You are on page 1of 17

CHƯƠNG V

THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN

Mục đích của chương:


Chương này cung cấp cho người đọc những phương pháp, công cụ thích hợp để
xây dựng được hệ thống chỉ tiêu, chỉ số cần thiết cho việc theo dõi và đánh giá chính
sách phát triển. Qua đó làm rõ những công việc cần thiết để triển khai thực hiện theo dõi
và đánh giá chính sách phát triển.

5.1. KHÁI NIỆM CƠ BẢN VỀ THEO DÕI VÀ ĐÁNH GÍA


5.1.1. Khái niệm về theo dõi và đánh giá
5.1.1.1. Khái niệm theo dõi
Theo dõi là một thuật ngữ có nghĩa là ”nhìn”, phát hiện những gì đang tồn tại, và
tìm ra những gì đang thực sự diễn ra. Đây chủ yếu là một qui trình nội bộ của hoạt động
quản lý, được tiến hành nhằm theo dõi một cách thường xuyên trong suốt thời gian thực
hiện chính sách phát triển. Theo dõi là quá trình thu thập thông tin và đo lường kết quả
thực thi của một chính sách phát triển.
Nói một cách ngắn gọn, theo dõi có nghĩa là thực hiện việc "quan sát" hay "kiểm
tra kết quả thực hiện". Theo dõi là một quá trình liên tục thu thập thông tin, sử dụng các
tiêu chí để đo lường việc thực thi một chính sách phát triển.
Teho OECD, Theo dõi là chức năng liên tục được sử dụng để thu thập có hệ
thống dữ liệu về một số chỉ số nhất định nhằm cung cấp cho nhà quản lý và các bên hữu
quan chủ yếu của một phương thức can thiệp nào đó vào tiến trình phát triển đang diễn
ra các chỉ báo về mức độ tiến độ, mức độ đạt được các mục tiêu và tiến độ trong việc sử
dụng các nguồn lực được phân bổ. (OECD).
Có hai hình thức theo dõi phổ biến là:
Theo dõi mức độ tuân thủ (theo dõi quá trình) : để bảo đảm rằng các hoạt động của
chính sách đã dự kiến phải được thực hiện.
Theo dõi tác động: để đo lường tác động của một hoạt động đối với việc đạt được
các mục tiêu đã đề ra.
Mục đích của theo dõi là cung cấp một cách kịp thời, chính xác và hợp lý các
thông tin về những gì hiện đang xảy ra, qua đó các chính sách có thể được điều chỉnh và
các nguồn lực được quản lý sao cho phù hợp nhất với những đòi hỏi và cơ hội của tình
trạng thực tế. Nó cũng ghi nhận một cách chi tiết những gì đang xảy ra nhằm phục vụ
cho việc cung cấp thông tin, trách nhiệm giải trình hay cho việc đánh giá trong tương lai.
5.1.1.2. Khái niệm đánh giá
Đánh giá là việc xem xét một cách có hệ thống và khách quan về một chính sách
đang triển khai hoặc đã kết thúc, bao gồm cả việc xây dựng, hoàn thiện và kết quả của nó.
Mục đích của giám sát chính sách phát triển là nhằm xác định tính hợp lý và tính thực
hiện của các mục tiêu, hiệu quả phát triển, tác động và tính bền vững của các chính sách.
Quá trình đánh giá phải cung cấp thông tin đáng tin cậy, hữu ích, cho phép áp dụng các
bài học rút ra vào tiến trình ra quyết định chính sách. Đánh giá là việc phân tích thông tin
từ quá trình theo dõi để xác định các kết quả của việc thực thi chính sách và xét đoán giá
trị của chúng
Đánh giá là một quá trình nhằm xác định và phản ánh kết quả của những gì đã được
thực thi, và xét đoán giá trị của việc thực thi các chính sách phát triển. Đánh giá có thể
được thực hiện bởi những người có trách nhiệm quản lý (tự đánh giá) hay bởi những người
bên ngoài có liên quan (đánh giá có sự tham gia) hoặc cả hai.
Đánh giá là việc sử dụng thông tin có được từ quá trình theo dõi để phân tích các
chính sách để xác định liệu có cần sự thay đổi hay điều chỉnh chính sách hay không. Trong
bước thực thi chính sách phát triển đánh giá được sử dụng để xác định các hoạt động có
đáp ứng các mục tiêu của chính sách một cách có hiệu quả và hiệu lực hay không.
Nhiệm vụ của đánh giá là đi xa hơn theo dõi một bước, nó là qui trình phản ánh
về những gì đã xảy ra và đang xảy ra nhằm mục đích học hỏi cho tương lai. Nó bao
gồm việc xác định những lý do của cả thành công và thất bại, và việc học hỏi từ đó.
Nó không chỉ chỉ ra giá trị thực của những gì đã được thực hiện, mà còn đưa ra những
lựa chọn tương lai về chính sách cho việc tiếp tục quá trình phát triển.
5.1.2. Các hình thức TDĐG
5.1.2.1. Các hình thức TDĐG
Trong TDĐG chính sách có hai hình thức phổ biến là TDĐG quá trình (sự tuân
thủ các hoạt động của chính sách) và TDĐG kết quả (kết cục, tác động của chính sách
đến sự phát triển).
TDĐG quá trình (theo dõi sự tuân thủ)
TDĐG quá trình là hình thức truyền thống, theo đó người theo dõi tập trung quan
tâm đến việc thực thi kế hoạch có tuân thủ hay không các các đầu vào, quy trình thực
hiện, và các đầu ra đã định.
Hệ thống TDĐG truyền thống tập trung vào trả lời câu hỏi “họ đã thực hiện điều
đó chưa”. Tuy nhiên, cách tiếp cận này không giúp cho các nhà hoạch định chính sách,
nhà quản lý và các bên hữu quan hiểu được sự thành công cũng như thất bại của dự án,
chương trình hay chính sách cụ thể.
TDĐG dựa vào kết quả
Theo dõi dựa vào kết quả không chỉ dừng lại ở việc theo dõi tuân thủ qui trình, mà
đi xa hơn khi tập trung nghiên cứu sự đóng góp của rất nhiều các yếu tố để đạt được một
kết quả mục tiêu nhất định, các yếu tố này bao gồm các đầu ra, mối quan hệ hợp tác, quy
trình chính sách, v.v… và theo dõi xem các hoạt động được tiến hành có đem lại những
kết quả/tác động mong muốn hay không.
Việc áp dụng các hệ thống TDĐG dựa trên kết quả sẽ đưa các nhà hoạch định
chính sách tiến thêm một bước nữa trên con đường đánh giá liệu các mục tiêu đặt ra đã
đạt được chưa và làm sao để đạt được các mục tiêu này. Các hệ thống này giúp trả lời câu
hỏi rất quan trọng “rồi sao nữa” và đáp ứng đòi hỏi ngày càng tăng về kết quả của các
bên hữu quan.
5.1.2.2. Các phương thức theo dõi và đánh giá
Trong công tác TDĐG thực hiện kế hoạch tại địa phương, có hai phương thức có
thể được sử dụng, đó là TDĐG nội bộ và TDĐG có sự tham gia của người dân.
Theo dõi và đánh giá nội bộ (tự theo dõi và đánh giá)
Phương pháp này là một qui trình thu thập các thông tin từ bên trong về quá trình
thực hiện chính sách và dựa trên cơ sở các thông tin đó để đưa ra một bức tranh về những
gì đã đạt được trong việc triển khai thực hiện chính sách phát triển. Phương thức TDĐG
này sử dụng các qui trình nội bộ và người TDĐG cũng chính là người nội bộ của cơ quan
triển khai thực hiện chính sách.
Theo dõi và đánh giá có sự tham gia của người dân
TDĐG có sự tham gia là việc ghi nhận một cách có hệ thống và phân tích theo
định kỳ những thông tin về tình hình thực tế (được lựa chọn và ghi chép bởi những người
bên trong với sự giúp đỡ của những người dân từ bên ngoài) qua đó tạo cơ hội cho cả
những người bên trong và người bên ngoài nhìn nhận và suy nghĩ về những kết quả quá khứ
nhằm học hỏi và phục vụ cho việc ra quyết định trong tương lai.
Mục đích chính của theo
dõi có sự tham gia là cung cấp thông tin trong quá trình thực hiện chính sách, qua
đó có thể thực hiện những điều chỉnh hoặc sửa đổi nếu cần. Theo dõi có sự tham gia cung
cấp một tín hiệu “cảnh báo sớm” cho phép xác định các vấn đề một cách sớm hơn, quá đó
những giải pháp sẽ được đưa ra trước khi vấn đề vượt ra khỏi tầm tay của nhà quản lý.
Đánh giá có sự tham gia cung cấp cho người bên trong những thông tin xác đáng
và hữu ích, giúp họ quyết định xem các mục tiêu hay hoạt động có thể được giữ nguyên hay
phải thay đổi. Đánh giá có sự tham gia cũng góp phần cải thiện các kỹ năng phân tích của cộng
đồng cần thiết cho việc đưa ra những quyết định đúng đắn. Đánh giá có sự tham gia tăng
cường sự giao tiếp qua lại gữa cộng đồng và các nhà quản lý.
Khung logic đánh giá theo kết quả đầy đủ được mô tả dưới dạng sơ đồ như sau

Nguồn Các hoạt Đầu ra Kết quả Tác động


lực đầu động (outcome)
vào

Quản lý đầu vào/hoạt động Quản lý theo kết quả: 3 cấp kết quả

Tính tiết kiệm Tính hiệu lực


Tính hiệu quả Tính hiệu lực

Như vậy, trong khung logic đánh giá dựa trên kết quả, các thành tố của bao gồm:
Đầu vào, các hoạt động, đầu ra, kết quả và tác động.
- Các đầu vào là"những nguồn lực, như tiền, nhân lực và vật lực, được các cơ
quan, đơn vị thực hiện chính sách sử dụng để thực hiện các hoạt động và từ đó tạo nên
kết quả."Ví dụ, một xã trong Chương trình 135"có thể quyết định thực hiện một dự án đầu tư
XDCB vào công trình thủy lợi nhỏ nhằm nâng cao năng suất nông nghiệp và góp phần xóa
đỏi giảm nghèo trên địa bàn xã."Để thực hiện hoạt động đầu tư, người ta cần kinh phí (vốn),
lao động (nhân lực), nguyên vật liệu xây dựng v.v.. Tất cả những yếu tố này được"gọi là đầu
vào của dự án đầu tư thủy lợi."Quản lý đầu vào sẽ kiểm soát xem việc mua sắm các yếu tố
đầu vào có theo đúng chế độ, chính sách nhà nước ban hành về chủng loại, chất lượng, số
lượng, giá cả… hay không"
- Hoạt động"là quá trình sử dụng các yếu tố đầu vào để tạo ra các sản phẩm cuối
cùng ở đầu ra. Hoạt động theo ví dụ trên thì đó là toàn bộ quá trình thi công công trình
thủy lợi. Quản lý theo quy trình hay theo hoạt động sẽ chú trọng đến những vấn đề như
tiến độ thi công, việc đảm bảo các thủ tục, qui trình trong quá trình xây dựng, giám sát,
công trình..."
- Đầu ra "là những hàng hóa, dịch vụ hay sản phẩm cụ thể mà các cơ quan, đơn vị
tạo ra để cung cấp cho xã hội trong quá trình thực hiện chính sách. Đầu ra chính là phương
tiện trung gian để chính sách có thể đạt được mục tiêu đề ra."Trong ví dụ trên, mặc dù mục
tiêu của chính sách là xóa đói giảm nghèo, nhưng mục tiêu đó chỉ có thể thực hiện được
dựa vào sự phát huy tác dụng của""công trình thủy lợi này trong việc tăng năng suất trồng
trọt cho xã. Do đó, công trình thủy lợi sau khi hoàn thành chính là đầu ra."Quản lý theo đầu
ra sẽ quan tâm đến sự hiện hữu của công trình thủy lợi đúng thời hạn và đảm bảo các tiêu
chuẩn chất lượng như đã cam kết.""
-"Kết quả là các tác động, ảnh hưởng đến cộng đồng"từ quá trình tạo ra một đầu ra
hoặc nhóm các đầu ra. Kết quả kế hoạch (dự kiến) là mục tiêu của chính phủ cố gắng đạt
được thông qua việc mua sắm các đầu ra. Các kết quả có thể được xem xét theo mức độ
ảnh hưởng đến xã hội trong trung hạn. Trong ví dụ trên, kết quả của việc đầu tư vào thủy
lợi là năng suất cây trồng được nâng cao. Quản lý chú trọng vào kết quả "sẽ quan tâm đến
việc mục tiêu trước mắt hay mục tiêu cụ thể của việc đầu tư vào công trình thủy lợi có đạt
được không, người sử dụng có thỏa mãn với các dịch vụ do công trình thủy lợi (đầu ra)
mang lại hay không."
-"Tác động là những kết quả mang tính chất dài hạn nhờ việc đạt được các kết quả
trung hạn nói trên. Đây cũng chính là việc đạt được đến những mục tiêu cuối cùng của
một kế hoạch, chính sách. Trong ví dụ trên, tác động của việc xây dựng công trình thủy
lợi chính là việc năng suất cây trồng được nâng cao đã góp phần giảm tỉ lệ nghèo trong xã
như thế nào. Đúng như định nghĩa của khái niệm này, việc giảm tỉ lệ nghèo không thể diễn ra
ngay sau khi đưa công trình thủy lợi vào sử dụng, mà cần một khoảng thời gian dài, khi công
trình thủy lợi đã góp phần làm tăng năng suất cây trồng, nhờ đó người dân trong xã có đủ
lương thực để sử dụng và dư thừa để đem bán thì mới có thể góp phần giảm nghèo bền vững
tại địa phương"
Như vậy, theo quan niệm ở trên, thuật ngữ “kết quả” được áp dụng cho 3 cấp cao
nhất của hệ thống thứ bậc trong khung logic là đầu ra, các kết qủa đầu ra, tác động. Các
cấp thấp nhất trong khung logic như các đầu vào và các hoạt động, không phải là mục
tiêu hoặc kết quả, chúng chỉ là phương tiện để đạt được các kết quả.
5.2. Cấu trúc và phương pháp xây dựng khung lô gic theo dõi và đánh giá
5.2.1. Cấu trúc của khung lôgíc
- Khung lôgíc TD&ĐG được thiết kế theo dạng Bảng, thực chất là mối quan hệ
của một hệ phân cấp theo chiều ngang va chiều dọc.
- Mối quan hệ theo chiều ngang là mối quan hệ tuyến tính, cùng cấp độ (đồng
cấp), mô tả mối quan hệ giữa mục tiêu - giải pháp - các chỉ số kỳ kế hoạch - đơn vị chịu
trách nhiệm TD&ĐG đối với việc thực hiện mục tiêu đó (Bảng 6.3).
- Mối quan hệ theo chiều dọc là mối quan hệ trên - dưới, cấp dưới là chi tiết hóa
của cấp trên.
Bảng 5.1: Cấu trúc Khung TD&ĐG dưới dạng Bảng
Cơ quan thực hiện
Chỉ số, Chỉ số giám sát, đánh giá và
báo cáo đối với Ghi
chú
Kết quả, Kết quả,
Đầu vào Đầu ra Đầu ra
tác động tác động

Mục tiêu tổng quát 1


Mục tiêu 1.1
Mục tiêu 1.2
…………..
Mục tiêu 1.n

Mục tiêu tổng quát 2


Mục tiêu 2.1
Mục tiêu 2.2
……….
Mục tiêu 2.m

Mục tiêu tổng quát n


……..

5.2.2. Phương pháp xây dựng khung lôgíc TD&ĐG


Việc xây dựng Khung TD& ĐG chung có thể tiến hành dựa vào khung lôgíc kế
hoạch phát triển KT-XH. Phương pháp này có ưu điểm là giữ được nguyên cấu trúc cây
mục tiêu và cây chỉ số đã được đề ra khi lập kế hoạch.
5.3. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện khung theo dõi và đánh giá
Lập kế hoạch TD&ĐG sẽ bao gồm các bước cơ bản:
Xây dựng Khung TD&ĐG;
Lập kế hoạch TD&ĐG;
Tổ chức thông tin và báo cáo kết quả.
5.3.1. Xây dựng khung TD&ĐG
Cấu trúc Khung TD&ĐG và cách thức xây dựng được trình bày trong mục 7.b.
bên trên. Các nội dung TD&ĐG được chiết xuất từ “Khung”này trước hết là mối gắn kết
giữa mục tiêu và các chỉ số, chỉ số đo lường mức độ thực hiện mục tiêu.
5.3.2. Lập kế hoạch TD &ĐG
Lập kế hoạch theo dõi sẽ bắt đầu bằng việc xây dựng một khung những vấn đề cần
theo dõi trong việc triển khai thực hiện. Trên cơ sở các vấn đề dự kiến theo dõi phải xác
định rõ ai là người sẽ chịu trách nhiệm theo dõi? và cần những nguồn lực nào phục vụ
cho hoạt động theo dõi này?
Đối với mỗi mục tiêu, cần liệt kê tất cả các chỉ số, chỉ số đo lường chúng cùng với
các thông tin liên quan về nguồn gốc và phương pháp thu thập; phải phân công quy định
rõ ràng trách nhiệm cụ thể về thu thập và phân tích thông tin.
Để xây dựng kế hoạch theo dõi cần phân loại nhiệm vụ và thiết kế nội dung cụ thể
cho từng nhiệm vụ theo dõi, chi tiết đến các chỉ số, chỉ số cụ thể (chiết xuất từ Khung
TD&ĐG).
VI.2.8. Bước 8: Xây dựng hệ thống giải pháp thực hiện chính sách
Các điều kiện cần thiết để thực hiện thành công chính sách phát triển.
1. Xây dựng được một bản kế hoạch có chất lượng cao
Bản kế hoạch chất lượng cao là bản kế hoạch đáp ứng được các nguyên tắc và yêu
cầu lập kế hoạch theo phương pháp mới, đưa ra được hệ thống mục tiêu và chỉ số tham
vọng nhưng lại có tính khả thi cao, là kế hoạch tốt nhất có tính hiện thực đối với địa
phương.
2. Tổ chức thực hiện kế hoạch năng động, linh hoạt, sáng tạo và theo dõi, đánh
giá sát sao, chặt chẽ tình hình thực hiện chính sách
Hệ thống quản trị thực hiện kế hoạch bao gồm hoạt động điều hành, quản lý, tổ
chức triển khai và TD&ĐG tình hình thực hiện kế hoạch là những điều kiện quan trọng
hàng đầu của việc triển khai thành công kế hoạch đề ra.
3. Đảm bảo đủ các nguồn lực đầu vào của chính sách
Trong các nguồn lực đầu vào của kế hoạch thì nguồn vốn đầu tư phát triển và
nguồn lực con người là quan trọng nhất.
4. Xây dựng được hệ thống tổ chức, quản lý và hệ thống sản xuất có tính sáng tạo
và đổi mới.
5. Có hệ thống cơ chế, chính sách cởi mở, thông thoáng.
6. Các chương trình mục tiêu, dự án đề ra trong bản kế hoạch cơ bản được triển
khai đúng tiến độ và có sự phối hợp đồng bộ.
5.4. Chỉ số theo dõi và đánh giá
5.4.1. Khái niệm chỉ số
Chỉ số: là thước đo đo lường tiến độ đạt được chỉ tiêu/mục tiêu. Chỉ số thường là
tên của một công cụ đo lường dùng để xác định tình trạng thực tế của một chỉ tiêu. Kết
của của “phép đo” sử dụng chỉ số cho chúng ta biết được mức độ hoàn thành các chỉ tiêu
mục tiêu kế hoạch.
 Ví dụ: để đo lường chỉ tiêu “giảm một nửa số người có thu nhập dưới 1 đôla một
ngày”, người ta có thể dùng chỉ số “thu nhập bình quân đầu người một ngày” .
Lưu ý: Trong thực tế, chỉ tiêu và chỉ số thường rất hay bị nhầm lẫn với nhau. Một
cách đơn giản để phân biệt đó là chỉ số là tên một công cụ đo lường hay một thước đo, nó
không bao gồm con số định lượng, còn chỉ tiêu thì là chỉ số được lượng hoá thành một
con số cụ thể để phấn đấu đạt được. Chỉ số cũng không thể hiện hành động, do vậy khi
viết tên chỉ số không cần ghi các động từ như “tăng” hoặc “giảm”. Chẳng hạn, Thay vì
ghi “Tăng số hộ thoát nghèo” thì ghi tên chỉ số là “Số hộ thoát nghèo”

 Ví dụ:
Bảng 5.2. Ví dụ về mối liên hệ giữa mục tiêu, chỉ tiêu và chỉ số.
Mục tiêu Chỉ tiêu Chỉ số

Xoá đói Từ 2000 đến 2010, giảm Tỷ lệ hộ nghèo chung theo chuẩn
giảm 2/5 tỷ lệ nghèo theo quốc tế.
nghèo chuẩn nghèo quốc tế và Tỷ lệ hộ nghèo chung theo chuẩn
3/5 theo chuẩn nghèo quốc gia.
quốc gia
Số hộ thoát nghèo
Tỷ lệ tiêu dùng của nhóm 20%
nghèo nhất/tổng tiêu dùng xã hội

5.4.2. Lựa chọn chỉ số theo dõi, đánh giá


5.4.2.1. Phân loại chỉ số
Chỉ số phục vụ cho TDĐG được chia làm 4 loại: đầu vào, đầu ra, kết quả và ảnh
hưởng (hoặc tác động).
Chỉ số đầu vào: Thể hiện nguồn lực đầu tư để nhằm đạt được các mục tiêu đề ra.
Nguồn lực ở đây bao gồm rất nhiều yếu tố bao gồm vốn đầu tư bằng tiền, hiện vật,
sức lao động. Các nguồn lực này có thể được đầu tư ngay từ đầu hoặc trong suốt quá
trình thực hiện mục tiêu. Các chỉ số đầu vào thông thường là các chỉ số mang tính hiện
vật.
Chỉ số đầu ra: thể hiện sản phẩm (hàng hoá, dịch vụ, …) được tạo ra từ việc huy
động và sử dụng các nguồn lực.
 Lưu ý: Các chỉ số đầu vào và đầu ra chỉ là những công cụ định lượng trong
phân tích đánh giá, ngoài ra còn có các công cụ định tính cần được sử dụng trong quá
trình phân tích như quy trình thực hiện, ý thức và nhận thức của cán bộ, sự thông thoáng
cơ chế, chính sách, v.v…
Chỉ số kết quả: Thể hiện trực tiếp hiệu quả, thực trạng, tiến trình đạt được của các
mục tiêu/chỉ tiêu đề ra, phản ánh sản phẩm trực tiếp sau khi có các đầu ra. Đây là loại chỉ
số quan trọng nhất trong hệ thống TDĐG vì chúng thể hiện trực tiếp hiệu quả tiến trình
thực hiện mục tiêu đề ra.
Chỉ số ảnh hưởng/tác động: phản ánh tính hiệu quả, đo lường tác động tăng phúc
lợi xã hội nói chung do ảnh hưởng của nhiều nhân tố trong thời gian dài và trên diện
rộng.
 Lưu ý: Các ảnh hưởng hay tác động được tạo ra là do rất nhiều nguyên nhân. Ví
dụ tuổi thọ bình quân được tăng lên không chỉ do giảm tình trạng đói nghèo mà còn do
nhiều yếu tố khác như trình độ giáo dục, chăm sóc y tế, phát triển cộng đồng,v.v... Đồng
thời để có được tác động hay ảnh hưởng mong muốn cần có thời gian dài. Do vậy, chu kỳ
thu thập số liệu của các chỉ số ảnh hưởng cũng dài hơn chu kỳ của các chỉ số khác.
5.4.2.2. Lựa chọn chỉ số theo dõi, đánh giá
Đối với một mục tiêu, có thể sử dụng rất nhiều các chỉ số phục vụ cho quá trình
TDĐG. Tuy nhiên, cần phải lựa chọn được những chỉ số nào có thể thể hiện rõ ràng và
hiệu quả nhất tiến trình thực hiện kế hoạch, mục tiêu. Số lượng chỉ số được lựa chọn
không nên quá nhiều vì không thể hiện được trọng tâm TDĐG. Từ những thông tin có
sẵn, cần xây dựng một vài chỉ số đánh tin cậy và phục vụ tốt cho quá trình phân tích. Các
chỉ số này có thể phản ánh kịp thời những thay đổi trong tiến trình thực hiện. Cần phải có
sự lựa chọn cân bằng giữa những chỉ số cần đo lường và những chỉ số có thể đo lường
được.
 Lưu ý: Trong một số trường hợp, chi phí tốn kém, tính phức tạp và thời gian
hạn chế của việc thu thập số liệu làm cản trở việc đo lường kết quả mục tiêu một cách
trực tiếp thì phải sử dụng chỉ số gián tiếp. Điều này thường xảy ra đối với các mục tiêu
về quản lý nhà nước.
 Ví dụ: Mục tiêu là “Đảm bảo dân chủ ở cơ sở” được đánh giá bằng chỉ số gián
tiếp là “Tỷ lệ xã được cung cấp thông tin về chương trình xoá đói giảm nghèo”. Tuy
không phải rằng được cung cấp thông tin thì có nghĩa là đảm bảo dân chủ cơ sở, nhưng tỷ
lệ này có mối tương quan với đảm bảo dân chủ, và nó cũng cung cấp cho các nhà quản lý
biết xu hướng tiến triển và các dấu hiệu cảnh báo về việc thực hiện mục tiêu này.
5.4.2.3. Phương pháp thu thập số liệu để xây dựng chỉ số TDĐG
Có rất nhiều phương pháp thu thập số liệu để xây dựng các chỉ số TDĐG, kể cả
phương pháp định tính và định lượng. Tuy nhiên, các phương pháp này có thể được phân
thành ba loại như sau:

Báo cáo thống kê định kỳ


Các báo cáo thống kê định kỳ được xây dựng hàng tháng, hàng quý, hàng. Đây là
các báo cáo hành chính mà các cấp quản lý của các cơ quan chức năng có nhiệm vụ thực
hiện để báo cáo lên cấp trên theo định kỳ. Tất cả các sở, ban, ngành cấp tỉnh/thành phố
đều có thể thu thập được các báo các thống kê định kỳ này về những lĩnh vực mà mình
quản lý. Cục thống kê tỉnh/thành phố là cơ quan tổng hợp, chuyên trách và chịu trách
nhiệm công bố các số liệu thống kê chính thức của tỉnh/thành phố. Các chỉ số chuyên sâu
hơn của từng lĩnh vực có thể thu thập được từ các báo cáo của các sở, ngành chuyên môn.
Điều tra, khảo sát
Phương pháp này bao gồm tổ chức các cuộc điều tra hoặc đi thực địa để thu thập
trực tiếp các thông tin cần thiết nhằm tính toán một số chỉ số nào đó. Thông thường các
cuộc điều tra và khảo sát được tổ chức khi không thể thu thập thông tin qua hệ thống
báo cáo định kỳ được mà phải trực tiếp xuống gặp các đối tượng liên quan. Chẳng hạn
như một số loại điều tra, khảo sát thường gắp là điều tra hộ gia đình, điều tra năng suất,
điều tra sản lượng, khảo sát chất lượng xây dựng đường xá, v.v...
Tham vấn, tham gia
Đây là phương pháp thu thập thông tin dựa trên các số liệu, báo cáo phân tích hoặc
tổ chức các buổi họp mặt chuyên gia, họp nhóm hành động, họp đối tượng hưởng lợi
hoặc đối tượng bị tác động. Thông tin thu thập qua phương pháp này chủ yếu là các chỉ
số và thông tin mang tính định tính.
 Lưu ý: Trong quá trình tham gia, điều quan trọng là cần phải thu hút được ý
kiến từ tất cả các bên có liên quan. Tuy nhiên cần có phương pháp tổ chức tốt và phải biết
chọn lọc thông tin.
IX.3. LẬP KẾ HOẠCH THEO DÕI VÀ ĐÁNH GIÁ
Để đảm bảo cho việc tổ chức TDĐG quá trình thực hiện kế hoạch một cách hiệu
quả, cần thiết phải chuẩn bị trước các điều kiện cần thiết về nguồn lực, thời gian, nội dung
và phương pháp thực hiện. Hay nói một cách khác, cần phải xây dựng một kế hoạch
TDĐG và coi đó như là một nội dung không thể tách rời của qui trình lập KHCL
PTKTĐP.
Lập kế hoạch TDĐG sẽ bao gồm các bước cơ bản : xây dựng khung TDĐG, xác định
thành phần tham gia, thời gian thực hiện và tổ chức thông tin và báo cáo kết quả.
IX.3.1. Lập kế hoạch theo dõi
IX.3.1.1. Chuẩn bị kế hoạch và khung theo dõi
Các mục tiêu xây dựng trong bước 4 (Chương VI) được coi như là khung TDĐG,
các tiêu chí được sử dụng để xác định thông tin gì cần thiết trong chương trình theo dõi.
Hoạt động theo dõi cần mang tính hệ thống, các tiêu chí phải đo lường được, và phải được
kết nối với các mục tiêu, cho phép chỉ ra mức độ đạt được của mục tiêu; các tiêu chí này
phải dễ hiểu và được những bên có liên quan (những người bị ảnh hưởng và/hoặc những
người tham gia) nhất trí tán thành.
Hộp 5.3: Các câu hỏi đặt ra khi bắt đầu một chương trình theo dõi
Khung theo dõi có sử dụng các mục tiêu phát triển kinh tế của địa phương hay không ?
Ngoài ra, còn có mục tiêu theo dõi đặc thù nào khác không ?
Chương trình theo dõi này sẽ nhằm mục tiêu loại trừ những điều bất định nào?
Các chỉ số theo dõi (các tiêu chí đo lường thực trạng hoạt động) đã được thống nhất
với các bên liên quan hay chưa?
Đối với mỗi mục tiêu, cần liệt kê tất cả các chỉ số, cùng với các thông tin liên quan
về nguồn gốc và phương pháp thu thập chúng. Điều này quan trọng, vì đó chính là sự
minh chứng rõ ràng về nguồn gốc của các số liệu được thu thập và phân tích.
Bảng 5.2. Kết nối các mục tiêu, các chỉ số và thông tin
Mục tiêu Chỉ số Nguồn thông tin

Nâng cấp và đào tạo Số người tốt nghiệp các Cơ quan chủ quản
lực lượng lao động chương trình nâng cao tay
địa phương nghề đã tìm được việc làm

Tăng tính tự chủ kinh Các mức thu nhập hộ gia đình Thống kê thu nhập
tế của địa phương Mức nhân dụng Số liệu về thất nghiệp
Mức tiết kiệm của địa phương Số liệu về doanh thu của
Nhận thức về khả năng tự lực địa phương
tự cường Các kết quả điều tra về thái
độ của các cơ sở kinh doanh
và cư dân địa phương

 Lưu ý: Trong phần lớn các trường hợp, các chỉ số định lượng (thống kê/ số
lượng) là các chỉ số chuyển tải tốt nhất các thông tin về thực trạng phát triển kinh tế,
điều kiện xã hội và môi trường. Tuy nhiên, các chỉ số định tính có thể cũng được sử
dụng để nâng cao hiểu biết về tác động của các hoạt động phát triển kinh tế ở địa
phương.
IX.3.1.2. Xác định thành phần tham gia và tổ chức thực hiện
Xây dựng một chương trình theo dõi đòi hỏi quy định rõ trách nhiệm về thu
thập và phân tích thông tin một cách định kỳ. Tốt nhất là sắp xếp sao cho những
người tham gia vào trong quá trình lập kế hoạch, cũng sẽ tham gia vào việc thu
thập thông tin và báo cáo kết quả cho HĐND, hoặc cho cộng đồng liên quan.
Các nhà quản lý địa phương chịu trách nhiệm về thực hiện kế hoạch có thể cũng là
người chịu trách nhiệm về kết quả theo dõi và báo cáo. Bên cạnh đó, việc thu hút sự tham
gia của người dân địa phương hoặc những người tình nguyện vào trong quá trình theo dõi
là một cách tiếp cận khác có thể sử dụng để nắm bắt triển vọng của các hoạt động phát triển
kinh tế và thu hút địa phương vào việc định hướng các KHHĐ và các mục tiêu phát triển.
IX.3.1.3. Xác định khi nào cần theo dõi
Thời gian thực hiện theo dõi sẽ rất khác nhau với mỗi mục tiêu kế hoạch, vì bản
chất của các mục tiêu được theo dõi và các chỉ số được sử dụng là không giống nhau.
Thông thường, theo dõi có thể được thực hiện theo định kỳ hàng tháng, hàng quí, nửa
năm, hằng năm và trong hoặc giữa các giai đoạn của dự án.
Theo dõi liên tục là một quá trình tham chiếu: các kết quả theo dõi được phản hồi
trực tiếp trong kế hoạch, hoặc gây ảnh hưởng đến nội dung và các phương hướng của kế
hoạch trong tương lai (ví dụ: các hiểu biết mới có thể là nguyên nhân bắt chúng ta phải
suy xét lại các kế hoạch hành động, nhằm bảo đảm đạt được các mục tiêu đề ra).
IX.3.1.4. Tổ chức thông tin và chuẩn bị báo cáo
Một yếu tố quan trọng, nhưng thường bị bỏ qua khi chuẩn bị công tác theo dõi, đó là
xây dựng năng lực và quy trình cho việc tổ chức thông tin và công bố các kết quả theo dõi.
Mặc dù việc tổ chức thông tin về kết quả theo dõi có vẻ tốn kém hoặc phiền toái, song nếu
không làm tốt công việc này, kết quả hoạt động theo dõi sẽ không thực sự có ý nghĩ đối với
các địa phương trong quá trình điều hành thực hiện kế hoạch. Khi các kết quả theo dõi được
ghi chép thành văn bản, và các thông tin được tổ chức hợp lý (hướng dẫn, biểu mẫu, tần
xuất, ...) thì điều đó sẽ mang lại sự tiết kiệm và các lợi ích lớn, khi kế hoạch được thực hiện,
cho các hoạt động phân tích, đánh giá và lập kế hoạch trong tương lai.
Các kết quả theo dõi cần được tuyên truyền định kỳ trong địa phương để đánh
giá các phản ứng và nâng cao nhận thức về sự tham gia, hỗ trợ các họat động phát triển
kinh tế. Qua đó, các ý kiến phản hồi của địa phương, đến lượt mình, sẽ trở thành quan
trọng trong quá trình đánh giá và giúp các bên liên quan điều chỉnh lại KHCL
PTKTĐP.

Hộp 5.5. Một số câu hỏi cần chú ý


- Quy trình theo dõi sẽ được đưa vào văn bản và được truyền đạt như thế nào?
- Cái gì xảy ra với số liệu?
- Ai sẽ tiếp cận các số liệu ?
- Số liệu được truyền đạt như thế nào?
IX.3.2. Lập kế hoạch Đánh giá
Việc lập kế hoạh đánh giá cũng tương tự như lập kế hoạch theo dõi.
Phần lớn những gì đã trình bày về hoạt động theo dõi cũng đúng với công tác đánh
giá.
Tuy nhiên, đánh giá không phải là một quá trình liên tục, mà xảy ra tại các thời
điểm mang tính chiến lược trong quá trình thực hiện kế hoạch (chẳng hạn như vào thời
điểm giữa hoặc cuối của các giai đoạn kế hoạch, cuối kế hoạch 5 năm, hoặc một số năm
sau khi thực hiện kế hoạch). Do vậy, trước khi bắt đầu hoạt động đánh giá, cần lường
tính trước được cả 4 bước của quy trình này.
Hộp 9.6. Một số câu hỏi hỗ trợ cho người đánh giá
- Tại sao phải thực hiện việc đánh giá?
- Phương pháp đánh giá nào là phù hợp nhất- ai sẽ là người tham gia (ví dụ: tự
đánh giá, phương pháp đánh giá có sự tham gia, hay sử dụng kết hợp)?
- Khi nào thực hiện việc đánh giá?
- Quá trình đánh giá sẽ được thông báo như thế nào?
- Các kết quả sẽ được sử dụng như thế nào và ai sử dụng?
Nguồn : nhóm biên soạn tổng hợp
Nếu đã có một chương trình theo dõi thì việc xây dựng một khung đánh giá sẽ
không phức tạp. Một khung đánh giá sẽ có các nội dung tương tự như khung theo dõi, nếu
không kể đến một điều là các kết quả dự kiến được so sánh với các kết quả thực tế.
Bảng 5.3. Ví dụ về Khung đánh giá
Các chỉ số Dự kiến tác động Tác động thực tế Nhận xét
(Các tiêu chuẩn đối với mục tiêu đến mục tiêu
đánh giá được kết (Thay đổi so với chỉ (Thay đổi so với chỉ
nối với mục tiêu) tiêu gốc - dự kiến) tiêu gốc - thực tế)

Ví dụ: % trẻ em 90% 94% Dự án đã vượt quá


sống trên ngưỡng mong đợi. Điều này
nghèo là vì ...
Ví dụ: % tổng số 70% 65% Dự án đã không đáp
chố làm việc trong ứng lòng mong đợi.
ngành sản xuát chế Điều này một phần
tạo có giá trị gia là vì...
tăng cao

Giống như đối với hoạt động theo dõi, các kết quả đánh giá cần được chuyển tải
đến cả các bên liên quan lẫn cộng đồng nói chung. Như một phần của quá trình báo cáo,
cơ chế đóng góp, phản hồi ở địa phương là rất quan trọng để giúp định hướng các nỗ lực
điều chỉnh hoặc xem xét lại kế hoạch phát triển kinh tế.
IX.3.3. Sử dụng những phát hiện trong quá trình TDĐG
Báo cáo TDĐG có nhiều vai trò khác nhau, và thông tin mà chúng đưa ra có thể
được sử dụng cho nhiều mục đích khác nhau. Tuy nhiên, mục đích trọng tâm là để
“truyền thông điệp” – thông tin cho các đối tượng liên quan về các phát hiện và kết luận
rút ra từ việc thu thập, phân tích và lý giải các thông tin đánh giá.
Do vậy, việc hiểu rõ khán giả của bạn và việc họ muốn thấy các thông tin được
trình bày như thế nào là rất quan trọng. Trong quá trình tìm tòi các phát hiện từ việc
TDĐG, điều quan trọng là phải đảm bảo được rằng tất cả mọi người đều được thông báo
về tiến độ TDĐG.
Kết quả TDĐG cần được truyền bá không ngừng nhằm cung cấp những thông tin
phản hồi cho những người ra quyết định. Các hình thức liên lạc không chính thống (điện
thoại, thư điện tử, fax, đối thoại) và chính thống (báo cáo sơ bộ, trình bày, báo cáo bằng
văn bản) đều có thể được sử dụng.
Lập kế hoạch TDĐG cần phải tính đến mối quan tâm, sự mong đợi của khán giả
và các phương tiện truyền thông được sử dụng, qua đó xây dựng một chiến lược truyền
thông phù hợp để cho các kết quả TDĐG có thể được sử dụng một cách có hiệu quả nhất.
Hộp 5.7. Các câu hỏi cần đặt ra khi xây dựng chiến lược truyền thông về kết quả
TDĐG.
Ai sẽ nhận được thông tin?
Dưới hình thức nào?
Khi nào?
Ai sẽ chuẩn bị các thông tin đó?
Ai sẽ cung cấp thông tin?
Nguồn : nhóm biên soạn tổng hợp
Về các hoạt động tiếp tục theo dõi và phản hồi, có thể xây dựng một qui trình
chính trị để đưa các bên hữu quan và người đánh giá ngồi lại với nhau để thảo luận về các
phát hiện, các phương án hành động, và các bước đi tiếp theo. Cũng sẽ là hữu ích nếu “…
nhận được thông tin phản hồi định kỳ từ các bên hữu quan chủ chốt, như các quan chức
dân cử, nhà tài trợ, và công chúng… về tính hữu ích và tính dễ hiểu của các báo cáo về
kết quả hoạt động. Sử dụng thông tin phản hồi giúp làm cho các báo cáo kết quả hoạt
động trong tương lai phù hợp hơn với các đối tượng khán giả cụ thể”.

You might also like