You are on page 1of 4

- Nguồn gốc ô nhiễm không khí: Dựa vào tính chất hoạt động chia làm 4

nhóm: (i) ô nhiềm do các quá trình sản xuất công nghiệp, nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp,...; (ii) ô nhiỗm do giao thông vận tải; (iii) ô nhiễm
do sinh hoạt và (iv) ô nhiễm do các quá trình tự nhiên. Dựa vào nguồn
gốc phát sinh, chia thành 2 nhóm chính: (i) nguồn tự nhiên: khí thoát ra từ
các hoạt động núi lửa, động đất, phấn hoa, bụi đại dương, mùi sinh ra từ
sự phân huỷ tự nhiên các chất hữu cơ,... và (ii) nguồn nhân tạo: phát sinh
do hoạt dộng của con người, bao gồm nguồn cô" định trong các quá trình
đốt từ sán xuất công nghiệp và nguồn di động sinh ra trong các hoạt động
giao thông.

+ Ô nhiễm không khí do hoạt động công nghiệp và ĐTH:

Các loại hình công nghiệp trong các khu đô thị tương đối đa dạng, bao
gồm cả các loại hình công nghiệp gây ô nhiễm như giấy, giấy tái sinh, dệt
nhuộm, thuộc da, luyện cán cao su, xi mạ điện, luyện kim, sản xuất xi
măng, sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến gỗ, chế biến thực phẩm tươị
sống, hoá chất,... Với công nghệ sản xuất nói chung còn lạc hậu và mức
dầu tư cho bảo vệ môi trường thấp, các hoạt động sản xuất công nghiệp
và tiểu thủ công nghiệp tại các thành phố tiếp tục sản sinh ra lượng lớn
các chất thải thuộc nhiều dạng với nhiểu thành phần khác nhau.

* Ô nhiễm bụi: Nồng độ bụi trong không khí ở các thành phố lớn như Hà
Nội, Tp, Hô Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng trung bình lớn hơn trị số tiêu
chuẩn cho phép từ 2 đến 3 lần ơ các nút giao thông thuộc các đô thị này,
nồng độ bụi lớn hơn tiêu chuẩn cho phép từ 2 dến 5 lần: ở các khu đô thị
mới dang diễn ra quá trình thi công xây dựng nhà cửa, đường sá và hạ
tầng kỹ thuật thì nồng độ bụi thường vượt tiêu chuẩn cho phép từ 10 đến
20 lần. ở các thành phố, thị xã thuộc đồng bằng Nam Bộ có mức ô nhiễm
bụi trung bình cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 1,2 đến 1,5 lần, như ở
thành phố Cần Thơ, thị xã Rạch Giá. thị xã Hà Tiên, thị xã Bến Tre. Nói
chung, ô nhiễm bụi ở các tỉnh thành miền Nam trong mùa khô thường lớn
hơn trong mùa mưa.

* Ô nhiễm khí SO2: Nồng dộ khí SO2 trung bình ở các đô thị và khu
công nghiệp nước ta còn thấp hơn trị sô tiêu chuẩn cho phép. Trong các
thành phố, thị xã đã quan trắc thì ở các thành phô Hồ Chí Minh, Đà
Nẵng, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Vũng Tàu, Long An có nồng dộ khí SO2
lớn nhất, nhưng vẫn thấp hơn trị sô tiêu chuẩn cho phép tới 2 lần; ở các
thành phố khác còn lại. như Hà Nội, Hải Phòng. Hạ Long, Thanh Hoá,
Vinh, Huế, Cẩn Thơ, Cà Mau, Mỹ Tho.... nồng dộ khí S02 trung bình
ngày đều dưới 0.1mg/m3 tức là thấp hơn trị sô tiêu chuẩn cho phép tới 3
lần.

* Ô nhiễm các khí CO, NO2 ở các thành phố lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí
Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, nồng độ khí CO trung bình ngày dao động từ
2 đến 5mg/m3, nồng độ khí NO2 trung bình ngày dao dộng từ 0.04 đến
0,09mg/m3, chúng dều nhỏ hơn trị số tiêu chuẩn cho phép, tức là ở các đô
thị và khu công nghiệp Viêt Nam, nói chung chưa có hiện tượng ô nhiễm
khí CO và khí NO2. Tuy vậy, ở một số nút giao thông lớn trong đô thị.
nồng độ khí CO và khí NO2 dã vượt trị số tiêu chuẩn cho phép, như ở
ngã tư Đinh Tiên Hoàng - Điện Biên Phủ (Tp. Hồ Chí Minh), trị số trung
binh ngày của năm 2001: 0J9, gấp khoảng 3,2 lần trị sô" Liêu chuẩn cho
phép, nồng độ CO năm 2001: 15,48, gấp 3,1 lần trị số liêu chuẩn cho
phép; tương tự, năm 2002; nồng độ khí N02 = 0,191mg/m3 và khí CO =
12,67mg/m3 (Trần Hiếu Nhuệ. 2009).
+ Ô nhiễm không khí do hoạt động giao thông vận tải: Cùng với quá trình
CNH và ĐTH, phương tiện giao thông cơ giới ở nước ta tăng lên rất
nhanh, đặc biệt là ở các đô thị. Trước năm 1980. khoảng 80 — 90% dân
đô thị đi lại bằng,xe đạp,ngày nay, ngược lại, khoảng 80% dân đô thị đi
lại bằng xe máy, xe ô tô con. Nguồn thải từ giao thông vận tải đã trở
thành một ngụồn gây ô nhiễm chính đôi với môi trường không khí ở đô
thị, nhất là ở các độ thị lớn nhự Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh.,Hải Phòng, Đà
Nẵng. Do số lượng xe máy tăng lên rất nhanh,.không những làm tăng
nhanh nguồn thải gây ô nhiễm không khí, mà còn gậy ra tắc nghẽn
giao.thông ở nhiều đô thị lớn. Ở Hà Nội có khoảng 40 điểm thường
xuyên bị ùn tắc giao thông, ở Tp. Hồ Chí Minh là 80 điểm. Khi tắc nghẽn
giao thông, mức độ ô nhiễm hơi xăng dầu có thể tăng lên 4 - 5 lần so với
lúc bình thường. Ở Việt Nam, khoảng 75% số lượng ô tô chạy bằng nhiên
liệu xăng, 25% số lượng ô tô chạy bằng dầu DO, 100% xe máy chạy bàng
xăng, ô nhiễm khí CO và hơi xãng dầu (HC) thường xảy ra ở các nút giao
thông lớn. Trước năm 2001, ở các nút giao thông này còn bị ô nhiễm chì
(Pb).

+ Ô nhiễm không khí do hoạt động xây dựng: Hiện nay hoạt động xây
dựng nhà cửa, đường sá, cầu cống,... diễn ra rất mạnh đặc biệt là ở các đô
thị. Các hoạt động xảy dựng như đào lấp đất, đập phá công trình cũ, vât
liệu xây dựng bị rơi vãi trong quá trình vận chuyển, thường gây ô nhiễm
bụi rất trầm trọng đối với môi trường không khí xung quanh, đặc biệt là ô
nhiễm bụi, nồng độ bụi trong không khí ở các nơi có hoạt động xây dựng
vượt trị số tiêu chuẩn cho phép tới 10 - 20 lần.

- Biện pháp phòng chống ô nhiễm không khí: Trong tất cả các nguồn
ÔNMT không khí thì nguồn từ các hoạt động công nghiệp là đáng kể và
nghiêm trọng nhất. Để phòng chống, người ta tiến hành hoàn thiện các
quá trình công nghệ, đảm bảo độ kín tuyệt đối các thiết bị, ứng dụng
phương pháp vận chuyển vật liệu trong ống dẫn khí bằng khí nén và xây
dựng các hệ thông xử lý. Để phòng chống ô nhiễm không khí do hoạt
động giao thông, xây dựng, tiến hành loại bỏ xăng pha chì, trồng dải cây
xanh phản cách dọc theo đường, xây dựng công viên cây xanh trong các
thành phố, khu công nghiệp.

- Chất lượng không khí thường thay đổi nhanh theo thời gian. Để theo
dõi thường xuyên và kịp thời phát hiện rủi ro ONMT không khí ở các
thành phố lớn. Nhà nước đã đầu tư 4 trạm quan trắc không khí tự động cố
định tại Hà Nội, 1 trạm tự động cố định tại Hải Phòng và 2 trạm quan trắc
không khí tự động di động (1 ở Hà Nội và 1 ở Tp. Hồ Chí Minh). Năm
2002 và đầu năm 2003. ngành Khí tượng thuỷ văn đã lắp đặt và đưa vào
vận hành 6 trạm quan trắc môi trường không khí tự động tại Láng (Hà
Nội), Phù Liễn (Hái Phòng), Cúc Phương (Ninh Bình), Đà Nẵng, Pleiku
(Gia Lai), Nhà Bè (thành phố Hồ Chí Minh). Tại thành phố Hồ Chí Minh,
với sự giúp đỡ của Đan Mạch, cũng đã lắp đặt 4 trạm quan trắc không khí
tự động cố định. Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã bắt đầu từ 2003
nối mạng thông tin các trạm quan trắc tự động môi trường không khí và
thiết lập một số bảng thông tin điện tử trên đường phố để thông tin tình
trạng chất lượng môi trường không khí thành phố cho cộng đồng dân cư
biết hàng ngày.

You might also like