You are on page 1of 10

ĐỀ TÀI 12: Nền dân chủ XHCN và Nhà nước XHCN.

Đặc trưng cơ bản. Liên hệ Việt Nam hiện nay

PHẦN MỞ ĐẦU

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta biết rằng Hồ Chí Minh rất đề cao vai trò nhân dân, giác ngộ và
dựa vào dân, tin dân, trọng dân, đoàn kết toàn dân, phát huy sức mạnh vĩ
đại của nhân dân, hiểu dân, phục vụ nhân dân, quan tâm nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Tư tưởng nhân dân này cũng là tư
tưởng dân chủ. Bao nhiêu lực lượng, bao nhiêu lợi ích đều ở nơi dân, khó
bao nhiêu lần dân liệu cũng xong. Kháng chiến và kiến quốc đều nhờ
nhân dân: dân lực, dân tâm, dân khí, dân trí, dân quyền, dân sinh.
Trong hoạt động thực tiễn hay trong tư tưởng lý luận, trong quan điểm
đường lối, trong chính sách phát triển, Hồ Chí Minh luôn luôn có ý thức
sử dụng phạm trù DÂN CHỦ gắn liền với các nhiệm vụ và mô hình, thể
chế phát triển, thể hiện tinh thần dân chủ pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
trong những giai đoạn và hình thức phù hợp . Tư tưởng đó thể hiện ở chỗ:
cách mang dân chủ nhân dân, chế độ dân chủ nhân dân, nhà nước ta là
một nhà nước dân chủ, nhà nước dân chủ của dân, do dân và vì dân, Dân
chủ là mục tiêu và động lực cũng như bản chất của chế độ mới xã hội chủ
nghĩa. Vấn đề dân chủ cũng nhạy cảm, hệ trọng như vấn đề đoàn kết dân
tộc, đoàn kết trong đảng. Chính vì vậy, trong Di chúc, Hồ Chí Minh đã
rất quan tâm phải thực hành dân chủ rộng rãi, trước hết trong Đảng.
Người có nói rằng phải thật thà đoàn kết thì cũng có thể nói phải thật thà
dân chủ, dân chủ thật sự. Người nhắc nhở, căn dặn, “Trong đảng thực
hành dân chủ rộng rãi”. Đó là vấn đề gắn liền với chỉnh đốn đảng.
Nhưng điều đó có nghĩa là gì, có phải cần đổi mới hay cải cách về mặt
đảng hay không, và bằng hình thức nào, quy trình nào, điều kiện cần và
đủ nào để có dân chủ rộng rãi, hiện nay thật sự rộng rãi chưa, mở rộng và
thực chất chưa? Đã bao giờ chúng ta thực sự thảo luận, nghiên cứu, tìm
kiếm thật sự hệ thống và nghiêm túc, khoa học về điều này này chưa?
Chúng ta cùng nhau đi sâu vào tìm hiểu chủ đề: “ Nền dân chủ XHCN và
Nhà nước XHCN. Đặc trưng cơ bản. Liên hệ Việt Nam hiện nay” để cùng
nhau hiểu thêm về vấn đề này.
PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM VÀ ĐẶC TRƯNG CƠ BẢN CỦA


NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ NHÀ NƯỚC XÃ
HỘI CHỦ NGHĨA
1. Quan niệm về Dân chủ
Dân chủ là cách nói tắt về chế độ dân chủ hoặc quyền dân chủ. Chế độ
dân chủ là chế độ chính trị, trong đó, toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc
về nhân dân, do nhân dân thực hiện trực tiếp hoặc thông qua đại diện do
nhân dân bầu ra.
Chế độ dân chủ đã được thành lập rất sớm từ thời chiếm hữu nô lệ ở nhà
nước Cộng hoà Aphina. Đánh giá sự phát triển tiến bộ trong lịch sử xã
hội loài người, nhằm chống lại chế độ nô lệ, chế để quân chủ, mà thực
chất là một người độc đoán quyết định tất cả mọi vấn đề của đất nước.
Dân chủ tư sản ra đời cùng với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản ở
các nước châu Âu. Dân chủ tư sản đã đưa lại sự tiến bộ lớn lao so với chế
độ chuyên chế phong kiến trước đó. Lênin khẳng định: "Cộng hoà tư sản,
nghị viện, phổ thông đầu phiếu đó là sự tiến bộ lớn lao xét từ quan điểm
phát triển xã hội trên phạm vi toàn cầu”, "Nếu không có chế độ nghị viện,
không có chế độ bầu cử... Chắc sự phát triển của giai cấp công nhân
không thể Có được”.
Theo đó, dân chủ là hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa
trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận
nguyên tắc bình đẳng, tự do và quyền con người. Mọi vấn đề của đất
nước đều lấy ý kiến của nhân dân, phục vụ cho lợi ích của nhân dân.

Tại một số quốc gia trên thế giới, dân chủ cũng được xem là một thể chế
chính trị mà các quốc gia này hướng đến. Tuy nhiên, chế độ dân chủ
không được thể hiện rõ ràng và chi tiết như tại nước ta. Từ những năm
kháng chiến chống giặc ngoại xâm, nền dân chủ nước ta đã được thể hiện
cùng với sự xuất hiện của nhà nước và cũng được xem là hình thức tổ
chức chính trị của nhà nước.

Các nhà lãnh đạo, nhà chính trị đêu nêu cao tinh thần dân chủ trong mọi
hoạt động, mọi vấn đề đời sống xã hội và là kim chỉ nam cho mọi hoạt
động sau này. Như vậy, từ lâu dân chủ đã là một phạm trù lịch sử, cũng
như quyết định mọi hình thái ý thức xã hội, dân chủ do tồn tại xã hội
quyết định, do phương thức sản xuất vật chất của xã hội quyết định.

Tại đây, tổ chức chính trị xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là
nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đảng, tự do và
quyền con người. Và do đó, với ý nghĩa này, dân chủ sẽ tồn tại và phát
triển cùng với sự tồn tại và phát triển của con người, là một trong những
phương thức tồn tại của con người ngay cả khi Nhà nước đã biến mất.
Tóm lại, nhân loại từ lâu đã có nhu cầu và bước đầu thực hiện dân chủ và
có quan niệm về dân chủ, đó là việc thực thi quyền lực của dân.
2. Thế nào là nền dân chủ XHCN ?
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là Chế độ dân chủ đã được xác lập ở các nước
đã hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ và bắt đầu tiến hành cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền
dân chủ của công dân không ngừng được mở rộng trong tất cả các lĩnh
vực hoạt động của nhà nước, của xã hội mà cơ bản nhất là dân chủ về
kinh tế. Trên lĩnh vực chính trị xã hội, quyền tham gia quản lý nhà nước
của nhân dân và các đoàn thể quần chúng ngày càng được mở rộng về
phạm vi, về độ sâu và phong phú đa dạng về các hình thức. Mục tiêu của
dân chủ xã hội chủ nghĩa là nhằm xóa bỏ tệ nạn người bóc lột người và
tạo ra ngày càng nhiều điều kiện để thực hiện triệt để công bằng xã hội,
công lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nam với nữ, giữa các dân
tộc, tạo cơ hội cho mọi công dân mưu sinh và mưu cầu hạnh phúc. Dân
chủ xã hội chủ nghĩa là nền dân chủ của xã hội loài người tiến bộ trong
tương lai.
3. Đặc trưng cơ bản của nền dân chủ XHCN và nhà nước XHCN
Đặc trưng của dân chủ xã hội chủ nghĩa là quyền dân chủ của công dân
sẽ không ngừng được được mở rộng trong tất cả lĩnh vực hoạt động của
xã hội, nhà nước. Thông qua hệ thống cơ quan nhà nước và các tổ chức
xã hội và tổ chức chính trị, chính trị - xã hội với sự tham gia tích cực của
đông đảo quần chúng nhận dân lao động vào các hoạt động chính trị hàng
ngày.
Mục tiêu của dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là xoá bỏ chế độ người bóc
lột người, tạo các điều kiện thuận lợi để thực hiện triệt để dân chủ, công
bằng xã hội, công lí cho mọi người, bình đẳng thực sự giữa nữ và nam,
văn minh, giữa các dân tộc.
Từ đó, tạo ra cơ hội cho mọi người dân hạnh phúc thông qua việc khẳng
định và thừa kế những quyền dân chủ đó một cách chính thức trong hiến
pháp và các văn bản quy phạm pháp luật. Từ đó đặt ra những bảo đảm vật
chất và tinh thần để thực hiện các quyền đó và không ngừng mở rộng các
quyền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đồng thời, luôn đề cao trách nhiệm cá
nhân đối với Nhà nước và xã hội cũng như phát huy không ngừng quyền
làm chủ của nhân dân lao động.

CHƯƠNG 2: CÁC VẤN ĐỀ VỀ LIÊN QUAN ĐẾN DÂN


CHỦ VÀ NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
1. Vấn đề xu hướng dân chủ hóa chuyển từ chế độ tập
quyền, chuyên chế sang chế độ dân chủ nhân dân vẫn còn
tiếp tục.
Nền dân chủ VN trong lịch sử cách mạng thì chúng ta thấy, nó bắt đầu
từ chế độ dân chủ nhân dân như sự phủ định chế độ thực dân, phong kiến.
Nhưng sau đó chuyển sang thời kỳ kháng chiến và cải tạo XHCN nên nó
ảnh hưởng tính chất, mô hình phi thị trường, nặng tập thể và quan liêu
bao cấp. Và rồi khi chuyển sang thời kỳ đổi mới, nó bị phủ định, trở lại
dân chủ nhân dân cao hơn, rộng và mới hơn phát triển định hướng
XHCN. Ở đây kinh tế thị trường tạo nền tảng kinh tế và chứa đựng dân
chủ pháp quyền. Nhà nước pháp quyền hình thành. Các tổ chức quần
chúng có từ thời cách mạng và kháng chiên đang được điều chỉnh, cấu
trúc lại một bước về chức năng nhiệm vụ nhưng nhìn chung mới được 1/3
hay 1/2 theo mô hình xã hội dân sự. Nếu không sẽ không có nền dân chủ
pháp quyền XHCN.
Như vậy, là từ mô hình “CNXH quan liêu bao cấp”, “dân chủ quân sự”,
chuyển sang xã hội kinh tế thị trường và cũng chuyển mô hình CNXH
chuyên chế, tập trung (còn nặng tính chất, phương thức phong kiến hay
kiểu phương thức sản xuất châu Á) sang dân xã hội dân chủ.với nhiều
dạng thức khác nhau. Ngay ở châu Âu các mô hình, mô thức trong xu thế
này cũng khác nhau, đa dạng tùy theo trình độ, tương quan lực lượng,
truyền thống cụ thể. Ngày nay, khi chúng ta xây dựng đất nước “quá độ”
lên CNXH theo định hướng XHCN thì có nghĩa là chúng ta vẫn chưa
vượt qua dân chủ tư sản kiểu mới ấy nhưng là ở trình độ văn minh mới.
Cần trở lại và nâng cao nền dân chủ tư sản kiểu mới (chế độ dân chủ nhân
dân), phát triển đến cùng, thành nền dân chủ pháp quyền XHCN (điều
này giống như nói nhà nước pháp quyền XHCN chứ không chỉ là nhà
nước XHCN). Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh nhà nước ta là một nhà
nước dân chủ, do nhân dân làm chủ, xã hội ta cũng là một xã hội dân chủ,
nền kinh tế nước ta cũng là nền kinh tế dân
chủ. Đó là xu hướng tất yếu, nhưng nó vận động trong hai mặt đối lập của
nó với cái cũ. Và cả trong các hình thức xã hội dân chủ quá đà trong từng
giai đọan của nó với trình độ khác nhau.
2. Vấn đề cơ cấu, mô hình, cách thức thực hiện nền dân chủ
ở nước ta trong bối cảnh chung của thế giới và yêu cầu của
đất nước.
Hiện nay vấn đề dân chủ hóa, mô hình nền dân chủ Việt Nam, xu hướng
vận động của nó đang là vấn đề thực tiễn và lý luận đang quan tâm bậc
nhất. Nhận diện không những nội dung, tính chất mà cũng rất quan trọng
là cấu trúc của nó, động lực, mô hình tạo động lực của nó, trên cơ sở xu
hướng chung là cực kỳ quan trọng. Mà vấn đề xu hướng, cấu trúc và mô
hình của nó thì còn ít được nghiên cứu hay đề cập thấu đáo. Phát triển
nền dân chủ như thế nào, nó không chỉ phụthuộc vào trình độ kinh tế, văn
hóa của xã hội, sự giác ngộ, quyền và kỹ năng thực hành dân chủ mà còn
phụ thuộc vào cách thức cấu trúc, mô hình, phương thức tổ chức, thể chế
vận hành nó như thế nào. Một nền dân chủ mà thiếu động lực, thiếu
phương thức mô hình hợp lý, nghĩa là nó đã lạc hậu, thiếu sót hay chưa
thích ứng thì dân chủ dễ rơi vào hình thức hay chỉ dừng lại khẩu hiệu,
nguyện vọng. Chúng ta nêu khẩu hiệu phát huy quyền làm chủ củ nhân
dân, đã là chung rồi, nhưng khi chuyển sang khẩu hiệu cụ thể hơn là dân
biết dân bàn dân làm dân kiểm tra, nhưng nếu không thực hiện quyền
giám sát, phản biện xã hội do thiếu thể chế, cơ chế thì liệu dân chủ và
quền lợi chính đáng của nhân dân có được đảm bảo không. Thành lập các
đoàn thể nhân dân nhưng khi dân bị thua thiệt, bị xâm phạm lợi ích thì
các đoàn thể xã hội này không đứng vê phía dân dể góp phần bảo vệ
quyền lới của họ thì liệu có dân chủ không? Trong thực tế quyền dân chủ
của người dân, quyền làm chủ của họ bị vi phạm, xâm phạm hoặc bị hạn
chế đã gây nên hiều bức xúc, khiếu kiện từ các chủ thể thị trường hay chủ
thể nhà nước. Phát huy sức mạnh dân chủ thế nào, mở rộng nó ra sao, làm
sao đề từ đó phát huy được nội lực, giải phóng và phát huy trí tuệ toàn
đảng toàn dân, thúc đẩy quá trình dân chủ hóa, không những thể hiện tính
ưu việt của chế độ dân chủ mới mà còn là động lực phát triển kinh
tế xã hội bền vững.
3. Vấn đề bổ sung chức năng kiểm soát lẫn nhau giữa
quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền, chứ không
phải chỉ là phân công, phân nhiệm.
Là nhà nước pháp quyền và dân chủ pháp quyền thì cần hình thành và tái
cấu trúc lại hệ thống quyền lực nhà nước, làm sao cơ quan quyền lực nhà
nước kiểm soát lẫn nhau. Cần nhận thức rằng đây là một nguyên tắc, một
công nghệ cơ bản và phương thức tạo nền tính pháp quyền, tính minh
bạch và dân chủ trong hệ thống quyền lực nhà nước không phân biệt chế
độ một đảng hay nhiều đảng phái. Chúng ta nói phân công và phối hợp
các cơ quan quyền lực nhà nước nhưng lại không nói rõ về mặt kiểm soát
quyền lực. Do kiêng khiêm, mặc cảm chính trị, nên chúng ta đã rất dè dặt
và đặc biệt là lạc hậu với không ít quan niệm, công nghệ chính trị từ sáng
tạo của nên văn minh trong chủ nghĩa tư bản. Chúng ta cần tiếp thu gì ở
nền văn minh dân chủ tư sản? Thực ra thì nền dân chủ hiện đại trước chủ
nghĩa xã hội là nền dân chủ tư sản. Nền dân chủ này tạo nên bộ mặt văn
minh của chủ nghĩa tư bản và cũng là nền văn minh của thế giới đương
đại. Hiện đại và văn minh không chỉ về mặt công nghệ kỹ thuật, hay mặt
sinh thái, mặt văn hóa mà cả mặt văn minh chính trị xã hội. Nền dân chủ,
pháp quyền tư sản tạo nên văn minh chính trị xã hội, có thể có đặc thù
dân tộc, đặc thù của chế độ tư bản nhưng nó chắc chắn là có giá trị nhân
loại phổ quát mà chúng ta phải nghiên cứu tiếp thu, vận dụng.
4. Vấn đề Đảng cầm quyền và nhà nước pháp quyền
Chúng ta thường chỉ nhấn mạnh dân chủ phải có lãnh đạo, có kỷ cương.
Đúng, rất đúng nhưng ít khi nhấn mạnh và thực hiện, rằng lãnh đạo phải
dân chủ, thực sự dân chủ. Chúng ta cũng thường nghĩ tập trung là quyết
định gần như trước (như thường vụ hay Bộ chính trị đã bàn kỹ rồi mà
không nói rõ lý do, nếu thế thì bàn ở Quốc hội làm gì nữa) và từ đó tìm
cách tạo ra nhất trí có như là hình thức và áp đặt hay không? Chúng ta
cũng thiếu nhiều phương thức dân chủ thật sự xuất phát từ nhân dân, ý
dân, lòng dân, như phản biện xã hội, trưng cầu dân ý, quyền tự chủ của xã
hội dân sự. Do nên dân chủ ở ta thường thấy là ban bố, ban phát từ cấp
trên. Xu hướng ở ta là tập trung (nhất là dưới dạng chuyên quyền, gia
trưởng) thường lấn át dân chủ. Nếu vấn đề thảo luận cũng theo kiểu
khẳng định, mang tính đóng chứ không phải mở, ngại khuyến khích ý
kiến khác nhau, sáng kiến khác nhau, chỉ mong sao nhất trí nhanh, cao là
thành công mà không thấy nhiều khi do áp đặt hay nhất trí cho xong.
Chúng ta cần thay đổi nhiều quy trình ngược để nó xuôi hơn, hợp quy
luật hơn, thuận hơn với lòng dân, ý dân. Dân chủ không chỉ hướng tới
nhất trí, hay tập trung mà còn là đồng thuận nữa. Đồng thuận không
chỉ là cùng một lợi ích hay ý chí mà chính là giống nhau về lợi ich, ý chí,
cùng hướng. Khía cạnh nữa là, chúng ta không nhất thể hóa chức danh
chính của đảng cầm quyền nên quyết sách khi thực hiện thường phân tán
chậm chạp. Tức là vừa thiếu cơ chế tập trung và thiếu mở rộng dân chủ
đúng đắn có hiệu quả. Ngay công tác cán bộ, chúng ta thiếu cơ chế dân
chủ, thích hợp, tối ưu (chi do phân công, cử mà thiếu tranh cử thật sự)
nên ít phát hiện, trọng dụng được nhân tài trẻ. Hiện nay khá nổi cộm mà
nhiều người ngày trong quốc hội rất quan tâm, là quan hệ giữa Bộ chính
trị, Ban Bí thư và Quốc hội như thế nào khi quyết định một số vấn đề
của quốc gia. Quyền độc lập của quốc hội trong việc quyết định một số
văn đề lớn như thế nào? Vấn đề nào thì thể chế nghị quyết của Đảng trên
tinh thần chung và vấn đề nào thì Quốc hội độc lập, thảo luận ra quyết
sách. Vấn đề nào Đảng cần tham khảo ý kiến Quốc hội trước khi quyết
sách.

CHƯƠNG 3: NỀN DÂN CHỦ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VÀ


NHÀ NƯỚC XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

Ở Việt Nam, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa quản lý và vận hành
nền kinh tế thị trường, bảo đảm đúng định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tăng trưởng kinh tế
luôn gắn với bảo đảm công bằng, thực hiện tiến bộ xã hội, phát triển văn
hóa, phát triển con người, nhằm mục đích nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân. Quá trình dân chủ hóa trong lĩnh vực kinh tế ngày
càng mở rộng. Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần
kinh tế, các loại hình doanh nghiệp... Công bằng trong phân phối theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng
các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội. Quá trình mở rộng dân chủ kinh tế gắn liền với mở rộng dân
chủ chính trị, thực hành ngày càng rộng rãi và thực chất quyền lực chính
trị của nhân dân, thông qua cả phương thức ủy quyền gián tiếp và dân chủ
trực tiếp.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là sự nghiệp của nhân dân, không
có sự đoàn kết, sáng tạo của quần chúng nhân dân thì sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội sẽ thất bại. Dân chủ chính là biểu hiện quan điểm giá trị
cốt lõi của chủ nghĩa xã hội, là nhân tố tạo ra sự ổn định, phát triển và
thịnh vượng.
Nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản
lý, nhân dân làm chủ, trên cơ sở thượng tôn pháp luật, bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng - nhân tố quyết định là mọi thắng lợi của cách mạng Việt
Nam. Nhân dân làm chủ là bản chất của chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thượng tôn pháp luật sẽ bảo đảm tất cả các thành viên xã hội được bình
đẳng về quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm. Đảng vừa là bộ phận cấu
thành của hệ thống chính trị vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị
và Đảng cũng phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo có
chức năng thể chế hóa quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng thành
các văn bản quy phạm pháp luật đầy đủ và thống nhất. Nhân dân làm chủ
thông qua các cơ quan đại diện và làm chủ trực tiếp qua cơ chế “dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, giám sát”.
Nhận thức của Đảng ta về thực hành dân chủ ngày càng toàn diện và sâu
sắc. Điều này thể hiện rõ hơn cả ở chỗ quyền công dân gắn với quyền con
người được đề cao, tôn trọng và bảo vệ bằng pháp luật, tích cực thực hiện
các công ước quốc tế liên quan quyền con người mà Việt Nam đã ký kết
và tham gia; coi trọng dân chủ ở cơ sở, coi trọng phản biện xã hội, đề cao
thượng tôn Hiến pháp và pháp luật.
Quyền con người là phẩm giá, nhu cầu, lợi ích và năng lực vốn có ở con
người được pháp luật công nhận, nhằm thừa nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo
đảm thực hiện và thúc đẩy. Việt Nam đã xây dựng được các thể chế và
thiết chế bảo đảm quyền con người, nhất là bảo đảm ngày càng tốt hơn
các quyền chính trị, dân sự, các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa; quyền
của nhóm thiểu số hoặc yếu thế, như người cao tuổi, phụ nữ, trẻ em,
người khuyết tật, người dân tộc thiểu số, người có tín ngưỡng, tôn giáo.
Công tác tuyên truyền, giáo dục, nghiên cứu về quyền con người có bước
phát triển tích cực. Nhận thức về quyền con người được nâng cao hơn.
Hợp tác quốc tế trên lĩnh vực quyền con người được đẩy mạnh. Đấu tranh
phản bác kịp thời và hiệu quả các luận điệu xuyên tạc, sai trái, thù địch về
vấn đề nhân quyền ở Việt Nam.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là bước tiến mở rộng dân chủ trực tiếp, nâng
cao chất lượng dân chủ đại diện, đưa phương châm “dân biết, dân bàn,
dân làm, dân kiểm tra” vào cuộc sống ở cơ sở. Xây dựng và thực hiện
Quy chế Dân chủ ở cơ sở đã góp phần tích cực thúc đẩy phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội, giữ vững an ninh, trật tự ở cơ sở, góp phần nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng
đảng viên; không ngừng nâng cao năng lực quản lý, điều hành của các cơ
quan nhà nước và trách nhiệm đội ngũ cán bộ, công chức; góp phần đổi
mới phương thức hoạt động và nâng cao vai trò, uy tín của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân.
Phản biện xã hội mang lại kết quả tích cực, phát huy và mở rộng dân chủ,
là phương thức quan trọng để đạt đồng thuận xã hội. Tạo dựng thói quen
thảo luận và bảo đảm quyền tự do ngôn luận để khích lệ cá nhân, các tổ
chức tham gia thảo luận về các vấn đề quan trọng của quốc gia. Xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân bao hàm hoạt động giám sát và phản biện xã hội, nhất là phản
biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội. Cần
tiếp tục hoàn thiện hơn các quy định về quyền giám sát của nhân dân, cơ
chế pháp lý bảo đảm cho nhân dân trực tiếp giám sát hoạt động của đảng
viên, cán bộ, công chức, viên chức và các tổ chức, cơ quan Đảng, Nhà
nước.
Trong nhà nước pháp quyền, tính tối thượng của pháp luật được tôn
trọng, mọi hành vi của tổ chức và cá nhân đều phải tuân theo Hiến pháp,
pháp luật. Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trên cả 3 lĩnh vực: xây
dựng pháp luật, chấp hành pháp luật và bảo vệ pháp luật. Tập trung xây
dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai,
minh bạch, công bằng..., phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước và yêu cầu hội nhập quốc tế sâu rộng.
Tuy nhiên, ở một số nơi, nhận thức và thực hành về dân chủ còn hạn chế,
thực hiện dân chủ cơ sở còn hình thức, quyền làm chủ của nhân dân chưa
hoàn toàn được tôn trọng và phát huy, chưa có cơ chế đầy đủ bảo đảm để
nhân dân thực hiện vai trò chủ thể của quyền lực.
Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở một số
nơi rơi vào hình thức. Còn tình trạng lạm quyền, lộng quyền, quan liêu,
cửa quyền gây phiền hà cho nhân dân của một số cơ quan công quyền,
cán bộ. Chậm thể chế hóa các chủ trương của Đảng thành pháp luật, quy
định... Hệ thống pháp luật của Việt Nam có mặt còn chưa đồng bộ, hay
thay đổi gây khó khăn cho các cơ quan thi hành pháp luật và nhân dân,
ảnh hưởng đến việc thực hành dân chủ trong xã hội... Những hạn chế đó
cần sớm được khắc phục để nguyên tắc quyền lực thuộc về nhân dân và
thực hành quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn ngày càng rộng rãi
và thực chất.
Trải qua 90 năm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn dựa vào dân, phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, coi đó là mục tiêu và động lực của cách
mạng. Đó cũng chính là bài học quý báu để Đảng ta vượt qua muôn vàn
khó khăn, thử thách, để giành hết thắng lợi này đến thắng lợi khác. Bài
học đó giữ nguyên giá trị trong quá trình lãnh đạo công cuộc đổi mới và
hội nhập toàn cầu hiện nay.

PHẦN KẾT LUẬN


Bảy mươi sáu năm qua, Đảng Cộng sản Việt Nam đã luôn dày công tìm
tòi, sáng tạo, không ngừng đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo
của mình đối với nhà nước Nhà nước, nhằm làm cho Nhà nước không
ngừng vững mạnh và thực sự là cơ quan quyền lực, công cụ biểu hiện ý
chí, nguyện vọng, thực hiện và bảo vệ quyền dân chủ thực sự của nhân
dân. Đặc biệt là từ ngày thực hiện đường lối đổi mới đất nước đến nay,
sinh hoạt dân chủ trong xã hội Việt Nam ngày càng được mở rộng, đời
sống vật chất, tinh thần của nhân dân mỗi ngày một nâng cao, tiếng nói
tâm huyết của nhân dân vì một xã hội công bằng, bình đẳng, dân chủ, văn
minh được các cấp chính quyền lắng nghe, tôn trọng và tiếp thu đúng
đắn.
Năm 1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII ban
hành Chỉ thị về xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở, Chính
phủ ban hành quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường nhằm tiếp tục phát
huy, mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân... đã tạo nên một sắc thái dân
chủ mới trong xã hội. Sự thật đó nói lên rằng, dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đang từng
bước được thực hiện ngày càng tốt hơn theo đà phát triển của dân trí Việt
Nam. Tuy nhiên, chúng ta cũng thẳng thắn thừa nhận rằng, hiện nay,“Nền
kinh tế phát triển chưa vững chắc, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp,.. Tỷ lệ
thất nghiệp ở thành thị và thiếu việc làm ở nông thôn còn ở mức cao...
Một số giá trị văn hóa và đạo đức xã hội suy giảm... Mức sống nhân dân,
nhất là nông dân ở một số vùng quá thấp... Sự phân hoá giàu nghèo giữa
các vùng, giữa thành thị và nông thôn, giữa các tầng lớp dân cư tăng
nhanh chóng. Tình trạng khiếu điều kiện của nhân dân ở nhiều nơi kéo
dài và phức tạp, chưa đuợc các cấp các ngành giải quyết kịp thời... Các tệ
nạn xã hội, nhất là nạn ma tuý và mại dâm lan rộng... Trật tự an toàn xã
hội chưa được bảo đảm vững chắc... Cơ chế, chính sách không đồng
bộ...Tình trạng tham nhũng, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên là rất nghiêm trọng...
Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến”, đã làm hạn chế mức độ
thực hiện dân chủ của xã hội ta và là nguyên cớ để kẻ thù và bọn cơ hội,
bất mãn, công kích chúng ta. Do vậy, để kiên trì bảo vệ và xây dựng nền
dân chủ xã hội chủ nghĩa - nền dân chủ nhất nguyên chính trị do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đảng, Nhà nước và nhân dân ta một mặt
phải kiên quyết khăc phục những yếu kém; mặt khác phải thực sự kiên
định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cảnh giác và kiên
quyết đấu tranh vạch trần mọi luận điệu xuyên tạc, dụ dỗ, lừa đảo của kẻ
thù, cùng nhau đoàn kết một lòng chung quanh Ban Chấp hành Trung
ương Đảng, quyết tâm đưa sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta
tiến lên giành nhiều thành tựu hơn nữa để xây dựng Nền dân chủ ở Việt
Nam hiện nay là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO


1. Đường dẫn: https://luatduonggia.vn/dan-chu-la-gi-khai-niem-vai-tro-
va-ban-chat-cua-dan-chu/
2. Đường dẫn: https://luatminhkhue.vn/dan-chu-la-gi-dac-diem-cua-nen-
dan-chu-xa-hoi-chu-nghia.aspx
3. Đường dẫn: https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/nghien-
cu/-/2018/817155/phat-huy-dan-chu-xa-hoi-chu-nghia-o-viet-nam-hien-
nay.aspx
4. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr.
515.
5. Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr.
698.
6. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội,
1987, tr. 29.
7. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc
gia, Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 84 - 85.
8. Cao Khánh Linh.

You might also like