You are on page 1of 14

Câu 1. Phân tích sự đối lập giữa phép biện chứng với phép siêu hình?

Những giai đoạn cơ bản


trong lịch sử phép biện chứng?
* Sự đối lập giữa phép biện chứng với phép siêu hình
Biện chứng và siêu hình là hai mặt đối lập trong phương pháp chung nhất của tư duy.
→Phương pháp siêu hình là phương pháp :
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái cô lập, tách rời đối tượng ra khỏi các chỉnh thể khác và giữa các mặt
đối lập nhau có một ranh giới tuyệt đối.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái tĩnh tại, nếu có sự biến đổi thì đó chỉ là sự biến đổi về số lượng,
nguyên nhân của sự biến đổi nằm ở bên ngoài đối tượng.
Phương pháp siêu hình là phương pháp “ chỉ nhìn thấy những sự vật riêng biệt mà không nhìn thấy mối
liên hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại của những sự vật ấy mà không nhìn thấy sự phát
sinh và sự tiêu vong của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy trạng thái tĩnh của những sự vật ấy mà quên mất sự vận
động của những sự vật ấy, chỉ nhìn thấy cây mà không thấy rừng”.
Phương pháp siêu hình bắt nguồn từ chỗ muốn nhận thức một đối tượng trước hết phải tách đối tượng ấy
ra khỏi những mối liên hệ và nhận thức nó ở trạng thái không biến đổi trong một không gian, thời gian xác định.
Phương pháp siêu hình chỉ có tác dụng trong một phạm vi nhất định, vượt ra khỏi phạm vi đó tư duy siêu hình
sẽ mắc phải sai lầm.
→Phương pháp biện chứng là phương pháp :
+ Nhận thức đối tượng ở trong các mối liên hệ với nhau, ảnh hưởng nhau, ràng buộc lẫn nhau.
+ Nhận thức đối tượng ở trạng thái vận động biến đổi, nằm trong khuynh hướng chung là phát triển. Đây
là quá trình thay đổi về chất của các sự vật hiện tượng mà nguồn gốc của sự thay đổi ấy là đấu tranh của các mặt
đối lập để giải quyết mâu thuẫn nội tại của chúng.
Phương pháp biện chứng thể hiện tư duy mềm dẻo, linh hoạt. Nó thừa nhận trong những bối cảnh xác
định thì bên cạnh cái “ hoặc là …hoặc là” còn có cả cái “ vừa là …vừa là”. Nó thừa nhận một chỉnh thể trong
cùng một lúc vừa là nó lại vừa không phải là nó, cái khẳng định và cái phủ định vừa là loại trừ nhau lại vừa
thống nhất với nhau trong sự tồn tại, vận động, biến đổi của sự vật.
Phương pháp biện chứng phản ánh hiện thực đúng như nó tồn tại. Nhờ vậy, phương pháp tư duy biện
chứng trở thành công cụ hữu hiệu giúp con người nhận thức và cải tạo thế giới.
* Những giai đoạn cơ bản trong lịch sử phép biện chứng
a. Phép biện chứng chất phác thời cổ đại.
Đây là hình thức đầu tiên trong lịch sử phát triển của phép biện chứng. Phép biện chứng cổ đại, kể cả
trong triết học phương Đông lẫn phương Tây đều xem xét mọi sự hiện tượng của vũ trụ trong sự sinh thành,
biến hoá và trong những mối liên hệ vô cùng, vô tận. Tuy còn mang tính chất tự phát, ngây thơ, mới chủ yếu
dựa trên những phỏng đoán, những trực kiến thiên tài chứ chưa phải chủ yếu dựa trên kết quả của nghiên cứu
khoa học nhưng căn bản là đúng. Phép biện chứng tự phát thời cổ đại đã phác hoạ ra được bức tranh chung về
thế giới trong tác động qua lại chằng chịt lẫn nhau giữa các bộ phận, các yếu tố của chúng. Phép biện chứng cổ
đại đã đặt nền móng cho sự hình thành phát triển của các quan điểm biện chứng về thế giới trong nhiều thế kỷ
sau.
b. Phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển Đức
Đây là hình thức thứ hai của lịch sử phép biện chứng, gọi là phép biện chứng duy tâm . Đỉnh cao của
hình thức này được thể hiện trong triết học cổ điểm Đức, người khởi đầu là Cantơ và người hoàn thiện là
Hêghen. Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử phát triển của tư duy nhân loại, các nhà triết học Đức đã trình bày
một cách có hệ thống những nội dung quan trọng nhất của phương pháp biện chứng. Tuy nhiên, theo họ, biện
chứng ở đây bắt đầu từ tinh thần và kết thúc ở tinh thần nên nó dựa trên thế giới quan duy tâm. Phép biện chứng
cổ điển Đức có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của tư duy biện chứng của nhân loại, thúc đẩy tư duy
biện chứng lên một trình độ cao, nhưng với hạn chế duy tâm, nó chưa thể trở thành cơ sở lý luận cho một thế
giới quan khoa học.
c. Phép biện chứng duy vật
Đây là hình thức cao nhất trong lịch sử phép biện chứng. Phép biện chứng duy vật được Mác và
Ăngghen xây dựng, sau đó được Lênin phát triển. Mác và Ăngghen đã gạt bỏ tính chất duy tâm, thần bí, kế thừa
những hạt nhân hợp lý trong phép biện chứng cổ điển Đức( trực tiếp nhất là phép biện chứng của Hêghen). Mác
và Ăngghen đã cải tạo lại một cách căn bản phép biện chứng của Hêghen, trên cơ sở những thành tựu lý luận,
khoa học của nhân loại, trên cơ sở đúc kết từ thực tiễn xã hội, các ông đã sáng lập ra phép biện chứng duy vật,
hình thức cao nhất cao nhất của phép biện chứng.
Phép biện chứng duy vật với tính cách là học thuyết về mối liên hệ phổ biến và sự phát triển dưới hình
thức hoàn bị nhất. Nó bao gồm một hệ thống các nguyên lý, phạm trù và quy luật; nó đồng thời là lý luận nhận
thức và logic học của chủ nghĩa Mác, có sự thống nhất trong nó giữa tính cách mạng, tính khoa học, tính thực
tiễn, trở thành phương pháp luận chung nhất cho mọi hoạt động nhận thức và thức tiễn cải tạo tự nhiên, xã hội
của con người.
Câu 2. Quán triệt nguyên tắc toàn diện, nguyên tắc phát triển, nguyên tắc lịch sử - cụ thể trong
thực tiễn ngành giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay như thế nào?
→Quán triệt nguyên tắc toàn diện
Nguyên tắc toàn diện trong giáo dục và đào tạo đòi hỏi cần phát triển đồng bộ cả về kiến thức, kỹ năng
và phẩm chất của người học. Cụ thể, cần thực hiện tốt các nội dung sau:
Về kiến thức:
 Đổi mới nội dung giáo dục và đào tạo theo hướng cập nhật, hiện đại, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước.
 Tăng cường giáo dục kiến thức phổ thông, kiến thức cơ bản, cốt lõi.
 Phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu của người học.
Về kỹ năng:
 Phát triển các kỹ năng cơ bản, cần thiết cho người học, như kỹ năng đọc, viết, tính toán, giải quyết vấn
đề, tư duy sáng tạo,...
 Tăng cường giáo dục kỹ năng mềm, như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hợp tác, kỹ năng thuyết trình,...
 Phát triển năng lực thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn.
Về phẩm chất:
 Giáo dục đạo đức, lối sống lành mạnh, tích cực cho người học.
 Phát triển năng lực tự quản, tự chủ của người học.
 Tăng cường giáo dục lòng yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, ý thức trách nhiệm với bản thân, gia đình,
xã hội.
→Quán triệt nguyên tắc phát triển
Nguyên tắc phát triển trong giáo dục và đào tạo đòi hỏi cần coi trọng việc phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của người học. Cụ thể, cần thực hiện tốt các nội dung sau:
 Tạo môi trường giáo dục và học tập thân thiện, tích cực, khuyến khích người học tham gia các hoạt động
học tập, trải nghiệm.
 Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
 Phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu của người học.
→Quán triệt nguyên tắc lịch sử
 Nguyên tắc lịch sử trong giáo dục và đào tạo đòi hỏi cần coi trọng việc kế thừa và phát huy những giá trị
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, đồng thời tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại. Cụ thể, cần thực hiện tốt
các nội dung sau:
 Giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho người học.
 Tăng cường giáo dục văn hóa, đạo đức, lối sống cho người học.
 Tiếp thu có chọn lọc tinh hoa của nhân loại, phù hợp với điều kiện của Việt Nam.
→Một số giải pháp cụ thể
Để quán triệt tốt các nguyên tắc trên trong thực tiễn ngành giáo dục và đào tạo ở nước ta hiện nay, cần
thực hiện tốt các giải pháp sau:
2
 Đổi mới chương trình, nội dung giáo dục và đào tạo theo hướng phát triển toàn diện, phát huy tính tích
cực, chủ động, sáng tạo của người học.
 Đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực, hiệu quả.
 Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục.
 Xây dựng môi trường giáo dục và học tập lành mạnh, thân thiện.
 Tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo.
Việc quán triệt tốt các nguyên tắc trên sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, tạo ra
nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Câu 3. Phân tích nội dung của 3 quy luật cơ bản của phép BCDV. Lấy ví dụ liên hệ với thực tiễn
và hoạt động chuyên môn của bản thân.
*3 quy luật cơ bản của phép BCDV
- Quy luật thứ nhất: quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành thay đổi về chất và ngược
lại
Quy luạt này là quy luật về phương thức chung của quá trình vận động, phát triển trong tự nhiên, xã hội
và tư dy.
Nội dung quy luật: sự thống nhất về lượng và chất trong sự vật tạo thành độ của sự vật. Những thay đổi
về lượng dẫn đạt đến giới hạn nhất định sẽ xảy ra bước nhảy khiến chất cũ bị phá vỡ và chất mới được tạo
thành.
Quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng đân đến những thay đổi về chất và ngược lại đã chỉ ra
cách thức hoạt động và phát triển của sự vật, hiện tượng.
Ý nghĩa quy luật: Muốn có sự thay đổi về chất phải tích lũy về lượng, không được nóng vội, chủ quan.
Khi tích lũy về lươngj đã đủ cần thực hiện bước nhảy tránh bảo thủ, trì trệ. Cần phân biệt và vận dụng sáng tạo
bước nhảy. Đẻ sự vật còn là nó phải nhận thức được độ của nó và không để lượng thay đổi vượt quá giới hạn
độ. Khi chất mới được ra đời cần xác định quy mô và tốc độ phát triển mới về lượng.
Ví dụ: Lĩnh vực chính trong công việc của tôi là Thổng kê tổng hợp, trải qua 1 năm tập sự và chăm chỉ
học tập, trau dồi và tích lũy đầy đủ các nghiệp vụ và kiến thức chuyên môn từ trường Đại học và qua các cuộc
tập huấn mà cấp trên đã phân công tôi tham gia thì hiện tại tôi đã có thể đảm nhận toàn bộ và hòan thành tốt các
cuộc điều tra lớn nhỏ trong lĩnh vực mình phụ trách.
- Quy luật thứ hai: quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
Nội dung quy luật: Mọi sự vật, hiện tường đều chứa đựng những mặt, nhưbgx khuynh hướng đối lập và
tạo thành những mâu thuẫn trong bản thân nó. Sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập tạo thành xung
đột nội tại của sự vận động và phát triển, dẫn đến việc cái cũ mất đi và cái mới hình thành.
Ý nghĩa: Cần phải thấy được đông lực phát triển của sự vật xuất phát từ những mâu thuẫn trong bản thân
nó. Việc nhận thức mâu thuẫn là điều cần thiết và phải khách quan. Trong hoạt động thực tiễn, phải xác định
được trạng thái chín muồi của mâu thuẫn đê kịp thời giải quyết.
Mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi có điều kiện chín muồi, cho nên không được nóng vội giải quyết khi
chưa có điều kiện chín muồi và không để việc giải quyêt mâu thuẫn diễn ra một cách tự phát.
Ví dụ: Tôi phân vân giữa tập trung đi làm và đăng ký học Cao học vì lo lắng rằng việc học mang tính
nghiên cứu nhiều nên sẽ ảnh hưởng kha khá đến thời gian làm việc của bản thân, vì vậy đi làm và học Cao học
là 2 mặt đối lập nhau, nhưng cũng có quan hệ mật thiết với nhau. Đi làm để có nguồn thu nhập học tiếp Cao
học, còn học Cao học để bổ sung thêm kiến thức chuyên môn cho lĩnh vực công việc đang làm. Vì vậy tôi quyết
tâm chủ động sắp xếp thời gian hợp lý để vừa giải quyết công việc thật tốt nhưng vẫn đảm bảo việc học tập đạt
hiệu quả.
- Quy luật thứ ba: quy luật phủ định của phủ định
Nội dung quy luật: phủ định của phủ định là khái niệm dược dùng để chỉ sự vận động, phát triển của sự
vật thông qua hai lần phủ định biện chứng, kết quả là quay trở lại điểm xuất phát ban đầu nhưng cao hơn. Phủ
định hai lần khiến cho sự vật cũ trở thành cái đối lập của mình. Những lần phủ định tiếp theo sẽ hình thành sự
vật mới mang những đặc trưng của sự vật ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn.

3
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển và đồng thời cũng là điểm xuất
phát của một chu kỹ phát triển tiếp theo tạo ra đường xoắn ốc của sự phát triển. Môi trường mới của đường
xoắn ốc thể hiện một trình độ cao hơn sự phát triển.
Trong thực tế, mỗi chu kỳ phát triển của sự vật có thể gồm nhiều lần biện chứng.
Ý nghĩa của quy luật: đây là cơ sở để hiểu sự ra đời của cái mới và mối liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
Trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần chống thái độ phủ định sạch trơn và phải biết sàng lọc những gì tích
cực của cái cũ. Phát triển không phải là đường thẳng mà theo đương xoắn ốc đi lên tức là có nhiều khó khăn
phức tạp trong quá trình vận động phát triển.
Ví dụ: Quá trình tích lũy kiến thức từ Cấp THPT đến Đại học và đến Cao học, thì Đại học là phủ định
của cấp THPT, và Cao học là phủ định của Đại học. Điều đó thể hiện sự phát triển của bản thân trong học tập và
rèn luyện, trau dồi kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm.
Câu 4. Tại sao việc đưa khái niệm thực tiễn vào lý luận nhận thức lại là một yếu tố tạo ra bước
ngoặt căn bản mang tính cách mạng của triết học Mácxít?
Theo Chủ nghĩa Mác - Lê-nin: “Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất có mục đích, mang tính
lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến tự nhiên và xã hội”(1). Khác với hoạt động nhận thức, trong hoạt
động thực tiễn, con người sử dụng những công cụ vật chất tác động vào những đối tượng vật chất làm biến đổi
chúng theo mục đích của mình. Những hoạt động ấy là những hoạt động đặc trưng và bản chất của con người.
Hoạt động thực tiễn rất đa dạng với nhiều hình thức ngày càng phong phú, song có ba hình thức cơ bản
là hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị - xã hội và hoạt động thực nghiệm khoa học. Thực tiễn có hai
vai trò lớn đối với nhận thức:
Thứ nhất, thực tiễn là cơ sở, động lực và mục đích của nhận thức: Sở dĩ như vậy bởi vì thực tiễn là điểm
xuất phát trực tiếp của nhận thức. Thực tiễn đề ra nhu cầu, nhiệm vụ, cách thức và khuynh hướng vận động và
phát triển của nhận thức. Chính con người có nhu cầu tất yếu khách quan là giải thích và cải tạo thế giới mà
buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật, hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình. Nhờ có
hoạt động thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy logic không
ngừng được củng cố và phát triển.
Thứ hai, thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý: Thực tiễn luôn vận động và phát triển trong lịch sử.
Nhờ đó mà thực tiễn thúc đẩy nhận thức cùng vận động, phát triển. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng
không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn. Nhận thức thường xuyên chịu sự kiểm nghiệm trực tiếp của
thực tiễn. Thực tiễn có vai trò là tiêu chuẩn, thước đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức.
Thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. Như vậy, thực tiễn vừa là điểm
xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức, vừa
là nơi nhận thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình.
Lý luận về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin yêu cầu việc nhận thức
phải xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời thực tiễn sẽ dẫn đến sai
lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực
tiễn sẽ rơi vào Chủ nghĩa thực dụng, kinh nghiệm Chủ nghĩa.
Câu 5. Tại sao Đảng ta lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư
tưởng, kim chỉ nam cho hành động?
Thứ nhất, Đảng ta vì lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc; đồng thời,
mong muốn góp phần thúc đẩy phong trào cách mạng và tiến bộ trên thế giới. Lịch sử Việt Nam cận - hiện đại
cho thấy rằng, trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, con đường giải phóng của các dân tộc thuộc địa không thể đi
theo con đường của chủ nghĩa yêu nước truyền thống, cũng không thể đi theo con đường cách mạng dân chủ tư
sản. Chỉ có con đường cách mạng vô sản – con đường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin mới có thể giải phóng các
dân tộc thuộc địa. Đây là kết quả khảo sát thực tế, nghiên cứu lý luận và hoạt động cách mạng ở nước ngoài của
đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ năm 1911 đến năm 1920.
Đi theo con đường của chủ nghĩa Mác – Lê-nin, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, dân tộc
ta đã giành được độc lập, xây dựng Nhà nước pháp quyền (nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, nay là Cộng hòa
4
XHCN Việt Nam), chế độ xã hội do nhân dân làm chủ. Tiếp đó, dân tộc ta đã tiến hành các cuộc kháng chiến,
đánh bại các cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân, đế quốc hung hãn và hùng mạnh nhất thế giới, bảo vệ
vững chắc độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia. Từ giữa những năm 80 thế kỷ XX, Đảng ta đã phát hiện sai lầm
trên lĩnh vực kinh tế, xã hội nên đã khởi xướng công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế, cho đến nay đã thu được
những thành tựu to lớn, làm thay đổi căn bản đời sống xã hội, được nhân dân ta ghi nhận, bạn bè quốc tế đánh
giá cao.
Thứ hai, xuất phát từ những biến đổi to lớn và sâu sắc của tình hình thế giới và những thành tựu, kinh
nghiệm lịch sử của CNXH trong thế kỷ XX. Xét trên phạm vi toàn thế giới, trên 70 năm (1917 - 1991, kể từ khi
chủ nghĩa Mác – Lê-nin được hiện thực hoá trong mô hình CNXH Xô-viết đến khi xảy ra khủng hoảng, sụp đổ
ở Liên Xô, các nước XHCN ở Đông Âu), CNXH hiện thực đã thu được những thành tựu vô cùng to lớn, có ý
nghĩa thời đại. Đó là lực lượng xã hội mở ra một con đường mới cho nhân loại đi đến mục tiêu giải phóng con
người, xã hội và cho các dân tộc bị áp bức; là lực lượng chủ yếu đánh bại chủ nghĩa phát xít, cứu loài người
thoát khỏi chế độ diệt chủng; là lực lượng tạo ra sự đối trọng về các mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa,
khoa học, công nghệ,… buộc CNTB phải điều chỉnh theo xu hướng dung hòa lợi ích giai cấp.
Từ thập kỷ 70 của thế kỷ XX, thế giới đã có những biến chuyển to lớn và sâu sắc trên nhiều mặt, đặc
biệt là cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, kinh tế tri thức và quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ. Hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ, hợp tác và phát triển là xu hướng cơ bản; đồng thời, vẫn tồn tại nguy cơ chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, khủng bố, hoạt động can thiệp, lật đổ, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên… Chủ
nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang giữ vai trò quan trọng nhất giúp Đảng và Nhà nước ta
phân tích, đánh giá và giải quyết đúng đắn những vấn đề đặt ra trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thứ ba, từ những nhận thức đúng giá trị lý luận với giá trị phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lê-
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày nay, Cương lĩnh 2011 của Đảng ta xác định “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” với tinh thần mới, bao hàm các kết quả nghiên cứu lý
luận, tổng kết thực tiễn CNXH hiện thực trên phạm vi thế giới, cũng như từ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc của chúng ta. Những nội dung sau đây của Cương lĩnh 2011 là một minh chứng:
Thay vì xây dựng nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp trong mô hình cũ của CNXH, Đảng ta xác
định “phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”, kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa phát triển kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng nền dân chủ XHCN và “Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân”, bảo vệ quyền công dân và quyền con người… Ngoài ra, Cương lĩnh 2011 của
Đảng còn xác định nhiều nội dung thể hiện tinh thần đổi mới, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác –
Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào bối cảnh thời đại và đất nước, trên các lĩnh vực khác nhau, như: văn hoá,
giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, bảo vệ môi trường, chính sách dân tộc, tôn giáo; chức năng của
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xã hội; chính sách đối ngoại và xây dựng Đảng…
Ngày nay, để đấu tranh với các thế lực thù địch xuyên tạc và bôi nhọ Đảng, chúng ta phải đồng thời thực
hiện có hiệu quả công tác xây dựng đảng, bao gồm vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh; phải thấy được những giới hạn lịch sử của các quan điểm lý luận, nhất là các chính sách cụ thể để
không ngừng phát triển học thuyết cách mạng đó; phải nâng cao sức “đề kháng” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên,
cán bộ, viên chức nhà nước; tích cực phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về mặt tư tưởng, lý luận; rèn
luyện phẩm chất đạo đức cách mạng. Chỉ có như vậy, Đảng Cộng sản Việt Nam mới hoàn thành được sứ mệnh
lịch sử của mình.
Câu 6. So sánh sự khác nhau giữa hình thái kinh tế - xã hội và cách tiếp cận lịch sử nhân loại theo
lý thuyết các nền văn minh?
Hiện nay, một số nhà nghiên cứu xã hội đưa ra các cách tiếp cận lịch sử bằng các nền văn minh. Chẳng
hạn về mặt tôn giáo, người ta phân loại thành văn minh Kitô giáo, văn minh Hồi giáo, văn minh Khổng giáo…
Gần đây Alvin Toffer cho rằng, để nghiên cứu xã hội hiện đại (thập niên cuối thế kỷ XX sang thế kỷ XXI) phải
sử dụng lý thuyết ba nền văn minh : văn minh nông nghiệp, văn minh công nghiệp, văn minh tin học (ông nhấn
mạnh văn minh tin học). Cách tiếp cận lịch sử bằng các nền văn minh thực chất là sự nhào nặn các quan điểm
“kỹ trị”, quan điểm “hội tụ”, “ hậu công nghiệp”, gián tiếp phủ nhận phương pháp tiếp cận lịch sử bằng lý luận
5
hình thái kinh tế - xã hội của C. Mác. Lý thuyết” ba nền văn minh” đã tuyệt đối hoá yếu tố khoa học - công
nghệ, lực lượng sản xuất, không tính đến quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng. Như vậy việc nghiên cứu
xã hội của Alvin Toffer là thiếu toàn diện, thiếu lôgíc.
Lý luận hình thái kinh tế - xã hội của Mác nghiên cứu xã hội như là một chỉnh thể, cấu thành từ những
yếu tố rất cơ bản : lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, kiến trúc thượng tầng. Trong khi Alvin Toffer chỉ tuyệt
đối hoá yếu tố khoa học - công nghệ, lực lượng sản xuất, thì lý luận hình thái kinh tế - xã hội vừa đề cập đến lực
lượng sản xuất nhưng lại rất trú trọng đến yếu tố quan hệ sản xuất và yếu tố này là tiêu chuẩn khách quan để
phân ra sự khác nhau về chất của một xã hội này với một xã hội khác. Lý luận hình thái kinh tế - xã hội đã chỉ
ra biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất đồng thời cũng chỉ rõ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng
và kiến trúc thượng tầng của xã hội. Cách tiếp cận ba nền văn minh rõ ràng là siêu hình cực đoan không thể
thay thế được phép biện chứng về lịch sử của chủ nghĩa Mác.
Câu 7. Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội ? Làm rõ
sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong việc xây dựng đường lối phát triển đất nước đi lên CNXH.
*Tính khoa học và vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội
a. Tính khoa học của lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
Bằng phương pháp lịch sử - lôgic, Mác đã phân tích thực tiễn những nước tư bản phát triển cao, điển
hình, từ đó phân tích thực tiễn tòan nhân loại để rút ra quy luật chung nhất, cơ bản nhất của xã hội loài người.
Mác chỉ rõ : lịch sử loài người bắt đầu từ sản xuất ra của cải vật chất, vận động theo những quy luật khách quan
của xã hội. Như vậy, Mác đã lấy điểm xuất phát khoa học để nghiên cứu lịch sử nhân loại là lực lượng sản xuất.
Mác đã đi từ tồn tại đến tư duy, từ kinh tế đến chính trị, từ sản xuất vật chất đến sản xuất tinh thần. Đó là
phương pháp duy vật khoa học. Không dừng lại ở đây, Mác tiếp tục nghiên cứu quan hệ sản xuất, coi đó là cơ
sở quan trọng nhất xác định cơ cấu giai cấp trong một xã hội nhất định. Mác cũng tiếp tục nghiên cứu yếu tố thứ
ba là kiến trúc thượng tầng. Từ đây Mác đã vạch ra quy luật vận động của kiến trúc thượng tầng của đời sống
tinh thần và sự tác động của nó đối với đời sống xã hội.
Như vậy, việc tiếp cận lịch sử của Mác đi từ lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất đến kiến trúc
thượng tầng và quy luật vận động giữa chúng bằng lý luận hình thái kinh tế - xã hội có giá trị khoa học triết học
to lớn không thể phủ nhận.
b. Vai trò phương pháp luận của lý luận hình thái kinh tế - xã hội.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội là cơ sở phương pháp luận của khoa học xã hội, là hòn đá
tảng cho mọi nghiên cứu về xã hội, và do đó là nền tảng lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội lần đầu tiên cung cấp những tiêu chuẩn thực sự duy vật
khoa học cho việc phân kỳ lịch sử, giúp con người hiểu được lôgíc khách quan của quá trình tiến hoá xã hội.
Học thuyết này vạch ra sự thống nhất của lịch sử trong cái muôn vẻ của các sự kiện ở các nước khác nhau trong
các thời kỳ khác nhau. Chính vì thế, nó đem lại cho khoa học xã hội sợi dây dẫn đường để phát hiện ra những
mối liên hệ nhân quả để giải thích chứ không chỉ mô tả các sự kiện lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
của Mác là cơ sở khoa học để tiếp cận đúng đắn khi giải quyết những vấn đề cơ bản của các ngành khoa học xã
hội rất đa dạng. Bất kỳ một hiện tượng xã hội nào, từ hiện tượng kinh tế đến hiện tượng tinh thần, đều chỉ có thể
được hiểu đúng đắn khi gắn với một hình thái kinh tế - xã hội nhất định.
Phạm trù hình thái kinh tế - xã hội đem lại những nguyên tắc phương pháp luận xuất phát để nghiên cứu
xã hội, loại bỏ đi cái bề ngoài, cái ngẫu nhiên, không đi vào cái chi tiết, vượt ra khỏi tri thức kinh nghiệm hoặc
xã hội học mô tả, mà đi sâu, vạch ra cái bản chất ổn định từ cái phong phú của hiện tượng, vạch ra cái lôgíc bên
trong của tính nhiều vẻ của lịch sử.
Cách tiếp cận hình thái kinh tế - xã hội vẫn có ý nghĩa phương pháp luận triết học lớn. Gần đây, một số
nhà xã hội học phương Tây đề cao cách tiếp cận lý thuyết các nền văn minh. Cách tiếp cận này thường không
chú ý đến bản chất, nguồn gốc, các động lực của sự vận động phát triển, bỏ qua vai trò của quan hệ sản xuất,
đấu tranh giai cấp nên đã dẫn đến cách tiếp cận chủ quan, siêu hình đối với lịch sử.
*Sự vận dụng sáng tạo của Đảng ta trong việc xây dựng đường lối phát triển đất nước đi lên
CNXH
1. Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
6
Việt Nam đi theo con đường chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa là
một tất yếu lịch sử.
Sau đại thắng mùa xuân 1975, cả nước ta bước vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự kết hợp
những nhân tố bên trong và bên ngoài đã tạo ra khả năng cho phép chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để
tiến lên chủ nghĩa xã hội. Các nhân tố bên trong: những nhân tố chính trị, kinh tế, văn hoá ở nước ta đều phát
triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Các nhân tố bên ngoài : chúng ta đang sống trong thời kỳ quá độ từ chủ
nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới mở đầu bằng Cách mạng chủ nghĩa xã hội Tháng
Mười Nga (1917) vĩ đại, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ với những thời cơ, thách thức lớn với các
nước; được sự giúp đỡ của những nước chủ nghĩa xã hội anh em cũng như sự giúp đỡ của nhân dân tiến bộ trên
thế giới…
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (1986) của Đảng đã khởi xướng công cuộc đổi mới đất nước nhằm
tìm ra phương thức, con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội có hiệu quả hơn. Qua 20 năm đổi mới, đất nước ta đã
đạt được nhiều thành tựu triết học lớn trên nhiều phương diện. Về lý luận : con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ngày càng được làm sáng tỏ hơn. Về thực tiễn, các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá đều phát triển theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần với việc sử dụng những hình
thái kinh tế trung gian mà Đại hội Đảng VI đã chỉ ra. Các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX đã cụ
thể hơn chủ trương này. Điều đó đã góp phần rất to lớn vào công việc thực hiện thành công quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam.
2. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ.
Đại hội VIII (1996) của Đảng xác định rõ : giai đoạn từ nay đến năm 2000 là bước rất quan trọng của
thời kỳ phát triển mới - đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và từ nay đến 2020 ra sức phấn đấu
đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp. Đại hội IX (2001) của Đảng cũng nhấn mạnh rõ chủ trương
này.
Mục tiêu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta là : Xây dựng nước ta thành một nước công
nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình
độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần ngày càng nâng cao, quốc phòng an ninh
vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Về con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta : Cần và có thể rút ngắn thời gian so với các
nước đi trước, về kinh tế và công nghiệp phải vừa có những bước đi tuần tự, vừa có bước nhảy vọt, phát huy lợi
thế của đất nước, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, từng bước phát triển kinh tế. Phát huy nguồn lực trí tuệ
và sức mạnh tinh thần của con người Việt Nam, coi trọng phát triển giáo dục và đào tạo. Công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước phải đảm bảo xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, phát
triển nhanh có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá.
3. Kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Khi bước vào thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, trình độ của lực lượng sản xuất ở nước ta rất thấp
kém. Cho nên, Đảng và Nhà nước ta chủ trương kết hợp giữa phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan
hệ sản xuất phù hợp. Sự kết hợp này ở nước ta hiện nay là một tất yếu.
“Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(6- 1991) nêu ra 7 phương
hướng, trong đó có phương hướng : phải phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá đất nước
theo hướng hiện đại hoá gắn liền với phát triển nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước
xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, từng bước thiết lập quan hệ sản xuất
xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, kinh tế
quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng kinh tế quốc dân, thực hiện nhiều hình thức phân
phối, chủ yếu là phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế.

7
Định hướng phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay thực chất là định hướng quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực chất của định hướng
trong xây dựng quan hệ sản xuất ở thời kỳ quá độ ở nước ta làm cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có
tác động tối đa đến sự phát triển mạnh mẽ của các lực lượng sản xuất, làm cho các quan hệ sản xuất xã hội chủ
nghĩa càng có vai trò chủ đạo và sẽ chiếm ưu thế khi kết thúc thời kỳ quá độ.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII và IX của Đảng ta chủ trương phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần là đúng với quy luật quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Thực
hiện nền kinh tế nhiều thành phần theo đường lối đổi mới của Đảng đã và đang khơi dậy tiềm năng của sản
xuất, khơi dậy năng lực sáng tạo, chủ động của các chủ thể lao động trong sản xuất, kinh doanh, thúc đẩy sản
xuất phát triển.
4. Kết hợp giữa kinh tế với chính trị và mặt khác của đời sống xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội
Trong công cuộc đổi mới đất nước từ 1986 đến nay, Đảng ta đã tiến hành đổi mới kinh tế kết hợp với
đổi mới chính trị. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đã tổng kết 6 kinh nghiệm chủ yếu, trong đó có kinh
nghiệm : Kết hợp chặt chẽ ngay từ đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới chính trị. Đất nước ta đã tiến hành từ đổi mới từng phần về kinh tế đến kết hợp đổi
mới kinh tế đối với đổi mới chính trị. trong qúa trình đổi mới kinh tế, chúng ta đồng thời giữ vững ổn định
chính trị, đổi mới hệ thống chính trị. Đặc biệt, trên cơ sở giữ vững ổn định chính trị, chúng ta tiến hành kết hợp
đổi mới kinh tế, đổi mới chính trị, đổi mới các mặt khác của đời sống xã hội. Đại hội IX của Đảng ta chỉ rõ :
tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế - xã hội
với tăng cường quốc phòng an ninh. Thực hiện việc kết hợp kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời sống
xã hội chúng ta sẽ xây dựng được một xã hội phát triển toàn diện, hài hoà.
Câu 8. Từ lý luận đã học và tư liệu thực tiễn hãy làm rõ quan điểm của Mác: Sự phát triển của các
hình thái kinh tế-xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên.
Học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội không chỉ xác định yếu tố cấu thành hình thái kinh tế xã hội
mà còn xem xét xã hội trong quá trình phát triển và biến đổi không ngừng. Xã hội phát triển qua nhiều giai đoạn
kế tiếp nhau. ứng với mỗi giai đoạn của lịch sử phát triển là một hình thái kinh tế - xã hội. Các hình thái kinh tế
xã hội vận động, phát triển do sự tác động của các quy luật khách quan, đó là quá trình tự nhiên cuả sự phát
triển xã hội. C. Mác viết : “Tôi coi sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử – tự
nhiên”.
Điều này được V.I. Lênin giải thích như sau : “Chỉ có đem quy những quan hệ xã hội và những quan hệ
sản xuất, và đem quy những quan hệ sản xuất vào trình độ của những lực lượng sản xuất thì người ta mới có
được một cơ sở vững chắc để quan niệm sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch
sử - tự nhiên”.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng : Xã hội vận động theo những quy luật không
những không phụ thuộc vào ý thức, ý chí, ý định của con người mà ngược lại còn quyết định cả ý chí, ý định
của họ nữa. Lịch sử là lịch sử hoạt động của con người theo đuổi mục đích của bản thân mình., nhưng không
thể hoạt động tuỳ tiện mà phải tuân theo quy luật khách quan. Mỗi hình thái kinh tế - xã hội được coi như một
cơ thể xã hội, tự phát triển theo những quy luật vốn có của nó. Mỗi một cơ thể xã hội riêng biệt có những quy
luật riêng về sự ra đời, về sự vận động phát triển, về bước chuyển của nó lên một hình thái cao hơn, tức là biến
thành một cơ thể xã hội khác. Mác viết : “Mỗi một thời kỳ lịch sử đều có những quy luật riêng của nó… Một
khi cuộc sống đã vượt qua một thời kỳ phát triển nhất định, đã từ giai đoạn này bước sang giai đoạn khác, thì nó
cũng bắt đầu bị những quy luật khác chi phối”.
Như vậy, quá trình “ lịch sử - tự nhiên” có nghĩa là : con người làm ra lịch sử của mình, họ tạo ra những
quan hệ xã hội của mình, đó là xã hội. Nhưng xã hội vận động theo quy luật khách quan. Sự thay thế kế tiếp
nhau của các hình thái kinh tế xã hội : xã hội nguyên thuỷ được thay thế bằng xã hội chiếm hữu nô lệ, xã hội
chiếm hữu nô lệ được thay thế bằng xã hội phong kiến, xã hội phong kiến được thay thế bằng xã hội tư bản chủ
nghĩa … đó là quá trình tiến hoá bao hàm những bước nhảy vọt, đã tạo nên sự tiến bộ trong lịch sử loài người.
8
Khi nghiên cứu các quy luật của sự phát triển xã hội nói chung và chủ nghĩa tư bản nói riêng, Mác đi đến kết
luận khoa học rằng hình thái kinh tế xã hội tư bản chủ nghĩa sẽ bị thay thế bằng hình thái kinh tế - xã hội mới -
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cũng đã chỉ ra sự
thay thế một hình thái kinh tế xã hội này bằng hình thái kinh tế - xã hội khác thường được thực hiện thông qua
cách mạng xã hội . Quá trình phát triển của lịch sử, cả phát triển tuần tự đủ các hình thái kinh tế xã hội lẫn phát
triển rút ngắn, bỏ qua một hoặc một vài hình thái kinh tế - xã hội trong trường hợp nào đó, đều là quá trình lịch
sử - tự nhiên, xét theo những quy luật và những điều kiện lịch sử cụ thể khách quan quy định.
Câu 9. Quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại trong thời hiện đại
hiện nay?
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống lý luận khoa học về tự nhiên, xã hội và tư duy của con người.
Trong đó, quan điểm về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại là một quan điểm có ý nghĩa quan
trọng, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của xã hội loài người và định hướng cho sự phát triển của xã hội
trong thời hiện đại.
Quan điểm của Mác - Lênin về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc
Theo quan điểm của Mác - Lênin, giai cấp là một tập hợp những người có cùng vị trí trong quan hệ sản
xuất, có cùng lợi ích kinh tế, cùng địa vị xã hội và cùng ý thức giai cấp. Dân tộc là một cộng đồng người có
chung nguồn gốc lịch sử, chung ngôn ngữ, chung lãnh thổ, chung văn hóa và chung ý thức dân tộc.
Mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc là mối quan hệ biện chứng, vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Về
mặt thống nhất, giai cấp và dân tộc có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Giai cấp là nhân tố tạo nên dân
tộc, dân tộc là nền tảng tồn tại và phát triển của giai cấp.
Về mặt mâu thuẫn, mâu thuẫn giai cấp là mâu thuẫn cơ bản, xuyên suốt trong xã hội có giai cấp, nó có
thể dẫn đến sự thay đổi của quan hệ sản xuất, hình thành một hình thái kinh tế - xã hội mới. Mâu thuẫn dân tộc
là mâu thuẫn giữa các dân tộc, nó có thể dẫn đến xung đột, chiến tranh giữa các dân tộc.
Quan điểm của Mác - Lênin về mối quan hệ giữa giai cấp với nhân loại
Theo quan điểm của Mác - Lênin, nhân loại là một chỉnh thể thống nhất, bao gồm tất cả các dân tộc trên
thế giới. Mối quan hệ giữa giai cấp với nhân loại là mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Giai cấp là nhân tố
thúc đẩy sự phát triển của nhân loại, nhân loại là nền tảng tồn tại và phát triển của giai cấp.
Quan điểm của Mác - Lênin về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại trong thời hiện
đại hiện nay
Trong thời hiện đại hiện nay, mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại có những đặc điểm mới
sau:
 Mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc ngày càng gắn bó mật thiết. Sự phát triển của lực lượng sản xuất,
sự giao lưu, hợp tác giữa các dân tộc đã làm cho các dân tộc ngày càng gắn bó với nhau hơn.
 Mâu thuẫn giai cấp vẫn là mâu thuẫn cơ bản, xuyên suốt trong xã hội có giai cấp, nhưng mâu thuẫn dân
tộc đã được giải quyết một phần.
 Mối quan hệ giữa giai cấp với nhân loại ngày càng trở nên rõ ràng. Sự phát triển của lực lượng sản xuất,
sự phát triển của khoa học - công nghệ đã làm cho nhân loại ngày càng trở nên gắn bó với nhau hơn.
Ý nghĩa của quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại
Quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại có ý nghĩa quan trọng đối với
việc giải thích sự phát triển của xã hội loài người và định hướng cho sự phát triển của xã hội trong thời hiện đại.
Quan điểm này giúp chúng ta thấy được rằng:
 Sự phát triển của xã hội loài người là một quá trình gắn liền với sự giải quyết mâu thuẫn giai cấp và mâu
thuẫn dân tộc.
 Nhân loại là một chỉnh thể thống nhất, sự phát triển của nhân loại là sự phát triển của tất cả các dân tộc
trên thế giới.
 Mục tiêu của cách mạng xã hội là giải phóng giai cấp vô sản, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân loại.
Kết luận

9
Quan điểm mácxít về mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại là một quan điểm có tính khoa
học và cách mạng sâu sắc. Quan điểm này đã góp phần giải thích một cách khoa học sự phát triển của xã hội
loài người, đồng thời định hướng cho cách mạng xã hội loài người.
Một số biểu hiện của mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại trong thời hiện đại hiện nay
 Trong lĩnh vực kinh tế, sự phát triển của toàn cầu hóa đã làm cho các quốc gia, các dân tộc ngày càng
gắn bó với nhau hơn. Sự hợp tác kinh tế giữa các quốc gia đã tăng lên đáng kể, tạo ra thị trường chung, chuỗi
cung ứng toàn cầu, thúc đẩy sản xuất, kinh doanh và phát triển kinh tế.
 Trong lĩnh vực văn hóa, sự phát triển của khoa học - công nghệ, truyền thông đã làm cho các nền văn
hóa tiếp xúc với nhau nhiều hơn. Sự giao lưu, học hỏi lẫn nhau giữa các nền văn hóa đã góp phần làm phong
phú thêm bản sắc văn hóa của các dân tộc.
 Trong lĩnh vực chính trị, sự phát triển của các tổ chức quốc tế đã góp phần giải quyết các vấn đề chung
của nhân loại, thúc đẩy hòa bình, hợp tác và phát triển.
 Trong lĩnh vực xã hội, sự phát triển của khoa học - công nghệ đã góp phần cải thiện đời sống của con
người, xóa bỏ đói nghèo, bệnh tật, nâng cao chất lượng cuộc sống.
 Những biểu hiện này cho thấy, mối quan hệ giữa giai cấp với dân tộc và nhân loại trong thời hiện đại
hiện nay đang ngày càng trở nên gắn bó mật thiết hơn.
Để phát huy những biểu hiện tích cực của mối quan hệ này, cần có những giải pháp sau:
 Tăng cường hợp tác, đoàn kết giữa các dân tộc trên thế giới.
 Giải quyết các mâu thuẫn, xung đột giữa các dân tộc.
 Thúc đẩy sự phát triển của nhân loại theo hướng hòa bình, hợp tác và phát triển.
Câu 10. Sự khác biệt giữa quan điểm ngoài mácxít và quan điểm mácxít về giai cấp và đấu tranh
giai cấp trong lịch sử nhân loại?
Quan điểm ngoài mácxít
Quan điểm duy tâm về lịch sử: cho rằng lịch sử loài người là sự vận động của ý thức, của các cá nhân,
các tập đoàn, các giai cấp
Quan điểm kinh tế chủ nghĩa: cho rằng giai cấp là do sự khác biệt về kinh tế quyết định, đấu tranh giai
cấp là sự đấu tranh giữa các giai cấp về kinh tế.
Quan điểm tâm lý chủ nghĩa: cho rằng giai cấp là do sự khác biệt về tâm lý quyết định, đấu tranh giai
cấp là sự đấu tranh giữa các giai cấp về tâm lý.
Quan điểm mácxít
Quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử: cho rằng lịch sử loài người là sự vận động của các lực lượng
sản xuất, quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
Quan điểm mácxít về giai cấp: cho rằng giai cấp là một tập hợp những người có cùng vị trí trong quan
hệ sản xuất, có cùng lợi ích kinh tế, cùng địa vị xã hội và cùng ý thức giai cấp.
Quan điểm mácxít về đấu tranh giai cấp: cho rằng đấu tranh giai cấp là một quá trình lịch sử tất yếu, là
động lực phát triển của xã hội loài người.
So sánh
Đặc điểm Quan điểm ngoài mácxít Quan điểm mácxít
Quan điểm về lịch sử Duy tâm Duy vật biện chứng
Do sự khác biệt về kinh tế, tâm lý,... Do sự khác biệt về vị trí trong quan hệ sản xuất
Quan điểm về giai cấp quyết định quyết định
Quan điểm về đấu Là sự đấu tranh giữa các giai cấp về Là một quá trình lịch sử tất yếu, là động lực phát
tranh giai cấp kinh tế, tâm lý,... triển của xã hội loài người
Ý nghĩa
 Quan điểm mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp là một quan điểm có tính khoa học và cách mạng sâu
sắc. Quan điểm này đã góp phần giải thích một cách khoa học sự phát triển của xã hội loài người, đồng thời
định hướng cho cách mạng xã hội loài người.
10
 Quan điểm ngoài mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp là những quan điểm không có tính khoa học,
không phản ánh đúng bản chất của giai cấp và đấu tranh giai cấp trong lịch sử nhân loại.
Một số ví dụ về sự khác biệt giữa quan điểm ngoài mácxít và quan điểm mácxít về giai cấp và đấu
tranh giai cấp
 Quan điểm duy tâm về lịch sử cho rằng lịch sử loài người là sự vận động của ý thức, của các cá nhân,
các tập đoàn, các giai cấp. Quan điểm này không có tính khoa học, bởi nó phủ nhận tính khách quan của lịch sử,
cho rằng lịch sử là do ý chí của con người quyết định.
 Quan điểm kinh tế chủ nghĩa cho rằng giai cấp là do sự khác biệt về kinh tế quyết định, đấu tranh giai
cấp là sự đấu tranh giữa các giai cấp về kinh tế. Quan điểm này không có tính khoa học, bởi nó chỉ nhìn nhận
giai cấp từ góc độ kinh tế, mà không nhìn nhận giai cấp từ góc độ lịch sử, xã hội.
 Quan điểm tâm lý chủ nghĩa cho rằng giai cấp là do sự khác biệt về tâm lý quyết định, đấu tranh giai cấp
là sự đấu tranh giữa các giai cấp về tâm lý. Quan điểm này cũng không có tính khoa học, bởi nó chỉ nhìn nhận
giai cấp từ góc độ tâm lý, mà không nhìn nhận giai cấp từ góc độ lịch sử, xã hội.
Kết luận
Quan điểm mácxít về giai cấp và đấu tranh giai cấp là một quan điểm có tính khoa học và cách mạng sâu
sắc. Quan điểm này đã góp phần giải thích một cách khoa học sự phát triển của xã hội loài người, đồng thời
định hướng cho cách mạng xã hội loài người.
Câu 11. Phân tích nội dung, kết cấu và vai trò của ý thức xã hội.
Nội dung của ý thức xã hội
Ý thức xã hội là một hệ thống các quan điểm, tư tưởng, tình cảm, niềm tin,... của con người về thế giới
khách quan và về bản thân mình. Nội dung của ý thức xã hội bao gồm các lĩnh vực sau:
 Tư tưởng chính trị: Là hệ thống các quan điểm, tư tưởng của con người về các vấn đề chính trị, về nhà
nước, về giai cấp, về dân tộc,...
 Tư tưởng kinh tế: Là hệ thống các quan điểm, tư tưởng của con người về các vấn đề kinh tế, về sản xuất,
về phân phối,...
 Tư tưởng văn hóa: Là hệ thống các quan điểm, tư tưởng của con người về các vấn đề văn hóa, về nghệ
thuật, về đạo đức,...
 Tư tưởng khoa học: Là hệ thống các quan điểm, tư tưởng của con người về thế giới tự nhiên và xã hội.
Kết cấu của ý thức xã hội
Kết cấu của ý thức xã hội bao gồm hai mặt:
 Mặt tư tưởng: Là hệ thống các quan điểm, tư tưởng, niềm tin,... phản ánh thế giới khách quan.
 Mặt tình cảm: Là hệ thống các tình cảm, cảm xúc,... của con người đối với thế giới khách quan.
Hai mặt này có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên tính thống nhất của ý thức
xã hội.
Vai trò của ý thức xã hội
Ý thức xã hội có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, bao gồm các vai trò sau:
 Vai trò định hướng: Ý thức xã hội định hướng cho hoạt động của con người, giúp con người xác định
mục tiêu, phương hướng và biện pháp hoạt động.
 Vai trò điều chỉnh: Ý thức xã hội điều chỉnh hoạt động của con người, giúp con người khắc phục những
sai lầm và đạt được hiệu quả cao trong hoạt động.
 Vai trò giáo dục: Ý thức xã hội giáo dục con người về các chuẩn mực đạo đức, lối sống,... giúp con
người trở thành những người tốt đẹp.
 Vai trò thúc đẩy: Ý thức xã hội thúc đẩy sự phát triển của xã hội, giúp con người sáng tạo ra các giá trị
mới, tạo nên sự biến đổi của xã hội.
Kết luận
Ý thức xã hội là một bộ phận quan trọng của đời sống xã hội, có vai trò quan trọng trong sự phát triển
của xã hội. Việc nghiên cứu và phát triển ý thức xã hội là một nhiệm vụ quan trọng của con người.

11
Câu 12. Từ các tính chất của ý thức xã hội và thực tiễn hãy làm rõ tính chất phức tạp và khó khăn
của quá trình cải tạo, xây dựng đời sống tinh thần của xã hội ta hiện nay.
Tính chất phức tạp và khó khăn của quá trình cải tạo, xây dựng đời sống tinh thần của xã hội ta hiện nay
Ý thức xã hội là một hệ thống các quan điểm, tư tưởng, tình cảm, niềm tin,... của con người về thế giới
khách quan và về bản thân mình. Ý thức xã hội có các tính chất sau:
 Tính khách quan: Ý thức xã hội là sự phản ánh thế giới khách quan, do tồn tại xã hội quyết định.
 Tính chủ quan: Ý thức xã hội là sự phản ánh thế giới khách quan thông qua lăng kính của mỗi cá nhân,
mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội.
 Tính kế thừa: Ý thức xã hội được kế thừa và phát triển trên cơ sở của ý thức xã hội trước đó.
 Tính phát triển: Ý thức xã hội không ngừng vận động và phát triển theo sự phát triển của xã hội.
Từ các tính chất của ý thức xã hội và thực tiễn, có thể thấy quá trình cải tạo, xây dựng đời sống tinh thần
của xã hội ta hiện nay là một quá trình phức tạp và khó khăn, bao gồm những khó khăn sau:
 Khó khăn do sự tác động của các nhân tố khách quan:
 Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, toàn cầu hóa,... đã tác động mạnh mẽ đến đời sống
tinh thần của xã hội, trong đó có cả những mặt tích cực và tiêu cực.
 Sự xâm nhập của văn hóa, tư tưởng ngoại lai, trong đó có cả những tư tưởng, quan điểm trái với định
hướng xã hội chủ nghĩa.
 Sự phát triển của kinh tế thị trường, dẫn đến sự phân hóa giàu - nghèo, sự xuất hiện của những tệ nạn
xã hội,... cũng tác động không nhỏ đến đời sống tinh thần của xã hội.
 Khó khăn do sự tác động của các nhân tố chủ quan:
 Nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân về vai trò của đời sống tinh thần còn chưa
đầy đủ.
 Năng lực lãnh đạo, quản lý của một số cấp ủy, chính quyền trong việc xây dựng đời sống tinh thần
còn chưa đáp ứng yêu cầu.
 Công tác tuyên truyền, giáo dục, định hướng tư tưởng chưa được thực hiện thường xuyên, hiệu quả.
Để khắc phục những khó khăn trên, cần thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:
 Nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân:
 Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về vai trò của đời sống tinh thần.
 Đẩy mạnh việc học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
 Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất đạo đức, lối sống tốt.
 Tăng cường năng lực lãnh đạo, quản lý:
 Xây dựng các cơ chế, chính sách phù hợp để phát triển đời sống tinh thần.
 Tăng cường hiệu quả công tác tuyên truyền, giáo dục, định hướng tư tưởng.
 Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chủ trương, chính sách về xây dựng đời
sống tinh thần.
 Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao:
 Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tiến bộ.
 Tăng cường các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục, thể thao quần chúng.
 Khuyến khích các hoạt động sáng tạo văn hóa, nghệ thuật.
 Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân:
 Thực hiện tốt các chính sách an sinh xã hội.
 Tạo điều kiện cho nhân dân được hưởng thụ các giá trị văn hóa, tinh thần.
 Đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc sức khỏe, nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.
Cải tạo, xây dựng đời sống tinh thần của xã hội ta hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa to
lớn đối với sự phát triển của đất nước. Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, cần nhận thức đầy đủ tính chất phức tạp
và khó khăn của quá trình, đồng thời thực hiện đồng bộ các giải pháp trên.
Câu 13. Sự phát triển của quan niệm về con người trong lịch sử triết học?
a) Triết học phương Đông
12
- Về nguồn gốc con người theo quan điểm duy tâm, duy vật mộc mạc, tôn giáo.
- Về bản chất con người trong triết lý Đạo giáo, Phật giáo, Nho giáo...
Triết học phương Đông, thường biểu hiện qua triết học tôn giáo như Nho, Phật, Hồi giáo, đều xem xét
bản chất con người qua thế giới quan duy tâm hoặc nhị nguyên luận. Do vậy, con người chỉ là tạo vật của trời
(thượng đế), có cuộc sống phụ thuộc vào mệnh trời, đời người chỉ là sống gửi, khi chết đi mới về cõi vĩnh hằng.
Họ chủ yếu bàn về cách tu dưỡng (cách sống) của con người cho hợp lẽ trời.
Tuy vậy, cách quan niệm con người là một “tiểu vũ trụ” trong vũ trụ bao la của Nho giáo là cách nhìn
chứa đựng nhiều yếu tố hợp lý, đáng để chúng ta kế thừa.
- Quan điểm về con người trong triết học Phật giáo.
+ Phật giáo phủ nhận vai trò của Đấng sáng tạo, phủ nhận cái Tôi của con người.
+ Trong quá trình tồn tại, con người có trần tục tính và phật tính. Bản tính con người vốn tự có cái ác và
cái thiện. Cuộc đời con người do chính con người quyết định qua quá trình tạo nghiệp.
+ Con đường tu nghiệp để trở thành La Hán, Bồ tát hay Phật được coi là đạo làm người.
- Quan điểm về con người trong triết học Nho gia.
+ Con người và vạn vật được tạo nên từ sự hỗn hợp giữa Trời với Đất trong khoảng giữa âm - dương và
do bẩm thụ tính Trời nên bản tính con người vốn thiện.
+ Bản chất con người bị quy định bởi Mệnh Trời “Nhân giã kỹ thiên địa chi đức, âm dương chi giao,
quỷ thần chi hội, ngũ hành chi trí khí giã- Con người là cái đức của Trời Đất, sự giao hợp của âm dương, sự tụ
hội của quỷ thần, cái khí tinh tú của ngũ hành”.
b) Triết học phương Tây trước Mác
- Thời kỳ tiền triết học: Tư tưởng duy tâm, thần bí; tư tưởng duy vật về con người.
- Thời kỳ cổ đại: Quan điểm duy vật chất phác, mộc mạc trong triết học tự nhiên, phái nguyên tử
luận ...Quan điểm duy tâm về con người trong tư tưởng triết học của Pitago, Xôcrát, Platôn, Aritxtốt ...
Quan niệm về con người trong triết học phương Tây trước Mác:
- Triết học kitô giáo chia con người thành 2 phần: linh hồn và thể xác, đều là tạo vật của chúa trời. Thể
xác sẽ mất đi, nhưng linh hồn thì bất tử.
- Các nhà triết học cổ đại điển hình là Aristốt chủ yếu dừng ở việc xem xét cấu tạo bên ngoài và hoạt
động trí tuệ của con người. Mặc dù có nhiều kết luận có giá trị, song không thoát khỏi duy tâm.
- Các nhà triết học cổ điển Đức, có Phoi-ơ-Bắc là quan tâm nhiều đến yếu tố tự nhiên khi nghiên cứu
con người nhưng lại thiên về con người cá nhân, không thấy được tính lịch sử, tính loài trong con người.
- Thời kỳ trung cổ: Quan niệm con người theo quan điểm duy tâm của giáo lý Kitô, Ôguýtxtanh, Tômát
Đacanh...
- Thời kỳ Phục hưng - Cận đại: Tư tưởng triết học duy vật về con người của Bêcơn, Đềcác, Điđrô,
Henvêtyúyt...
- Triết học cổ điển Đức: Tư tưởng triết học về con người trong triết học Hêghen, Phoiơbắc.
Thời Trung cổ
- Quan điểm về con người của Cơ đốc giáo.
- Quan điểm về con người trong triết học Tômát Đacanh.
Thời Phục hưng và Cận đại
Triết học phương Tây thời nào cũng có tư tưởng duy vật gắn với thực tiễn xã hội; tuy nhiên, ở bất kỳ
thời nào quan điểm duy tâm về con người vẫn là tư tưởng thống trị.
Cho đến khi "Thuyết tiến hoá của các loài" của Đácuyn ra đời, các nhà triết học duy vật mới có căn cứ
khoa học để chỉ ra nguồn gốc phi thần thánh của con người "Không phải Chúa đã tạo ra con người theo hình
ảnh của Chúa mà chính con người đã tạo ra Chúa theo hình ảnh của con người" (Phoiơbắc). Tuy vậy, do chịu
ảnh hưởng bởi phương pháp tư duy siêu hình nên đã giải thích sai lệch về nguồn gốc và bản chất con người.
Còn các nhà duy vật thế kỷ XVII-XVIII (Hốpxơ) coi con người khi sinh ra đã mang sẵn bản chất tự nhiên (tính
đồng loại).
Phái nhân bản học sinh vật (Phoiơbắc, Phờrớt v.v) cho con người là một thực thể tự nhiên, sinh vật; con
người sinh vật thuần tuý; con người nhân bản, tuyệt đối hoá yếu tố sinh vật của con người, quy bản chất của con
13
người vào tính tự nhiên của nó. Ở Phoiơbắc, bản chất của con người nằm ở tính tộc loại được thể hiện ra trong
tình cảm, đạo đức, tôn giáo và tình yêu.
Đây là quan điểm triết học đã tuyệt đối hoá mặt tự nhiên của con người, tách con người ra khỏi các hoạt
động (thực tiễn) của họ, làm hoà tan bản chất con người vào bản chất tôn giáo.
- Quan điểm về con người trong triết học Italia.
- Quan điểm về con người trong triết học Anh (Ph.Bêcơn).
- Quan điểm về con người trong triết học Hà Lan (Xpinôda)
Thời hiện đại
- Quan điểm về con người trong triết học phương Tây hiện đại thể hiện rõ nét qua các quan điểm của
phân tâm học, chủ nghĩa nhân vị, chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa phê phán, chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa cấu
trúc v.v, trong đó các quan điểm về con người của chủ nghĩa hiện sinh giữ vai trò chủ yếu.
Câu 14. Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện nhìn từ góc độ triết học?
a. Cách mạng Việt Nam giai đoạn hiện nay và những vấn đề đặt ra đối với con người Việt Nam
- Tình hình thế giới với cuộc cách mạng khoa học, công nghệ và quá trình toàn cầu hoá. Hoà bình, hợp
tác, phát triển đang trở thành xu thế lớn của giai đoạn hiện nay.
- Tình hình trong nước với quá trình đổi mới; cơ sở vật chất, kỹ thuật của nền kinh tế được tăng cường;
chính trị, xã hội ổn định cùng với các nguy cơ vẫn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen, tác động lẫn nhau.
b. Xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu của giai đoạn cách mạng hiện nay
- Hình thành và phát triển ở con người Việt Nam những đức tính cơ bản sau
+ Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí
vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh
vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung. Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần
kiệm, trung thực, tôn trọng kỷ cương phép nước, quy ước của cộng đồng; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi
trường sinh thái. Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng suất cao vì lợi ích
của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội. Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình
độ thẩm mỹ và thể lực.
- Để đạt được những đức tính cơ bản trên, người Việt Nam tập trung đầu tư phát triển vào những lĩnh
vực chủ yếu sau
+ Lĩnh vực kinh tế.
+ Lĩnh vực chính trị.
+ Lĩnh vực xã hội.
+ Lĩnh vực giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ.
+ Lĩnh vực văn hoá./.
- Những động lực cơ bản phát huy nhân tố con người trong đổi mới đất nước hiện nay.
+ Lợi ích với tính cách là một động lực tích cực hoá nhân tố con người. Vấn đề giải quyết hài hòa các
mối quan hệ lợi ích, thực hiện công bằng xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
+ Dân chủ với tính cách là một động lực tích cực hoá nhân tố con người. Vấn đề dân chủ hoá mọi mặt
đời sống xã hội trong sự nghiệp đổi mới hiện nay.
+ Trí tuệ - động lực bên trong của tính tích cực, tự giác, sáng tạo con người. Giáo dục – Đào tạo với vấn
đề phát triển trí tuệ và nền tảng thể chất của con người Việt Nam hiện nay.

14

You might also like