Professional Documents
Culture Documents
N
À
LỊCH SỬ VĂN M MINH THẾ GIỚI
Đề tài: VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI
LỜI MỞ ĐẦU
Nói đến lịch sử văn minh nhân loại, người ta thường nghĩ đến những giá trị to lớn
mà con người đã đạt được ngày nay. Nhưng chúng ta cũng cần phải nhìn nhận lại
quá trình phát triển của lịch sử xã hội loài người trong quá khứ, ngay từ rất sớm-
khoảng 6000 năm TCN, khi mà hầu hết con người trên Trái Đất còn đang ăn lông ở
lỗ, cầm đá ném rìu, thì ở vùng đồng bằng sông Nile những tầng người bản địa đã biết
tập trung lại làm nông nghiệp, sáng tạo ra chữ viết, sáng tạo ra một nền văn minh-
gọi là Ai Cập- một trong 4 nền văn minh cổ xưa nhất trong lịch sử loài người, đó là
văn minh Lưỡng Hà, văn minh Ai Cập, văn minh Hoa Hạ và văn minh Ấn Độ. Đến
ngày hôm nay người ta vẫn còn băn khoăn văn minh Ai Cập hay văn minh Lưỡng
Hà là nền văn minh đầu tiên trên thế giới, tuy nhiên không thể phủ nhận được Ai
Cập là nền văn minh cổ xưa được ghi chép một cách đầy đủ nhất.
Lịch sử văn minh Ai Cập cổ đại kéo dài từ khoảng 3100 TCN đến 30 TCN.Trong
thời gian này, Ai Cập trở thành một siêu cường công nghệ và văn hóa của thế giới cổ
đại.
Quốc gia này phát triển một nền kinh tế thịnh vượng nhờ vào nông nghiệp, công
nghiệp, và thương mại phát triển. Họ đã khai thác dòng sông Nile để tưới tiêu đất
đai, sản xuất nhiều mặt hàng nông sản như cây lúa, lạc, cây có hạt và mật ong, góp
phần tạo ra một nền kinh tế phát triển. Vượt qua những khó khăn địa lý và tài
nguyên, người Ai Cập đã phát triển một hệ thống khoa học và công nghệ ấn tượng.
Nền văn minh Ai Cập cổ đại còn có các biểu tượng và hệ thống văn bản phức tạp, họ
phát triển chữ viết hieroglyph, một hệ thống bao gồm hình ảnh và ký tự để ghi lại
thông tin về lịch sử, văn hóa, tôn giáo và các hoạt động hàng ngày. Ngoài ra, Ai Cập
cổ đại còn có cả một hệ thống pháp luật, tổ chức xã hội phân tầng và học vấn cao.
Tuy nhiên, sau thời kỳ phát triển rực rỡ, Ai Cập cổ đại rơi vào thời kỳ suy thoái và
thống nhất bởi các quốc gia khác như Hy Lạp và La Mã. Vào cuối thế kỷ thứ 4 TCN,
Ai Cập cổ đại bị Roman chiếm đóng và trở thành một địa điểm văn minh được sáng
tạo và ảnh hưởng bởi các quốc gia ngoại vi. Đã trôi qua hàng ngàn năm, di sản của
Ai Cập cổ đại vẫn sống mãi và vẫn được ngưỡng mộ và khám phá bởi các nhà
nghiên cứu và khách du lịch từ khắp nơi trên thế giới. Xem lại lịch sử Ai Cập cổ đại
giúp chúng ta hiểu rõ hơn về nguồn gốc và sự phát triển của nền văn minh loài người
và ghi nhận những thành tựu và đóng góp to lớn của Ai Cập cổ đại đối với thế giới
hiện đại. Vì vậy chúng em đã cùng nhau làm bài tiểu luận về nền "văn minh Ai Cập"
cổ đại để có thể hiểu sâu hơn về nền văn minh này. Trong quá trình làm để tài của
chúng em cùng với thời gian và trình độ có hạn nên không tránh khỏi những thiếu
sót, hạn chế. Chúng em luôn mong thầy góp ý giúp chúng em hoàn thành được bài
tiểu luận này được hoàn chỉnh hơn, có thêm kinh nghiệm cho những lần sau cũng
như quá trình dạy học sau này của chúng em!
Em xin cảm ơn thầy!
NỘI DUNG
I. Tổng quan về Ai Cập cổ đại.
1. Vị trí địa lý và địa hình.
Ai Cập là quê hương của một trong những nền văn minh xuất hiện sớm nhất trong
lịch sử xã hội loài người. Ai Cập nằm ở Đông Bắc của Châu Phi, là một thung lung
hẹp và dài, nằm dọc theo trung và hạ lưu sông Nile, hai bên thung lũng là những dãy
núi đá nham thạch và hoa cương thẳng đứng như những bức tường thành, bị đóng
kín bởi những vùng núi hiểm trở, khó đi lại và sa mạc lớn chỉ có ở phía Đông Bắc có
dải đất dài Xuye là cửa ngõ để dễ dàng tiến vào trong lãnh thổ Ai Cập. Về mặt địa lý
cổ, Ai Cập chia thành 2 khu vực lớn: Từ Memphis trở xuống phía Nam ( vùng thung
lũng sông Nile) gọi là Thượng Ai Cập; từ Memphis đến bờ Địa Trung Hải ở phía
Bắc (khu tam giác sông Nile) gọi là Hạ Ai Cập.
Ai Cập xưa kia hầu như bị cô lập với thế giới bên ngoài vì phía Đông giáp với
Biển Đỏ và sa mạc Arab, phía Tây là sa mạc Libya khô khan, phía Nam là núi rừng
Nubia trùng điệp và phía Bắc là Địa Trung Hải. Tuy nhiên hiện nay Ai Cập lại nằm
ở vị trí địa lý quan trọng về mặt chính trí và ngoại thương vì là nơi giao nhau của 3
Châu lục là Châu Âu, Châu Á và Châu Phi-hòa nhập quanh 1 biển trung gian là Địa
Trung Hải- nơi nối liền hoặc chia cắt 3 đại dương: Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương => Đây chính là cửa ngõ, là nơi Ai Cập giao lưu kinh tế-văn hóa
với các quốc gia và khu vực khác ở phương Đông.
Hoàn cảnh địa lý và điều kiện tự nhiên của người Ai Cập cổ đại có liên quan đến
tính chất trì trệ tương đối của xã hội và tính đặc thù của nền văn minh cổ Ai Cập.
Với địa hình khép kín với sa mạc, hơn 90% đất ở Ai Cập là sa mạc, số ngày mưa rất
ít, quanh năm trời nắng, độ ẩm không khí thấp. Khí hậu mùa đông, mùa hạ nóng và
khô. Vùng ven biển Alexanderia có lượng mưa lớn nhất (200mm). Vùng cạnh Biển
Đỏ hầu như không có mưa. Nhiệt độ trung bình tháng giêng ở miền Bắc là 12 độ,
miền Nam khoảng 15-16độ,…Và để chống chịu được với thời tiết khắc nghiệt ấy,
người dân Ai Cập có dòng sông Nile. Với chiều dài hơn 6000km, trong đó chảy qua
Ai Cập khoảng 700kn đã bồi đắp nên những mảnh đất màu mỡ và cung cấp một
nguồn nước dồi dào. Hơn thế nữa, sông Nile đã trở thành niềm cảm hứng cho nghệ
thuật và tôn giáo của người Ai Cập
Với điều kiện tự nhiên thuận lợi ấy đã cho con người ở thời đồ đá cũ chuyển từ săn
bắt hái lượm sang định cư nông nghiệp và chăn nuôi, dòng sông Nile đã gắn liền với
nhiều sự hình thành cũng như sự sụp đổ của nhiều nền văn minh cổ đại là một trong
số đó là Ai Cập- nơi được cho là cái nôi của nền văn minh hiện đại.
hình 1: Vị trí địa lý của Ai Cập cổ đại
2. Sông ngòi.
Toàn bộ lịch sử của Ai Cập gắn liền với sông Nile. Sông Nile- có nghĩa là con
sông lớn, là dòng sông thuộc Châu Phi, khu vực Bắc Phi và là con sông dài nhất
trên thế giới với chiều dài 6650km2, diện tích lưu vực là 3.254.555 (km2) chảy qua
Ai Cập, Nam Sudan, Uganda và Etiopia. Nó là nguồn sống quan trọng của cư dân
trong thung lũng, mang lại màu mỡ dồi dào và phục vụ cho sự phát triển của nền
văn minh Ai Cập cổ đại. Hệ thống của sông Nile bao gồm hai con sông là sông
Nile Trắng (80%) và sông Nile xanh(20%).
Lưu vực sông Nin chiếm khoảng 1/10 diện tích châu Phi là nơi phát triển và tàn
lụi của nhiều nền văn minh cổ đại. Cư dân hai bên bờ sông Nin là một trong
những nhóm người đầu tiên biết trồng trọt, làm nông nghiệp và sử dụng cày. Lưu
vực sông Nile được giới hạn ở phía Bắc bởi biển Địa Trung Hải, phía Đông bởi
dãy Biển đỏ (Red Sea Hills) và Cao nguyên Ethiopia , phía Nam bởi cao nguyên
Đông Phi, trong đó có bao gồm hồ Victoria là một trong 2 nguồn của sông Nin,
phía Tây tiếp giáp với lưu vực sông Chad, sông Congo và trải dài xuống Tây nam
đến dãy Marrah thuộc Sudan.
Hằng năm, từ tháng 6 đến tháng 10, nước sông Nile dâng cao tràn ngập hai bờ,
biến Ai Cập thành một biển nước mênh mông. Từ tháng 6 đến tháng 2, sau khi
nước sông Nile rút đi, để lại một lớp phù sa màu mỡ dày đặc, có nơi dày tới 10m,
đất ở đây lại mềm, tơi và xốp. Vì thế cư dân Ai Cập chỉ cần dùng đến những chiếc
cày, cuốc bằng gỗ cũng có thể xới đất để gieo trồng. Khoảng thời gian từ tháng 11
đến tháng 2 là mùa gieo hạt và mùa lúa chín, trên đồng ruộng cây cối tốt tươi. Từ
tháng 3 trở đi là mùa gặt hái, tiếp đến là mùa khô khan cát bụi. Vì vật mà người ta
thường nói " Ai Cập liên tiếp là một đồng cát bụi, một biển nước và một vườn
hoa".
Sông Nile ngoài việc tạo ra một lượng đất phù sa màu mỡ và mang nước tưới
cho cây cối, hoa màu tốt tươi, còn là đường giao thông huyết mạch của đất nước.
Sử gia Hy Lạp cổ đại Herodote đã từng viết: "Ai Cập là tặng phẩm của sông
Nile", ý nói rằng sông Nile đã tạo nên đất nước Ai Cập, lại có tác dụng rất lớn đối
với sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa và lịch sử của người Ai Cập. Vì vậy
không phải ngẫu nhiên mà người Ai Cập thời cổ đại xem sông Nile như thần
thánh, họ đặt ra bao nhiêu thần thoại, bao nhiêu thơ ca để ca tụng dòng sông này.
3. Tài nguyên.
Về khoáng sản Ai Cập không có nhiều, chủ yếu là những loại đá ở những dãy
núi phía Đông và phía Tây dọc theo thung lũng sông Nile: đá vôi, đá huyền vũ, đá
hoa cương, đá vân màu,... dùng làm vật liệu kiến trúc quan trọng nhất của người
Ai Cập cổ. Ngoài ra, ở miền Sinai có được một ít mỏ đồng, còn có những nguyên
liệu quan trọng như sắt và gỗ thì phải mua từ nước ngoài về. Ở Ai Cập cổ đại có
một loại cây mọc rất nhiều trong các đầm, hồ và dọc theo hai bên bờ sông Nile, đó
là cây Papyrus. Người Ai Cập thường dùng vỏ cây Papyrus làm giấy viết, dùng
thân cây làm bút và rễ cây làm mực.
4. Cư dân.
Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Arap, nhưng thời cổ đại, cư dân ở
đây là người Libi, người da đen và có thể còn có cả người Xemit từ Châu Á di cư
đến. Các tài liệu về nhân chủng học và khảo cổ học đã xác nhận rằng, ở lưu vực
sông Nile đã có con người cư trú từ thời đồ đá cũ – đó là những thổ dân châu Phi
được hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc. Bằng chứng cho những kết
luận này là những sọ cổ tìm thấy ở Negada, những bức tượng thuộc thời Tảo
vương quốc, là sự gần gũi về ngôn ngữ của người Ai Cập với ngôn ngữ của các
dân tộc Galla và Somali…
Những thổ dân châu Phi đi lại săn bắn trên lục địa, khi đến vùng đồng bằng sông
Nile, họ định cư ở đây và theo nghề trồng trọt, chăn nuôi từ rất sớm. Về sau có
một chi nhánh của bộ tộc Hamit từ Tây Á đã xâm nhập vào miền hạ lưu sông
Nile, chinh phục thổ dân châu Phi ở đây. Trải qua một quá trình hỗn hợp lâu dài,
người Hamit và thổ dân ở đây đã đồng hóa với nhau, hình thành nên một bộ tộc
mới chính là cư dân Ai Cập cổ đại. Họ thuộc chủng tộc Mongoloid và Negroit.
Người Ai Cập gọi quê hương của mình là "Kemet"- nghĩa là "đất đen", phân biệt
vùng đất đen màu mỡ được sông Nile cung cấp nước với "đất đỏ"- những vùng
đất không được dòng sông Nile chảy tới (tức là sa mạc). Danh xưng Ai Cập
(Egypt) ra đời được gắn với tên Hy Lạp của vị thần bảo trợ thành phố Memphis là
Aiguyptos.
II. Các thời kỳ của lịch sử Ai Cập cổ đại.
Vào thời cổ đại, người dân Ai Cập sống thành bộ tộc. Của cải do con người tạo
ra là tài sản chung, không có tranh chấp, không có sở hữu riêng. Khoảng giữa
thiên niên kỉ IV TCN, chế độ thị tộc ở Ai Cập bắt đầu tan rã. Thời đó, các cư dân
ở sông Nin sống theo các công xã nhỏ. Nông nghiệp chiếm vị trí hàng đầu trong
kinh tế của công xã nông thôn. Tuy vậy, nông nghiệp thời kỳ này còn đang ở
trình độ canh tác nguyên thuỷ. Phương pháp canh tác còn lạc hậu. Người ta xới
đất lên rồi gieo hạt giống. Mặt khác công cụ sản xuất còn thô sơ, đơn giản, làm
bằng đá, gỗ. Tuy nhiên, do đất đai màu mỡ nên cư dân vẫn thu hoạch được nhiều
sản phẩm. Bên cạnh đó, hàng năm, người Ai Cập phải thường xuyên đối phó với
các loại hình thiên tai khắc nghiệt như hạn hán, lụt lội. Do đó, họ rất chú trọng
công tác thuỷ lợi, xem đó như là một công tác trọng yếu của công xã nông thôn.
Do yêu cầu của công việc thủy lợi đòi hỏi các công xã nông thôn phải kết hợp
thành những liên minh công xã rộng lớn hơn để có khả năng huy động nhiều nhân
công làm công tác thủy lợi. Các công xã nông thôn được kết hợp theo địa hình
hoặc thôn trang. Người Ai Cập cổ đại gọi là "Xepa"- nghĩa là những vùng đất
được sông ngòi chia cắt còn người Hy Lạp gọi là "Nomos" (Nôm). Đứng đầu mỗi
"nôm" có một Chúa Nôm.
Do yêu cầu thống nhất quản lý công tác thủy lợi trên phạm vị ngày càng rộng
lớn, đồng thời cũng do những cuộc tranh chấp tàn khốc, lâu dài giữa các Chúa
Nôm nhằm tranh giành đất đai, tài nguyên, nô lệ nên các "nôm" thường liên minh
với nhau để đối phó với các "nôm" khác, dần dần các "nôm" ở miền Bắc thống
nhất thành Hạ Ai Cập còn các "nôm" ở miền Nam thống nhất thành Thượng Ai
Cập. Sau một quá trính đấu tranh lâu dài và tàn khốc, vào khoảng năm 3200 trước
công nguyên, Thượng và Hạ Ai Cập đã hợp lại thành một quốc gia. Vị vua đầu
tiên trị vì Ai Cập là vua Mendes. Menes chọn Thinis ở gần Abydos làm thủ đô
nên được gọi là vương triều Thins. Về sau Menes chọn địa điểm tại góc phía nam
của tam giác châu thổ sông Nile để xây dựng kinh đô mới, tên là Memphis, nghĩa
là "Bạch thành"
Như vậy công tác thuỷ lợi chính là chất xúc tác đẩy nhanh sự hình thành quốc
gia Ai Cập cổ đại thống nhất. Có thể biểu hiện quá trình ra đời của nhà nước Ai
Cập ống nhất bằng sơ đồ sau:
Thượng Ai Cập
Công tác Ai Cập cổ đại
Công xã nông thôn Nôm thống nhất
thủy lợi Hạ Ai Cập (3200 TCN)
Nhà nước Ai Cập cổ đại ra đời từ cuối thiên niên kỷ IV trước công nguyên. Từ
đó cho đến năm 525 trước công nguyên, lịch sử Ai Cập được chia thành 5 thời kỳ.
1. Thời Tảo kỳ vương quốc ( khoảng 3200-3000 TCN).
Sau khi thống nhất đất nước , Ai Cập bước vào thời Tảo kỳ vương quốc với sự
cầm quyền của các vị vua thuộc hai vương triều đầu tiên ( vương triều I,II). Ngay
ở thời kỳ này, người cổ Ai Cập đã biết sử dụng công cụ bằng đồng đỏ, biết dùng
cày và dùng súc vật để kéo cày. Thời Tảo vương quốc, nhà nước Ai Cập đã mang
tính chất tập quyền chuyên chế. Đứng đầu bộ máy chính quyền là vua- gọi là
Pharaoh, bên cạnh vua là quan lại cao cấp của triều đình, ở các địa phương vẫn
duy trì vai trò và quyền lực của quý tộc thị tộc. Tuy vậy, vì bộ máy nhà nước mới
được thiết lập, nên việc tổ chức chưa được hoàn chỉnh lắm nhưng các vương triều
đầu tiên này cũng đã tiến hành gây chiến với các bộ lạc phía đông Ai Cập ở miền
Sinai.
2. Thời Cổ vương quốc (khoảng 3000-2400 TCN).
Đây là thời kỳ thống trị của 8 vương triều ( từ vương triều III đến vương triều
X). Là thời kỳ hình thành và củng cố nhà nước trung ương tập quyền và cũng là
thời kì phát triển thịnh đạt đầu tiên về mặt kinh tế , văn hóa, chính trị-quân sự của
Ai cập.
Chính sách đối ngoại của các vương triều đầu tiên là tiến hành các cuộc chiến
tranh xâm lược các nước láng giềng như Libya, Nubia, Syria, Palestine. Người mở
đầu vương triều III là vua Djeser Hầu như trong suốt thời kỳ thống trị của mình
không lúc nào không gây chiến tranh cướp bóc. Vua cuối cùng của vương Triều
này là Huni cũng vậy.các pharaon tiếp theo của vương triều IV, V, VI Thực hiện
chính sách xâm lược Nubi và Sinai nhằm mở rộng Lãnh thổ và cướp bóc tài sản
và tăng cường quyền lực của Pharaoh.
Trong chính sách đối nội thì ra sức cũng cố chính quyền trung ương tập quyền,
mà một trong những biểu hiện cho sức mạnh và quyền lực vô hạn của chính quyền
Pharaohlà việc xây dựng các kim tự tháp. Hầu hết các đời Pharaoh của vương
Triều III, IV đều xây dựng cho mình một kim tự tháp với kích thước lớn nhỏ khác
nhau. Pharaoh đầu tiên của vương triều III là Djeser xây Kim tự tháp của mình ở
Sapara. Đến vương triều IV, Kim tự tháp được xây dựng nhiều và đồ sộ. Trong số
các kim tự tháp, đặc biệt nhất là kim tự tháp khufu, cao đến 146,5m tương đương
với toà nhà cao chọc trời 50 tầng hiện nay. Hầu hết các kim tự tháp ai cập đều
được xây dựng trong thời cổ Vương quốc. Vì vậy, thời cổ Vương quốc còn gọi là
“thời đại kim tự tháp”.
Do tiêu hao quá nhiều nhân lực, vật lực và tài lực cho việc xây dựng những công
trình kiến trúc to lớn ( Kim tự tháp, đền đài, cung điện,…) Và tiến hành những
cuộc chiến tranh liên miên với các nước láng giềng, Do sự phản kháng ngày càng
mạnh mẽ của nô lệ và dân nghèo, chính quyền trung ương chuyên chế ngày càng
suy yếu đi. Lợi dụng sự về suy yếu của các Pharaoh, bọn quý tộc địa phương thoát
ly khỏi sự không chế của chính quyền trung ương. Đến vương triều VI trở về sau,
Pharaoh ở trung ương chỉ còn hư danh, chứ không còn quyền lực thực sự. Chính
quyền các châu đã thay thế chính quyền trung ương. Cục diện thống nhất của Cổ
vương quốc do vậy dần đi đến chỗ tan rã. Thời cổ Vương quốc chấm dứt.
3. Thời Trung vương quốc (khoảng 2150-1710 TCN).
Ai Cập bước vào thời kỳ phân li và loạn lạc trong suốt 300 năm. Đây là thời kỳ
cầm quyền của 7 vương Triều( từ vương triều XI đến vương triều XVII) trong đó
thời kì thống trị của vương triều XI,XII là thời kì ổn định nhất.
Do chiến tranh tàn phá nên nền kinh tế bị phá hoại nghiêm trọng. Các công trình
thuỷ lợi bị hư hại nghiêm trọng, không được sửa sang, tu bổ khiến cho nông
nghiệp rơi vào tình trạng đình đốn. Mất mùa, nạn đói xảy ra liên miên. Yêu cầu tái
thống nhất đất nước trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, quá trình này lại
diễn ra lâu dài do sự tranh chấp giữa hai tập đoàn quý tộc ở Heracleopolis và
Thebes. Cuối cùng, Thebes đã giành được thắng lợi. Lãnh tụ của Thebes là
Metuhotep trở thành Pharaông của Ai Cập, sáng lập ra vương triều XI. Ai Cập
bước vào thời Trung vương quốc.
Từ đó, Ai Cập bước vào thời kỳ ổn định và phát triển. Chính quyền trung ương
được củng cố, kinh tế phát triển. Công tác thuỷ lợi được quan tâm rất nhiều. Cùng
với việc mở rông các công trình thuỷ lợi, công cụ lao động đã được cải tiến thêm
một bước. Sự xuất hiện của công cụ bằng đồng thau đã làm thay đổi căn bản tình
trạng sản xuất. Đặc biệt , ngành chăn nuôi cũng được chú ý. Ngoài ra, thủ công
nghiệp, các hoạt động thương nghiệp và ngoại thương cũng được đẩy mạnh.
Đến thời của vua Amenhat I- vua đầu tiên của vương triều XII và người kế vị
của ông là Senuxcret I từng nhiều lần cử quân viễn chinh sang Nubia. Đặc biệt,
dưới thời kỳ cầm quyền của Pharaoh Amenhat II và III, quân Ai Cập tấn công
sang tận Syria và Palestine. Kinh tế phát triển, xã hội Ai Cập thời Trung vương
quốc ngày càng phân hóa mạnh, mâu thuẫn xã hội ngày càng thêm sâu sắc, đời
sống của nô lệ và dân nghèo vô cùng khổ cực khiến cho những cuộc nổi dậy đấu
tranh của nô lệ và dân nghèo đã nổ ra trong thời kì này mà đặc biệt là cuộc khởi
nghĩa của nô lệ và dân nghèo năm 1750 TCN. Cuộc khởi nghĩa tuy bị đàn áp,
nhưng nó góp phần làm suy yếu chính quyền của Pharaon và quý tộc Ai Cập.
Năm 1710 TCN, lợi dụng tình hình loạn lạc ở Ai Cập, các bộ lạc du mục thuộc tộc
Hyksos sống ở vùng Syria và Palestine đã xâm nhập vào lãnh thổ Ai Cập và dần
dần chiếm đóng, thống trị miền Bắc ai cập suốt 150 năm. Trong thời gian đó miền
nam Ai Cập cũng phải thuần phục vương triều ngoại tộc ấy. Thời kỳ Trung vương
quốc chấm dứt.
4. Thời Tân vương quốc ( 1560-941 TCN).
Sự thống trị của người Hyksos ở Ai Cập kéo dài 150 năm. Trong thời gian ấy
nhiều cuộc nổi dậy đấu tranh của nhân dân Ai Cập đã diễn ra. Năm 1560 TCN,
Atmes I đã lãnh đạo phong trào giải phóng Ai Cập, giành được thắng lợi, khôi
phục lại nền độc lập, thống nhất cho Ai Cập, mở đầu thời kỳ Tân vương quốc.
Thời Tân vương quốc là thời kỳ thống trị của ba vương triều, từ vương triều
XVII đến vương triều XX. Sau khi củng cố chính quyền quân chủ chuyên chế
trung ương tập quyền, các pharaon vương triều này đã tăng cường lực lượng quân
đội để đẩy mạnh chính sách xâm lược, mở rộng bờ cõi đế quốc. Quân đội Ai Cập
liên tiếp và chinh phục được Syria, Phenicia, Palestine ở châu Á, Lybia và Nubia
ở châu Phi. Lúc này, Ai Cập trở thành một đế quốc rộng lớn và hùng mạnh nhất
trong khu vực với khoảng cách giữa hai đường biên giới Nam Bắc dài 3200km.
Trong chính sách đối nội, các Pharaon thời Tân vương quốc một mặt ra sức
củng cố chính quyền chuyên chế và tăng cường lực lượng quân đội để làm công
cụ đàn áp và xâm lược, mặt khác thực hiện một số biện pháp nhằm khuyến khích
phát triển sản xuất và an dân.
Thời kỳ này, ngành nông nghiệp có những bước tiến mới. Kỹ thuật canh tác
được cải tiến. Công cụ đồng thau được sử dung một cách rộng rãi trong sản xuất.
Nhà nước cũng rất quan tâm đến công tác thuỷ lợi. Sản xuất thủ công nghiệp còn
tiến bộ hơn so với nông nghiệp. Thương nghiệp và mậu dịch đối ngoại cũng phát
đạt.
Tuy nhiên trong thời Tân vương quốc, do thế lực của tầng lớp tăng lữ thờ thần
Mặt trời Amon ngày càng lớn, tầng lớp tăng lữ ngày càng can thiệp sâu vào công
việc nội chính của chính quyền trung ương, để thoát khỏi sự khống chế đó
Pharaoh Amenkhotep IV đã tiến hành một cuộc cải cách tôn giáo nhằm đánh đổ
thế lực của tập đoàn tăng lữ thờ thần Amon để chấn hưng vương quyền. Ông bắt
phải xóa bỏ các đền thờ thần Amon và buộc các tăng lữ trở về với cuộc sống hoàn
tục, đề xướng một tôn giáo mới, thờ thần Mặt trời Aton, xây dựng kinh đô mới –
kinh thành Akhenaton cách kinh đô cũ 30km về phía bắc để tránh kinh thành
Thebes tôn thờ thần Amon. Ông còn đổi cả tên hiệu cũ của mình, lấy tên hiệu mới
là Iknaton . Thế lực tăng lữ thờ thần Amon và những quý tộc cũ phản ứng mạnh
mẽ cuộc cải cách tôn giáo đó và sau khi Iknaton chết, thế lực phản động khôi phục
lại tôn giáo thờ thần Amon và kinh đô dời về lại thành Thebes.
Ai Cập hưng thịnh trở lại dưới triều vua Ramses II ( 1317 – 1251 TCN ). Nhà
vua đã tiến hành nhiều cuộc chiến tranh xâm lược nhằm mở rộng lãnh thổ. Sau 66
năm cai trị, ông đã xây dựng được một đất nước Ai Cập phồn vinh và có ảnh
hưởng lớn trong khu vực. Nhưng sau khi Ramses II từ trần, đế quốc Ai Cập bắt
đâu suy yếu. Nhân cơ hội đó, một thủ lĩnh quân đội đánh thuê người Lybia ở Ai
Cập cướp ngôi Pharaon và lập ra vương triều ngoại tộc, chấm dứt thời kỳ Tân
vương quốc.
5. Thời Hậu kỳ vương quốc (941-30TCN).
Nửa sau thế kỷ VI, lợi dụng tình hình suy yếu của Ai Cập, quân đội Ba Tư tiến
quân xâm lược và chinh phục được toàn bộ đất đai Ai Cập (năm 525 trước công
nguyên). Người Ai Cập bị mất nước từ đó. Ít lâu sau, năm 332 trước công nguyên,
Ai Cập lại bị Alexandros, nước Macedonia sang chinh phục và bị đặt dưới nền
thống trị của người Hy Lạp.
Sau khi Alexandros chết, đế quốc do Alexandros xây dựng lên tan rã, Ai Cập lại
đặt dưới quyền thống trị của một bộ tướng của Alexandros tên là Ptolemaios,
người sáng lập ra vương triều Ptolemaios ở Ai Cập. Từ đó bắt đầu thời kỳ Hy Lạp
hóa (thế kỷ IV – I trước Công nguyên), thời kỳ Ai Cập trở thành một quốc gia Hy
Lạp hóa, chịu ảnh hưởng sâu sắc của nền văn minh Hy Lạp tiên tiến thời bây giờ.
Dưới thời thống trị của vương triều Ptolemaios, quốc gia Hy Lạp hóa Ai Cập phát
triển khá phồn vinh.
Nhưng đến năm 30 trước công nguyên, đất nước Ai Cập lại bị người La Mã sang
chinh phục và biến thành một tỉnh nằm trong bản đồ của đế quốc La Mã rộng lớn.
Từ đó, lịch sử của Ai Cập trở thành một bộ phận của lịch sử đế quốc chiếm hữu
nô lệ La Mã.