Professional Documents
Culture Documents
chỉ tiêu đo lường giáo dục
chỉ tiêu đo lường giáo dục
mức độ tăng năng suất có thể được gán cho nền giáo dục tốt hơn.
2. Các chỉ số đo lường sự phát triển của giáo dục và đào tạo
Trong phát triển giáo dục và đào tạo, chúng ta có thể xác định hệ thống phân loại nhằm
phản ánh ba mối quan tâm chính liên quan đến các nhà hoạch định chính sách về lợi ích
phát triển có được từ đầu tư giáo dục: (1) học tập là một nhu cầu cơ bản của con người;
[2] công bằng và hiệu quả trong hoạt động của hệ thống giáo dục, trong đó hiệu quả liên
quan đến hiệu quả chi phí của hệ thống giáo dục và việc sử dụng các nguồn lực được sử
dụng trong giáo dục và công bằng đối với việc phân phối các nguồn lực và lợi ích của
người dân; (3) ngoại tác của giáo dục, tức là tác động của nó đối với năng suất, hoạt động
của thị trường lao động, sức khỏe và sự tham gia của xã hội.
3.1. Nhu cầu cơ bản về giáo dục và đào tạo
Hoạt động của hệ thống giáo dục thường được đo lường về trình độ học vấn của dân số.
Ví dụ, mục tiêu 100% biết chữ sẽ xác định tỷ lệ mù chữ của dân số trưởng thành là mức
thiếu hụt do chính sách tạo rà, trong khi khả năng tiếp cận phổ cập giáo dục tiểu học có
thể là chuẩn mực để xác định mức thiếu hụt trong tỷ lệ nhập học tiểu học thuần túy, v.v...
Rõ ràng, theo cách này các chỉ số hoạt động sẽ hỗ trợ quá trình chẩn đoán các nhu cầu
hiện có và xác định các ưu tiên trong việc cải thiện giáo dục. Chỉ tiêu về dòng vốn nhân
lực, xác định mức độ bao phủ và hiệu quả nội bộ của hệ thống, thường được nắm bắt
thông qua tỷ lệ nhập học (tổng và ròng] và tỷ lệ duy trì ở các cấp học khác nhau. Tuy
nhiên, điều quan trọng là phải phân biệt giữa tỷ lệ nhập học và duy trì trường công lập và
tư thục, không chỉ để đảm bảo toàn bộ hệ thống giáo dục nói chung, mà còn để đánh giá
hiệu quả của các hệ thống thay thế. Chỉ tiêu về lượng vốn nhân lực, được xác định bằng
tỷ lệ biết chữ ở người trưởng thành và số năm đi học trung bình của lực lượng lao động,
là để đo lường dự trữ hình thành vốn con người hiện có. Mức độ bao phủ và hiệu quả bên
trong của hệ thống giáo dục sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ biết chữ theo thời gian. Số năm đi học
trung bình (đã hoàn thành) của (các nhóm nhỏ) dân số là một thước đo khác về nguồn
vốn nhân lực và có thể được coi là một chỉ số liên quan đến thành tích giáo dục trong dài
hạn. Thiếu sót lớn của chỉ số này rõ ràng là nó chỉ đo lường số lượng đi học chứ không
phải chất lượng. Chỉ tiêu về chất lượng học tập có thể được đo lường thông qua các bài
kiếm tra thành tích về kiến thức và kỹ năng. Hệ thống đánh giá quốc gia có thể giúp các
nhà hoạch định chính sách xác định các đầu vào và quy trình hiệu quả và cải thiện những
đầu vào này để đạt được những kết quả có thể đo lường được trong việc học tập của học
sinh. Đánh giá thành tích giáo dục như một chỉ số đầu ra là rất quan trọng vì hai lý do.
Thứ nhất, chất lượng giáo dục, tức là loại kỹ năng và kiến thức, cuối cùng là chìa khóa để
hiểu mối liên hệ giữa giáo dục và năng lực thu nhập, giáo dục và năng suất, giáo dục và
sức khỏe, giáo dục và sự tham gia của xã hội, v.v... Thứ hai, trong phạm vi đánh giá kết
quả học tập của học sinh cũng cung cấp thông tin cần thiết để đánh giá hiệu quả của các
hình thức giáo dục thay thế và từ đó đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả học tập của học
sinh.
3.2 Hiệu quả của giáo dục và đào tạo
Hiệu quả trong giáo dục và đào tạo có hai mặt: hiệu quả bên trong và hiệu quả bên ngoài.
Hiệu quả bên ngoài liên quan đến mức độ mà hệ thống giáo dục tạo ra các kỹ năng cần
thiết để vận hành trơn tru nền kinh tế và xã hội theo nghĩa rộng. Hiệu quả nội bộ liên
quan đến mối quan hệ giữa đầu vào và mục tiêu trước mắt (đầu ra) trong giáo dục, chẳng
hạn như số lượng sinh viên tốt nghiệp, chất lượng giáo dục và khả năng kiếm tiền của
sinh viên tốt nghiệp. Chỉ tiêu về chi phí và đầu vào được xác định là chi phí đơn vị cho
mỗi học sinh có là chỉ tiêu cơ bản đầu tiên cho các quyết định trong giáo dục liên quan tới
quá trình lập kể hoạch ngân sách. Chi phí này thường được phân loại theo (i) cấp học và
loại chương trình giảng dạy (tức là tiểu học, trung học, đại học, v.v. và loại hình giáo dục
trung học, giảng viên trong giáo dục đại học, v.v...): (ii) khu vực (trường tư thục so với
trường công lập); (iii) vùng (ví dụ chi phí đơn vị có thể khác nhau giữa khu vực thành thị
và nông thôn), và (iv) chi tiêu và loại đầu vào (lương giáo viên, chi phí thuê nhà tương
đương của trường học, tài liệu giảng dạy, v.v....). Do đó, dù việc phân tích hiệu quả chi
phí lập kế hoạch ngân sách trong giáo dục có vẻ khá hiển nhiên, nhưng khó có thể mà có
thông tin chính xác về chi phí đơn vị của các cấp học, loại chương trình giảng dạy hoặc
các khoa đại học khác nhau. Chỉ tiêu về lợi ích và đầu ra. Kết quả học tập của học sinh là
lợi ích giáo dục tức thời quan trọng nhất và được đo lường tốt nhất thông qua các bài
kiểm tra thành tích như đã thảo luận ở trên. Phân tích kinh tế về giáo dục thường tập
trung chủ yếu vào kết quả thị trường lao động, được đo lường thông qua thu nhập của
sinh viên ra khỏi hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, sự không hoàn hảo của thị trường lao
động có thể dẫn đến tình trạng người lao động không được trả lương chính xác theo năng
suất biên của họ. Do đó, mối liên hệ giữa (chất lượng) đi học, năng suất và thu nhập
không nên được coi là đương nhiên và cần được đánh giá đầy đủ trong phạm vi từng ngữ
cảnh.
Chỉ tiêu về khả năng tiếp cận và yêu cầu. Thông thường, phân tích kinh tế của các yếu tố
được coi là chỉ số tiếp cận ở đây tập trung vào khái niệm chi phí cơ hội, tức là thu nhập bị
bỏ qua của thời gian dành cho hệ thống giáo dục. Tuy nhiên, việc đo lường giá trị chiết
khấu của các khoản thu nhập bị bỏ qua là một vấn đề khó khăn, vì các cá nhân sẽ không
chắc chắn về thu nhập bị mất của một năm học thêm ở trường. Một khái niệm liên quan
hơn là sự "sẵn sàng chi trả" cho các dịch vụ và đã được áp dụng trong các cuộc khảo sát
hộ gia đình tập trung vào việc đo lường các điều kiện sống. Thông tin như vậy rất hữu ích
vì nó cung cấp dấu hiệu về những gì mọi người sẵn sàng (hoặc có thể) đãu tư vào giáo
dục, hữu ích cho việc đánh giá khả năng thu hồi chi phí giáo dục thông qua phí sử dụng
hoặc các cơ chế tài chính khác. Khoảng cách đến trường học (và các dịch vụ xã hội nói
chung) tự nó có thể là một yếu tố quan trọng hạn chế khả năng tiếp cận của người nghèo,
đặc biệt là ở các vùng nông thôn với dân số phân tán. Do đó, hiệu quả chi phí của việc
đầu tư vào các dịch vụ giáo dục có thể phụ thuộc rất nhiều vào cơ sở hạ tầng vật chất
(đường xá) khác.
3.3. Các ngoại tác
Các ngoại tác của giáo dục và đào tạo có vai trò quan trọng để đánh giá về sự khác biệt
giữa các chỉ số đầu ra và kết quả. Sự tồn tại có thể có của các ngoại tác này cũng là trọng
tâm của các phương pháp đánh giá về "năng suất" hoặc "lợi nhuận" của đầu tư giáo dục
thông qua phân tích chi phí - lợi ích, ngay cả khi xem xét tỷ suất sinh lợi xã hội. Ở cấp độ
tổng hợp, cách tiếp cận truyền thống về mối quan hệ giữa giáo dục và tăng trưởng kinh tể
(ví dụ Denison 1962) đã lấy lại động lực thông qua cái gọi là lý thuyết tăng trưởng nội
sinh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hình thành vốn con người và thay đổi công nghệ
nội sinh để giải thích tăng trưởng kinh tế tổng hợp (Romer 1986, Lucas 1988). Nói cách
khác, giáo dục và đào tạo có thể tạo ra các ngoại tác quan trọng quan trọng, có thể là một
phần của các mục tiêu cuối cùng của đầu tư giáo dục. Điều quan trọng là phải xem xét
những điều này trong việc thiết kế các chính sách giáo dục. Nếu các ngoại tác này là một
yếu tố quan trọng cho khoản đầu tư đó, thì điều hợp lý là yêu cầu các mục tiêu đó phải
được thực hiện rõ ràng và nếu có thể, chuyển chúng thành các kết quả có thể đo lường
được, để cho phép đánh giá đầy đủ và dành nguồn lực cho việc nghiên cứu và phân tích
thích hợp tác động phát triển ở cấp độ này
Taif lieeuj: Đo lường phát triển giáo dục và đào tạo: các chỉ số và dữ liệu thống kê
Lê Kim Sa -Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam ;Trần Đức Hiệp - Trường Đại học
Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội