởng;
● Sự phụ thuộc về kinh tế dẫn đến sự phụ thuộc về tinh thần (TT).
VD: Trong XH công xã nguyên thủy, do CSHT không có đối kháng về lợi ích kinh tế nên KTTT
XH thời đó chưa có nhà nước, pháp luật; tuy nhiên, khi XH cớ sự đối kháng về lợi ích của giai
cấp kinh tế của GC thì tất yếu KTTT phải có nhà nước và pháp luật nhằm bảo vệ lợi ích của GC
thống trị.
+ Thứ hai, mỗi khi CSHT thay đổi thì sớm hay muộn KTTT cũng biến đổi theo.
VD: CSHT phong kiến biến đổi thì KTTT phong kiến cũng phải biến đổi theo. Nếu CSHT phong
kiến biến đổi thành tư bản thì những quan điểm chính trị, pháp quyền cùng với những TCXH
như: nhà nước, đảng phái phong kiến… cũng phải biến đổi tương ứng.
(Mặc dù vậy, có những toàn bộ phận của KTTT tồn tại rất dai dẳng cho dù CSHT sinh ra đã bị
mất đi từ rất lâu. Vì:
● Các bộ phận ấy mang tính bảo thủ, đã ăn sâu vào tiềm thức của con người và được trải
nghiệm trong cuộc sống.
● Các bộ phận ấy gắn liền với lợi ích của giai cấp cấp thống trị.)
+ Thứ ba, sự biến đổi của CSHT và KTTT diễn ra rất phức tạp thông qua các QT cải tạo XH, các
cuộc đấu tranh GC mà đỉnh cao là cách mạng XH.
VD, khi CSHT biến đổi từ phong kiến sang tư bản thì nhà nước, chế độ pháp luật cũng biến đổi
theo để bảo vệ lợi ích tư bản (không duy trì chế độ cũ mà bảo vệ quyền lợi của giai cấp phong
kiến).
VD,Sự tác động của nhà nước đối với cơ sở hạ tầng bằng hệ thống luật pháp, hệ thống chính
sách và kinh tế, đồng thời tạo mội trường chính trị ổn định, chống lại các thế lực muốn xóa bỏ
chế độ kinh tế.
VD: Cơ chế bao cấp tương ướng với nó là Nhà nước xơ cứng, mệnh lệnh quan liêu. Cơ chế thị
trường tương ứng với nó là Nhà nước năng động, hoạt động có hiệu quả.
— Sự tác động trở lại của KTTT đối với CSHT:
+ Thứ nhất, KTTT thực hiện chức năng duy trì, bảo vệ, củng cố CSHT đã sinh đã ra nó, chống
lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó. VD, khi QHSX vô sản thống trị thì
cần phải thiết lập NN vô sản để bảo vệ cho QHSX sinh ra nó, tức là NN vô sản để vệ và phát
triển sở hữu XH tập thể.
+ Thứ hai, mọi yếu tố của KTTT đều có tác động trở lại đối với CSHT:
● Trong đó, NN là bộ phận có sự tác động trực tiếp và mạnh mẽ nhất đối với CSHT.
● Các bộ phận khác như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật… thì tác động một cách
gián tiếp phải thông qua vai trò của NN.
+ Thứ ba, sự tác động của NN đối với CSHT bằng hệ thống luật pháp, hệ thống chính sách về
kinh tế; đồng thời, tạo môi trường chính trị ổn định, chống lại các thế lực muốn xóa bỏ chế độ
kinh tế đó.
+ Thư tư, sự tác động của KTTT đối với CSHT có thể được diễn ra theo 2 xu hướng:
● Nếu KTTT tác động cùng chiều với CSHT, phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan
→ Thúc đầy sự phát triển của các quá trình KTXH.
● Nếu KTTT tác động ngược chiều với CSHT, không phù hợp với các quy luật kinh tế
khách quan.
→ Kìm hãm sự phát triển của các quá trình KTXH.
● Nhưng sự kìm hãm ấy chỉ mang tính chất tạm thời, vì xét đến cùng, nhân tố kinh tế là cái
quyết định sự PT của XH.
VD: NN thực thi pháp luật đúng và nghiêm minh thì sẽ hạn chế được tệ nạn XH, an lòng nhân
dân, ổn định và thúc đẩy XH PT. Ngược lại, người dân sẽ mất lòng tin, XH ngày càng suy kiệt,
không thể PT bền vững và rồi NN tiêu vong.
VD: Trong phòng chống dịch Covid — 19, Nhà nước (NN) đã chỉ đạo các chuyến bay giải cứu
người Việt tại nước ngoài về nước, điều trị các ca nhiễm bệnh. Bên cạnh đó, thực hiện giãn cách,
cách ly xã hội để phòng ngừa. Nhà nước còn ban hành nhiều chỉ đạo về xuất nhập cảnh, xuất
nhập khẩu vật tư ngành y tế, xuất khẩu gạo...vv

***Vận dụng:
Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc và
triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyển tiếp nó. Bởi vì, CSHT mang tính chất quá độ với một kết
cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc
thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư
sản trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.
Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang tính cách
mạng lâu dài. CSHT thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần KT như: kinh tế nhà
nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân, cùng các
kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn
tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất.
KTTT XH chủ nghĩa phản ánh CSHT của XH chủ nghĩa, vì vậy mà có sự thống trị về chính trị
và tinh thần NN phải thực hiện biện pháp kinh tế có vai trò quan trọng nhằm từng bước XH hoá
nền sản xuất với hình thức và bước đi thích hợp theo hướng như: kinh tế quốc doanh được củng
cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn
những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát
triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản
xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò, chức năng, tính
chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất mà còn cạnh tranh
nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.
Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử dụng tổng
thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục, trong dó thì biện pháp kinh tế là quan trọng
nhất nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất với hình thức và thích hợp theo hướng kinh tế quốc
doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu
hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty
cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển
lực lượng sản xuất, xây dựng kinh tế hợp lý.
Về KTTT, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ
nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi
nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị đánh đập, lương ít. Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng ghi rõ : “xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước
của dân, do dân và vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”.

***Công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay


*Thực trạng Việt Nam hiện nay:
Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa CSHT và KTTT là cơ sở khoa học cho việc nhận thức
một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính trị. Theo quy luật, nếu KTTT kìm hãm sự
PT của CSHT thì KTTT ấy sẽ dần bị loại bỏ. Vì vậy, nhờ vận dụng sáng tạo mà Việt Nam đang
ngày càng thay đổi và PT.
CSHT ở Việt Nam hiện nay đang trong quá trình quá độ lên Chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế
PT còn thấp kém. Là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành đầy đủ và đồng bộ theo
các quy luật của nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là nền kinh tế hội
nhập quốc tế, có sự quản lý của NN pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Kinh tế NN giữ vai trò chính,
kinh tế tư nhân là động lực đặc biệt của nền kinh tế, các thành phần kinh tế khác được khuyến
khích tăng trưởng hết mọi tiềm năng. Đảng và NN đang thực hiện đổi mới trên nền tảng của chủ
nghĩa Mác — Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đổi mới có bước đi, lộ trình, kế hoạch. Các chủ
trương, đường lối, chính sách, pháp luật của NN đang ngày càng phản ánh đúng tình hình thực
tiễn, phản ánh phù hợp các QHSX và đời sống vật chất của nhân dân trong XH. Từ đó giúp thúc
đẩy nền kinh tế Việt Nam vươn xa.
*Áp dụng thực tế:
Là một người con được sinh ra từ dân tộc Việt nam, trước hết bản thân chúng ta cần nhật thức rõ
về CSHT và KTTT ở Việt Nam hiện nay (nêu ra). Đồng thời phải luôn giữ vững lập trường để
không sa ngã vào cách mạng màu, các diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch phản động.
Trong thời đại công nghệ phát triển, thì sự đấu tranh của các giai cấp trở nên mạnh mẽ hơn bao
giờ hết, bản thân cần cập nhật tin tức kịp thời để luôn có sự lựa chọn đúng đắn.
Ngoài ra, cần làm theo các chủ trương, chính sách, đường lối và pháp luật của nhà nước. Bản
thân cần phải không ngừng cố gắng để góp phần làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh.
__________________________________________________________________________
ND9: SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CÁC HÌNH THÁI KT – XH LÀ MỘT QUÁ TRÌNH LỊCH
SỬ - TỰ NHIÊN
1. Khái niệm
• Hình thái KT-XH là một phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử, dùng để chỉ xã
hội trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, với một kiểu QHSX đặc trưng cho xã hội đó phù hợp
với một trình độ nhất định của LLSX và với một KTTT tương ứng được xây dựng lên trên những
QHSX ấy.
• XH phát triển qua nhiều giai đoạn kế tiếp nhau, ứng với một giai đoạn của sự phát triển là
một hình thái KT – XH. Đứng trên lập trường duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng
định: “Sự phát triển của những hình thái KT – XH là một quá trình LS – TN”.
• Sự vận động và phát triển của các hình thái KT – XH không tuân theo ý chí chủ quan của
con người mà tuân theo các quy luật khách quan của các yếu tố cấu thành nên hình thái KT –
XH. Chính sự tác động qua lại của các yếu tố cấu thành nên hình thái KT – XH tạo thành các quy
luật khách quan chi phối sự vận động, phát triển của các hình thái KT – XH là một quá trình lịch
sử - tự nhiên. Nói cách khác, con người không được tự do lựa chọn hình thái KT – XH của mình.
Mỗi quốc gia đều phải dựa trên cơ sở nền tảng sản xuất vật chất trong nước và TG mà xây dựng
và lựa chọn hình thái KT – XH cho phù hợp.
• Mọi sự vận động, phát triển của XH, của LS nhân loại, của mọi lĩnh vực KT, CT, VH…
suy đến cùng đều có nguyên nhân trực tiếp hay gián tiếp từ sự phát triển của LLSX trong XH đó.
Khi LLSX phát triển đến một trình độ nhất định thì QHSX mới được ra đời, tạo thành CSHT mới
và tương ứng là một KTTT mới. Tạo nên một hình thái KT – XH mới.
• Dưới sự tác động của quy luật khách quan mà LS nhân loại là quá trình thay thế tuần tự
của các hình thái KT – XH: Nguyên thủy, nô lệ, PK, TBCN và tương lai nhất định thuộc về hình
thái KT – XH CS CN. Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đồng thời khẳng định vai trò của các nhân tố
khác như điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số, VH, giáo dục, y tế, pháp luật… đối với QT phát
triển của LS nhân loại. Sự tác động của các nhân tố này mà tiến trình phát triển của mỗi cộng
đồng người có thể diễn ra với những con đường, hình thức khác nhau, tạo nên tính phong phú, đa
dạng trong sự phát triển của lịch sử nhân loại.
• Cùng với tính năng động sáng tạo mà mỗi quốc gia có thể kế thừa những giá trị của các
quốc gia khác đã đạt được trước đó. Cho nên trong quá trình vận động phát triển của mình, có
quốc gia có thể bỏ qua một hoặc một vài hình thái KT – XH.
2. Ý nghĩa phương pháp luận
+ Chỉ ra động lực phát triển của lịch sử xã hội không phải do một lực lượng tinh thần hoặc
lực lượng siêu nhiên thần bí nào cả, mà do hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là thực
tiễn sản xuất vật chất dưới sự tác động của các quy luật khách quan.
+ Muốn nhận thức và cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới phải nhận thức và tác động cả
bốn yếu tố cơ bản: LLSX, QHSX, CSHT và KTTT. Xem nhẹ hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố nào
cũng sai lầm, xét đến cùng sự là bắt đầu từ việc xây dựng, phát triển LLSX.
+ Phê phán quan điểm tuyệt đối hóa yếu tố lực lượng sản xuất, xem nhẹ yếu tố quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng, không thấy được nguồn gốc, động lực của sự phát triển lịch sử xã
hội.
+ Không thể xuất phát từ tư tưởng hoặc ý chí chủ quan của con người để giải thích các hiện
tượng trong ĐSXH, mà phải xuất phát từ bản thân thực trạng phát triển của xã hội, đặc biệt là từ
trình độ phát triển của PTSX với cốt lõi là trình độ phát triển của LLSX.
+ Muốn nhận thức và giải quyết đúng đắn, có hiệu quả những vấn đề của ĐSXH thì phải đi
sâu nghiên cứu các quy luật vận động, phát triển của XH.
+ Các phương tiện của ĐSXH tồn tại trong một hệ thống cấu trúc thống nhất chặt chẽ, tác
động qua lại lẫn nhau, trong đó QHSX đóng vai trò là quan hệ cơ bản nhất, quyết định các quan
hệ XH khác, là tiêu chuẩn khách quan để phân biệt các chế độ XH khác nhau.
+ Sự phát triển của các hình thái KT – XH là một quá trình LS – TN bao gồm cả sự phát
triển tuần tự và không tuần tự trải qua các hình thái KT – XH. Vì vậy, việc vận dụng quan điểm
LS – TN phải gắn với quan điểm LS – cụ thể.

Vận dụng:
Công cuộc đổi mới ở đất nước ta
Lựa chọn con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa:
— Nước ta là nước lạc hậu về kinh tế lại bị đế quốc thực dân thống trị một thời gian dài, cơ sở
vật chất kỹ thuật còn nghèo và lạc hậu. Đảng ta khẳng định sau khi Việt Nam tiến hành công
cuộc CM XHCN, xây dựng CNXH bỏ qua CNTB.
• Chỉ có CNXH mới giải phóng được nhân dân lao động thoát khỏi áp bức, bóc lột bất
công đem lại cuộc sống ấm lo hạnh phúc cho nhân dân.
• Thắng lợi của cuộc cách mạng thắng lợi Nga năm 1971 đã mở ra một thời đại mới, tạo
khả năng thực hiện cho các dân tộc lạc hậu tiến lên con đường CNXH
— Sự lựa chọn ấy không mâu thuẫn với quá trình phát triển lịch sử tự nhiên của XHCN, không
mâu thuẫn với hình thái KT – XH của chủ nghĩa Mác Lê-nin. Trong điều kiện lịch sử cụ thể của
nước ta thì đó chính là sự lựa chọn đúng đắn, phù hợp với tính quy luật của việc “bỏ qua” một
hay một vài hình thái KT – XH trong sự phát triển lịch sử.
— Con đường CNXH cho phép chúng ta có thể phát triển nhanh LLSX theo hướng ngày càng
hiện đại, giải quyết có hiệu quả các vấn đề XH, phát triển XH theo chiều hướng tiến bộ vừa có
thể tránh cho XH và nhân dân lao động phải trả giá cho các vấn đề của XH TB mà trước hết là
chế độ người bóc lột người, là quan hệ bất bình đẳng người với người…
— Tuy bỏ qua việc việc xác lập vị trí thống trị của QHSX và KTTT TBCN nhưng Đảng ta vẫn
tiếp thu, kế thừa những thành tựu của tiến bộ kinh tế, xã hội mà nhân loại đã đạt được dưới
CNTB. Đặc biệt là những thành tựu về KT và khoa học công nghệ.
— Trên cơ sở đó, nước ta đã lựa chọn con đường tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN. Nước ta
quá độ lên CNXH trong điều kiện hết sức khó khăn, thử thách. Dân số trên 80% sống bằng nông
nghiệp, cơ sở vật chất kinh tế của CNXH hầu như không có. Trong tình hình đó, Đảng ta khẳng
định: độc lập dân tộc và CNXH không tách rời nhau. Viêc Đảng ta luôn kiên định con đường tiến
lên CNXH là phù hợp với quy luật tiến hóa của lịch sử, xu hướng của thời đại và điều kiện cụ thể
của đất nước.
— Bên cạnh đó, Đảng ta cũng khẳng định tầm quan trọng của việc xây dựng xã hội. Xã hội mà
nhân dân ta quyết tâm xây dựng là một xã hội của dân, do dân, vì dân, có một nền kinh tế phát
triển dựa trên LLSX tiến bộ và chế độ công hữu về TLSX, có nền văn hóa đậm đà bản sắc dân
tộc, con người được giải phóng, hưởng cuộc sống hạnh phúc, phát triển về mọi mặt, các dân tộc
anh em chung sống hòa bình, đoàn kết và hợp tác, hữu nghị với nhân dân thế giới. Mục tiêu của
chúng ta là: “Xây dựng một nước VN dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”.
ND10: GIAI CẤP VÀ ĐẤU TRANH GIAI CẤP
Tính tất yếu, vai trò và nội dung của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay
I. Lý luận
1. Định nghĩa giai cấp
Quan điểm phi mác-xít
Định nghĩa của Lênin về GC
- Trong tác phẩm Sáng kiến vĩ đại, Lênin đã đưa ra định nghĩa giai cấp:
- “…GC là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao động của tập
đoàn khác, do chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau trong một chế độ kinh tế - xã hội (KT-XH)
nhất định.”
Đặc trưng chung nhất của GC
- Giai cấp là những tập đoàn người to lớn có địa vị KT-XH khác nhau trong một hệ thống
sản xuất xã hội (SXXH) nhất định.
- Sự khác nhau về địa vị của các GC trong hệ thống SX là do:
o Thứ nhất, khác nhau về quan hệ sở hữu (QHSH) đối với TLSX.
o Thứ hai, khác nhau về tổ chức, quản lý sản xuất (QLSX).
o Thứ ba, khác nhau về phương thức và quy mô thu nhập của cải XH.
- Lênin đã dựa vào QHSX để định nghĩa GC.
Nguồn gốc giai cấp:
- Nguồn gốc sâu xa của sự xuất hiện GC: sự phát triển của LLSX làm cho năng suất lao
động tăng lên, xuất hiện “của dư”, tạo điều kiện cho tập đoàn người này chiếm đoạt lao động của
tập đoàn người khác.
- Nguồn gốc trực tiếp của sự xuất hiện GC: chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX.
2. Định nghĩa ĐTGC
Quan điểm về ĐTGC của Lênin
- “Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phân nhân dân này chống một bộ phân khác,
cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động, chống bọn có đặc quyền
đặc lợi, bọn áp bức và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
- Thực chất của đấu tranh giai cấp là đấu tranh giữa bộ phận nhân dân này chống một bộ
phận khác, đấu tranh của quần chúng cùng khổ, bị áp bức và lao động chống bọn có đặc quyền
đặc lợi.
- Có nhiều hình thức đấu tranh: Đấu tranh kinh tế, đấu tranh chính trị, đấu tranh tư tưởng...
Trong thực tế còn có đấu tranh dân tộc, tôn giáo
Nguyên nhân của ĐTGC
- Nguyên nhân sâu xa: LLSX >< QHSX trong long PTSX.
- Nguyên nhân trực tiếp:
o GC bị trị >< GC thống trị về lợi ích, mà trước hết là lợi ích kinh tế.
o Mâu thuẫn giữa một bên là GC tiến bộ, cách mạng, đại diện cho PTSX mới với một bên
là GC thống trị, bóc lột đại biểu cho PTSX lỗi thời, lạc hậu.

ĐTCM (Tính tất yếu và thực chất của ĐTGC trong giai đoạn hiện nay – Hỏi thì mới trả lời).

3. Vai trò của ĐTGC trong sự phát triển của các XH có GC


- Thứ nhất, kết cục của ĐTGC, đó là mâu thuận giữa LLSX và QHSX được giải quyết,
QHSX cũ bị mất đi được thay thế bằng QHSX mới, cơ sở hạ tầng (CSHT) mới ra đời, kiến trúc
thượng tầng (KTTT) mới xuất hiện, làm cho mọi mặt của đời sống SX phát triển, từ đó thúc đẩy
cho sự phát triển của XH.
- Thứ hai, ĐTGC lật đổ chính quyền cũ, xác lập chính quyền mới, cùng với quá trình đó,
kết cấu XH-GC cũ bị xóa bỏ, kết cấu XH-GC mới được hình thành làm cho XH phát triển.
- Thứ ba, đấu tranh giai cấp không chỉ góp phần xóa bỏ thế lực phản động lạc hậu, mà còn
đồng thời có tác dụng cải tạo bản thân các GC cách mạng (CM) và quần chúng CM, GC đó sẽ
lãnh đạo CM và thúc đẩy XH phát triển.
- Thứ tư, ĐTGC không chỉ là đòn bẩy của LS trong thời kì CM, mà còn là động lực phát
triển của XH ngay cả trong thời kì “hòa bình” của XH có GC. Trong tiến trình phát triển của
LLSX, CM khoa học – công nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ XH…không tách rời khỏi cuộc
ĐTGC tiến bộ chống lại giai cấp thống trị, các thế lực thù địch phản động
4. Tính tất yếu và thực chất của ĐTGC trong giai đoạn hiện nay
ĐTGC là một tất yếu không chỉ dưới chủ nghĩa tư bản (CNTB), mà ngay cả trong thời kì quá độ
(TKQĐ).
Dưới CNTB, ĐTGC vẫn là một tất yếu, bỏi vì:
- Mâu thuẫn cơ bản giữa CNTB là mâu thuẫn giữa LLSX ngày càng mang tính XH hóa và
QHSX dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân về TLSX vẫn chưa được giải quyết. Biểu hiện về mặt
XH là mâu thuẫn giữa GC công nhân và GC tư sản – mâu thuẫn đối kháng không thể điều hòa.
- Hơn nữa, nhiều vấn đề XH nan giải không thể giải quyết. Đặc biệt, bản chất của CNTB
là một chế độ áp bức, bóc lột.
TKQĐ lên chủ nghĩa XH (CNXH), ĐTGC vẫn là một tất yếu, bởi vì:
- Thứ nhất, trong TKQĐ lên CNXH vẫn tồn tại cơ sở KT làm phân hóa XH thành GC, đó
là nền KT vận hành theo cơ chế thị trường, nên bên cạnh mặt tích cực còn có mặt hạn chế – sự
phân hóa XH thành giàu, nghèo
- Thứ hai, các thế lực phản động luôn rắp tâm mưu đồ giành giật lại chính quyền mà chúng
đã bị mất.
- Thứ ba, vẫn tồn tại những tàn dư của XH cũ để lại.
- Thứ tư, trong nền KT mở cửa, bên cạnh mặt tích cực còn có mặt tiêu cực, đó là sự du
nhập của những yếu tốt ngoại lai không phù hợp.
- Thứ năm, các thế lực phản động trong nước cấu kết với các thế lực phản động quốc tế sử
dụng “Diễn biến hòa bình” chống lại thành quả cách mạng của nhân dân…
- Đấu tranh GC hơn bao giờ hết vẫn là một tất yếu.
II. Vận dụng
1. ĐTGC trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam
Mục tiêu:
- Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh.
- ĐTGC ở Việt Nam diễn ra với nhiều hình thức, nhưng nổi bật lên là ĐT giải quyết mâu
thuẫn giữa một bên là quần chúng nhân dân lao động, các lực lượng XH đi theo con đường dẫn
đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đoàn kết trong mặt trận thống
nhất dân tộc do Đảng lãnh đạo, với một bên là các thế lực, các tổ chức, các phần tử phản động
chống CNXH, chống Đảng, Nhà nước và pháp luật, phá hoại trật tự XH và an ninh quốc gia.
- ĐTGC ở nước ta còn thể hiện ở “cuộc ĐT giữa hai con đường XHCN và tư bản CN
(TBCN)”.
Nội dung:
- Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN, khắc phục
tình trạng nước kém phát triển, thực hiện công bằng XH, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn
chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm
mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng thành
công CNXH.
- Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa GC công nhân và GC nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp lao động khác dưới sự lãnh
đạo của Đảng kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và XH, phát huy mọi tiềm năng và
nguồn lực của các thành phần KT, của toàn XH.
- Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay cần nhận thức rõ tính chất gay go, phức tạp của cuộc
ĐTGC. Cần nắm vững quan điểm GC của chủ nghĩa Mác – Lênin, tránh rơi vào hai thái cực sai
lầm hoặc quá cường điệu cuộc ĐTGC đi đến rụt rè, không dám đổi mới, hoặc mơ hồ mất cảnh
giác đi đến phủ nhận ĐTGC
2. Vận dụng vào đời sống sinh viên: (Phần mở rộng) (Tự tóm ý lại, tự diễn đạt lại)
Thứ nhất, thế hệ trẻ cần phải chăm chỉ, sáng tạo, có mục đích và động cơ học tập đúng
đắn, học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu được học tập tốt là yêu nước. Tuổi trẻ Việt Nam
nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng đóng vai trò rất quan trọng trong việc hình thành
nguồn nhân lực chất lượng cao, có đầy đủ kiến thức, kỹ năng để thích ứng với những bước phát
triển mới trong khoa học và công nghệ. Chính vì vậy, thế hệ trẻ - những chủ nhân tương lai của
đất nước phải không ngừng học tập, sáng tạo, tiếp thu các công nghệ mới để trang bị một nền
tảng tốt, giàu kiến thức, vững kỹ năng để tiếp nối các thế hệ cha anh trong quá trình thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Thứ hai, tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa
các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực dụng, xa rời các
giá trị văn hoá - đạo đức truyền thống của dân tộc. Đây sẽ là một động lực quan trọng để phát
huy giá trị truyền thống của dân tộc, phát huy giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam nói chung
và tuổi trẻ Việt Nam nói riêng để đóng góp vào sự phồn thịnh của đất nước.
Thứ ba, luôn nâng cao nhận thức chính trị, học tập chủ nghĩa Mác – Lênin, học tập và làm theo
tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, tránh nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị. Hiện
nay, các thiết bị công nghệ hiện đại và hệ thống mạng xã hội đang ngày càng phát triển đã tạo ra
nhiều ảnh hưởng lớn đến sinh viên, bao gồm cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực, một trong
số đó là khiến giới trẻ nói chung, trong đó có sinh viên sống tách biệt với xã hội, hình thành lối
sống vô tâm, vô cảm, thờ ơ chính trị. Bên cạnh đó, nhiều bạn trẻ chủ yếu đọc báo qua những bài
được chia trẻ trên mạng xã hội chưa được kiểm chứng cụ thể, thay vì chủ động tiếp cận tới các
nguồn tin chính thức, tạo cơ hội cho các thế lực thù địch truyền bá những thông tin xuyên tạc
Đảng và Nhà nước mà nếu không có những nhận thức chính trị đầy đủ, người đọc sẽ hình thành
suy nghĩ sai lệch, gây ra những hệ lụy khôn lường cho tình hình an ninh xã hội. Sinh viên Việt
Nam phải có nhiệm vụ tự mình nâng cao nhận thức trị, học và làm theo Bác, hỗ trợ Đảng và Nhà
nước trong việc loại bỏ các thông tin xuyên tạc, tiêu cực khỏi các nền tảng mạng xã hội, tuyên
truyền đến người thân, bạn bè có cách tiếp nhận thông tin đúng đắn, chính xác.
Thứ tư, Tích cực trau dồi lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống văn hóa để tránh bị tác động bởi
các thế lực thù địch, phản động. Chủ động phấn đấu theo mẫu hình thanh niên Việt Nam: tâm
trong, trí sáng, hoài bão lớn, tiên phong trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, góp sức
mình vào công cuộc xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thứ năm, biết trau dồi các kỹ năng hội nhập trong thời kỳ mới, tiếp thu sự phát triển của công
nghệ, phát triển bản thân phù hợp với hoàn cảnh gia đình và xã hội. Trong quá trình xây dựng
nước Việt Nam Xã hội chủ nghĩa, ta không nên mù quáng phủ nhận tất cả những sản phẩm Chủ
nghĩa Tư bản đã tạo ra mà phải chắt lọc, kế thừa những thành tựu phù hợp với điều kiện phát
triển của đất nước. Trong đó, sinh viên với bản chất năng động, sáng tạo, nhiệt huyết, nhanh
nhạy là đối tượng lý tưởng để tiếp thu các công nghệ mới, tham gia giao lưu, hội nhập quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập phải luôn tỉnh táo để không đánh mất bản sắc văn hóa của
dân tộc, phải dung hòa được nếp sống hiện đại với những giá trị truyền thống. Nhiệm vụ học tập
khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế đòi hỏi lớp sinh viên hiện nay phải nhanh chóng trang
bị cho mình năng lực hội nhập, như bản lĩnh, kiến thức, trình độ ngoại ngữ, tin học, kỹ năng, tác
phong công nghiệp, hiểu biết văn hóa dân tộc, đất nước mình, đồng thời phải hiểu biết tình kinh
tế, chính trị, xã hội và văn hóa thế giới. Để thực hiện nhiệm vụ đó, mỗi sinh viên phải phát huy
tinh thần tự học tập, tự rèn luyện.
ND11: MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
PHẦN LÝ LUẬN
֎ KHÁI NIỆM:
1. Khái niệm tồn tại xã hội
Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh hoạt
vật chất của xã hội.
Tồn tại xã hội bao gồm: Điều kiện tự nhiên, điều kiện dân số và phương thức sản xuất. Trong đó
phương thức sản xuất là yếu tố cơ bản nhất.
(Ví dụ: Thời tiền sử, các bộ lạc săn bắt, hái lượm, dùng đá cuội để chế tác công cụ. Côngcụ còn
rất thô sơ song đã có những bước tiến lớn trong kỹ thuật chế tác, có nhiềuloại hình ổn định nhằm
phục vụ đời sống. Thời kì này con người nhận biết và tậndụng nhiều loại nguyên vật liệu như đá,
đất sét, xương, sừng, tre gỗ…Bên cạnh đóđiều kiện khí hậu thuận lợi cộng với sự đa dạng của
các loài động thực vật tạo nênnguồn tài nguyên rất phong phú)
2. Khái niệm ý thức xã hội
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ phương diện sinh hoạt tinh thần của xã hội, bao gồm toàn
bộ những quan điểm, tư tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng...của những cộng đồng xã hội,
nảy sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định.
Giữa ý thức xã hội và ý thức cá nhân có sự thống nhất biện chứng nhưng không đồng nhất. Bởi
vì ý thức cá nhân không phải bao giờ cũng thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm phổ biến của
một cộng đồng xã hội nhất định.
(Ví dụ: Trong điều kiện địa lý tự nhiên nhiệt đới, gió mùa, nhiều sông ngòi,... tất yếu làm hình
thành nên phương thức canh tác lúa nước là thích hợp nhất đối với người Việt Nam. Để tiến hành
được phương thức đó, người Việt buộc phải co cụm lại thành tổ chức dân cư làng, xã, có tính ổn
định bền vững,…)
3. Kết cấu của ý thức xã hội
Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh, ý thức xã hội bao gồm: Ý thức chính trị, ý thức pháp quyền,
ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo, ý thức thẩm mỹ, triết học... Theo trình độ phản ánh, ý thức xã
hội bao gồm: Ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận.
(Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, quan niệm...của những con người trong
một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn hàng
ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận.
Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hành ngày của
con người. Trong ý thức xã hội thông thường, tâm lý xã hội là bộ phận rất quan trọng.
Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các học
thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật.
Ý thức lý luận có khả năng phản ánh một cách khái quát, sâu sắc và chính xác bản nhất và quy
luật của sự vật, hiện tượng. Ý thức lý luận đạt trình độ cao và mang tính hệ thống tạo thành hệ tư
tưởng.
Ví dụ: Dân tộc Việt Nam có truyền thống yêu nước, nhân đạo nhân nghĩa;truyền thống hiếu học
được truyền từ đời này sang đời khác. Ngoài ra Việt Namcó hệ thống tư tưởng lớn và chi phối
dân tộc Việt trong nhiều thế kỷ, nhất là phong kiến là tư tưởng Nho giáo)

֎ MỐI QUAN HỆ GIỮA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI


1. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội
Thứ nhất, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội và
phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
Thứ hai, mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư tưởng, lý
luận về xã hội, những quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, triết học...
tất yếu sẽ biến đổi theo. Trên thực tế, những điều kiện vật chất khác nhau, hoàn cảnh xã hội khác
nhau thì những tư tưởng, quan điểm, lý luận về xã hội cũng khác nhau.
Thứ ba, không phải bất kỳ tư tưởng nào cũng phản ánh trực tiếp những quan hệ kinh tế của thời
đại, mà chỉ xét đến cùng thì những quan hệ kinh tế mới được phản ánh trong các tư tưởng ấy.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Trong nhiều trường hợp, ý thức xã hội có thể tồn tại lâu dài ngay cả khi tồn tại xã hội đã thay
đổi. Điều đó là do: Một là, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung tồn tại xã
hội phải biến đổi trước rồi ý thức xã hội mới biến đổi.
Hai là, do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán và do tính lạc hậu, bảo thủ của một số
hình thái ý thức xã hội.
Ba là, ý thức xã hội gắn liền với lợi ích của các giai cấp nhất định. Những tư tưởng cũ, lạc hậu
thường được các giai cấp phản tiến bộ cổ tình duy trì để bảo vệ lợi ích của mình.
Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội
Những tư tưởng khoa học, tiên tiến có thể vượt trước tồn tại xã hội, dự báo được tương lai và có
tác dụng tổ chức, chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, tư tưởng khoa học, tiên tiến không
thoát ly tồn tại xã hội, mà suy đến cùng khả năng vượt trước của ý thức xã hội vẫn phụ thuộc vào
tồn tại xã hội.
Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó. Ý thức xã hội không xuất hiện
trên mảnh đất trống không, mà trên cơ sở kế thừa những giá trị của ý thức xã hội của các thời đại
trước.
Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của chúng.
Mỗi hình thái ý thức xã hội có những mặt, những tính chất không thể giải thích được một cách
trực tiếp từ tồn tại xã hội, mà phải trong sự tác động qua lại giữa các hình thái với nhau. Tùy
từng điều kiện lịch sử có những hình thái ý thức xã hội nào đó nổi lên hàng đầu chi phối và tác
động đến các hình thái khác,
Thứ năm, ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội.
Ý thức xã hội tiến bộ, cách mạng thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển; ngược lại, ý thức xã hội lạc
hậu, phản cách mạng thì kìm hãm sự phát triển của tồn tại xã hội.
3. Ý nghĩa phương pháp luận
Thứ nhất, khi nhận thức các hiện tượng xã hội và trong thực tiễn cần phải căn cứ vào cả hai
phương diện tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Thứ hai, cần phải tôn trọng các tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng.
Thứ ba, cần phải chống lại tư tưởng phản tiến bộ, phản khoa học, phản cách mạng.
Thứ tư, không được tuyệt đối hóa tồn tại xã hội hoặc ý thức xã hội, bởi vì nếu tuyệt đối hóa tồn
tại xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường; còn nếu tuyệt đối hóa ý thức xã hội sẽ rơi vào
chủ nghĩa duy tâm chủ quan.

PHẦN VẬN DỤNG


1. TRONG ĐỜI SỐNG HỌC TẬP CỦA SINH VIÊN:
Là một sinh viên, tôi đã bước ra một thế giới mới, xa vòng tay bảo bọc của gia đình. Do đó,tôi có
nhiều không gian hơn để thỏa sức sáng tạo cá nhân và khám phá nhiều thứ mới. Cũng từ đó,
những suy nghĩ nổi loạn, tò mò, “sống thử” cũng ngày càng nhiều hơn và thôi thúc tôi thử
nghiệm tất cả. Vì vậy, tôi cần phải biết tôn trọng, bảo vệ những quan điểm tốt đẹp, lành mạnh,
phát triển những tư tưởng tiến bộ trong cách đối nhân xử thế như phải biết cách khen, biết cách
ứng xử uyển chuyển trong từng tình huống và mối quan hệ cụ thể; và loại bỏ những tư tưởng lạc
hậu, phản tiến bộ, phản cách mạng, không phù hợp với thuần phong mỹ tục. Hơn nữa, trong môi
trường giao lưu quốc tế như hiện nay, tôi cần phải thích nghi với hoàn cảnh, “hòa nhập nhưng
không hòa tan” và luôn giữ cho mình một lập trường vững vàng, không tuyệt đối hóa ý thức xã
hội để tránh rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
Trong học tập, thế hệ trẻ ngày nay có sự tiếp xúc, học hỏi từ nhiều nền văn hóa. Do đó,táo bạo,
dám nghĩ dám làm là kim chỉ nam cho những ý tưởng của họ. Cũng từ đó, một bộ phận bước đầu
đạt được thành công đã ngủ quên trên chiến thắng,không tiếp tục học tập thế hệ đi trước. Vì vậy,
là một sinh viên sư phạm, là thế hệ trẻ của tổ quốc, tôi nhận thức được rằng chính mình cần phải
tìm ra phương pháp học tập có hiệu quả từ các nguồn khác nhau, đúc kết để tìm ra được những
phương châm đúng đắn. Song song đó, tôi cần phải luôn giữ cho mình một lối sống lành mạnh,
luôn cầu tiến, nỗ lực để bứt phá giới hạn của bản thân và luôn rèn luyện, tu dưỡng phẩm chất của
mình, giữ vững lập trường chính trị, đấu trah chống những cái sai, cái tiêu cực, lạc hậu trong xã
hội để trở thành một giáo viên mẫu mực trong tương lai.
2. TRONG LĨNH VỰC GIÁO DỤC
Giáo dục là một trong những ưu tiên hàng đầu của Việt Nam. Hiện nay, mục tiêu giáo dục theo
hướng truyền thống – cá nhân đang được áp dụng rộng khắp cả nước. Thực tiễn cho thấy, Việt
Nam cần phải căn cứ vào hai phương diện tồn tại xã hội và ý thức xã hội khi nhận thức về mục
đích giáo dục này. Việt Nam là một quốc gia châu Á với nền văn minh lâu đời, truyền thống hiếu
học, tôn sư trọng đạo được lưu truyền hàng thế kỷ. Kế thừa truyền thống ấy, Việt Nam luôn có
một sự tôn trọng nhất định cho giáo dục và những người làm giáo dục. Tuy nhiên, cùng với xu
thế hội nhập hóa, toàn cầu hóa, Việt Nam cũng phải áp dụng những phương pháp dạy học mới từ
thế giới, tôn trọng và chọn lọc những tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng trong cách thức dạy
và học, tiếp thu và phát triển những tinh hoa văn hóa. Song song đó, Việt Nam cũng phải loại bỏ
những tư tưởng phản tiến bộ, phản khoa học, phản cách mạng đang làm trì trệ sự phát triển nền
giáo dục quốc gia. Trong mục tiêu giáo dục truyền thống – cá nhân không được tuyệt đối hóa tồn
tại xã hội, tránh rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường cũng như không tuyệt đối hóa ý thức xã
hội, không thay đổi những sự lạc hậu, thô sơ trong cách tiếp cận tri thức để phát triển đất nước
theo hướng tích cực có chọn lọc.

3. TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI VIỆT NAM HIỆN NAY


Việt Nam đang trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế với
nhiều thời cơ, thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng
tư tưởng văn hóa, phát huy tác động tích cực củađời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát
triển kinh tế vào công nghiệp hóa,hiện đại hóa đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm
chủ quan trong việc xâydựng văn hóa, con người mới. Cụ thể, Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệphóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất ởViệt
Nam, kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội phát triển nhanh, cơ cấu kinh tế có sựchuyển dịch tích cực
từ nông lâm ngư nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, những tác động tiêu cực của
hội nhập quốc tế đã và đang làm chao đảo nhiều giá trị tinh thần nói chung, nhân cách con người
nói riêng. Đặc biệt, một số giá trị đạo đức tốt đẹp, thiêng liêng… vốn có vị trí quan trọng trong
hệ giá trị văn hoá truyền thốngcủa dân tộc Việt Nam đang có nguy cơ bị mai một và bào mòn.
Trong quá trình điềuchỉnh theo cơ chế thị trường, dễ dẫn đến cuộc cạnh tranh, ganh đua làm giàu
bằngmọi thủ đoạn, làm phá vỡ những giá trị văn hóa. Vì vậy, Việt Nam cần phải tôn trọng các tư
tưởng tiến bộ, khoa học của thế giới, gìn giữ những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc và
chống lại những tư tưởng phản tiến bộ, phản khoa học, phản cách mạng.
ND12: QUAN ĐIỂM CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
LÝ LUẬN:
Vị trí của vấn đề con người trong triết học:
Vấn đề con người là một trong những vấn đề trọng tâm của việc nghiên cứu triết học nói chung,
của triết học Mác – Lênin nói riêng. Triết học Mác – Lênin xuất phát từ con người và vì mục
đích con người, vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng con người và xã hội loài người. Qua đó cho
thấy triết học Mác – Lênin là một học thuyết nhân đạo và mang tính nhân văn sâu sắc.
Triết học Mác – Lênin khẳng định rằng, trong sự tồn tại của mình, bất kỳ con người nào cũng
đều chịu sự chi phối của hệ thống các quy luật sau:
- Các quy luật sinh vật học hình thành nên phương diện sinh học trong con người. Lấy ví dụ như
quy luật đồng hóa, dị hóa, quy luật di truyền và biến dị,..
- Các quy luật tâm lý – ý thức được hình thành trên nền tảng sinh học của nó. Chẳng hạn như
quy luật hình thành tình cảm, niềm tin, ước mơ, khát vọng, hoài bão, lý tưởng,...
- Các quy luật xã hội hình thành nên phương diện xã hội trong con người. Chẳng hạn như quy
luật quan hệ sản xuất phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quy luật biện chứng về
mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, quy luật đạo đức, thẩm mĩ,...
Bản chất con người là thể thống nhất của cái sinh vật và cái xã hội, hay mặt sinh vật với mặt xã
hội.
Cái sinh vật dùng để chỉ những cái tất yếu khách quan, cần phải có trong mỗi con người, kể cả
cấu tạo giải phẫu của con người, nhờ đó con người mới có thể tồn tại và hoạt động. Nhưng cái
sinh vật này không tồn tại một cách chung chung, trừu tượng mà nó được cụ thể hóa thông qua
các nhu cầu tự nhiên của con người. Nhu cầu thì lại hết sức đa dạng như nhu cầu ăn uống, nhu
cầu tình cảm, nhu cầu vui chơi, giải trí,... Trong đó, nhu cầu tồn tại là quan trọng nhất, cao nhất
và cơ bản nhất vì chỉ khi tồn tại, con người mới có thể thực hiện được các nhu cầu cá nhân và
nhu cầu xã hội.
Để thỏa mãn những nhu cầu ấy thì con người buộc phải lao động, do lao động là hoạt động chủ
đạo, sáng tạo góp phần hình thành nên phương diện xã hội của con người. Có thể giải thích điều
này bằng những lí do sau:
- Lao động là nguồn gốc sâu xa của sự chuyển biến từ vượn thành người, từ tâm lý con vật trở
thành ý thức con người.
VD: con người từ thuở vượn chỉ biết săn bắt hái lượm. Về sau, con người nhận ra rằng muốn có
nhiều thức ăn thì phải trồng trọt, chăn nuôi để duy trì nguồn cung cấp thức ăn. Ta nói đã có sự
chuyển biến từ tâm lý con vật sang ý thức con người.
- Lao động là nguồn gốc của mọi văn minh vật chất và văn minh tinh thần. Thông qua lao động,
con người đã tác động vào tự nhiên, cải tạo nó để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con
người. Do đó, con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử, và hoạt động thực tiễn vừa
là phương thức tồn tại của con người, vừa là điều kiện của mọi biến đổi xã hội.
- Thông qua lao động, con người đã hình thành nên những quan hệ xã hội, những năng lực, thuộc
tính và phẩm chất xã hội trong con người.
VD: Con người làm việc trong công ty thì sẽ đương nhiên phát sinh mối quan hệ giữa đồng
nghiệp với nhau, giữa bản thân là nhân viên với sếp lớn,... Trong các mối quan hệ này, con người
có thể hình thành các thuộc tính như: tinh thần làm việc nhóm, sức sáng tạo, năng lực tư duy, bộc
lộ tình cảm, thái độ,..
Giữa cái sinh vật và cái xã hội thì cái sinh vật là tiền đề, còn cái xã hội mang tính quyết định. Cái
sinh vật là tiền đề vì nhờ nó mà con người mới tồn tại; còn cái xã hội quyết định, vì nếu không
có nó, con người cũng chỉ là một sinh vật mà thôi.
VD: Con người có ăn uống, hít thở thì mới có sức khỏe để học tập và làm việc. Tuy nhiên, nếu
con người không chịu lao động, học tập và làm việc, không rèn luyện đức – trí – thể - mỹ mà chỉ
muốn hưởng thụ thì con người chẳng khác gì con vật.
Mặt khác, trong đời sống xã hội, cái sinh vật không tồn tại một cách thuần túy mà đã bị cái xã
hội quy định, chế ước, bị xã hội hóa và mang tính xã hội.
Nhu cầu tự nhiên luôn biến đổi nên nhu cầu xã hội cũng sẽ biến đổi theo. Vì thế, bản chất con
người không phải là bất biến, mà nó biến đổi cùng với sự vận động, phát triển của xã hội.
VD: Khi con người chuyển từ nhu cầu ý tưởng sang nhu cầu ước mơ có thể kéo đến các nhu cầu
về tri thức, tình cảm, văn hóa cũng sẽ biến đổi sao cho phù hợp với nhu cầu đã biến đổi.
Thực tế, nhu cầu của con người thường lớn hơn so với khả năng, lợi ích mà xã hội đáp ứng. Đó
là sự mâu thuẫn. Để giải quyết nó, con người đã hình thành nên một đời sống nội tâm trong mỗi
con người, buộc con người phải day dứt, dằn vặt, giằng xé để điều chỉnh các hành vi trong cuộc
sống nhằm hoàn thiện bản chất của mình.
VD: Sinh viên luôn khao khát đạt kết quả tốt trong khi xã hội yêu cầu khách quan rằng muốn đạt
được kết quả tốt thì phải chăm chỉ và học tập nghiêm túc. Để làm được điều này, sinh viên luôn
phải đấu tranh tâm lý, dằn vặt bên trong bản thân để từ đó có thể giải quyết mâu thuẫn nhằm giúp
bản thân có thể học tốt.
Như vậy, bản chất con người là thể thống nhất giữa cái sinh vật và cái xã hội. Do đó, trong nhận
thức và thực tiễn không được tuyệt đối hóa bất kì mặt nào mà phải xem xét chúng trong sự thống
nhất với nhau.
VẬN DỤNG: (Để hoàn thiện bản thân, trở thành con người XHCN thì cần phải làm gì?)
https://dangcongsan.vn/tu-tuong-van-hoa/xay-dung-hinh-mau-con-nguoi-moi-xa-hoi-chu-nghia-
co-tri-thuc-dao-duc-the-luc-loi-song-va-tham-my-cao-phuc-vu-cong-cuoc-xay-dung-chu-nghia-
xa-hoi-589551.html
..., con người mới xã hội chủ nghĩa phải là con người được đào tạo bài bản, sống có lý tưởng
Cách mạng, tư tưởng chính trị, lập trường vững vàng, sẵn sàng chung tay, vững bước cùng xây
dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.
Việc phát triển con người một cách toàn diện thực chất là xây dựng con người mới có đủ năng
lực làm chủ bản thân và xã hội.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã khẳng định: con người là một khối tổng hòa của các yếu
tố tri thức, đạo đức, thể lực, lối sống và thẩm mỹ và con người mới xã hội chủ nghĩa phải được
trang bị đầy đủ các yếu tố đó. Nếu thiếu đi một yếu tố nào đó thì vấn đề phát triển toàn diện sẽ
không còn được đảm bảo.
(TS. Trần Lê Hưng, Trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội)
Phương pháp vận dụng: xét cái sinh vật (mong muốn, hoài bão, niềm tin, ý chí) và cái xã hội
(quan hệ xã hội) trong mỗi chúng ta, những mâu thuẫn nào đang tồn tại? Làm thế nào để giải
quyết những mâu thuẫn đó để trở thành một con người toàn diện trong XH hiện nay?
(Bài mẫu gợi ý)
- Em có ước mơ và mong muốn mình sẽ trở thành một người giáo viên với chuyên môn vững
vàng và khả năng hiểu thấu đáo tâm lý học sinh, nhưng hiện tại trình độ chuyên môn của mình
còn rất thấp và chưa thực sự có thể phán đoán và hiểu rõ tâm lý của các bạn và mọi người xung
quanh. Thế nên, em nghĩ mình cần phải cố gắng nhiều hơn nữa bằng cách ra sức học tập, trau dồi
những kỹ năng nghề nghiệp thật tốt, luôn có tinh thần học tập và thái độ cầu tiến, nâng cao
chuyên môn của mình khi có cơ hội. Thêm vào đó, em cần học tập những phương pháp giảng
dạy, tham gia nhiều hoạt động trải nghiệm với Đoàn, Hội cũng như tiếp xúc với nhiều người để
nâng cao trình độ hiểu biết và tạo dựng các mối quan hệ xã hội tốt hơn. Cứ như vậy, tri thức của
mình sẽ vững chắc để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội
- Đạo đức là một vấn đề rất quan trọng trong việc định hình nhân cách và làm nên giá trị xã hội
của một con người. Bác Hồ ta cũng từng nói: “Có tài mà không có đức là người vô dụng.” Tuy
nhiên, bản thân em nhận thấy rằng đạo đức của mình chưa thật sự đủ nếu như muốn làm một
người giáo viên có tâm. Vì thế, em nghĩ mình cần luôn tu dưỡng, rèn luyện những phẩm chất đạo
đức tốt, có thái độ đúng mực trong cách xử sự, giao tiếp với mọi người xung quanh. Luôn chủ
động tiếp thu những ý kiến đóng góp tích cực của người khác trong lời ăn tiếng nói, trong cách
học tập và làm việc (sự trách nhiệm) để có thể trở thành người tài đức vẹn toàn.
- Em luôn mong muốn mình có một cơ thể khỏe mạnh, sức khỏe thể chất tốt để học tập và làm
việc. Tuy nhiên, do những điều kiện khách quan như học tập theo tiến độ chương trình ở trường
và điều kiện chủ quan như không thể đưa ra một kế hoạch tập luyện có hiệu quả dẫn đến em
chưa thể có được điều mà em muốn. Vì vậy, em nghĩ mình có thể thay đổi bằng cách chọn một
số bài tập cơ bản với vai, tay và chân để tập luyện thường xuyên ở nhà. Em nên dành 5-10 phút
mỗi buổi để tập một số động tác tại chỗ nhằm duy trì sự dẻo dai và sức chịu đựng của cơ thể.
Nếu có cơ hội, em muốn được luyện một môn thể thao vừa sức với bản thân như cầu lông hay
tennis,... để tạo ra những xúc cảm lành mạnh, nâng cao sức khỏe thể chất và tinh thần của mình.
- Lối sống biết ơn luôn là điều mà em cho rằng cần phải được học tập và phát huy nhiều hơn.
Lòng biết ơn góp phần duy trì những mối quan hệ thân thiết một cách bền vững, đồng thời thể
hiện cái sự quan tâm và trân trọng đối với những người có ý nghĩa trong đời. Xã hội chúng ta
luôn đề cao cái lòng biết ơn giữa người với nhau. Tuy nhiên, không phải lúc nào lòng biết ơn
cũng được thể hiện đúng chỗ. Cho nên, em nghĩ mình cần phải thể hiện sự tinh tế trong cách bày
tỏ lòng biết ơn bằng nhiều cách phù hợp với từng đối tượng. Như vậy, giá trị của lòng biết ơn sẽ
không bị hủy hoại, bản thân ta cũng sẽ trở thành người thấu đáo và sống có tình nghĩa.

You might also like