You are on page 1of 60

I.

Mqh biện chứng giữa vật chất và ý thức : Trang 73,74

1. Lý luận

a.Vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức

b.Sự tác động trở lại của ý thức đối với vchất:

2. Vận dụng:

a.Trong học tập và cuộc sống:

Thứ nhất,vì vật chất quyết định ý thức nên trong nhận thức cần phải tôn
trọng nguyên tắc tính khách quan; trong hoạt động thực tiễn cần phải xuất
phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo các quy luật
khách quan

+ Đầu tiên, bản thân mỗi người phải tự xác định được các điều kiện khách quan
ảnh hưởng đến cuộc sống học tập của bản thân từ đó có những hành động phù
hợp với thực tế khách quan:

Điều kiện khách quan: , hệ thống tín chỉ, cơ sở vật chất, tình hình dịch bệnh ( năm
ngoái), tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước

 Cở sở vật chất: Trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí Minh thiếu giảng viên
nên một số tiết học phải lùi vào buổi chiều tối để tiện cho việc giảng dạy hay đối
với những bộ môn chuyên ngành ở khoa Anh như Nghe-Nói-Đọc-Viết, do thiếu
thốn về trang thiết bị nên quá trình giảng dạy của giảng viên và quá trình học tập
của học sinh đều bị ảnh hưởng.
 Tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước : cần nhận thức : nước ta đang trong
giai đoạn CNH HĐH quá độ lên CHXN nên ko tránh khỏi sự chống đối, dòm ngó
của các thế lực thù địch trong và ngoài nước
 Hành động: sinh viên Sư phạm cần quan tâm đến việc đề cao cảnh giác tránh
trở thành con mồi của Diễn biến hòa bình.
 Hệ thống tín chỉ, chương trình học: học theo học chế tín chỉ, cố gắng hoàn thành tốt
các học phần để đạt đủ số tỉn chỉ, tốt nghiệp ra trường đúng hạn
 Tình hình dịch bệnh năm ngoái: học sinh, sinh viên không được đến trường lớp,
không được trang bị thiết bị hiện đại học tập gây rất nhiều khó khăn trở ngại cho
việc học tập của học sinh, sinh viên, đặc biệt là những bạn học sinh cuối cấp và sinh
viên năm nhất còn nhiều bỡ ngỡ
 Hành động: phát triển kĩ năng tự học, tự tìm hiểu; nâng cao tinh thần vượt qua
những khó khăn thách thức ở bản thân học sinh
+Bên cạnh đó, mỗi người cần phải đặc biệt chú ý tôn trọng tính khách quan và
hành động theo các qui luật mang tính khách quan, thể hiện qua một số hành
động như:
 Tuân thủ theo thời khóa biểu mà mỗi khoa đã giao cho học sinh để đi học đúng giờ,
tham dự các tiết học đầy đủ đồng thời làm theo những lời mà giảng viên hướng
dẫn.
 Cần phải tuân thủ theo đúng nội qui nhà trường, chấp hành đúng kỷ luật đặc biệt là
những qui chế vế việc cấm thi, học lại…cũng như tuân thủ Pháp luật, nghiêm túc
chấp hành chính sách của Đảng và nhà nước, tham gia các hoạt động Đoàn Hội, các
hoạt động tình nguyện xã hội.
 Hay như trong thời đại dịch bệnh diễn biến phức tạp, mỗi sinh viên có ý thức tuân
thủ các biện pháp phòng chống dịch: đeo khẩu trang, không ra đường tụ tập nơi
đông người, nếu phát hiện bệnh, cần khai báo thành thật cho trung tâm y tế. Về việc
học tập trong tình thế ấy, cần ý thức tham gia các buổi học online với sự chỉn chu
và tôn trọng, không lơ là, xao nhãng…
Thứ hai, vì ý thức có sự tác động trở lại đối với vật chất nên cần phải phát huy
tính năng động chủ quan tức là phải phát huy tính tích cực, năng động và sáng
tạo của ý thức.
Theo qui định của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trường Đại học Sư Phạm thành phố
Hồ Chí Minh đã thực hiện tổ chức đăng ký học phần
 Bản thân sinh viên phải tự chủ động nghiên cứu các thời khóa biểu học phần cũng
như số tín chỉ lựa chọn khung giờ học tập phù hợp với thời gian cá nhân khi đăng
kí học phần
 Trong kết cấu của ý thức thì tri thức là yếu tố quan trong nhất. Tri thức là
phương thức vận động và tồn tại của ý thức.
 Sinh viên cần phải tích cực trong học tập, chủ động tìm hiểu và khai thác vấn đề,
khi học bài không quá phụ thuộc vào giảng viên mà thay vào đó nên suy nghĩ
những ý tưởng mới của riêng mình.
Ví dụ như những buổi học nhóm hay thảo luận kỹ năng, bản thân tôi thường tìm
đến kho kiến thức của thư viện hoặc tài liệu trong kho sách của khoa để trau dồi
vốn kiến thức chuyên ngành.
 Tuy nhiên những tri thức tiếp thu từ sách vở là chưa đủ, xã hội luôn đòi hỏi mỗi
người phải có một vốn kỹ năng sống dày dặn. Muốn làm được như vậy thì chúng ta
cần tham gia vào các hoạt động tình nguyện ngoài trời hay tìm kiếm một công việc
làm thêm phù hợp để hiểu được giá trị của đồng tiền.
 Trong đời sống, sinh viên nắm vững các kiến thức của môn Triết học, Pháp luật đại
cương và áp dụng được vào cuộc sống
 Tham gia các buổi học bồi dưỡng cảm tình Đoàn để có thêm tri thức về hoạt động
hiểu được vai trò, vị trí, ý nghĩa của đảng, đoàn thanh niên
 Tình cảm là những rung động của con người trong các mối quan hệ với hiện thực.
Nhờ có tình cảm mà tri thức mới có sức mạnh và sau đó trở thành cơ sở cho hành
động. Nói cách khác, tình cảm là động lực lớn nhất thúc đẩy chúng ta đi đến thành
công:

Đối với sinh viên khoa Anh như tôi, để đạt thành tích tốt trong học tập cũng như
phát triển trong tương lai:

 Cần phải có niềm đam mê đối với mỗi môn học bất kể là môn chuyên ngành hay
môn đại cương.
 Xây dựng tinh thần học tập thoải mái và vui vẻ khi học tập từ đó mới tạo ra được
hứng thú
 Trân trọng tình cảm gia đình vì chính tình cảm ấy góp phần giúp bản thân vượt
qua những khó khăn để tiếp tục con đường học tập.
 Để bồi dưỡng tình cảm, ta phải nghiên cứu sâu các môn qua những tài liệu bổ trợ ở
thư viện và trải nghiệm cảm giác đứng lớp giảng dạy, gia sư để nhận ra cái đẹp
trong mỗi môn học, cái ý nghĩa thiêng liêng của nghề giáo.
 Ngoài ra, hăng hái hòa mình vào các phong trào đoàn TN cùng bạn đồng trang lứa
còn giúp sinh viên cảm nhận sâu sắc tình cảm khao khát cống hiến cho cộng đồng
của tuổi trẻ.
 Niềm tin là động cơ tinh thần định hướng cho những hoạt động của con
người.
 Đầu tiên, cần phải có niềm tin ở bản thân mình, phải biết đặt ra hoài bão, ước mơ
nhưng không được quên việc thực hiện hóa nó bằng các kế hoạch chắc chắn. Có
niềm tin thì chắc chắn sẽ có động lực để phấn đấu, vươn lên nhằm đạt được
những mục tiêu cao đẹp. Cụ thể là, mục tiêu bây giờ của tôi chính là tốt nghiệp
đại học với tấm bằn loại khá trở trên nhưng muốn thực hiện được điều ấy thì phải
lập ra thời gian biểu học tập cụ thể với một phương pháp học đúng đắn kèm theo.
 Niềm tin còn phải đc đặt vào Đảng và nhà nước, sinh viên phải luôn liên tục cập
nhật tạp chí cộng sản, thời sự để củng cố, và hướng niềm tin theo kim chỉ nam là
tư tưởng hcm, vững tâm phấn đấu vì trách nhiệm là 1 phần của thế hệ gánh vác
đn tương lai.
 Ý chí biểu hiện cho sức mạnh tinh thần của con người, giúp con người vượt qua
những khó khăn, trở ngại để đạt được những mục tiêu đã đặt ra. Môi tường đại học
ẩn chứa nhiều thử thách và cám dỗ vì vậy chúng ta cần phải xây dựng cho mình
một ý chí kiên định để tránh xa những thói hư tật xấu.
 Ví dụ như, cuộc sống sinh viên tự do đòi hỏi tôi phải lập ra những qui tắc
riêng cho bản thân để giữ vững lập trường của mình trước những cạm bẫy
trước mắt: tránh tụ tập nhậu nhẹt sa đà, không vì lười biếng mà cúp học, chưa
học bài xong chưa đi ngủ chưa họ bài đủ chưa đi chơi, không nên chạy theo
những công việc chỉ sinh ra lợi ích tức thờ mà bỏ bê việc học, hay có hành vi
suy đồi đạo đức như nghe theo diễn biến hòa bình chống lại đảng, gia nhập
các giáo phái ko chính thống, nạn sửa điểm, đạo văn hay tham nhũng trong
nghề giáo, nên học theo tinh thần của câu nói:”Học, học nữa, học mãi” của
Lê-nin.
Thứ ba, cần phải chống lại bệnh chủ quan duy ý chí.
 Cụ thể là không phải lúc nào cũng dựa theo kiến thức thầy cô cung cấp hay tài liệu
của anh chị khóa trước mà cần phải tự thắc mắc, liên tục đặt câu hỏi, nghiên cứu để
hiểu bản chất vấn đề, hiểu những thiếu sót, những điểm lạc hậu của tri thức mà từ
đó dựa vào thực tiễn cuộc sống hiện tại để điều chỉnh phù hợp.
 Khi gặp phải vấn đề khó khăn, tuy tích cực là tốt, nhưng sinh viên không nên tích
cực hoá mọi thứ, từ đó ngó lơ những bài học có được từ thất bại. Việc thổi phồng
tính tích cực không khiến sinh viên phát triển, học được lỗi sai của bản thân bởi tư
duy tích cực quá mức đôi khi là trốn tránh những điểm còn yếu của bản thân ở hiện
tại bằng cách tự nhận định “mọi thứ sẽ ổn thôi
Thứ tư, cần phải chống lại bênh bảo thủ, trì trệ đã hạ thấp tính sáng tạo, tích
cực của ý thức
 Với những thông tin được tiếp nhận, sinh viên cần sử dụng kĩ năng phản biện, đặt
những câu hỏi vì sao, tại sao lại như vậy, không tiếp nhận một chiều, nhìn nhận
vấn đề phiến diện mà phải xem xét, đặt vấn đề vào nhiều bình diện khác nhau mà
đánh giá; cũng không được bảo thủ, tự cho mình là đúng mà phải tiếp thu có chọn
lọc, dựa trên tư duy và phân tích, không để cảm xúc cá nhân chi phối.
 Cụ thể là cần phải tiếp thu có chọn lọc những ý kiến mới, việc hôm nay không nên
để ngày mai, không chủ quan trước mọi tình huống, phải biết lắng nghe và tiếp thu
sự góp ý của người khác. Ví dụ như sau một bài thuyết trình thì phải nán lại lắng
nghe ý kiến chỉnh sửa của cả lớp và giảng viên hay khi làm bài hoặc họp nhóm cần
phải sáng tạo, đột phá, cải tiến cái cũ nhưng không nên quá cầu toàn. Khi đăng kí
học phần không nên đăng kí quá nhiều tránh việc không kham nổi.

Thứ năm, khi giải thích các hiện tượng xã hội cần phải tính đến các điều kiện
vật chất lẫn yếu tố tinh thần, điều kiện khách quan lẫn yếu tố khách quan.
 Đối với việc đăng lý học phần, sinh viên cần phải tính đến năng lực học tập
của bản thân, điều kiện tài chính của gia đình, cân nhắc quỹ thời gian, không
đăng ký học phần một cách tràn lan với mục đích tốt nghiệp sớm tránh
trường hợp học không theo kịp, dẫn đến hao phí tiền bạc, thời gian, công sức
mà kết quả lại không đực như ý.
 Tham gia các hoạt động tình nguyện cũng nên chọn lọc việc gì phù hợp với
năng lực, tránh không hiệu quả, lãng phí thời gian
 Sinh viên muốn đăng ký một việc làm thêm, cần xem xét tính chất công việc
có phù hợp với chuyên ngành không: học được gì khi đi làm, có đảm bảo
được thời gian cho việc học tập ở lớp hay không. Tất cả mọi yếu tố chủ quan
và khách quan cần được xem xét kỹ lưỡng tránh trường hợp chỉ lo kiếm tiền
mà lơ là bỏ học hay làm việc kiệt sức mà kết quả không như ý.

b.Trong sự nghiệp đổi mới của đất nước:

Xdựng CNXH là sự nghiệp vô cùng khó khăn và phức tạp, như một cuộc kháng
chiến trường kỳ của Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân ta. Trước tình hình với
nhiều diễn biến phức tạp của tg hiện nay đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải luôn luôn
kiên trì, kiên định, nâng cao trình độ tri thức, vhoá, lí luận để có thể thích ứng kịp
thời với tình hình thực tế đang ngày càng biến đổi không ngừng. Cần phải quan sát,
xem xét, đánh giá đúng tình hình, cân nhắc kỹ các hoàn cảnh cụ thể để có thể đi đến
những quyết định đúng đắn, tối ưu nhất. Đồng thời, ta phải biết nhìn xa trông rộng,
giải quyết một cách khoa học các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài. Tất cả là để tạo mọi
đk tốt nhất cho nền kinh tế VN ngày càng pt không ngừng cũng như nâng cao vtrí
của nước VN ta trên chiến trường qtế.

Đảng đã vận dụng mối quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới đất
nước như thế nào.

Để xây dựng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ thực tế k hách quan và hành động theo nó
phù hợp với quy luật vật chất quyết định ý thức Trước thời kì đổi mới, khi cơ sở vật
chất còn chưa có chúng ta nôn nóng muốn đốt cháy giai đoạn nên đã phải trả giá. Ở
thời kì này chúng ta phát triển quan hệ sản xuất đi trước lực lượng sản xuất mà
không nhìn thấy vai trò quyết định của lực lượng sản xuất. Sau giải phóng đất nước
ta là một đất nước nông nghiệp lạc hậu với số dân tham gia vào ngành này lên tới
hơn 90%. Nhưng chúng ta vẫn xây dựng các nhà máy công nghiệp để nhanh chóng
trở thành một nước công nghiệp hóa trong khi lực lượng sản xuất chưa phát triển,
thêm vào đó là sự phân công không hợp lí về quản lí nhà nước và xã hội, quyề n lực
quá tập trung vào Đảng, và Nhà nước quản lí quá nhiều các mặt của đ ời sống xã hội,
thực hiện quá cứng nhắc khiến cho toàn xã hội thiếu sức sống, thiếu năng động sáng
tạo. Các giám đốc thời kì này chỉ đến ngồi chơi xơi nước và cuối tháng lĩnh lương,
những người nông dân và công nhân làm đúng giờ quy định nhưng hiệu quả không
cao… Ở đây chúng ta đã xem nhẹ thực tế phức tạp khách quan của thời kì quá độ,
chưa nhận thức được đầy đủ rằng thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là quá trình lịch
sử lâu dài và phải trải qua nhiều chặng đường. Từ đây, chúng ta phải tập trung xây
dựng cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội và vật chất, cơ sở vật chất phát triển. Chúng
ta phải xây dựng lực lượng sản xuất phù hợp với quan hệ sản xuất. Chúng ta có thể
bỏ qua tư bản chủ nghĩa nhưng không thể bỏ qua những tính quy luật chung của quá
trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn. Chúng ta phải biết kế thừa và phát triển tích
cực những kết quả của công nghiệp tư bản như thành tựu khoa học, kĩ thuật và công
nghệ - môi trường, là cơ chế thị trường với nhiều hình thức cụ thể tác động vào quá
trình phát triển kinh tế. Để vực nền kinh tế lạc hậu của nước nhà, Đảng xác định là
phải phát triển nền kinh tế nhiều thành phần để tăng sức sống và năng động cho nền
kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Phát triển các quan hệ hàng hóa tiền tệ và tự do
buôn bán, các thành phần kinh tế tự do kinh doanh và phát triển theo khuôn khổ của
pháp luật, được bình đẳng trước pháp luật. Mục tiêu là làm cho thành phần kinh tế
quốc doanh và tập thể đóng vai trò chủ đạo. Song song với quá trình phát triển nền
kinh tế hàng hóa 14 nhiều thành phần thì chúng ta cũng cần phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hiện nay, nền kinh tế thị trường ở nước ta còn
đang ở trình độ kém phát triển. Biểu hiện ở số lượng hàng và chủng loại hàng hóa
quá nghèo nàn, khối lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường và kim ngạch xuất
nhập khẩu còn quá nhỏ, chi phí sản xuất lại quá cao dẫn đến giá hành cao, nhưng
chất lượng mặt hàng kém. Nhiều loại thị trường quan trọ ng còn ở trình độ sơ khai
hoặc mới đang trong quá trình hình thành như: thị trường vốn, thị trường chứng
khoán, thị trường sức lao động… Chúng ta cần mở rộng và giao lưu kinh tế với nước
ngoài, nhanh chóng hội nhập vào nền kinh tế thế giới đồng thời phải xây dựng nền
kinh tế độc lập, tự chủ.

Muốn vậy, phải đa phương hóa và đa dạng hóa hình thức và đối tác, phải quán triệt
trên nguyên tắc đôi bên cùng có lợi, không phân biệt chế độ chính trị xã hội, phải
triệt để khai thác lợi thế so sánh của đất nước trong quan hệ kinh tế quốc dân nhằm
khai thác tiềm năng lao động, tài nguyên thiên nhiên đất nước, tăng xuất nhập khẩu,
thu hút vốn đầu tư kĩ thuật, công nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lí. Thu hút vốn
đầu tư nước ngoài và phát triển cơ sở hạ tầng cũng là một trong những chủ trương
quan trọng mà Đảng đề ra. Để làm điều này thì chúng ta cần giữ vững ổn định chính
trị, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đổi mới các chính sách tài chính và tiền tệ, giá cả,
phát triển các thị trường quan trọng như thị trường chứng khoán, thị trường lao
động… Nhà nước cũng cần hạn chế việc can thiệp trực tiếp vào sản xuất kinh doanh
của các doanh nghiệp mà nên tập trung tốt chức năng tạo môi trường, hướng dẫn, hỗ
trợ cần thiết cho các doanh nghiệp nước ngoài. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật đồng bộ nhưng thông thoáng lành mạnh để tạo sự tin tưởng cho các nhà
đầu tư của nước ngoài. Tránh tình trạng giấy tờ phức tạp rắc rối, trên bảo dưới không
nghe làm cho quá trình giải tỏa mặt bằ ng gặp nhiều khó khăn. Với chủ trương trên ta
nhận thấy vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức, đó cũng là bài học quan
trọng của Đảng là: “Mọi đường lối chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế,
tôn trọng quy luật khách quan.” Xây dựng XHCN cũng cần phải hiểu sâu sắc vai trò
của ý thức tác động trở lại vật chất. Một trong những chủ trương quan trọng là phải
lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho hành
động. Tư tưởng Hồ Chí Minh nằm trong hệ tư tưởng Mác – Lênin và thực tiễn của
đất nước Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã bảo vệ và quán triệt chủ nghĩa Mác –
Lênin đúng đắn và hiệu quả nhất. Như vậy muốn hiểu sâu sắc và vận dụng tư tưởng
Hồ Chí Minh phải nắm vững chủ nghĩa Mác – Lênin, nhất là phép biện chứng duy
vật và phải nghiên cứu, nắm vững thực tiễn. Chúng ta phải tập trung suy nghĩ về hai
mặt: Một là, về mục tiêu, lý tưởng và đạo đức lối sống. Đây là yếu tố cơ bản nhất chi
phối mọi suy nghĩ, hành động của chúng ta quyết định phẩm chất của người cán bộ,
đảng viên trong điề u kiện chuyển biến của thế giới và tình hình trong nước. Tư
tưởng của Bác khẳng định mỗi người chúng ta hãy nâng cao đạo đức cách mạng, đạo
đức công dân và đạo đức của người cộng sản. Cụ thể, chúng ta phải “cần kiệm liêm
chính, chí công vô tư”, luôn vì sự nghiệp dân giàu nước mạnh, vì lợi ích của cá nhân
và cả lợi ích của cộng đồng. Kiên quyết và nghiêm khắc chống chủ nghĩa thực dụng
với các biểu hiện tính đa dạng trong nền kinh tế mở cửa, thực sự góp phần đẩy lùi
nạn tham nhũng và tệ nạn xã hội, ngăn chặn sự thoái hóa biến chất trong một số cán
bộ, đảng viên. Hai là, về yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, mỗi
người trên cương vị trách nhiệm của mình, phải hoàn thành nhiệm vụ với hiệu quả,
chất lượng cao. Vì vậy, chúng ta phải đề cao ý chí phấn đấu không mệt mỏi, không
sợ hy sinh, gian khổ, đồng thời phải ra sức trau dồi tri thức. Cần nâng cao tri thức
khoa học xã hội và nhân văn, đặc biệt là nâng cao trình độ lý luận về chủ nghĩa Mác
– Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nâng cao tri thức về khoa học tự nhiên, đặc biệt là
mũi nhọn về khoa học công nghệ hiện đại. Phải nắm vững phương pháp nhận thức và
hành động của Bác, bám sát thực tiễn, bám sát cơ sở, thâm nhập vào dân chúng, đánh
giá đúng khó khăn, thuận lợi, thực trạng và triển vọng. Thực sự dựa vào dân, thực
hiện dân chủ lắng nghe và tâm trạng ý kiến của dân mà tìm ra phương sách, biệ n
pháp, nguồn vốn sức mạnh vật chất và tinh thần, trí tuệ để vượt khó khăn và thách
thức. Phấn đấu tốt hai mặt trên là chúng ta đã thực hiện sự quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh và làm theo di chúc của Người, đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng mà Người đã
chỉ đường để xây dựng một đất nước Việt Nam hòa bình thống nhất, độc lập, dân
chủ và giàu mạnh. Vai trò ý thức tác động trở lại vật chất cũng phải được thể hiện rõ
ở khía cạnh phát huy tính năng độ ng và tích cực của vai trò con người, một số giải
pháp cho vấn đề này:

Một là, đổi mới hệ thố ng chính trị dân chủ hóa đời sống xã hội nhằm phát huy đầy
đủ tính tích cực và quyền làm chủ của nhân dân.

Hai là, đổi mới cơ chế quản lý, hoàn thiện hệ thố ng chính sách xã hội phù hợp có ý
nghĩa then chốt trong việc phát huy tính tích cực của người lao động như: cơ chế quả
n lý mới phải thể hiện rõ bản chất của một cơ chế dân chủ, và cơ chế này phải lấy
con người làm trung tâm, vì con người, hướng tới con người là phát huy mọi nguồn
lực. Cơ chế quản lý mới phải xây dựng đội ngũ quản lý có năng lực và phẩm chất
thành thạo về nghiệp vụ.

Ba là, đảm bảo lợi ích của người lao động là động lực mạnh mẽ của quá trình nâng
cao tính tích cực của con người: cần quan tâm đúng mức đến lợi ích vật chất, lợi ích
kinh tế của người lao động, đảm bảo nhu cầu cấp thiết của họ như ăn, mặc, ở, đi lại,
học hành, khám chữa bệnh, nghỉ ngơi. Cũng cần có những chính sách đảm bảo và
kích thích phát triển về mặt tinh thần, thể chất cho nhân dân, tăng cường xây dựng hệ
thống cơ chế chính sách phù hợp để giải quyết tốt vấ n đề lợi ích tập thể và lợi ích xã
hội nhằm đảm bảo lợi ích trước mắt cũng như lâu dài của người lao động. Đảng và
Nhà nước cũng cần khắc phục thái độ trông chờ và ỷ lại vào hoàn cả nh bằng cách
nhanh chóng cổ phần hóa các công ty nhà nước để tạo sự năng động, sáng tạo trong
hoạt động cũng như cạnh tranh, nhất là trong thời kì hội nhập hiện nay. Đảng cũng
phải cương quyết giải thể các công ty làm ăn thua lỗ như: Tổng công ty sành sứ Việt
Nam, Tổng công ty nhựa, Tổng công ty rau quả Việt Nam… để tránh việc nhà nước
bỏ vốn vào nhưng lại luôn phải bù lỗ cho các công ty này. Ngoài ra chúng ta cũng
cần nâng cao trình độ nhận thức tri thức khoa học cho nhân dân nói chung và đặc
biệt đầu tư cho ngành giáo dục. Chúng ta cần xây dựng chiến lược giáo dục, đào tạo,
với những giải pháp mạnh mẽ phù hợp để mở rộng quy mô chất lượng ngành đào
tạo, đối với nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo, cải tiến nội dung chương
trình giáo dục, đào tạo phù hợp với từng ngành nghề. Kết hợp giữa việc nâng cao
dân trí, phổ cập giáo dục với việc bồ i dưỡng và nâng cao trình độ chuyên môn,
nghiệp vụ của người lao động để đáp ứng nhu cầu cao của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa. Thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các giải pháp trên sẽ kích thích
tính năng động và tài năng sáng tạo của người lao động nước ta. Sự nghiệp đất nước
càng phát triển thì tính tích cực và năng động của con người càng tăng lên một cách
càng hợp với quy luật.
-> KẾT LUẬN

Nói tóm lại, vật chất bao giờ cũng đóng vai trò quyết định đối với ý thức, nó là cái có
trước ý thức, nhưng ý thức có tính năng động và tác động trở lại vật chất. Mối tác
động qua lại này chỉ được thực hiện thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất chính là ở chỗ nâng cao năng lực
nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng các quy luật khách quan trong hoạt
động thực tiễn của con người. Trong thời kì đổi mới của đất nước ta khi chuyển nền
kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lí của
nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng cộng sản Việt Nam luôn luôn xuất
phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Với
chủ trương này chúng ta đã giành được một số thắng lợi to lớn, tuy nhiên vẫn còn
một số thiếu sót, đặc biệt ở khâu hành động. Đề ra chủ trương là vấn đề quan trọng
nhưng thực hiện nó mới là vấn đề thực sự khó khăn

II. Hai nguyên lý của phép biện chứng duy vật (Trang 90-97)

1. Lý luận
a.Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Quan điểm siêu hình về mối liên hệ
Quan điểm biện chứng về mối liên hệ
 Khái niệm mối liên hệ
 Tính chất mối liên hệ
 Ý nghĩa phương pháp luận
 Quan điểm toàn diện yêu cầu
 Quan điểm lịch sử cụ thể yêu cầu

b.Nguyên lý về sự phát triển

Quan điểm siêu hình về sự phát triển


Quan điểm biện chứng về sự phát triển
 Khái niệm phát triển
 Ý nghĩa phương pháp luận
 Quan điểm phát triển yêu cầu
2. Vận dụng
- Đó là cơ sở để mỗi cá nhân pt cũng như là định hướng để họ có cái nhìn đúng
đắn, toàn diện hơn đối với các sự vật, hiện tượng, làm nền tảng xd nên tính cách
và nhân phẩm tốt đẹp. Hai nguyên lý trên cũng hỗ trợ các cá nhân trong việc học
hành và làm việc, giúp việc học và làm trở nên có logic, có trí hướng và có thành
quả, thoát ly khỏi ý nghĩ làm và học “cho có”, thụ động. Mặt khác, thông qua việc
hiểu hơn về nguyên lý phát triển, con người dễ dàng tiến vào thời kì pt, đặc biệt là
thời kì pt công nghệ 4.0 hiện nay, không chỉ thích nghi với những công nghệ mới
mà còn có thể sáng tạo ra nhiều ý tưởng độc đáo, mới lạ, giúp cho cuộc sống trở
nên dễ dàng và thuận tiện hơn.

- Hợp tác trong làm việc nhóm: Cùng với sự phổ biến của hình thức làm việc theo
nhóm là sự áp dụng ngày càng rõ rệt của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến vào
đời sống. Trong quá trình làm việc nhóm, mỗi cá nhân không thể làm việc hoàn
toàn độc lập trên ndung đc phân chia sẵn mà cần có sự liên hệ, liên kết và hỗ trợ
lẫn nhau. Bởi mỗi ndung thuộc một sản phẩm hoàn chỉnh đều có liên hệ với nhau,
phần này làm tiền đề cho phần kia, phần kia lại bổ sung cho phần này. Mỗi cá
nhân với phần công việc của mình giống như một mảnh ghép tạo thành một bức
tranh hoàn thiện vừa khít. Nếu các thành viên hoạt động rời rạc, cô lập sẽ dễ dàng
tạo nên sự rời rạc tương ứng trong sản phẩm, thậm chí mang tới sự thất bại. Các
cá nhân, đặc biệt trong một tập thể, hội, nhóm, không thể hoạt động riêng lẻ, độc
lập, mà cần sự tương tác gắn kết, liên hệ giữa từng thành viên với nhau. Đó là yếu
tố tiên quyết để tạo nên một nhóm thành công, và là ý nghĩa cốt lõi của việc làm
việc theo nhóm.

- Đón nhận sự đổi mới với một thái độ “mở”, sáng tạo trên những yếu tố còn thích
hợp của cái cũ:

- Đánh giá một cá nhân qua một quá trình: Trong cs hàng ngày, khi diễn ra quá
trình tiếp xúc và gặp gỡ giữa các cá nhân thường xuất hiện một hành động gọi là
đánh giá cá nhân. Tức là thông qua ngoại hình và cách hành xử, cũng như một vài
yếu tố tác động bên ngoài như câu chuyện từ người thứ ba, hay lời đồn,.. mỗi
người sẽ tự xây dựng cho mình những đánh giá riêng về các cá nhân mình gặp
mặt. Thông thường, ấn tượng ban đầu sẽ ảnh hưởng rất lớn đến thái độ lâu dài.
Tuy nhiên, theo quan điểm của phép biện chứng duy vật: “Các sự vật, hiện tượng
được xem xét phải được đặt trong khuynh hướng tiến lên”. Tức là mỗi cá nhân
cần được đánh giá xuyên suốt một quá trình tiếp xúc qua việc chọn lọc và cân
nhắc các yếu tố chủ quan và khách quan. Đôi khi ấn tượng ban đầu hoặc các lời
đồn, lời kể không chính xác, hoặc cá nhân có sự phát triển đi lên theo tgian sẽ trở
nên tốt hơn hoặc xấu đi. Đặc biệt cần xem xét kĩ càng các tác động từ bên thứ ba
bởi những câu chg đó có thể đã được “tam sao thất bản” qua nhiều lần kể, hoặc bị
ảnh hưởng bởi ý kiến cá nhân chủ quan. Việc đánh giá nhìn nhận một con người
không nên chỉ dừng lại ở một khoảnh khắc, ở những ấn tượng đầu tiên, mà cần
diễn ra xuyên suốt một quá trình phát triển của cá nhân đó.

I. *Quan điểm toàn diện:

Nguyên tắc toàn diện trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn là một
trong những nguyên tắc phương pháp luận cơ bản, quan trọng của phép biện
chứng duy vật. Cơ sở lý luận của nguyên tắc toàn diện là nguyên lý về mối liên hệ
phổ biến. Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi, muốn nhận thức được bản chất của sự vật,
hiện tượng chúng ta phải xem xét sự tồn tại của nó trong mối liên hệ qua lại giữa
các bộ phận, yếu tố, thuộc tính khác nhau trong tính chỉnh thể của sự vật, hiện
tượng đó với sự vật, hiện tượng khác, tránh cách xem xét phiến diện, một chiều.
Nguyên tắc toàn diện đòi hỏi phải xem xét, đánh giá từng mặt, từng mối liên hệ,
và phải nắm được đâu là mối liên hệ chủ yếu, bản chất quy định sự vận động, phát
triển của sự vật, hiện tượng đồng thời tránh chủ nghĩa chiết trung, kết hợp vô
nguyên tắc các mối liên hệ; tránh sai lầm của thuật ngụy biện, coi cái cơ bản
thành cái không cơ bản, không bản chất thành bản chất hoặc ngược lại, dẫn đến sự
nhận thức sai lệch, xuyên tạc bản chất sự vật, hiện tượng.

Thế hệ người trẻ, đặc biệt là sinh viên hiện nay đã và đang nhận ra được nhiều
hạn chế trong các hoạt động về nhận thức, lối sống đặc biệt là đời sống sinh viên
của mình. Nguyên nhân là chưa biết vận dụng, hoặc vận dụng một cách giáo điều
máy móc học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về các quan điểm của
chủ nghĩa duy vật biện chứng . Vậy nên để vận dụng tốt quan điểm toàn diện, mỗi
sv cần thay đổi chính cách nhìn nhận về bản thân mình. Thay đổi đầu tiên diễn ra
từ trong nhận thức, mỗi sinh viên nên có ý thức về nguyên tắc “phân tích cụ thể
trong một tình hình cụ thể”. Nhấn mạnh hơn sự cần thiết phải nắm vững các
nguyên tắc và phương pháp luận biện chứng duy vật vào phân tích, đánh giá thực
tiễn, phải thấm nhuần các nguyên tắc, quan điểm trong nghiên cứu về sự tồn tại và
phát triển của mỗi cá nhân.

Vận dụng nguyên tắc toàn diện và nguyên tắc lịch sử cụ thể của trong phép
biện chứng duy vật sẽ giúp sinh viên có tư duy và những phương pháp đúng đắn
trong suốt quá trình học tập và công tác ở môi trường đại học, những yêu cầu cơ
bản đối với quan điểm toàn diện trong học thuyết đòi hỏi cái nhìn bao quát,
nghiên cứu tất cả các mặt song cần phải xem xét có trọng tâm, trọng điểm. Cùng
với đó phải biết so sánh, đối chiếu mối tương quan giữa các sự vật, hiện tượng
chứ không được quan sát một cách siêu hình, phiến diện. Tránh tư duy chiết trung
và thuật ngụy biện, coi mọi thứ là như nhau, lập luận vô lý, cố chấp. Tương tự,
sinh viên cần lĩnh hội những tinh túy, bản chất cốt lõi trong quan điểm toàn diện
để áp dụng vào thực tiễn đời sống.

Mỗi cá nhân cần có cái nhìn tổng thể về bức tranh bao gồm môi trường giáo dục
và môi trường sinh hoạt thường ngày, từ đó đi sâu vào từng chi tiết, bóc tách từng
hiện tượng, sự vật hiện tượng cụ thể như ngôi trường, nhà ở, bạn bè, thầy cô
giáo...vv.. Từ đó mới có sự đối chiếu cụ thể, so sánh xem những sự vật, hiện
tượng nào có thể song hành, hỗ trợ lẫn nhau hay trái lại cần riêng biệt, tách rời,
độc lập.

vd: quan hệ toàn diện với bạn bè: sống hoà nhập với mọi người (quê quán, ngành
học, khoa học, trường…)

Quan điểm toàn diện còn yêu cầu cái nhìn bao quát đối với từng sự vật, hiện
tượng cụ thể, tránh cách xem xét siêu hình, phiến diện (vd: mỗi một môn học đều
có những giá trị riêng, người học cần tìm hiểu về nhiều khía cạnh về lợi ích mà
môn học mang lại, tránh việc đánh giá chủ quan dẫn đến sự bỏ bê và tạo ra lỗ
hổng kiến thức).

Cùng với đó, chủ nghĩa chiết trung về các mối liên hệ cũng phải bị bài trừ, không
xem xét cào bằng, dàn trải và coi tất cả là như nhau (vd: ở môi trường đại học,
người bạn mới làm quen trong lớp ngày hôm nay có thể ngày mai đã không ngồi
cùng lớp nữa, có những mối quan hệ sẽ chỉ là thoáng qua, bản thân cần cân nhắc,
xem xét kỹ lưỡng đâu là người bạn xã giao, đâu là người bạn thân thiết, không thể
có tư duy đánh đồng, xem mọi thứ ngang bằng, như nhau).
Cuối cùng là chống lại thuật ngụy biện, quy những cái thứ yếu thành cái chủ yếu,
quy cái không cơ bản thành cái cơ bản bằng lý lẽ lập luận tưởng rằng có lý nhưng
thực chất vô lý (vd: sinh viên thu thập điểm rèn luyện bằng những hoạt động
ngoại khóa đa dạng, từ đó có nhiều bạn tập trung quá nhiều những cái không
trọng tâm mà sao lãng các nghiên cứu chuyên ngành. Vậy nên cần chọn lọc và
phân bổ hợp lý thời gian giữa cái thứ yếu và cái chủ yếu để đạt được kết quả trọn
vẹn)

*Quan điểm lịch sử cụ thể:

1. Khái niệm

- Quan điểm lịch sử cụ thể là quan điểm mà khi nghiên cứu và xem xét hiện
tượng, sự vật hay sự việc chúng ta phải quan tâm đến tất cả các yếu tố từ khách
quan đến chủ quan có liên quan đến sự vật

- .Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình


thành quan điểm lịch sử cụ thể.

- Mọi sự vật hiện tượng của thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong
những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau. Điều kiện không gian
và thời gian này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến tính chất, đặc điểm của sự vật đó.

- Cùng một sự vật nhưng nếu xem xét về tồn tại trong những điều kiện khác nhau
thì sẽ đem lại tính chất, đặc điểm khác nhau, thậm chí có thể làm thay đổi hoàn
toàn bản chất ban đầu của sự vật.
2. Trong đời sống học tập của sinh viên đã và đang vận dụng quan điểm lịch sử cụ
thể

a) Xem xét trong điều kiện lịch sử cụ thể

- Cần phải biết xem xét điều kiện học tập cũng như các vấn đề khác trong xã
hội. VD: khi làm việc từ thiện trong trường học, và rộng hơn là ngoài xã hội, ta
nên đóng góp theo điều kiện của bản thân, nếu hoàn cảnh không được khá giả thì
có thể đóng góp bằng sách vở, bút…, chứ ko nhất thiết là tiền

(ai có ít thì đóng góp ít, ai có nhiều thì đóng góp nhiều, ai không có thì không cần
đóng góp cũng được)

- Cố gắng trong học tập. VD: Bạn có thể là một học sinh giỏi, thậm chí đứng
nhất lớp đại trà , nhưng khi vào lớp chuyên, trường chuyên có thể sẽ ko còn đứng
nhất nữa => Kết quả ntn dựa vào sự cố gắng phấn đấu

b) Xem xét trong điều kiện thời gian, không gian nhất định, cụ thể là khi môi
trường học tập

- Môi trường học đại học hoàn toàn khác với môi trường học tập tại THPT
về điều kiện học tập cũng như khối lượng bài giảng dạy: ở đại học là một môi
trường học tập rộng lớn hơn cùng khối lượng kiến thức đồ sộ và đòi hỏi sinh viên
phải nắm vững kỹ năng để bước vào đời, vào sự nghiệp sau này

- Điều kiện, cơ sở vật chất ở bậc đại học khác hoàn toàn so với bậc trung học:
vd (ở bậc đại học tốt hơn rất nhiều so với bậc thpt) : ở đại học có phòng thí
nghiệm, không chỉ có thư viện trong trường mà còn có thư viện ở ngoài trường (ví
dụ thư viện quốc gia : có thể phải dành cả thời gian cuộc đời chưa chắc đã đọc hết
sách ở thư viện)

- Cách giảng dạy và phương pháp học tập ở đại học ko giống phổ thông:

vd:

+Các môn ở bậc THPT phải học rất nhiều môn học thuộc xã hội nhân văn thường
thì sẽ học thuộc lòng

+Nhưng khi lên đại học không thể áp dụng một cách thuộc lòng máy móc như vậy
mà còn đòi hỏi phải áp dụng vào thực tiễn cuộc sống
=>Biết xem xét hoàn cảnh, chúng ta không thể mang phương pháp, cách thức học
ở bậc phổ thông như việc học thuộc lòng lên trên đại học. Chúng ta đã là sinh
viên, ko còn là học sinh, mục đích hướng tới của việc học đại học là khác

Vậy nên, chúng ta cần biết lựa chọn phương pháp, cách học tập sao cho phù hợp,
linh hoạt và đặc biệt biết cách phát triển năng lực bản thân cho phù hợp với môi
trường học tập tại đại học, thay đổi suy nghĩ học thuộc lòng, học suông để có thể
vững bước, có thể thành công sau này.

c) Xem xét trong từng mối quan hệ nhất định

Trong khi làm việc nhóm, cả nhóm đã được phân công hết nhiệm vụ cho từng
người nhưng có thể vì không cùng chung ý kiến, có một số bạn không muốn hợp
tác chung nên có thể xảy ra nhiều mâu thuẫn khác nhau

-> Vì thế cả nhóm cần cố gắng giải quyết mâu thuẫn với nhau, xem xét lại các vấn
đề xảy ra mâu thuẫn thì mới khi làm việc nhóm mọi người mới có sự cộng tác với
nhau.
I. *Quan điểm phát triển:

– Khái niệm phát triển

Phát triển là phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động của sự vật theo
khuynh hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện
đến hoàn thiện hơn.

Sự phát triển có tính khách quan, phổ biến và đa dạng phong phú. Các tính chất
đó của sự phát triển phản ánh tính chất của các SV, HT trong thế giới vật chất.

+ Tính khách quan của sự phát triển

+ Tính phổ biến của sự phát triển

+ Tính đa dạng, phong phú của phát triển

– Ý nghĩa phương pháp luận

+ Khi xem xét SV, HT ta phải đặt nó trong sự vận động và phát triển.

Phải nắm được sự vật đang hiện hữu trước mắt và khuynh hướng phát triển trong
tương lai, khả năng chuyển hóa của nó. Bằng tư duy khoa học, cá nhân phải làm
sáng tỏ được xu hướng chủ đạo của tất cả những biến đổi khác nhau đó.

+ Không dao động trước những quanh co, phức tạp của sự phát triển trong
thực tiễn.

Sự phát triển đòi hỏi phải có sự nhìn nhận, đánh giá khách quan đối với mỗi bước
của sự vật, hiện tượng.

+ Phải chủ động tìm ra phương pháp thúc đẩy sự phát triển của SV, HT
Cá nhân phải tích cực, chủ động nghiên cứu, tìm ra những mâu thuẫn trong mỗi
SV, HT để từ đó xác định biện pháp phù hợp để giải quyết mâu thuẫn, thúc đẩy
SV, HT phát triển.

Trong sự phát triển có sự kế thừa nên phải chủ động phát hiện, cổ vũ cái mới phù
hợp và tìm cách thúc đẩy để cái mới đó chiếm vai trò chủ đạo.

+ Phải tích cực học hỏi, tích lũy kiến thức khoa học và kiến thức thực tiễn.

Sự phát triển được thực hiện bằng con đường tích lũy về lượng để tạo ra sự thay
đổi về chất, do đó cần phải luôn nỗ lực, chăm chỉ lao động để làm cho SV, HT
tích lũy đủ về lượng rồi dẫn đến sự thay đổi về chất.

– Vận dụng quan điểm phát triển vào trong cuộc sống và học tập của sinh viên.

“Khám phá ra điều gì đúng và thực hành điều gì tốt, đó là hai mục tiêu quan
trọng nhất của triết học.”(Voltaire). Với sứ mệnh khám phá, nghiên cứu về các
vấn đề xoay quanh con người, triết học đã và đang giúp con người có được nhận
thức đúng đắn về thế giới quan. Vận dụng kết quả của triết học trong giai đoạn
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 trong thế kỉ XXI, việc nắm chắc cơ sở lý luận
của quan điểm phát triển là việc vô cùng quan trọng đối với học sinh, sinh viên để
phát triển và hoàn thiện bản thân mình, để từ đó có thể vận dụng một cách tối ưu,
sáng tạo và hợp lý vào thực tế bản thân sinh viên.

Sinh viên phải nhìn tương lai như một chuỗi các sự kiện, phải biết phân chia
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng thành từng giai đoạn, từ đó phải học
cách vượt qua các giai đoạn khó khăn và có cách tác động phù hợp thúc đẩy sự
vật đó phát triển trong hiện tại và tương lai.(cần vạch ra cái tương lai trong cái
hiện tại- kỹ năng lập kế hoạch)

Khuynh hướng chung là phát triển đi lên, tức phải thấy được tính quanh co,
phức tạp của sự vật, hiện tượng trong quá trình phát triển của nó. Có lúc sinh viên
sẽ cảm thấy quá trình học tập không có chút tiến triển, dậm chân tại chỗ thì chúng
ta tránh bi quan, tránh những suy nghĩ tiêu cực. Mỗi sinh viên có sự phát triển về
trí tuệ và thể chất khác nhau, sẽ có các phương pháp học tập rèn luyện khác nhau
để nâng cao trí tuệ, cảm xúc. Mỗi người có một thước đo cuộc sống khác nhau
không thể từ đó mà áp vào bản thân mình rồi cảm thấy tự ti, áp lực cùng trang lứa.
Quá trình rèn luyện và học tập là quá trình tích lũy kiến thức lâu dài. Sinh viên
không nên chỉ dựa vào điểm số tức thời mà đưa ra kết luận quy chụp, cần xem xét
cả quá trình phấn đấu, nỗ lực. Chẳng hạn, sinh viên có thành tích không tốt trong
một bài kiểm tra đánh giá, nhưng trong quá trình học tập rèn luyện đã nỗ lực hết
mình, cải thiện bản thân không chỉ vì điều đó mà có thái độ tiêu cực, đánh giá
thấp bản thân để rồi từ bỏ. Quá trình ấy cần được tiến hành từng bước từng bước,
cần có thời gian để hoàn thiện bản thân, vì thế cần xem xét kĩ lưỡng rồi mới đưa
ra đánh giá cho bản thân mình. Chắc hẳn ai cũng biết tới nhà bác học nổi tiếng
Thomas Edison nhưng không mấy ai biết rằng ông đã từng bị sa thải khỏi hai
công việc đầu tiên vì bị cho rằng “thiếu năng lực”. Song, với nỗ lực của mình hơn
100.000 lần, Thomas đã trở thành một nhà phát minh vĩ đại nhất mọi thời đại khi
sáng chế ra bóng đèn cho nhân loại. Có thể thấy rằng quá trình phát minh ấy
quanh co, phức tạp nhưng sau mỗi lần thất bại thì ông đã có những kinh nghiệm
mới để áp dụng cho cho những lần sau, ông đã không để cảm giác tiêu cực lấn át
mình mà vẫn tiếp tục phát minh.

Từ đó, sinh viên nhận diện và chống lại bệnh tả khuynh, duy ý chí. Thực chất của
duy ý chí là tư duy hoặc hành động theo ý chủ quan của mình, không xét đến hoặc
không tuân theo những quy luật khách quan chi phối hiện tượng, sự vật của tự
nhiên và xã hội. Lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, đốt cháy giai
đoạn, bắt thực tiễn chạy theo ý chí chủ quan của con người; khi gặp thất bại thì
không mạnh dạn nhìn thẳng sự thật để kiểm điểm, đánh giá, rút ra bài học mà
thường tìm cách đổ lỗi cho hoàn cảnh khách quan..., là những biểu hiện phổ biến
của căn bệnh này.

Sinh viên không nên chủ quan cả trong học tập và cuộc sống. Đồng thời, cần phê
phán quan điểm bảo thủ, trì trệ, định kiến trong nhận thức và hành động. Bệnh
bảo thủ là trì trệ là tình trạng ỷ lại, chậm đổi mới, ngại thay đổi, dựa dẫm vào
người khác thậm chí cản trở cái mới. Để ngăn chặn sinh viên cần rèn luyện ý thức
tự chủ, độc lập ham học hỏi tiếp thu các tư tưởng, văn hóa, khoa học công nghệ
tiến bộ một cách chọn lọc phù hợp với văn hóa của dân tộc. Chúng ta cần bỏ đi
những phương pháp cũ, những tư duy lạc hậu. Không phải lúc nào thì lựa chọn và
việc chúng ta làm luôn luôn đúng. Sinh viên cần lắng nghe các ý kiến phải hồi từ
bạn bè, thầy cô, ... Không bác bỏ, cần tôn trọng ý kiến, không áp đặt suy nghĩ của
bản thân lên người khác. Việc cứ khăng khăng giữ cách học truyền thống xuyên
suốt các tiết học như thầy giảng đến đâu chép đến đó thì sẽ không mang lại kiến
thức hay giá trị cho bản thân. Cần đổi mới phương pháp để có thể tiếp thu được
nhiều nhất lượng kiến thức của bài học và đúc kết cho mình những kiến thức cô
đọng sau mỗi buổi học. Giáo dục mỗi ngày không ngừng thay đổi và đổi mới các
nguồn từ liệu cho nên sinh viên cần không ngừng học tập, tra cứu tài liệu, cập
nhập những kiến thức. Khi học một kiến thức mới thì sinh viên cần dựa trên
những kiến thức cũ mà mình đã tích lũy được. Từ đó việc tiếp thu kiến thức mới
đối với sinh viên dễ dàng hơn, tạo động lực trong việc học tập.

Ngoài ra, các cá nhân trong học tập cần phải thấy rõ khuynh hướng phát triển
trong tương lai của sự vật, không chỉ nắm bắt cái hiện đang tồn tại, phải thấy được
những biến đổi đi lên cũng như những biến đổi có tính chất thụt lùi. Chúng ta cần
nắm rõ chương trình học, những điều cần thiết khi theo ngành học đó và cũng
phải thấy rõ khuynh hướng phát triển của chuyên ngành theo học trong tương lai,
tìm hiểu về các yêu cầu của xã hội đối với chuyên ngành đang học tập, nghiên
cứu. Xã hội hiện tại và tương lai đòi hỏi những gì, qua đó hoàn thiện bản thân,
nâng cao tri thức cho phù hợp với nhu cầu của xã hội. Trong quá trình phát triển
của mỗi cá nhân có thể định hướng cho bản thân mình vận dụng tính kế thừa của
nguyên lý về sự phát triển trong cuộc sống, học tập của sinh viên. Hoặc bản thân
sinh viên cần kế thừa như thế nào về truyền thống văn hóa dân tộc? Ngày nay
chúng ta là công dân toàn cầu, việc học thêm các ngoại ngữ, áp dụng các phần
mềm, máy móc của nước ngoài trong học tập là điều cần thiết. Cần đặt ngành
nghề đó trong sự phát triển đi lên của toàn xã hội để từ đó cần kịp thời bổ sung
những khía cạnh, những yếu tố còn thiếu cho bản thân mình. Ví dụ như ba năm
trở về đây, tình hình hình covid có diễn biến phức tạp, chúng ta cần biết áp dụng
các phần mềm học tập online giúp cho việc học không bị trì trệ. Những trang web
làm việc online trao đổi với các doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng sẽ giúp
cho sinh viên được làm việc và có kinh nghiệm thực tế dù tình hình covid còn
phức tạp. Cuộc sống luôn luôn thay đổi chúng ta không thể chỉ sống cho hiện tại
cần phải liên tục cập nhật những “khuynh hướng” phát triển của đời sống.

Trong quá trình học tập cần phải phân biệt các mối liên hệ, từ đó hiểu rõ về bản
chất của sự vật và có phương pháp tác động đúng đắn kịp thời nhằm đem lại hiệu
quả cao nhất trong sự phát triển của bản thân. Quan tâm đến những khả năng tiềm
ẩn như năng khiếu, sở thích, sự tiến bộ tích cực, ... để vạch ra xu hướng phát triển
khuyến khích bản thân phát triển năng lực, năng khiếu đó. Chẳng hạn, mỗi sinh
viên có những thế mạnh ưu điểm của bản thân khác nhau. Có bạn có khả năng vẽ,
có khả năng ghi nhớ tốt, hay khả năng thuyết trình, làm powerpoint, ... thì cần tạo
điều kiện phát huy cũng như nâng cao khả năng đó

3. Quy luật lượng – chất (Trang 105)

VẬN DỤNG:
-Sau khi học sinh thực hiện bước nhảy bằng cách trải qua Kỳ thi Trung học phổ
thông Quốc gia, chất đã biến đổi và học sinh đó trở thành sinh viên, từ đó môi
trường học cũng thay đổi đáng kể. Kiến thức phải tiếp thu không còn là các kiến
thức phổ thông mà trở nên trừu tượng hơn, lượng kiến thức, độ khó cũng tăng vọt
trong khi thời gian học tập lại giảm. Hình thức giảng dạy cũng thay đổi, mỗi môn
học, không phải kéo dài trong 2 học kỳ mà rút gọn chỉ còn 1 đến 2 tại các lớp học
phần. Hình thức học tập cũng có nhiều đổi mới: thảo luận nhóm, thuyết trình, tiểu
luận, thực tập… Do đó sinh viên buộc phải thay đổi để thích nghi và học cách tiếp
thu kiến thức theo nhiều cách khác nhau.

- Có nhiều sinh viên khi đã vượt qua kỳ thi đầu vào của trường, tỏ ra hài lòng và
cho phép mình nghỉ xả hơi sau những ngày tháng học thi căng thẳng. Từ đó nảy
sinh các vấn đề trì trệ việc học, lười biếng, coi thường sự tích lũy các kiến thức
trong giai đoạn đầu. Về lâu dài, những sự thiếu hụt kiến thức rải rác dẫn đến sự
mất căn bản, sinh viên mất định hướng trong việc hệ thống kiến thức, dẫn đến rớt
môn và nợ môn. Nguyên nhân chính là do thái độ chểnh mảng trong việc tích lũy
về lượng và không có sự chuẩn bị khi bước nhảy đến gần.

- Bên cạnh đó, gian lận trong thi cử và căn bệnh thành tích là những tình huống tiêu cực
rất thường xuyên xảy ra. Cả hai trường hợp đều xuất phát từ sự thiếu coi trọng cả hai
mặt chất và lượng một cách toàn diện. Trong đó, gian lận là dung những chiêu trò,
mánh khóe nhằm thực hiện bước nhảy khi chưa có đủ lượng. Nếu gian lận trót lọt và
thực hiện bước nhảy "thành công", về bản chất thì chất vẫn giữ nguyên. Điều này dẫn
đến rất nhiều khó khăn ở các học phần liên quan sắp tới, chất mới không sinh ra để tác
động lại lượng mới, tức là các kiến thức mới không thể được tiếp thu bình thường được.
Nếu mối liên hệ tiêu cực này cứ tiếp diễn, sẽ dẫn đến nhiều hệ lụy như rớt môn, nợ
môn. Mặt khác, có thể dẫn đến tình trạng mua bằng cấp. Từ đó sinh ra một lớp người
không "lượng" mà cũng chẳng có "chất", gây tổn hại đến sự phát triển của xã hội. Kế
đến, bệnh thành tích là chạy theo thành tích một cách mù quáng, chỉ xem trọng hình
thức. Điều này có nghĩa là chỉ cần đến những thứ đại diện cho "lượng", che giấu sự
chưa biến đổi của chất. Thực tế, nhiều trường cấp ba nâng điểm số cho học sinh để
dùng cho việc xét học bạ vào đại học, gây sai lệch trong việc phân loại học sinh, nhiều
tân sinh viên bị đuối sức từ sớm; nhiều sinh viên tốt nghiệp với tấm bằng giỏi, xuất sắc
nhưng vẫn thất nghiệp. Liệu những con chữ ấy có đánh giá đúng mức thực lực của sinh
viên trong công việc? Ở một khía cạnh khác, nhiều sinh viên gặp vấn đề về việc học
vượt dẫn đến quá tải kiến thức. Một bên là sự nóng vội muốn hoàn thành sớm các học
phần phía sau, tức là thực hiện nhiều bước nhảy cùng nhau. Trong khi đó, khả năng tiếp
thu kiến thức (tức là lượng) có hạn, cần nhiều thời gian để thẩm thấu, dẫn đến thất bại.

- Đứng trước một thời kỳ phát triển mới của lượng và chất, bản thân sinh viên
(năm nhất) phải biết tự làm mới mình và học cách thích nghi với môi trường ở
Đại học. Bằng cách ứng dụng ý nghĩa phương pháp luận của quy luật lượng –
chất, dưới đây là một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng học tập ở Đại học
cho sinh viên.

- Một là, tích lũy các kiến thức cần thiết một cách cẩn thận và trọn vẹn với những
biện pháp cụ thể; tạo mọi điều kiện thuận lợi cho bước nhảy. Trước tiên, phải nói
đến việc học các kiến thức ở trường. Từ những năm đầu tiên của bậc học đại học,
các kiến thức đều bắt đầu có tình trừu tượng và khái quát, do đó để hiểu được
chúng cần có quyết tâm cao độ, đầu tư về thời gian. Quá trình tích lũy những kiến
thức này có sự khác nhau ở mỗi sinh viên tùy vào trình độ và khả năng khác nhau
và hầu hết là khó nhận ra được sự tiến bộ. Dù vậy, việc đầu tư thời gian và chất
đều ít nhiều làm cho mỗi người có phát triển về mặt nhận thức và tư duy về môn
học. Do đó, sự bền bỉ, nỗ lực trau dồi mới là yếu tố quyết định nên sự thành công
của một sinh viên. Không chỉ là học về kiến thức, học Đại học cũng cần rèn luyện
kỹ năng. Quan trọng nhất là kỹ năng thuyết trình và làm việc nhóm. Đối với
những sinh viên năng động, việc thực hiện các kỹ năng này là khá đơn giản. Họ
dễ dàng diễn thuyết một cách trôi chảy trước đám đông, bày tỏ quan điểm của
mình trong một nhóm. Ngược lại, những người hướng nội sẽ gặp đôi chút khó
khăn. Tuy nhiên, đều cần sự trau dồi, chuẩn bị hết sức kĩ lưỡng trước mỗi hoạt
động. Không phải chỉ hai, ba lần, phải lên đến hàng chục, hàng trăm lần mới có
thể thấy được sự tiến bộ. Khi chất biến đổi, chất mới sẽ tác động trở lại, sinh viên
sẽ bắt kịp nhịp độ năng động và việc tiếp thu lượng mới sẽ dễ dàng hơn. Những gì
học được ở Đại học sẽ tạo nên một hành trang vững chắc cho tương lai sau này.
Song, tất cả những điều trên chỉ dừng lại ở lý thuyết nếu không có biện pháp cụ
thể để tiếp thu. Cụ thể, là một sinh viên thì phải biết tiếp thu kiến thức theo nhiều
cách khác nhau. Ở trên lớp, tích cực phát biểu xây dựng bài. Trong các hoạt động
nhóm phải có tính chủ động đóng góp ý kiến, mạnh dạn nêu quan điểm. Sau giờ
học chính là lúc tinh thần tự giác cần được phát huy, sinh viên phải chủ động tìm
kiếm các nguồn kiến thức trên mạng, trao đổi với đàn anh, chị đi trước, … Kiến
thức là bao la, do đó sinh viên cần cẩn trọng trong việc lựa chọn những thứ cần
tiếp thu, phải là những "lượng tốt" thì mới có những biến đổi tốt về chất. Cần
tránh căn bệnh thành tích và gian lận, chạy theo những "lượng ảo" để rồi không
biến đổi tạo chất mới, đi ngược lại ý nghĩa phương pháp luận. Khi có được một
lượng dồi dào, sinh viên sẽ có tự tin và thực hiện những bước nhảy chất lượng và
tiến đến giai đoạn tiếp theo của lượng và chất.

- Hai là, cần tránh căn bệnh chủ quan, nóng vội thực hiện bước nhảy cũng như trì
trệ bước nhảy khi thời điểm đến. Điều này có nghĩa, sinh viên cần lên một lộ trình
hợp lý trên con đường tiếp thu tri thức. Đi từ dễ đến khó, học từ căn bản đến nâng
cao là điều mà ai cũng biết, nhưng không phải ai cũng áp dụng. Việc bỏ bước
trong tích lũy sẽ dẫn đến sự không hoàn thiện về độ. Mỗi sinh viên có khả năng
tiếp thu khác nhau, cần biết tự lượng sự mình để phân bố sự tích lũy về lượng cho
cân đối: bắt đầu từ những việc dễ, nếu thành công sẽ tiếp thêm động lực để thực
hiện những mục tiêu cao hơn. Để làm được bài tập khó đều phải đi qua những bài
tập dễ, để đạt điểm cao thì phải đạt điểm từng cao nhỏ rồi cộng lại. Trước khi thực
chiến đề thì phải nắm trọn các dạng, chuyên đề của đề thi ấy. Trước khi viết tiểu
luận, cũng phải đi từng bước từ việc làm trang bìa, viết mở đầu, rồi mới lập dàn ý
và triển khai nội dung. Mọi thứ đều đi từ bỡ ngỡ đến quen thuộc, điều quan trọng
là phải có sự tuần tự và kĩ lưỡng. Khi thời cơ đến cũng là lúc đủ về lượng, sinh
viên có thể thực hiện bước nhảy một cách tự nhiên mà không do dự, gượng ép.
Khi tự tin thực hiện bước nhảy cũng là chống lại bệnh bảo thủ, trì trệ. Trong học
tập, khi đã có đủ lý thuyết cần thiết, công cụ giải quyết bài tập thì cần bắt tay vào
suy nghĩ hướng giải quyết cho bài tập. Khi tốt nghiệp sinh viên phải hoàn thành
nhiều yêu cầu về các chứng chỉ. Đối với các yêu cầu về Tin học hay Ngoại Ngữ,
sinh viên nên tranh thủ học sớm và thi sớm từ những năm đầu tiên ở đại học,
tránh chần chừ và trì hoãn.

VII. QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT
TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT ( chưa hoàn thiện)

1.Lý luận( trang 182)

a. Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất

· Trình độ của LLSX biểu hiện ở những yếu tố cơ bản

b. Khái niệm và kết cấu của QHSX

QHSX biểu hiện...

QHSX là....

QHSX bao gồm:

· Về quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất

· Về quan hệ tổ chức, quản lý sản xuất

· Về quan hệ phân phối sản phẩm


Mối quan hệ biện chứng giữa LLSX và QHSX

Vai trò quyết định của LLSX đối với QHSX

Sự tác động trở lại của QHSX đối với LLSX

c. Sự vận dụng quy luật này ở Việt Nam

2.Vận dụng

a.Phương hướng tiếp tục phát triển đất nước dựa trên quy luật phù hợp mối quan
hệ sản xuất và lực lượng sản xuất

1. LLSX và QHSX trên thế giới trong bối cảnh hiện nay

Lực lượng sản xuất ngày nay đã vượt xa so với thời Mác. Các Mác xây dựng học thuyết
của mình trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ 2 (cuộc cách
mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ hai đánh dấu bằng sự ra đời của điện năng), còn ngày
nay loài người đang bước vào cuộc cách mạng khoa học - kỹ thuật lần thứ tư, mở ra kỷ
nguyên của trí tuệ nhân tạo.

Cách mạng công nghiệp 4.0 đã làm thay đổi cách thức sản xuất, chế tạo và có ảnh
hưởng mạnh mẽ đối với mọi yếu tố cấu thành của lực lượng sản xuất.

Thứ nhất, với đối tượng lao động, nhờ ứng dụng công nghệ trong cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, tài nguyên và nhiên liệu, nguyên liệu đã phong phú hơn, giàu có hơn.
Nếu căn cứ theo những yếu tố đầu vào của nền kinh tế công nghiệp dựa vào tài nguyên
thiên nhiên thì nguồn lực tự nhiên đang ngày càng khan hiếm và cạn kiệt do con người
khai thác quá nhiều.

Thứ hai, đối với tư liệu lao động (công cụ lao động và phương tiện sản xuất), cách
mạng công nghiệp lần thứ tư tạo ra nhiều công cụ lao động mới và đưa đến sự thay thế
từng bước các tư liệu lao động truyền thống bằng các tư liệu lao động hiện đại dựa trên
thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại tập trung ở lĩnh vực công nghệ sinh học, vật
liệu mới và công nghệ thông tin. Cách mạng công nghiệp 4.0 tạo ra các công cụ lao
động và phương tiện sản xuất mới với những máy móc tiêu hao ít nhiên liệu, năng
lượng, thải ra ít phế thải, không gây ô nhiễm môi trường, tạo nên nền sản xuất phát triển
bền vững. Những máy móc, công nghệ mới chứa đựng lượng thông tin cực kỳ lớn cho
phép sản xuất với năng suất, chất lượng sản phẩm đặc biệt cao.

Thứ ba, đối với người lao động, cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã tác động mạnh
mẽ đối với người lao động, làm biến đổi chức năng của con người trong sản xuất: con
người dần dần không còn là yếu tố thao tác trực tiếp trong hệ thống kỹ thuật mà chuyển
sang chủ yếu là sáng tạo và điều chỉnh quá trình đó Xu hướng việc làm sẽ là sự dịch
chuyển từ sản xuất sử dụng nhiều lao động sang sử dụng nhiều tri thức và công nghệ.
Nó tác động đến chất lượng nguồn nhân lực để đáp ứng yêu cầu cuộc cách mạng công
nghiệp lần thứ tư. Ngoài yêu cầu cứng về kỹ năng kỹ thuật (mức trung bình và cao) bao
gồm những kiến thức và kỹ năng chuyên biệt nhằm thực hiện công việc cụ thể thì người
lao động cần phải có những kỹ năng làm việc mềm hay cốt lõi như: khả năng tư duy
sáng tạo và tính chủ động trong công việc, kỹ năng sử dụng máy tính, internet, khả năng
ngoại ngữ, kỹ năng làm việc nhóm, …

Người lao động giờ đây không chỉ được giải phóng về lao động chân tay mà còn được
giải phóng cả về lao động trí óc. Máy móc - công cụ lao động trong thời đại 4.0 không
chỉ là cánh tay nối dài của người lao động mà cánh tay đó còn được “thông minh hóa”.
Sự giao tiếp giữa người lao động – robot cao cấp – máy móc thông minh… tác động
vào nguyên, nhiên, vật liệu mới, tạo ra sản phẩm theo nhu cầu của con người, thậm chí
đáp ứng nhu cầu cá biệt hóa ngày càng tăng của mỗi người tiêu dùng. Theo các chuyên
gia dự báo, hiện nay, do tác động của cách mang 4.0 quan hệ giữa người với người
trong quá trình sản xuất đã thay đổi đáng kể:

Về quan hệ sở hữu: Đối tượng sở hữu hiện nay không dừng ở tư liệu sản xuất, mà đã
xuất hiện những dạng mới thời Mác chưa hề có, đó là: năng lượng, thông tin, trí tuệ,
kinh nghiệm, sở hữu số ... Quan hệ sở hữu ngày càng mở rộng, tính công hữu (sở hữu
cộng đồng) ngày càng gia tăng, nhất là công nghệ siêu hiện đại (IOT, Data, điện toán
đám mây và các công nghệ dịch vụ miễn phí khác…). Về quan hệ quản lý, với xu
hướng robot hóa nền sản xuất, khiến năng lực, chứ không phải nguồn vốn, trở thành
nhân tố cốt lõi của nền sản xuất

Về quan hệ phân phối, nhiều nền công nghiệp đang chứng kiến sự xuất hiện của
những công nghệ giúp tạo ra những phương thức hoàn toàn mới nhằm phục vụ cho
những nhu cầu hiện nay, đồng thời tạo đột phá quan trọng trong những chuỗi giá trị
công nghiệp hiện nay. Sự đột phá cũng đang xuất hiện từ những nhà cạnh tranh linh
hoạt và sáng tạo, những người được hưởng lợi từ việc tiếp cận các phương tiện số toàn
cầu để tiến hành nghiên cứu, phát triển, tiếp thị, bán hàng và phân phối.

b. Phương hướng phát triển lực lượng sản xuất và hoàn thiện quan hệ sản xuất.

Ø Đối với LLSX

Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh...”, trước tiên cần tập trung phát triển
lực lượng sản xuất, bao gồm trước hết là người lao động, tư liệu sản xuất (trong đó có
công cụ lao động, phương tiện truyền tải và đối tượng lao động).

Ø Vì lực lượng sản xuất có vai trò chức năng sáng tạo ra của cải vật chất và là
động lực của sự phát triển xã hội. Chừng nào lực lượng sản xuất chưa phát triển
thì chừng chưa có điều kiện để hoàn thiện quan hệ sản xuất.
Ø Bởi vì, lực lượng sản xuất là nội dung, là cái cấu thành nền tảng vật chất của
toàn bộ lịch sử nhân loại, trong khi quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của
lực lượng sản xuất.

Không thể hoàn thiện hình thức, khi chưa có nội dung nền tảng vật chất.

Phát triển lực lượng sản xuất phải bảo đảm sự phù hợp giữa các yếu tố cấu thành của
lực lượng sản xuất, sự cân đối giữa nguồn nhân lực và tư liệu sản xuất cả về số lượng
và chất lượng, đáp ứng yêu cầu của cách mạng 4.0 và hội nhập toàn cầu hóa.

Thứ nhất, với TLSX:

· Đẩy mạnh đầu tư cơ sở hạ tầng, hệ thống giao thông đường bộ, vật chất kĩ
thuật trong nước bằng cách kêu gọi các vốn đầu tư công, viện trợ FDI,..

· Xây dựng các gói hỗ trợ vay vốn cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp vừa và nhỏ để củng cố phương tiện sản xuất.

Thứ hai, với nguồn nhân lực,

· khắc phục điểm yếu của nền kinh tế nước ta hiện nay là lao động thiếu kỹ năng và
năng suất thấp, nâng cao sức cạnh tranh

· hội nhập kinh tế thành công cũng như củng cố các cơ sở tăng trưởng bền vững.

· Tạo lập cơ sở quan trọng hàng đầu để nhanh chóng tiếp cận và phát triển nền kinh tế
tri thức.

· Định hướng mô hình phát triển kinh tế dựa trên cơ sở tiếp thu công nghệ tiên tiến
của thế giới sẽ là một trong những yếu tố quyết định phương hướng và nội cải cách
giáo dục.

· Cải cách căn bản chương trình giáo dục, đào tạo.Chương trình giáo dục mới phải
đáp ứng được mục tiêu tạo nền tảng tri thức để thực hiện mô hình công nghiệp hoá,
hiện đại hoá. Phổ cập ngoại ngữ và tri thức tin học cơ bản phải là tiêu chuẩn trong phổ
cập giáo dục. Có chương trình ưu tiên thiết lập rộng khắp cơ sở hạ tầng phù hợp cho hệ
thống giáo dục, đào tạo với chi phí tiếp cận rẻ, trên những nguyên tắc và nội dung mới.

· Mối liên hệ cần thiết giữa việc cung cấp nhân lực được đào tạo với nhu cầu sử dụng
nhân lực sẽ được thiết lập thông qua việc phát triển thị trường lao động và thị trường
sản phẩm khoa học, công nghệ .

Ø Đối với QHSX


Hoàn thiện quan hệ sản xuất không chỉ tập trung vào ba mặt quan hệ: sở hữu, quản
lý và phân phối mà còn phải chú ý hoàn thiện cả hệ thống quan hệ sản xuất bao
gồm cả quan hệ trao đổi và quan hệ tái sản xuất, hội nhập quốc tế.

Giải pháp về sở hữu :

· Với sở hữu của quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa thể hiện ở kinh tế nhà
nước: nhà nước cần xác định rõ chủ sở hữu trong doanh nghiệp nhà nước,
giảm sở hữu nhà nước, doanh nghiệp nhà nước cần tập trung vào những
ngành, lĩnh vực thiết yếu, quan trọng, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp
nhà nước nhằm xã hội hóa sở hữu nhà nước.

· Với kinh tế tập thể,tôn trọng nguyên tắc bình đẳng, đồng sở hữu trong hợp
tác xã. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để nhân dân hiểu rõ về
quyền lợi, lợi ích khi tham gia hợp tác xã.

Giải pháp về tổ chức, quản lý :

· các doanh nghiệp nhà nước chuyển hoàn toàn sang cơ chế thị trường bình
đẳng với các thành phần kinh tế khác

· phân định rõ hai loại hình doanh nghiệp nhà nước đó là doanh nghiệp nhà
nước hoạt động vì mục tiêu chính trị - xã hội và doanh nghiệp nhà nước vì
mục tiêu lợi nhuận.

· Xây dựng và phát triển kinh tế hợp tác xã đa dạng với nhiều hình thức từ
thấp đến cao, nòng cốt là các Hợp tác xã kiểu mới.

Giải pháp về phân phối sản phẩm :

· Doanh nghiệp nhà nước phải triệt để tuân thủ nguyên tắc phân phối theo
lao động, xóa bỏ bao cấp trong doanh nghiệp, đa dạng hóa các hình thức
phân phối.

· Với kinh tế tập thể thì phân phối theo vốn góp để tạo công bằng trong
phân phối thu nhập và khuyến khích các thành viên góp vốn vào hợp tác xã.

Kết luận

Xu hướng của SX vật chất là không ngừng biến đổi phát triển , sự biến đổi phát
triển đó bao giờ cũng bắt đầu sự biến đổi phát triển của LLSX . Trước hết là công
cụ lao động , công cụ lao động phát triển dẫn đến mâu thuẫn gay gắt với QHSX hiện
có ,đòi hỏi khách quan phải xoá bỏ QHSX cũ thay thế bằng QHSX mới. Quy luật
QHSX phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của LLSX là quy luật chung phổ
biến đối với sự phát triển của xã hội. Nó chi phối toàn bộ tiến trình phát triển của
lịch sử. Song sự ổn định đó chỉ có tính chất tạm thời sớm muộn nó cũng thay đổi
cho phù hợp.

Việc vận dụng phương thức sản xuất mới XHCN ở Việt Nam trong thời kì quá độ
lên CNXH , bỏ qua chế độ TBCN chứng tỏ sự thấu hiểu cặn kẽ quy luật phù hợp
QHSX và trình độ LLSX. Để xây dựng phương thức sản xuất XHCN chúng ta chủ
trương xây dựng một nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần với cơ chế thị trường
với sự quản lí của nhà nước nhằm phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế,
phát triển mạnh LLSX để xây dựng cơ sở kinh tế của đất nước. Nắm rõ được quy
luật này, chúng ta sẽ phát triển được cơ sở vật chất, làm nền tảng cho hiện đại hóa
đất nước.

VIII. QUY LUẬT VỀ MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA


CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
1. Lý luận( trang 190)
a. Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

b. Sự tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng

2. Vận dụng
a. Ý nghĩa trong đời sống xã hội

- Quy luật về mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là cơ
sở khoa học cho việc nhận thức một cách đúng đắn mối quan hệ giữa kinh tế và chính
trị.

- Kinh tế và chính trị tác động biện chứng, trong đó kinh tế tác động chính trị, chính trị
tác động trở lại to lớn, mạnh mẽ đối với kinh tế. Thực chất của vai trò kiến trúc thượng
tầng là vai trò hoạt động tự giác tích cực của các giai cấp, đảng phái vì lợi ích kinh tế
sống còn của mình. Sự tác động của kiến thức thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng trước
hết và chủ yếu thông qua đường lối, chính sách của đảng, nhà nước. Chính vì vậy Lênin
viết: “Chính trị là biểu hiện của sự tập trung kinh tế… Chính trị không thể không chiếm
vị trí hạng đầu so với kinh tế”.

- Trong nhận thức và thực tiễn, nếu tách rời hoặc tuyệt đối hóa một yếu tố nào giữa kinh
tế và chính trị đều là sai lầm. Bởi:

+ Tuyệt đối hóa kinh tế, hạ thấp hoặc phủ nhận yếu tố chính trị là rơi vào quan điểm
duy vật tầm thường, duy vật kinh tế sẽ dẫn đến vô chính phủ, bất chấp kỷ cương, pháp
luật và không tránh khỏi thất bại, đổ vỡ.
+ Còn nếu tuyệt đối hóa về chính trị, hạ thấp hoặc phủ định vai trò của kinh tế sẽ dẫn
đến duy tâm, duy ý chí, nôn nóng, chủ quan, đốt cháy giai đoạn và cũng không tránh
khỏi thất bại.

- Có thể thấy, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rất
quan tâm đến nhận thức và vận dụng quy luật này.Điều đó thể hiện ở chỗ: trong thời kỳ
đổi mới đất nước, ĐCS Việt Nam chủ trương đổi mới toàn diện cả kinh tế và chính trị,
trong đó đổi mới kinh tế là trung tâm, đồng thời đổi mới chính trị từng bước thận trọng
vững chắc bằng những hình thức, bước đi thích hợp; giải quyết tốt mối quan hệ giữa đổi
mới - ổn định – phát triển, giữ vững định hướng XHCN

b.Sự vận dụng của CSHT và KTTT của nước ta hiện nay.

· Trước đổi mới (1986): đề cao thái quá vai trò của kiến trúc thượng

tầng, chính trị là thống soái, Nhà nước, cơ quan quản lí can thiệp thô

bạo vào kinh tế bằng những mệnh lệnh chủ quan; vi phạm các quy

luật kinh tế khách quan => khủng hoảng kinh tế, xã hội.

· Từ 1986 đến nay: Thực hiện đổi mới toàn diện (kinh tế, chính trị, văn

hóa, xã hội), lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm, từng bước đổi mới về

chính trị, trước hết là đổi mới tư duy về kinh tế; giải quyết tốt mối

quan hệ giữa đổi mới - ổn định – phát triển, giữ vững định hướng xã

hội chủ nghĩa.

è Kinh tế quyết định chính trị, nhưng chính trị tác động mạnh mẽ qua lại

với kinh tế

· Thực trạng cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng ở nước ta hiện

nay:

Về cơ sở hạ tầng:

- Nền kinh tế đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao và phát triển tương đối toàn diện. Đất
nước đã có sự thay đổi cơ bản và toàn diện, đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Kinh
tế tăng trưởng khá nhanh, sự nghiệp công nghiệp hoá – hiện đại hoá, phát triển kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải
thiện rõ rệt.

è Tuy nhiên, tăng trưởng kinh tế chưa tương xứng với khả năng; chất
lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn kém; cơ cấu kinh tế

chuyển dịch chậm. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước

trong khu vực và trên thế giới vẫn còn tồn tại.

Về kiến trúc thượng tầng:

- Qua 25 năm đổi mới: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ngày càng sáng tỏ hơn; hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về xã
hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã hình thành
trên những nét cơ bản”

- Tuy nhiên, vẫn còn tồn tại một số vấn đề:

+ Tư duy của Đảng trên một số lĩnh vực chậm đổi mới; một số vấn đề ở tầm quan điểm,
chủ trương lớn chưa được làm rõ nên chưa đạt được sự thống nhất cao về nhận thức và
thiếu dứt khoát trong hoạch định chính sách, chỉ đạo điều hành.

- Một bộ phận cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp yếu kém về
phẩm chất và năng lực, vừa thiếu tính tiên phong, gương mẫu vừa không đủ trình độ,
năng lực hoàn thành nhiệm vụ.

- Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng với chức năng quản lý của NN có lúc có
nơi chưa rõ ràng, chồng chéo, buông lỏng.

- Ý thức chấp hành PL của cán bộ, nhân dân còn yếu, hệ thống PL chưa đồng bộ, hoàn
chỉnh; đạo đức lối sống sa sút đáng lo ngại, bản chất văn hóa dân tộc bị sói mòn, tội
phạm, tệ nạn XH có xu hướng gia tăng; sự tấn công của các mặt trái cơ chế thị trường
cũng như những âm mưu chống phá của các thế lực thù địch với VN càng ngày càng lộ
rõ và gia tăng.

- Tệ quan liêu tham nhũng vẫn còn diễn ra nghiêm trọng.

· Sự vận dụng của Đảng CSVN trong việc xây dựng và phát triển nền

kinh tế xã hội ở Việt Nam hiện nay:

Về CSHT:

- Phát triển kinh tế, công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước gắn với phát triển kinh tế
tri thức là nhiệm vụ trọng tâm.

+ Tranh thủ các cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của
nước ta để rút ngắn quá trình công nghiệp hoá – hiện đại hoá đất nước theo định hướng
xã hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, phát triển mạnh các ngành kinh tế và
các sản phẩm kinh tế có giá trị tăng cao dựa nhiều vào tri thức.
+ Đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hoá – hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn, giải
quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân.

- Đa dạng hoá các thành phần kinh tế, các kiểu QHSX gắn liền với các hình thức sở hữu
và bước đi thích hợp làm cho QHSX phù hợp với trình

độ phát triển của LLSX.

+ Phát triển kinh tế nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế,trong đó kinh tế
Nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở
thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân.

+ Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước: Nhà nước làm tốt các chức năng
định hướng sự phát triển bằng các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và cơ chế; chính
sách trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc của thị trường. Thực hiện quản lý Nhà nước
bằng hệ thống pháp luật, giảm tối đa sự can thiệp hành chính vào hoạt động của thị
trường và doanh nghiệp…

+ Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành các loại thị trường cơ bản theo
cơ chế cạnh tranh lành mạnh.

- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất xã
hội, thực hiện công bằng ngày một tốt hơn. Thực hiện nhiều hình thức phân phối,
khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xoá đói giảm nghèo.

- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc, quan hệ kinh
tế với nước ngoài.

Về KTTT:

- Nâng cao bản lĩnh và trình độ trí tuệ của Đảng:

+ Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh trong hoạt động của Đảng.

+ Đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện của Đảng cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước, coi
xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt.

+ Thường xuyên tổng kết thực tiễn, bổ sung phát triển lý luận, tiếp tục làm sáng tỏ
những vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta.

- Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa:

+ Xây dựng hệ thống chính trị XHCN vừa đảm bảo tính quốc tế, tính giai cấp, tính dân
tộc, tính nhân dân; trong đó quyền lực cao nhất thuộc về nhân dân.
+ Xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội để
quản lý mọi mặt của xã hội văn minh hiện đại.

+ Cải cách nền hành chính quốc gia, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Nhà nước,
phát huy dân chủ tăng cường pháp chế XHCN.

+ Phân định rõ chức năng, quyền hạn, trách nhiệm của Đảng, chính quyền, các ban
ngành, các tổ chức quần chúng từ trung ương đến địa phương.

- Phát triển các lĩnh vực khoa học, giáo dục, công nghệ nhằm nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, phát triển văn hóa tiến bộ mang đậm bản sắc dân tộc, giải
quyết tốt vấn đề tiến bộ và công bằng xã hội.

- Tăng cường củng cố sức mạnh của lực lượng vũ trang, nâng cao cảnh giác cách mạng,
sẵn sàng đập tan mọi âm mưu phá hoại nền kinh tế và lật đổ chế độ.

Nguồn tham khảo tích hợp thêm:

1.Ở nước ta, trong quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định
hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không chỉ quán triệt và vận dụng mối quan hệ biện
chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, mà còn phải quán triệt và vận dụng
một cách khoa học và sáng tạo mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc
thượng tầng.

Cơ sở hạ tầng kinh tế của nước ta hiện nay là một kết cấu kinh tế nhiều thành
phần với nhiều hình thức sở hữu đan xen lẫn nhau. Thừa nhận sự tồn tại của một kết cấu
kinh tế với nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế cùng tồn như vậy là một
tất yếu khách quan. Bởi lẽ, trình độ lực lượng sản xuất của chúng còn thấp và chưa
đồng đều. Song, đây lại là một nền kinh tế năng động, phong phú. Chính tính chất đan
xen của kết cấu kinh tế ấy nó đặt ra nhu cầu khách quan là kiến trúc thượng tầng cũng
phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Lẽ dĩ nhiên, không phải với
nền kinh tế nhiều thành phần và nhiều hình thức sở hữu khác nhau thì nhất thiết phải đa
đảng và đa nguyên về chính trị, nhưng nhất thiết phải đổi mới kiến trúc thượng tầng
theo hướng: đổi mới tổ chức, đổi mới bộ máy hành chính nhà nước, đổi mới con người,
đổi mới phong cách lãnh đạo, đa dạng hoá các tổ chức, đoàn thể, hiệp hội, mở rộng dân
chủ (đặc biệt là dân chủ cơ sở), tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc… nhằm tập trung
sức mạnh của quần chúng nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Đổi mới kinh tế là cơ sở, tiền đề cho đổi mới chính trị. Song, muốn đổi mới kinh
tế phải đổi mới chính trị để tạo điều kiện thuận lợi cho đổi mới kinh tế. Đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị là hai quá trình gắn bó hữu cơ với nhau trên tinh thần ổn định chính
trị để đổi kinh tế một cách toàn diện và có hiệu quả trong sự nghiệp đổi mới.

2.Nghiên cứu quy luật này giúp ta nắm được quy luật vận động chung của xã hội và
phương hướng để phân tích sự tác động của nó trong một hoàn cảnh lịch sử cụ thể.

+ Giúp ta có cơ sở khoa học để nhận thức và chỉ đạo hoạt động trong việc giải quyết
mối quan hệ giữa xây dựng CSHT và KTTT ở nước ta. Mối quan hệ giữa nhân tố kinh
tế và chính trị trong công cuộc đổi mới đất nước.

+ Quá trình đổi mới đất nước theo CNXH là đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, quân sự, văn hoá tư tưởng,…Trong khi lấy đổi mới kinh tế làm nhiệm
vụ hàng đầu thì đồng thời phải từng bước đổi mới chính trị cho hù hợp, làm cho kinh tế,
văn hoá xã hội phát triển, đời sống của nhân dân được cải thiện.

+ CSHT trong thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, có nhiều QHSX gắn với các hình thức sở hữu khác nhau trong một
cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất. Đó là nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
động theo cơ chế thị trường, có sự

quản lý của nhà nước. Trong đó phải làm cho kinh tế quốc doanh giữ vai trò chủ đạo và
cùng với kinh tế tập thể, tạo thành nền tảng của kinh tế quốc dân.

+ Về KTTT ở nước ta phải xây dựng trên cơ sở lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động. Xây dựng hệ thống chính trị XHCN
do Đảng cộng sản lãnh đạo, trong đó nhà nước là nhà nước của dân, do dân và vì dân.
3.Dưới chủ nghĩa xã hội hoàn chỉnh, cơ sở hạ tầng và kiến thức thượng tầng thuần nhất
và thống nhất. Vì cơ sở hạ tầng xã hội chủ nghĩa không có tính chất đối kháng, không
bao hàm những lợi ích kinh tế đối lập nhau. Hình thức sở hữu bao trùm là sở hữu toàn
dân và tập thể, hợp tác tương trợ nhau trong quá trình sản xuất, phân phối sản phẩm
theo lao động, không còn chế độ bóc lột.

Thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng
sâu sắc và triệt để, là một giai đoạn lịch sử chuyền tiếp nó.Bởi vì, cơ sở hạ tầng mang
tính chất quá độ với một kết cấu kinh tế nhiều thành phần đan xen của nhiều loại hình
kinh tế xã hội khác nhau. Còn kiến trúc thượng tầng có sự đối kháng về tư tưởng và có
sự đấu tranh giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản trên lĩnh vực tư tưởng văn hoá.

Bởi vậy công cuộc cải cách kinh tế và đổi mới thể chế chính trị là một quá trình mang
tính cách mạng lâu dài. Cơ sở hạ tầng thời kỳ quá độ ở nước ta bao gồm các thành phần
kinh tế như: kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế cá thể,
kinh tế tư bản tư nhân, cùng các kiểu quan hệ sản xuất gắn liền với hình thức sở hữu
khác nhau, thậm chí đối lập nhau cùng tồn tại trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất

Kiến trúc thượng tầng xã hội chủ nghĩa phản ánh cơ sở hạ tầng của xã hội chủ nghĩa, vì
vậy mà có sự thống trị về chính trị và tinh thần Nhà nước phải thực hiện biện pháp kinh
tế có vai trò quan trọng nhằm từng bước xã hội hoá nền sản xuất với hình thức và bước
đi thích hợp theo hướng như : kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên
giữ vai trò chủ đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản
xuất nhỏ trong các ngành nghề, các hình thức xí nghiệp , công ty cổ phần phát triển
mạnh, kinh tế tư nhân và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng
sản xuất, xây dựng cơ sở kinh tế hợp lý. Các thành phần đó vừa khác nhau về vai trò,
chức năng, tính chất, vừa thống nhất với nhau trong một cơ cấu kinh tế quốc dân thống
nhất mà còn cạnh tranh nhau, liên kết và bổ xung cho nhau.

Để định hướng xã hội chủ nghĩa đối với các thành phần kinh tế này, nhà nước phải sử
dụng tổng thể các biện pháp kinh tế hành chính và giáo dục, trong dó thì biện pháp kinh
tế là quan trọng nhất nhằm từng bước xã hội hóa nền sản xuất với hình thức và thích
hợp theo hướng kinh tế quốc doanh được củng cố và phát triển vươn lên giữ vai trò chủ
đạo, kinh tế tập thể dưới hình thức thu hút phần lớn những người sản xuất nhỏ trong các
ngành nghề, các hình thức xí nghiệp, công ty cổ phần phát triển mạnh, kinh tế tư nhân
và gia đình phát huy được mọi tiềm năng để phát triển lực lượng sản xuất, xây dựng
kinh tế hợp lý.

Về kiến trúc thượng tầng, Đảng ta khẳng định: Lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm kim chỉ nam cho mọi hành động của toàn Đảng, toàn dân ta. Nội
dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là tư tưởng về sự giải
phóng con người khỏi chế độ bóc lột thoát khỏi nỗi nhục của mình là đi làm thuê bị
đánh đập, lương ít.Trong cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội, Đảng ghi rõ : ”xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa , nhà nước của dân, do dân và
vì dân, liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền
tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo”.

4.Trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, cần vận dụng và quán triệt quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và
kiến trúc thượng tầng. Cơ sở hạ tầng là kết cấu kinh tế đa thành phần trong đó có thành
phần kinh tế quốc doanh , tập thể và nhiều thành phần kinh tế quốc doanh, tập thể và
nhiều thành phần kinh tế khác nhau. Tính chất đan xen quá độ về kết cấu của cơ sở kinh
tế vừa làm cho nền kinh tế sôi động, phong phú, vừa mang tính chất phức tạp trong quá
trình thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là một kết cấu kinh tế năng động,
phong phú, được phản chiếu lên kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là
nền kiến trúc thượng tầng và đặt ra đòi hỏi khách quan là nền kiến trúc thượng tầng
cũng phải được đổi mới để đáp ứng đòi hỏi của cơ sở kinh tế. Như vậy kiến trúc thượng
tầng mới có sức mạnh đáp ứng kịp thời đòi hỏi của cơ sở hạ tầng

Tuy nhiên, việc đổi mới cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là việc rất phức tạp.
Điều quan trọng trước hết là cần sớm hình thành và thống nhất những quan điểm sử lý
thiết yếu.

Thứ nhất, cần một phương pháp tiếp cận vấn đề một cách cụ thể không làm theo cách
“cháy đâu chữa đấy” từ đó tìm ra nguyên nhân chủ yếu của vấn đề để đưa ra những luận
chứng có tính khả thi.

Thứ hai, cần theo dõi chặt chẽ, khai thác sàng lọc và sử lý các loại tín hiệu của nền kinh
tế một cách kịp thời trên cơ sở chủ chương chính sách thích hợp khuyến khích các hoạt
động kinh tế lành mạnh . đồng thời phải xây dựng một cơ chế điều hành kinh tế cho
phép thâu lượm đánh giá, sử lý kịp thời mọi tín hiệu kinh tế trong phạm vi cả nước.

Thứ ba, hoàn thiện các thủ tục tài chính, tăng cường kỷ cương pháp luật trong điều hành
tài chính quốc gia từ trung ương đến từng người sản xuất.

IX. SỰ PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THÁI KINH TẾ XÃ HỘI


LÀ MỘT QUÁ TRÌNH LỊCH SỬ TỰ NHIÊN
1. Lý luận(trang 192)
2. Vận dụng

· Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa

· Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

· Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước

Lý luận hình thái kinh tế - XH chỉ ra, mỗi hình thái KT-XH có một lực
lượng sản xuất của nó, hay nói cách khác, có một cơ sở vật chất-kỹ thuật
của nó. Để có CNXH phải có một cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại do
cuộc CM khoa học và công nghệ mang lại. Song, nước ta tiến lên CNXH
từ một nền kinh tế phổ biến là sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ
yếu, cái thiếu thốn của chúng ta là chưa có một nền đại công nghiệp. Vì
vậy, chúng ta phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thực chất
của công nghiệp hóa hiện đại hóa chính là xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật của CNXH. Công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH ở nước ta trên cơ sở phát huy
năng lực nội sinh của đất nước cũng như xu thế quốc tế hóa kinh tế thế
giới. đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến lên CNXH.

- Trong công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần phát triển
mạnh mẽ một nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại. Phải coi phát
triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. điều này hoàn toàn
phù hợp với xu thế của thế giới ngày nay trong xu thế hợp tác, cạnh tranh
ngày càng khốc liệt. Chính vì vậy, đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng ta đã đề ra: “con đường công nghiệp hóa hiện đại hóa ở nước ta
cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có bước tuần tự, vừa có bước nhảy
vọt. Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt
được những trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao
hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học công nghệ, từng
bước phát triển kinh tế tri thức. Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh
tinh thần của người Việt Nam: coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa
học công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hó hiện
đại hóa.
Thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH-HĐH là một trong những nhân tố có
ý nghĩa quyết định thắng lợi sự nghiệp xây dựng CNXH ở nước ta.

· Kết hợp phát triển kinh tế với chính trị và các mặt khác của đời
sống xã hội

Xuất phát từ mối quan hệ giữa kinh tế với chính trị và các mặt khác của
đời sống XH mà lý luận hình thái kt-xh đã chỉ ra, trong quá trình xây
dựng CNXH ở nước ta, gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng XHCN, phải không ngừng đổi mới hệ thống
chính trị, nâng cao vài trò lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân; nâng cao
vai trò của các tổ chức quần chúng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
TQ.

19

Đồng thời, phải gắn phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xây dựng
nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhằm không ngừng nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, theo quan điểm của
đảng ta, đó là quốc sách hàng đầu, giải quyết các vấn đề XH, thực hiện
công bằng và dân chủ trong đời sống XH.

Trong quá trình phát triển văn hóa, cần phải đặc biệt quan tâm đến phát
triển giáo dục và đào tạo. Phải coi giáo dục và đào tạo cũng là quốc sách
hàng đầu. Điều này vừa phù hợp với xu thế phát triển hiện đại, lại vừa là
đòi hỏi cấp bách của sự phát triển đất nước.

Tóm lại: lý luận hình thái kt-xh là một lý luận khoa học. nó cho chúng ta
một quan niệm đúng đắn về mối quan hệ lẫn nhau giữa các mặt trong đời
sống kt-xh, về sự vận động và phát triển của XH. Với sự phát triển của
khoa học và thực tiễn hiện nay, lý luận đó vẫn giữ nguyên giá trị. Nó đem
lại một phương pháp luận thực sự khoa học để phân tích các hiện tượng
trong đời sống XH, để từ đó vạch ra phương hướng và giải pháp đúng
đắn cho hoạt động thực tiễn.
Tài liệu tham khảo:

Học thuyết hình thái kinh tế – xã hội đã được C.Mác vận dụng vào
phân tích xã hội tư bản, vạch ra các quy luật vận động, phát triển của
xã hội đó và đã đi đến dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế – xã
hội cao hơn, hình thái cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa xã hội đã hình thành phát triển từ sau Cách
mạng Tháng Mười Nga.

Vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
Đảng ta khẳng định: độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội không tách
rời nhau. Đó là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là sợi chỉ
đỏ xuyên suốt đường lối cách mạng của Đảng. Việc Đảng ta luôn luôn
kiên định con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội là phù hợp với xu
hướng của thời đại và điều kiện cụ thể của nước ta.

Tuy nhiên, từ thực tiễn, nhất là thực tiễn quá trình đổi mới, chúng ta
ngày càng nhận thức rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta.

“Con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ qua việc xác lập vị trí
thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ
nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt
được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học và công nghệ,
để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự
biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính
chất quá độ. Trong các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen
và đấu tranh giữa cái mới và cái cũ”.
Vận dụng quy luật sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. “Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực
hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa; đó chính là nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa“.

Theo quan điểm của Đảng ta, “kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc”.

Xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa vừa phù hợp với xu hướng phát triển chung của nhân loại, vừa
phù hợp với yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất ở nước ta; với
yêu cầu của quá trình xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ kết hợp với
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.

Nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế phổ biến là sản
xuất nhỏ, lao động thủ công là phổ biến. Chính vì vậy, chúng ta phải
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời đại ngày nay,
công nghiệp hóa phải gắn liền với hiện đại hóa. Công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta là nhằm xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ
nghĩa xã hội. Đó là nhiệm vụ trung tâm trong suốt thời kỳ quá độ tiến
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Gắn liền với phát triển kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, phải không ngừng đổi mới hệ thống chính trị, nâng cao vai trò
lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, nâng cao vai trò của các tổ chức quần chúng, phát
huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.

Đồng thời với phát triển kinh tế, phải phát triển văn hóa, xây dựng nền
văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc nhằm không ngừng nâng cao
đời sống tinh thần của nhân dân; phát triển giáo dục và đào tạo nhằm
nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài; giải quyết tốt
các vấn đề xã hội, thực hiện công bằng xã hội nhằm thực hiện mục
tiêu: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.

X.Tính tất yếu, vai trò và nội dung của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện
nay: Lý luận và vận dụng
● Lý luận:
Tính tất yếu của đấu tranh giai cấp:
-Thứ nhất, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội vẫn tồn tại cơ sở kinh tế làm
phân hóa xã hội thành giai cấp, đó là nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, nên
bên cạnh mặt tích cực còn có mặt hạn chế đó là sự phân hóa xã hội thành giàu nghèo.
-Thứ hai, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các thế lực phản động luôn rắp
tâm mưu đồ giành giật lại chính quyền mà chúng đã bị mất.
-Thứ ba, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vẫn tồn tại những tàn dư của xã
hội cũ để lại.
-Thứ tư, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với nền kinh tế mở cửa, bên cạnh
mặt tích cực còn có mặt tiêu cực, đó là sự du nhập của những yếu tố ngoại lai không
phù hợp.
-Thứ năm, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, các thế lực phản động trong
nước cấu kết với các thế lực phản động quốc tế sử dụng “Diễn biến hòa bình” chống lại
thành quả cách mạng của nhân dân các nước...
=> Vì vậy, đấu tranh giai cấp hơn bao giờ hết vẫn là một tất yếu.
Vai trò của đấu tranh giai cấp:
-Thứ nhất, kết cục của đấu tranh giai cấp là mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất được giải quyết, quan hệ sản xuất cũ bị mất đi được thay thế bằng
quan hệ sản xuất mới, cơ sở hạ tầng mới ra đời, kiến trúc thượng tầng mới xuất hiện,
làm cho mọi mặt của đời sống xã hội phát triển, từ đó thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
-Thứ hai, đấu tranh giai cấp lật đổ chính quyền cũ, xác lập chính quyền mới, cùng với
quá trình đó, kết cấu xã hội – giai cấp cũ bị xóa bỏ, kết cấu xã hội – giai cấp mới được
hình thành làm cho xã hội phát triển.
-Thứ ba, đấu tranh giai cấp không chỉ góp phần xóa bỏ thế lực phản động, lạc hậu, mà
còn đồng thời có tác dụng cải tạo bản thân các giai cấp cách mạng và quần chúng cách
mạng. Giai cấp nào đại biểu cho phương thức sản xuất mới, giai cấp đó sẽ lãnh đạo
cách mạng và thúc đẩy xã hội phát triển.
-Thứ tư, đấu tranh giai cấp không chỉ là đòn bẩy của lịch sử trong thời kỳ cách mạng,
mà còn là động lực phát triển của xã hội ngay cả trong thời kỳ “hòa bình” của xã hội có
giai cấp. Trong tiến trình phát triển của lực lượng sản xuất, cách mạng khoa học – công
nghệ, cải cách về dân chủ và tiến bộ xã hội... không tách rời cuộc đấu tranh của giai cấp
tiến bộ chống lại giai cấp thống trị, các thế lực thù địch phản động.
Nội dung đấu tranh giai cấp ở Việt Nam hiện nay:
-Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện
công bằng xã hội, chống áp bức, bất công, đấu tranh ngăn chặn, khắc phục những tư
tưởng và hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động
chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một
nước xã hội chủ nghĩa phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.
-Động lực chủ yếu để phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở liên minh
giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân, đội ngũ trí thức và các tầng lớp lao động
khác dưới sự lãnh đạo của Đảng, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội,
phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế, của toàn xã hội.
=> Tóm lại, trong giai đoạn hiện nay cần nhận thức rõ tính chất gay go, phức tạp của
cuộc đấu tranh giai cấp. Cần nắm vững quan điểm giai cấp của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tránh rơi vào hai thái cực sai lầm hoặc quá cường điệu đấu tranh giai cấp, đi đến rụt rè,
không dám đổi mới; hoặc mơ hồ mất cảnh giác đi đến phủ nhận đấu tranh giai cấp.
● Vận dụng:
Vận dụng trách nhiệm của sinh viên trong cuộc đấu tranh giai cấp ở VN hiện nay
Là sinh viên của Trường Đại học Sư phạm TPHCM nói riêng, của đất nước CHXHCN
VN nói chung, chúng ta mang trong mình trách nhiệm đối với cuộc đấu tranh giai cấp
của nước ta hiện nay. Vậy trách nhiệm đó là gì?
Thứ nhất, mỗi sinh viên cần biết nhìn nhận khách quan và có nhận thức đúng đắn tình
hình đấu tranh giai cấp của nước ta. Bởi lẽ, các bạn muốn hành động đúng thì các bạn
phải nhận thức đúng.
● Tuy nhiên nhiều sinh viên còn chưa hiểu sâu về chính trị, lập trường tư tưởng
chưa vững vàng, song khả năng phân tích và chọn lọc còn có những hạn chế nên
khi tiếp thu các thông tin mới, cũng như những luồng tư tưởng mới trong xã hội,
dễ dao động, dễ bị lôi kéo, dễ trở thành đối tượng mà các thế lực thù địch hướng
tới, thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm mục tiêu chống phá cách
mạng trong hiện tại và tương lai. Trên thực tế, trong những ngày chuẩn bị bầu cử
đại biểu Quốc hội khóa XIV và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ
2016-2021, có sinh viên bị kích động đã lập các blog cá nhân đăng tải nội dung
cổ xúy cho các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch, từ đó có các bình luận
xuyên tạc, phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà
nước và toàn xã hội.
● Thế nên, mỗi sinh viên chúng ta cần tự giác tìm hiểu, nghiên cứu về cuộc đấu
tranh giai cấp ở Việt Nam qua việc nghiêm túc học tập các môn như: triết học
Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối chính sách, pháp luật
của Đảng và Nhà nước… ở giảng đường đại học. Kết hợp với quá trình học tập là
thảo luận, trao đổi với thầy cô, bạn bè để nhận thức tri thức khoa học cả về lý
luận và thực tiễn.
● Bên cạnh đó, sinh viên nên liên tục cập nhật các quan điểm mới của Đảng, tình
hình chính trị - xã hội trong và ngoài nước qua những kênh thông tin quốc gia uy
tín như báo chính phủ, tạp chí giáo dục, thời sự…
=> Và từ những nội dung, kiến thức đó, mà chúng ta nâng cao nhân sinh quan, thế giới
quan và đạo đức cộng sản: các giá trị truyền thống dân tộc, lý tưởng, niềm tin vào
Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa để cuối cùng, chúng ta có cái nhìn khách
quan, chính xác về đấu tranh giai cấp ở VN, nhận ra cuộc đấu tranh đang diễn ra rất gay
go, phức tạp; các thế lực thù địch phản động không ngừng chống phá; rằng đấu tranh
giai cấp là tất yếu của đất nước, cũng như tránh tình trạng nhận thức sai về đấu tranh
giai cấp mà mất cảnh giác hay không dám thay đổi; sau cùng là nhận ra trách nhiệm đối
với mọi công dân nước Việt Nam trong đó có cả sinh viên: phải học tập, rèn luyện, sáng
tạo vì lợi ích của chủ nghĩa xã hội và có những hành động cụ thể, đúng đắn đối với đấu
tranh giai cấp.

Thứ hai, như các bạn đã biết; học tập, rèn luyện, sáng tạo, nâng cao đạo đức vì đất
nước là trách nhiệm quan trọng nhất đối với một người sinh viên như chúng ta. Sinh
viên trường ĐH Sư phạm TPHCM nói riêng hay lớp trẻ ngày nay luôn phải chú trọng
việc học tập và rèn luyện bởi giáo dục luôn là quốc sách hàng đầu để xây dựng đất nước
phát triển.
+ Tích cực học tập và phát triển tại nhà trường thông qua chương trình giáo dục đã
được nhà trường xây dựng để phù hợp với yêu cầu ngày nay của đất nước. Tất cả
các môn học tại nhà trường chắc chắn sẽ cung cấp lượng kiến thức mà mỗi sinh
viên cần để phát triển bản thân. Không nên hình thành thói quen chỉ học tập và
nghiên cứu các môn chuyên ngành mà quên mất tầm quan trọng của môn chung.
Học tập tích cực nhưng không có tính chọn lọc về phương pháp và tài liệu học
cũng làm lệch lạc tư duy và suy nghĩ của sinh viên.
+ Học tập phải đi chung với rèn luyện và sáng tạo, đặc biệt khi ta phải tiếp thu với
lượng kiến thức càng ngày càng nhiều như ngày nay thì phải rèn luyện mỗi ngày
mới có thể vận dụng một cách có hiệu quả lượng kiến thức đó. Kiến thức tiếp thu
được qua sách vở và nhà trường chỉ là trên lý thuyết, nếu ta không vận dụng và
thực hành vào thực tế đời sống thì kiến thức đó sẽ không mang lại hiệu quả. Vậy,
chúng ta phải tích cực tham gia các cuộc thi học thuật đối với các môn chuyên
ngành lẫn môn chung, cuộc thi nghiên cứu khoa học để vận dụng kiến thức đã
học thành những công trình khoa học - công nghệ, những bài luận án, luận văn về
giải pháp hay cách thức mới cải thiện một vấn đề nhỏ trong cuộc sống. Từ đó,
nhận ra điểm thiếu sót của bản thân mà sửa chữa, khắc phục, thay đổi và ngày
một hoàn thiện.
+ Học tập và rèn luyện phải đi chung với rèn luyện đạo đức và nhân cách. Việc tu
dưỡng phẩm chất đạo đức theo năm điều Bác dạy cũng là một phương pháp học
tập. Một con người hoàn mĩ phải hội tụ hai yếu tố tài năng và phẩm chất đạo đức.
Hình thành đạo đức tốt thông qua lòng yêu nước và có tinh thần học tập phát
triển đất nước giàu mạnh luôn phải được trau dồi mỗi ngày. Chúng ta có thể thực
hiện điều này bằng việc chống gian lận trong thi cử, đạo văn, những văn hóa
phẩm độc hại,... Song, là một nhà giáo tương lai, chúng ta càng phải đấu tranh
mạnh mẽ hơn trong việc chống lại phân biệt đối xử, thiên vị; nạn tham nhũng và
việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật.
Sinh viên phải đặt việc học làm yếu tố trọng tâm, là trách nhiệm và nghĩa vụ để xây
dựng đất nước chống lại các thế lực thù địch, đấu tranh giai cấp gây cản trở quá trình
phát triển của nước ta. Tụt hậu về trí thức sẽ là trở ngại lớn, làm nước ta rơi vào sự dòm
ngó của các thế lực thù địch, uy hiếp đến nền độc lập của Việt Nam ta. Vận dụng tốt
kiến thức đã học vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước để thực hiện
tốt cuộc công nghiệp 4.0 trong thời đại thế giới phát triển mạnh công nghệ thông tin.
Phải học tập và rèn luyện chân chính, học bằng khả năng của mình. Bước vào thời đại
công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì ai nắm được tri thức thì mới có thể xây dựng đất
nước, chèo lái chiếc thuyền số phận của non sông Tổ quốc, đưa đất nước ta từng bước
phát triển về mọi mặt, ổn định xã hội, thu hẹp khoảng cách giàu - nghèo, ngăn chặn
được mọi âm mưu, chống phá của kẻ thù, đưa cuộc đấu tranh giai cấp đi đến thành công
là trở thành một nước XHCN dân giàu, nước mạnh, dân chủ công bằng, văn minh. Và
nhiệm vụ của chúng ta phải học, học nữa, học mãi. Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện để
chúng ta dễ dàng tiếp cận tri thức thì tương lai dân tộc mới sáng lạn, lấp lánh hào
quang.
Thứ ba, song song với việc học tập trở thành một người có tri thức đóng góp cho sự
phát triển của đất nước, sinh viên cũng cần có những hành động cụ thể góp phần vào
cuộc đấu tranh giai cấp của nước VN ta.
● Đầu tiên, chúng ta phải tích cực hoạt động của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ
Chí Minh và Hội Sinh viên trong các học viện, đại học, cao đẳng. Chính những
nội dung phong phú, thiết thực, sinh động của hoạt động Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh và Hội Sinh viên là điều kiện thuận lợi để chúng ta bồi đắp lập
trường tư tưởng chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn cao, phẩm chất đạo
đức và lối sống lành mạnh, giản dị, ý chí vươn lên trong cuộc sống cũng như
trong học tập, nghiên cứu khoa học, có uy tín và tích cực trong công tác Đoàn,
công tác Hội và gần gũi với quần chúng. Mà quan trọng hơn hết là chúng ta sống
và làm việc theo pháp luật, theo bản sắc văn hóa dân tộc; làm cho bản thân thấm
nhuần truyền thống dân tộc, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, truyền thống của học viện, nhà trường; định hướng đạo đức
nghề nghiệp; từ đó ta sẽ trở nên kiên định với con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
mà Đảng, nhân dân và cả dân tộc Việt Nam lựa chọn.
● Bên cạnh đó, trên không gian mạng (thông qua các website, các diễn đàn trên
Internet, các nền tảng mạng xã hội), các thông tin được lan truyền với tốc độ
chóng mặt nên các thế lực thù địch luôn tìm cách tranh thủ chớp lấy thời cơ để
xuyên tạc, bịa đặt thông tin. Thế nên sinh viên chúng ta phải biết phát hiện, nhận
diện, xử lý, phân tích, dự báo tác hại của các thông tin xấu độc, góp phần bảo vệ
nền tảng tư tưởng của Đảng và đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các
thế lực thù địch, phản động trên không gian mạng. Đồng thời hết sức cảnh giác
trước những thông tin bịa đặt, xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước khi sử dụng mạng xã hội và trang bị các “kỹ năng
mềm” trong ứng xử, thực hành trên môi trường mạng, để tùy từng tình huống,
vấn đề cụ thể mà sinh viên biết cách xử lý phù hợp, tránh vì vô tình hay cố ý mà
phát tán hay tiếp tay cho những thông tin, hành vi xấu.
Cuối cùng, ca dao có câu: Một cây làm chẳng nên non/ Ba cây chụm lại nên hòn núi
cao. Thật vậy, đoàn kết chính là nhân tố quan trọng trong cuộc đấu tranh giai cấp. Có
thể chúng ta xuất thân từ các giai tầng khác nhau của mọi miền đất nước, với mức thu
nhập của gia đình rất khác nhau nhưng chúng ta đều là sinh viên của nước VN, đều
mong muốn được sống trong một xã hội phát triển hạnh phúc. Vậy, giữa sinh viên
chúng ta phải tự xóa bỏ những định kiến về xuất thân, hoàn cảnh gia đình của nhau mà
giúp đỡ nhau trong học tập, nghiên cứu; trong làm việc tạo ra lợi ích cho bản thân và xã
hội; cùng xây dựng tình bạn tốt đẹp; cùng tích cực tham gia thiết kế, truyền tải các
thông tin, thông điệp thiết thực, hấp dẫn về chủ nghĩa Mác - Lênin, về tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, những tấm
gương người tốt việc tốt… tác động đến nhiều bạn trẻ hơn, đồng thời lan tỏa ra toàn xã
hội. => Bằng những hành động nghĩa tình, chung sức đó, chúng ta có thể bắt đầu từ
vạch xuất phát cách xa nhau, điều kiện kinh tế khác nhau nhưng giờ, chúng ta đang thu
hẹp khoảng cách phân hóa giàu - nghèo, phát huy hết mọi tiềm năng trong bản thân
chúng ta mà khai thác mọi tiềm lực của kinh tế, chính trị, xã hội, kết quả là cùng nhau
sánh bước trên con đường xây dựng một xã hội công bằng, phát triển phồn vinh.
Tóm lại, trách nhiệm của sinh viên chúng ta trong cuộc đấu tranh giai cấp ở VN là
không nhỏ, vì chúng ta là thế hệ tiếp theo nắm giữ chìa khóa vận mệnh tương lai của đất
nước. Thế nên, mỗi sinh viên phải tự rèn giũa bản thân về cả nhận thức, tư tưởng lẫn
hành động để trở thành người con đất Việt luôn hướng về Tổ quốc, trung thành với
Đảng và Nhà nước XHCN mà góp phần đưa cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng thành
công.

XI. Quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội: Lý luận và
vận dụng
● Lý luận (trang 233, 234, 235)
1. Vai trò quyết định của tồn tại xã hội và ý thức xã hội
_ Thứ nhất, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại
xã hội và phụ thuộc vào tồn tại xã hội
_ Thứ hai, mỗi khi tồn tại xã hội (nhất là phương thức sản xuất) biến đổi thì những tư
tưởng, lý luận về xã hội, những quan điểm chính trị, pháp quyền, đạo đức, văn hóa,
nghệ thuật, triết học,.. tất yếu sẽ biến đổi theo
_ Thứ ba, không phải bất kỳ tư tưởng nào cũng phản ánh trực tiếp những quan hệ kinh
tế của thời đại, mà chỉ xét đến cùng thì những quan hệ kinh tế mới được phản ánh trong
các tư tưởng ấy.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
_ Thứ nhất, ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội
Trong nhiều trường hợp,...
Một là,...
Hai là,...
Ba là,...
_ Thứ hai, ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội (trong sách)
_ Thứ ba, ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của nó (trong sách)
_ Thứ tư, sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội trong sự phát triển của
chung (trong sách)
_ Thứ năm, ý thức xã hội tác động trở lại tồn tại xã hội (trong sách)
3. Ý nghĩa phương pháp luận
_ Thứ nhất, …
_ Thứ hai, …
_ Thứ ba, …
_ Thứ tư, …
● Vận dụng:
_ Khi nhận thức các hiện tượng xã hội và trong thực tiễn cần phải căn cứ vào cả hai
phương diện tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Là sinh viên, chúng ta có thể vận dụng bằng cách khi nhìn nhận hay đánh giá một hiện
tượng nào đó, chúng ta cần xem xét vào xã hội mà chúng ta đang sống và tư tưởng của
xã hội ấy có phù hợp với hiện tượng xã hội đó hay không.Từ đó, chúng ta sẽ đưa ra thái
độ của mình đối với hiện tượng xã hội ấy. Chẳng hạn như khi xem xét hiện tượng
“trọng nam khinh nữ”, chúng ta phải nhận thức được rằng xã hội hiện nay là một xã hội
công bằng, văn minh thì không thể nào có hiện tượng nam, nữ không được đối xử bình
đẳng. Chính vì thế, ta phải biết chống lại tư tưởng lạc hậu này. Hoặc khi nhận thức về
chiến tranh, chúng ta cần nắm chiến tranh trong xã hội cũ của dân tộc Việt Nam là
nhằm để bảo vệ độc lập chủ quyền, dân tộc nên nó có thể phù hợp với tư tưởng trong
thời kì đó. Nhưng giờ đây, chúng ta đề cao sự hòa bình, chống xung đột, vũ lực nên
chiến tranh là điều không nên diễn ra trong xã hội ngày nay.
_ Cần phải tôn trọng các tư tưởng tiến bộ, khoa học, cách mạng.
+ Là sinh viên của trường Đại học Sư phạm TPHCM nói riêng và một thanh niên
của đất nước CHXHCN VN nói chung, chúng ta cần tích cực học tập, trau dồi
những tư tưởng tiến bộ của Đảng và nhà nước thông qua các môn ở trường đại
học như Giáo dục quốc phòng và an ninh, Tư tưởng Hồ Chí Minh, Triết học Mác
- Lênin,... Từ đó, mỗi sinh viên sẽ tự nhận thức được tầm quan trọng của các
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và nghiêm túc chấp hành để tạo ra
một đất nước CHXHCN VN độc lập - tự do - hạnh phúc mà nhân dân ta luôn
hướng đến. Song, khi nghiên cứu môn học Triết học Mác - Lênin, chúng ta còn
học hỏi được những quy luật, nguyên lý như quy luật lượng-chất, phủ định của
phủ định, phép duy vật biện chứng,... và sự vận dụng những nguyên lý đó vào
trong thực tiễn và trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế bằng cách
vừa coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy tác động tích cực của
đời sống tinh thần xã hội đối với quá trình phát triển kinh tế vào công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, vừa tránh những sai lầm chủ quan trong việc xây dựng văn
hóa, con người mới. Chẳng hạn, là một sinh viên, chúng ta có thể:
*Đẩy mạnh phát triển khoa học - công nghệ thông qua những cuộc thi như cuộc thi sáng
tạo khoa học kỹ thuật, sinh viên nghiên cứu khoa học Euréka,...
*Nêu cao tinh thần xung phong, tình nguyện, xung kích trong việc hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ của Đoàn thanh niên, Hội sinh viên;
*Cần phải tích cực học tập, nâng cao trình độ lý luận chính trị, bồi đắp tư tưởng cách
mạng trong sáng; có lập trường tư tưởng vững vàng, có lòng yêu nước, có niềm tin vào
sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp mới; tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo
vệ Đảng, Nhà nước, đấu tranh chống tham nhũng, tệ nạn xã hội…
*Chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn
cầu như giữ gìn hòa bình, đẩy lùi chiến tranh, chống khủng bố, hạn chế sự bùng nổ dân
số,... và mang hình ảnh nền văn hóa, giá trị của đất nước, những vẻ đẹp của con người
Việt Nam đến với bạn bè quốc tế
_ Cần phải chống lại các tư tưởng phản tiến bộ, phản khoa học, phản cách mạng
+ Tình trạng tham gia biểu tình, chống đối, gây bất ổn chính trị đất nước. Chúng ta
có thể nhận thấy hiện nay một số thế lực thù địch vẫn cố gắng lan truyền những
thông tin sai sự thật nhằm chống phá nền chính trị Việt Nam và lôi kéo những thế
hệ trẻ của đất nước như học sinh, sinh viên biểu tình để phản đối chính dân tộc
của mình. Bởi vì thanh niên là những người được học hỏi, tiếp xúc với nhiều nền
văn hóa nên họ dám nghĩ, dám làm; việc giáo dục tư tưởng, đạo đức còn chưa
được coi trọng quá mức nên đây là những thành phần dễ bị kích động nhất. Vì
thế, mỗi sinh viên cần nhận thức rõ được điều này để ngăn chặn chính mình và
những người xung quanh thực hiện những hành vi phản cách mạng như thế.
+ Những tư tưởng lạc hậu như trọng nam khinh nữ, mê tín dị đoan, tảo hôn,... vẫn
còn tồn tại ở Việt Nam. Điều này khiến cho nhận thức của một số người vẫn còn
bị hạn chế và gây ra việc mất bình đẳng, ảnh hưởng đến tinh thần, tài sản của
nhiều người trong xã hội. Chúng ta cần đẩy mạnh việc tuyên truyền, giáo dục cho
toàn dân, đặc biệt là những dân tộc thiểu số ở miền núi về tác hại cũng như
những nỗ lực trong việc xóa bỏ những hủ tục lạc hậu này của Đảng, nhà nước
thông qua những phương tiện truyền thông đại chúng để có thể định hướng dư
luận theo hướng tích cực hơn.
_ Không được tuyệt đối hóa tồn tại xã hội hoặc ý thức xã hội, bởi vì nếu tuyệt đối hóa
tồn tại xã hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy vật tầm thường; còn nếu tuyệt đối hóa ý thức xã
hội sẽ rơi vào chủ nghĩa duy tâm chủ quan.
+ Để phát triển đất nước Việt Nam, chúng ta cần phải xem xét và dựa vào cả tồn tại
xã hội ( điều kiện tự nhiên như đất đai, sông hồ, khí hậu hoặc các yếu tố dân cư,
phương thức sản xuất) và ý thức xã hội (tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng Mác -
Lênin) để đề ra phương hướng phát triển đó là đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, hội nhập quốc tế, đồng thời bồi dưỡng tư tưởng chính trị cho toàn dân để
giúp đất nước ta vươn tầm quốc tế
+ Đối với sinh viên, ta không nên chỉ xem xét các điều kiện vật chất của xã hội mà
quên đi những tư tưởng chính trị vì điều đó có thể định hướng ta đến những
hướng tư duy lệch lạc về đất nước; song, chúng ta cũng không nên xem xét quá
mức các tư tưởng chính trị của Đảng và Nhà nước mà không áp dụng vào thực
tiễn xã hội vì đó sẽ chỉ là những lý thuyết suông khi không được thực hiện

XII. Quan điểm của CNDVLS về con người và bản chất con người: Lý luận và vận
dụng
● Lý luận
_ Khái niệm con người: Con người vừa là một tồn tại mang bản tính tự nhiên vừa là
một tồn tại mang bản tính xã hội. Bản tính tự nhiên và bản tính xã hội tồn tại trong mối
quan hệ chi phối nhau, tác động lẫn nhau và được thể hiện trong mỗi hành vi, mỗi hoạt
động của con người.
_ Trong sự tồn tại của mình, bất kỳ con người nào cũng đều chịu sự chi phối của hệ
thống các quy luật sau đây:
+ Thứ nhất, các quy luật sinh vật học (...) →Phương diện sinh học
+ Thứ hai, các quy luật tâm lý - ý thức được hình thành trên nền tảng sinh học của
nó(...)
+ Thứ ba, các quy luật xã hội (...) →Phương diện xã hội trong con người
+ Những quy luật trên đây tác động đến con người trong sự liên hệ, tác động qua lại
lẫn nhau để hình thành nên bản chất con người là một thể thống nhất của cái sinh
vật và cái xã hội (mặt sinh vật và mặt xã hội)
_ Do sự tác động của các quy luật sinh vật học và các quy luật tâm lý - ý thức đã hình
thành nên cái sinh vật trong con người.
_ Cái sinh vật dùng để chỉ cái tất yếu khách quan, cần phải có trong mỗi con người, kể
cả cấu tạo giải phẫu của con người, nhờ đó con người mới có thể tồn tại và hoạt động.
→ Con người được hiểu là một bộ phận của giới tự nhiên, là sản phẩm cao nhất trong
quá trình phát triển của giới tự nhiên
+ Cái sinh vật không tồn tại một cách chung chung… nhu cầu tự nhiên của con
người
+ Mà nhu cầu của con người hết sức đa dạng …
+ Trong đó nhu cầu cao nhất là nhu cầu tồn tại
→ Để thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên ấy, con người phải lao động
_ Chính lao động là hoạt động bản chất người, là hoạt động chủ động, sáng tạo, có mục
đích và hình thành nên phương diện xã hội trong con người
+ Thứ nhất, lao động … ý thức
+ Thứ hai, lao động … văn minh tinh thần
+ Thông qua lao động, con người đã tác động vào giới tự nhiên, cải tạo nó để thỏa
mãn nhu cầu ngày càng cao của con người
→ Con người vừa là chủ thể, vừa là sản phẩm của lịch sử, hoạt động thực tiễn vừa là
phương thức tồn tại của con người, vừa là điều kiện của mọi biến đổi xã hội.
+ Thứ ba, thông qua lao động… mà thôi
_ Nhưng mặt khác,...
_ Hơn nữa,...
_ Trên thực tế,...
→ Trong nhận thức và thực tiễn chúng ta không được tuyệt đối hóa…
● Vận dụng
_ Động lực cơ bản của sự tiến bộ và phát triển của xã hội chính là năng lực sáng
tạo lịch sử của con người. Vì vậy, phát huy năng lực sáng tạo của mỗi con người,
vì con người chính là nguồn động lực quan trọng thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển
của xã hội. Mỗi sinh viên cần cố gắng phát huy tính sáng tạo năng động nhờ vào
việc:
+ Chủ động tham gia các hoạt động nghiên cứu, các hoạt động của Đoàn thanh
niên, Hội sinh viên liên quan đến học tập hoặc những hoạt động ý nghĩa khác
+ Rèn luyện tính tự giác trong học tập và các hoạt động phong trào. Nhờ đó, sinh
viên có thể tự đưa ra ý kiến, quan điểm của mình một cách sáng tạo mà không
phải thụ động chờ đợi ý kiến của người khác
+ Tránh xa những ảnh hưởng tiêu cực như việc lười biếng, xem các trang mạng xã
hội một cách mất kiểm soát vì điều này có thể dẫn đến việc lười suy nghĩ, thiếu
tính sáng tạo
_ Do lao động là hoạt động bản chất người nên mỗi sinh viên cần nhận thức được
tầm quan trọng của lao động trong việc tạo ra sản phẩm cho xã hội. Từ đó, sinh
viên dần hình thành tình yêu lao động, ý thức lao động đối với công việc tương
lai của mình và công việc của những người xung quanh. Chính vì vậy, chúng ta
sẽ biết quý trọng những sản phẩm mà con người làm ra, biết sử dụng đúng cách
và không phung phí vì đó là thành quả lao động đáng trân trọng của con người.
Sinh viên có thể thực hiện bằng những việc như:
+ Trân quý những người lao động trong trường học của mình nói riêng và
của xã hội nói chung như bác bảo vệ, cô lao công, giảng viên,... Từ đó,
sinh viên cần có thái độ trân trọng, hành động lịch sự, văn minh, phù hợp
để thể hiện sự tôn trọng
+ Lao động bằng chính công sức của mình, không ỷ lại vào người khác.
Chẳng hạn như việc sinh viên phải tự mình lao động sáng tạo trong học tập
để có thể nâng cao năng suất học tập; hoặc một số sinh viên có thể đi làm
thêm để kiếm tiền trang trải cho việc sinh hoạt và học tập của mình mà
không cần phụ thuộc vào bố mẹ
Tuy nhiên, ta có thể nhận thấy nhiều bạn trẻ ngày nay lại có thái độ dửng
dưng, xem thường giá trị của lao động và người lao động. Chẳng hạn như
một số bạn sinh viên lại không chào hỏi những bác bảo vệ, cô lao công hay
những giảng viên trong trường; hay việc những bạn trẻ sử dụng phung phí
đồng tiền của cha mẹ, không biết tiết kiệm để học tập, trau dồi kĩ năng.
Điều đó chứng tỏ một tình trạng đáng báo động của một bộ phận giới trẻ
ngày nay đối với việc không trân trọng giá trị của lao động đích thực
_ Trong việc phát triển nhân cách, sinh viên không chỉ để mình thụ động bị
quy định bởi điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh lịch sử - xã hội mà bản thân
phải chủ động bồi đắp, sáng tạo nên nhân cách của mình theo chiều hướng
tích cực nhất.
+ Tích cực học tập, rèn luyện những môn học đã được đề ra trong chương trình đào
tạo ở giảng đường đại học để hoàn thiện khả năng tự học. Tất cả các môn học đó
sẽ cung cấp rất nhiều kiến thức bổ ích để sinh viên có thể vận dụng vào thực tiễn
đời sống. Bên cạnh đó, học tập cũng cần phải có chọn lọc để định hướng đúng
đắn lối tư duy của mỗi chúng ta
+ Bên cạnh việc học tập, sinh viên cũng cần chú trọng vào việc rèn luyện, tu dưỡng
đạo đức bởi một con người hoàn mỹ phải hội tụ cả hai yếu tố, đó là tài và đức.
Hình thành đạo đức tốt thông qua lòng yêu nước và có tinh thần học tập phát
triển đất nước giàu mạnh luôn phải được trau dồi mỗi ngày. Chúng ta có thể thực
hiện điều này bằng việc chống gian lận trong thi cử, đạo văn, những văn hóa
phẩm độc hại,... Song, là một nhà giáo tương lai, chúng ta càng phải đấu tranh
mạnh mẽ hơn trong việc chống lại phân biệt đối xử, thiên vị; nạn tham nhũng và
việc lợi dụng chức vụ, quyền hạn để thực hiện hành vi trái pháp luật.
+ Tham gia các hoạt động tình nguyện nhằm bảo vệ môi trường, giúp đỡ những
người dân có hoàn cảnh khó khăn,... để nâng cao trải nghiệm của bản thân và
phát triển những phẩm chất tốt như lòng nhân ái, sự tự tin, tinh thần trách
nhiệm,... để trở thành phiên bản tốt nhất của chính mình

_ Đối với việc xây dựng con người mới trong xã hội chủ nghĩa:
Việt Nam đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, vì thế vấn đề xây dựng
và phát huy nhân tố con người là một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối với sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Trong Cương lĩnh của Đảng Cộng sản Việt Nam
(1991) khẳng định: con người giữ vị trí trung tâm trong sự nghiệp cách mạng.
“Nguồn lực lớn nhất, quý báu nhất của chúng ta là tiềm lực con người Việt
Nam”. Vấn đề này vẫn tiếp tục được khẳng định thông qua các kỳ Đại hội gần
đây. Để phát huy nhân tố con người trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam cần phải thực hiện đồng bộ các vấn đề sau:
1/ Trên lĩnh vực kinh tế: Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường là thành tựu phát triển của nền
văn minh nhân loại, không đối lập với chủ nghĩa xã hội mà tồn tại khách quan
trong quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này phải đảm bảo được sự
tăng trưởng kinh tế với sự tăng lên của GDP bình quân đầu người hàng năm, từ
đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người.
2/ Trên lĩnh vực giáo dục: Nâng cao hiệu quả giáo dục, phát triển nguồn
nhân lực. Nhiệm vụ của giáo dục là “giáo dục cái mà đất nước cần chứ không
giáo dục cái mà ta có”. Mục tiêu của giáo dục phải hướng tới phát triển con
người toàn diện: đức -trí - thể - mỹ. Cần tăng cường giáo dục đạo đức, giáo dục
pháp luật, lý tưởng sống trong nhân dân, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. [tri thức
khoa học].
3/ Trên lĩnh vực văn hóa nghệ thuật: Văn hóa nghệ thuật là sự sáng tạo
theo yêu cầu của cái đẹp, là động lực thúc đẩy con người vươn tới sự hoàn thiện
toàn mỹ.Văn hóa nghệ thuật góp phần xây dựng tình cảm tốt đẹp, tác động tới
nếp nghĩ, lối sống, phong cách làm việc của con người. Việc xây dựng một nền
văn hóa tiên tiến,đậm đà bản sắc dân tộc sẽ có tác dụng tích cực góp phần xây
dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trong thời đại toàn cầu hóa.
3. Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập (QL mâu thuẫn) – chỉ
nguồn gốc, động

lực phát triển

- Vị trí: là hạt nhân của phép BCDV

- Vai trò: chỉ ra nguồn gốc, động lực của sự vđ, phát triển của sv, ht

3.1. Khái niệm mâu thuẫn và các tính chất chung của mth

a) KN mth

- Mâu thuẫn: chỉ mlh thống nhất, đtr và chuyển hóa giữa các mặt ĐL của mỗi sv, ht
hoặc giữa các sv, ht

vs nhau.

- Mặt đối lập: dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hƣớng vđ trái
ngƣợc nhau nhƣng

đồng thời lại là đk, tiền đề tồn tại của nhau.

b) Các tính chất chung của mâu thuẫn

- Mâu thuẫn có tính khách quan và tính phổ biến:

Mâu thuẫn có tính khách quan vì nó là cái vốn có trong sự vật, hiện tƣợng, là bản chất
chung của

mọi sự vật, hiện tượng

Ví dụ: Trong nguyên tử có mâu thuẫn giữa hạt nhân mang điện tích dƣơng và các

electron bao quanh mang điện tích âm. Trong sinh vật học có mâu thuẫn giữa đồng hóa
và dị hóa, di

truyền và biến dị
Mâu thuẫn có tính phổ biến vì nó tồn tại trong mọi sự vật hiện tƣợng, mọi giai đoạn,
mọi quá

trình, tồn tại trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy.

Ví dụ: Trong xã hội có mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất

và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thƣợng tầng, giữa các giai cấp đối
kháng. Trong tư

duy cũng có mâu thuẫn giữa biết và chưa biết, giữa đúng và sai. Trong hoạt động kinh
tế cũng mang tính

phổ biến, chẳng hạn như cung - cầu, tích lũy - tiêu dùng.

- Mâu thuẫn có tính đa dạng và phong phú:

Biểu hiện: mỗi sự vật, hiện tƣợng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn
khác nhau,

biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử khác nhau.

Chúng giữ vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Đó là
mâu

thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ yếu.

VÍ DỤ: Lịch sử thời công xã nguyên thủy và chiếm hữu nô lệ. Trong xã hội công xã
nguyên thủy,

con người phải đấu tranh với tự nhiên, trình độ lao động rất sơ khai => hình thành công
cụ => của cải làm

ra nhiều hơn tiêu thụ => mâu thuẫn giữa ngƣời có của và người không có của

3.2. Nội dung của quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

a) Sự thống nhất của các mặt ĐL

+ Kn thống nhất của các mặt ĐL: dùng để chỉ sự liên hệ, ràng buộc, k tách rời nhau,
quy định lẫn

nhau của các mặt ĐL, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại.

+ Là sự đồng nhất của các mặt ĐL vì các mặt ĐL tồn tại k tách rời nhau nên giữa chúng
bao giờ

cx có những nhân tố giống nhau, tƣơng tự nhau. Do có sự “đồng nhất” của các mặt ĐL
mà trong sự triển
khai của mth đến 1 lúc nào đó, các mặt ĐL có thể chuyển hóa lẫn nhau

b) Sự đtr của các mặt ĐL

+ Kn đtr của các mặt ĐL: dùng để chỉ khuynh hướng tác động qua lại, bài trừ, phủ định
nhau của

các mặt đối lập.

+ Sự đtr của các mặt ĐL có thể đc biểu hiện ở sự ảnh hưởng lẫn nhau hoặc dùng bạo
lực để thủ

tiêu lẫn nhau giữa các mặt ĐL

+ Hình thức đtr của các mặt ĐL hết sức phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tc, vào mqh
qua lại

giữa các mặt ĐL và tùy đk cụ thể diễn ra cuộc đtr giữa chúng

+ Thực chất của sự đtr giữa các mặt ĐL gắn liền vs qúa trình hình thành, phát triển và
giải quyết mth. Đó chính là qtr vận động của mth, bao gồm:

* Gđ hình thành mth: trong bản thân sv, ht các mặt ĐL đồng nhất, tđ ngang nhau những

biểu hiện sự khác nhau – từ khác nhau biểu hiện đến sự khác nhau biện chứng và mth
dần hth.

* Gđ phát triển mth: các mặt ĐL trong sv, ht xung đột nhau và dần trở nên gay gắt vs
nhau

: mth đạt đỉnh điểm chín muồi

* Gđ giải quyết mth: các mặt ĐL chuyển hóa (theo 2 cách: thứ nhất – các mặt ĐL
chuyển

hóa cho nhau, thứ 2 – cả 2 trở thành chất ms), mth đc giải quyết, sv, ht ms ra đời, mth
cũ mất đi nhƣng

mth ms lại xuất hiện... cứ như vậy mà sv, ht k tồn tại vĩnh viễn làm cho thế giới vđ phát
triển.

c) Mối liên hệ giữa thống nhất và đtr

- Cả 2 gắn liền nhau: Trong 1 mth, sự thống nhất và đtr của các mặt ĐL k tách rời nhau.
K có thống nhất

thì k có đtr, thống nhất là tiền đề của đtr

- Cả 2 có sự khác biệt:
+ Sự thống nhất giữa các mặt ĐL phản ánh trạng thái ổn định, trạng thái đứng yên
tƣơng đối – sự

đtr giữa các mặt ĐL phản ánh trạng thái vđ tuyệt đối cuẩ sv,ht

+ Nhờ có sự thống nhất mà sv,ht ms tồn tại nhƣng nhờ có sự đấu tranh mà sv,ht ms
phát triển

+ Theo Lênin : sự thống nhất giữa các mặt ĐL là tạm thời, tƣơng đối; sự đtr giữa các
mặt ĐL là

tuyệt đối. Vì vậy ông nhấn mạnh: “Phát triển là 1 cuộc đtr giữa các mặt ĐL”

Phát triển là cuộc đtr giữa các mặt ĐL:

- Sự phát triển của sự vật, hiện tượng gắn liền với quá trình hình thành, phát triển và
giải quyết mâu thuẫn.

- Việc hình thành, phát triển và giải quyết mâu thuẫn là 1 quá trình đấu tranh rất phức
tạp trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn có những đặc điểm riêng của nó.

- Khi mâu thuẫn đc giải quyết thì sv cũ mất đi, sv mới ra đời lại bao hàm mâu thuẫn ms,
mâu thuẫn ms lại được triển khai,

phát triển và lại đƣợc giải quyết làm cho sv mới luôn luôn xuất hiện thay thế sv cũ.

Mối tƣơng quan giữa các mặt đối lập trong mâu thuẫn: Đấu tranh của các mặt đối lập là
nguồn

gốc, động lực bên trong của sự vận động và phát triển của sự vật, hiện tƣợng. Quá trình
thống nhất và đấu

tranh của các mặt đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng.

Sự chuyển hóa của các mặt ĐL:

- Sự chuyển hóa của các mặt ĐL là tất yếu, là kết quả của sự đtr của các mặt ĐL

- Do sự đa dạng của thế giới nên hình thức chuyển hóa cũng rất đa dạng : có thể 2 mặt
ĐL chuyển

hóa lẫn nhau, cũng có thể cả 2 chuyển hóa thành chất ms

3.3. Ý nghĩa phƣơng pháp luận

- Mth có tính KQ, phổ biến, nên nhận thức mth là cần thiết và phải KQ, k nên né tránh
mth

- Phải biết phân tích mth cụ thể, biết phân loại mth và tìm cách giải quyết cụ thể đv từng
mth
- Phải nắm vững nguyên tắc giải quyết mth. Đó là sự đtr của các mặt ĐL

- Cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong quá trình xem xét và giải quyết mâu thuẫn.

* Liên hệ: sinh viên có những mâu thuẫn trong tƣ duy, biết và chưa biết...

Học là một quá trình tăng triển về mặt tri thức và áp dụng tri thức ấy vào thực tiễn cuộc
sống. Quy

luật mâu thuẫn không cho phép chúng ta nghĩ mình đã có đầy đủ tri thức để giải quyết
mọi vấn đề. Quy

luật mâu thuẫn đòi chúng ta vƣợt qua tất cả mọi định kiến tiêu cực khi muốn loại trừ
một số tri thức và

chỉ chấp nhận một loại tri thức nào đó. Quy luật mâu thuẫn đòi chúng ta không đƣợc
ngủ quên trong một

vài tri thức nhất định nào đó, mà là khả năng mở ra đón nhận sự phong phú vô tận của
tri thức nhân loại.

Quy luật mâu thuẫn phù hợp với quy luật của tƣ duy. Sự tiếp thu tri thức giữa các môn
học, các ngành

học cần đƣợc nhìn nhận trong mối liên hệ tƣơng tác qua lại. Không có loại tri thức
riêng rẽ một mình.

Học trong một chỉnh thể thống nhất các môn, vận dụng khả năng tổng hợp để tiếp thu
tri thức và biết

phân tích để ghi nhớ tri thức.

* Liên hệ đến quá trình hoạt động thực tiễn của bản thân:

- Không ngừng học tập để có tri thức mới tiến bộ hơn.

- Rèn luyện bản thân để bản thân đủ sức đấu tranh với cái xấu, cái chƣa tốt, đấu tranh
chống lại tiêu cực.

- Học thực chất thi thực chất, nói không với tiêu cực trong thi cử.

Là một học sinh trong nhà trƣờng XHCN bản thân chúng em phải không ngừng học tập
thật tốt để

tiếp thu một cách khoa những nguyên lý, những quy luật của chủ Nghĩa Mác-Lênin, tƣ
tƣởng Hồ Chí

Minh và vận dụng vào thực tiển, để có quan điểm đúng đắn, khoa học trong chấp hành
đƣờng lối chủ
trƣơng, chính sách của Đảng và nhà nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay.

Điều đó đòi hỏi ngƣời học sinh trong học tập phải tự giác tu dưỡng, rèn luyện bản thân
mình để hình thành, củng cố nhân sinh quan cách mạng, tình cảm, nghị lực cách mạng
để có sự thống nhất tính khoa học và tính nhân văn trong định hƣớng hành động. Ra
sức đấu tranh loại bỏ cái xấu, cái chưa tốt, đấu tranh chống lại tiêu cực

Đối với bản thân là học sinh phải nâng cao ý thức trách nhiệm trong học tập như : “Sinh
viên 5 tốt”, “Sinh viên xây dựng môi trƣờng thân thiện”. Việc nghiên cứu lý luận phải
liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành: Kết hợp lý thuyết học ở trường với thực tế
lâm sàng ở bệnh viện trong việc chăm sóc sức khoẻ cho bệnh nhân. Học thực chất thi
thực chất, nói không với tiêu cực trong thi cử.

4. Quy luật phủ định của phủ định – chỉ ra khuynh hướng phát triển

Bất cứ sự vật, hiện tƣợng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại, phát
triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi đƣợc thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó là tất yếu
trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không nhƣ vậy sự vật không thể phát
triển được. sự thay thế đó được triết học gọi là phủ định.

- Vị trí: là 1 trong 3 QL cơ bản của phép BCDV

- Vai trò: là khuynh hướng của mọi vận động , phát triển của sự vật, hiện tượng và sự
liên hệ giữa cái mới và cái cũ.

Để hiểu đc bản chất của QL, trước hết cần nắm được Phủ định và Phủ định biện chứng.

4.1. KN phủ định, phủ định biện chứng

a) KN PĐ

Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình phát sinh, phát triển
và diệt vong. SV cũ mất đi đc thay thế bằng sự vật mới. Sự thay đổi đó gọi là PĐ. Như
vậy, Phủ định là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất

b) KN PĐBC

Nếu qđ siêu hình coi PĐ là sự xóa bỏ hoàn toàn cái cũ thì triết học Mác – Lênin coi PĐ
là sự

PĐBC – sự PĐ có kế thừa, tạo đk cho sự phát triển.

Quan niệm về sự PĐBC nhƣ trên tất yếu sẽ gắn vs sự giải quyết mth và thực hiện bƣớc
nhảy.
Chính sự ra đời của sv ms về chất phải thông qua việc giải quyết mth (đó cũng chính là
bƣớc nhảy về

chất)

c) Những đặc điểm của PĐBC

- Tính KQ: PĐBC mang tính KQ vì nguyên nhân của sự PĐ nằm ngay trong bản thân
sv. Đó chính là kq

giải quyết mth bản thân sv, là sự tự thân PĐ. Điều đó cũng có nghĩa PĐBC k phụ thuộc
vào ý muốn, ý chí

của cn. Cn chỉ có thể tđ làm cho qtr ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững QL
phát triển của sv

Vd: CNXH PĐ CNTB là kết quả của việc giải quyết mth cơ bản, KQ, vốn có trong lòng
xh TB (mth giữa

tc xh hóa của LLSX vs tc chiếm hữu tƣ nhân TBCN về TLSX, đc biểu hiện về mặt xh
là mth giữa gc

công nhân với gc TS)

- Tính kế thừa : PĐBC mang tính kế thừa vì PĐBC là kết quả của sự phát triển của sv
nên nó k thể là sự

phá hủy hoàn toàn cái cũ. Cái ms chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, là sự phát triển
của cái cũ trên cơ

sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo
những mặt còn thích

hợp, những mặt tích cực bổ sung những mặt ms phù hợp vs hiện thực. Sự phát triển
chẳng qua là sự biến

đổi trong đó gđ sau bảo toàn tất cả những mặt tích cực đc tạo ra ở gđ trƣớc và bổ sung
thêm những mặt

ms phù hợp vs hiện thực. VD: trong sinh vật, các giống loài đều phát triển theo QL di
truyền, các thế hệ

con cái đều kế thừa những yếu tố tích cực của các thế hệ bố mẹ. Triết học Mác ra đời từ
giữa TK XIX đã

kế thừa mọi giá trị tƣ tƣởng của quá khứ, trực tiếp là các giá trị của nền triết học cổ
điển Đức.
Trong qtr PĐBC, sv KĐ lại những mặt tốt, mặt tích cực và chỉ PĐ những cái lạc hậu,
cái tiêu cực.

Do đó, PĐ đồng thời cũng là KĐ

Ý nghĩa của vấn đề PĐBC: PĐBC k chỉ là sự khắc phục cái cũ, sv cũ, mà còn là sự lk
giữa cái cũ

và cái mới với cái cũ và sv mới,giữa khẳng định với phủ định, quá khứ với hiện thực.
PĐBC là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển, vạch rõ khuynh hướng phát
triển của cái mới.

4.2. Nội dung của QL PĐ của PĐ -5

Thế giới vc vđ và phát triển diễn ra thông qua qtr PĐBC vô tận. Sự phát triển của các sv
diễn ra qua nhiều lần PĐ, tạo ra 1 khuynh hƣớng đi từ thấp đến cao có tính chu kì. Tính
chu kì của sự PĐBC biểu hiện ở chỗ thông qua 1 số lần PĐ, cái ms xuất hiện dƣờng
nhƣ lặp lại cái cũ nhƣng trên cơ sơ cao hơn.

Thí dụ :

Hạt lúa Cây lúa Bông lúa

(Khẳng định) (1) (Phủ đinh) (2) (PĐ của PĐ)

+ Qua sự PĐ lần thứ nhất, sv chuyển thành mặt ĐL vs chính mình (cây lúa PĐ hạt lúa).

+ Qua sự PĐ lần thứ hai, sv ms này lại chuyển thành mặt ĐL vs nó và dƣờng nhƣ trỏe
lại dạng

ban đầu nhƣng trên cơ sở cao hơn (bông lúa PĐ cây lúa).

Nhƣ vậy, kq của sự PĐ của PĐ là cái tổng hợp tất cả những yếu tố tích cực đã đc phát
triển từ trƣớc, trong cái KĐ ban đầu và cái PĐ lần thứ nhất. Đó là sự “lọc bỏ” BC
những gđ đã qua để đạt đến cái mới về chất cao hơn. Đó chính là qtr “lọc bỏ” BC.

Ở thí dụ trên, qua 2 lần PĐ sv trải qua 1 chu kì phát triển. Rõ ràng, ở sv đơn giản, ít ra
cx phải thông qua 2 lần PĐ ms có đc sự phát triển, ở các sv phức tạp số lần PĐ có thể
nhiều hơn. Chẳng hạn :

Vòng đời của con tằm : trứng – tằm – nhộng – ngài – trứng, ở đây vòng đời của con tằm
trải qua 4 lần PĐ

Sự PĐCPĐ là sự kết thúc của 1 chu kì phát triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của 1
chu kì mới và cứ nhƣ thế tiếp tục mãi mãi, tạo nên đƣờng “xoáy ốc” của sự phát triển.
Sự phát triển theo đƣờng “xoáy ốc” là biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc trƣng của qtr
phát triển BC của sv: tính kế thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vòng của đƣờng
“xoáy ốc” dƣờng nhƣ thể hiện sự lặp lại, nhƣng cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của
sự phát triển. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao đc thể hiện ở sự nối tiếp
nhau từ dƣới lên của các vòng trong đƣờng “xoáy ốc”.

4.3. Ý nghĩa pp luận (tr17-paper)

* Liên hệ : Vận dụng với quá trình đỏi mới ở nƣớc ta

Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hƣớng phát
triển của sự vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi theo
đƣờng thẳng mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau.
Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trứớc. Vì vậy, quá trình đổi mới của nƣớc
ta cùng đều diễn ra theo chiều hƣớng đó. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định
hƣớng xã hội chủ nghĩa đặt dƣới sự quản lý điều tiết của nhà nƣớc tạo tiền đề phủ định
nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong
tƣơng lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa tuy nhiên ở mỗi mô hình đều có đặc điểm riêng,
do đó, chúng ta đã nhận thức đƣợc vấn đề và đã có cách thức tác động phù hợp với sự
phát triển của thực tiễn đất nƣớc, đƣa đất nƣớc thoát khỏi khủng hoảng kinh tế và từng
bƣớc xóa bỏ đói nghèo nhưng không vì thế mà chúng ta không trân trọng cái cũ.

Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung, biết kế thừa và sử dụng đặc trưng tiến
bộ của nền kinh tế tập trung là tiền đề để phát triển nền kinh tế thị trƣờng trên cơ sở
đảm bảo định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy mới có kết quả đáng mừng của 20
năm đổi mới.

Tuy nhiên để có thành công như hôm nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt động
nhận thức cũng nhƣ hoạt động thực tiễn chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất cả những
quy luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều kiện cụ thể. Chỉ
có nhƣ vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học tập, mới có chất lƣợng và hiệu
quả cao.

* Sự vận dụng QLPĐCPĐ vào việc xd và phát triển nền văn hóa VN tiên tiến đậm
đà bản sắc dt

Hiện nay, về bản sắc VHDT và những biến thể của nó đang là 1 trong những vđề đc đb
quan tâm ở VN. Nỗi ám ảnh về bản sắc hiện diện ở khắp nơi, từ những diễn ngôn CT
nhƣ: “XD nền văn hóa tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dt”, “hội nhập chứ k hòa tan”
cho đến các hđ KT, VH, XH nhƣ xh thƣơng hiệu Việt, tự kiểm điểm tính cách dt hay
phê bình văn học nt. K thể PĐ, đây là 1 định hƣớng đúng đắn, 1 mối quan tâm lành
mạnh của toàn xh khi VN ngày càng tham gia 1 cách toàn diện hơn vào qtr toàn cầu hóa
nhƣng tự bản thân những khát vọng bảo tồn, phát huy bản sắc dt cũng đặt ra những câu
hỏi hóc búa đv toàn xh, trƣớc hết là trong việc xđ bản sắc VHDT và sau đó là việc ứng
xử vs bản sắc VH đó. “Bản” là cái gốc, cái căn bản, cái lõi, cái hạt nhân của 1 sv. “Sắc”
là thể hiện ra ngoài. Nói bản sắc dt của VHVN tức là ns những gtri gốc, căn bản, cốt lõi,
những giá trị hạt nhân của dt VN. Nói những giá trị hạt nhân tức là k phải ns tất cả mọi
giá trị, mà chỉ là ns những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, chúng mang tính dt sâu
sắc đến nỗi chúng biểu hiện trong mọi lĩnh vực nhƣ : văn học, nt, sân khấu, hội họa,
điêu khắc, kiến trúc, ...Những giá trị hạt nhân đó k phải tự nhiên mà có, nó đc tạo thành
dần dần và đc KĐ trong qtr lịch sử xd, củng cố và phát triển của NN VN. Những giá trị
đó k phải là k thay đổi trong qtr lịch sử. Có những giá trị cũ, lỗi thời bị xóa bỏ, và có
những giá trị ms, tiến bộ đc bổ sung vào. Có những giá trị tiếp tục phát huy td dƣới
những hình thức ms. Dt VN, vs tƣ cách là chủ thể sáng tạo, thƣờng xuyên kiểm nghiệm

những giá trị hạt nhân đó, quyết định những thay đổi và bổ sung cần thiết, tái tạo những
giá trị đó từ thế

hệ này sang thế hệ khác. Nếu dt k có ý thức giữ gìn, bồi dƣỡng, tái tạo để trao truyền từ
thế hệ này sang

thế hệ khác thì chúng cx bị mai một và tàn lụi đi.

Vận dụng QLPĐCPĐ, ta k thể bảo vệ thụ động bản sắc mà chỉ hòa nhập cọ sát và biến
đổi bản sắc

ms xuất hiện và chói sáng. Từ Truyện Kiều, thơ Nôm hay tranh khắc gỗ dân gian, tuồng
ch o, nhạc Cung

đình Huế, Quan họ hay Ca trù chứa đựng bản sắc dt vì từng là sự giao thoa, cọ sát, khai
thác lẫn nhau của

các dòng văn nghệ, văn hóa khác nhau. Áo dài, cái nón tới tranh sơn mài, lụa, sơn dầu
từ thời Đông

Dƣơng tới Đổi Mới, Thơ Mới, tiểu thuyết, kiến trúc Đông Dƣơng, cải lƣơng đều là
những suối nguồn, và

“kho chứa” của bản sắc dt. Nó trừu tƣợng song k chung chung mà nằm ở các tác phẩm
cụ thể của các tác

giả cụ thể. Nếu có những nghiên cứu nhận dạng đc những nét chung nào đó của các tác
phẩm, tác giả đó

thì ta có thể gọi tên “bản sắc dt” ta. Giữ gìn bản sắc k cho vào cố thủ trong tính riêng
biệt, khƣớc từ giao

lƣu văn hóa. Trên thế giới này k có 1 nền văn hóa nào có tính thuần nhất bản địa. Sự
thay đổi giữa các

nền văn háo là do trao đổi. Khi trao đổi ngừng thì cả 2 địa bàn đều chững lại trong phát
triển

Chẳng nói gì xa, nửa đầu TK XX, văn hóa lối sống Pháp, theo đó là châu Âu xâm nhập
vào ta

nhanh và mạnh, tƣởng nhƣ ngự trị, trong khi VHDT có dấu hiệu suy yếu. Thế mà
những năm 20-30 và
đầu 40, dƣới sự tác động của làn sóng ấy và cùng với vốn liếng vh giàu bản sắc có sẵn,
đã nảy nở cả 1 nền

vh-nt VN ms hầu nhƣ chỉ tầng lớp tiểu TS ms hình thành tạo ra, vs văn xuôi và thi ca,
âm nhạc, hội họa,

sân khấu, phê bình vh.. còn âm vang đến tận ngày nay. Cuộc hội họa đầu của thời ms bị
đứt quãng ấy đã

làm cho vh Việt, cn Việt phong phú hơn, bổ túc những nét mới cho bản sắc. Ta chối bỏ
những cái gì đó, ta

tiếp thu và sản sinh ra những cái gì đó mới hơn, phù hợp hơn, có sức nâng cao lên.

You might also like