Professional Documents
Culture Documents
Chương V
Chương V
Quản lý đầu vào/hoạt động Quản lý theo kết quả: 3 cấp kết quả
Như vậy, trong khung logic đánh giá dựa trên kết quả, các thành tố của bao gồm:
Đầu vào, các hoạt động, đầu ra, kết quả và tác động.
- Các đầu vào là"những nguồn lực, như tiền, nhân lực và vật lực, được các cơ
quan, đơn vị thực hiện chính sách sử dụng để thực hiện các hoạt động và từ đó tạo nên
kết quả."Ví dụ, một xã trong Chương trình 135"có thể quyết định thực hiện một dự án đầu tư
XDCB vào công trình thủy lợi nhỏ nhằm nâng cao năng suất nông nghiệp và góp phần xóa
đỏi giảm nghèo trên địa bàn xã."Để thực hiện hoạt động đầu tư, người ta cần kinh phí (vốn),
lao động (nhân lực), nguyên vật liệu xây dựng v.v.. Tất cả những yếu tố này được"gọi là đầu
vào của dự án đầu tư thủy lợi."Quản lý đầu vào sẽ kiểm soát xem việc mua sắm các yếu tố
đầu vào có theo đúng chế độ, chính sách nhà nước ban hành về chủng loại, chất lượng, số
lượng, giá cả… hay không"
- Hoạt động"là quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo ra các sản phẩm cuối
cùng ở đầu ra. Hoạt động theo ví dụ trên thì đó là toàn bộ quá trình thi công công trình
thủy lợi. Quản lý theo quy trình hay theo hoạt động sẽ chú trọng đến những vấn đề như
tiến độ thi công, việc đảm bảo các thủ tục, qui trình trong quá trình xây dựng, giám sát,
công trình..."
- Đầu ra "là những hàng hóa, dịch vụ hay sản phẩm cụ thể mà các cơ quan, đơn vị
tạo ra để cung cấp cho xã hội trong quá trình thực hiện chính sách. Đầu ra chính là phương
tiện trung gian để chính sách có thể đạt được mục tiêu đề ra."Trong ví dụ trên, mặc dù mục
tiêu của chính sách là xóa đói giảm nghèo, nhưng mục tiêu đó chỉ có thể thực hiện được
dựa vào sự phát huy tác dụng của""công trình thủy lợi này trong việc tăng năng suất trồng
trọt cho xã. Do đó, công trình thủy lợi sau khi hoàn thành chính là đầu ra."Quản lý theo đầu
ra sẽ quan tâm đến sự hiện hữu của công trình thủy lợi đúng thời hạn và đảm bảo các tiêu
chuẩn chất lượng như đã cam kết.""
-"Kết quả là các tác động, ảnh hưởng đến cộng đồng"từ quá trình tạo ra một đầu ra
hoặc nhóm các đầu ra. Kết quả kế hoạch (dự kiến) là mục tiêu của chính phủ cố gắng đạt
được thông qua việc mua sắm các đầu ra. Các kết quả có thể được xem xét theo mức độ
ảnh hưởng đến xã hội trong trung hạn. Trong ví dụ trên, kết quả của việc đầu tư vào thủy
lợi là năng suất cây trồng được nâng cao. Quản lý chú trọng vào kết quả "sẽ quan tâm đến
việc mục tiêu trước mắt hay mục tiêu cụ thể của việc đầu tư vào công trình thủy lợi có đạt
được không, người sử dụng có thỏa mãn với các dịch vụ do công trình thủy lợi (đầu ra)
mang lại hay không."
-"Tác động là những kết quả mang tính chất dài hạn nhờ việc đạt được các kết quả
trung hạn nói trên. Đây cũng chính là việc đạt được đến những mục tiêu cuối cùng của
một kế hoạch, chính sách. Trong ví dụ trên, tác động của việc xây dựng công trình thủy
lợi chính là việc năng suất cây trồng được nâng cao đã góp phần giảm tỉ lệ nghèo trong xã
như thế nào. Đúng như định nghĩa của khái niệm này, việc giảm tỉ lệ nghèo không thể diễn ra
ngay sau khi đưa công trình thủy lợi vào sử dụng, mà cần một khoảng thời gian dài, khi công
trình thủy lợi đã góp phần làm tăng năng suất cây trồng, nhờ đó người dân trong xã có đủ
lương thực để sử dụng và dư thừa để đem bán thì mới có thể góp phần giảm nghèo bền vững
tại địa phương"
Như vậy, theo quan niệm ở trên, thuật ngữ “kết quả” được áp dụng cho 3 cấp cao
nhất của hệ thống thứ bậc trong khung logic là đầu ra, các kết qủa đầu ra, tác động. Các
cấp thấp nhất trong khung logic như các đầu vào và các hoạt động, không phải là mục
tiêu hoặc kết quả, chúng chỉ là phương tiện để đạt được các kết quả.
5.2. Cấu trúc và phương pháp xây dựng khung lô gic theo dõi và đánh giá
5.2.1. Cấu trúc của khung lôgíc
- Khung lôgíc TD&ĐG được thiết kế theo dạng Bảng, thực chất là mối quan hệ
của một hệ phân cấp theo chiều ngang va chiều dọc.
- Mối quan hệ theo chiều ngang là mối quan hệ tuyến tính, cùng cấp độ (đồng
cấp), mô tả mối quan hệ giữa mục tiêu - giải pháp - các chỉ số kỳ kế hoạch - đơn vị chịu
trách nhiệm TD&ĐG đối với việc thực hiện mục tiêu đó (Bảng 6.3).
- Mối quan hệ theo chiều dọc là mối quan hệ trên - dưới, cấp dưới là chi tiết hóa
của cấp trên.
Bảng 5.1: Cấu trúc Khung TD&ĐG dưới dạng Bảng
Cơ quan thực hiện
Chỉ số, Chỉ số giám sát, đánh giá và
báo cáo đối với Ghi
chú
Kết quả, Kết quả,
Đầu vào Đầu ra Đầu ra
tác động tác động
Ví dụ:
Bảng 5.2. Ví dụ về mối liên hệ giữa mục tiêu, chỉ tiêu và chỉ số.
Mục tiêu Chỉ tiêu Chỉ số
Xoá đói Từ 2000 đến 2010, giảm Tỷ lệ hộ nghèo chung theo chuẩn
giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo quốc tế.
nghèo chuẩn nghèo quốc tế và Tỷ lệ hộ nghèo chung theo chuẩn
3/5 theo chuẩn nghèo quốc gia.
quốc gia
Số hộ thoát nghèo
Tỷ lệ tiêu dùng của nhóm 20%
nghèo nhất/tổng tiêu dùng xã hội
Nâng cấp và đào tạo Số người tốt nghiệp các Cơ quan chủ quản
lực lượng lao động chương trình nâng cao tay
địa phương nghề đã tìm được việc làm
Tăng tính tự chủ kinh Các mức thu nhập hộ gia đình Thống kê thu nhập
tế của địa phương Mức nhân dụng Số liệu về thất nghiệp
Mức tiết kiệm của địa phương Số liệu về doanh thu của
Nhận thức về khả năng tự lực địa phương
tự cường Các kết quả điều tra về thái
độ của các cơ sở kinh doanh
và cư dân địa phương
Lưu ý: Trong phần lớn các trường hợp, các chỉ số định lượng (thống kê/ số
lượng) là các chỉ số chuyển tải tốt nhất các thông tin về thực trạng phát triển kinh tế,
điều kiện xã hội và môi trường. Tuy nhiên, các chỉ số định tính có thể cũng được sử
dụng để nâng cao hiểu biết về tác động của các hoạt động phát triển kinh tế ở địa
phương.
IX.3.1.2. Xác định thành phần tham gia và tổ chức thực hiện
Xây dựng một chương trình theo dõi đòi hỏi quy định rõ trách nhiệm về thu
thập và phân tích thông tin một cách định kỳ. Tốt nhất là sắp xếp sao cho những
người tham gia vào trong quá trình lập kế hoạch, cũng sẽ tham gia vào việc thu
thập thông tin và báo cáo kết quả cho HĐND, hoặc cho cộng đồng liên quan.
Các nhà quản lý địa phương chịu trách nhiệm về thực hiện kế hoạch có thể cũng là
người chịu trách nhiệm về kết quả theo dõi và báo cáo. Bên cạnh đó, việc thu hút sự tham
gia của người dân địa phương hoặc những người tình nguyện vào trong quá trình theo dõi
là một cách tiếp cận khác có thể sử dụng để nắm bắt triển vọng của các hoạt động phát triển
kinh tế và thu hút địa phương vào việc định hướng các KHHĐ và các mục tiêu phát triển.
IX.3.1.3. Xác định khi nào cần theo dõi
Thời gian thực hiện theo dõi sẽ rất khác nhau với mỗi mục tiêu kế hoạch, vì bản
chất của các mục tiêu được theo dõi và các chỉ số được sử dụng là không giống nhau.
Thông thường, theo dõi có thể được thực hiện theo định kỳ hàng tháng, hàng quí, nửa
năm, hằng năm và trong hoặc giữa các giai đoạn của dự án.
Theo dõi liên tục là một quá trình tham chiếu: các kết quả theo dõi được phản hồi
trực tiếp trong kế hoạch, hoặc gây ảnh hưởng đến nội dung và các phương hướng của kế
hoạch trong tương lai (ví dụ: các hiểu biết mới có thể là nguyên nhân bắt chúng ta phải
suy xét lại các kế hoạch hành động, nhằm bảo đảm đạt được các mục tiêu đề ra).
IX.3.1.4. Tổ chức thông tin và chuẩn bị báo cáo
Một yếu tố quan trọng, nhưng thường bị bỏ qua khi chuẩn bị công tác theo dõi, đó là
xây dựng năng lực và quy trình cho việc tổ chức thông tin và công bố các kết quả theo dõi.
Mặc dù việc tổ chức thông tin về kết quả theo dõi có vẻ tốn kém hoặc phiền toái, song nếu
không làm tốt công việc này, kết quả hoạt động theo dõi sẽ không thực sự có ý nghĩ đối với
các địa phương trong quá trình điều hành thực hiện kế hoạch. Khi các kết quả theo dõi được
ghi chép thành văn bản, và các thông tin được tổ chức hợp lý (hướng dẫn, biểu mẫu, tần
xuất, ...) thì điều đó sẽ mang lại sự tiết kiệm và các lợi ích lớn, khi kế hoạch được thực hiện,
cho các hoạt động phân tích, đánh giá và lập kế hoạch trong tương lai.
Các kết quả theo dõi cần được tuyên truyền định kỳ trong địa phương để đánh
giá các phản ứng và nâng cao nhận thức về sự tham gia, hỗ trợ các họat động phát triển
kinh tế. Qua đó, các ý kiến phản hồi của địa phương, đến lượt mình, sẽ trở thành quan
trọng trong quá trình đánh giá và giúp các bên liên quan điều chỉnh lại KHCL
PTKTĐP.
Giống như đối với hoạt động theo dõi, các kết quả đánh giá cần được chuyển tải
đến cả các bên liên quan lẫn cộng đồng nói chung. Như một phần của quá trình báo cáo,
cơ chế đóng góp, phản hồi ở địa phương là rất quan trọng để giúp định hướng các nỗ lực
điều chỉnh hoặc xem xét lại kế hoạch phát triển kinh tế.
IX.3.3. Sử dụng những phát hiện trong quá trình TDĐG
Báo cáo TDĐG có nhiều vai trò khác nhau, và thông tin mà chúng đưa ra có thể
được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, mục đích trọng tâm là để
“truyền thông điệp” – thông tin cho các đối tượng liên quan về các phát hiện và kết luận
rút ra từ việc thu thập, phân tích và lý giải các thông tin đánh giá.
Do vậy, việc hiểu rõ khán giả của bạn và việc họ muốn thấy các thông tin được
trình bày như thế nào là rất quan trọng. Trong quá trình tìm tòi các phát hiện từ việc
TDĐG, điều quan trọng là phải đảm bảo được rằng tất cả mọi người đều được thông báo
về tiến độ TDĐG.
Kết quả TDĐG cần được truyền bá không ngừng nhằm cung cấp những thông tin
phản hồi cho những người ra quyết định. Các hình thức liên lạc không chính thống (điện
thoại, thư điện tử, fax, đối thoại) và chính thống (báo cáo sơ bộ, trình bày, báo cáo bằng
văn bản) đều có thể được sử dụng.
Lập kế hoạch TDĐG cần phải tính đến mối quan tâm, sự mong đợi của khán giả
và các phương tiện truyền thông được sử dụng, qua đó xây dựng một chiến lược truyền
thông phù hợp để cho các kết quả TDĐG có thể được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Hộp 5.7. Các câu hỏi cần đặt ra khi xây dựng chiến lược truyền thông về kết quả
TDĐG.
Ai sẽ nhận được thông tin?
Dưới hình thức nào?
Khi nào?
Ai sẽ chuẩn bị các thông tin đó?
Ai sẽ cung cấp thông tin?
Nguồn : nhóm biên soạn tổng hợp
Về các hoạt động tiếp tục theo dõi và phản hồi, có thể xây dựng một qui trình
chính trị để đưa các bên hữu quan và người đánh giá ngồi lại với nhau để thảo luận về các
phát hiện, các phương án hành động, và các bước đi tiếp theo. Cũng sẽ là hữu ích nếu “…
nhận được thông tin phản hồi định kỳ từ các bên hữu quan chủ chốt, như các quan chức
dân cử, nhà tài trợ, và công chúng… về tính hữu ích và tính dễ hiểu của các báo cáo về
kết quả hoạt động. Sử dụng thông tin phản hồi giúp làm cho các báo cáo kết quả hoạt
động trong tương lai phù hợp hơn với các đối tượng khán giả cụ thể”.